Academia.eduAcademia.edu
MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT  AEO : Doanh nghiệp ưu tiên đặc biệt APEC : Diễn đàn hợp tác Kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEM : Diễn đàn hợp tác Á- Âu CNH- HĐH : Công nghiệp hóa- hiện đại hóa CHXHCN : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa DN : Doanh nghiệp EU : Liên minh kinh tế châu Âu FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài KTSTQ : Kiểm tra sau thông quan KBNN : Kho bạc nhà nước NSNN : Ngân sách Nhà nước NHTM : Ngân hàng thương mại SXKD : Sản xuất kinh doanh TGHQ : Trị giá Hải quan TNCN : Thu nhập cá nhân TTĐB : Tiêu thụ đặc biệt TTXLTT Trung tâm xử lý thông tin TN- TX Tạm nhập - Tái xuất WCO : Tổ chức Hải quan thế giới WTO : Tổ chức thương mại thế giới XNK : Xuất nhập khẩu VPHC : Vi phạm hành chính DANH MỤC BIỂU ĐỒ DANH MỤC BẢNG LỜI MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài. Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phải được kiểm tra hải quan để thông quan. Kiểm tra hải quan để thông quan hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu là khâu nghiệp vụ hết sức quan trọng trong toàn bộ công tác hải quan. Trong đó, kiểm tra xác định trị giá hàng hóa xuất, nhập khẩu (còn gọi là trị giá hải quan) là quan trọng nhất, vì nó liên quan trực tiếp và có tính quyết định tới kết quả và hiệu quả của công tác hải quan, cũng như quyết định đến kết quả thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; nó quyết định đến kết quả cạnh tranh, bảo hộ sản xuất trong nước. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra nhiều cơ hội cho Việt Nam thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống xã hội, tạo điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu, nhập khẩu cho hàng hoá …và thực tế cho thấy, lượng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam tăng lên nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của thương mại, hoạt động gian lận thương mại cũng diễn biến hết sức phức tạp gây tổn hại cho nền kinh tế. Trong số các hình thức gian lận thương mại trong lĩnh vực hải quan, gian lận thương mại qua trị giá hải quan được đánh giá là một điểm yếu của hệ thống quản lý hải quan ở các nước đang phát triển nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Theo kinh nghiệm thực tế của hải quan ở hầu hết các nước trên thế giới cho thấy, nếu chỉ dừng công việc kiểm tra trị giá hải quan của cơ quan Hải quan trong quá trình thông quan sẽ không thể phát hiện và ngăn chặn hết được các trường hợp cố ý gian lận đồng thời không đảm bảo được sự thuận lợi tối đa cho hoạt động xuất, nhập khẩu. Do vậy, để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý của mình, Ngành Hải quan đã phải tăng cường biện pháp kiểm tra bằng cách áp dụng các biện pháp nghiệp vụ kéo dài thời gian kiểm tra, mở rộng phạm vi và đối tượng kiểm tra, kiểm soát, chuyển đổi từ kiểm tra trong thông quan (tức là kiểm tra hàng hóa ngay tại cửa khẩu trước khi cho phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu) chuyển sang kiểm tra sau thông quan (tức là cho phép hàng hóa thông quan sau đó sẽ kiểm tra sâu, rộng hơn hồ sơ hải quan, chứng từ tài liệu có liên quan theo quy trình kiểm tra sau thông quan). Về nguyên tắc, tất cả các hàng hoá chưa được kiểm tra tại khâu trong thông quan sẽ được kiểm tra tại khâu sau thông quan. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp đã kiểm tra thông quan hàng hóa nhưng có phát hiện có dấu hiệu nghi ngờ về tính trung thực, chính xác trong việc khai báo hải quan thì vẫn phải tiếp tục kiểm tra tại khâu sau thông quan. Cũng theo mục tiêu phát triển Hải quan và lực lượng KTSTQ trong chiến lược phát triển Hải quan Việt Nam đến năm 2020, tỷ lệ kiểm tra thực tế hàng hóa đến 2015 là dưới 10% và đến 2020 phấn đấu đạt dưới 7%, tức là có trên 90% hàng hóa xuất, nhập khẩu chưa được kiểm tra khi làm thủ tục thông quan. Hay nói cách khác, đến năm 2020, việc kiểm tra hải quan sẽ căn bản là kiểm tra sau thông quan, thì tầm quan trọng của kiểm tra sau thông quan trong lĩnh vực trị giá càng thể hiện rõ nét . Do đó, kiểm tra sau thông quan nhằm mục đích chống gian lận thương mại qua trị giá hải quan trong công tác quản lý nhà nước là một hoạt động tất yếu. Cũng có thể thấy rằng, việc chuyển công tác kiểm tra trị giá hải quan từ việc kiểm tra trực tiếp đối với hàng hóa ngay tại cửa khẩu, chuyển sang việc kiểm tra gián tiếp chủ yếu qua chứng từ, sổ sách của đơn vị xuất, nhập khẩu hàng hóa là công việc mà Hải quan Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm và cũng ẩn chứa nhiều rủi ro nhất và thực tế, công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan hiện đang có chiều hướng tăng lên, có nhiều vướng mắc và hiệu quả còn thấp. Việc nghiên cứu, đánh giá tình hình hoạt động của công tác KTSTQ về TGHQ ở Việt nam hiện nay là rất cần thiết, để từ đó đề ra các giải pháp nhằm tạo điều kiện phát huy hơn nữa các kết quả đã đạt được đồng thời giúp cho hoạt động KTSTQ về trị giá hải quan khắc phục được những hạn chế tồn tại, từ đó góp phần cho ngành Hải quan phát triển và đạt được các mục tiêu chiến lược đã đặt ra. Chính vì vậy, nghiên cứu sinh đã mạnh dạn lựa chọn đề tài nghiên cứu của luận án là: “Kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan ở Việt Nam” . 2. Mục đích nghiên cứu của luận án. Nghiên cứu luận án nhằm mục đích sau: - Sưu tầm, tổng hợp, hệ thống hóa, góp phần bổ sung và hoàn thiện thêm các vấn đề lý luận cơ bản về kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. - Đánh giá xác đáng thực trạng kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan ở Việt Nam, chỉ ra những điểm còn tồn tại và làm rõ nguyên nhân của những tồn tại đó. - Đề xuất một số giải pháp hữu ích nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra sau thông quan đối với trị giá hải quan ở Việt Nam trong thời gian tới. 3. Đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của luận án là KTSTQ về TGHQ ở Việt Nam. 4. Phạm vi nghiên cứu: Nội dung nghiên cứu: Kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan tồn tại trong một môi trường pháp lý rộng lớn và chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Do phạm vi điều chỉnh rộng nên phạm vi nghiên cứu của luận án không bao gồm toàn bộ hệ thống pháp luật điều chỉnh tất cả các vấn đề liên quan đến kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan, mà chỉ tập trung những nội dung chủ yếu về kiểm tra trị giá hải quan trong điều kiện sau thông quan do cơ quan hải quan thực hiện. Thời gian nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu đánh giá thực trạng công tác KTSTQ về trị giá hải quan từ năm 2006 (thời điểm khi Luật Hải quan sửa đổi có hiệu lực) đến năm 2013. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp cho những năm sắp tới (đến 2020 và tiếp theo) Địa bàn nghiên cứu: Để có số liệu phục vụ nghiên cứu, luận án sẽ tập trung nghiên cứu chủ yếu KTSTQ về TGHQ của cơ quan hải quan Việt Nam tại Tổng Cục Hải quan với một số địa bàn trọng điểm như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Hải Phòng… 5. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp nghiên cứu dữ liệu thứ cấp: Phương pháp này được vận dụng chủ yếu nhằm xem xét, hệ thống hóa và tóm tắt những kết quả nghiên cứu có liên quan tới đề tài luận án. - Phương pháp hệ thống hóa, tổng hợp và phân tích, thống kê: Thông qua phương pháp này, các thông tin đơn lẻ sẽ được tổng hợp, hệ thống hóa và xâu chuỗi thành các nhóm vấn đề; được phân tích, khái quát hóa để xây dựng khung phân tích theo yêu cầu của đề tài luận án. - Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng để so sánh, đối chiếu giữa quy định của pháp luật hải quan với thực tế thực hiện theo yêu cầu của đề tài luận án. - Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình: Thông qua nghiên cứu trường hợp điển hình ở một số nước trên thế giới để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. - Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này được sử dụng để tham vấn ý kiến của các chuyên gia, nhà quản lý, đồng nghiệp trong nước và ngoài nước về những vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án. Ngoài các phương pháp nghiên cứu trên, quá trình thực hiện đề tài luận án cũng dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài cũng dựa trên các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án. Luận án làm sáng tỏ được một số vấn đề lý luận cơ bản về kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Luận án đưa ra một số kết luận đánh giá mang tính khoa học, góp phần tạo luận cứ về lý luận và thực tiễn cho việc quản lý kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Luận án nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan của một số nước trên thế giới và rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Luận án đánh giá thực trạng kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan ở Việt Nam thời gian qua, phát hiện những điểm mạnh, những mặt yếu kém và chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém đó. Luận án đề xuất phương hướng và một số giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những yếu kém trong công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan hiện nay, trong tiến trình hiện đại hóa hải quan thời gian tới, phù hợp với thông lệ quốc tế. Các giải pháp này sử dụng trong dài hạn và ngắn hạn, phù hợp với chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2020, sẽ mang tính chất đột phá trong nhận thức trong phương pháp thực hiện KTSTQ đối với TGHQ ở Việt Nam hiện nay. Luận án là công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu, có giá trị về lý luận và thực tiễn về kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan ở Việt Nam, đồng thời là tiền đề để phát triển các nghiên cứu tiếp theo. Luận án là tài liệu tham khảo hữu ích cho công tác nghiên cứu, giảng dạy tại các trường Đại học, Viện nghiên cứu và là tài liệu tham khảo cho các cơ quan hoạch định chính sách xây dựng cơ chế quản lý đối với kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan trong bối cảnh hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận án là nguồn tài liệu tham khảo, hỗ trợ cho Cục kiểm tra sau thông quan, các Chi Cục KTSTQ ở Việt Nam trong công tác triển khai nghiệp vụ KTSTQ về trị giá Hải quan. 7. Kết cấu của luận án. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Nội dung luận án được kết cấu gồm 4 chương như sau: Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến đề tài luận án . Chương 2: Trị giá hải quan và kiểm tra sau thông quan đối với trị giá hải quan. Chương 3: Thực trạng kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan ở Việt Nam. Chương 4: Giải pháp tăng cường công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan ở Việt Nam. Chương 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁC VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1 Các công trình nghiên cứu trước đây 1.1.1 Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài Theo khảo sát, tìm hiểu của tác giả, trên thế giới hiện nay có nhiều tài liệu có liên quan đến kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Những công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài liên quan đến kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan mà nghiên cứu sinh có điều kiện tiếp cận là: - ASEAN Customs Valuation Guild, ASEAN Secretariat, 2003, - Association of Southeast Asian Nation (2004) , - The Brussels Denfinition of value and the GATT Valuation Agreement - A comparison, Doc.31480/Rev.1, Valuation Directorate, Brussels, 1985…. - “Colloque international sur l’evaluation en douane” (Tuyển tập quốc tế về định giá hải quan), Tổ chức Hải quan thế giới, 1995. - Asean Post- Clearance Audit Manual- The Final Draf 2004, Jakarta; Igara K, - Seminar on Risk Management and Post- Entry Audit, 7-10 June 2005 Shenzhen, - Outline of Valuation and PCA in Japan, Osaka, Customs; TanakaM. (2006), - Computer Assisted Audit, Asean PCA Trainer 20 February 2006, Các tài liệu nghiên cứu của một số tác giả nước ngoài mà NCS được biết ở trên là những tài liệu quý, đề cập đến một số khía cạnh liên quan đến khái niệm, các phương pháp, các kỹ thuật ứng dụng mang tính chất nghiệp vụ đối với KTSTQ về TGHQ. Hầu hết các tài liệu trên được nghiên cứu trong bối cảnh tự do hóa thương mại ở các nước khác nhau phù hợp với từng điều kiện cụ thể của từng quốc gia, nên sẽ là tài liệu có thể tham khảo để hoàn thiện việc nghiên cứu tổng hợp trong phần lý luận của đề tài luận án này. 1.1.2 Các công trình nghiên cứu ở trong nước Ở Việt Nam, đã có một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành, một số luận án tiến sĩ và thạc sỹ nghiên cứu đến lĩnh vực KTSTQ và TGHQ như: Nhóm các công trình nghiên cứu trực tiếp và có liên quan về kiểm tra sau thông quan: - Đề tài nghiên cứu cấp Ngành: “Hoàn thiện mô hình KTSTQ của Hải quan Việt Nam” (năm 2005) do Cục KTSTQ thuộc Tổng Cục hải quan thực hiện; - Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “ Xây dựng chuẩn mực kiểm tra sau thông quan” (năm 2007) do Vụ chính sách thuế và Tổng Cục Hải quan thực hiện; “Kiểm tra hồ sơ hải quan đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu – Thực trạng và giải pháp” (năm 2008) do tiến sĩ Nguyễn Thị Thương Huyền và tiến sĩ Nguyễn Việt Cường làm chủ nhiệm; - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học Viện: “ Sử dụng hiệu quả các công cụ kế toán, kiểm toán trong hoạt động KTSTQ ở Việt Nam hiện nay.” (năm 2005) của tiến sĩ Hoàng Trần Hậu; trong đó nghiên cứu về một hoặc một số kỹ thuật nghiệp vụ kiểm tra cụ thể trong nghiệp vụ KTSTQ như kiểm tra chứng từ sổ sách, kiểm tra chứng từ thanh toán quốc tế… - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Tổng cục: “Xây dựng phần mềm thu thập, khai thác thông tin phục vụ công tác KTSTQ” (năm 2010) do Tạ Thị Mão chủ nhiệm đề tài. - Luận án tiến sĩ kinh tế: “ Mô hình KTSTQ ở một số nước trên thế giới và khả năng áp dụng cho Việt Nam” (năm 2008) của tác giả Trần Vũ Minh; “Kiểm tra sau thông quan ở Việt Nam trong bối cảnh tự do hóa thương mại” (năm 2011) của tác giả Nguyễn Thị Kim Oanh;.. Ngoài ra, các luận án thạc sĩ, các bài báo, bài viết được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành, các bài hội thảo khoa học có liên quan như luận văn thạc sĩ : “Một số giải pháp tăng cường hoạt động kiểm tra sau thông quan ở Việt Nam” năm (năm 2007) của tác giả Phạm Thị Bích Ngọc; “Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác KTSTQ tại Cục Hải quan Quảng Ninh”( năm 2012) của tác giả Nguyễn Minh Tuấn… Nhóm các công trình nghiên cứu trực tiếp và có liên quan về trị giá hải quan: - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Ngành :“Xác định lộ trình tiến tới thực hiện Hiệp định trị giá GATT/WTO và các giải pháp thực thi” (năm 2000) do Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu thuộc Tổng cục Hải quan thực hiện. - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học Viện: Đề tài khoa học “Kiểm tra trị giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu”,( năm 2012) của Th.s Nguyễn Thị Lan Hương – Th.s Phạm Thị Bích Ngọc, Học viện Tài chính; “Các giải pháp chống thất thu thuế Nhập khẩu ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế năm (2012), TS Vương Thu Hiền, Học viện Tài chính. - Luận văn thạc sĩ kinh tế “Quản lý giá tính thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay” (năm 2011) của tác giả Mai Thị Vân Anh, Học viện Tài chính; Luận văn thạc sĩ luật học “Trị giá hải quan của WTO, thực trạng và áp dụng tại Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” (năm 2012) của tác giả Đào Ngọc Thành; “Quản lý giá tính thuế hàng hóa tại Cục Hải quan tỉnh Quảng Trị” (năm 2012) của tác giả Đinh Ngọc Thanh;.. Ngoài ra, các bài báo, bài viết được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành, các bài hội thảo khoa học có liên quan, đề cập đến trị giá hải quan, pháp luật về trị giá hải quan có thể kể đến như: Bài hội thảo khoa học “Kiểm tra trị giá tính thuế - Nghiệp vụ không thể thiếu trong công tác chống gian lận thuế xuất, nhập khẩu”( năm 2012), Nguyễn Thị Lan Hương, Học viện Tài chính, Tr 108 – 112; “Ngăn ngừa gian lận trị giá tính thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu”, (năm 2013) Lâm Hoàn, Tạp chí Nghiên cứu Hải quan, Tr20 -Tr 32 ; “Giới thiệu về cơ chế xác nhận trước mã số, xuất xứ và trị giá hải quan”, (năm 2013) Bình Minh; Tạp chí Nghiên cứu Hải quan, Tr 5 – Tr 19; “Giải trình, làm rõ một số vấn đề trong dự thảo Luật Hải quan (sửa đổi)”, (năm 2013)Thu Trang, báo Hải quan, Tr 4; …. 1.1.3 Đánh giá các tài liệu thu thập được Trong các tài liệu thu thập được, có thể có một số đánh giá như sau: Về mặt lý luận, một số nghiên cứu, bài viết đã trình bày cơ sở lý luận về KTSTQ, TGHQ như đề cập đến khái niệm về KTSTQ, TGHQ theo quy định pháp luật của một số quốc gia như Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN… và Việt Nam, của một số từ điển và chuyên gia. Bên cạnh việc trình bày khái niệm, các nghiên cứu còn đề cập đến đặc điểm, vai trò của KTSTQ và TGHQ, theo quan điểm chung của quốc tế, pháp luật của một số quốc gia và pháp luật Việt Nam. Một số công trình đã phân tích quá trình thực hiện công tác KTSTQ và TGHQ của Hải quan các nước trên thế giới. Phân tích sự thành công cũng như hạn chế trong quá trình thực hiện nghiệp vụ này ở các nước khác nhau để rút ra những bài học trong quá trình thực hiện kiểm tra sau thông quan ở Việt Nam . Trong luận án tiến sĩ kinh tế: “ Mô hình KTSTQ ở một số nước trên thế giới và khả năng áp dụng cho Việt Nam năm 2008” của tác giả Trần Vũ Minh, tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận chung về mô hình kiểm tra sau thông quan của các nước trên thế giới và Việt nam đồng thời phân tích mô hình kiểm tra sau thông quan của 05 quốc gia và khu vực liên kết kinh tế (Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc, Pháp, ASEAN) với đặc thù của từng mô hình, so sánh tổng quát và rút ra các bài học kinh nghiệm cùng khả năng áp dụng cho Việt Nam; Đánh giá khách quan thực trạng mô hình kiểm tra sau thông quan của Hải quan Việt nam. Phân tích làm rõ rõ những yếu kém, bất cập và nguyên nhân, làm rõ thách thức và cơ hội đối với mô hình kiểm tra sau thông quan của Hải quan Việt Nam và đề xuất mô hình kiểm tra sau thông quan mới, đặc biệt là điểm mới trong phương thức hoạt động của mô hình, đề xuất các giải pháp khả thi vận dụng và lộ trình thực hiện cho Hải quan Việt Nam. Trong luận án tiến sĩ: “ Kiểm tra sau thông quan trong bối cảnh tự do hóa thương mại” năm 2011, của tác giả Nguyễn Thị Kim Oanh cũng đã làm rõ các khái niệm về KTSTQ và sự cần thiết của KTSTQ trong bối cảnh tự do hóa thương mại cũng như phân tích, đánh giá thực trạng KTSTQ trong bối cảnh tự do hóa thương mại. Tác giả cũng đã đưa ra một số các giải pháp khắc phục, tiêu biểu có các giải pháp như: Tập trung đầu tư xây dựng hệ thống thông tin quản lý doanh nghiệp hỗ trợ quản lý rủi ro và KTSTQ, tăng cường sử dụng các phương pháp và kỹ thuật kiểm tra sau thông quan. Các đề tài nghiên cứu cấp Học Viện, cấp Bộ, cấp Tổng cục được trình bày ở trên cũng đã đi vào một số kỹ thuật trong nghiệp vụ KTSTQ như sử dụng hiệu quả các công cụ kế toán, kiểm toán, kiểm tra hồ sơ hải quan đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu và xây dựng phần mềm thu thập, khai thác thông tin phục vụ công tác KTSTQ. Hầu hết các nghiên cứu, luận văn thạc sỹ đều đưa ra kiến nghị về việc hoàn thiện cơ sở pháp lý trong công tác KTSTQ và công tác TGHQ. Theo đó, tập trung chủ yếu vào 5 nhóm giải pháp sau: Một là, kiến nghị về hoàn thiện hành lang pháp lý về kiểm tra sau thông quan và trị giá hải quan. Hai là, Hoàn thiện về quy trình thủ tục kiểm tra sau thông quan và trị giá hải quan. Ba là, Nâng cao năng lực trình độ của cán bộ công chức trong quá trình thực hiện nghiệp vụ KTSTQ. Bốn là, Nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của đối tượng chịu sự kiểm tra sau thông quan. Năm là, tăng cường quan hệ phối hợp, hợp tác trao đổi thông tin với các cơ quan khác trong và ngoài ngành. Đây là những vấn đề cốt yếu nhất trong nội dung KTSTQ cũng như KTSTQ về TGHQ đã được nghiên cứu, làm rõ từng phần mà tác giả có thể kế thừa để tham khảo. Nhìn chung, các giải pháp trên mỗi khía cạnh khác nhau, đã tập trung phân tích đáp ứng nhu cầu phát triển KTSTQ và TGHQ tại thời điểm được nghiên cứu. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là thực tế việc KTSTQ về TGHQ hiện vẫn còn nhiều mặt yếu kém, nhất là tình trạng chuyển giá diễn ra khá phổ biến gây bất lợi nhiều mặt cho nền kinh tế nói chung và cho công tác KTSTQ nói riêng. Việc nghiên cứu làm rõ thực trạng công tác KTSTQ về TGHQ để đề xuất các giải pháp xác thực, khả thi để kịp thời khắc phục những bất lợi hiện nay vẫn là vấn đề thời sự. Qua nghiên cứu và tìm hiểu, NCS được biết, cho đến nay chưa có một đề tài nào cấp ngành và luận án tiến sĩ nghiên cứu đầy đủ vấn đề KTSTQ về trị giá hải quan ở Việt Nam. Mặt khác, xuất phát từ quan điểm cho rằng, nghiên cứu khoa học là vừa mang tính kế thừa, vừa mang tính mới, các công trình và bài viết trên đây của các tác giả trong nước và ngoài nước là những tài liệu rất bổ ích để NCS tham khảo trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận án tiến sỹ của mình. 1.2 Khoảng hở cho các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu 1.2.1 Những vấn đề khác biệt đối với các nghiên cứu khác Trong nghiên cứu luận án này, NCS sẽ xác định vấn đề KTSTQ về TGHQ là cần thiết, từ đó đưa ra những vấn đề căn bản trong việc nâng cao chất lượng công tác KTSTQ về TGHQ trong những năm tới như: Tổ chức bộ máy của KTSTQ; khung pháp lý cho KTSTQ về TGHQ; Các giải pháp nghiệp vụ cụ thể trong KTSTQ về TGHQ; nâng cao hiệu quả hoạt động tham vấn trong khâu kiểm tra trị giá hải quan; xây dựng chuẩn mực trong KTSTQ về TGHQ. Nghiên cứu vấn đề KTSTQ về TGHQ trên cơ sở bám sát định hướng, quan điểm về phát triển kinh tế- xã hội đã được Đảng, Nhà nước đề ra, bám sát nhiệm vụ chiến lược trong công tác KTSTQ của cơ quan Hải quan, từ đó xác định được yêu cầu, mục tiêu, giải pháp, ý thức tuân thủ pháp luật hải quan là cách tiếp cận sâu, khác với những nghiên cứu trước đây. 1.2.2 Điểm mạnh và điểm yếu của nghiên cứu Điểm mạnh của nghiên cứu: Đây là cách tiếp cận mới với nguồn số liệu mới cập nhật và tính chính xác cao, đầy đủ, được thu thập từ nguồn đáng tin cậy, chất lượng. Chiến lược phát triển ngành KTSTQ đến năm 2020 trong đó đề cập đến mảng KTSTQ về TGHQ đã có mục tiêu rõ ràng, vấn đề còn lại là cần có sự phân tích, đánh giá sâu sắc, chi tiết về thực trạng phát triển hiện nay, từ đó đề ra các giải pháp sát thực, phù hợp cho thời gian tới. Điểm yếu của nghiên cứu này: Đây là vấn đề đã được nghiên cứu, song là hai lĩnh vực riêng lẻ, KTSTQ và TGHQ. Nghiên cứu vấn đề KTSTQ về TGHQ hiện nay chủ yếu được hiểu là một nội dung lớn trong nghiệp vụ KTSTQ, do đó để làm rõ nội dung nghiên cứu, hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu và các văn bản pháp quy nào đi sâu vào lĩnh vực này, do đó sẽ là vấn đề khó khăn, nhất là vấn đề chống chuyển giá. 1.3 Đóng góp mới của nghiên cứu này Nội dung này đã được đề cập tại Mục 6, lời mở đầu, theo đó những đóng góp mới của đề tài này mang ý nghĩa về mặt khoa học và thực tiễn như sau: 1.3.1 Về ý nghĩa khoa học Thông qua việc sưu tầm, tổng hợp và phân tích đánh giá từ các nguồn tài liệu liên quan sẽ hệ thống hóa được các vấn đề cơ sở lý luận về KTSTQ về TGHQ. 1.3.2 Về ý nghĩa thực tiễn Những giải pháp nhằm được đề xuất có cơ sở khoa học trong KTSTQ về TGHQ ở Việt Nam sẽ tạo điều kiện nâng cao hiệu quả trong công tác KTSTQ, đảm bảo sự quản lý chặt chẽ của Nhà Nước về Hải quan. Luận án là tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy, xây dựng cơ chế KTSTQ về TGHQ nói riêng cũng như hệ thống KTSTQ nói chung trong bối cảnh hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận án là nguồn tài liệu tham khảo, hỗ trợ cho Cục kiểm tra sau thông quan, các Chi Cục KTSTQ ở Việt Nam trong công tác triển khai nghiệp vụ KTSTQ về TGHQ. 1.4 Các câu hỏi nghiên cứu Những câu hỏi nghiên cứu đặt ra là: 1.4.1 Trị giá hải quan, kiểm tra thông quan về trị giá hải quan và ý nghĩa của KTSTQ về TGHQ. 1.4.2 Việc KTSTQ về TGHQ hiện đã đạt được kết quả gì? Những vấn đề còn tồn tại là gì? Nguyên nhân do đâu? 1.4.3 Giải pháp tăng cường công tác KTSTQ về TGHQ tới đây là gì? Một số các khuyến nghị để thực hiện các giải pháp nêu trên? Chương 2 TRỊ GIÁ HẢI QUAN VÀ KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN VỀ TRỊ GIÁ HẢI QUAN 2.1 Một số vấn đề cơ bản về trị giá hải quan 2.1.1 Khái niệm trị giá hải quan. Trong xu thế hội nhập và giao lưu thương mại toàn cầu, những yếu tố cơ bản của hệ thống thuế đánh vào hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu như biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu, trị giá hải quan, xuất xứ hàng hóa đã trở thành những nội dung quan trọng trong thỏa thuận về thuế quan và thương mại giữa các quốc gia với nhau. Ngay từ đầu thế kỷ XX, việc xây dựng một hệ thống các phương pháp xác định trị giá hải quan minh bạch, có thể áp dụng thống nhất trên phạm vi thế giới đã được đặt ra như một yêu cầu tất yếu. Trên thế giới, trị giá hải quan hàng xuất khẩu, hàng nhập khẩu thường được nhắc đến với tên gọi là trị giá tính thuế hàng xuất khẩu, hàng nhập khẩu và được xác định theo nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào quy định luật pháp của mỗi quốc gia. Có thể nói từ trước đến nay đã có khá nhiều quan niệm về trị giá hải quan và cách áp dụng các phương pháp khác nhau về xác định trị giá hải quan. Một số quan niệm về trị giá hải quan như sau: Theo các chuyên gia hải quan Nhật Bản, thì trị giá hải quan là chỉ số thể hiện giá trị của hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới, ra hoặc vào lãnh thổ hải quan, để phục vụ cho mục đích quản lý nhà nước về hải quan của cơ quan hải quan theo từng thời kỳ. Cũng có quan niệm cho rằng: Trị giá hải quan là trị giá của hàng hóa dùng để tính thuế hải quan theo giá trị của hàng hóa được xác định bằng cách lấy số lượng từng mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan nhân với giá tính thuế đơn vị của mặt hàng đó. [20, tr7]. Trị giá hải quan là giá thực tế của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu hay trị giá hải quan là trị giá của hàng hoá để đánh thuế hải quan theo giá trị của hàng hoá đó.[20, tr7]; Trị giá hải quan là trị giá phục vụ cho mục đích tính thuế hải quan và thống kê hải quan.[20, tr8] Cùng với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, trị giá hải quan cũng trở thành một trong những đối tượng được quy chuẩn hóa để trở thành chuẩn mực chung mà mỗi quốc gia khi tham gia hội nhập đều phải thực hiện. Cho đến nay có hai trào lưu xác định trị giá hải quan mang tính quốc tế được sử dụng rộng rãi hơn cả, phổ biến là trị giá hải quan theo Định nghĩa Brussels và trị giá hải quan theo Hiệp định thực hiện Điều 7 Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT/WTO 1994 (gọi tắt là Hiệp định trị giá GATT/WTO 1994). Trong đó: Định nghĩa Brussells quy định trị giá hải quan là giá thông thường của hàng hóa đang được xác định trị giá, hay nói cách khác là giá mà hàng hóa sẽ được bán (the price the goods would fetch) ở nước xuất khẩu để xuất khẩu sang nước nhập khẩu trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh có xét đến thời gian bán hàng, địa điểm bán hàng và số lượng, cấp độ thương mại của giao dịch bán hàng.[20-tr16] Theo Hiệp định trị giá GATT/WTO 1994: Trị giá hải quan là trị giá giao dịch thực tế của hàng hóa nhập khẩu và Hiệp định đã đưa ra sáu phương pháp xác định trị giá hải quan. Theo đó, trị giá hải quan hàng nhập khẩu là giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán (the price actually paid or payable) cho hàng hóa được bán để xuất khẩu đến nước nhập khẩu và trong phạm vi lớn nhất có thể thì đó chính là trị giá giao dịch hay một trị giá được tính toán gần sát nhất với trị giá giao dịch của hàng hóa đó. [16, tr10] Cả Hiệp định trị giá GATT/WTO và Định nghĩa Brussells đều công nhận sự tồn tại của giá thực thanh toán. Tuy nhiên, trị giá hải quan theo Hiệp định GATT/WTO nhấn mạnh việc xác định trị giá hải quan phải dựa vào trị giá của chính lô hàng đang định giá có tính đến các chi phí liên quan đến giao dịch bán hàng để xuất khẩu, còn Định nghĩa Bruxells lại căn cứ vào giá thông thường của hàng hóa đó được xác định trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh và trong nhiều trường hợp, giá của hàng hóa giống hệt hay tương tự thường được sử dụng làm giá thông thường. Như vậy, ở đây trị giá hải quan theo định nghĩa Bruxells với khái niệm của giá thông thường được đưa ra theo một cách có tính lý thuyết và do đó, có thể xác định được ngay cả khi không có giao dịch thực tế. Còn với Hiệp định trị giá GATT/WTO 1994, trị giá hải quan được dựa vào những khái niệm thực định, do đó khi không đáp ứng được điều kiện để áp dụng vào những giao dịch thì tiếp tục sử dụng các phương pháp xác định giá tiếp theo được hướng dẫn một cách chi tiết, cụ thể. Có thể nói đây là điểm khác nhau căn bản giữa hai khái niệm về trị giá hải quan này. Bên cạnh đó, mặc dù Định nghĩa Bruxells cũng giống Hiệp định trị giá GATT/WTO đã đề cập tới các yếu tố điều chỉnh như giá bán hàng, thời gian địa điểm, số lượng, cấp độ thương mại nhưng chưa tiên liệu được hết các tình huống xảy ra trong thực tế, nên còn để lại nhiều lỗ hổng trong việc áp dụng, dễ gây tranh chấp. Với Hiệp định trị giá GATT/WTO thì hầu như đã khắc phục được các nhược điểm này của Định nghĩa Bruxells và đến nay trị giá theo Hiệp định trị giá GATT/WTO đã đứng đầu về số quốc gia thực hiện với trên 175 quốc gia (tính đến nay). Cho nên, trị giá hải quan theo khái niệm của GATT/WTO đến nay đã được sử dụng thịnh hành hơn cả. Trị giá hải quan bao gồm trị giá hải quan hàng hóa xuất khẩu và trị giá Hải quan hàng hóa nhập khẩu, sử dụng cho các mục đích quản lý Nhà nước về hải quan. Trị giá hải quan là phần số liệu về trị giá của hàng hoá được đưa ra hoặc đưa vào lãnh thổ hải quan do cơ quan hải quan quản lý và toàn bộ các chi phí phát sinh trong suốt quá trình giao dịch và cấu thành vào giá trị của hàng hóa xuất khẩu, hàng hóa nhập khẩu. Do đó, tất cả mọi chi phí hoạt động thực tế có liên quan đến giao dịch thương mại quốc tế đều phải được phản ánh đầy đủ trong trị giá hải quan. Như vậy: Trị giá hải quan là trị giá giao dịch thực tế của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới, ra hoặc vào lãnh thổ hải quan, dùng cho việc quản lý Nhà Nước về hải quan, trong đó chủ yếu là sử dụng làm cơ sở cho việc tính thuế và thống kê hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. 2.1.2 Nguyên tắc và phương pháp xác định trị giá hải quan Trước khi áp dụng rộng rãi phương pháp xác định trị giá hải quan theo hiệp định Trị giá hải quan GATT /WTO, trên thế giới đã tồn tại nhiều hệ thống các phương pháp xác định trị giá hải quan. Một số phương pháp nổi trội như: Phương pháp xác định theo Giá thị trường. Đây là phương pháp do Anh đưa ra vào đầu thế kỷ XX. Trị giá tính thuế dựa trên giá buôn bán tại thị trường nước xuất khẩu. Hệ thống này được áp dụng tại các nước thuộc “đế quốc Anh”, Canada, Úc, Nam Phi, New Zealand trước khi Hiệp định Trị giá GATT/WTO được áp dụng. Phương pháp xác định theo Giá thị trường hợp lý. Tương tự phương pháp giá thị trường nhưng nó mang tính linh hoạt hơn trong việc xác định trị giá hải quan. Phương pháp này chủ yếu được áp dụng ở khu vực Thái Bình Dương mà điển hình là Philippin. Phương pháp xác định theo Hệ thống giá bán của Mỹ. Đây là phương pháp xác định trị giá hải quan được áp dụng đối với số lượng hạn chế các loại hàng hóa nhập khẩu. Trị giá dựa trên giá sản phẩm cạnh tranh tại Mỹ. Nhà sản xuất trong nước gián tiếp kiểm soát trị giá được áp dụng cho hàng hóa của đối thủ cạnh tranh của mình. Phương pháp dùng giá tối thiểu. Theo phương pháp này, cơ quan Hải quan đưa ra giá tối thiểu cho tất cả các loại hàng hóa nhập khẩu mà không phản ánh giá trị thực tế của hàng hóa đó. Phương pháp này được áp dụng ở nhiều nước đang phát triển. Phương pháp xác định trị giá theo “giá thực tế”: Theo phương pháp này, trị giá hải quan được xác định dựa trên giá bán của hàng hóa nhập khẩu khi được bán ở nước nhập khẩu trừ đi 15%.vv.. Mặc dù đã tồn tại nhiều hệ thống các phương pháp xác định trị giá hải qun nhưng cho đến nay, việc xác định trị giá hải quan theo các phương pháp trong Hiệp định xác định trị giá hải quan GATT/WTO được các nước áp dụng rộng rãi hơn cả. Hiệp định xác định trị giá hải quan được cộng đồng quốc tế biết đến là Hiệp định về thực hiện điều VII của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại, hay còn được biết đến với cái tên Hiệp định xác định trị giá hải quan GATT. Kể từ khi tổ chức thương mại thế giới ra đời thay thế GATT năm 1994 thì từ 1/1/1995, Hiệp định xác định trị giá hải quan GATT được đổi tên thành Hiệp định về Thực hiện Điều VII của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại, 1994 (hay còn gọi là Hiệp định trị giá hải quan GATT/WTO). Là một Hiệp định trong hệ thống các Hiệp định chung của WTO, Hiệp định về trị giá hải quan GATT/WTO thể hiện mục tiêu chung của tổ chức thương mại thế giới, nhằm tự do hoá và phát triển thương mại quốc tế. Từ đó, hướng đến xây dựng một hệ thống các phương pháp xác định trị giá hải quan đơn giản, thống nhất, công bằng, minh bạch, ổn định, trung lập và dựa trên trị giá giao dịch thực tế của hàng hoá nhập khẩu, tránh sử dụng những trị giá hải quan có tính áp đặt hay tuỳ tiện. Theo nguyên tắc trên, Hiệp định trị giá GATT/WTO đưa ra 6 phương pháp khác nhau được xếp theo thứ tự cho việc xác định trị giá hải quan, đó là: Phương pháp 1: Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu. Phương pháp 2: Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu giống hệt. Phương pháp 3: Phương pháp trị giá giao dịch đối với hàng hoá nhập khẩu tương tự. Phương pháp 4: Phương pháp trị giá khấu trừ. Phương pháp 5: Phương pháp trị giá tính toán. Phương pháp 6: Phương pháp dự phòng (phương pháp suy luận). Hiệp định cũng chỉ ra rằng không một nhà nhập khẩu hoặc một cơ quan quản lý nào có quyền lựa chọn tuỳ tiện phương pháp xác định giá mà đều phải tuân thủ theo đúng trình tự đã xắp sếp nói trên. Nói cách khác là để xác định trị giá hàng hoá nhập khẩu, người ta sẽ phải bắt đầu áp dụng theo thứ tự từ phương pháp đầu tiên” Trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu” và chỉ khi vì một lý do nào đó mà phương pháp này không thể áp dụng được thì người ta mới áp dụng phương pháp thứ hai và nếu phương pháp thứ hai không áp dụng được thì sẽ phải lần lượt áp dụng phương pháp ba và tiếp tục theo trình tự cho đến phương pháp cuối cùng để xác định được trị giá hải quan. Nguyên tắc này chỉ ngoại lệ đối với phương pháp thứ tư ”Phương pháp trị giá khấu trừ” và phương pháp thứ năm”Phương pháp trị giá tính toán” và chỉ có 2 phương pháp này có thể thay đổi trật tự cho nhau. Sỡ dĩ có thể hoán đổi thứ tự giữa phương pháp thứ tư và phương pháp thứ năm là vì việc tính toán, xác định trị giá tính thuế theo hai phương pháp này hầu hết dựa vào các tài liệu, số liệu, bằng chứng của doanh nghiệp. Khi đó, chính doanh nghiệp là người biết rõ nhất có thể xác định trị giá theo phương pháp nào trong số hai phương pháp đó, để đề nghị cơ quan Hải quan áp dụng phương pháp thích hợp. (1) Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu, là phương pháp đầu tiên, cơ bản, được áp dụng cho hầu hết các trường hợp hàng hoá nhập khẩu. Phương pháp này được quy định trong Điều 1 của Hiệp định, là: Trị giá hải quan của hàng hoá nhập khẩu là trị giá giao dịch, đó là giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán cho những hàng hoá được bán để xuất khẩu đến nước nhập khẩu, được điều chỉnh theo các quy định của Điều 8, với điều kiện là: (*) Người mua không bị hạn chế về chuyển nhượng hoặc sử dụng hàng hoá, ngoại trừ các hạn chế do luật pháp hay các cơ quan có thẩm quyền tại nước nhập khẩu áp đặt, hoặc yêu cầu; về khu vực địa lý tại đó hàng hoá có thể được bán lại; hoặc hạn chế không ảnh hưởng đáng kể đến trị giá của hàng hoá. (*) Hoạt động bán hàng, hay giá cả, không phụ thuộc vào một số điều kiện mà từ đó người ta không thể xác định được trị giá của những hàng hoá cần được xác định trị giá. (*) Sau khi tiếp tục bán lại, chuyển nhượng hoặc sử dụng hàng nhập khẩu, người nhập khẩu không phải chuyển bất cứ một khoản tiền nào từ doanh thu đạt được, dù trực tiếp hay gián tiếp, cho người bán, trừ khi khoản đó thuộc khoản điều chỉnh phù hợp với các quy định của điều 8; (*) Người mua và người bán không có quan hệ đặc biệt với nhau, hoặc trong trường hợp người mua và người bán có quan hệ đặc biệt thì trị giá giao dịch được chấp nhận là trị giá hải quan khi người nhập khẩu chứng minh được trị giá đó xấp xỉ gần với một trị giá kiểm tra, xác định bằng một trong năm phương pháp đầu tiên đối với hàng hóa giống hệt hay tương tự với hàng nhập khẩu. Các khoản điều chỉnh của điều 8 bao gồm các khoản phải cộng vào giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán của hàng hoá nhập khẩu. Đó là những chi phí mà người mua phải gánh chịu nhưng chưa được tính vào giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán cho hàng hoá nhập khẩu như: + Chi phí hoa hồng và môi giới, trừ hoa hồng mua hàng; + Chi phí về thùng chứa hàng được coi là đồng nhất với hàng hoá đang được xác định trị giá, nhằm phục vụ các hoạt động cuả Hải quan; + Chi phí đóng gói, kể cả chi phí vật liệu và chi phí nhân công. + Trị giá, được phân bổ thích hợp, của các khoản trợ giúp là những hàng hoá và dịch vụ do người mua cung cấp trực tiếp hay gián tiếp, miễn phí hoặc giảm giá, để sử dụng trong sản xuất và bán để xuất khẩu các hàng hóa nhập khẩu đó, nhưng chưa được tính vào giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán. + Tiền bản quyền và phí giấy phép liên quan đến hàng hoá đang được xác định trị giá do người mua phải trả, trực tiếp hoặc gián tiếp, như một điều kiện cho giao dịch bán hàng hoá đang được xác định trị giá, trong phạm vi các chi phí này chưa được tính vào giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán; + Trị giá của bất cứ khoản nào được chuyển trực tiếp hay gián tiếp cho người bán, trích từ doanh thu đạt được sau khi bán hàng nhập khẩu được bán lại, được chuyển nhượng hoặc sử dụng. + Chi phí vận tải hàng nhập khẩu tới cảng hoặc địa điểm nhập khẩu; + Chi phí bốc hàng lên phương tiện vận tải, dỡ hàng khỏi phương tiện vận tải và các chi phí làm hàng liên quan đến vận chuyển hàng nhập khẩu tới cảng hoặc địa điểm nhập khẩu. + Chi phí bảo hiểm. Ngoài ra, trong phương pháp xác định trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu, cần quan tâm đến những khía cạnh khác nhau của các giao dịch ngoại thương như khuyến mại giảm giá, thanh toán bù trừ, tín dụng tài chính. (2) Phương pháp xác định trị giá hải quan thứ hai được áp dụng nếu không thể áp dụng được phương pháp thứ nhất, là phương pháp trị giá giao dịch của hàng hoá giống hệt. Theo Điều 2 của Hiệp định, “Nếu trị giá hải quan của hàng hoá nhập khẩu không thể xác định theo các quy định tại Điều 1 thì trị giá hải quan là trị giá giao dịch của hàng hoá giống hệt được bán với mục đích xuất khẩu cho cùng một nước nhập khẩu vào cùng thời điểm hay cùng kỳ với lô hàng cần phải xác định trị giá.” Vấn đề đặt ra khi sử dụng phương pháp này là xác định mặt hàng giống hệt với hàng hoá nhập khẩu. Điều 15.2 (a) xác định: “’Mặt hàng giống hệt’’ là những hàng hoá giống nhau về mọi khía cạnh kể cả tính chất vật lý, chất lượng và danh tiếng. Những khác biệt nhỏ bên ngoài không ảnh hưởng đến việc coi hàng hoá là mặt hàng giống hệt.” (3) Khi trị giá hải quan của hàng hoá không thể xác định được theo phương pháp thứ hai thì phương pháp thứ ba sẽ được áp dụng, đó là phương pháp trị giá giao dịch của hàng hoá tương tự. Phương pháp này được quy định tại Điều 3 của Hiệp định: “Nếu trị giá hải quan của hàng hoá nhập khẩu không thể xác định được theo các quy định tại Điều 1 và Điều 2 thì trị giá hải quan sẽ là trị giá giao dịch của mặt hàng tương tự được bán với mục đích xuất khẩu cho cùng một nước nhập khẩu vào cùng một thời điểm hay cùng kỳ với lô hàng cần xác định trị giá.” Về “Mặt hàng tương tự” là những hàng hoá dù không giống nhau về mọi chi tiết nhưng có các đặc điểm giống nhau, được làm từ các nguyên vật liệu giống nhau và điều đó làm cho các mặt hàng này thực hiện được các chức năng giống nhau và có thể chuyển đổi, thay thế lẫn nhau về mặt thương mại. Chất lượng, danh tiếng và sự tồn tại của nhãn hiệu thương mại là những yếu tố được cân nhắc trong khi xét xem hàng hoá đó có phải là mặt hàng tương tự hay không” (Điều 15.2 (b)) . Trong khi áp dụng hai phương pháp hàng mặt hàng giống hệt và mặt hàng tương tự, những yếu tố về số lượng hàng hoá và cấp độ thương mại của hàng hoá đó phải được xem xét để điều chỉnh thống nhất. Đó là vì trong các giao dịch thương mại, với điều kiện cạnh tranh thông thường thì giá cả hàng hoá phụ thuộc rất nhiều vào số lượng hàng hoá trong các giao dịch, cấp độ thương mại của giao dịch đó. Có thể nhận biết rất rõ sự khác biệt này giữa mua hàng với số lượng lớn và số lượng nhỏ, người mua hàng là người bán buôn, bán lẻ hay người tiêu dùng... (4) Theo phương pháp trị giá khấu trừ (Điều 6), trị giá hải quan của hàng hoá nhập khẩu sẽ được xác định căn cứ vào đơn giá mà ở mức giá đó, hàng nhập khẩu, hàng giống hệt hay hàng tương tự được bán với số lượng gộp lớn nhất, vào cùng thời điểm hay cùng kỳ nhập khẩu của lô hàng đang được xác định trị giá và bán cho người không có quan hệ đặc biệt với người bán lô hàng. Từ mức giá đó, người ta khấu trừ đi các khoản hoa hồng hay lợi nhuận và các chi phí chung có liên quan đến bán hàng tại nước nhập khẩu; các chi phí vận tải và bảo hiểm phát sinh trong phạm vi nước nhập khẩu và các khoản thuế, lệ phí của nước nhập khẩu. (5) Phương pháp trị giá tính toán quy định trị giá hải quan của hàng hoá nhập khẩu được căn cứ vào trị giá tính toán. Trị giá tính toán sẽ bao gồm các khoản sau: Giá thành hoặc trị giá nguyên vật liệu và bán thành phẩm hoặc các chi phí gia công khác đã sử dụng vào sản xuất hàng nhập khẩu; Khoản lợi nhuận và chi phí chung; Giá thành hoặc trị giá của mọi chi phí khác cần thiết theo Điều 8.2. (6) Phương pháp cuối cùng quy định trong Hiệp định thường gọi là phương pháp dự phòng, hay phương pháp suy luận. Phương pháp này được nêu tại Điều 7 của Hiệp định, như sau: “Nếu trị giá hải quan của hàng hoá nhập khẩu không thể xác định được theo các quy định từ Điều 1 đến Điều 6 thì trị giá hải quan sẽ được xác định bằng các phương pháp hợp lý, nhất quán với các nguyên tắc và quy định chung của Hiệp định này và với Điều VII của GATT 1994 và trên cơ sở các dữ liệu hiện có của nước nhập khẩu.” Như vậy có thể hiểu rằng, nếu không thể xác định được trị giá hải quan của hàng hoá theo các phương pháp trị giá giao dịch, trị giá giao dịch của hàng hoá giống hệt, hàng hoá tương tự, trị giá khấu trừ hay trị giá tính toán thì cơ quan hải quan có thể sử dụng bất cứ một phương pháp nào phù hợp với các nguyên tắc chung, dẫn đến kết quả cuối cùng của việc xác định trị giá hải quan. Tuy nhiên, để thực hiện được theo phương pháp này thì cũng phải tuân thủ một số quy định như: không được sử dụng giá bán hàng trong nội địa nước xuất khẩu, nước nhập khẩu hay giá bán cho một nước không phải nước nhập khẩu; không được sử dụng phương pháp tính toán khác với phương pháp tính toán đã quy định trong Hiệp định; không được sử dụng giá tối thiểu hay giá áp đặt, giá giả định để làm trị giá hải quan. Sử dụng hệ thống xác định trị giá hải quan theo Hiệp định Trị giá GATT/ WTO, cơ quan Hải quan phải tuân thủ một yêu cầu hết sức nghiêm ngặt, đó là chỉ được căn cứ vào những số liệu khách quan, định lượng được và phải luôn tôn trọng các chi tiết của giao dịch mua bán hàng hoá. Mặc dù có nghi ngờ về trị giá đã khai báo của người nhập khẩu nhưng nếu cơ quan Hải quan không có đầy đủ bằng chứng, và người nhập khẩu chứng minh được tính xác thực của trị giá khai báo thì cơ quan hải quan không có quyền loại bỏ trị giá khai báo. Việc xác minh của hải quan khi đó sẽ được thực hiện thông qua các biện pháp nghiệp vụ khác và phải tiến hành sau khi đã giải phóng hàng hoá. Chính quy định này không những đảm bảo tốc độ thông quan hàng hoá tại cửa khẩu mà còn mở rộng quyền lực của cơ quan hải quan trong công tác quản lý hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu sau khi hàng đã vào lãnh thổ hải quan. 2.2.Tổng quan về kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan 2.2.1. Khái niệm kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan Kiểm tra sau thông quan là một nghiệp vụ quản lý hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đã thông quan. Nghiệp vụ này được hình thành và phát triển cùng với việc hình thành và phát triển của khoa học về quản lý rủi ro và được hầu hết các nước, vùng lãnh thổ thuộc Tổ chức hải quan thế giới (WCO) và Tổ chức thương mại thế giới (WTO) áp dụng. Kiểm tra sau thông quan không phải là một lĩnh vực khoa học riêng rẽ, độc lập, mà là hoạt động nghiệp vụ được gắn kết trong tổng thể mối quan hệ của toàn bộ hoạt động kiểm tra giám sát hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, trao đổi thương mại nhằm kiểm tra tính chính xác và trung thực các thông tin do các đối tượng có hoạt động kinh doanh xuất, nhập khẩu đã khai báo với cơ quan Hải quan thông qua việc kiểm tra các chứng từ thương mại, chứng từ ngân hàng, chứng từ kế toán...có liên quan đến hàng hoá xuất, nhập khẩu. Hay nói một cách khác, kiểm tra sau thông quan là sự đối soát giữa nguồn thông tin do chủ hàng khai báo trên bộ hồ sơ hải quan với nguồn thông tin do công chức hải quan thu thập từ các chứng từ thương mại, chứng từ ngân hàng, chứng từ kế toán...theo qui định của pháp luật. Do vậy, đa phần các nước gọi nghiệp vụ này là “Kiểm toán sau thông quan” (Post Clearance Audid - PCA) hoặc “Kiểm toán hải quan” (Customs Audid - CA), Theo đó, phạm vi kiểm tra sau thông quan xét về mặt nguyên tắc không chỉ bó hẹp trong các trường hợp khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật về hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đã được thông quan mà cơ quan hải quan có quyền kiểm tra đối với tất cả hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đã được thông quan. Kiểm tra sau thông quan là kiểm tra sâu đối với hồ sơ hải quan của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đã được thông quan. Kiểm tra sau thông quan có thể thực hiện tại trụ sở Hải quan cũng có thể thực hiện tại trụ sở doanh nghiệp tùy theo nội dung và yêu cầu của việc kiểm tra sau thông quan. Kiểm tra sau thông quan nhằm làm rõ những nghi vấn về sự không phù hợp giữa hồ sơ hải quan mà doanh nghiệp đã kê khai với tình hình thực tế của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Nội dung hay đối tượng của kiểm tra sau thông quan bao gồm nhiều lĩnh vực nghiệp vụ chuyên sâu như kiểm tra sau thông quan trong lĩnh vực mã số hàng hóa, thuế suất thuế nhập khẩu; kiểm tra sau thông quan trong lĩnh vực xuất xứ hàng hóa; kiểm tra sau thông quan trong lĩnh vực gia công, sản xuất- xuất khẩu; kiểm tra sau thông quan trong lĩnh vực ưu đãi đầu tư; kiểm tra sau thông quan chính sách mặt hàng và kiểm tra sau thông quan trong lĩnh vực trị giá. Có thể nói rằng, kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan là nội dung then chốt, là lĩnh vực quan trọng nhất của kiểm tra sau thông quan. Chính vì vậy, kiểm tra xác định tính chính xác tính trung thực trong khai báo về trị giá hải quan là nội dung cốt yếu và quan trọng nhất trong toàn bộ nội dung của công tác kiểm tra sau thông quan. Kiểm tra sau thông quan ở các nước có thể có sự khác nhau về tên gọi hoặc hình thức tổ chức kiểm tra nhưng đều giống nhau ở chỗ là chức năng nhằm ngăn chặn và phát hiện gian lận thương mại, đặc biệt là gian lận thương mại qua trị giá hải quan. Theo khuyến nghị của Tổ chức Hải quan thế giới (WCO), một hệ thống kiểm tra sau thông quan đủ mạnh phải có khả năng ngăn chặn và phát hiện gian lận thương mại, đặc biệt là gian lận qua trị giá hải quan, cho dù trị giá hàng hóa nhập khẩu được xác định theo bất cứ phương pháp nào. Do tất cả mọi chi phí hoạt động thực tế có liên quan đến giao dịch thương mại quốc tế đều phải được phản ánh đầy đủ vào trị giá hải quan của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu nên mục đích của việc kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan là phải tìm được tất cả các chi phí có liên quan đến hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa đã xảy ra trong thực tế, làm căn cứ để kiểm tra mức độ chính xác, trung thực của trị giá hải quan đã khai báo. Một yêu cầu đặt ra là mọi chi tiết được đưa ra trong quá trình KTSTQ về TGHQ đều phải có bằng chứng, chứng cứ rõ ràng, cụ thể và hợp pháp [27, tr14] Khi nói đến khái niệm kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan cũng là nói đến khái niệm gắn liền với kiểm tra sau thông quan. Từ những khái niệm về kiểm tra sau thông quan và trị giá hải quan đã nêu ở trên, ta có thể thấy rằng: “Kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan là hoạt động của cơ quan hải quan kiểm tra sâu đối với hồ sơ hải quan, sổ kế toán, chứng từ kế toán và các chứng từ khác, tài liệu, dữ liệu liên quan đến hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đã thông quan nhằm: a) Kiểm tra tính chính xác, trung thực về nội dung của người khai hải quan đã khai báo với cơ quan hải quan về trị giá hải quan của hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đã được thông quan; b) Thẩm định việc tuân thủ pháp luật về khai báo trị giá hải quan của người khai hải quan trong quá trình làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.” Với những nội dung như nói ở trên, kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan còn được gọi bằng một thuật ngữ chuyên môn là kiểm tra trên cơ sở kiểm toán. KTSTQ về TGHQ là một trong những khâu nghiệp vụ cuối cùng trong quy trình thủ tục hải quan của cơ quan Hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Nghiệp vụ này được hình thành và phát triển trên nền tảng khoa học quản lý rủi ro và được hầu hết các nước thuộc WCO và WTO áp dụng. 2.2.2. Đối tượng và phạm vi của kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. 2.2.2.1 Đối tượng kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Trước hết, đối tượng KTSTQ nói ở đây là đối tượng kép. Bởi vì KTSTQ về vấn đề gì cũng là đối tượng kiểm tra, như: kiểm tra toàn diện hay chỉ đi sâu kiểm tra trị giá, kiểm tra xuất xứ, kiểm tra về thuế... Kiểm tra những vấn đề trên thông qua những bằng chứng nào cũng là đối tượng kiểm tra, như: kiểm tra hồ sơ hải quan, kiểm tra sổ kế toán, kiểm tra các thông tin từ các ngành liên quan... Nói như vậy, để trong luận án sử dụng thuật ngữ “đối tượng kiểm tra sau thông quan” được hiểu một cách linh hoạt hơn. Đối tượng kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan là các chứng từ thuộc hồ sơ hải quan, chứng từ kế toán, sổ kế toán, báo cáo tài chính, các dữ liệu thương mại và các chứng từ khác có liên quan đến hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; trong trường hợp cần thiết và đủ điều kiện thì kiểm tra hàng hóa nhập khẩu đã được thông quan của các tổ chức, cá nhân có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động kinh doanh xuất, nhập khẩu hàng hóa. Chủ thể liên quan trực tiếp đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa còn gọi là chủ hàng xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa (có thể là tổ chức, có thể là cá nhân). Chủ thể liên quan gián tiếp đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, không phân biệt thành phần kinh tế và hình thức cũng như nguồn vốn sở hữu, bao gồm: các đại lý làm thủ tục hải quan, các đơn vị nhập khẩu ủy thác, các hãng vận tải xuất nhập khẩu,các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính, tín dụng... 2.2.2.2 Phạm vi kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan Phạm vi của kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan sẽ tùy thuộc vào cách thức xác định đối tượng kiểm tra, đó là kiểm tra theo kế hoạch, kiểm tra chọn mẫu và kiểm tra theo dấu hiệu vi phạm. Đối với trường hợp kiểm tra sau thông quan theo kế hoạch để đánh giá sự tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, phạm vi kiểm tra rộng hơn và thường là kiểm tra toàn diện hoạt động xuất, nhập khẩu trong một giai đoạn. Đối với trường hợp kiểm tra chọn mẫu, kiểm tra theo dấu hiệu vi phạm được tiến hành khi có những thông tin vi phạm pháp luật hoặc có những nghi ngờ nhất định. Do đó, phạm vi kiểm tra thường hẹp hơn và tập trung vào những dấu hiệu vi phạm, trong đó dấu hiệu vi phạm khai sai trị giá gây thất thu thuế là dấu hiệu chủ yếu nhất. Tùy theo yêu cầu đặt ra cho mỗi cuộc kiểm tra sau thông quan mà xác định phạm vi kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan toàn diện hoặc chuyên sâu trong kiểm tra nội dung trị giá của một hoặc nhiều mặt hàng nhập khẩu. 2.2.3. Nội dung kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Hiện nay trên thế giới có hai xu hướng kiểm tra trị giá hải quan. Một số nước kiểm tra vào giai đoạn kiểm tra trong thông quan và kiểm tra sau thông quan. Một số nước khác thì tập trung vào giai đoạn kiểm tra trước khi thông quan (trước khi hàng hóa được nhập khẩu vào lãnh thổ hải quan thì cơ quan hải quan đã có dữ liệu về trị giá hải quan của hàng hóa đó) và giai đoạn kiểm tra sau thông quan. Kiểm tra trị giá hải quan là công việc cần thiết đối với cả doanh nghiệp và cơ quan Hải quan và có thể do người khai hải quan thực hiện tại doanh nghiệp, hoặc do cơ quan Hải quan thực hiện trong khi thực hiện nhiệm vụ quản lý hải quan. Thực tế cũng chứng minh rằng, kiểm tra trị giá hải quan ở khâu sau thông quan đem lại hiệu quả cao, tạo điều kiện thông thoáng cho hàng hóa nhập khẩu, tránh ùn tắc tại cửa khẩu hơn so với kiểm tra trị giá trong các giai đoạn khác; đồng thời diện kiểm tra cũng rộng hơn, thời gian kiểm tra cũng không bị hạn hẹp hơn so với các giai đoạn khác. Kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan là việc rà soát quá trình và kết quả xác định trị giá hải quan nhằm bảo đảm tính chính xác, trung thực của trị giá hải quan . Việc kiểm tra có thể đối chiếu, so sánh giữa nội dung, số liệu của các tài liệu, chứng từ trong hồ sơ hải quan. Trong đó, quan trọng nhất là kiểm tra tờ khai trị giá. Kiểm tra tờ khai trị giá là việc kiểm tra các thông tin, dữ liệu do người khai hải quan cung cấp, thông qua việc đối chiếu các thông tin, dữ liệu trên tờ khai trị giá với tờ khai hải quan và các chứng từ kèm theo, chú ý kiểm tra khai báo trị giá và tổng trị giá khai báo. Kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan cũng cần đối chiếu giữa số liệu, tài liệu trong hồ sơ hải quan với cơ sở dữ liệu giá của cơ quan Hải quan, đối chiếu với số liệu, tài liệu trong sổ kế toán, chứng từ kế toán của doanh nghiệp và các thông tin từ các ngành có liên quan để nhằm bảo đảm tính chính xác, trung thực của trị giá hải quan . Kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan bảo đảm cho cơ quan Hải quan áp dụng hiệu quả các chính sách quản lý, cũng như thu đúng, thu đủ thuế cho Ngân sách. Bởi vì trong chính sách bảo hộ nền kinh tế, bảo hộ bằng các mức thuế suất sẽ đạt hiệu quả nếu hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu được xác định trị giá hải quan một cách chính xác. Ngược lại, trị giá hải quan khi có gian lận sẽ làm vô hiệu hóa chính sách bảo hộ bằng thuế suất của Nhà nước. Cơ quan Hải quan là người có trách nhiệm hàng đầu trong nhiệm vụ quản lý này. Chính vì vậy trong đề tài luận án này sẽ đề cập đến việc kiểm tra trị giá sau khi đã được thông quan hàng hóa, do cơ quan Hải quan thực hiện, không bàn đến kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan do doanh nghiệp thực hiện. Kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan được thực hiện thành hai bước: Kiểm tra tại cơ quan Hải quan và kiểm tra tại cơ sở nhập khẩu, đuợc tập trung vào việc kiểm tra các nội dung chủ yếu sau: - Tiến hành kiểm tra, đối chiếu trị giá khai báo (thông qua việc kiểm tra hồ sơ hải quan) với cơ sở dữ liệu để đánh giá mức độ tuân thủ của trị giá khai báo. Thông thường, cơ quan Hải quan sẽ xác lập một “ khung” trị giá của từng loại hàng hóa, nếu trị giá khai báo thấp hơn hoặc cao hơn “khung” thì sẽ tiến hành tập trung kiểm tra. Ngoài ra, cũng tập trung kiểm tra những trường hợp thuộc diện nhạy cảm nhưng không thuộc trong “khung” đã định. - Căn cứ vào hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chuẩn mực bao gồm cả kế toán, kiểm toán, ngân hàng, bảo hiểm, dịch vụ vận tải… để kiểm tra trị giá hải quan theo các phương pháp đã quy định. - Kiểm tra các chứng từ liên quan đến lô hàng bị nghi là gian lận trị giá thông qua các tài khoản, các chứng từ kế toán, chứng từ ngân hàng liên quan…để kiểm tra rõ số lượng của các khoản thanh toán, bù trừ tiền hàng giữa người mua và người bán. - Thực hiện tham vấn để kiểm tra trị giá, bảo đảm cho cơ quan Hải quan và doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp trao đổi với nhau nhằm làm sáng tỏ các nghi vấn về mức giá đã khai báo. Việc kiểm tra các chứng từ bổ sung, kết hợp với lý lẽ của doanh nghiệp trong việc giải trình về mức giá khai báo để ra quyết định bác bỏ hay chấp nhận mức giá khai báo của doanh nghiệp, hay không tuân thủ theo quy định và hướng dẫn về tham vấn của cơ quan Hải quan và kỹ năng tham vấn của công chức Hải quan. Ở đây xin nói thêm về nội hàm của cụm từ “ tham vấn để kiểm tra trị giá” để hiểu cho thống nhất về nội dung và cách làm được nêu trong luận án này. Trong luận án này, “ tham vấn để kiểm tra trị giá” chính là khi cơ quan Hải quan có những nghi ngờ về tính chính xác, trung thực của trị giá khai báo thì cơ quan hải quan chuẩn bị ra những câu hỏi để yêu cầu doanh nghiệp giải trình. Nhiệm vụ của doanh nghiệp là phải xuất trình được những chứng cứ, cung cấp được những thông tin làm cơ sở để chứng minh cho nội dung trị giá mà doanh nghiệp đã khai báo. Dựa trên những nội dung do doanh nghiệp cung cấp, cơ quan Hải quan tiến hành phân tích thông tin, đối chiếu với những thông tin đã có của cơ quan Hải quan và đưa ra kết luận cuối cùng. Việc tham vấn về trị giá hải quan có thể thực hiện theo phương thức hai bên trực tiếp trao đổi với nhau; hoặc theo phương thức gián tiếp tham vấn bằng văn bản. Là một trong những nghiệp vụ cụ thể trong toàn bộ quy trình kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan, “ tham vấn để kiểm tra trị giá” luôn tuân thủ các nguyên tắc cơ bản là tôn trọng thực tế, minh bạch, bình đẳng, công bằng nhằm đạt được mục đích cuối cùng là tìm được tất cả các chi tiết liên quan đến hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa đã xảy ra trong thực tế, để kiểm tra, làm rõ mức độ chính xác, trung thực của trị giá mà doanh nghiệp đã khai báo. Tham vấn để kiểm tra trị giá không chỉ thực hiện ở khâu thông quan hàng hóa, mà nó phải được thực hiện chủ yếu ở khâu kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. - Tham khảo hệ thống thông tin về thương mại và giá cả trên thị trường, sử dụng các nguồn thông tin tình báo, tùy viên hải quan hoặc tùy viên thương mại, các báo cáo về thanh tra, kiểm toán sẽ là nguồn thông tin góp phần thực hiện tốt công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. 2.2.4. Các kỹ thuật nghiệp vụ được sử dụng trong kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Kiểm tra trị giá hải quan là một nội dung quan trọng nhất trong hoạt động kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan, đặc biệt khi các nước thực hiện theo Hiệp định trị giá hải quan WTO. Một cuộc KTSTQ về trị giá hải quan có thể kiểm tra mọi chi tiết liên quan đến lô hàng đang được kiểm tra, tuy nhiên để tránh sự trùng lắp trong quá trình kiểm tra trong thông quan, cần tận dụng tối đa thế mạnh của kiểm tra sau thông quan, đó là kiểm tra dựa trên không chỉ các chứng từ kèm theo tờ khai hải quan mà còn dựa vào kết quả kiểm tra ở các khâu trước, dựa vào các thông tin trong dữ liệu của cơ quan hải quan, các thông tin thu thập được, kết hợp với kiểm tra các sổ sách và chứng từ liên quan của đối tượng bị kiểm toán giữ lại và phát sinh sau một thời gian nhất định kể từ khi thông quan. Một cuộc KTSTQ về TGHQ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố liên quan, trong đó kỹ thuật kiểm tra đóng vai trò quan trọng trong sự thành công của KTSTQ về trị giá hải quan. Kỹ thuật trong KTSTQ về TGHQ chủ yếu là kỹ thuật phân tích và xử lý thông tin, kỹ thuật lựa chọn đối tượng kiểm tra, kỹ thuật khảo sát trước khi kiểm tra, kỹ thuật kiểm tra hồ sơ và chứng từ thương mại. Ngoài ra, kỹ thuật tham vấn để kiểm tra trị giá, và kỹ thuật xác minh thông tin thông qua việc kiểm tra bên thứ ba cũng là nội dung quan trọng, được sử dụng trong quá trình kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. 2.2.4.1. Kỹ thuật phân tích, xử lý thông tin: Kỹ thuật phân tích, xử lý thông tin là một kỹ thuật nghiệp vụ quan trọng của kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Kỹ thuật phân tích, xử lý thông tin áp dụng phổ biến trong KTSTQ về TGHQ là so sánh, đối chiếu giữa một thông tin được coi là chuẩn với thông tin khác hoặc giữa các thông tin với nhau. Thông tin được coi là chuẩn trong ngành Hải quan là các thông tin từ: danh mục dữ liệu quản lý rủi ro về giá, từ kết quả phân tích phân loại hàng hóa…để đánh giá khả năng sai sót, gian lận hay vi phạm bằng cách: - So sánh, đối chiếu mức giá do doanh nghiệp khai báo với mức giá hàng hóa giống hệt, tương tự trong cơ sở dữ liệu thông tin quản lý dữ liệu giá tính thuế của Tổng Cục Hải quan (bao gồm thông tin về giá khai báo của doanh nghiệp và các thông tin về giá điều chỉnh của các cơ quan Hải quan đối với trường hợp đã tham vấn giá và bác bỏ trị giá khai báo); Tập trung vào các trường hợp nghi ngờ chưa được đánh dấu nghi ngờ thực hiện kiểm tra, tham vấn giá trong thông quan; - So sánh, đối chiếu giữa giá doanh nghiệp khai báo với giá bán hàng hóa giống hệt, tương tự do các doanh nghiệp khác khai báo, đã được cơ quan hải quan chấp nhận (loại trừ các trường hợp thuộc diện đã đánh dấu nghi ngờ để thực hiện tham vấn); hoặc với giá bán giống hệt, tương tự trên thị trường nội địa, sau khi đã trừ các chi phí phát sinh sau nhập khẩu; - So sánh, đối chiếu giữa giá doanh nghiệp khai báo trên tờ khai hải quan với giá ghi trên chứng từ khác; - So sánh mức giá nhập khẩu thu thập được từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cung cấp hoặc mức giá chào bán trên internet (giá invoice dealer) trừ đi chi phí đàm phán và các khoản thuế tại nước xuất khẩu; Khi xem xét, xử lý thông tin cần xem xét đến thực tế để nhận định, đánh giá phù hợp với hồ sơ chứng từ và phù hợp với thực tế trong từng trường hợp cụ thể. Trong đó, cần chú ý đến những trường hợp giá có yếu tố chiết khấu, giảm giá đã được thể hiện trên hợp đồng mua bán hàng hóa; các mối quan hệ đặc biệt giữa người bán và người mua; các trường hợp có khả năng phát sinh các khoản phải cộng như phí bản quyền, phí giấy phép, phí hoa hồng bán hàng, chi phí môi giới.. 2.2.4.2. Kỹ thuật lựa chọn đối tượng kiểm tra Lựa chọn đối tượng KTSTQ về TGHQ là một trong những bước đầu tiên của quy trình KTSTQ về TGHQ và đóng vai trò rất quan trọng trong cả quá trình thực hiện KTSTQ. Việc lựa chọn đúng đối tượng kiểm tra sẽ giúp cơ quan Hải quan tiết kiệm được nguồn lực, tiết kiệm chi phí, hiệu quả kiểm tra cao và kết quả KTSTQ sẽ có tác động trở lại đối với toàn bộ hệ thống dữ liệu quản lý của cơ quan Hải quan cao hơn nhưng vẫn thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc lựa chọn đối tượng KTSTQ về TGHQ, có thể thực hiện trong các trường hợp như: chọn đối tượng theo mẫu, chọn đối tượng theo dấu hiệu vi phạm, chọn đối tượng kiểm tra theo kế hoạch. Khi xác định đối tượng KTSTQ về TGHQ phải áp dụng QLRR, và đối tượng được xác định để KTSTQ về TGHQ luôn được coi là đối tượng rủi ro cao nhất. Một cuộc KTSTQ về TGHQ được đánh giá là thành công khi kết thúc kiểm tra, công chức Hải quan phải kết luận được đối tượng KTSTQ về TGHQ đã được xác định thực sự nằm trong vùng rủi ro cao. 2.2.4.3. Kỹ thuật khảo sát trước khi kiểm tra Khảo sát trước khi kiểm tra là việc kiểm tra sơ bộ về hồ sơ, dữ liệu và thông tin có liên quan đến giao dịch xuất nhập khẩu của đối tượng KTSTQ về TGHQ. Khảo sát trước khi kiểm tra nhằm xác định và làm rõ hơn những rủi ro được coi là cao khi xác định đối tượng KTSTQ, để từ đó xác định được phạm vi và phương pháp kiểm tra khi tiến hành KTSTQ tại trụ sở doanh nghiệp. Có thể nói đây là kỹ thuật nghiệp vụ quan trọng của công chức hải quan và chủ yếu được thực hiện tại trụ sở cơ quan Hải quan. Thực hiện kỹ thuật khảo sát trước khi kiểm tra, công chức hải quan phải phân tích dữ liệu và xem xét các dấu hiệu vi phạm để xác định phạm vi của KTSTQ về TGHQ tại trụ sở doanh nghiệp. Trong đó, kỹ thuật phân tích dữ liệu được dựa trên hồ sơ về đối tượng kiểm tra và hồ sơ giao dịch; việc xem xét các dấu hiệu vi phạm được thực hiện bằng việc phân tích hồ sơ hải quan. 2.2.4.4. Kỹ thuật kiểm tra chứng từ, sổ kế toán. Kiểm tra hồ sơ hải quan, chứng từ thương mại là một trong các kỹ thuật kiểm tra sau thông quan để thẩm định được độ chính xác và xác thực của các tờ khai hải quan do đối tượng bị kiểm toán khai báo trước đó, thông qua kiểm tra các chứng từ và hồ sơ của đối tượng bị kiểm toán liên quan tới hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Kiểm tra chứng từ, sổ kế toán là một trong những nội dung chính trong trong các kỹ thuật kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan.Trong nhiều trường hợp, thông qua việc kiểm tra chứng từ, sổ kế toán có thể nhận biết được nội dung thực chất của giao dịch hàng hóa nhập khẩu và từ đó cơ quan Hải quan có thể đạt được những mục tiêu quản lý của kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. a) Kiểm tra các chứng từ trong bộ hồ sơ hải quan. Kiểm tra hồ sơ hải quan để thẩm định trị giá hải quan, chủ yếu tập trung vào một số chứng từ chính sau đây: - Tờ khai trị giá tính thuế hàng nhập khẩu. Tờ khai trị giá tính thuế hàng nhập khẩu là chứng từ quan trọng nhất trong bộ hồ sơ nhập khẩu. Tờ khai trị giá có tác dụng giúp cơ quan Hải quan xác định chính xác trị giá lô hàng. Việc kiểm tra tờ khai trị giá nhằm đảm bảo rằng việc tính toán trên tờ khai trị giá và bất kỳ bảng đính kèm nào là đúng, đủ và tổng số tiền xác định là trị giá tính thuế đã được thể hiện chính xác trên tờ khai hàng hóa nhập khẩu chưa. Kiểm tra tờ khai trị giá hải quan cơ bản phải đáp ứng được những nội dung sau: Thứ nhất: Kiểm tra tư cách pháp nhân. Kiểm tra tư cách pháp nhân của người xuất khẩu, nhập khẩu tức là kiểm tra sự tồn tại thực tế của doanh nghiệp tại các thời điểm của quá trình làm thủ tục Hải quan. Đối với doanh nghiệp, tư cách pháp nhân của người nhập khẩu được thể hiện bằng mã số doanh nghiệp, là “số hiệu” mà doanh nghiệp được cơ quan quản lý (Thuế, Hải quan) cấp khi đăng ký kinh doanh và đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu. Thứ hai: Kiểm tra điều kiện mua bán. Phương pháp trị giá giao dịch- là phương pháp sử dụng mẫu tờ khai trị giá thứ nhất chỉ được áp dụng khi có xảy ra giao dịch mua bán giữa chủ hàng trong nước và đối tác nước ngoài. Điều này được thể hiện bằng các hợp đồng mua bán (hoặc các chứng từ tương tự như đơn đặt hàng, giấy xác nhận đặt hàng,…), trong đó nêu rõ chủ hàng trong nước là bên mua và đối tác nước ngoài là bên bán lô hàng. Do vậy, trước khi kiểm tra nội dung cụ thể của tờ khai trị giá, phải kiểm tra trong bộ hồ sơ nhập khẩu có sự tồn tại của hợp đồng mua bán (Contract of sale, Contranct of purchase, Sale contract…) hay không? Thứ ba: Kiểm tra các điều kiện áp dụng phương pháp. Mỗi một phương pháp xác định trị giá hải quan đều có các điều kiện nhất định và chỉ khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện đó thì phương pháp đó mới được áp dụng. Vì vậy, khi kiểm tra trị giá hải quan thông qua tờ khai, kiểm tra trị giá phải tiến hành kiểm tra các điều kiện áp dụng phương pháp. Chẳng hạn, theo phương pháp trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu, trị giá giao dịch chỉ được dùng làm căn cứ xác định trị giá hải quan nếu đáp ứng đầy đủ bốn điều kiện: + Chủ quyền của người mua đối với lô hàng; + Tính khách quan của cách thức xác lập giá cả của lô hàng; + Tính khách quan của cách thức thanh toán trị giá lô hàng; và + Mối quan hệ giữa người mua và người bán. Các điều kiện này được quy định thành các mục trên tờ khai trị giá. Nếu người khai hải quan không khai về điều kiện này, hoặc thể hiện trên tờ khai rằng lô hàng không đáp ứng điều kiện áp dụng thì không được sử dụng phương pháp trị giá giao dịch, mà phải chuyển sang phương pháp kế tiếp phù hợp. Thứ tư, kiểm tra khai báo trị giá và tổng trị giá khai báo. Kiểm tra trị giá hải quan thực chất là kiểm tra tính chính xác, trung thực của trị giá đã khai báo, tức là kiểm tra về mặt “ chất” của khai báo. Tùy thuộc vào thời điểm kiểm tra mà cơ quan Hải quan sẽ có những biện pháp nghiệp vụ cần thiết cho việc kiểm tra. Ngoài ra, việc xem cột bảng giá và thanh toán riêng rẽ và kiểm tra so sánh với các tờ khai khác của cùng một giao dịch cũng phải được chú ý đến. - Tờ khai hải quan. Xác định nội dung khai báo trên tờ khai hải quan có hợp pháp, hợp lệ theo quy định về khai báo hải quan hay không. Những nội dung đó phải phù hợp với nội dung của các chứng từ kèm theo. Đối với các mục không thích hợp cho mã hóa dữ kiện, cần phân tích chi tiết hơn các thông tin về tính chất hàng hóa và các kỳ hạn giao dịch, các chứng từ đi kèm như hóa đơn thương mại và tờ khai trị giá tính thuế hàng nhập khẩu. - Hợp đồng thương mại, hóa đơn thương mại Khi kiểm tra hợp đồng thương mại, hóa đơn thương mại cần kiểm tra cụ thể các nội dung chủ yếu như tên hàng, số lượng, điều kiện giá cả, phương thức thanh toán, địa điểm và điều kiện giao nhận hàng.v.v. Tất cả những nội dung đó sẽ có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc xác định trị giá, do vậy, sự không thống nhất hoặc có dấu hiệu bất thường đều là một trong những căn cứ để xem xét trong quá trình kiểm tra - Vận tải đơn (còn gọi là vận đơn). Khi kiểm tra vận tải đơn sẽ giúp chúng ta xác định được 3 vấn đề có liên quan đến kiểm tra trị giá hải quan : Xác định được cước phí vận tải (F), các chi phí liên quan đến vận tải phải cộng vào trị giá tính thuế. Tham khảo để xác định xuất xứ hàng hóa làm cơ sở cho việc thẩm tra cước phí vận tải. Tham khảo để xác định số lượng, chủng loại hàng hóa làm cơ sở cho việc thẩm định trị giá giao dịch. Do vậy, khi kiểm tra vận đơn, cần chú ý đến những tiêu chí liên quan trên vận tải đơn như: tên hãng tàu vận chuyển; cảng xuất phát/ cảng xếp hàng (liên quan đến việc xác định cước phí vận tải, phí bốc xếp hàng hóa và xuất xứ hàng hóa); cảng đến/ cảng dỡ hàng (liên quan đến việc xác định cước phí vận tải, phí xếp, dỡ hàng ) khoản điều chỉnh cộng; ngày và nơi ký phát hành vận đơn (liên quan đến việc hưởng các chính sách ưu đãi về khoản giảm giá, về thuế suất…); ký mã hiệu của lô hàng/ số hiệu container, số lượng kiện. Xác định được thực tế số lượng hàng hóa nhập khẩu; trọng lượng, cước phí vận tải… - Chứng từ bảo hiểm. Khi kiểm tra chứng từ bảo hiểm, cần tập trung vào các tiêu chí: Phí bảo hiểm: Là một bộ phận cấu thành lên trị giá tính thuế. Xác định tính hợp lý, xác thực về mặt thời gian của một số chứng từ khác như vận tải đơn thông qua xét đoán ngày phát hành chứng từ bảo hiểm. - Giấy chứng nhận xuất xứ .( C/O) Giấy C/O thể hiện xuất xứ của hàng hóa nhập khẩu và là căn cứ để xác định hàng hóa từ các nước được hưởng chế độ tối huệ quốc (MFN), thuế suất ưu đãi hoặc ưu đãi đặc biệt. Khi kiểm tra cần đối chiếu C/O với các chứng từ khác để xác định xuất xứ hàng hóa, qua đó so sánh mức giá của hàng hóa giữa các nước. - Bảng kê chi tiết hàng hóa. Bảng kê chi tiết hàng hóa không phải là một chứng từ bắt buộc mà thư tín dụng nào cũng yêu cầu nhưng nó lại ghi lại những thông tin cơ bản nhất, đầy đủ nhất về số lượng và chủng loại hàng hóa nhập khẩu. Vì vậy, khi kiểm tra sau thông quan cần quan tâm đến chứng từ này. Mọi thông tin trên tờ kê đóng gói được coi là thông tin chính thức về hàng hóa làm chuẩn để so sánh đối chiếu với thông tin hàng hóa ghi trên các chứng từ khác, thậm chí đối chiếu với phiếu nhập kho của chủ hàng. b) Kiểm tra sổ kế toán Sổ kế toán là tài liệu ghi nhận, phản ánh toàn bộ hoạt động thu chi tiền tệ của doanh nghiệp. Vì vậy, kiểm tra trị giá hải quan thông qua việc kiểm tra sổ kế toán là có căn cứ khoa học, pháp lý và thực tiễn vững chắc nhất. Mục tiêu chính của việc kiểm tra sổ sách, chứng từ kế toán là nhằm biết được thực tế hoạt động thanh toán liên quan đến hàng nhập khẩu như thanh toán riêng rẽ hay gián tiếp, giảm giá, hoa hồng, đặc quyền, phí nghiên cứu và phát triển, các chi phí về thuế khác. Sổ sách, chứng từ kế toán liệt kê mọi giao dịch kinh doanh của các đơn vị kế toán tương ứng và tạo thành hệ thống kế toán phản ánh sự hoạt động của các dòng tiền ra, vào của doanh nghiệp, như các giao dịch kinh doanh của toàn doanh nghiệp, của các phòng, ban, chi nhánh. Do vậy, sẽ thích hợp nếu đạt được sự kiểm tra toàn diện đối với toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Quy trình cơ bản của công tác lựa chọn kiểm tra sổ sách, tài liệu kế toán diễn ra theo các bước như sau: - Chọn những mục tài khoản nhất định có thể ẩn chứa các dữ liệu liên quan đến trị giá hải quan từ danh sách các mục tài khoản của bản kê tài chính hoặc từ biểu đồ các tài khoản được người bị kiểm tra xuất trình. - Kiểm tra xem liệu trong danh sách các tài khoản được chọn, tài liệu nguồn và các tài liệu có liên quan có bao gồm các yếu tố cấu thành nên trị giá hải quan hay không. - Xác định rõ các yếu tố đó, nếu có, đã bao hàm trị giá khai báo hải quan hay chưa . - Xác định rõ liệu sự khai báo sai như vậy là do cố ý hay đơn giản chỉ là sơ suất của người khai. Trong quá trình kiểm tra sổ sách, chứng từ liên quan đến công tác kế toán, cần lưu ý rằng: + Các sổ sách, hồ sơ chứng từ kế toán không cần thiết phải ghi chép lại tất cả mọi hoạt động kinh doanh và tình trạng tài chính của doanh nghiệp. + Các điểm cần đọc mà những điểm này liên quan đến nội dung số liệu và mô tả ghi lại trong sổ sách và hồ sơ chứng từ. Bất cứ một số liệu hay mô tả nào được ghi chép lại đều phải có căn cứ. Vì vậy cần xác định xem căn cứ ghi chép đó có dẫn đến gian lận hoặc sai sót trong thủ tục hải quan hay không. + Sự bất thường giữa số liệu và mô tả trong sổ sách, hồ sơ chứng từ kế toán. Cần phải kiểm tra sâu hơn các hồ sơ chứng từ đã được xử lý không nhất quán với thông lệ kế toán chung. + Cần lưu ý về các trang bị mất, hoặc ngày tháng không liên tục. Đây rất có thể là đầu mối để phát hiện ra gian lận va sai sót bằng cách lưu ý những điểm bất thường như: Một khoản cộng mang sang được ghi chép lại trong một trang của loại sổ sách và hồ sơ chứng từ kiểu tờ rời khác với khoản cộng mang sang được chép sang bút toán ở trang bên, thiếu số thứ tự trong một bộ hồ sơ hoặc thiếu trật tự ngày tháng trong một bộ tài liệu. + Cần lưu ý về các mô tả bổ sung. Lưu ý không chỉ đối với các mô tả ghi trong cột mô tả mà cả các ghi chép ngoài lề được viết bằng bút chì hay mực mầu. Các mô tả bổ sung này có thể trở thành đầu mối để phát hiện gian lận và sai sót. - Việc kiểm tra sổ kế toán như sổ cái và sổ chi tiết, các chứng từ gốc (gồm biên lai, đơn đặt hàng, hoá đơn, séc đã thanh toán, phiếu thu tiền, cuống lệnh phiếu) cũng là điều không thể thiếu đối với nghiệp vụ về kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan, vì đó là các loại hồ sơ, chứng từ mà qua công tác kiểm tra có thể " đọc" ra được mọi giao dịch kinh doanh trong doanh nghiệp đang được tiến hành kiểm tra. - Cần kiểm tra tên tài khoản liên quan trong quá trình thầm định trị giá bao gồm các tài khoản trong (phụ lục 1). Theo hệ thống ghi sổ kế toán kép, thông tin về một giao dịch bao giờ cũng được phản ánh ít nhất vào 2 tài khoản. Bên nợ của tài khoản này được đối ứng với bên có của tài khoản kia. Do vậy việc cần tìm thông tin từ một tài khoản này đến các tài khoản khác là rất quan trọng để phát hiện ra gian lận và sai sót. Về nguyên tắc, trị giá mua hàng ghi trên chứng từ thương mại, trị giá tính thuế doanh nghiệp đã khai báo hải quan và trị giá phản ánh trong bút toán kế toán phải nhất quán với nhau. Nếu phát hiện trị giá khai báo hải quan khác với trị giá ghi trong tài khoản thì phải yêu cầu doanh nghiệp giải thích, chứng minh bằng chứng từ kế toán. c) Kiểm tra chứng từ thanh toán qua ngân hàng. Việc kiểm tra chứng từ thanh toán qua ngân hàng chủ yếu là xác định xem các chứng từ thương mại mà chủ hàng xuất trình đã đủ chưa, các chứng từ đó có đúng là chứng từ thanh toán của lô hàng cần kiểm tra không. Cần nói thêm là bộ chứng từ này được ngân hàng thanh toán chấp nhận trả tiền đều đã được kiểm tra rất kỹ, nhưng mục đích và phạm vi của việc kiểm tra đó không hoàn toàn giống như việc kiểm tra chứng từ thương mại của kiểm tra sau thông quan. Nếu ngân hàng kiểm tra tính xác thực, hợp lệ của chứng từ để trả tiền, thì mục đích của kiểm tra sau thông quan là tìm ra trị giá đã chuyển thanh toán cho người xuất khẩu để thẩm định trị giá hải quan. Trong nghiệp vụ ngân hàng có sử dụng nhiều loại ấn chỉ, nhiều loại chứng từ liên quan đến việc chuyển tiền ra nước ngoài để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu, bao gồm: + Giấy đề nghị ký hậu/ bảo lãnh nhận hàng. + Điện thư tín dụng sử dụng trong phương thức tín dụng chứng từ . + Lệnh chuyển tiền của người nhập khẩu. + Điện chuyển tiền cho người hưởng không phải là ngân hàng (mẫu MT100 và MT 103). + Điện chuyển tiền của ngân hàng cho ngân hàng (MT 202). + Sổ hạch toán chi tiết của ngân hàng. + Phiếu chuyển khoản. + Bảng sao kê tài khoản. Một khoản tiền thanh toán ra nước ngoài có thể được ghi nhận ở 7 trong số 8 loại chứng từ kể trên, trừ trường hợp một khoản tiền đã chuyển theo điện chuyển tiền của ngân hàng chuyển cho người thụ hưởng thì sẽ không chuyển theo điện chuyển tiền của ngân hàng cho ngân hàng và ngược lại. Khi kiểm tra sau thông quan về trị giá, cần phân tích nhóm thông tin chủ yếu là: Thời gian phát hành chứng từ để xác định mối quan hệ tương tác về thời gian với các hồ sơ khác; địa chỉ người chuyển tiền/ người nhận tiền để nhận biết các bên tham gia giao dịch thanh toán; số tiền thực chuyển và lý do chuyển để thẩm định trị giá thực chuyển cho hàng hóa nhập khẩu, có đối chiếu với các quy định về chế độ thanh toán ghi trong hợp đồng. - Giấy đề nghị ký hậu/ bảo lãnh nhận hàng : Khi kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan cần đối soát tính nhất quán về các thông tin: Thời gian, đặc biệt đối chiếu thời điểm thanh toán L/C sau thời điểm ngân hàng ký hậu/bảo lãnh nhận hàng, thời điểm nhận hàng. Thông số về vận đơn, về trị giá và lý do thanh toán trên đơn xin ký hậu với các chứng từ thương mại khác lưu giữ tại doanh nghiệp để khẳng định tính thống nhất của loại chứng từ cũng như xác định được số tiền mà người mua chấp nhận thanh toán cho người bán. - Điện thư tín dụng sử dụng trong phương thức tín dụng chứng từ: Theo quy định của Hiệp hội viễn thông Tài chính liên ngân hàng thế giới (SWIFT), những mẫu điện được sử dụng trong phương thức tín dụng chứng từ gồm: MT 700: Thư tín dụng (L/C có nội dung dài không quá 10000 ký tự); MT 701: phần tiếp nối khi thư tín dụng có trên 10000 ký tự; MT 707: Điều chỉnh thư tín dụng; MT 730: điện xác báo đã nhận thư tín dụng của ngân hàng phát hành gửi ngân hàng đòi tiền; MT 734: điện từ chối chứng từ sai sót của ngân hàng phát hành gửi ngân hàng đòi tiền và MT 202: điện chuyển tiền thanh toán thư tín dụng. Trong các mẫu điện trên thì mẫu MT 700, MT202 là các mẫu điện bắt buộc trong mọi trường hợp thanh toán theo thư tín dụng. các mẫu điện còn lại được sử dụng tuỳ theo từng trường hợp. Khi KTSTQ về TGHQ phải phân tích xét đoán để yêu cầu doanh nghiệp xuất trình hết các mẫu điện trong phương thức này. Mọi nội dung điều chỉnh thư tín dụng được ghi nhận ở mẫu điện MT 707, khi kiểm tra L/C phải yêu cầu doanh nghiệp xuất trình mẫu MT 707, thay vì kiểm tra mẫu MT 700. Điện chuyển tiền MT 202 ghi nhận số tiền thực tế đã chuyển cho người xuất khẩu và đây là chứng từ quan trọng để kiểm tra trị giá của lô hàng. Các nội dung chính của L/C nêu ở trên là chỉ thị của người mở L/C (người nhập khẩu) mà người thụ hưởng (người xuất khẩu) có nghĩa vụ phải tuân theo vô điều kiện. Đây là cơ sở để xét đoán các chứng từ thương mại khác, những chứng từ thương mại không thoả mãn các điều kiện của L/C không phải là chứng từ của lô hàng. - Lệnh chuyển tiền (Payment order/Applicatipn for remittance) Ngoài những chứng từ cần thiết, muốn chuyển tiền ra nước ngoài thì người nhập khẩu buộc phải lập lệnh chuyển tiền. Ngân hàng chỉ lập điện chuyển tiền MT100/MT103 hoặc MT202 sau khi đã nhận được lệnh chuyển tiền/ Lệnh chi ngoại tệ của người nhập khẩu. Lệnh chuyển tiền không có mẫu thống nhất cho mọi ngân hàng, nhưng nội dung cơ bản của lệnh chuyển tiền ở các ngân hàng không có gì khác nhau. Lệnh chuyển tiền là văn bản của người nhập khẩu lập ra cho ngân hàng cắt tiền từ tài khoản của mình để chuyển trả cho nước ngoài. Khi kiểm tra sau thông quan về trị giá, cần quan tâm những thông tin sau: - Người ra lệnh chuyển tiền, người nhận lệnh chuyển tiền. Thông thường, người ra lệnh chuyển tiền là người nhập khẩu, người nhận lệnh chuyển tiền là người xuất khẩu. - Thời gian: Thời gian chuyển tiền phải phù hợp với chỉ thị của thư tín dụng hoặc hợp đồng thương mại và phải tương ứng với các thời gian ghi trên các chứng từ thương mại khác. - Số tiền thực chuyển: Nếu là chuyển tiền theo thư tín dụng thì số tiền thực chuyển phải hợp lý, và có chứng từ hợp pháp, không được vượt quá số tiền ghi trên chứng từ. - Lý do chuyển tiền: Thanh toán cho khoản chi phí nào hoặc hóa đơn nào, chuyển trả theo thư tín dụng nào phải ghi rõ. Lệnh chuyển tiền là một trong những chứng từ cơ bản để xác định trị giá hải quan. - Điện chuyển tiền cho người hưởng không phải là ngân hàng: Nghiệp vụ chuyển tiền ra nước ngoài cho người hưởng không phải là ngân hàng để thanh toán cho các Lệnh chuyển tiền (Payment order) do khách hàng lập. Ngân hàng chuyển tiền dạng này theo mẫu điện MT 100 và MT 103 Customer transfer của SWIFT. Kiểm tra các trường hợp chuyển tiền bằng điện theo Lệnh chuyển tiền (Payment order) của doanh nghiệp (Telegraphic tranfer - TTR) cần đối soát tính nhất quán về số tiền và lý do chi trả qua các kênh số liệu như: *) Lệnh chi ngoại tệ hoặc Lệnh chuyển tiền (Ordering of payment): Lệnh này có 3 thông tin chủ yếu cần quan tâm là: + Thời gian yêu cầu, số tiền và nguyên tệ yêu cầu chi. + Người thụ hưởng và ngân hàng chuyển tiền đến. + Lý do chi trả cho các hóa đơn/ hợp đồng hoặc thư tín dụng nào. - Sổ hạch toán chi tiết của ngân hàng Sổ hạch toán chi tiết của ngân hàng còn gọi là sổ phụ ngân hàng/ giấy báo số dư khách hàng. Các ngân hàng đều sử dụng sổ hạch toán chi tiết để ghi nhận số tiền thực tế đã thu chi qua ngân hàng của một doanh nghiệp. Có trường hợp sổ này được lập theo định kỳ, cũng có trường hợp được lập sau mỗi nghiệp vụ phát sinh có giá trị lớn. Khi kiểm tra sổ hạch toán chỉ cần quan tâm đến phát sinh nợ và phát sinh có để xác minh số tiền mình cần tìm. Các số liệu trong sổ hạch toán được quan hệ với nhau theo công thức sau: Dư đầu kỳ + Phát sinh có – Phát sinh nợ = Dư cuối kỳ. - Phiếu chuyển khoản Phiếu chuyển khoản là một trong những chứng từ ngân hàng ghi nhận số tiền thực tế đã thu hoặc đã chi (thanh toán tiền mua hàng nhập khẩu theo L/C). Trên thực tế, doanh nghiệp có thể huy động tiền từ nhiều tài khoản khác nhau để thanh toán cho một khoản nợ, tiền từ nước ngoài chuyển về cũng được chuyển sang ít nhất là 2 tài khoản là tài khoản tiền gửi và tài khoản tạm giữ. Vì vậy, để tránh nhầm lẫn phiếu chuyển khoản cần được kiểm tra đối chiếu kết hợp với các chứng từ khác. Phiếu chuyển khoản được coi là một trong những bằng chứng có giá trị để kiểm tra sau thông quan về trị giá nhằm thẩm định số tiền thực tế nhà nhập khẩu đã chuyển trả cho nhà xuất khẩu. - Bảng sao kê tài khoản (Account Statement) Bảng sao kê tài khoản được dùng ở các ngân hàng, thực chất là nhật ký thu chi qua ngân hàng của doanh nghiệp được ghi chép liên tục trong một khoảng thời gian nhất định. Lực lượng kiểm tra sau thông quan thường yêu cầu ngân hàng cung cấp bảng sao kê tài khoản trong một khoảng thời gian nhất định nào đó (thường là 15 hoặc 30 ngày trước và sau thời điểm điện chuyển tiền MT 100 hoặc MT 202). Khi kiểm tra các nghiệp vụ thu chi trên bảng sao kê tài khoản cũng như các loại chứng từ và sổ ngân hàng, cần chú ý các dữ kiện về thời gian, số hiệu chứng từ, nội dung thu chi. Chỉ doanh nghiệp nào có tài khoản thường xuyên ở ngân hàng mới có bản sao kê tài khoản. Khi kiểm tra bản sao kê tài khoản phải trực tiếp yêu cầu ngân hàng sao kê cho mình. Chủ yếu kiểm tra cột ghi Nợ (Debit) tức là cột ghi số tiền đã chuyển trả cho người bán. Khi phân tích đối soát và tập hợp chứng từ ghi nhận các khoản tiền chuyển trả cho người xuất khẩu tại cột Debit, cần chú ý các khoản chuyển tiền theo điện MT 100 hoặc MT 103 trả cho các đại lý của nước ngoài hoặc chuyển ra nước ngoài mà chủ hàng không giải thích được nội dung kinh tế. Trên thực tế, đã có không ít trường hợp doanh nghiệp chuyển 60% số tiền hàng theo điện MT 202, số còn lại 40% (trốn thuế) chuyển theo điện MT 100/ MT 103. Nghiệp vụ xét đoán tính xác thực hợp lý của các khoản thu chi sẽ được đối soát các thông tin tiền tệ trên 4 kênh số liệu sau: - Các chứng từ thương mại, hối phiếu do người xuất khẩu lập. - Tiền ghi trên các chứng từ do doanh nghiệp phát hành như: Ủy nhiệm chi, lệnh chuyển tiền, yêu cầu mở thư tín dụng, thư tín dụng, yêu cầu bảo lãnh/ ký hậu vận đơn,… - Tiền ghi trên sổ hạch toán chi tiết, giấy báo nợ, giấy báo có, phiếu chuyển khoản, điện chuyển tiền,… của ngân hàng. - Kiểm tra trị giá hải quan do doanh nghiệp khai báo. Nếu các kênh số liệu trên không trùng khớp với nhau, nhất là khi số tiền chuyển trả nhiều hơn hoặc ít hơn trị giá khai báo hải quan thì phải yêu cầu doanh nghiệp giải thích. Trường hợp xét thấy cần thiết, nghi vấn doanh nghiệp thanh toán một phần qua thư tín dụng, một phần chuyển qua MT100 để trốn thuế thì yêu cầu ngân hàng in riêng cho một bảng kê trong đó ghi hết số tiền đã chuyển ra nước ngoài của doanh nghiệp trong một khoảng thời gian nào đó. Để xác định khoảng thời gian phải in, cần xem xét kỹ các hồ sơ có liên quan như: Hợp đồng thương mại, thư tín dụng, thời điểm giao hàng, thời điểm thanh toán, điều kiện thanh toán,… Chú ý: - Trong thực tế, một doanh nghiệp có thể mở tài khoản ở nhiều ngân hàng. Vì vậy, khi kiểm tra sau thông quan cần yêu cầu doanh nghiệp khai báo rõ các ngân hàng mà doanh nghiệp có quan hệ giao dịch mở tài khoản. - Cũng chú ý rằng số tiền ghi trên thư tín dụng và các chứng từ thương mại là số tiền có thể chuyển (Tranferrable sum), số tiền ghi trên các chứng từ của ngân hàng là số tiền thực tế ngân hàng đã chuyển. Nhưng khi kiểm tra sau thông quan để thẩm định giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán cho hàng hóa nhập khẩu thì ba khoản tiền này không phải lúc nào cũng đồng nhất với nhau và để tìm ra số tiền thực tế đã trả hay sẽ phải trả cho hàng hóa nhập khẩu thì không thể dừng lại ở hồ sơ hải quan, hồ sơ thanh toán qua ngân hàng mà phải kiểm tra kết hợp với hồ sơ kế toán của doanh nghiệp. 2.2.5. Quy trình kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan Quy trình kiểm tra sau thông quan là những quy định mang tính hướng dẫn của ngành hải quan về nghiệp vụ KTSTQ được ban hành bởi Tổng Cục Hải quan. Có thể nói quy trình kiểm tra sau thông quan như là cẩm nang về nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan, quy trình này thường xuyên được đánh giá và hoàn thiện nhằm đáp ứng các yêu cầu mà ngành Hải quan đặt ra cho nghiệp vụ KTSTQ. Kết quả của cuộc KTSTQ được coi là nhanh hay chậm, là chính xác hay không chính xác, phần lớn tùy thuộc vào chuẩn đầu vào của quy trình, các bước công việc được thực hiện trong quy trình KTSTQ. Xuất phát từ khái niệm về quy trình, khái niệm về kiểm tra sau thông quan có thể hiểu khái niệm quy trình kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan như sau: Quy trình KTSTQ về TGHQ là trình tự các bước công việc mà công chức hải quan phải thực hiện để thực hiện nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan theo quy định của pháp luật hải quan. Hay nói một cách khác, quy trình KTSTQ về TGHQ là trình tự các thao tác nghiệp vụ mà công chức hải quan phải thực hiện để tiến hành KTSTQ về TGHQ theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nội dung của quy trình KTSTQ là phần cốt lõi của quy trình, nội dung này được thể hiện cụ thể như sau: Một là, Xác định trình tự các bước công việc (các khâu) mà công chức hải quan phải thực hiện khi tiến hành nghiệp vụ KTSTQ. Hai là, Xác định trách nhiệm cụ thể cho từng cán bộ, công chức hải quan ở từng bước, từng khâu khi thực hiện nghiệp vụ KTSTQ. Ba là, Hướng dẫn các thao tác nghiệp vụ cho công chức hải quan ở từng bước, từng khâu công việc cụ thể trong quá trình KTSTQ . Quy trình nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu gồm ba quy trình tiếp nối nhau: Quy trình thu thập, xử lý thông tin; Quy trình kiểm tra sau thông quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; Quy trình lập hồ sơ và ban hành quyết định hành chính trong việc kiểm tra sau thông quan. Mỗi quy trình cụ thể là một phần không thể tách rời trong quy trình nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan. Quy trình nghiệp vụ KTSTQ được áp dụng chung cho tất cả các lĩnh vực, các đối tượng, các nội dung về kiểm tra sau thông quan như; KTSTQ về TGHQ, KTSTQ về mã số hàng hóa, KTSTQ về thuế suất thuế nhập khẩu, KTSTQ về sản xuất hàng xuất khẩu, KTSTQ về xuất xứ hàng hóa, KTSTQ về ưu đãi đầu tư, KTSTQ về thực hiện chính sách mặt hàng…Nhưng trong đề tài luận án này chỉ đi sâu phân tích quy trình KTSTQ về TGHQ. Trước hết, nội dung của từng giai đoạn trong quy trình kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Giai đoạn thu thập và xử lý thông tin. Thu thập, phân tích xử lý thông tin là hoạt động thường xuyên của nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan, dựa trên việc áp dụng quản lý rủi ro và ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ hoạt động kiểm tra sau thông quan. Mục đích của thu thập, phân tích xử lý thông tin là đảm bảo thống nhất trong việc thực hiện TTXLTT phục vụ hoạt động KTSTQ về TGHQ nhằm phân loại hồ sơ, doanh nghiệp xuất nhập khẩu để lập kế hoạch, xác định được đối tượng KTSTQ về TGHQ hoặc phân loại doanh nghiệp vào diện theo dõi, chưa kiểm tra. Công chức hải quan phải thực hiện thu thập, khai thác thông tin làm cơ sở cho việc phân tích, xác định dấu hiệu rủi ro trên cơ sở các thông tin, hồ sơ từ trong và ngoài ngành Hải quan như từ hệ thống xử lý dữ liệu điện tử , thông tin từ các khâu nghiệp vụ hải quan và từ kết quả của các cuộc kiểm tra sau thông quan; từ phía các Bộ, ngành, cơ quan, đơn vị như Thuế, Công an, Kho Bạc, Ngân Hàng, các hiệp hội ngành nghề; từ các doanh nghiệp cung cấp..v.. để phân loại hồ sơ theo ba mức: hồ sơ có rủi ro cao; hồ sơ cần theo dõi để tiếp tục đánh giá rủi ro và hồ sơ chưa có thông tin. Công chức hải quan cũng phải tiến hành các phân tích thông tin trong hồ sơ để đưa vào đối tượng KTSTQ về TGHQ bằng việc so sánh, đối chiếu các thông tin, dữ liệu liên quan đến mức giá, các chi phí phát sinh, các khả năng phát sinh các khoản phải cộng vào mà doanh nghiệp khai báo, tập trung vào các trường hợp nghi ngờ chưa được đánh dấu, nghi ngờ thực hiện kiểm tra, tham vấn giá trong thông quan.. Giai đoạn kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Mục đích của những quy định trong giai đoạn này là quy định trình tự, thủ tục, các bước tiến hành kiểm tra sau thông quan đối với hồ sơ, hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đã được thông quan, từ khi xác định đối tượng kiểm tra, đến khi vụ việc giải quyết xong. Quy trình được áp dụng đối với hoạt động kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan, gồm hai bước nối tiếp nhau: kiểm tra tại trụ sở cơ quan Hải quan, kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp Kiểm tra sau thông quan tại trụ sở hải quan được thực hiện theo kế hoạch đã xác định cho từng khâu công việc, của từng đơn vị hoặc khi có thông tin, dấu hiệu vi phạm pháp luật hải quan, pháp luật về thuế liên quan đến hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Kiểm tra sau thông quan tại trụ sở cơ quan hải quan được thực hiện thông qua công việc cụ thể sau: - Xác định đối tượng và phạm vi kiểm tra. - Căn cứ vào kết quả thu thập, phân tích thông tin về đối tượng kiểm tra để thực hiện kiểm tra về hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và trị giá khai báo của doanh nghiệp.Trong quá trình kiểm tra, cán bộ hải quan có thể sử dụng nghiệp vụ tham vấn nhằm yêu cầu doanh nghiệp giải thích những nghi ngờ về trị giá và đưa ra những bằng chứng để chứng minh rằng trị giá khai báo là tổng số tiền thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán cho hàng hóa nhập khẩu. - Xử lý kết quả kiểm tra. Kết thúc kiểm tra tại trụ sở cơ quan hải quan, nhân viên hải quan phải có trách nhiệm báo cáo nội dung, kết quả của cuộc kiểm tra lên người đã ký quyết định kiểm tra. Kiểm tra sau thông quan tại doanh nghiệp được tiến hành trong những trường hợp : kiểm tra theo kế hoạch, kiểm tra chọn mẫu, kiểm tra khi có dấu hiệu doanh nghiệp vi phạm pháp luật về thuế, pháp luật về hải quan. Ngoài ra còn có trường hợp chuyển tiếp từ kiểm tra sau thông quan tại trụ sở hải quan. Tức là, sau khi kết thúc kiểm tra sau thông quan tại trụ sở hải quan mà cơ quan hải quan vẫn có lý do để nghi ngờ trị giá khai báo, cần phải tiến hành kiểm tra sâu hồ sơ hải quan, sổ kế toán và chứng từ thanh toán của doanh nghiệp nhằm khẳng định trị giá thực tế thanh toán thì sẽ tiếp tục kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp. Kiểm tra sau thông quan tại trụ sở doanh nghiệp được thực hiện thông qua các công việc cụ thể sau: - Xác định đối tượng, phạm vi kiểm tra tại doanh nghiệp. - Chuẩn bị kiểm tra và ban hành quyết định kiểm tra: Đây là bước khảo sát để xây dựng kế hoạch, dự kiến công việc để kiểm tra chi tiết tại doanh nghiệp. - Thực hiện kiểm tra. Trong quá trình kiểm tra tại doanh nghiệp, công chức hải quan cần kiểm tra làm rõ các thông tin chi tiết về trị giá thông qua các chứng từ, sổ kế toáncủa doanh nghiệp. Nghiên cứu, kiểm tra kỹ hồ sơ nhập khẩu, cần lưu ý những đặc điểm trong khai báo trị giá hải quan. - Báo cáo kết quả kiểm tra, đề xuất xử lý. Sau khi kiểm tra hồ sơ hải quan, sổ kế toán, chứng từ thanh toán, nếu có đầy đủ chứng cứ để kết luận vấn đề thì thực hiện việc báo cáo với trưởng đoàn thanh tra để ban hành các quyết định hành chính theo quy định, và thực hiện lập hồ sơ lưu trữ. c) Giai đoạn lập hồ sơ và ban hành quyết định hành chính trong việc kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Việc lập hồ sơ lưu trữ và ban hành các quyết định hành chính được thực hiện thống nhất và tuân theo các quy định của pháp luật, các biên bản được ban hành thể hiện rõ được trách nhiệm của từng người, từng khâu công việc trong quá trình tham gia vụ việc KTSTQ về TGHQ. Các hồ sơ trong quá trình kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan tại trụ sở cơ quan hải quan được lập như : Phiếu đề xuất Bản giải trình của doanh nghiệp Tài liệu xác minh Biên bản làm việc giữa nhóm kiểm tra và đại diện doanh nghiệp Bản kết luận kiểm tra sau thông quan tại trụ sở cơ quan hải quan. Các hồ sơ trong quá trình kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan tại trụ sở doanh nghiệp được lập như : + Biên bản làm việc giữa đoàn kiểm tra với giám đốc hoặc người được giám đốc ủy quyền của doanh nghiệp được kiểm tra để công bố quyết định kiểm tra sau thông quan. + Biên bản làm việc của thành viên/nhóm thành viên đoàn kiểm tra với đại diện doanh nghiệp + Báo cáo kết quả kiểm tra hàng ngày của thành viên/nhóm thành viên với Trưởng đoàn kiểm tra + Biên bản làm việc giữa trưởng đoàn kiểm tra với đại diện có thẩm quyền của doanh nghiệp + Bản giải trình của doanh nghiệp + Tài liệu xác minh trong quá trình kiểm tra + Bản kết luận kiểm tra sau thông quan tại trụ sở doanh nghiệp + Biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan Các quyết định hành chính được ban hành trong quá trình kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan như : Quyết định ấn định thuế Quyết định xử phạt vi phạm hành chính Tóm lại, ban hành quy trình KTSTQ nói chung và KTSTQ về TGHQ nói riêng là quy định những công việc phải làm và trình tự trước sau của những công việc ấy, nhằm đảm bảo tính đầy đủ, lôgic, chặt chẽ của công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Tuy nhiên, cũng có những công việc mà nếu không quy định thì nó vẫn phải diễn ra theo đúng trình tự ấy bởi sự gắn kết với nhau một cách tự nhiên và khách quan giữa các khâu công việc, vì kết quả của khâu trước luôn là tiền đề cho công việc ở khâu tiếp sau và công việc ở khâu tiếp sau phải dựa vào kết quả của công việc ở khâu trước.Ví dụ như chỉ sau khi xác định được đối tượng kiểm tra sau thông quan là trị giá hải quan thì mới tiến hành việc kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Việc KTSTQ về TGHQ cũng phải dựa vào các thông tin, dữ liệu đã có ở khâu lựa chọn đối tượng kiểm tra sau thông quan. Cũng như vậy, chỉ sau khi đã làm xong công việc KTSTQ về TGHQ thì mới lập các quyết định hành chính về KTSTQ về TGHQ như báo cáo kết quả KTSTQ về TGHQ, kết luận KTSTQ về TGHQ, lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan... Ở khâu công việc lập hồ sơ và ban hành các quyết định này đương nhiên cũng phải căn cứ vào kết quả công việc ở khâu KTSTQ về TGHQ. Như vậy, vấn đề quan trọng là nội dung và cách làm trong từng khâu công việc có được quy định và hướng dẫn chi tiết mang tính tiêu chuẩn hóa thì mới nâng cao được chất lượng của KTSTQ nói chung, KTSTQ về TGHQ nói riêng. Cũng có thể thấy, không riêng gì lĩnh vực hải quan mà với các lĩnh vực công tác khác như thanh tra, kiểm tra thuế, chứng khoán, kho bạc, dự trữ...cũng có tình hình tương tự. Trong những lĩnh vực công tác này cũng đã ban hành đầy đủ về quy trình thanh tra, kiểm tra khá cụ thể, các bộ phận chức năng cũng tuân thủ thực hiện các khâu công việc theo đúng trình tự của quy trình, nhưng kết quả đạt được vẫn rất thấp vì nội dung và cách làm trong từng khâu công việc đã làm chưa đúng, chưa đủ nên kết quả không cao.Ví dụ, thanh tra thuế nhưng không có dữ liệu về doanh nghiệp, không có ngân hàng dữ liệu về thông tin của cơ quan thuế để đối chiếu, so sánh, tham khảo nên không thực hiện được yêu cầu về quản lý rủi ro và cuối cùng phải chấp nhận theo khai báo của doanh nghiệp. Ngược lại trong một số lĩnh vực như kế toán, kiểm toán, ngoài việc quy định về các quy trình thủ tục khá chặt chẽ còn có quy định và hướng dẫn chi tiết về nội dung và cách làm mang tính chuẩn mực cho từng công việc cụ thể như thế nào là giá gốc, thế nào là tài sản, doanh thu, chi phí...cách ghi nhận tài sản theo giá gốc, cách ghi nhận doanh thu, chi phí... để bảo đảm cho việc thực hiện có căn cứ, đầy đủ và thống nhất. Công tác kế toán, kiểm toán được thực hiện theo những chuẩn mực quy định chung chẳng những giúp cho việc thực hiện thống nhất trong các doanh nghiệp mà còn giúp các ngành liên quan (như thanh tra, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm...) có căn cứ để giám sát, kiểm tra, kiểm soát hoạt động kế toán, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, qua đó có thể hiểu và xác định được mức độ tin cậy vào các báo cáo kết quả công tác kế toán của doanh nghiệp. 2.3 Sự cần thiết khách quan của kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan 2.3.1 Gian lận trị giá hải quan và các hình thức gian lận qua trị giá hải quan. 2.3.1.1 Gian lận trị giá hải quan và động cơ gian lận trị giá hải quan. Gian lận thương mại trong lĩnh vực hải quan là hành vi gian lận nhằm trốn tránh việc kiểm soát của cơ quan hải quan để lẩn trốn hoặc làm giảm thấp các khoản thuế và các khoản thu khác phải nộp cho Nhà nước. Việc xác định khái niệm gian lận thương mại trong lĩnh vực hải quan đã được hội đồng hợp tác Hải quan quốc tế, nay là tổ chức Hải quan quốc tế (WCO) thảo luận nhiều lần. Để phù hợp với xu thế toàn cầu hóa, thương mại quốc tế, tại hội nghị quốc tế lần thứ 5 về chống gian lận thương mại trong lĩnh vực hải quan do WCO triệu tập tại Brussels, Bỉ ngày 9/10/1995 đã thống nhất đưa ra một định nghĩa như sau: "Gian lận thương mại trong lĩnh vực hải quan là hành vi vi phạm các điều khoản pháp qui hoặc pháp luật hải quan nhằm trốn tránh hoặc cố ý trốn tránh nộp thuế hải quan, phí và các khoản thu khác đối với việc di chuyển hàng hóa thương mại hoặc nhận và có ý định nhận việc hoàn trả trợ cấp hoặc phụ cấp cho hàng hóa không thuộc đối tượng đó hoặc đạt được hoặc cố ý đạt được lợi thế thương mại bất hợp pháp gây hại cho các nguyên tắc và tập tục cạnh tranh thương mại chân chính". Hội nghị Quốc tế lần thứ 5 về chống gian lận thương mại do WCO cũng đưa ra nhiều hình thức về gian lận thương mại như: gian lận thương mại qua xuất xứ hàng hóa, gian lận thương mại qua xác định mã số HS, gian lận thương mại qua số lượng, trọng lượng hàng hóa, gian lận thương mại qua trị giá…Trong số các hình thức gian lận thương mại trong lĩnh vực hải quan, gian lận thương mại qua trị giá hải quan được đánh giá là một điểm yếu của hệ thống quản lý hải quan ở các nước đang phát triển. Gian lận thương mại qua trị giá hải quan là việc doanh nghiệp khai báo không chính xác giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán của hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu để được hưởng những lợi ích không chính đáng. Cũng như mọi hành vi gian lận hay hành vi vi phạm pháp luật, mỗi hành vi đều có một động cơ hay nhiều động cơ khác nhau. Xét theo góc độ quản lý của hải quan thì động cơ chủ yếu thúc đẩy các hành vi gian lận qua trị giá hải quan là chủ hàng muốn thu lợi riêng cho bản thân mình, không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước như: - Trốn tránh các khoản thuế và lệ phí phải nộp. - Nhập những mặt hàng đang bị cấm hoặc hạn chế nhập - Kê khai sai nguồn gốc xuất xứ để kiếm lời hay trốn tránh các chương trình thương mại đặc biệt. - Để tiếp tục duy trì cạnh tranh hoặc để chiếm lĩnh thị trường nói riêng có sức cạnh tranh quyết liệt. Như vậy: Gian lận thương mại qua trị giá hải quan là hành vi gian lận các luồng sản phẩm xuất khẩu, nhập khẩu bằng cách khai không chính xác trị giá giao dịch, cao hơn hoặc thấp hơn so với giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán, để trốn tránh sự quản lý, kiểm soát của nhà nước nhằm hưởng lợi từ những hành vi gian lận đó. Nhận rõ nội dung gian lận trị giá hải quan và động cơ gian lận trị giá hải quan sẽ giúp cho việc phòng ngừa và chống gian lận trị giá hải quan đạt kết quả cao hơn. 2.3.1.2 .Các hình thức gian lận thương mại qua trị giá hải quan Các hình thức phổ biến về gian lận thương mại qua trị giá hải quan như: - Khai báo trị giá hải quan thấp hơn so với giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán. - Khai báo trị giá hải quan cao hơn so với giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán. - Khai báo sai trên hóa đơn gây ảnh hưởng đến trị giá hải quan. * Khai báo trị giá Hải quan thấp hơn so với giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán Khai báo trị giá hải quan thấp hơn so với giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán là hình thức gian lận phổ biến nhất, hành vi này có thể thực hiện vì một trong nhiều lý do như: + Để giảm số thuế phải nộp trong những trường hợp thuế và thuế suất được xác định theo trị giá hàng hóa. Đối với các nước áp dụng hệ thống tính thuế theo giá thì hình thức gian lận này là phổ biến nhất vì khi thuế và thuế suất phụ thuộc vào trị giá hàng hóa thì số thuế phải nộp sẽ ít hơn khi người nộp thuế khai báo trị giá thấp hơn thực tế. + Trong những trường hợp có sự phân biệt giữa nhập khẩu chính thức và nhập khẩu không chính thức. Hình thức gian lận này xảy ra khi các nước có sự phân biệt giữa nhập khẩu chính thức và nhập khẩu không chính thức dựa trên giá trị hay mục đích sử dụng và gian lận có thể xảy ra khi lô hàng nhập khẩu có nghi vấn được chuẩn bị để đáp ứng các tiêu chí để được coi là lô hàng không chính thức. Vì như thế, có khả năng tránh được sự kiểm soát và phát hiện của cơ quan Hải quan. + Trong trường hợp để vi phạm các hạn ngạch. Trong trường hợp có hạn ngạch hoặc đối với số lượng tuyệt đối của hàng hóa được phép nhập khẩu hoặc khi thuế suất bị ảnh hưởng bởi số lượng hàng hóa nhập khẩu (thuế lũy tiến theo trị giá nhập khẩu) sẽ tạo nguy cơ gian lận. Điều này là hoàn toàn đúng khi trị giá hàng hóa được sử dụng để xác định hạn ngạch. Việc khai thấp trị giá sẽ có lợi về hạn ngạch hoặc tránh được hạn ngạch. + Trong một số trường hợp, có thể được hưởng mức thuế suất thuận lợi hơn khi việc phân loại và thuế suất có thể phụ thuộc vào trị giá hàng hóa. Các phương thức gian lận có thể xảy ra khi khai báo trị giá hải quan thấp hơn so với giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán điển hình như: (i) Lập hóa đơn kép: Người xuất khẩu sẽ lập hai hóa đơn, trong đó hóa đơn ghi trị giá thấp sẽ xuất trình cho cơ quan Hải quan, hóa đơn ghi trị giá cao được nhà nhập khẩu giữ lại làm chứng từ thanh toán. (ii) Lập hóa đơn giả: Sử dụng hóa đơn không đúng, hóa đơn này ghi số lượng và/hoặc trị giá thấp hơn thực tế (iii) Thanh toán từng phần: Trong đó hóa đơn không thể hiện các khoản đã thanh toán trước đó hoặc các khoản thanh toán khác như khoản thanh toán cho người thứ ba theo yêu cầu của người bán vào tổng trị giá mà chỉ ghi số tiền còn lại lần cuối phải thanh toán. Phương thức này thường được sử dụng khi hàng hóa được đặt cọc trước một khoản tiền, hoặc một phần nguyên liệu được cung cấp từ người thứ ba. (iv) Không tính hoặc không khai báo trị giá các khoản trợ giúp, phí bản quyền, phí giấy phép là rất phổ biến. Theo quy định, doanh nghiệp phải có trách nhiệm khai báo những chi phí này trong khi làm thủ tục Hải quan, nhưng lợi dụng việc phát hiện ra những chi phí này thường rất khó khăn nên doanh nghiệp thường không khai hoặc có khai báo thì cũng thấp hơn thực tế phải thanh toán. (v) Không khai báo chi phí hoa hồng bán hàng hoặc doanh nghiệp khai hoa hồng bán hàng thành hoa hồng mua hàng, vì hoa hồng mua hàng không phải điều chỉnh cộng vào trị giá tính thuế. (vi) Không khai hoặc khai thấp chi phí vận tải, bốc hàng, dỡ hàng, chuyển hàng liên quan đến việc vận chuyển hàng nhập khẩu. Doanh nghiệp thường khai thành chi phí vận chuyển nội địa phát sinh sau khi nhập khẩu. (vii) Không khai báo về mối quan hệ đặc biệt hoặc có khai thì doanh nghiệp cũng cố gắng chứng minh rằng mối quan hệ đặc biệt không ảnh hưởng đến việc xác định trị giá hàng hóa. (viii) Nếu xác định trị giá hải quan theo phương pháp trị giá tính toán thì doanh nghiệp cũng sẽ cung cấp sai lệch số liệu về chi phí sản xuất lấy từ nhà sản xuất mặt hàng đó. Vì thường thì cơ quan Hải quan ít có điều kiện xác minh số liệu của nhà sản xuất. (ix) Mô tả sai hàng hóa ghi trên hóa đơn, nghĩa là người nhập khẩu có thể chứng minh giá thấp của hàng hóa có chất lượng A bằng cách khai báo trên hóa đơn là hàng hóa đó có chất lượng B. Hoặc khai báo hàng hóa hoàn chỉnh thành các dạng linh kiện rời, không đồng bộ. * Khai báo trị giá hải quan cao hơn so với giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán. Đa số các trường hợp khai báo trị giá sai là khai thấp hơn so với giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán, tuy nhiên cũng có khả năng khai báo giá cao hơn so với thực tế, trong những trường hợp sau: + Khi giao dịch liên quan đến giá chuyển nhượng và khi thuế nội địa mà các công ty, tập đoàn phải nộp theo lợi nhuận cao hơn thuế nộp theo lợi nhuận ở nước xuất khẩu thì trị giá hải quan được khai tăng một cách giả tạo để giảm số thuế nội địa phải nộp ở nước nhập khẩu. Do đó trong các trường hợp giá chuyển nhượng giữa các công ty có quan hệ đặc biệt với nhau thì trị giá hải quan được khai tăng một cách giả tạo để giảm số thuế nội địa phải nộp (hoạt động chuyển giá). + Khi hàng hóa có thuế suất thấp thì trị giá được khai báo cao hơn thực tế, và đối với hàng có thuế suất cao thì trị giá được khai báo thấp hơn thực tế. Nghĩa là trong một lô hàng nhập khẩu có nhiều loại hàng hóa khác nhau và có mức thuế suất khác nhau, người nhập khẩu sẽ khai báo trị giá cao hơn thực tế đối với mặt hàng có thuế suất thấp, người bán hàng vẫn nhận đủ tổng số tiền bán hàng nhưng khi nộp thuế thì người nhập khẩu sẽ phải nộp ít thuế hơn (chủ yếu là thuế gián thu). + Doanh nghiệp khai tăng trị giá để tăng phần góp vốn đầu tư, có lợi cho bên đầu tư nước ngoài, gây thiệt hại cho bên nhận đầu tư. + Khai trị giá cao hơn để tránh các hạn ngạch, thay vì khai thấp trị giá trong trường hợp khi có các giới hạn về hạn ngạch. + Cố ý ngăn cản hay né tránh điều tra để tránh áp dụng thuế chống phá giá hay thuế phụ thu. Vì trong một số trường hợp, việc khai giá thấp có thể gây nghi ngờ và có thể dẫn đến hoạt động điều tra, và đôi khi kết quả các các cuộc điều tra này sẽ dẫn đến các khoản thuế phải nộp lớn hơn. + Trong những trường hợp phân loại và thuế suất phụ thuộc vào trị giá hàng hóa. Trị giá càng cao, thuế suất càng thấp. Do vậy, khai trị giá cao hơn thực tế để tận dụng lợi thế về thuế suất, điều này vẫn đúng vì “thiệt thòi” do khai trị giá thấp hơn “lợi ích” thu được do thuế suất thấp và kết quả cuối cùng là số thuế phải nộp vẫn thấp hơn luật định. Các hình thức gian lận có thể xảy ra khi khai báo trị giá hải quan cao hơn so với giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán điển hình như: (i) Lập hóa đơn kép: Người xuất khẩu sẽ lập hai hóa đơn, trong đó hóa đơn ghi trị giá cao sẽ xuất trình cho cơ quan Hải quan, hóa đơn ghi trị giá thấp được nhà nhập khẩu giữ lại làm chứng từ thanh toán. (ii) Lập hóa đơn giả: Sử dụng hóa đơn không đúng, hóa đơn này ghi số lượng và/hoặc trị giá cao hơn thực tế (iii) Có thể khai báo trị giá các khoản trợ giúp, phí bản quyền, phí giấy phép, chi phí hoa hồng bán ..vv không đúng với thực tế với mục đích làm tăng trị giá giao dịch. (iv) Khai tăng giá trị của linh kiện phụ tùng đầu vào bằng hoặc cao hơn giá trị của sản phẩm hoàn chỉnh nhập khẩu kinh doanh hoặc nhập khẩu bộ linh kiện không đồng bộ, thiếu một vài chi tiết, gây khó khăn cho cơ quan hải quan trong việc xác định trị giá tính thuế (vi) Lợi dụng quy định về hàng khuyến mại, hàng bảo hành để gian lận thuế để khai tăng trị giá tính thuế để có lợi trong những những trường hợp chuyển giá.v.v (vii) Nếu xác định trị giá theo phương pháp trị giá tính toán thì doanh nghiệp cũng sẽ cung cấp sai lệch số liệu về chi phí sản xuất lấy từ nhà sản xuất mặt hàng đó. Vì cơ quan Hải quan không có điều kiện xác minh số liệu của nhà sản xuất. (viii) Mô tả sai hàng hóa ghi trên hóa đơn, nghĩa là người nhập khẩu có thể chứng minh giá cao của hàng hóa có chất lượng A bằng cách khai báo trên hóa đơn là hàng hóa đó có chất lượng B. * Khai báo sai trên hóa đơn gây ảnh hưởng đến trị giá hải quan. Khai báo sai trên hóa đơn có thể ảnh hưởng đến trị giá hàng hóa, ví dụ trong những trường hợp phổ biến như miêu tả hàng hóa có chất lượng A là có chất lượng B; khai báo kim loại quý là kim loại thường hoặc không chỉ rõ thương hiệu và nhãn hiệu hàng hóa. Việc khai báo sai trên hóa đơn có thể hỗ trợ cho hành vi khai báo trị giá thấp hoặc khai trị giá cao hơn thực tế. Cụ thể có các phương thức phổ biến như: + Khai sai trên hóa đơn về số lượng hay trọng lượng hàng hóa dẫn đến trị giá không đúng với thực tế. + Khai sai về mục đích sử dụng cuối cùng của hàng hóa trong trường hợp mục đích sử dụng cuối cùng quyết định thuế suất áp dụng. + Khai báo sai trị giá nhằm tránh hạn ngạch hoặc tránh thuế phụ thu, thuế chống phá giá ..để tránh nộp những loại thuế này. + Khai sai nhằm đưa một loại hàng hóa nào đó vào thị trường nước nhập khẩu trong trường hợp hàng hóa đó bị giới hạn hoặc cấm nhập. + Khai báo sai về hàng hóa để thay đổi phân loại hàng hóa và thuế suất. + Khai báo là hàng sản xuất trong nước trong trường hợp hàng hóa đó không phải chịu thuế.[57][59] 2.3.2 Vai trò của kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. 2.3.2.1 Là khâu quan trọng trong quản lý hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan là một khâu công tác hết sức quan trọng trong quản lý hải quan đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu. Nó thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với việc thông quan hàng hóa, phù hợp với yêu cầu mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế đặc biệt trong cơ chế người xuất khẩu, nhập khẩu tự tính, tự khai, tự nộp thuế thì khâu kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan là việc rất quan trọng vì: không kiểm tra coi như không quản lý; có kiểm tra mới biết xuất nhập khẩu có thực hiện và có thực hiện đúng những quy định của Nhà nước về khai báo hải quan, tuân thủ pháp luật hải quan hay không. Mặt khác, qua kiểm tra mới phát hiện những điểm quy định chưa phù hợp hoặc thực hiện chưa thật đúng về khai báo hải quan, giúp cho việc bổ sung sửa đổi những quy định và chấn chỉnh trong việc thực hiện. Cụ thể: KTSTQ về trị giá hải quan góp phần khắc phục những hạn chế của chính sách quản lý giá tính thuế, chính sách quản lý mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu, giúp cho cơ quan nhà nước xây dựng được các chính sách mặt hàng phù hợp với mức thuế suất hợp lý, đáp ứng mô hình quản lý trị giá hải quan hiện đại theo xu hướng của thế giới. 2.3.2.2. Góp phần chống thất thu thuế, hạn chế gian lận thương mại trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa. Có thể nói, kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan là công cụ hữu hiệu trong việc nâng cao khả năng quản lý của cơ quan hải quan, ngăn chặn các gian lận thương mại, đảm bảo nguồn thu thuế hải quan cho Ngân sách nhà nước. Đối với một số nước đang phát triển, nguồn thu từ thuế nhập khẩu là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống thuế quốc gia, góp một tỷ lệ không nhỏ trong ngân sách Nhà nước. Qua kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan sẽ truy thu được các khoản thuế đã thất thoát, góp phần không nhỏ trong việc chống thất thu thuế . Bên cạnh đó, kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để phát hiện gian lận về trị giá hải quan, và những lỗi vi phạm có thể xảy ra khi doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Do vậy, đẩy mạnh công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan, sẽ góp phần hạn chế được tình trạng các doanh nghiệp cố tình khai sai trị giá nhằm mục đích trốn thuế, vì thế mà gian lận qua trị giá được hạn chế dần. 2.3.2.3 Nâng cao nhận thức, ý thức tuân thủ pháp luật, bảo đảm sự công bằng bình đẳng của người kinh doanh xuất nhập khẩu trước pháp luật. Thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển. Kể từ khi Việt Nam áp dụng Hiệp định Trị giá GATT thì việc xác định trị giá tính thuế là thuộc về phía doanh nghiệp, cơ quan hải quan chỉ tiến hành kiểm tra trên cơ sở khai báo của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có quyền tự khai, tự tính và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình, tạo điều kiện minh bạch hóa chính sách, giảm thiểu thủ tục hành chính. Do đó việc kiểm tra trị giá hải quan trong quá trình thông quan cũng như quá trình sau thông quan đã quản lý được sự tuân thủ của doanh nghiệp trong khai báo, nâng cao ý thức và trách nhiệm của cộng đồng doanh nghiệp, góp phần đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh và có hiệu quả pháp luật hải quan và các văn bản pháp luật khác có liên quan. 2.3.2.4 Kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan là công cụ văn minh, hiện đại phù hợp với thông lệ quốc tế. Kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan đảm bảo hàng hóa thông quan nhanh chóng với yêu cầu của hoạt động thương mại, tạo phạm vi kiểm tra rất rộng góp phần hạn chế bỏ sót, hạn chế gian lận về trị giá thông qua việc ứng dụng có tính phối hợp và vận dụng kết quả quản lý rủi ro. Kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan yêu cầu phải tăng cường chỉ đạo, nâng cao trình độ và kiến thức cho công chức hải quan về cả chiều rộng và chiều sâu, KTSTQ về TGHQ đòi hỏi phải tích lũy cả những kinh nghiệm và ngân hàng các dữ liệu luôn được cập nhật một cách đa dạng, phong phú, đòi hỏi phải được trang bị các phương tiện hiện đại và khả năng làm việc chuyên nghiệp. Kết quả KTSTQ về TGHQ là nguồn cung cấp quan trọng những thông tin về doanh nghiệp và người khai hải quan, để xây dựng cơ sở dữ liệu về người xuất khẩu, nhập khẩu phục vụ công tác quản lý hải quan theo phương pháp kỹ thuật quản lý rủi ro..…Đó vừa là động lực vừa là mục tiêu để tiến tới hiện đại hóa công tác hải quan. 2.3.3. Yêu cầu đối với của kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan là một lĩnh vực chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan hải quan. Kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan là kiểm tra, thẩm định việc khai báo chính xác, trung thực của người khai hải quan về trị giá hàng xuất khẩu, nhập khẩu, nhằm chống gian lận thuế, gian lận thương mại; qua đó, đánh giá việc tuân thủ pháp luật về khai báo trị giá hải quan trong quá trình làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Với vai trò quan trọng như vậy, nên yêu cầu đặt ra đối với KTSTQ về TGHQ như sau: 2.3.3.1 Yêu cầu về xây dựng chuẩn mực kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Trước hết, chuẩn mực là những quy định và hướng dẫn về cách làm một công việc nào đó nhằm đảm bảo cho việc thực hiện một cách nhất quán trong toàn ngành để đạt được kết quả. Xây dựng chuẩn mực kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan cho phù hợp là yêu cầu quan trọng đối với kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Việc xây dựng hệ thống chuẩn mực KTSTQ về TGHQ thể hiện uy lực và hiệu lực KTSTQ, là thước đo chất lượng và hiệu quả hoạt động KTSTQ vừa đảm bảo tính logic, vừa tạo điều kiện thuận lợi để vừa nâng cao hiệu quả và kiểm soát được hành vi vi phạm pháp luật hải quan của người khai hải quan và người kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Thông qua đó, hạn chế được sự tùy tiện trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ xuất nhập khẩu hàng hóa. 2.3.3.2 Yêu cầu về đào tạo đội ngũ cán bộ công chức hải quan cả về đức và tài. Cán bộ làm công tác kiểm tra sau thông quan đặc biệt là những cán bộ chuyên sâu về kiểm tra trị giá hải quan phải được đào tạo một cách chuyên nghiệp và chuyên sâu.Trong đó, đặc biệt phải chú ý trang bị những kiến thức, kỹ năng về thương mại, ngân hàng, bảo hiểm , các chuyên môn nghiệp vụ về kế toán, kiểm toán, các kỹ năng về tham vấn để có thể kiểm tra một cách chính xác các thông tin khai báo của các chủ thể tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, phát hiện các gian lận , thực hiện có hiệu quả các cuộc KTSTQ về TGHQ. 2.3.3.3 Yêu cầu về xây dựng ngân hàng thông tin dữ liệu về trị giá, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ KTSTQ về TGHQ. Xây dựng ngân hàng thông tin dữ liệu về trị giá giao dịch, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ KTSTQ, đảm bảo cho việc phân tích, sàng lọc thông tin kịp thời, chính xác. Chương trình phần mềm thu thập khai thác thông tin phải dựa trên mô hình xử lý dữ kiệu tập trung, các yêu cầu cập nhật, khai thác trao đổi thông tin. Hệ thống dữ liệu phục vụ cho công tác KTSTQ về TGHQ bao gồm: Cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp; cơ sở dữ liệu chuẩn hóa về tên hàng, mã hàng; công cụ hỗ trợ công tác chiết lọc thông tin, đối chiếu, tìm kiếm dấu hiệu vi phạm để phục vụ cho công tác lưạ chọn mặt hàng, doanh nghiệp trọng tâm, trọng điểm..vv Về lâu dài, cần xây dựng cơ chế pháp lý cho việc thu thập, cập nhật, phân tích, đánh giá các thông tin từ các nguồn khác vào hệ thống, xây dựng cơ chế thẩm định giá từ các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức trung lập có chức năng thẩm định giá; Xây dựng cơ chế hợp tác, hỗ trợ cung cấp thông tin giữa Hải quan các nước làm cơ sở để so sánh, đối chiếu với trị giá khai báo. Bên cạnh đó, cần xây dựng và áp dụng hệ thống chỉ số đo lường trong hoạt động kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan để không ngừng nâng cao kỹ năng thu thập và xử lý thông tin. 2.3.3.4 Yêu cầu về phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị có liên quan trong quá trình thực hiện KTSTQ về TGHQ. Việc phối hợp chặt chẽ trong việc trao đổi thông tin gữa các đơn vị liên quan trong quá trình kiểm tra sau thông quan về TGHQ như biên phòng, chủ hàng, Hải quan các tỉnh, thành phố, Thuế, Kho bạc, Ngân hàng , Hải quan các nước, Đại sứ quán các nước..là rất cần thiết giúp cho việc xác định chính xác trị giá Hải quan trong một cuộc kiểm tra. Các cơ chế trong việc phối kết hợp chặt chẽ sẽ mang lại những hiệu quả cao trong một cuộc kiểm tra, vốn được xem là rất khó khăn . 2.4. Kinh nghiệm kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan của Hải quan một số nước trên thế giới Kiểm tra sau thông quan về TGHQ là một lĩnh vực mới, có nhiều khó khăn, đòi hỏi rất cao mà Việt Nam còn chưa có kinh nghiệm. Với việc tiếp cận công tác KTSTQ các nước để nghiên cứu, từ đó có những bài học kinh nghiệm trong công tác KTSTQ về trị giá hải quan sẽ giúp tác giả rút ra những bài học cần thiết cho sự phát triển của công tác KTSTQ về TGHQ ở Việt Nam hiện nay. Và trong quá trình lựa chọn các quốc gia để học hỏi kinh nghiệm, tác giả sẽ chú trọng hơn đến các quốc gia có điều kiện kinh tế cũng như trình độ chung của công chức hải quan ở góc độ tương đồng với Việt Nam. 2.4.1. Kinh nghiệm của Hải quan Nhật Bản Bộ phận kiểm tra sau thông quan của Hải quan Nhật Bản trực thuộc Vụ kiểm tra sau nhập khẩu và kiểm soát hải quan vùng và là bộ phận đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm tra xác định trị giá Hải quan. Ngay từ khi gia nhập Hiệp định Trị giá Hải quan GATT/WTO từ năm 1981, Nhật Bản đã tuân thủ Hiệp định một cách chặt chẽ, theo đó, trong các phương pháp xác định trị giá hải quan hàng nhập khẩu vào Nhật Bản chủ yếu xác định theo phương pháp trị giá giao dịch.[16] Công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan của Hải quan Nhật Bản có những nét đặc trưng cơ bản như: Quyền được KTSTQ về TGHQ được quy định cụ thể chi tiết: Những quyền của nhân viên Hải quan được phép tiến hành trong quá trình KTSTQ nói chung cũng như KTSTQ về TGHQ nói riêng đươc quy định trong Luật Hải quan Nhật Bản. Ví dụ: Quyền chất vấn người nhập khẩu (doanh nghiệp) ; quyền được phúc tập các sổ sách và tài liệu liên quan đến hàng hoá nhập khẩu - hoặc quyền được kiểm tra hàng hoá được quy định tại Điều 105 Luật Hải quan Nhật Bản. Hay trong trường hợp người đại diện cho doanh nghiệp kiểm tra khi bị KTSTQ có những hành vi gian lận trong khai báo, hoặc khai báo không đúng sự thật, hoặc cản trở nhân viên hải quan tiến hành nhiệm vụ, hay có bất kỳ hành động chống đối nào, sẽ bị phạt vi phạm hành chính - Điều 114 Luật Hải quan Nhật Bản. Phương pháp KTSTQ về TGHQ: Kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan của Hải quan Nhật Bản cũng dựa trên phương pháp quản lý rủi ro, tập trung vào những đối tượng có khả năng gian lận cao ví dụ như các trường hợp mà số thuế chênh lệch bị phát hiện vượt trội. Trong quá trình kiểm tra, nhân viên hải quan chỉ yêu cầu những tài liệu cần thiết, khuyến khích người nhập khẩu đưa ra bản khai chính xác để giảm bớt mức thuế bắt buộc của họ đồng thời làm giảm chi phí và tăng hiệu quả của quá trình kiểm tra. Phỏng vấn và kiểm tra chứng từ là hai kỹ năng nghiệp vụ được nhân viên Hải quan Nhật Bản sử dụng chủ yếu trong quá trình kiểm tra. Trong đó, đối tượng chính trong phỏng vấn là người nhập khẩu và những người nhận hàng nhập khẩu (người nhập khẩu thực tế) và đối tượng phụ là đại lý hải quan, đại lý kho bãi, người vận chuyển, người mua sau nhập khẩu, công ty con và những người có liên quan khác. Khi tiến hành bước kiểm tra tại doanh nghiệp, nhân viên Hải quan sẽ tập trung vào kiểm tra các chứng từ chủ yếu như tờ khai xuất khẩu, nhập khẩu, hóa đơn, chứng nhận xuất xứ…các chứng từ liên quan đến vận chuyển: vận tải đơn, hợp đồng bảo hiểm…, hợp đồng (hợp đồng mua hàng và bán hàng, hợp đồng trợ giúp kỹ thuật, hợp đồng về hoa hồng, giấy đặt hàng, tài liệu hướng dẫn gia công, báo cáo sản xuất, thư tín thương mại…); các chứng từ thanh toán (thư tín dụng, điện chuyển tiến ra nước ngoài, giấy ghi nợ/ tín dụng..) sổ kế toán (sổ kế toán tổng hợp, sổ phụ kế toán, chứng từ…) để làm rõ trị giá giao dịch của đối tượng đang được kiểm tra. Phân định rõ trách nhiệm của bộ phận kiểm tra sau thông quan và bộ phận trị giá hải quan trong lĩnh vực quản lý giá. Hải quan Nhật Bản phân định rõ trách nhiệm của bộ phận kiểm tra sau thông quan và bộ phận trị giá hải quan trong lĩnh vực quản lý giá hàng hóa. Một bên là nghiên cứu, hướng dẫn việc xác định trị giá hải quan, một bên là người trực tiếp kiểm tra kết quả xác định trị giá hải quan. Trong một số trường hợp, để có kết quả xác định trị giá hải quan cho hàng hóa trong trường hợp kiểm tra, cán bộ sẽ lấy ‎ý kiến của cán bộ trị giá ở bộ phận trong thông quan và cán bộ KTSTQ về trị giá hải quan phải‭ ‬có trách nhiệm sử dụng đúng phương pháp và xác định đúng trị‭ ‬giá hải quan của hàng hóa dựa trên căn cứ kết quả xác định của cán bộ trị giá trong khâu thông quan đã chuyển đến để‭ ‬đối chiếu với kết quả xác định của doanh nghiệp,‭ ‬từ đó đưa ra kết luận về tính chính xác của khai báo.‭ ‬Do vậy,‭ ‬nhân viên hải quan Nhật Bản rất chú trọng đến‭ ‬kiến thức,‭ ‬chuyên môn sâu trong nhiều lĩnh vực kể cả những lĩnh vực liên quan trực tiếp đến‭ ‬xác định trị giá hải quan như kế toán,‭ ‬kiểm toán,‭ ‬ngân hàng,‭ ‬bảo hiểm,‭ ‬vận tải...‭[‬16‭][‬35‭] 2.4.2 Kinh nghiệm của Hải quan Indonesia Indonesia là nước trong khối ASEAN, có điều kiện kinh tế và trình độ chung của công chức Hải quan là tương đồng với Việt Nam và là nước điều phối viên của ASEAN về chương trình KTSTQ. Kinh nghiệm của hải quan Indonesia trong KTSTQ về TGHQ cũng rất cần được nghiên cứu và học hỏi trong điều kiện của Việt Nam hiện nay. Từ thực tế của Hải quan Indonesia, có thể thấy rằng việc khai báo trị giá hải quan trong quá trình làm thủ tục hải quan một cánh trung thực chỉ thực sự có hiệu quả khi áp dụng kiểm tra sau thông quan.[67] Trong thời gian đầu chuyển đổi sang thực hiện Hiệp định GATT/WTO, đã làm cho trị giá hải quan được khai báo tại Indonesia giảm xuống và tổng số thuế cũng bị giảm xuống so với trước, nhưng kể từ khi KTSTQ được áp dụng, trị giá khai báo của doanh nghiệp cũng như số thu thuế tăng dần lên và điều quan trọng là Indonesia có thể quản lý, chống gian lận khi thực hiện Hiệp định trị giá GATT thông qua KTSTQ về TGHQ. Có những thành công như vậy có thể thấy những đặc trưng cơ bản của Hải quan Indonesia như: - Sử dụng sách hướng dẫn về trị giá hải quan và kiểm tra sau thông quan: Hải quan Indonesia có vai trò điều phối trong lĩnh vực KTSTQ và xác định trị giá hải quan. Hải quan Indonesia đã hoàn thành sách hướng dẫn về KTSTQ có tính chuẩn mực chung trong KTSTQ. Trong đó có rất nhiều nội dung đã được hải quan các nước ASEAN áp dụng trên thực tế. Đến nay đã có nhiều công chức hải quan của các nước thành viên được đào tạo về KTSTQ theo chương trình này. Đối với việc xác định trị giá hải quan của hải quan ASEAN cũng đã được hải quan các nước sử dụng. Đây là những tiến bộ đáng kể trong quá trình hợp tác của hải quan khu vực thời gian qua. - Xây dựng cơ sở dữ liệu giá phục vụ KTSTQ: Cơ sở dữ liệu về trị giá hải quan tập trung tại Tổng cục Hải quan Indonesia (cấp trung ương). Tại Tổng cục Hải quan có Cục Kỹ thuật hải quan, trong đó có Phân cục trị giá hải quan. Tại Phân cục trị giá hải quan có một Phòng (được tin học hoá) chịu trách nhiệm thu thập thông tin về trị giá hải quan. Thông tin được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, chẳng hạn từ 4 tuỳ viên hải quan Indonesia ở nước ngoài tại Nhật Bản, Bỉ, Singapore, Hồng Kông; thu thập từ Internet; kiểm tra giá của hàng hoá trên thị trường quốc tế; trị giá giao dịch ở cửa khẩu cũng được truyền về Tổng cục Hải quan… Sau đó, tiến hành xử lý thông tin đó để đưa vào cơ sở dữ liệu.[16][67] 2.4.3. Kinh nghiệm của Hải quan Hàn Quốc Là một trong số cơ quan hải quan tiên tiến trong Tổ chức Hải quan thế giới (WCO), hải quan Hàn Quốc luôn chú trọng vào công tác cải cách quy trình quản lý nghiệp vụ hải quan. Những phương pháp KTSTQ cũng như KTSTQ về trị giá hải quan của hải quan Hàn Quốc được đánh giá rất cao, là hình mẫu cho nhiều cơ quan hải quan trên thế giới học hỏi. Trong công tác kiểm tra sau thông quan nói chung và kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan nói riêng, có thể thấy rõ các điểm nổi bật của hải quan Hàn quốc như: Sử dụng linh hoạt nhiều phương pháp kiểm tra: Hải quan Hàn Quốc kết hợp nhiều phương pháp kiểm tra trong quá trình KTSTQ như kiểm tra giao dịch, kiểm tra có kế hoạch và kiểm tra toàn diện một cách linh hoạt.. Phương pháp kiểm tra tức thì được tiến hành ngay khi hàng hóa được thông quan tập trung vào những lô hàng có dấu hiệu nghi vấn về trị giá. Nhân viên hải quan tập trung xem xét, thẩm tra lại hồ sơ, tài liệu, thẩm tra làm rõ trị giá giao dịch và thông báo cho nhóm nhân viên giao dịch về những trường hợp cần kiểm tra cũng như phương thức kiểm tra. Sau đó, nhóm nhân viên giao dịch sẽ tiến hành kiểm tra các trường hợp được chỉ định theo từng mặt hàng và nhập kết quả vào hệ thống điện tử. Bên cạnh phương pháp kiểm tra tức thì, hải quan Hàn Quốc cũng tiến hành các phương pháp kiểm tra như kiểm tra có kế hoạch đối với những doanh nghiệp không tin cậy, được coi có mức độ rủi ro cao trong việc cố tình trốn thuế hoặc không chấp hành hướng dẫn tự nguyện tuân thủ về trị giá hải quan. Phương pháp kiểm tra toàn diện là mục tiêu hướng đến của ngành Hải quan Hàn Quốc trong tương lai. Thực tế, kiểm tra toàn diện nhằm mục đích thiết lập một hệ thống kiểm tra “định hướng tương lai” với việc quan tâm đến một “giải pháp cơ bản” hơn là trừng phạt các doanh nghiệp và các đại lý làm thủ tục hải quan vi phạm.[16][35] Xây dựng một Trung tâm xử lý phân tích thông tin trên mạng phục vụ cho công tác KTSTQ về TGHQ: Với khả năng tích hợp dữ liệu thông quan, khấu trừ thuế quan, tỷ giá hối đoái, giao dịch ngoại tệ,...trung tâm xử lý phân tích thông tin phục vụ cho việc phân tích thông tin về trị giá một cách có hiệu quả hơn. Hệ thống này đã thích ứng tốt với công cụ tính toán tin học cho người sử dụng trong hoạt động. Khi các doanh nghiệp không tin cậy được chọn là mục tiêu của kiểm tra có kế hoạch, thông qua chuyến khảo sát tới các công ty của nhóm nhân viên kiểm tra thông tin nhà nhập khẩu và xem xét dữ liệu thông quan, dữ liệu thương mại cũng như tài khoản của các công ty. Trong trường hợp nếu hải quan phát hiện bất cứ dấu hiệu vi phạm nào, vụ việc sẽ được chuyển đến đơn vị điều tra. Chú trọng nâng cao sự tự nguyện tuân thủ pháp luật hải quan: Trong thực tế, hoạt động khai báo xuất nhập khẩu của doanh nghiệp với cơ quan hải quan diễn ra hoàn toàn tự động thông qua phương tiện điện tử. Những điều khoản khai báo và mẫu đơn từ được lưu trữ trong hệ thống và những dữ liệu này được sử dụng trong việc phân tích thông tin qua công cụ tính toán tin học cho người sử dụng. Nhóm phân tích thông tin của hải quan - những người có trách nhiệm kiểm tra thông tin liên quan tới KTSTQ một cách độc lập từ những số liệu phân tích điều tra - sử dụng công cụ tính toán tin học cho người sử dụng xem xét việc phân loại hàng hoá, trị giá tính thuế nội địa và khấu trừ thuế có hợp lệ hay không. Ngoài ra, các nhân viên hải quan còn sử dụng phương pháp phân tích giá nhập khẩu để xác định mức độ rủi ro cao, khai báo giả trong hoạt động khai báo nhập khẩu và chứng từ khai báo. Thông qua việc phân tích thông tin, trong trường hợp nếu khai báo có mức độ rủi ro cao được lựa chọn kiểm tra, nhóm phân tích thông tin thông báo các việc tới cục hải quan có liên quan nhằm hướng dẫn tự nguyện tuân thủ và tự khai báo. Hải quan Hàn Quốc còn soạn thảo một cuốn cẩm nang hướng dẫn tự nguyện tuân thủ và tự khai báo cung cấp cho tất cả những nhà nhập khẩu và những nhà đại lý làm thủ tục hải quan nhằm tăng cường độ chính xác trong khai báo và tự nguyện tuân thủ của các nhà nhập khẩu, người khai báo. Bên cạnh đó, hải quan Hàn quốc sử dụng phương pháp quản lý nhà nhập khẩu tin cậy như một nổ lực trong cung cách quản lý là phụ thuộc vào sự tự chấp hành của doanh nghiệp. Nói một cách khác, với nỗ lực hạn chế sự tham gia của hải quan trong hoạt động thông quan đối với những “doanh nghiệp tin cậy” được hải quan đánh giá mức độ tự chấp hành cao, Hải quan Hàn Quốc có thể tập trung nguồn nhân lực và phương tiện của mình vào các “doanh nghiệp không được tin cậy’’.[16] [67] 2.4.4 Kinh nghiệm của Hải quan Thái Lan Nghiệp vụ KTSTQ của hải quan Thái Lan được thành lập tháng 10 năm 2002. Cục KTSTQ của hải quan Thái Lan có gồm 4 phòng: Phòng hành chính tiếp nhận công văn, quản lý hành chính, hợp đồng và hỗ trợ điều phối hoạt động với các đơn vị khác; Phòng phân tích dữ liệu và kiểm tra tờ khai tiếp nhận và phân loại tờ khai xuất khẩu, nhập khẩu và các chứng từ liên quan do các phòng chuyển đến.Trong đó, đáng chú ý là phòng nghiệp vụ kiểm toán 1 và 2 có chức năng phân loại công ty, thực hiện KTSTQ về TGHQ cũng như đối chiếu kiểm tra chứng từ liên quan, lập kế hoạch và đánh giá tình hình trước khi KTSTQ. Hải quan Thái Lan tập trung cho chính sách cán bộ: Theo quy định của Hải quan Thái Lan, nhân viên kiểm tra sau thông quan, phải nắm vững pháp luật, quy trình thủ tục liên quan đến thương mại quốc tế; kỹ thuật nghiệp vụ, kỹ thuật kiểm toán, nguyên tắc kế toán chung, công nghệ thông tin và phải có trình độ ngoại ngữ nhất định. Việc luân chuyển cán bộ cũng được quy định chặt chẽ, ngoài việc phù hợp chính sách quản lý nhân lực của ngành thì đáp ứng điều kiện nghiệp vụ khi luân chuyển là yếu tố đầu tiên được cân nhắc. Chương trình :“Kiểm tra sau thông quan thông qua kiểm toán tự nguyện (PCA- VA)” Kể từ tháng 4-2004, hải quan Thái Lan áp dụng chương trình “ Kiểm tra sau thông quan thông qua kiểm toán tự nguyện ( PCA- VA) với hình thức một dự án điểm. Nguyên tắc của PCA- VA là Cục KTSTQ gửi thư cảnh báo cho một doanh nghiệp có hồ sơ tốt nhưng có thể đang bị nghi ngờ về gian lận giá tính thuế để tự kiểm tra và tự nguyện nộp đủ số thuế chênh lệch. Nếu không có trả lời trong vòng 30 ngày, các nhân viên hải quan sẽ kiểm toán doanh nghiệp. Đây được coi là một cách tích cực để khuyến khích doanh nghiệp tự nguyện điều chỉnh khai báo hải quan và chấp hành tốt quy định của pháp luật. Cũng nhằm khuyến kích đối tượng KTSTQ, cơ quan hải quan cho phép họ được quyền điều chỉnh sai sót trước khi bắt đầu KTSTQ và được hưởng ưu đãi về hoàn thuế trong thời gian ngắn nhất. Theo quy định của Luật Hải quan Thái Lan, đối tượng về KTSTQ không chấp hành các quy định về chuẩn bị chứng từ hoặc khai sai sẽ phải chịu các hình phạt tương ứng. Khi tiến hành KTSTQ, việc tìm ra nguyên nhân của sự chênh lệch giữa hồ sơ và số thuế thực tế được nộp là rất cần thiết. hải quan Thái Lan có nhiều biện pháp xử lý những doanh nghiệp không nộp thuế theo kết luận của đoàn KTSTQ như cưỡng chế làm thủ tục, đưa vụ việc ra “Tòa án trung ương về thuế”. Toàn bộ thông tin liên quan đến hoạt động KTSTQ và doanh nghiệp được lưu trữ trong máy chủ của cơ quan hải quan trong một cơ sở dữ liệu tra cứu của Ngành. Hệ thống thông tin dữ liệu phục vụ xác định trị giá hải quan của hải quan Thái Lan gồm các nguồn hình thành từ giá khai báo trên hóa đơn, trên tờ khai trị giá, nguồn internet, sách báo, ấn phẩm quảng cáo, bảng giá chào hàng, nguồn thông tin từ các văn phòng tình báo hải quan đặt tại nước ngoài…[ 37]. Thông tin được thu thập từ các nguồn bên ngoài như từ cơ quan Thuế, doanh nghiệp ( từ báo cáo hoạt động, niên giám hoạt động…) đều được sử dụng cho quản lý hải quan. Giữa các đơn vị trong hải quan Thái Lan cũng thường có các buổi làm việc định kỳ để chia sẻ kinh nghiệm và phối hợp trong công tác nghiệp vụ.[16][35] 2.4.5. Một số bài học kinh nghiệm cho kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan của Hải quan Việt Nam Hoạt động KTSTQ cũng như KTSTQ về trị giá hải quan của các nước trong khu vực và trên thế giới rất đa dạng và phong phú. Tuỳ theo các điều kiện về địa lý, kinh tế, xã hội, con người và đặc biệt là yêu cầu quản lý kinh tế của mỗi quốc gia để có những hoạt động đặc thù. Chọn lọc từ kinh nghiệm thực tế của một số nước, một số bài học cho Hải quan Việt Nam như sau: - Xây dựng hệ thống pháp luật liên quan đồng bộ, tạo thuận lợi cho hoạt động KTSTQ về TGHQ: Thực tiễn hoạt động KTSTQ của các nước trên thế giới cho thấy rằng hiệu quả hoạt động của công tác KTSTQ chỉ có được khi hệ thống các quy định của pháp luật đồng bộ, đầy đủ và được quy định chi tiết mang tính chuẩn mực trong KTSTQ về TGHQ. Để khuyến khích tính tự tuân thủ pháp luật, Luật Hải quan và các văn bản hướng dẫn phải quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan hải quan trong việc tư vấn, cung cấp những thông tin cần thiết có liên quan đến hải quan, quyền được tự điều chỉnh sai sót trong việc khai hải quan mà không bị xử phạt hoặc chỉ bị phạt nhẹ. Hầu hết các nước đề cập ở trên đều thiết lập cơ chế tự khai, tự tính và nộp thuế hiệu quả gắn với lợi ích của các doanh nghiệp. Việc xây dựng và duy trì một cơ chế hữu hiệu để kiểm soát, bảo đảm việc thực thi nghiêm minh, đầy đủ các quy định của pháp luật về hải quan trong hoạt động KTSTQ về TGHQ đóng vai trò vô cùng quan trọng. Cơ chế này cho phép cơ quan hải quan áp dụng những biện pháp và chế tài phù hợp mang tính chuẩn mực để thực thi kết quả KTSTQ như phạt tiền, phong toả tài khoản, tịch thu kê biên tài sản, và các biện pháp khác. Tổ chức đào tạo và tuyên truyền phổ biến pháp luật về hải quan nói chung và KTSTQ nói riêng, đồng thời xây dựng mối quan hệ đối tác Hải quan- Doanh nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng quyết định hiệu quả quản lý Hải quan. Bên cạnh đó, luật pháp phải đảm bảo xây dựng quy trình nghiệp vụ phải đảm bảo chặt chẽ, thống nhất; nếu thiếu yếu tố này thì KTSTQ về TGHQ khó có thể phát huy được. - Coi trọng công tác đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ kiểm tra sau thông quan về TGHQ: Công tác cán bộ có tính chất quyết định đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động KTSTQ. Một trong những ưu tiên của các nước là chất lượng và số lượng cán bộ KTSTQ. Yêu cầu về trình độ đối với các nhân viên chuyên trách KTSTQ về TGHQ thường cao hơn so với các bộ phận khác. Cụ thể họ phải được trang bị kiến thức về pháp luật hải quan, nguyên tắc kế toán, kỹ thuật kiểm toán, ngân hàng, thương mại quốc tế, công nghệ thông tin, ngoại ngữ, đặc biệt quan tâm đến liêm chính hải quan. Đối với KTSTQ về trị giá hải quan, cần có đội ngũ cán bộ công chức làm công tác giá hiểu sâu về chuyên môn, nghiệp vụ, có sự gắn kết chặt chẽ từ cấp trung ương xuống địa phương, thường xuyên trao đổi thông tin, phối kết hợp nghiệp vụ nhằm ngăn chặn tình trạng gian lận liên quan đến trị giá. Chính vì vậy, các nước đều quan tâm đến công tác đạo tạo cho nhân viên hải quan, bao gồm cả số cán bộ mới tuyển dụng, số cán bộ từ các bộ phận khác chuyển sang và số cán bộ đang làm ở bộ phận KTSTQ. Việc luân chuyển cán bộ được ưu tiên thực hiện giữa các đơn vị trong hệ thống và sau đó là giữa các đơn vị nghiệp vụ như: thông quan hàng hoá, trị giá, điều tra chống buôn lậu… - Ứng dụng công nghệ thông tin và phương pháp quản lý rủi ro; hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu phục vụ cho KTSTQ về TGHQ được cập nhật đầy đủ, chia sẻ kịp thời: Các cơ quan hải quan tiên tiến trên thế giới như Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc đều thực hiện quản lý nhà nước về mặt hải quan trên cơ sở một hệ thống hành chính vô cùng hiệu quả. Với nguồn nhân lực hạn chế và đã được tinh giản, họ thực hiện quản lý trên nguyên tắc quản lý rủi ro và ứng dụng công nghệ thông tin với một hệ thống hạ tầng về thông tin tiên tiến, cho phép hầu hết các công việc được tiến hành một cách tự động hoá. Việc lựa chọn đối tượng KTSTQ trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin và phương pháp quản lý rủi ro của các nước nói trên là những kinh nghiệm quý cho hải quan Việt Nam trong quá trình hiện đại hoá và cải cách hành chính. Để kiểm tra trị giá, cần tạo dựng hệ thống thông tin dữ liệu giá từ nhiều nguồn khác nhau trên cơ sở phân tích, lựa chọn thông tin để làm cơ sở cho việc kiểm tra so sánh giá khai báo, đồng bộ hóa cơ sở dữ liệu, cung cấp cho toàn ngành, trong quá trình thông quan và sau thông quan. - Coi trọng công tác phối hợp trong kiểm tra sau thông quan về trị giá Hải quan: Việc phối hợp trong ngành và ngoài ngành có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện có hiệu quả công tác KTSTQ về TGHQ. Để công tác kiểm tra phần trị giá đạt kết quả tốt ngoài việc phối kết hợp chặt chẽ giữa các khâu trong thông quan, sau thông quan và điều tra chống buôn lậu nhằm chia sẻ thông tin với nhau và cùng nhau hướng dẫn, Cục Hải quan địa phương thực hiện các biện pháp chống khai báo giá thấp…Cơ quan hải quan còn phải có thẩm quyền tiếp cận và sử dụng các hồ sơ, các dữ liệu thương mại về hoạt động mua, bán hàng hóa, giao dịch ngoại tệ, vận chuyển hàng hoá, bán hàng hoá sau khi nhập khẩu có liên quan của các doanh nghiệp từ ngân hàng, cơ quan thuế nội địa, cơ quan bảo hiểm, cơ quan quản lý thị trường, cơ quan công an, cũng như các cơ quan khác có liên quan. Ngoài ra, việc phối hợp giữa các đơn vị chức năng trong quản lý nhà nước, cơ quan chuyên môn còn được thể hiện như: Công tác giám định, đánh giá, kiểm tra các tiêu chuẩn, định mức…cũng như việc hỗ trợ lực lượng và phương tiện kỹ thuật trong các trường hợp cần thiết. Tóm lại, như nội dung tiêu đề đã nêu, Chương 2 luận án đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận về kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan, vai trò và yêu cầu của kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan trong công cuộc hiện đại hóa hải quan. Mặt khác, bằng việc nghiên cứu kinh nghiệm kiểm tra sau thông quan của một số nước cụ thể, tác giả có nhận định để rút ra bài học kinh nghiệm và những kinh nghiệm này sẽ là một trong những yếu tố để vận dụng trong việc đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan ở Việt Nam trong những năm tới. Chương 3 THỰC TRẠNG KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN VỀ TRỊ GIÁ HẢI QUAN Ở VIỆT NAM 3.1 Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa và gian lận thương mại qua trị giá hải quan của Việt Nam giai đoạn 2006-2013. 3.1.1 Khái quát hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam. Thời kỳ 2006 - 2013, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam vừa có những thuận lợi vừa có những khó khăn, thách thức lớn. Sau khủng hoảng tài chính Châu Á 1997-1998, kinh tế và thương mại thế giới liên tục tăng trưởng cao đến 2006. Việt Nam chỉ chịu tác động gián tiếp của khủng hoảng nên kinh tế vẫn tăng trưởng cao. Kinh tế vĩ mô tương đối ổn định và đầu tư tăng cao… đã tạo cơ sở tăng cường quy mô xuất khẩu sản phẩm và tăng nhu cầu nhập khẩu nguyên, nhiên vật liệu, máy móc thiết bị và công nghệ. Bảng 3.1: Số liệu thống kê trị giá xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam giai đoạn 2006-2013. Năm Tổng trị giá XNK ( triệu USD) Tỷ lệ tăng/ giảm qua các năm (%) Trị giá xuất khẩu ( triệu USD) Trị giá nhập khẩu ( triệu USD) 2006 84.717 12,2 39.826 44.891 2007 111.244 13,1 48.561 62.682 2008 143.399 12,8 62.685 80.714 2009 127.045 -8,8 57.096 69.949 2010 157.075 12,3 72.274 84.801 2011 203.656 12,9 96.906 106.750 2012 228.310 11,2 114.529 113.780 2013 264.260 11,5 132.135 132.125 Nguồn : Cục Thống kê- Tổng Cục Hải Quan Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhất là việc ký kết Hiệp định thương mại Việt – Mỹ (BTA), gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), tham gia các khu vực thương mại tự do (FTA)… đã mở ra những thời cơ, thuận lợi lớn về môi trường kinh doanh quốc tế cho phát triển thị trường xuất khẩu, phát triển hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Bảng 3.1 cho thấy trị giá xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam giai đoạn 2006-2013 tăng nhanh qua các năm. Có thể thấy, trị giá hàng hóa xuất, nhập khẩu tăng qua các năm và đặc biệt vào thời điểm năm 2007- sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)- đánh dấu một mốc phát triển trong lĩnh vực ngoại thương của Việt Nam, trị giá hàng hóa xuất nhập khẩu đã có sự tăng trưởng vượt bậc. Qua số liệu thống kê cho thấy, sau 6 năm là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) (Việt Nam chính thức trở thành thành viên Tổ chức Thương mại thế giới vào ngày 11/01/2007), kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong năm 2013 đã đạt 264.260 triệu USD, cao gấp hơn 3 lần so với kết quả thực hiện của năm 2006. Nếu như năm 2007, tổng giá trị xuất nhập khẩu đạt 111.244 triệu USD thì đến năm 2013 tức là sau 6 năm Việt Nam chính thức trở thành thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), tổng trị giá hàng hóa xuất, nhập khẩu của cả nước đã đạt 264.260 triệu USD, tăng 237% so với năm 2006. Tốc độ tăng trưởng xuất, nhập khẩu bình quân giai đoạn 2006-2013 khoảng 10,7% . Trong đó, tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa năm 2006 là 44.891 triệu USD, năm 2010 là 84.801 triệu USD và 2011 là 106.750 triệu USD thì đến năm 2013 đã tăng đến 132.125 triệu USD. Đến năm 2013, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hoá cả nước đạt 264.26 triệu USD, tăng 11,5 % so với năm 2012, trong đó: xuất khẩu đạt 132.135 triệu USD, và nhập khẩu đạt 132.125 triệu USD. Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu giai đoạn 2006-2013 đã có chuyển biến theo hướng tăng tỷ trọng nhóm hàng cần nhập khẩu là nguyên vật liệu và máy móc thiết bị, giảm tỷ trọng nhóm hàng cần kiểm soát và cần hạn chế nhập khẩu là hàng tiêu dùng các loại. Cụ thể từ năm 2007 đến năm 2011, cơ cấu nhóm hàng cần nhập khẩu chiếm 81-83% trong cơ cấu nhập khẩu cả nước, trong khi các giai đoạn trước năm 2006, cơ cấu nhóm hàng cần nhập khẩu chỉ chiếm khoảng 75-80%. Hai nhóm hàng nhập khẩu còn lại chỉ chiếm tỷ trọng thấp 17-19% trong tổng kim ngạch nhập khẩu. Do đặc điểm nền kinh tế thời kỳ đang chuyển đổi, hầu hết các mặt hàng nguyên vật liệu, máy móc thiết nhập khẩu là chịu thuế suất thấp hoặc được miễn thuế, nên việc khai báo trị giá ít ảnh hưởng đến trốn lậu thuế, nhưng nó lại là đầu vào để làm tăng trị giá của các mặt hàng gia công lắp ráp ở trong nước. Cụ thể, năm 2012 và 2013, dẫn đầu kim ngạch nhập khẩu của cả nước trong năm 2013 là mặt hàng máy móc, thiết bị dụng cụ và phụ tùng với trị giá gần 18,7 tỷ USD, tăng 16,5% so với năm 2012; tiếp theo là mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 17,7 tỷ USD, tăng 16,5% so với năm 2012; Vải các loại đạt 8,4 tỷ USD, tăng 19,3% so với năm 2012; điện thoại các loại và linh kiện đạt 8,05 tỷ USD, tăng 59,6% so với năm 2012; xăng dầu các loại đạt gần 7 tỷ USD, giảm mạnh 22% so với năm 2012…Các mặt hàng nhập khẩu từ năm 2006 đến năm 2013 có kim ngạch lớn và chiếm tỷ trọng cao như: thức ăn gia súc và nguyên liệu, xăng dầu các loại, hóa chất nguyên liệu và sản phẩm hóa chất, dược phẩm và nguyên liệu, phân bón, thuốc trừ sâu và nguyên liệu, chất dẻo nguyên liệu và sản phẩm, gỗ nguyên liệu, giấy các loại và sản phẩm từ giấy, bông, vải, sợi, nguyên phụ liệu dệt may da, thép, phôi thép, kim loại thường khác, điện tư, máy tính và linh kiện, máy móc thiết bị phụ tùng…. Biểu đồ 3.1: Số lượng tờ khai hải quan 2006-2013 Nguồn : Cục thống kê- Tổng Cục Hải Quan Cùng với sự gia tăng mạnh mẽ của kim ngạch xuất nhập khẩu, số lượng tờ khai hải quan cũng không ngừng tăng với tốc độ cao qua các năm. Số lượng tờ khai xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa vì mục đích thương mại trong những năm gần đây tăng lên nhanh, năm sau cao hơn năm trước: nếu năm 2006, tổng số tờ khai hàng hóa xuất nhập khẩu đã đạt khoảng 2,5 triệu tờ khai thì năm 2013, số lượng tờ khai xuất nhập khẩu đã đạt 5,9 triệu tờ khai. Trong đó, tờ khai xuất khẩu đạt 2,88 triệu tờ và tờ khai nhập khẩu đạt 3,04 triệu tờ, tăng lần lượt 14,9% và 15,1% so với năm 2012. Số tờ khai hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thực hiện thủ tục hải quan theo phương thức điện tử trong năm 2013 là 5,53 triệu tờ, chiếm 93,4%, tổng số tờ khai hải quan, tăng mạnh 26,3% so với năm 2012. Có thể thấy, tại thời điểm cuối 2006, có khoảng hơn 28.400 doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu với khoảng 2,5 triệu tờ khai xuất nhập khẩu thì năm 2013, đã có hơn 6 vạn doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu với hơn 5,9 triệu tờ khai xuất, nhập khẩu. Theo dự kiến đến năm 2020, kim ngạch xuất nhập khẩu sẽ đạt trên 400 tỷ USD; số lượng tờ khai hải quan đạt trên 10 triệu tờ khai, đòi hỏi việc thông quan hàng hóa của ngành Hải quan sẽ phải có những thay đổi cơ bản. Do đó, để đáp ứng nhiệm vụ kiểm tra giám sát hải quan, tạo thuận lợi thông quan nhanh chóng các lô hàng xuất nhập khẩu, đồng thời đáp ứng được phương thức quản lý hải quan hiện đại, ngăn ngừa các gian lận thương mại đã và đang đặt ra nhiều yêu cầu cấp thiết đối với Hải quan Việt Nam nói chung và lực lượng KTSTQ nói riêng. 3.1.2 Gian lận thương mại qua trị giá hải quan ở Việt Nam. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của thương mại, hoạt động gian lận thương mại cũng diễn biến hết sức phức tạp gây tổn hại lớn cho nền kinh tế Việt Nam. Một trong những hành vi gian lận thương mại đang được quan tâm nhất hiện nay là gian lận qua trị giá hải quan. Gian lận thương mại qua trị giá hải quan ở Việt Nam ngày càng diễn biến phức tạp, ngày càng tinh vi và chưa có dấu hiệu bị đẩy lùi. Trước đây, khi chưa thực hiện Hiệp định trị giá Hải quan GATT/WTO, Việt Nam sử dụng bảng giá tối thiểu, bảng giá kiểm tra để làm công cụ chủ yếu chống gian lận thương mại, khai qua trị giá hải quan thấp hơn trị giá thực tế. Theo đó, thông tư 08/2002/ TT- BTC ngày 23/01/2002 của Bộ Tài Chính thì những mặt hàng thuộc danh mục mặt hàng Nhà nước quản lý giá tính thuế, khi làm thủ tục nhập khẩu có giá nhập khẩu thấp hơn giá tại bảng giá tối thiểu thì phải xác định lại trị giá hải quan theo bảng giá tối thiểu. Những mặt hàng không có trong danh mục quản lý thì xác định trị giá hải quan theo giá ghi trên hợp đồng và không thấp hơn 80% giá tại bảng giá kiểm tra (nếu có). Như vậy, với quy định trên, nếu các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa có giá cao hơn giá tối thiểu hay giá kiểm tra thì doanh nghiệp sẽ tìm cách khai báo thấp hơn hoặc bằng giá tối thiểu/ giá kiểm tra để giảm bớt số thuế phải nộp vào Ngân sách Nhà nước. Còn nếu doanh nghiệp thực sự nhập khẩu hàng hóa với giá thấp hơn giá tối thiểu thì doanh nghiệp vẫn phải nộp thêm theo mức giá quy định. Như vậy, việc đánh thuế chưa bám sát được tình hình biến động giá xuất, nhập khẩu trên thị trường. Rõ ràng, cơ chế quản lý theo giá tối thiểu đã bộc lộ những sơ hở và bất hợp lý, vô hình chung trở thành tấm lá chắn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp không trung thực, gian lận qua trị giá hải quan nhằm có lợi cho doanh nghiệp và gây thiệt hại cho Nhà Nước, và ngược lại cơ chế này cũng trở thành rào cản đối với hoạt động kinh doanh của những doanh nghiệp trung thực. Từ việc thực hiện hệ thống xác định trị giá hải quan của Việt Nam trước kia dựa chủ yếu vào hệ thống bảng giá tối thiểu để làm công cụ chủ yếu chống gian lận thương mại về trị giá thì sau khi áp dụng đầy đủ Hiệp định trị giá GATT/WTO, khi trách nhiệm về xác định trị giá hải quan phụ thuộc rất lớn vào người khai hải quan thì nhiệm vụ của cơ quan Hải quan trong chống gian lận thương mại qua trị giá hải quan lại càng khó khăn hơn bao giờ hết. Với phương pháp xác định trị giá hải quan theo Hiệp định, người nhập khẩu được phép tự xác định trị giá tính thuế cho hàng hóa của mình, tự xác định số thuế phải nộp (gồm thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt…), sau đó khai báo với cơ quan Hải quan để làm thủ tục thông quan hàng hóa. Đối với cơ quan Hải quan, khi làm thủ tục nhập khẩu cho hàng hóa, cán bộ hải quan chỉ kiểm tra trị giá khai báo có thống nhất với các chứng từ kèm theo không, và kiểm tra tính hợp pháp của các chứng từ theo quy định, Sau đó, nếu không có vướng mắc, trị giá khai báo sẽ được chấp nhận. Còn nếu cán bộ hải quan nghi ngờ, thì sẽ yêu cầu doanh nghiệp xuất trình thêm các bằng chứng, chứng minh cho trị giá đã khai báo. Như vậy, khi áp dụng xác định trị giá hải quan theo Hiệp định xác định trị giá GATT/WTO, người nhập khẩu có quyền tự chủ rất cao đối với trị giá hải quan. Nhưng đây cũng là điểm mà các doanh nghiệp không trung thực có thể vận dụng nhằm khai báo trị giá không chính xác. Qua công tác nghiệp vụ cho thấy xu hướng gian lận thương mại qua trị giá hải quan thời gian qua ở Việt Nam diễn biến hết sức phức tạp. Một số hành vi gian lận về khai báo trị giá hải quan đã được phát hiện trong những năm qua như sau: *) Khai báo trị giá hải quan thấp hơn giá trị thực của hàng hóa nhập khẩu. Trường hợp này thường xảy ra đối với các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa thương hiệu nổi tiếng, giá trị cao nhưng lại khai báo lô hàng đó với trị giá thấp, sau đó khi hoàn thành thủ tục hải quan, thông quan hàng hóa sẽ gắn nhãn hiệu có giá trị cao để bán trên thị trường nội địa. Doanh nghiệp chủ yếu gian lận với các mặt hàng tiêu dùng cá nhân mang tính thời trang như: Túi xách, giày dép, quần áo của các thương hiệu nổi tiếng xuất xứ từ Pháp, Ý, …nhưng khai báo hàng hóa đó không có nhãn hiệu, hoặc tạm gắn thương hiệu không có giá trị lên hàng hóa nhập khẩu. Khai báo không đầy đủ về số lượng, trọng lượng, xuất xứ hàng hóa, làm giảm thấp trị giá hải quan cũng là những trường hợp phổ biến trong thời gian qua. Trong trường hợp này, các doanh nghiệp nhập khẩu của Việt Nam thường khai báo xuất xứ hàng hóa có phẩm cấp, chất lượng thấp, trị giá thấp, xuất xứ từ Trung quốc nhưng thực tế hàng hóa nhập khẩu đó có xuất xứ Nhật bản, có phẩm cấp cao hơn, trị giá cao hơn. Ngoài ra, lợi dụng quy định về hàng khuyến mại, giảm giá, doanh nghiệp thường khai thấp trị giá bằng cách khấu trừ các khoản giảm giá không đúng quy định, khuyến mại ra khỏi trị giá tính thuế hoặc không khai báo một số khoản phải cộng vào trị giá như phí bảo hiểm, phí bản quyền… Ngoài ra, một số doanh nghiệp đã lợi dụng chính sách quản lý hiện hành đối với hàng hóa là sản phẩm nguyên chiếc bằng cách chia nhỏ hàng hóa nhập khẩu, tách rời từng phần hoặc nhập khẩu từng phần qua nhiều đơn vị Hải quan trên toàn quốc hoặc doanh nghiệp nhập khẩu một phần, phần còn lại nhập qua doanh nghiệp khác, gây khó khăn cho công tác quản lý giá của cơ quan Hải quan. Ví dụ như mặt hàng xe đạp điện nguyên chiếc có giá tham chiếu trong cơ sở dữ liệu giá của cơ quan hải quan, thay vì doanh nghiệp nhập khẩu nguyên chiếc thì sẽ chịu ngay thuế suất cao, doanh nghiệp đã tháo rời chiếc xe đạp điện nguyên chiếc thành hai hay nhiều phần và tổ chức nhập khẩu tại nhiều đơn vị hải quan tại các thời gian khác nhau nhằm tránh được sự kiểm tra, xử lý của hải quan tại khâu thông quan và gian lận được một số lượng lớn tiền thuế… *) Khai báo trị giá hải quan cao hơn giá trị thực của hàng hóa nhập khẩu. Gian lận thương mại qua trị giá hải quan dưới hình thức chuyển giá cũng xảy ra khá phổ biến. Những trường hợp khai báo trị giá hải quan cao hơn trị giá thực nhập khẩu của hàng hóa ở Việt Nam trong thời gian qua tập trung nhiều vào những doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa nguyên vật liệu, máy móc thiết bị dưới hình thức tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài như các công ty đa quốc gia, công ty con, chi nhánh công ty…Khi đó, doanh nghiệp chấp nhận nộp thuế cao hơn trị giá thực hoặc được miễn thuế nhưng được hưởng lợi ích khác sau khi hàng hóa được nhập khẩu. Đó là cơ quan Hải quan, với tư cách là cơ quan quản lý Nhà nước, đã vô tình xác nhận trị giá hàng hóa nhập khẩu cao hơn thực tế, nhờ vậy doanh nghiệp có cơ sở xác định số vốn đưa vào Việt Nam cao hơn vốn thực hoặc khai báo giá thành sản xuất cao hơn thực tế để nộp thuế thấp hơn, và từ đó, doanh nghiệp có quyền chuyển phần lớn tiền lãi thu được từ kinh doanh ở trong nước ra nước ngoài.. Trong tình hình hiện nay, doanh nghiệp luôn có xu hướng gian lận và tìm kiếm những kẽ hở, sử dụng nhiều thủ đoạn gian lận giá tinh vi như: khai thấp giá thực tế phải thanh toán, lợi dụng quy định về hàng khuyến mại, giảm giá để khấu trừ khoản này ra khỏi trị giá tính thuế hoặc không khai báo một số khoản phải cộng như phí bảo hiểm, phí bản quyền… để gian lận về trị giá. Công tác chống gian lận thương mại qua trị giá hải quan ở Việt Nam chủ yếu dựa vào những công tác nghiệp vụ như kiểm tra trị giá khai báo, tham vấn và xác định trị giá, nhằm kiểm soát trị giá giao dịch do người xuất khẩu, nhập khẩu khai báo, đảm bảo công bằng, bình đẳng trong nghĩa vụ nộp thuế giữa các doanh nghiệp. Do vậy, chống gian lận qua trị giá hải quan hàng xuất nhập khẩu đã và đang là vấn đề cấp bách của ngành Hải quan. Để đảm bảo hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá diễn ra thông suốt trong điều kiện như hiện nay thì công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan trở thành một khâu quan trọng, then chốt trong việc phát hiện ra các trường hợp gian lận thương mại qua giá đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. 3.2 Thực trạng hoạt động kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan ở Việt Nam. 3.2.1 Thực trạng về cơ sở pháp lý kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Cơ sở pháp lý về KTSTQ về trị giá hải quan của hải quan Việt Nam được thể hiện thông qua các văn bản pháp luật về KTSTQ và TGHQ trong quá trình phát triển của Hải quan Việt Nam phù hợp với các Hiệp định, hiệp ước đã ký kết. Hoạt động KTSTQ đang được quy định tại Luật Hải quan, Luật Quản lý thuế, Nghị định 154, và các Thông tư hướng dẫn ban hành. Khi thực hiện nghiệp vụ KTSTQ về trị giá hải quan, ngoài việc tuân thủ các quy định trong lĩnh vực KTSTQ, cán bộ thực hiện cuộc kiểm tra phải tuân thủ theo các văn bản điều chỉnh đến nghiệp vụ trị giá hải quan. Về cơ bản, hệ thống cơ sở pháp lý được quy định trong hệ thống văn bản sau: *) Giai đoạn trước khi Luật Hải quan sửa đổi 2005 có hiệu lực. - Về nghiệp vụ KTSTQ: Trước năm 1990, ngành Hải quan hoạt động theo quy định của điều lệ Hải quan năm 1960. Sau năm 1990, ngành Hải quan có pháp lệnh Hải quan. Pháp lệnh Hải quan được xây dựng và ban hành trước Hiến Pháp năm 1992 và chủ yếu dựa trên kinh nghiệm quản lý Nhà Nước về Hải quan nên nhiều nội dung không tương thích với các văn bản pháp luật khác. Đề cập đến nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan lần đầu tiên được quy định tại Điều 10 Nghị định số 16/1999/NĐ-CP ngày 27/03/1999 quy định về thủ tục hải quan, giám sát và lệ phí hải quan được gọi là “ kiểm tra sau giải phóng hàng” với quy định cụ thể sau đây: “ Doanh nghiệp có trách nhiệm lưu giữ hồ sơ hải quan của những lô hàng đã giải phóng trong thời hạn là 5 năm kể từ ngày giải phóng hàng và có trách nhiệm xuất trình bộ hồ sơ cùng sổ sách, chứng từ liên quan khác cho cơ quan hải quan khi cơ quan hải quan có yêu cầu. Cơ quan hải quan thông qua việc kiểm tra hồ sơ hải quan lưu tại cơ quan hải quan hoặc qua các nguồn tin khác, mà phát hiện có sai lệch về số thuế phải nộp của doanh nghiệp, thì được phép kiểm tra hồ sơ lưu ở doanh nghiệp cùng các sổ sách, chứng từ khác có liên quan đến lô hàng đã được giải phóng”[10,tr 3] Trong giai đoạn này, quyền KTSTQ của công chức Hải quan chỉ thực hiện khi công chức hải quan phát hiện có sự sai lệch về số thuế phải nộp của doanh nghiệp. Khi Luật Hải quan năm 2001 có hiệu lực, cùng với yêu cầu ứng dụng phương pháp quản lý rủi ro trong kiểm tra hàng hóa xuất nhập khẩu cũng như yêu cầu thực hiện các điều ước quốc tế, cam kết của Nhà nước CHXHCN Việt Nam và Hải quan Việt Nam với các nước trong khu vực và các tổ chức trên thế giới (WCO, WTO, ASEAN, APEC) và yêu cầu tiếp cận kỹ thuật nghiệp vụ tiên tiến về Hải quan cụ thể là dùng phương pháp kiểm tra xác suất, trọng điểm trên cơ sở phân tích, tổng hợp các yếu tố có liên quan đến giao dịch, chu chuyển hàng hoá thương mại, hạn chế các biện pháp và lưu lượng phải kiểm tra trong quá trình thông quan, thực hiện nguyên tắc “giảm tiền kiểm” “tăng hậu kiểm”. Nhưng hậu kiểm không tràn lan mà có trọng tâm, trọng điểm, có hiệu quả, Hải quan Việt Nam mới chính thức triển khai hoạt động nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan. Thông tư 96/2003/TT-BTC ngày 10/10/2003 của Bộ Tài chính được ban hành hướng dẫn thi hành Nghị định số 102/2001/NĐ-CP ngày 31/12/2001 của Chính phủ quy định chi tiết về kiểm tra sau thông quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, nhưng trong đó KTSTQ chỉ được tiến hành khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật về hải quan đối với hàng xuất khẩu, nhập khẩu đã được thông quan. Tuy nhiên khi triển khai công tác KTSTQ, công chức hải quan đã gặp rất nhiều khó khăn bởi vì chỉ khi có chứng cứ rõ ràng về dấu hiệu vi phạm pháp luật của đối tượng KTSTQ thì công tác KTSTQ mới được tiến hành. - Về trị giá hải quan: Ở Việt Nam, việc tính thuế xuất khẩu, nhập khẩu được thực hiện trên trị giá hàng hóa. Hệ thống xác định trị giá hải quan hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu được vận hành dựa trên các văn bản pháp quy tại Điều 7 Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu do Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành năm 1993 quy định: “Cơ sở định giá tính thuế: Đối với hàng xuất khẩu, là giá bán tại cửa khẩu xuất, theo hợp đồng; Đối với hàng nhập khẩu là giá mua tại cửa khẩu nhập kể cả phí vận tải, phí bảo hiểm theo hợp đồng; Trong trường hợp hàng xuất khẩu, nhập khẩu theo phương thức khác hoặc giá ghi trên hợp đồng quá thấp so với giá mua bán thực tế tại cửa khẩu thì giá tính thuế là giá do Hội đồng Bộ trưởng quy định;”[39, tr5] Điều 7 Nghị định 54/CP ngày 28 tháng 8 năm 1993 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hướng dẫn: “Giá tính thuế đối với hàng nhập khẩu là giá mua của khách hàng tại cửa khẩu nhập bao gồm cả chi phí vận tải (F) và phí bảo hiểm (I) theo hợp đồng mua hàng phù hợp với các chứng từ khác có liên quan đến việc mua hàng.” Tuy nhiên, đối với các trường hợp giá ghi trên hợp đồng quá thấp so với giá mua, bán thực tế tối thiểu tại cửa khẩu hoặc hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo phương thức khác không phải là mua bán, không thanh toán qua ngân hàng thì giá tính thuế là giá mua, bán tối thiểu tại cửa khẩu. Bộ Tài chính chủ trì cùng Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan căn cứ nguyên tắc xác định giá tính thuế để quy định giá mua bán, giá bán tối thiểu. Tại Thông tư 82/1997/TT-BTC ngày 11/11/1997; thông tư 92/1999/TT-BTC ngày 24/7/1999 của Bộ Tài chính hướng dẫn áp giá tính thuế theo hợp đồng ngoại thương theo đó chỉ quản lý một số nhóm hàng nhà nước quản lý giá, phải áp giá theo giá tối thiểu quy định tại bảng giá, các nhóm hàng khác nếu đủ điều kiện được áp giá tính thuế theo giá thực tế ghi trên hợp đồng mua bán (theo nguyên tắc của trị giá GATT/WTO) . *) Giai đoạn từ khi Luật Hải quan sửa đổi 2005 có hiệu lực đến nay. Luật Hải quan sửa đổi năm 2005 được ban hành đã khắc phục được khó khăn trên của công tác KTSTQ. Theo Luật Hải quan được sửa đổi, bổ sung năm 2005 tất cả nội dung kiểm tra sau thông quan được quy định Điều 32, trong đó chỉ rõ các trường hợp kiểm tra sau thông quan bao gồm: Khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm và kiểm tra dựa vào kết quả phân tích thông tin từ cơ sở dữ liệu, thời hạn kiểm tra là 5 năm đồng thời cũng quy định Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh có thẩm quyền quyết định kiểm tra sau thông quan, trường hợp cần thiết, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan ra quyết định kiểm tra sau thông quan. Tại Nghị định hướng dẫn Luật Hải quan theo Nghị định 154/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005, hoạt động kiểm tra sau thông quan được chi tiết tại 08 điều bao gồm: Điều 64: Các trường hợp kiểm tra; Điều 65 : Nội dung kiểm tra; Điều 66: phương pháp kiểm tra; Điều 67: Thẩm quyền quyết định kiểm tra; Điều 68: Thời hạn kiểm tra; Điều 69: Xử lý kết quả kiểm tra; Điều 70: Quyền và nghĩa vụ của người được kiểm tra; Điều 71: Quyền và nghĩa vụ của đơn vị được kiểm tra. Trong đó Điều 64 đã quy định cụ thể, chi tiết các trường hợp kiểm tra sau thông quan là: Kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật hải quan hoặc xác định có khả năng vi phạm pháp luật hải quan dựa trên kết quả phân tích thông tin của cơ quan hải quan; Kiểm tra theo kế hoạch để đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật hải quan của người khai hải quan … Đây là cơ sở để cơ quan hải quan quyết định tiến hành KTSTQ đối với các đối tượng kiểm tra. Từ năm 2005 đến nay, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ về KTSTQ theo từng thời kỳ đã có sự thay đổi để dần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý kiểm tra sau thông quan. Cụ thể: Ngày 15/12/2005 Bộ Tài Chính ban hành thông tư 114/2005/TT-BTC về hướng dẫn về kiểm tra sau thông quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Trong thông tư này phạm vi của hoạt động KTSTQ được mở rộng, cụ thể: “ Kiểm tra sau thông quan là hoạt động nghiệp vụ do cơ quan chuyên trách của ngành Hải quan thực hiện nhằm thẩm định tính chính xác, trung thực của việc khai hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đó đã được thông quan và đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật của người khai hải quan làm cơ sở xem xét mức độ ưu tiên trong việc làm thủ tục hải quan, kiểm tra giám sát hải quan và xử lý vi phạm (nếu có)”.[4, tr5] Thông tư 79/2009/TT-BTC ngày 20/4/2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thủ tục hải quan, kiểm tra giám sát hải quan, thuế xuất khẩu và quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu nhập khẩu đã có nội dung hướng dẫn về kiểm tra sau thông quan tại Chương 1 Phần VI thay thế cho Thông tư 114/2005/TT-BTC. Năm 2010, thay thế thông tư 79/2009/TT- BTC là thông tư 194/2010/TT-BTC ngày 6/12/2010 của Bộ Tài Chính trong đó, với phần IV, thông tư quy định khá chi tiết về kiểm tra sau thông quan, thanh tra thuế. Trong đó, chương I (Hướng dẫn chung về KTSTQ, thanh tra thuế); chương II (Hướng đẫn cụ thể, mục 1: kiểm tra sau thông quan, mục 2: thanh tra thuế, mục 3: tổ chức kết luận kiểm tra sau thông quan, thanh tra thuế; Theo đó , áp dụng phương pháp quản lý rủi ro trong KTSTQ để quyết định việc kiểm tra hoặc không kiểm tra, kiểm tra trước hoặc kiểm tra sau, kiểm tra theo kế hoạch, kiểm tra chọn mẫu hoặc kiểm tra theo dấu hiệu vi phạm pháp luật đối với đối tượng kiểm tra. Thông tư 128/2013/TT-BTC quy định về thủ tục hải quan, kiểm tra giám sát Hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đã thay thế cho thông tư 194/2010 TT- BTC ngày 06/12/2010. Thông tư 128/2013/ TT- BTC được xem là nền tảng của hoạt động kiểm tra sau thông quan trong thời điểm hiện nay, đây là cơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết nhất (từ điều 139-147), mang tính định hướng cho hoạt động của lực lượng kiểm tra sau thông quan. Ngoài ra, còn có các văn bản liên quan đến nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan đã ban hành trong các năm như sau: Quyết định 33/2006/QĐ-BTC được Bộ Tài chính ban hành 06/06/2006 củng cố chức năng nhiệm vụ của Cục KTSTQ. Quy trình KTSTQ đã được ban hành trong thời gian qua theo các quyết định như: Quyết định 1564/TCHQ/QĐ/KTSTQ cửa Tổng cục Hải quan ngày 2/12/2003; Quyết định 621/QĐ-TCHQ của Tổng cục Hải quan ngày 29/3/2006; Quyết định 1383/QĐ-TCHQ ngày 14/7/2009 về quy trình nghiệp vụ KTSTQ, kiểm tra thuế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu doTổng cục trưởng Tổng cục hải quan ban hành. Những quyết định này đã hết hiệu lực và được thay thế bằng Quyết định 3550/QĐ-TCHQ ngày 1/1/2013 về việc ban hành quy trình nghiệp vụ KTSTQ đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Ngoài ra, để tăng cường công tác KTSTQ, Tổng Cục trưởng tổng cục Hải quan đã ban hành Chỉ thị 800/CT – TCHQ 01/03/2006 về việc tăng cường công tác KTSTQ đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. - Về trị giá hải quan: Từ năm 2005, được xem là giai đoạn hoàn thiện, đồng bộ toàn bộ hệ thống văn bản pháp quy hướng dẫn công tác xác định trị giá tính thuế theo Hiệp định trị giá GATT (từ Luật đến Nghị định, Thông tư hướng dẫn), đồng thời đây cùng là giai đoạn đánh dấu sự chuyển đổi hoàn toàn của hệ thống xác định trị giá quốc gia sang hệ thống xác định trị giá theo Hiệp định trị giá GATT. Việc ban hành Nghị định số 40/2007/NĐ-CP ngày 16/03/2007 của Chính phủ quy định về việc xác định trị giá hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, là một bước tiến dài trong quá trình thực hiện Hiệp định Trị giá Hải quan GATT/WTO. Tại điều 7 chương II, Nghị định số 40/14, 2007/NĐ- CP, nêu rõ: “ Trị giá tính thuế của hàng hoá nhập khẩu là trị giá giao dịch. Trị giá giao dịch là giá mà người mua thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán cho hàng hoá được bán để xuất khẩu tới Việt Nam, sau khi đã được điều chỉnh theo quy định tại Điều 13 Nghị định này.”[14, tr5] Nghị định cũng đã quy định rất cụ thể 6 phương pháp xác định giá tính thuế theo đúng nội dung và đảm bảo tuân thủ chặt chẽ các quy định của Hiệp định trị giá Hải quan GATT/WTO. Để hướng dẫn Nghị định số 40/2007/NĐ-CP ngày 16/03/2007 của Chính phủ, Bộ Tài Chính đã ban hành thông tư số 205/2010/TT-BTC ngày 15/12/2010 của Bộ Tài chính . Thông tư này đã kế thừa những nội dung chính tại Thông tư 40/2008/TT-BTC ngày 21/5/2008 và sửa đổi, bổ sung một số nội dung để phù hợp với thực tế công tác quản lý giá. Thông tư được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc: tuân thủ và áp dụng đầy đủ Hiệp định Trị giá Hải quan GATT/WTO và tuân thủ Nghị định số 40/2007/NĐ-CP ngày 16/03/2007 thông tư này đã nêu rõ việc xác định giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu theo nguyên tắc của Hiệp định thực hiện Điều 7 Hiệp định chung về thuế quan và thương mại. Tại Điều 3 và Điều 10, thông tư số 205/2010/TT-BTC cũng nêu rõ nguyên tắc xác định trị giá hải quan như sau: a, Đối với trị giá hải quan nhằm mục thống kê (gọi là trị giá thống kê) được xác định theo nguyên tắc sau: + Đối với hàng hoá thuộc đối tượng chịu thuế, trị giá thống kê là trị giá tính thuế. + Đối với hàng hoá thuộc đối tượng không chịu thuế, hàng hoá được miễn thuế, xét miễn thuế thì trị giá thống kê là trị giá do người khai hải quan khai báo theo nguyên tắc sau: * Đối với hàng hoá nhập khẩu, là giá bán tại cửa khẩu nhập đầu tiên (giá CIF, giá DAF); * Đối với hàng hoá xuất khẩu, là giá bán thực tế tại cửa khẩu xuất (giá FOB, giá DAF). b) Đối với trị giá hải quan nhằm mục đích tính thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu (sau đây gọi là trị giá tính thuế) được xác định theo nguyên tắc và phương pháp sau: Về nguyên tắc: Giá tính thuế đối với hàng hoá xuất khẩu là giá bán thực tế tại cửa khẩu xuất (giá FOB, giá DAF) không bao gồm phí bảo hiểm quốc tế (I) và phí vận tải quốc tế (F) phù hợp với các chứng từ có liên quan. Trên cơ sở nguyên tắc xác định giá tính thuế đối với hàng xuất khẩu nêu trên thì phương pháp xác định giá bán thực tế tại cửa khẩu xuất là giá bán ghi trên hợp đồng mua bán hàng hoá hoặc các hình thức có giá trị pháp lý tương đương hợp đồng, hoá đơn thương mại và các chứng từ có liên quan của lô hàng phù hợp với hàng hoá thực xuất khẩu… [6, tr7, tr8] Đầu năm 2014 , thông tư số 29/2014/TT-BTC ngày 22/2/2014 đã được ban hành với nội dung về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 205/2010/TT- BTC. Liên quan đến cơ sở pháp lý về xác định trị giá hải quan, còn có các văn bản kèm theo như: Quyết định số 1102/QĐ-BTC ngày 21/05/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc xây dựng, quản lý, sử dụng cơ sở dữ liệu giá: Quyết định này tạo khung pháp lý cho việc thu thập thông tin phục vụ cho công tác kiểm tra, tham vấn giá; Quyết định số 30/2008/QĐ-BTC ngày 21/05/2008 về việc ban hành tờ khai giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu và hướng dẫn khai báo. Quyết định này đưa ra mẫu tờ khai trị giá chung dành cho hàng hóa nhập khẩu đối với những hàng hóa thuộc diện phải khai báo tờ khai trị giá theo Thông tư số 40/2008/TT-BTC ngày 21/05/2008 của Bộ Tài chính và Quyết định số 103/QĐ-TCHQ ngày 24/01/2011 của Tổng cục Hải quan về việc ban hành Quy trình kiểm tra, tham vấn và xác định trị giá tính thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong quá trình làm thủ tục hải quan. Bên cạnh những văn bản chủ yếu nêu trên, công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan còn phải tuân thủ nhiều điều Luật đặc thù khác liên quan đến công tác hải quan như Luật quản lý thuế, Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật Thương Mại, Luật Hàng Hải, Luật Đầu Tư….vv và rất nhiều các văn bản của các cơ quan Bộ/Ngành có chức năng quản lý Nhà Nước đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu như : Thông tư, quyết định điều hành chính sách mặt hàng của Bộ Công Thương, Bộ Y tế, Bộ Nông Nghiệp và phát triển Nông Thôn, Bộ Thông Tin và Truyền Thông…. Trên đây là hệ thống văn bản quy định liên quan đến lĩnh vực KTSTQ về trị giá hải quan. Các quy định trên tuy chưa được hệ thống rõ ràng trong một văn bản nhưng có thể coi như đủ cơ sở pháp lý để hoạt động KTSTQ về trị giá hải quan được thực hiện. 3.2.2 Thực trạng về tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Về tổ chức bộ máy. Từ 1/1/2002 hoạt động KTSTQ của Việt Nam chính thức được triển khai, bước đầu đã hình thành được tổ chức bộ máy KTSTQ từ Tổng Cục đến các địa phương. Về tổ chức bộ máy của lực lượng kiểm tra sau thông quan nói chung và lực lượng kiểm tra sau thông quan về trị giá nói riêng trong giai đoạn từ 2006- 2013 có thể được phân thành hai giai đoạn như sau: a) Từ tháng 6/ 2006 đến tháng 5/2010: Kể từ khi các Quyết định số 33/2006/QĐ-BTC ngày 06/06/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Cục KTSTQ thuộc Tổng cục Hải quan và Quyết định số 34/2006/QĐ-BTC ngày 06/06/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc thành lập Chi cục KTSTQ trực thuộc Cục Hải quan tỉnh, thành phố có hiệu lực thi hành, đã tạo bước chuyển căn bản về tổ chức bộ máy KTSTQ. Theo quy định này, ở cấp Trung ương có Cục KTSTQ được tổ chức lại theo hướng chuyên sâu cho từng lĩnh vực, gồm 07 phòng: Phòng thu thập, xử lý thông tin; phòng kiểm tra trị giá hải quan (phòng nghiệp vụ 1); phòng kiểm tra mã số và thuế suất hàng hoá (phòng nghiệp vụ 2); phòng KTSTQ đối với hàng gia công và sản xuất - xuất khẩu (phòng nghiệp vụ 3); phòng kiểm tra thực hiện chính sách thương mại (phòng nghiệp vụ 4); phòng KTSTQ phía Nam (phòng nghiệp vụ 5) và phòng kế hoạch - tổng hợp ( Sơ đồ 3.1- PL1). Từ giai đoạn này, trong hệ thống KTSTQ đã có bộ phận chuyên trách KTSTQ về TGHQ. Ở cấp địa phương, Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh cơ cấu tổ chức bao gồm Chi cục KTSTQ và Phòng, Chi cục và tương đương. (Sơ đồ 3.1- PL1). b) Từ tháng 5/2010 đến nay: Từ tháng 5/2010, tổ chức bộ máy của KTSTQ đã thay đổi với cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của các phòng trong Cục KTSTQ bao gồm bảy phòng: Phòng tổng hợp; Phòng kiểm tra trị giá hải quan (phòng kiểm tra 1); Phòng kiểm tra mã số và thuế suất hàng hoá xuất nhập khẩu (phòng kiểm tra 2); Phòng KTSTQ đối với hàng hóa hóa xuất, nhập khẩu theo loại hình gia công và sản xuất - xuất khẩu (phòng kiểm tra 3); Phòng kiểm tra thực hiện chính sách thương mại (phòng kiểm tra 4); phòng KTSTQ phía Nam ( phòng kiểm tra 5) và phòng thu thập - xử lý thông tin (Sơ đồ 3.2- PL1). Ở cấp địa phương, Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh cơ cấu tổ chức bao gồm Chi cục KTSTQ và Phòng, Chi cục và tương đương. Ở cấp Chi cục KTSTQ được tổ chức bao gồm các đội: Đội tham mưu tổng hợp, Đội phân tích xử lý thông tin; Đội kiểm tra trị giá hải quan và các đội kiểm tra. Các đội trực thuộc được thành lập theo Quyết định số 34/2006/QĐ-BTC ngày 06/06/2006 và của Bộ trưởng Bộ Tài chính và quyết định cụ thể của Cục trưởng Hải quan địa phương. Với việc tổ chức lại bộ máy KTSTQ tại các địa phương theo mô hình Chi cục KTSTQ, đảm bảo thẩm quyền trong kiểm tra, xử lý theo quy định; đảm bảo chuyên sâu hơn trong từng lĩnh vực nghiệp vụ. Phòng kiểm tra trị giá hải quan được thành lập theo quyết định 33/2006 QĐ- BT ngày 6/6/ 2006 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính và Quyết định số 1177QQĐ- TCHQ ngày 4/7/2006 của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan. Quyết định số 1252/ QĐ – TCHQ ngày 16/6/2010 quy định nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của phòng kiểm tra trị giá hải quan PKT1 (thuộc Cấp Tổng Cục) như sau: Giúp Cục trưởng tham mưu cho Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan xây dựng hoặc tham gia xây dựng sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản hướng dẫn, các quy định về trị giá tính thuế và kiểm tra về trị giá tính thuế; Tổ chức thu thập, tổng hợp, phân tích, xử lý thông tin về trị giá tính thuế để phục vụ công tác kiểm tra sau thông quan của Cục và chỉ đạo toàn lực lượng KTSTQ; Thực hiện và phối hợp với hải quan địa phương thực hiện KTSTQ về trị giá hàng xuất khẩu, nhập khẩu; Theo dõi tình hình xuất, nhập khẩu của một số doanh nghiệp và thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức, kỹ năng kiểm tra trị giá tính thuế cho công chức trong hệ thống kiểm tra sau thông quan. ..Tại cấp địa phương là Cục Hải quan tỉnh, thành phố hiện nay đều đã thành lập Chi cục KTSTQ. Trong các chi cục KTSTQ của từng địa phương có các đội kiểm tra trong đó có đội kiểm tra về trị giá hải quan, tuy nhiên thực tế nhiều cục Hải quan tỉnh, thành phố hiện nay không có phòng hoặc đội đảm nhận chuyên trách về kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. 3.2.2.2. Về đội ngũ cán bộ KTSTQ về TGHQ. Ngày đầu mới thành lập, lực lượng KTSTQ mới hình thành, đang tìm hướng đi, cách làm cũng chưa cụ thể do đó lực lượng mỏng, chưa có sự phân định cụ thể trong công việc nên chưa có lực lượng chuyên trách về kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Từ năm 2006, KTSTQ bước đầu đã triển khai hoạt động, đạt được những kết quả nhất định, lực lượng cán bộ chuyên trách về trị giá cũng dần tăng lên. Cụ thể, số lượng cán bộ KTSTQ các năm như sau: Bảng 3.2 : Bảng số liệu cán bộ kiểm tra sau thông quan từ 2006- 2013 Đơn vị tính: Người TT Đơn vị Năm Tỷ lệ tăng bình quân qua các năm 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Đến QII/2013 1 Cục KTSTQ 35 47 65 80 98 108 111 Tỷ lệ tăng qua từng năm 34% 38% 23% 23% 10% 3% 22% 2 Chi cục KTSTQ thuộc Cục HQ tỉnh, thành phố 308 338 365 374 420 580 593 Tỷ lệ tăng qua từng năm 10% 8% 2% 12% 38% 2% 12% 3 Phòng KTSTQ về TGHQ 7 10 17 15 18 18 17 Tỷ lệ tăng qua từng năm 1,4% 1,7% -0.9% 1,2% 1.0% -0,9% Cộng (1+2) 343 385 430 454 518 688 704 Nguồn: Cục kiểm tra sau thông quan- Tổng Cục Hải quan Qua số liệu trên cho thấy, biên chế của Cục KTSTQ liên tục tăng trong các năm từ 2006 đến 2012. Số lượng cán bộ làm công tác KTSTQ từ Tổng cục Hải quan và các địa phương đến nay là 704 người, chiếm tỷ lệ 5,6 % trên tổng số cán bộ công chức toàn ngành, cụ thể: Năm 2006 số cán bộ công chức KTSTQ: 343 chiếm tỷ lệ: 4,2 %; Năm 2007 chiếm tỷ lệ: 4.65 %; Năm 2008 chiếm tỷ lệ 5.18 %; Năm 2009 chiếm tỷ lệ: 5%; Năm 2010 chiếm tỷ lệ: 5,56%; Năm 2011 chiếm tỷ lệ: 6,7 %; Năm 2012 (8 tháng đầu năm) chiếm tỷ lệ: 7%. Có thể thấy, từ năm 2006 đến nay, tỷ lệ tăng bình quân tại Cục KTSTQ qua các năm trong giai đoạn này là 22% và tại các Chi cục KTSTQ là 12%., trong đó, năm 2011, đã có chuyển biến và tăng mạnh so với năm 2010 (38%). Năm 2011 và năm 2013 toàn ngành Hải quan đã có lần lượt là 688 và 704 cán bộ làm công tác KTSTQ. Mặc dù Tổng cục đã ban hành 02 Chỉ thị (Chỉ thị số 800/CT-TCHQ ngày 01/3/2006 và Chỉ thị số 568/CT-TCHQ ngày 09/02/2011), tại hai Chỉ thị này đều yêu cầu số biên chế dành cho lực lượng KTSTQ phải đạt 10% số biên chế của từng đơn vị và toàn ngành, nhưng đến nay số biên chế mới chỉ đạt hơn 50%. Trong đó, tại cục KTSTQ thuộc Tổng Cục, đến nay, chỉ có 17 người chuyên về kiểm tra trị giá hải quan. Cán bộ làm công tác KTSTQ về trị giá hải quan tại Cục KTSTQ và các Chi cục KTSTQ địa phương chủ yếu là công chức làm công tác KTSTQ kiêm nhiệm, được tuyển dụng, điều chuyển từ hai nguồn: tuyển dụng mới và điều chuyển, luân chuyển từ các Phòng ban, Chi cục bộ phận nghiệp vụ khác. Số lượng công chức làm công tác KTSTQ về trị giá chuyên trách ở cấp địa phương hiện nay không cụ thể và không có số liệu thống kê rõ ràng, mà số lượng được thể hiện trong số lượng chung của lực lượng KTSTQ đã phân tích ở trên. Còn tại cấp Trung ương, tại phòng kiểm tra trị giá hải quan PKT1 (Cấp Tổng Cục), số lượng cụ thể về cán bộ chuyên trách thực hiện KTSTQ về TGHQ trong các năm chiếm rất ít, không ổn định. Cụ thể: năm 2006 có 7 người; năm 2007 có 10 người; năm 2008 có 17 người; năm 2009 có 15 người, năm 2010 có 18 người; năm 2011có 18 người; năm 2012 và năm 2013 có 17 người với tỷ lệ nữ chiếm hơn 50%. Công tác luân chuyển cán bộ làm công tác KTSTQ cũng được triển khai theo quy định trong quy chế bắt buộc phải luân chuyển vị trí theo định kỳ theo quy định của ngành Hải quan bao gồm cả luân chuyển cán bộ theo tính chất công việc và luân chuyển cán bộ theo địa bàn công tác. Tính chất đặc thù của công tác KTSTQ về TGHQ ngoài những kiến thức nghiệp vụ thông thường còn cần có tính chuyên sâu về kế toán, kiểm toán, ngân hàng, ngoại thương..v..v. nên việc luân chuyển cán bộ đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc ổn định của lực lượng KTSTQ về trị giá hải quan ở cả cấp Tổng Cục và cả cấp chi cục. Theo Báo cáo triển khai Chỉ thị 568/CT-TCHQ ngày 09/02/2011 của TCHQ, từ năm 2006 đến 2010 đã có 349 cán bộ công chức KTSTQ chuyển đi đơn vị khác, chiếm tỷ lệ xấp xỉ 90% tổng biên chế KTSTQ tại thời điểm năm 2010, trong đó 17 đơn vị tại địa phương đã luân chuyển từ 100% cán bộ công chức KTSTQ trở lên, cao nhất là Đồng Nai đã luân chuyển tới 250% (25/10). Phần lớn cán bộ KTSTQ tại các địa phương được luân chuyển từ các Phòng ban, Chi cục, bộ phận nghiệp vụ khác, do đã trải qua các nghiệp vụ hải quan khác nhau nên có ít nhiều kinh nghiệm và do tính chất nghiệp vụ yêu cầu. Điển hình là các đơn vị: Nghệ An đã thực hiện luân chuyển 100%, Lạng Sơn 94%, TP HCM 83%, Cao Bằng 80%, Đồng Nai 70%... Người có thời gian công tác tại đơn vị KTSTQ ngắn nhất chỉ là 1 tháng. Hầu hết các đơn vị có người chỉ về KTSTQ dưới 1 năm đã luân chuyển (chỉ có 5 Cục không có người luân chuyển dưới 1 năm) [49] Trong vấn đề chuyên môn nghiệp vụ, từ năm 2006, Tổng Cục Hải quan đã tập trung cho vấn đề đào tạo và đào tạo lại cho đội ngũ công chức làm công tác KTSTQ, trong đó đặc biệt quan tâm đến nghiệp vụ chuyên sâu về trị giá hải quan. Trong hơn 05 năm từ năm 2008- 2012, Cục KTSTQ đã đào tạo được hơn 531 khóa học và bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức hải quan làm công tác KTSTQ về TGHQ về các nghiệp vụ chuyên sâu như kế toán, chứng từ thương mại, chứng từ thanh toán, kiểm tra phát hiện chứng từ giả, nghiệp vụ điều tra. Đến thời điểm năm 2013, tại cấp Tổng Cục , Cục KTSTQ đáp ứng 100% cán bộ làm công tác KTSTQ về TGHQ có trình độ đại học, 100% có trình độ kế toán phổ cập, 100% được phổ cập kiến thức thương mại, chứng từ thương mại, thanh toán quốc tế, tuy nhiên, những lĩnh vực như kiểm toán, nghiệp vụ điều tra… thì vẫn còn đạt tỷ lệ rất thấp. Tại cấp chi Cục, tỷ lệ này thấp hơn, chỉ chiếm khoảng 80%, trong đó tỷ lệ tuyển dụng cán bộ KTSTQ đáp ứng yêu cầu về chuyên ngành về tài chính, kế toán, kiểm toán còn chưa cao. Trong các năm, tỷ lệ số cán bộ công chức KTSTQ về TGHQ có trình độ thành thạo về các nghiệp vụ chuyên môn phục vụ cho công tác kiểm tra về trị giá cũng có sự thay đổi, làm ảnh hưởng đến nghiệp vụ chuyên môn trong công tác của các cán bộ công chức mà một phần nguyên nhân là do sự luân chuyển cán bộ như đã đề cập ở trên. Với xu hướng phát triển của KTSTQ trong thời gian tới, có thể thấy rằng, số lượng và chất lượng cán bộ để đáp ứng yêu cầu của công tác KTSTQ về trị giá trong giai đoạn hiện tại và trong những năm sắp tới là một trong những vấn đề cấp thiết và quan trọng của lực lượng KTSTQ nói chung và lực lượng KTSTQ về TGHQ nói riêng. Thực trạng về quy trình kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Kiểm tra sau thông quan là một trong những nghiệp vụ chuyên môn chủ yếu của ngành Hải quan. Quy trình kiểm tra sau thông quan do Tổng Cục Hải quan quy định và hướng dẫn thực hiện trong nội bộ Ngành để đảm bảo sự chỉ đạo tập trung thống nhất về chuyên môn nghiệp vụ trong thực hiện chính sách hải quan. Quy trình KTSTQ được sửa đổi, bổ sung thường xuyên cho phù hợp với tình hình, đặc điểm công tác hải quan trong thời kỳ. Kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan về cơ bản tuân thủ quy trình KTSTQ đã được quy định. Nghiệp vụ KTSTQ đi vào hoạt động từ năm 2002, đến năm 2003 quy trình KTSTQ chính thức được hướng dẫn thực hiện theo Quyết định 1564/TCHQ/QĐ/KTSTQ ngày 2/12/2003 của Tổng cục Hải quan. Đến thời điểm năm 2006, quy trình KTSTQ được thay đổi theo hướng dẫn tại Quyết định số 621/QĐ-TCHQ của Tổng cục Hải quan ngày 29/3/2006. Theo quy định này, Quy trình KTSTQ được tách biệt bởi hai quy trình riêng là: Quy trình KTSTQ tại trụ sở cơ quan hải quan và Quy trình KTSTQ tại trụ sở đơn vị được kiểm tra. Năm 2009, Tổng Cục hải quan ban hành Quy trình KTSTQ được hướng dẫn thực hiện tại Quyết định số 1383/QĐ-TCHQ ngày 14/7/2009 của Tổng Cục Hải quan. Trong quy trình này, kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan sẽ bao gồm 3 giai đoạn, cụ thể: - Giai đoạn thu thập, xử lý thông tin trong nghiệp vụ KTSTQ đối với loại có dấu hiệu vi phạm và đối với loại chưa có dấu hiệu vi phạm . Quy trình KTSTQ được thực hiện theo trình tự: tiến hành thu thập xử lý thông tin đối với trường hợp có dấu hiệu vi phạm trước ( những vi phạm về trị giá, các chi phí phát sinh…), sau đó là thu thập xử lý thông tin đối với trường hợp chưa có dấu hiệu vi phạm (đây là trường hợp thu thập thông tin phục vụ cho việc kiểm tra sau thông quan có kế hoạch không nhằm trên dấu hiệu gian lận mà chủ yếu để kiểm tra xác suất sự tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp) - Giai đoạn KTSTQ đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Trên cơ sở kết quả thu thập thông tin đã thu thập được, cán bộ hải quan đề xuất KTSTQ tại trụ sở cơ quan hải quan hoặc tại trụ sở doanh nghiệp; Lập kế hoạch KTSTQ, KTSTQ tại trụ sở doanh nghiệp theo trình tự, thủ tục đã ban hành. - Giai đoạn lập hồ sơ và ban hành quyết định hành chính trong lĩnh vực KTSTQ đối với hàng hóa XK, NK. Việc lập hồ sơ lưu trữ và ban hành các quyết định hành chính được thực hiện thống nhất và tuân theo các quy định của pháp luật, các biên bản được ban hành thể hiện rõ được trách nhiệm của từng người, từng khâu công việc trong quá trình tham gia vụ việc KTSTQ về TGHQ. Cũng theo quy định hiện hành của quy trình KTSTQ, kết thúc của quy trình KTSTQ về TGHQ là cách xử lý kết quả kiểm tra với các hình thức sau đây. - Truy thu thuế và các khoản phải thu khác. - Hoàn thuế và hoàn các khoản phải hoàn khác cho đối tượng chịu KTSTQ về TGHQ. - Xử lý vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với đối tượng chịu KTSTQ về TGHQ tùy theo từng trường hợp cụ thể. Qua đó, công chức hải quan phải theo dõi việc xử lý kết quả KTSTQ để cập nhật vào cơ sở dữ liệu của ngành. Đến thời điểm hiện nay, Quy trình hướng dẫn về KTSTQ đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu được TCHQ ban hành theo Quyết định 3550/QĐ-TCHQ ngày 1/1/2013 đang có hiệu lực thi hành. Theo đó, bên cạnh sự kế thừa nội dung ở những quy trình trước, quy trình hiện nay đã quy định sự phân chia quyền hạn và thẩm quyền trong việc thực hiện KTSTQ tại doạnh nghiệp. Ví dụ như: tổ chức thực hiện KTSTQ tại trụ sở doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc đối với các vấn đề liên quan đến việc thực hiện chính sách, các loại hình, mặt hàng xuất nhập khẩu có độ rủi ro cao; Tổ chức thực hiện KTSTQ tại trụ sở doanh nghiệp với các doanh nghiệp đã được kiểm tra sau thông quan, nhưng có dấu hiệu vi phạm cần tiếp tục thực hiện kiểm tra sau thông quan; Tổ chức thực hiện KTSTQ tại trụ sở các doanh nghiệp lớn có hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu tại nhiều địa phương. Thẩm quyền cũng được quy định đối với Tổng cục trưởng, sẽ có quyền quyết định, tổ chức KTSTQ tại trụ sở doanh nghiệp với vấn đề mà địa phương thực hiện không thống nhất hoặc các trường hợp kiểm tra theo chuyên đề và những trường hợp khác theo quy định. Thẩm quyền của Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, thành phố là quyết định, tổ chức thực hiện KTSTQ tại trụ sở doanh nghiệp  đối với trường hợp kiểm tra theo kế hoạch hoặc theo chuyên đề tại Cục Hải quan tỉnh, thành phố đó. Ngoài ra, Chi cục trưởng Chi cục KTSTQ quyết định, thực hiện KTSTQ tại trụ sở doanh nghiệp theo địa bàn quản lý được phân công đối với trường hợp kiểm tra theo dấu hiệu vi phạm.Trường hợp kiểm tra doanh nghiệp  không thuộc phạm vi địa bàn quản lý được phân công, Cục Hải quan tỉnh, thành phố báo cáo Tổng cục Hải quan xem xét phân công đơn vị thực hiện kiểm tra. 3.2.4 Thực trạng về phương pháp, kỹ thuật nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Để thực hiện công việc KTSTQ về TGHQ, ngay từ khi triển khai nghiệp vụ này công chức hải quan đã thực hiện các phương pháp, kỹ thuật nghiệp vụ như: phương pháp nghiệp vụ kiểm toán, phương pháp quản lý rủi ro, phương pháp phân tích và xử lý thông tin, phương pháp lựa chọn đối tượng kiểm tra, kỹ thuật khảo sát trước khi kiểm tra và kỹ thuật kiểm tra hồ sơ chứng từ…. Các phương pháp và kỹ thuật nghiệp vụ này được công chức KTSTQ thực hiện trong toàn bộ quá trình thực hiện nghiệp vụ KTSTQ về TGHQ và mức độ áp dụng được tùy thuộc theo các bước nghiệp vụ KTSTQ được hướng dẫn tại quy trình KTSTQ. 3.4.2.1 Phương pháp phân tích và xử lý thông tin. Phương pháp phân tích và xử lý thông tin phục vụ công tác kiểm tra sau thông quan nhằm phân loại hồ sơ, doanh nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu để lập kế hoạch, xác định được đối tượng KTSTQ về TGHQ hoặc phân loại doanh nghiệp vào diện theo dõi, chưa kiểm tra. Phương pháp phân tích, xử lý thông tin áp dụng phổ biến trong KTSTQ là so sánh, đối chiếu giữa một thông tin được tạm coi là chuẩn như danh mục dữ liệu quản lý rủi ro về giá, kết quả phân loại của Tổng Cục hải quan… với các thông tin khác, hoặc giữa các thông tin với nhau như so sánh, đối chiếu đối với lô hàng cùng loại của doanh nghiệp hay lô hàng của chính doanh nghiệp đang được thu thập thông tin, nhưng xuất khẩu, nhập khẩu tại các thời điểm khác nhau. Theo quyết định số 3350/QĐ- TCHQ ngày 1/11/2013 của Tổng Cục hải quan, để phân tích, xử lý thông tin có hiệu quả cần tập trung vào các nguồn tin phục vụ KTSTQ như : Nguồn thông tin trong Ngành Hải quan tập trung vào Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử Hải quan; Hệ thống thông tin quản lý tờ khai; Hệ thống thông tin quản lý dữ liệu giá tính thuế ( GTT01); Hệ thống thông tin quản lý rủi ro; Hệ thống thông tin quản lý kế toán thuế (KT559); Hệ thống thông tin quản lý doanh nghiệp phục vụ KTSTQ và quản lý rủi ro (STQ 01) và các kết quả từ các khâu nghiệp vụ hải quan trong quá trình thực hiện kiểm tra, giám sát hải quan như khâu kiểm tra thực tế hàng hóa, khâu kiểm soát hồ sơ, khâu tham vấn giá… Nguồn thông tin ngoài Ngành Hải quan được cung cấp từ các Bộ, Ngành, cơ quan, đơn vị khác như Thuế, công an, Kho bạc, Ngân hàng…hoặc từ Tổ chức Hải quan thế giới và Hải quan các nước cũng như các doanh nghiệp cung cấp; thị trường… Khi phân tích, xử lý thông tin cần so sánh, đối chiếu mức giá do doanh nghiệp khai báo với mức giá hàng hóa giống hệt, tương tự trong cơ sở dữ liệu thông tin quản lý dữ liệu giá tính thuế của Tổng cục hải quan, bao gồm thông tin về giá khai báo của doanh nghiệp và các thông tin về giá điều chỉnh của các cơ quan hải quan đối với trường hợp đã tham vấn và bác bỏ trị giá khai báo. Hoặc so sánh, đối chiếu giá doanh nghiệp khai báo với mức giá hàng hóa giống hệt, tương tự do các doanh nghiệp khác khai báo, đã đưọc cơ quan chấp nhận; hoặc so sánh, đối chiếu giữa giá doanh nghiệp khai báo với giá bán hàng hóa giống hệt, tương tự trên thị trường nội địa, sau khi trừ đi chi phía phát sinh sau nhập khẩu. Ngoài ra, cán bộ làm công tác KTSTQ về TGHQ cũng lưu ý đến giá ghi trong tờ khai hải quan, trong hợp đồng thương mại, trên thị trường, mạng internet, từ các tổ chức trong và ngoài nước cung cấp khi so sánh, phân tích. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu các mặt hàng các mặt hàng có khả năng phát sinh các khoản phải cộng như phí bản quyền, phí giấy phép, của các mặt hàng thiết bị viễn thông, phần mềm, các doanh nghiệp nhập khẩu linh kiện, nguyên liệu, để lắp rắp sản xuất trong nước; phí hoa hồng, các chi phí vận tải có liên quan trực tiếp đến hàng hóa nhập khẩu cho đến khi hàng hóa đã được vận chuyển đến cửa khẩu nhập đầu tiên, luôn được chú ý khi phân tích, xử lý thông tin. Trên cơ sở phân tích, xử lý các thông tin đã thu thập được, cán bộ KTSTQ về TGHQ lập báo cáo kết quả TTXLTT để đề xuất đối tượng đưa vào KTSTQ về TGHQ tại trụ sở doanh nghiệp hay tại trụ sở hải quan. 3.4.2.2 Kỹ thuật quản lý rủi ro. Cơ quan hải quan áp dụng các biện pháp, kỹ thuật quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan, nhằm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất nhập cảnh, đồng thời khuyến khích tạo thuận lợi tuân thủ pháp luật hải quan đối với hàng hóa, phương tiện vận tải nói trên.Các kỹ thuật quản lý rủi ro được sử dụng trong thời gian qua đã góp phần mang lại hiệu quả trong gian lận thương mại về trị giá hải quan. Việc đẩy mạnh và nâng cao áp dụng QLRR đã tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, tỷ lệ kiểm tra thực tế hàng hóa (luồng đỏ) đã giảm 1,2%, số lượng doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật tăng 6,8%. Các quy trình phân tích rủi ro, sử dụng các thủ tục bằng máy tính cho phép phân tích một số lượng lớn các thông tin và sử dụng các tiêu chí hài hòa để kiểm soát hàng hóa và các hoạt động kinh tế, là cơ sở để kiểm soát hiệu quả mà không ảnh hưởng đến hoạt động thương mại quốc tế hợp pháp. Trong phân loại đối tượng KTSTQ về TGHQ, kỹ thuật quản lý rủi ro được tiến hành thông qua các nội dung như quản lý, ứng dụng hệ thống thông tin dữ liệu liên quan hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; Đánh giá tuân thủ pháp luật hải quan, pháp luật thuế, đánh giá xếp hạng mức độ rủi ro đối với người thực hiện xuất khẩu, nhập khẩu; phân tích rủi ro, xác định trọng điểm trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh. Quản lý hồ sơ rủi ro đối với doanh nghiệp trọng điểm và các đối tượng khác có nguy cơ không tuân thủ pháp luật hải quan..Các kỹ thuật quản lý rủi ro được thực hiện phù hợp theo yêu cầu cầu cuộc kiểm tra KTSTQ về TGHQ tại trụ sở hải quan và trụ sở doanh nghiệp. Ví dụ: KTSTQ về TGHQ được tiến hành tại trụ sở hải quan dựa trên cơ sở phân loại hồ sơ, hàng hóa xuất nhập khẩu theo 3 mức rủi ro: Mức 1: rủi ro cao, Mức 2: Cần theo dõi để tiếp tục đánh giá rủi ro, Mức 3 chưa có thông tin. Có thể thấy rằng, mặc dù đã có những kết quả đáng kể trong hoạt động KTSTQ, nhưng việc áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro vẫn còn nhiều hạn chế mà một trong những nguyên nhân đó là công tác thu thập, xử lý thông tin còn phân tán, chồng chéo. Để đẩy mạnh áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt động kiểm tra sau thông quan cần nâng cấp, vận hành hiệu quả hệ thống thông tin phục vụ hoạt động kiểm tra sau thông quan (STQ01); và xây dựng bộ tiêu chí phân loại hồ sơ hải quan, doanh nghiệp theo tiêu chí quản lý rủi ro để xác định đối tượng kiểm tra, nội dung kiểm tra, phương pháp kiểm tra thực hiện thống nhất trên toàn quốc. 3.4.2.3 Kỹ thuật nghiệp vụ kiểm tra chứng từ, sổ kế toán. Trong trình tự tiến hành một cuộc KTSTQ về TGHQ cán bộ hải quan sẽ phải sử dụng những phương pháp, kỹ thuật nghiệp vụ đã nêu ở trên, tuy nhiên có thể nói phương pháp và kỹ thuật kiểm tra hồ sơ chứng từ, cụ thể là kỹ thuật kiểm tra chứng từ thương mại, kiểm tra chứng từ ngân hàng, kiểm tra chứng từ sổ sách kế toán là một trong những kỹ thuật kiểm tra sau thông quan để thẩm định độ chính xác và xác thực của tờ khai hải quan thông qua kiểm tra chứng từ và hồ sơ của đối tượng kiểm toán liên quan đến hàng hóa nhập khẩu. Sổ sách chứng từ cần kiểm tra bao gồm các chứng từ bằng giấy tờ và dữ liệu điện tử do đối tượng bị kiểm tra lập ra, khách hàng và các bên thứ ba trong quá trình giao dịch ngoài các sổ sách kế toán lưu giữ. Trên thực tế hiện nay, phương pháp xác định trị giá theo phương pháp trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu (PP1) được sử dụng phổ biến hơn cả, chiếm trên 95% tổng lượng tờ khai hàng hóa nhập khẩu. Nên trong quá trình kiểm tra hồ sơ hải quan, cán bộ công chức hải quan chủ yếu kiểm tra theo phương pháp này. Nếu như trong thông quan, yêu cầu đặt ra khi kiểm tra tờ khai trị giá chỉ dừng lại ở sự thống nhất giữa khai báo và chứng từ đi kèm thì trong khâu sau thông quan, kiểm tra trị giá thực chất là kiểm tra tính chính xác, trung thực của trị giá đã khai báo, tức là kiểm tra về mặt “chất” của khai báo. Do đó, kiểm tra về trị giá hải quan trong khâu thông quan sẽ đạt chất lượng và hiệu quả cao hơn. Tại cơ quan hải quan, cán bộ kiểm tra trên cơ sở thông tin thu thập được sẽ quyết định có hay không đi sâu vào kiểm tra trị giá hàng hóa nhập khẩu. Việc kiểm tra tờ khai trị giá là chứng từ được lưu ý nhất trong quá trình kiểm tra. Theo đó, cán bộ hải quan kiểm tra về tư cách pháp nhân, kiểm tra về điều kiện mua bán, kiểm tra các điều kiện áp dụng, kiểm tra khai báo trị giá và tổng trị giá khai báo ( như đã trình bày tại mục 2.1.2).Trên cơ sở đối chiếu với các chứng từ khác trong bộ hồ sơ, kết hợp với các nguồn dữ liệu hiện có của Tổng Cục Hải quan, cán bộ kiểm tra bằng khả năng nghiệp vụ của mình sẽ phát hiện, khoanh vùng rủi ro những trường hợp nghi ngờ có khả năng gian lận. Trong trường hợp cần thiết để làm rõ hơn về trị giá, cơ quan Hải quan sẽ yêu cầu doanh nghiệp đến để giải trình, trả lời câu hỏi về trị giá đã khai báo. Tại trụ sở doanh nghiệp, tuân thủ theo các quy định về công tác kiểm tra sau thông quan, cán bộ kiểm tra sẽ tiến hành kiểm tra toàn bộ hồ sơ nhập khẩu của loại hàng hóa cần kiểm tra, trong thời kỳ nhất định, tùy theo phạm vi kiểm tra đã được xác định từ trước. Tùy theo mục đích nhập khẩu của lô hàng, cán bộ kiểm tra sẽ lựa chọn những sổ sách kế toán liên quan để kiểm tra. Thông thường các tài khoản có liên quan đến các lô hàng nhập khẩu chủ yếu là các tài khoản sau: TK111 (Tiền mặt); TK 112( Tiền gửi ngân hàng); TK152( Nguyên liệu, vật liệu); TK156 (Hàng hóa); TK 131(Phải thu của khách hàng); TK 331( Phải trả cho người bán); TK611( Mua hàng)… Ví dụ 1: Kiểm tra chi phí thu mua hàng hóa thông qua TK 1562: Tài khoản này phản ánh các khoản chi phí liên quan trực tiếp đến việc nhập khẩu hàng hóa như chi phí bốc xếp, vận chuyển,.. Được phản ánh qua các tài khoản: Nợ TK 1562 và Có TK111, TK 112, TK 331… Tài khoản 1562 thường chứa đựng nhiều khoản chi không hợp lý về hình thức chứng từ cũng như nội dung kinh tế. Chủ hàng khai trị giá hải quan thấp hơn thực tế để trốn thuế, nhưng mặt khác để tránh khoản thuế thu nhập doanh nghiệp chủ hàng không thể để khoản chênh lệch quá lớn giữa giá vốn hàng bán với giá bán hàng thực tế trên thị trường. Vì những lý do thực tế này mà hầu hết khoản tiền trốn thuế hải quan đều hạch toán vào TK 1562. Khi kiểm tra sau thông quan phải đối soát kỹ mọi chứng từ gốc và đặc biệt chú ý những khoản chi có giá trị lớn nhưng có nội dung kinh tế không rõ ràng, những khoản chi không có chứng từ hợp lý, hợp lệ. Ví dụ 2: Kiểm tra giá vốn hàng bán ra qua TK 632: Về nguyên tắc giá vốn hàng bán ra bao gồm 3 khoản: + Giá mua hàng hóa. + Chi phí thu mua hàng hóa. + Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước. Ba khoản này được phản ánh trong hai TK 1561 và TK 1562. Kiểm tra phân tích giá mua hàng (trị giá hải quan) trong trường hợp này cần đề phòng xu hướng doanh nghiệp tìm mọi cách đẩy giá gốc lên để trốn thuế thu nhập và hợp thức hóa phần trị giá hải quan đã trốn. Cần chú ý tính nhất quán của khoản mục trị giá mua hàng giữa TK 1561 và tài khoản này, nếu có chệnh lệch phải yêu cầu doanh nghiệp giải thích. Cũng cần lưu ý rằng, hầu hết trường hợp khai báo trị giá hải quan thấp hơn thực tế, “phần còn thiếu” đều được biến tướng vào các TK 1561, 1562 hoặc TK 632. Trường hợp khó khăn quá mới đưa sang chi phí quản lý doanh nghiệp (TK 642) hoặc chi phí bán hàng (TK 641)… Bên cạnh đó, các chứng từ ngân hàng, các thư tín thương mại liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của doanh nghiệp cũng được kiểm tra theo yêu cầu của cuộc kiểm tra. Kết quả của việc kiểm tra này sẽ góp phần đưa đến kết luận cuối cùng của một cuộc KTSTQ về TGHQ. Bởi vì, những chứng từ liên quan đến hồ sơ xuất nhập khẩu đều có nguồn gốc từ đó, chúng liên quan chặt chẽ với nhau. Nếu có những gian lận và biểu hiện của những gian lận hầu hết đều do sự không thống nhất và ăn khớp giữa những thông tin liên quan của cùng một đối tượng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Mặt khác, do tính chất liên quan đến trị giá hải quan, cán bộ làm công tác KTSTQ về TGHQ còn phải phối hợp với Cục thu thuế xuất, nhập khẩu, phòng trị giá tính thuế thuộc Cục thuế xuất nhập khẩu (Tổng Cục Hải quan) - là phòng trực tiếp thực hiện việc quản lý công tác trị giá trong toàn Ngành Hải quan và các đơn vị trong, ngoài cơ quan Hải quan để phục vụ cho quá trình kiểm tra thông qua các phương pháp, kỹ thuật nghiệp vụ như kiểm tra trị giá khai báo, kỹ thuật tham vấn để xác định trị giá trong quá trình kiểm tra sau thông quan. Nội dung thực hiện các phương pháp, kỹ thuật nghiệp vụ KTSTQ về TGHQ được đưa vào trong nội dung của các bước trong quy trình KTSTQ mà không có hướng dẫn cụ thể mức độ áp dụng các phương pháp nghiệp vụ trong từng bước công việc của cuộc KTSTQ, do đó công chức hải quan khi vận dụng các phương pháp nghiệp vụ KTSTQ về TGHQ phải tùy thuộc vào nhiệm vụ, công việc được giao. 3.3. Đánh giá thực trạng kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan ở Việt Nam thời gian qua. 3.3.1 Những kết quả đạt được của công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan ở Việt Nam Qua thời gian 10 năm thực hiện KTSTQ về TGHQ theo Luật Hải quan và triển khai thực hiện các Nghị định của Chính phủ hướng dẫn xác định trị giá tính thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu (Nghị định số 60/2002/NĐ-CP ngày 06/6/2002; số 155/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 và số 40/2007/NĐ-CP ngày 16/3/2007) công tác KTSTQ về trị giá hải quan bước đầu đã đem lại một số kết quả đáng khích lệ. Cho đến nay, công tác KTSTQ nói chung và KTSTQ về trị giá đã và đang đổi mới và hoàn thiện không ngừng và đã đạt được những kết quả đáng kể, kết quả này được đánh giá theo các nội dung sau đây: 3.3.1.1 Tổng số cuộc KTSTQ về trị giá hải quan tăng lên hàng năm, đáp ứng một phần yêu cầu tăng cường chống gian lận thương mại trong hoạt động xuất nhập khẩu. Với hơn 6 vạn doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu, từ năm 2012 đến năm 2013, trong tổng số hơn 5 triệu tờ khai hải quan hàng hóa xuất khẩu nhập khẩu thì tỷ lệ phân luồng khi làm thủ tục thông quan với luồng đỏ là hơn 11,5%, luồng vàng là hơn 25,2%, luồng xanh là 63,3%. Trong trường hợp, hồ sơ hải quan của số hàng hóa được phân vào luồng vàng, luồng đỏ đã được kiểm tra đầy đủ, không có sai sót thì ít nhất cũng có 63,3% hồ sơ hải quan (khoảng hơn triệu tờ khai hải quan trong tổng số hơn 4,8 triệu tờ khai hải quan cả năm 2011 và 5,92 triệu tờ khai năm 2013) cần được kiểm tra sau khi thông quan để đảm bảo yêu cầu kiểm tra đối với hàng hóa thông quan. Nhưng trên thực tế , do sức ép phải thông quan nhanh hàng hóa, số hồ sơ đã được kiểm tra khi thông quan cũng chưa được kiểm tra đầy đủ, chi tiết nên vẫn cần thiết phải được KTSTQ với một tỷ lệ nhất định. Với tình hình đó, năm 2011, năm Tổng cục Hải quan xác định là “Năm kiểm tra sau thông quan” đã đánh dấu bước ngoặt mới đối với lực lượng KTSTQ, và đây chính là một trong những thời cơ để số lượng các cuộc kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan không ngừng gia tăng trong sự gia tăng chung về quy mô KTSTQ. Sự gia tăng số cuộc KTSTQ về TGHQ được thể hiện thông qua số liệu thống kê chung về số cuộc KTSTQ giai đoạn 2006-2013 (xem Bảng 3.3) Bảng 3.3. Số cuộc kiểm tra sau thông quan của toàn lực lượng KTSTQ giai đoạn 2006 – 2013 ĐVT: Cuộc Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Tổng số cuộc KTSTQ 513 628 682 783 904 2059 2014 2431 Số cuộc KTSTQ được thực hiện tại trụ sở quan Hải quan 484 591 641 746 869 1912 1752 2046 Số cuộc KTSTQ được thực hiện tại trụ sở DN 29 37 41 37 35 147 262 385 Nguồn: Cục kiểm tra sau thông quan - Tổng cục Hải quan Qua bảng số liệu trên cho thấy, tổng số cuộc KTSTQ tăng lên hàng năm kể cả KTSTQ tại trụ sở doanh nghiệp cũng như KTSTQ tại cơ quan hải quan. Nếu năm 2007, số cuộc KTSTQ thực hiện được là 628 cuộc thì đến năm 2013 đã là 2.431 cuộc, như vậy sau 7 năm, số cuộc KTSTQ đã tăng lên gần 4 lần. Số cuộc KTSTQ tại cơ quan hải quan tăng lên đáng kể trong những năm gần đây, với năm 2008 là 641 cuộc, năm 2009 là 746 cuộc và năm 2010 là 869 cuộc thì năm 2013 đã tăng lên 2.046 cuộc kiểm tra. Số cuộc kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp cũng có chiều hướng tăng nhưng với số cuộc còn thấp, (xem bảng 3.3). Trong đó, năm 2011, số cuộc kiểm tra sau thông quan tại trụ sở doanh nghiệp là 147 cuộc, bằng 431% so với năm 2010 (35 cuộc). Năm 2012 là 262 cuộc, tăng 78% so với năm 2010. Các cục Hải quan địa phương Hà Nội, Quảng Ninh, Bình Dương đạt vượt tỷ lệ trên 100% so với kế hoạch đăng ký. Các đơn vị có số cuộc kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp tăng vượt bậc trong năm 2011 là: Hà Nội gấp 13 lần, Hải Phòng gấp 12 lần, Long An đạt gấp 7 lần, Đà Nẵng gấp 6 lần, Lạng Sơn gấp 4 lần, Nghệ An gấp 3 lần... Cũng còn số ít đơn vị chưa thực hiện kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp như Cà Mau, Huế, Bình Phước, Gia Lai, Quảng Ngãi… Bảng 3.4. Số cuộc kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan của Phòng1- TCHQ từ năm 2010-2013 ĐVT: Cuộc Số cuộc 2010 2011 2012 2013 Tổng số cuộc KTSTQ 904 2059 2014 2431 Số cuộc KTSTQ về TGHQ 174 264 286 302 Số cuộc KTSTQ về TGHQ được thực hiện tại Phòng 1 5 4 3 8  Nguồn: Cục kiểm tra sau thông quan - Tổng cục Hải quan Tại Chi Cục KTSTQ thuộc các Cục Hải quan tỉnh, thành phố chưa thống kê riêng được cụ thể về số cuộc về KTSTQ về trị giá hải quan, còn tại phòng KTSTQ về trị giá thuộc Tổng cục Hải quan, số cuộc KTSTQ về trị giá thống kê được cụ thể như sau : - Từ năm 2006-2010: Đã triển khai hoạt động kiểm tra với số liệu thống kê được như sau: Năm 2010 có 174 cuộc với 11 bản kết luận KTSTQ do lãnh đạo Cục phê duyệt chuyển về , trong đó tổng số các vụ bác bỏ trị giá khai báo là 2, các khoản phải cộng vào trị giá là có 4 vụ, các vụ kiểm tra về trị giá chung là 5 vụ. - Từ năm 2011-2012: Sau khi Tổng cục HQ ban hành Chỉ thị 568/CT-TCHQ- về tăng cường công tác KTSTQ, có thể thấy công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan đã tạo được chuyển biến đáng kể. Cụ thể sau hơn 1 năm thực hiện Chỉ thị 568: số cuộc KTSTQ về TGHQ trong năm 2012 là 264 cuộc. Trong năm 2011, phòng kiểm tra 1- Cục kiểm tra sau thông quan- có 78 bản kết luận về KTSTQ do lãnh đạo Cục phê duyệt chuyển về, trong đó tổng các vụ bác bỏ trị giá là 4, các khoản phải cộng là có 25 vụ, các vụ kiểm tra về trị giá chung là 49 vụ. Năm 2012, số vụ KTSTQ về trị giá là 286 vụ và năm 2013 tăng 302 vụ kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan do Phòng tổng hợp- Cục KTSTQ tổng kết. (Bảng 3.4) 3.3.1.2 KTSTQ về TGHQ đã góp phần tăng thu trong nhiệm vụ thu NSNN. Số thu từ KTSTQ về TGHQ tăng mạnh qua các năm. Thực hiện nhiệm vụ thu NSNN lực lượng KTSTQ về TGHQ đã đạt được những số thu khả quan qua các cuộc KTSTQ. Số tiền thuế thu được cũng tăng lên tương ứng với số lượng tăng lên của các cuộc KTSTQ về TGHQ tăng lên trong các năm. Giai đoạn từ 2006- 2013, số thu NSNN của toàn lực lượng KTSTQ ở Việt Nam được thể hiện qua Biểu đồ 3.2 và Bảng 3.5 dưới đây: Biểu đồ 3.2 Kết quả thu NSNN của KTSTQ ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2013 Nguồn: Cục Kiểm tra sau thông quan - Tổng cục Hải quan Với kết quả về số thu của lực lượng KTSTQ ở Việt Nam tăng đều hàng năm, trong giai đoạn 2006- 2013, số thuế truy thu trung bình là 580,7 tỷ đồng cao gấp 11 lần so với năm 2002, đặc biệt trong những năm gần đây số thuế truy thu tăng lên cao hơn nhiều so với những năm đầu mới triển khai nghiệp vụ KTSTQ : năm 2008 truy thu 212,3 tỷ đồng, năm 2009 truy thu 344,5 tỷ đồng, năm 2010 truy thu 280,2 tỷ đồng ; năm 2011 truy thu 475,8 tỷ đồng. trong đó theo báo cáo số thuế đã thu trong 5 năm (2008,2009,2010,2011, 2012) lần lượt là:, 196,8 tỷ đồng, 277,2 tỷ đồng, 265,6 tỷ đồng, 413,7 tỷ đồng, 512,2 tỷ đồng. Số thu trên chưa kể số thu do lực lượng kiểm tra sau thông quan phát hiện giao lại hải quan các cửa khẩu thu chưa thống kê được. So với năm 2010, năm 2011, Hà Giang đạt số thu thuế từ công tác KTSTQ là 159%, Hà Nội đạt 416%, Vũng Tàu đạt 291%, Hải Phòng đạt 184%, Thanh Hóa đạt 10 lần, Huế đạt 26 lần, Lào Cai gấp 13 lần … Số thu của KTSTQ tăng mạnh và đạt mức cao của năm 2012 so với năm 2011, cụ thể có nhiều Chi cục KTSTQ Hải quan nhiều địa phương đạt mức rất cao là: Cao Bằng đạt 572%, Bình Phước đạt 391%, Đồng Tháp đạt 634%,của lực lượng KTSTQ tăng mạnh và đạt mức Hà Nội đạt 201%, Quảng Ngãi (gấp 10 lần), Thanh Hóa 844%, Huế (21 lần)..vv Bảng 3.5. Số thu NSNN qua KTSTQ từ năm 2006-2013 Đv:tỷ đồng  2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Số thuế truy thu 90,0 190,0 212,3 344,5 280,2 475,8 1.373,0 1.643,7 Số thuế đã thu 70,0 100,0 196,8 277,2 265,6 413,7 881,3 1.407,0 Nguồn: Cục Kiểm tra sau thông quan - Tổng cục Hải quan Kết quả số thu NSNN của lực lượng KTSTQ có bao gồm cả KTSTQ về TGHQ vì rất nhiều trong số chi cục KTSTQ thuộc Cục Hải quan các tỉnh , TP như Hà Tĩnh, Quảng Ninh, Quảng Bình, Quảng Trị ..vv.. không có đội/ bộ phận chuyên trách về KTSTQ về TGHQ mà chỉ tính kết quả chung của KTSTQ (như đã đề cập ở phần cơ cấu tổ chức). Kết quả cụ thể về số thu NSNN của KTSTQ về trị giá hải quan có được từ Phòng 1 thể hiện cụ thể như sau (Bảng 3.6) Bảng 3.6. Bảng tổng hợp số thu NSNN của KTSTQ về trị giá hải quan từ năm 2010 đến 2013 do phòng 1- Tổng Cục Hải quan thực hiện Năm Số cuộc kiểm tra (cuộc) Số phải thu ( tỷ đồng) Số đã thu ( tỷ đồng) Số chưa thu ( tỷ đồng) 2010 174 55,23 55,23 0 2011 264 67,564 55,344 12,22 2012 286 93, 275 93, 275 0 2013 302 98,474 98,474 0 Nguồn: Phòng 1- Cục KTSTQ- Tổng Cục Hải quan Bảng 3.7. Số thuế thu được qua kiểm tra xác định trị giá khâu sau thông quan đối với các trường hợp gian lận thương mại qua giá năm 2008-2013. Năm Số thuế thu được (tỷ đồng) Năm sau so với năm trước 2008 40 100.00% 2009 41 102.50% 2010 55 134.14% 2011 67 121.81% 2012 93 138.8% 2013 98 105.37% Tốc độ tăng trung bình mỗi năm gần 24% Nguồn: Cục kiểm tra sau thông quan – Tổng cục Hải Quan Trong tổng số thu NSNN được thực hiện tại Phòng 1 bao gồm cả tiền thuế và tiền phạt vi phạm hành chính. Cụ thể , như năm 2011, số phải thu NSNN là 67,6 tỷ đồng, trong đó bao gồm số tiền thuế là 55,3 tỷ đồng ; năm 2012: số phải thu NSNN là 93,3 tỷ đồng, trong đó bao gồm số tiền thuế là 92,5 tỷ đồng; và năm 2013: Số tiền ấn định thuế, tiền phạt là 98,5 tỷ đồng, trong đó tiền thuế là 95,8 tỷ đồng, tiền phạt VPHC là 2,7 tỷ đồng, bằng 2.984,06% cùng kỳ năm 2012 là gần 3,3 tỷ đồng. Trong đó: 66,6 tỷ đồng số thu từ xăng dầu TN-TX chuyển tiêu thụ nội địa, chiếm 67,63% tổng số tiền ấn định thuế. Số thuế thực tế đã thu được trên tổng số thuế ấn định sau khi KTSTQ về TGHQ đạt tỷ lệ khá cao qua các năm. Tỷ lệ thực thu vào NSNN /Tổng số quyết định ấn định của KTSTQ đạt gần 82% năm 2011 thì tỷ lệ thực thu vào NSNN /Tổng số quyết định ấn định của KTSTQ về TGHQ năm 2012 và 2013 là 100% và hầu hết các năm đều lên đến 100%.( Bảng 3.6) Thực tế hiện nay, trong trị giá tính thuế khi giá thực thanh toán chưa kiểm soát được thì số thu thuế từ công tác KTSTQ về trị giá hải quan chủ yếu là nhờ phát hiện các khoản phải cộng và các khoản phải trừ, ví dụ như phát hiện và kiểm tra về phí bản quyền và các khoản phải cộng vào trị giá hải quan năm 2009: đã truy thu 73,54 tỷ đồng cho NSNN trong tổng số 79 tỷ đồng quyết định truy thu. Năm 2010 với số thu là 41,5 tỷ đồng truy thu phí bản quyền và các khoản cộng vào giá. Chuyên đề chiết khấu giảm giá mặt hàng ô tô nhập khẩu năm 2010 với số thuế ấn định 12 tỷ đồng… Công tác KTSTQ về TGHQ cũng đã truy thu hàng chục tỷ đồng từ các quyết định xử lý vi phạm hành chính, ví dụ như năm 2011số tiền phạt là hơn 14 tỷ đồng, năm 2012 là 0,5 tỷ đồng và năm 2013 là 2,7 tỷ..vv.. và có thể thấy, kết quả tăng lên một phần là nhờ kết quả của việc thực hiện Chỉ thị 568/CT-TCHQ ngày 09/02/2011 của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan về Tăng cường công tác kiểm tra sau thông quan, lấy năm 2011 là “Năm kiểm tra sau thông quan” . Thực hiện thành công các cuộc KTSTQ về TGHQ và truy thu được số tiền thuế cho NSNN, nổi lên một số vụ điển hình như KTSTQ tại trụ sở doanh nghiệp đối với công ty T, ra quyết định ấn định thuế với số tiền lên đến gần 3 tỷ đồng, hay công ty cổ phần tập đoàn H, ra quyết định ấn định thuế với số tiền trên 2 tỷ đồng v.v,.. Các cuộc KTSTQ đã ban hành quyết định ấn định thuế năm 2013 cũng mang lại kết quả cao như vụ Công ty TNHH S.Vi, ấn định thuế 18, 8 tỷ đồng trong đó có số tiền phạt vi phạm hành chính trên 2 tỷ đồng; Tổng công ty CTCP…, ấn định thuế hơn 68 tỷ đồng trong đó có số tiền phạt vi phạm hành chính 53 triệu đồng..vv..[ 52] Với những thay đổi trong chính sách quản lý, đổi mới công nghệ, công tác KTSTQ về TGHQ đã triển khai tương đối rộng khắp, đồng đều và đạt hiệu quả cao tại các địa phương. Hầu hết các Cục KTSTQ địa phương đều đạt tỉ lệ hoàn thành nhiệm vụ thu NSNN được giao khoảng 70% đến 90%.  Các chi cục KTSTQ các tỉnh thường đạt kết quả cao trong công tác KTSTQ nói chung và KTSTQ về TGHQ nói riêng, thu nộp ngân sách nhiều tỷ đồng, đóng góp chung trong thành quả của lực lượng KTSTQ như: Chi cục KTSTQ thuộc Cục Hải quan TP Hồ chí Minh với những năm đạt số thu cao ; năm 2009 là 54,2 tỷ; năm 2010 là 65,9 tỷ ; năm 2011 là 82,4 tỷ và năm 2012 là 113,8 tỷ đồng… Chi cục KTSTQ thuộc Cục Hải quan Vũng Tàu năm 2011 là 6,8 tỷ đồng; năm 2012 là 8,2 tỷ; Chi cục KTSTQ thuộc Cục Hải quan Đồng nai năm 2009 là 15,5 tỷ; năm 2010 là 40,3 tỷ; năm 2011 là 50,5 tỷ và năm 2012 là 281,4 tỷ đồng.v.v [ 52]. Năm 2013 là một năm đặc biệt khó khăn, nhưng vượt qua những khó khăn đó, một số đơn vị đã hoàn thành và có tỉ lệ hoàn thành chỉ tiêu được giao cao như: Thanh Hóa 107,99%, Quảng Bình 94,45%, Cà Mau, Huế, Đồng Tháp trên 70%… Đặc biệt, những năm vừa qua, lực lượng KTSTQ đã triển khai nhiều cuộc KTSTQ theo chuyên đề đối với các loại hình: Mặt hàng trọng điểm (chuyên đề kiểm tra các đầu mối kinh doanh tạm nhập tái xuất xăng, dầu, khoáng sản…); các lĩnh vực, mặt hàng có rủi ro cao (thiết bị điện tử, điện lạnh, trị giá hàng hiệu như Gucci, Milano, mã số, thuế suất mặt hàng linh kiện ô tô, xe máy, linh kiện điện tử...) và đã đạt kết quả cao. Thông qua KTSTQ trị giá đã phát hiện ra những khoảng trống trong chính sách để kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. 3.3.1.3 KTSTQ về TGHQ đảm bảo thực hiện theo quy trình và đạt hiệu quả bước đầu tương đối tốt. Phúc tập hồ sơ là khâu rất quan trọng khi áp dụng quản lý rủi ro và là bước mở đầu của KTSTQ về TGHQ. Nhìn chung, việc thực hiện phúc tập hồ sơ trong công tác KTSTQ đối với TGHQ đã tương đối có nề nếp, gần 100% số hồ sơ đã được phúc tập sau khi hàng hóa đã được thông quan; chất lượng phúc tập đã được nâng cao hơn trước: những yêu cầu tối thiểu đối với kiểm tra hồ sơ (như đủ hồ sơ, hồ sơ hợp lệ về hình thức) đã đáp ứng được yêu cầu đề ra, những sai sót dễ thấy đã được phát hiện và sữa chữa kịp thời. Công tác phúc tập hồ sơ hải quan trong những năm qua đã truy thu hàng chục tỷ đồng vào ngân sách nhà nước.Thực hiện theo các quy trình nghiệp vụ hướng dẫn về KTSTQ đi trực tiếp kiểm tra về vấn đề trị giá hải quan cơ bản qua các thời kỳ được xây dựng theo hướng cải cách hành chính, minh bạch, đơn giản cho thực hiện của doanh nghiệp và cơ quan hải quan góp phần đưa hoạt động phúc tập trong công tác KTSTQ về TGHQ theo hướng ngày một chuyên sâu, chuyên nghiệp. Bảng 3.8. Kết quả công tác phúc tập hồ sơ từ 2008- 2013 Năm Số tờ khai phải phúc tập Số tờ khai đã phúc tập Đạt tỷ lệ số ( %) 2008 3.557.338 3.295.567 92% 2009 3.962.552 3.723.821 93,98 2010 3.687.830 3.435.051 93,15 2011 4.328.622 4.024.821 92,98%. 2012 5.641.961 5.362.704 95% 2013 5.759.203 5.452.343 94,1% Nguồn: Cục kiểm tra sau thông quan – Tổng cục Hải Quan Từ kết quả của công tác phúc tập hồ sơ, theo bảng 3.8, ta thấy: Năm 2009, công tác KTSTQ đã phúc tập 3.723.821 bộ trong tổng số 3.962.552 bộ tờ khai, đạt tỷ lệ 93,98%. Qua phúc tập đã phát hiện 114,75 tỷ đồng bằng 128,88% so với năm 2008. Một số địa phương đã làm tốt công tác phúc tập hồ sơ và có số truy thu lớn như Cục Hải quan Đồng Nai đã truy thu 89,25 tỷ đồng, Cục Hải quan TP Hồ Chí Minh đã truy thu 5,95 tỷ đồng, Cục Hải quan Hà Nội đã truy thu 1,71 tỷ đồng ..vv Năm 2011, số thu từ phúc tập hồ sơ như sau: Tổng số tờ khai 4.328.622, đã phúc tập 4.024.821 tờ khai, đạt 92,98%. Qua công tác phúc tập đã ra quyết định truy thu 47,5 tỷ đồng, đã thu được 42,5 tỷ đồng vào ngân sách. Trong đó 2 đơn vị có số thu lớn là: Quảng Nam là 20,5 tỷ đồng và thành phố Hồ Chí Minh 12,8 tỷ đồng. Năm 2012 , năm 2013 đạt tỷ lệ phúc tập lần lượt đạt 95%, 94.1% với việc phát hiện vi phạm lên đến 810 vụ, phát hiện có dấu hiệu vi phạm là 501 vụ , ấn định tăng thuế 49,5 tỷ đồng trong năm 2012 và phát hiện vi phạm lên đến 633 vụ, phát hiện có dấu hiệu vi phạm là 832 vụ, ấn định tăng thuế gần 54 tỷ đồng. Như vậy có thể thấy rằng, gần 100% hồ sơ đã được phúc tập sau khi hàng hóa đã được thông quan, do đó đã phát hiện được nhiều vụ vi phạm, và có dấu hiệu vi phạm từ đó truy thu hàng chục tỷ đồng tỷ đồng cho ngân sách nhà nước. Chất lượng phúc tập đã được nâng cao hơn trước: những yêu cầu tối thiểu đối với kiểm tra hồ sơ (như đủ hồ sơ, hồ sơ hợp lệ về hình thức) đã đáp ứng được, những sai sót dễ thấy đã được phát hiện, đã truy thu được thuế qua phúc tập, cụ thể năm 2006 phúc tập phát hiện từ đó quyết định truy thu hơn 28 tỷ, thì đến năm 2011 đã phúc tập và ra quyết định truy thu 55,07 tỷ đồng, đã thu được 52,32 tỷ đồng vào ngân sách. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả nói trên, chất lượng phúc tập vẫn chưa thật sự hiệu quả trong việc đáp ứng yêu cầu của tình hình, nhất là khả năng phát hiện các chứng cứ bất hợp lý và gian lận trong khai báo giá, một tình trạng, theo nhận định là khá phổ biến hiện nay. 3.3.1.4 Kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan đã đánh giá được việc tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp, góp phần cũng cố cơ sở dữ liệu của cơ quan hải quan. KTSTQ về TGHQ là hoạt động tích cực không chỉ cho hải quan mà cho cả doanh nghiệp; vừa giúp hải quan tăng cường quản lý, thu đủ và tránh bỏ lọt các nguồn thu của NSNN đồng thời giúp doanh nghiệp nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật. Trên thực tế, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp là mục đích chính của KTSTQ, được đặt trên cả mục đích thu thuế cho NSNN. Tuy nhiên, với điều kiện của nước ta hiện nay thì nguồn thu từ KTSTQ trong đó có KTSTQ về TGHQ vẫn rất được coi trọng . Trong những năm gần đây, đặc biệt là bắt đầu từ năm 2011 - “Năm Kiểm tra sau thông quan” - được đánh giá là rất thành công, tạo được chuyển biến vượt bậc, tạo một cú hích rất mạnh vào hoạt động KTSTQ trong toàn ngành Hải quan với số thu từ KTSTQ về TGHQ tăng mạnh thì bên cạnh đó tiêu chí nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật hải quan cũng được chú trọng hơn trước. Hằng năm, lực lượng KTSTQ về TGHQ đều có kế hoạch thực hiện KTSTQ để đánh giá tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp trong kế hoạch chung của KTSTQ. Kiểm tra theo kế hoạch được cơ quan Hải quan kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp theo kế hoạch được xác định trong từng năm. Mỗi năm đều có số lượng doanh nghiệp xác định được kiểm tra và việc kiểm tra này phải dựa trên những tiêu chí nhất định của Tổng Cục Hải quan ban hành. Qua thực tế , có thể thấy tổng số doanh nghiệp được kiểm tra, đánh giá sự tuân thủ pháp luật tăng mạnh theo các năm. Cụ thể  (Bảng 3.9): Bảng3.9. Kết quả đánh giá doanh nghiệp tuân thủ pháp luật Hải quan từ năm 2009-2013 Năm Kết quả đánh giá tuân thủ pháp luật hải quan. Tốt Chưa tốt Trung bình Tổng cộng doanh nghiệp được đánh giá 2009 185 234 144 563 2010 284 182 234 700 2011 540 539 228 1.307 2012 1.196 844 290 2.330 2013 869 840 618 2.327 Nguồn : Cục KTSTQ- Tổng Cục Hải quan. Kết quả cho thấy: Trong năm 2011, toàn lực lượng KTSTQ đã kiểm tra, đánh giá được 1.307 doanh nghiệp, bằng 186% so với năm 2010. Năm 2012 và 2013 số lượng doanh nghiệp được đánh giá tuân thủ cũng tăng cao , thể hiện số lượng cuộc KTSTQ theo kế hoạch tăng cao theo hằng năm. Năm 2013, theo số liệu tổng hợp được, đã kiểm tra 2.327 doanh nghiệp, trong đó 869 doanh nghiệp chấp hành tốt, 840 doanh nghiệp vi phạm, 618 doanh nghiệp trung bình. Như vậy, chỉ xét trong ba năm, từ năm 2010 đến năm 2013, tổng số doanh nghiệp được đánh giá việc tuân thủ pháp luật hải quan đã tăng 178% ( năm 2013 so với năm 2010), đây là một kết quả đáng kể trong số liệu báo cáo tình hình chấp hành pháp luật của doanh nghiệp trong báo cáo tổng kết ngành Hải Quan. Tại các chi cục KTSTQ điạ phương, kiểm tra sau thông quan tại trụ sở doanh nghiệp để kiểm tra sự tuân thủ pháp luật hải quan có xu hướng tăng qua các năm. So sánh năm 2012 với 2010, cho thấy : Bình Định tăng gấp 12 lần, Quảng Ngãi tăng gấp 8 lần, Thanh Hóa tăng gấp 23 lần, Huế tăng gấp 8 lần; các đơn vị Long An, Hà Tĩnh tăng 7 lần; các đơn vị Cần Thơ, Tây Ninh tăng 6 lần, Hà Nội tăng 4 lần. Các đơn vị Hải Phòng, Hồ Chí Minh, Bình Dương số doanh nghiệp được kiểm tra đánh giá được tăng trên 150%. Có đơn vị năm 2010 không đánh giá được doanh nghiệp nào thì năm 2013 đã thực hiện tốt công tác này như Quảng Trị tăng 31 lần. Việc kiểm tra theo kế hoạch hằng năm nhằm đánh giá sự tuân thủ pháp luật cho thấy thực tế công tác KTSTQ về TGHQ đã được chú trọng, phản ánh được chất lượng đánh giá tuân thủ pháp luật trong lực lượng KTSTQ nói chung và KTSTQ về TGHQ nói riêng. Thông qua hoạt động đánh giá tuân thủ pháp luật trong lực lượng KTSTQ về TGHQ, đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ hải quan có kiến thức về KTSTQ, kế toán, kiểm toán, thanh tra hải quan.v.v, đồng thời nắm vững chuyên môn nghiệp vụ trong lĩnh vực KTSTQ về TGHQ, thể hiện trình độ, bản lĩnh ngày càng cao khiến doanh nghiệp “tâm phục, khẩu phục” chấp hành nghiêm chỉnh các quyết định xử lý của cơ quan Hải quan. Điều đó, càng khẳng định : Kiểm tra sau thông quan về TGHQ thành công, không chỉ cần những nỗ lực từ phía cơ quan Hải quan, mà còn cần ý thức tuân thủ và cộng tác của doanh nghiệp. 3.3.2 Những hạn chế của công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan ở Việt Nam Qua thời gian 10 năm thực hiện KTSTQ, công tác KTSTQ về trị giá hải quan bước đầu đã đem lại một số kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả mà KTSTQ về TGHQ ở Việt Nam đã đạt được trong thời gian qua, vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, trong đó có thể nói đến những hạn chế cơ bản sau: 3.3.2.1 KTSTQ về TGHQ so với yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra đạt được còn thấp cả về số lượng và chất lượng. Đạt kết quả thấp về số lượng thể hiện là số cuộc KTSTQ so với số doanh nghiệp cần phải kiểm tra sau thông quan còn rất thấp (0,4%); Đạt kết quả thấp về chất lượng là hơn 10% số cuộc KTSTQ không phát hiện được vi phạm, nhiều trường hợp phải chấp nhận trị giá khai báo của doanh nghiệp và phần lớn các trường hợp gian lận qua chuyển giá là chưa được kiểm tra, phát hiện có kết quả. Cụ thể như sau: Như đã phân tích tại phần 3.3.1, có thể thấy rằng, đến năm 2011, Tổng Cục Hải quan mới đặt thành “năm KTSTQ” nhằm đẩy mạnh KTSTQ là quá chậm. Số lượng cuộc KTSTQ về TGHQ trong mấy năm gần đây tuy có tăng nhưng tốc độ tăng của tổng số các cuộc KTSTQ về TGHQ còn rất thấp, kể cả việc thống kê chưa đầy đủ được các cuộc kiểm tra về trị giá hải quan tại các Cục Hải quan địa phương, thì tổng số cuộc KTSTQ về TGHQ trong các năm qua không phù hợp với tốc độ gia tăng của giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu, tốc độ tăng của tờ khai hải quan, tốc độ tăng của gian lận thương mại (xem biểu đồ 3.3) Biểu đồ 3.3. So sánh tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu với tốc độ gia tăng số cuộc KTSTQ về TGHQ Nguồn: Cục KTSTQ, Tổng Cục Hải quan Nếu tại thời điểm cuối 2006, chỉ có khoảng hơn 2 vạn doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu với khoảng 2,3 triệu tờ khai xuất nhập khẩu thì đến năm 2013 đã có gần 6 vạn doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu với 5,9 triệu tờ khai hải quan mà năm 2013 chỉ tiến hành được 2.431 cuộc kiểm tra sau thông quan. Như vậy, số cuộc kiểm tra sau thông quan đã thực hiện được năm 2013 (năm có nhiều cuộc kiểm tra sau thông quan nhất) chỉ chiếm gần tỷ lệ khoảng 0,4% tổng số doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu được kiểm tra . Có nghĩa là cứ 1000 doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu thì chỉ có 4 doanh nghiệp được kiểm tra sau thông quan, một số lượng còn thấp và gần như chưa đáp ứng được yêu cầu về kiểm tra trong điều kiện hiện nay. Và nếu xét riêng về số cuộc kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan thì còn thấp hơn nữa (Bảng 3.10) Bảng 3.10. Thực hiện nhiệm vụ KTSTQ năm 2006 và 2013 Chỉ tiêu 2006 2013 Số doanh nghiệp tham gia XNK ( doanh nghiệp) 20.000 60.000 Số tờ khai XK, NK (tờ khai) 2.319.000 5.920.000 Số cuộc KTSTQ (cuộc) 513 2.431 Số cuộc KTSTQ/Số doanh nghiệp XNK 0,2% 0,4%  Nguồn : Tổng hợp báo cáo của Cục KTSTQ và Tổng Cục Hải quan. Nếu xét đến tỷ lệ phân luồng hàng hóa trong quá trình kiểm tra trong thông quan trong 3 năm 2006, 2012, 2013 cho thấy : Tại thời điểm cuối 2006, với khoảng 2,3 triệu tờ khai xuất nhập khẩu, trong số đó, có khoảng 76% tờ khai thuộc luồng xanh, luồng vàng nhưng chỉ 48% tờ khai hải quan thuộc luồng xanh là được kiểm tra qua hệ thống quản lý rủi ro. Năm 2012, tỷ lệ phân luồng khi làm thủ tục thông quan trong tổng số 5,8 triệu tờ khai hải quan thì luồng đỏ là hơn 11,5%, luồng vàng là hơn 25,3%, luồng xanh là 63,3%. Và trong năm 2013, số lượng tờ khai xuất nhập khẩu vì mục đích thương mại trong cả nước đã đạt 5,92 triệu tờ khai xuất khẩu, nhập khẩu; trong đó tỷ lệ 60.2% được phân vào luồng xanh, 29,6% phân vào luồng vàng và 10,3% phân vào luồng đỏ. Như vậy, số lượng tờ khai hải quan còn phải KTSTQ là rất lớn (xét cả về số lượng và tỷ trọng). Với giả thiết là số hàng hóa được phân vào luồng vàng, luồng đỏ nêu trên đã được kiểm tra trị giá đầy đủ, không có sai sót thì ít nhất cũng có hơn 60% số tờ khai hải quan cần được chuyển sang bộ phận KTSTQ để kiểm tra mới có thể đảm bảo hải quan đã kiểm soát được tình hình quản lý hàng hóa xuất, nhập khẩu. (Biểu đồ 3.3) Mặc dù trên thực tế, không chỉ các các lô hàng thuộc luồng xanh mà còn bao gồm các lô hàng thuộc luồng vàng, luồng đỏ đã được kiểm tra trong thông quan nhưng có dấu hiệu nghi ngờ về hồ sơ, về mức giá khai báo, thuộc đối tượng tham vấn bao gồm cả các trường hợp đã bác bỏ trị giá khai báo hoặc các trường hợp chấp nhận trị giá khai báo sau tham vấn .vv.. thì bộ phận kiểm tra trị giá sau thông quan vẫn tiến hành kiểm tra trên cơ sở phân loại, đánh giá mức độ rủi ro đối với các lô hàng đó. Điều đó cho thấy khối lượng tờ khai hải quan trên thực tế cần KTSTQ về TGHQ còn cao hơn rất nhiều. Biểu đồ 3.4. Số lượng hồ sơ chuyển sang lực lượng kiểm tra xác định trị giá khâu sau thông quan được xử lý. Nguồn: Cục thuế xuất nhập khẩu – Tổng cục Hải quan Theo thống kê, số hồ sơ nghi vấn chuyển từ các chi cục hải quan và phòng trị giá xuất nhập khẩu (Tổng cục Hải quan) về cho bộ phận KTSTQ có khoảng 90% là nghi vấn khai báo thấp trị giá tính thuế hàng nhập khẩu, nhưng kết quả kiểm tra sau đó phần lớn lại chấp nhận trị giá khai báo của doanh nghiệp mà do nhiều nguyên nhân dẫn đến kết quả KTSTQ chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa chứng minh, làm rõ trị giá thực thanh toán. Với tỷ lệ số vụ hồ sơ do bộ phận trị giá kiểm tra trong thông quan chuyển sang lực lượng kiểm tra sau thông quan để xử lý dao động từ 32% - 40%. Tuy nhiên đến nay, công tác kiểm tra khâu sau thông quan về trị giá hải quan phần lớn vẫn chưa kiểm tra, phát hiện được các trường hợp gian lận thương mại lớn về trị giá. (biểu đồ 3.4). Có thể thấy rằng, số cuộc KTSTQ về trị giá hải quan còn quá ít và chỉ được kiểm tra chủ yếu theo dấu hiệu vi phạm, KTSTQ theo chuyên đề, KTSTQ theo kế hoạch mặc dù có những chuyển biến tốt trong những năm gần đây nhưng chất lượng chưa cao. Bên cạnh đó, số lượng các cuộc kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp rất ít, trong khi số lượng KTSTQ tại cơ quan hải quan thì nhiều nhưng kết quả cuối cùng không khả quan. Theo số liệu thống kê, số cuộc KTSTQ tại trụ sở cơ quan hải quan từ năm 2007- 2013 là 8.557 cuộc, chiếm 90% tổng số cuộc KTSTQ; KTSTQ tại trụ sở doanh nghiệp chiếm tỷ lệ rất nhỏ với 944 cuộc chiếm khoảng 10% tổng số cuộc KTSTQ. Tỷ lệ bác bỏ trị giá, kết quả phát hiện ra vi phạm sau các các cuộc kiểm tra trong những năm qua còn rất thấp. Ví dụ như từ năm 2003-2012 , sau khi kiểm tra tổng số cuộc kiểm tra là 8.485 cuộc thì chỉ có 2.956 cuộc là phát hiện được vi phạm, chiếm 34.8%.[5] Chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2020 đã xác định mục tiêu chủ yếu của hoạt động kiểm tra sau thông quan đến năm 2020 việc kiểm tra hải quan sẽ căn bản là kiểm tra sau thông quan với tỷ lệ kiểm tra thực tế hàng hóa đến 2015 là dưới 10% và đến 2020 phấn đấu đạt dưới 7%, tức là có nhiều lô hàng hóa xuất, nhập khẩu chưa được kiểm tra sâu khi làm thủ tục thông quan, thì sẽ là một thách thức lớn cho toàn lực lượng KTSTQ cũng như KTSTQ về TGHQ trong thời gian sắp tới. 3.3.2.2. KTSTQ về TGHQ còn nhiều hạn chế trong việc ngăn chặn gian lận thương mại qua trị giá hải quan. KTSTQ về TGHQ còn nhiều hạn chế trong việc ngăn chặn gian lận thương mại qua trị giá hải quan, bằng chứng là gian lận về giá hiện nay vẫn rất phổ biến, phức tạp và chưa có dấu hiệu bị đẩy lùi. Trên thực tế, hàng nhập khẩu có thuế suất cao thì được doanh nghiệp khai với giá thấp hoặc hàng nhập khẩu có thuế suất thấp thì được khai với giá cao, hoặc những trường hợp ghi giá hóa đơn thấp hơn trị giá thực và không khai báo đầy đủ các khoản điều chỉnh giá ví dụ như các khoản phải cộng trong trị giá, như phí bản quyền, phí vận chuyển chặng nội địa... luôn là xu hướng gian lận qua trị giá phổ biến hiện nay của các doanh nghiệp nhập khẩu. Với mặt hàng rượu vang nhập khẩu, các doanh nghiệp khai báo với giá là 1,8 eur/chai nhưng thực chất qua tham vấn hải quan, xác định trị giá thực tế là 5,8 eur/chai (gấp 3 lần so với khai báo). Một số mặt hàng tiêu dùng nhập khẩu khác xuất xứ từ các nước như Đức, Mỹ, Bỉ cũng bị khai thấp trị giá xuống rất nhiều lần. Ngoài việc doanh nghiệp khai báo tên hàng không đúng thì một số trường hợp, doanh nghiệp khai tên hàng gần so với tên hàng có trong cơ sở dữ liệu giá của cơ quan hải quan, nhưng lại khai báo giá thấp một cách bất hợp lý nhưng cơ quan Hải quan không có đầy đủ thông tin để so sánh, đối chiếu, thiếu căn cứ để tổ chức tham vấn, bác bỏ trị giá khai báo thấp, bất hợp lý của doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp nhập khẩu cố tình khai giá nguyên liệu nhập khẩu rất thấp và chỉ qua quá trình gia công đơn giản như đóng gói bán lẻ, bổ sung thêm số thành phần như hương liệu để tạo ra sản phầm thay thế sản phẩm chính cần nhập khẩu. Ví dụ, tháng 1-2013, Cục Hải quan Hải Phòng phát hiện dấu hiệu nghi vấn khai thấp hơn giá nhập khẩu từ một doanh nghiệp nhập khẩu sữa mở 13 tờ khai nhập khẩu “Thực phẩm bổ sung sữa bột”. Mặt hàng “Thực phẩm bổ sung sữa bột dùng cho trẻ em IMPERIAL DREAM XO1”/XO2/XO3/XO4 đều được khai giá 4,9 USD/hộp (loại 400 g), trong khi đó, giá trong dữ liệu của cơ quan hải quan đối với các mặt hàng này là 7 USD - 8 USD/hộp. Cũng với mặt hàng sữa, Chi cục Hải quan Cảng Sài Gòn khu vực I cũng phát hiện trường hợp gian lận khai báo sữa bột thành sản phẩm dinh dưỡng đối với lô hàng khai báo trên tờ khai hải quan là sản phẩm dinh dưỡng có nguồn gốc thực vật dùng cho trẻ em nhãn hiệu Pfizer trị giá gần 30.000 USD nhưng thực chất là sữa bột dành cho trẻ em S26 Gold có giá trị hơn 109.000 USD, cao hơn gấp ba lần… Khai báo giá thấp hơn hay cao hơn mức giá thực tế thanh toán, ngoài việc trốn thuế nhập khẩu, nó còn có thể được sử dụng như là một công cụ để di chuyển vốn, lợi nhuận hoặc thực hiện các hoạt động rửa tiền, trốn tránh sự quản lý, kiểm soát của nhà nước. Ví dụ như chuyển giá trong ngành lắp rắp ôtô tại Việt Nam là một trong những trường hợp điển hình. Việc chuyển giá ô tô của các doanh nghiệp FDI được thực hiện ngay từ khi bắt đầu đầu tư vào Việt Nam. Trong quá trình đầu tư vào Việt Nam, nhà đầu tư là những tập đoàn lớn, có máy móc thiết bị công nghệ hiện đại nên sẽ tiến hành góp vốn bằng nguồn lực này. Trong khi đó, phía Việt Nam chưa đủ năng lực để thẩm định giá các loại thiết bị công nghệ hiện đại nên thường bị đối tác nước ngoài định giá cao hơn giá trị thực tế. Việc định giá cao sẽ nâng giá trị vốn góp trong liên doanh và chiếm lấy quyền quản trị công ty. Từ đó, giúp cho nhà đầu tư chuyển một lượng tiền ngược trở ra cho công ty mẹ ngay từ lúc đầu tư và thông qua chi phí khấu hao hàng năm. Ngoài việc nâng giá trị tài sản vốn góp liên doanh khi đưa vào đầu tư, nhà đầu tư còn chuyển giá thông qua việc định giá cao đối với một loại chi phí chiếm tỷ trọng lớn do khấu hao giá trị tài sản cố định vô hình là chuyển giao công nghệ và thu phí tiền bản quyền; khai báo trị giá linh kiện nhập khẩu cao sẽ khiến cho chi phí đội lên, làm giá thành tăng, giảm lợi nhuận, qua đó các doanh nghiệp ô tô giảm nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, trong khi công ty mẹ vẫn có lãi lớn về bán linh kiện… Nếu trước kia, hành vi gian lận về trị giá chỉ xuất hiện ở hàng nhập khẩu thì thời gian gần đây, gian lận về trị giá hải quan đối với mặt hàng xuất khẩu có sự gia tăng. Một trong những nguyên nhân về gian lận qua trị giá hàng xuất khẩu gia tăng là do có sự điều chỉnh về thuế suất thuế xuất khẩu đối với một số mặt hàng. Thay vì được hưởng thuế suất 0% hoặc thuế suất ưu đãi thì thuế xuất khẩu của các mặt hàng này cũng được tăng lên. Tháng 3/2009, Đội kiểm soát hải quan (Cục Hải quan Tp.HCM) đã phát hiện 2 doanh nghiệp khai giá hàng xuất khẩu với mức giá chỉ bằng 1/20 giá thực trên thị trường. Năm 2009, tại Cục Hải quan Cần Thơ, trị giá hải quan xuất khẩu của cát vàng được khai báo với mức trị giá khác nhau là 3,39USD / tấn, 6-7 USD/ tấn, trong khi trị giá thực của mặt hàng cát vàng xuất khẩu sang Campuchia cao hơn thực tế khai báo gấp 5 đến 6 lần… Công tác KTSTQ về trị giá hải quan đối với hàng xuất khẩu, nhập khẩu đang trở nên phức tạp hơn khi chủng loại hàng hoá nhập khẩu ngày càng đa dạng, các mức giá cho hàng hoá nhập khẩu tương tự khác biệt nhau rất lớn cũng như các giao dịch mua bán được thực hiện ở nhiều cấp độ khác nhau với nhiều điều kiện bán hàng khác nhau. Phần nhiều thông tin cần có cho KTSTQ về trị giá hải quan là không có sẵn do chúng được các nhà cung cấp nắm giữ. Ví dụ, việc tiến hành kiểm tra chéo hoá đơn xuất ra của bên bán (doanh nghiệp xuất khẩu) với hoá đơn nhập vào của bên mua (doanh nghiệp nhập khẩu) là không thể thực hiện được hay nếu được phải qua các quy trình, thủ tục rất phức tạp, rườm rà. Khi phát hiện dấu hiệu gian lận thuế qua giá, thông thường KTSTQ về TGHQ phải tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ từ nhiều nguồn mà ở đó cần đến sự hợp tác hiệu quả của nhiều cơ quan hữu quan. Hậu quả là cơ quan Hải quan thường buộc phải chấp nhận giá khai báo như là trị giá giao dịch thực tế cho phần lớn hàng hóa nhập khẩu. Bên cạnh đó, việc kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan đối với những trường hợp chuyển giá hầu như là chưa có kết quả. Khối lượng và kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ngày càng lớn nhưng thanh toán phổ biến vẫn dùng tiền mặt hoặc doanh nghiệp sử dụng nhiều tài khoản để thanh toán, sử dụng hoá đơn không đáng tin cậy, không áp dụng các chuẩn mực kế toán và ghi chép sổ sách kế toán, không có địa chỉ kinh doanh cố định hoặc thường thay đổi tên doanh nghiệp. Trong những điều kiện như vậy, rất khó để áp dụng kiểm soát trị giá dựa trên KTSTQ về TGHQ. 3.3.2. 3 KTSTQ về TGHQ chưa thực sự góp phần tích cực chống thất thu NSNN. KTSTQ như đã đề cập ở trên thực chất và chủ yếu là kiểm tra về trị giá hải quan, nhưng để thống kê cụ thể số liệu về KTSTQ về TGHQ của các Cục Hải quan địa phương thì hiện nay không thống kê cụ thể được, chỉ có phòng 1- Cục Kiểm tra sau thông quan (Tổng cục Hải quan) là có số liệu chi tiết, cho thấy khối lượng kiểm tra không nhiều, thậm chí tại phòng 1 là phòng chuyên trách KTSTQ về trị giá thì số cuộc KTSTQ đã thực hiện chưa phải hoàn toàn là những cuộc KTSTQ về trị giá hải quan. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc đánh giá công tác KTSTQ về TGHQ cho đến nay chưa được chính xác. Hiện nay, số lượng doanh nghiệp được cấp mã số có tham gia hoạt động xuất nhập khẩu được gia tăng hàng năm, tốc độ tăng trưởng bình quân 20% và dự báo năm 2020, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt trên 400 tỷ USD, với số lượng tờ khai hải quan đạt trên 10 triệu tờ khai. Theo số liệu tổng hợp kết quả KTSTQ từ năm 2003 đến nay cho thấy số cuộc KTSTQ đã kiểm tra chỉ chiếm gần tỷ lệ khoảng 0,4% tổng số doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, do đó, thất thu NSNN là điều rất rõ ràng trong tình hình gian lận thương mại qua trị giá hải quan chưa có dấu hiệu bị ngăn chặn. 3.3.2.4. KTSTQ về TGHQ chưa đóng góp nhiều vào đảm bảo tính công bằng, cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp tham gia xuất, nhập khẩu. Một trong những mục tiêu của KTSTQ là nhằm tạo điều kiện thuận lợi và công bằng, bình đẳng trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Công bằng, bình đẳng ở đây được hiểu là giữa doanh nghiệp chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật và doanh nghiệp không chấp hành nghiêm các quy định. Kết quả đánh giá của KTSTQ sẽ là thước đo để phân loại hai đối tượng trên, trả lại sự công bằng cho các doanh nghiệp chấp hành đúng những quy định của pháp luật, đồng thời có hình thức xử phạt các doanh nghiệp có vi phạm, có những thủ đoạn gian lận, trốn thuế, gây thất thu ngân sách nhà nước. Do số cuộc KTSTQ về TGHQ còn đạt thấp nên chắc chắn còn khá nhiều doanh nghiệp vi phạm về khai báo trị giá không trung thực, nhưng do chưa kiểm tra phát hiện nên còn chưa bị xử phạt theo quy định. Tất cả các cuộc kiểm tra dù được kiểm tra tại trụ sở cơ quan Hải quan hay tại trụ sở doanh nghiệp đều góp phần ngăn chặn hành vi gian lận tiếp theo của doanh nghiệp và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của doanh nghiệp. Tuy nhiên, hoạt động KTSTQ về TGHQ tại trụ sở cơ quan Hải quan đang chiếm tỷ lệ lớn hơn kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp là một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả các cuộc kiểm tra sau thông quan về giá chưa cao. Việc kiểm tra sau thông quan một cách toàn điện từ khai báo hải quan đến các sổ sách, chứng từ kế toán, chứng từ thương mại .. tại trụ sở doanh nghiệp sẽ giúp đem lại những kết quả đáng tin cậy hơn cho cuộc kiểm tra. Với một số lượng nhỏ doanh nghiệp được kiểm tra trong thời gian vừa qua mà chủ yếu là tập trung kiểm tra tại trụ sở Hải quan nên kết quả của KTSTQ về TGHQ còn hạn chế trong việc nâng cao tính tự giác chấp hành pháp luật và tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng của doanh nghiệp. 3.3.3 Nguyên nhân của những hạn chế nói trên. Qua phân tích ở trên cho thấy rằng, hoạt động KTSTQ về TGHQ trong quá trình thực hiện còn bộc lộ nhiều hạn chế. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trên, trong đó nổi bật những nguyên nhân sau: Thứ nhất: Nhìn chung, cán bộ KTSTQ về TGHQ chưa đáp ứng đầy đủ cả về số lượng và chất lượng so với yêu cầu của KTSTQ về TGHQ trong tình hình hiện nay và sắp tới. Mặc dù tổ chức bộ máy KTSTQ ở Việt Nam đã được xây dựng và ổn định, đội ngũ công chức hải quan làm công tác KTSTQ về TGHQ đã được quan tâm đào tạo, số lượng KTSTQ về TGHQ tăng lên trong những năm gần đây, nhưng nhìn chung nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu cho KTSTQ về TGHQ trong thời gian hiện tại và sắp tới. Theo báo cáo: “Đánh giá hơn một năm thực hiện chỉ thị 568/ CT- TCHQ ngày 09/02/2011 của Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan về Tăng cường công tác kiểm tra sau thông quan” cho thấy: đến năm 2011, toàn ngành Hải quan đã có 688 cán bộ làm công tác KTSTQ chiếm 6,8% tổng biên chế lực lượng toàn Ngành. Mặc dù theo yêu cầu đề ra trong Chỉ thị, số biên chế dành cho lực lượng KTSTQ phải đạt 10% số biên chế của từng đơn vị và toàn ngành. Như vậy, với số biên chế theo báo cáo chỉ đạt hơn 50% tỷ lệ quy định tại Chỉ thị 568/CT-TCHQ. Số lượng cán bộ chuyên trách tại phòng 1- phòng kiểm tra sau thông quan về trị giá như đã nêu ở mục 3.2.2.2, cũng cho thấy số lượng cán bộ trong thời gian qua là quá thấp so với yêu cầu công việc của KTSTQ. Mặc dù hiện nay về chất lượng, tại Cục KTSTQ đã đáp ứng 100% trình độ đại học, cấp chi Cục, tỷ lệ này khoảng 80% số cán bộ làm công tác KTSTQ về TGHQ có trình độ đại học, tuy nhiên để đáp ứng chuyên môn về kiểm toán, các kỹ năng kiểm tra về chứng từ thương mại, chứng từ thanh toán, kiểm tra phát hiện chứng từ giả để phục vụ trong việc KTSTQ về TGHQ thì vẫn còn rất thấp mà nguyên nhân xuất phát từ hai lý do sau: * Do khâu tuyển dụng và đào tạo không đảm bảo đầy đủ chất lượng theo yêu cầu nghiệp vụ KTSTQ về TGHQ. Tính chuyên sâu trong chuyên môn nghiệp vụ của công tác KTSTQ về TGHQ- được xem là lĩnh vực rất khó và có yêu cầu rất cao. Tuy nhiên, một số lượng công chức hải quan làm công tác KTSTQ về TGHQ tăng hàng năm chủ yếu là do tuyển dụng mới, đó là những người chưa có kinh nghiệm về KTSTQ về TGHQ. Thêm vào đó, việc tuyển dụng, bố trí cán bộ lãnh đạo, và cán bộ làm công tác KTSTQ về trị giá có một số trường hợp chưa đúng chuyên môn, chưa được đào tạo đầy đủ kiến thức về kinh tế, tài chính kế toán, kiểm toán hoặc ngoại thương nên đã gặp khó khăn trong khả năng xử lý nghiệp vụ của mỗi cuộc kiểm tra và là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm giảm chất lượng của các cuộc kiểm tra sau thông quan, nhất là kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. * Do cơ chế luân chuyển cán bộ còn chưa hợp lý. Việc luân chuyển cán bộ không mang tính kế thừa mà còn mang nặng tính chủ quan, máy móc, cứng nhắc. Theo quy định, cán bộ hải quan là cán bộ nằm trong quy chế bắt buộc phải luân chuyển vị trí theo định kỳ nhằm hạn chế các hiện tượng tiêu cực xảy ra. Tuy nhiên, do đặc thù của công tác KTSTQ về trị giá cần có tính chuyên sâu nên việc luân chuyển cán bộ làm công tác giá phải yêu cầu tính kế thừa để đảm bảo chất lượng về nghiệp vụ chuyên môn. Mặc dù vậy, tại các địa phương nhiều cán bộ đang làm công tác kiểm tra trị giá có trình độ chuyên môn, đáp ứng được yêu cầu, nhưng sau một thời gian ngắn đã phải chuyển sang các bộ phận khác theo quy chế chung, mà không tính đến tính kế thừa và tính chuyên sâu của công việc, cá biệt có những trường hợp cán bộ đang làm tại Cục KTSTQ chỉ mới về 1 năm thì đã phải luân chuyển đi nơi khác hoặc sang công việc khác. Một số cán bộ làm công tác KTSTQ về TGHQ còn có những hạn chế về kỹ năng, kinh nghiệm thực tiễn và nhất là thông tin cập nhật còn thiếu. Điều này được thể hiện qua chất lượng các cuộc tham vấn; làm thủ tục giải quyết khiếu nại; thực hiện trình tự thủ tục áp dụng các phương pháp xác định giá tính thuế;... còn rất nhiều sai sót…Ngoài ra, việc cán bộ phải kiêm nhiệm, không đủ thời gian để nghiên cứu xử lý các công việc trong lĩnh vực xác định giá tính thuế. Tại các Cục Hải quan địa phương, việc tự đào tạo cán bộ chuyên về kiểm tra trị giá trong nội bộ còn yếu, đa số phụ thuộc kế hoạch đào tạo của Tổng cục, việc cử cán bộ đi học còn mang tính hình thức chưa đúng đối tượng trực tiếp làm công tác KTSTQ về trị giá. Cơ chế đãi ngộ chưa khuyến khích và động viên được công chức hải quan làm công tác KTSTQ về TGHQ, chưa phù hợp để có thể khuyến khích công chức hải quan hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Thứ hai: Còn bộc lộ nhiều hạn chế ở từng khâu công việc trong quá trình thực hiện quy trình kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Quy trình KTSTQ hiện hành được quy định tại QĐ 3350/QĐ – TCHQ ngày 1/1/2013 thay thế cho QĐ 1383/ QĐ-TCHQ-ngày 14/07/2009 và QĐ 2579/QĐ-TCHQ ngày 05/12/2010 của Tổng cục Hải quan. Khi thực hiện quy trình, về cơ bản công chức Hải quan phải thực hiện qua các khâu công việc: - Thu thập thông tin từ các cơ sở dữ liệu trong hồ sơ hải quan và các nguồn thông tin khác Tổng hợp phân tích thông tin để lựa chọn đối tượng kiểm tra (qua dấu hiệu hoặc theo kế hoạch); Kiểm tra tại trụ sở hải quan; Yêu cầu đối tượng và đơn vị làm thủ tục thông quan giải trình về những vấn đề chưa rõ, nghi vấn (chủ yếu là nghi vấn nộp thiếu thuế); Nếu đối tượng giải trình rõ được các nghi vấn thì kết thúc kiểm tra, lưu hồ sơ, nhập thông tin vào cơ sở dữ liệu phục vụ cho quá trình quản lý tiếp theo (cả cho khâu thông quan, chống buôn lậu, KTSTQ); Nếu giải trình vẫn không rõ thì thực hiện xác minh. Nếu kết quả xác minh đã làm rõ được các nghi vấn thì kết thúc kiểm tra, lưu hồ sơ, nhập thông tin vào cơ sở dữ liệu phục vụ cho quá trình quản lý tiếp theo (cả cho khâu thông quan, chống buôn lậu, KTSTQ); Nếu kết quả giải trình, xác minh không làm rõ được các khoản thuế còn thiếu thì ra quyết định truy thu. Nếu doanh nghiệp chấp hành nộp thuế thì kết thúc việc kiểm tra, lưu hồ sơ, nhập thông tin vào cơ sở dữ liệu; nếu doanh nghiệp không chấp hành quyết định truy thu thì quyết định KTSTQ tại trụ sở doanh nghiệp . Thực hiện KTSTQ tai trụ sở doanh nghiệp, cán bộ thực hiện đề nghị doanh nghiệp cung cấp, xuất trình hồ sơ hải quan lưu tại doanh nghiệp, sổ kế toán, chứng từ kế toán, hồ sơ thanh toán và các tài liệu có liên quan để thực hiện kiểm tra Như vậy, với tóm lược quy trình trên cũng cho thấy hai vấn đề quan trọng có thể quyết định sự thành công của một cuộc KTSTQ về trị giá hải quan. Đó là: *) Vấn đề xử lý thông tin liên quan đến cuộc KTSTQ đang kiểm tra. Theo quy trình hiện hành thì KTSTQ thường bắt đầu từ KTSTQ tại trụ sở hải quan dựa trên cơ sở phân tích thông tin. Chỉ khi KTSTQ tại trụ sở hải quan không khẳng định được kết luận thì tiến hành KTSTQ tại trụ sở doanh nghiệp. Như vậy, nắm được đầy đủ thông tin và xử lý thông tin là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của một cuộc kiểm tra sau thông quan về trị giá Hải quan. Trong quy trình cũng nêu rõ các nguồn thông tin để phục vụ cho hoạt động KTSTQ như: Thông tin từ cơ sở dữ liệu của Tổng cục Hải quan (bao gồm hệ thống xử lý dữ liệu Hải quan, hệ thống thông tin quản lý tờ khai; hệ thống thông tin quản lý dữ liệu giá tính thuế( GTT01); hệ thống thông tin quản lý rủi ro; hệ thống thông tin kế toán thuế (KT559).v.v.). Ngoài ra còn nguồn thông tin từ các khâu nghiệp vụ khác như khâu tham vấn giá, khâu chống buôn lậu, kết quả giám định hàng hóa… hoặc từ các Bộ, ngành, cơ quan, đơn vị trong nước và nước ngoài. Trường hợp kiểm tra về trị giá, thu thập thông tin chú trọng hơn đến hệ thống quản lý dữ liệu giá tính thuế (GTT01); giá bán các mặt hàng tương tự, giống hệt; các mức giá chào bán trên mạng internet… để tập trung đối chiếu, so sánh với giá doanh nghiệp đã khai báo nhằm phát hiện sự khai sai khác trong tờ khai hải quan. Như vậy, nếu thông tin không đủ, hoặc không đáng tin cậy sẽ gây ảnh hưởng đến những bước tiếp theo của quy trình, thậm chí đưa đến kết quả sai lệch . Có thể thấy rằng, hệ thống thông tin dữ liệu giá và việc thu thập, khai thác, quản lý và sử dụng thông tin dữ liệu giữa Tổng cục và Cục Hải quan địa phương và các Chi cục là điểm then chốt nhất, quan trọng nhất có tính quyết định trong công tác kiểm tra, xác định trị giá theo Hiệp định Trị giá Hải quan GATT/WTO. Tuy nhiên cho đến nay, công việc đó chưa phục vụ đắc lực và hiệu quả cho công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Hiện nay, hệ thống thông tin quản lý dữ liệu giá tính thuế giai đoạn 1 (gọi tắt là GTT01) được xây dựng theo yêu cầu nghiệp vụ của công tác quản lý trị giá tính thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Hệ thống này đã thay thế chương trình GTT22 nhằm mục tiêu hỗ trợ công tác kiểm tra, xác định trị giá hải quan, và đảm bảo tương thích với các chương trình ứng dụng trong mô hình hải quan điện tử của toàn ngành. Hệ thống này được đánh giá là đáp ứng được yêu cầu quản lý như: cho phép tra cứu dữ liệu từ năm 2010 trở lại đây với kết quả tối đa lên tới 100.000 dòng hàng và mức giá trong 1 lần tra cứu, giao diện màn hình thống nhất ở cả ba cấp; cập nhật thông tin các nguồn khác và danh mục quản lý rủi ro cấp Tổng cục và cấp cục; tự động truyền - nhận tránh được việc thất thoát dữ liệu; có thể kết nối với hệ thống thông quan tự động VNACCS….Song hệ thống GTT01 cũng còn gặp phải những hạn chế nhất định như: các thông tin về hàng hóa nhập khẩu, về mức giá xác định sau tham vấn, mức giá của một số mặt hàng nhập khẩu giống hệt/ tương tự chuyển vào hệ thống cơ sở dữ liệu giá chưa đầy đủ, chưa kịp thời; đã làm ảnh hưởng đến độ chính xác của dữ liệu khi sử dụng. Đối với những nguồn thông tin thu thập từ trong nước và nước ngoài cũng rất hạn chế do ngành Hải quan chưa xây dựng được cơ chế mua tin từ các tổ chức quốc tế về thẩm định giá để xác minh trong trường hợp cần thiết. Mặt khác, việc thu thập thông tin, dữ liệu giá chỉ được thu thập thông tin theo sự vụ, giải quyết vụ việc mà chưa xây dựng quy chế để tổ chức hệ thống phân loại thông tin tổng thể cho nhiều mặt hàng, từ nhiều nguồn thông tin khác nhau trên thị trường nội địa cũng như thông tin trên thị trường thế giới. Như vậy, việc thiếu những thông tin quan trọng đã khiến cán bộ kiểm tra sau thông quan không có thông tin để tiến hành xác định chính xác trị giá hải quan của hàng xuất khẩu, nhập khẩu. *) Trình độ chuyên môn và kỹ năng nghiệp vụ trong quá trình kiểm tra sau thông quan, đặc biệt là giai đoạn kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp là còn nhiều hạn chế. Với một quy trình KTSTQ đã được ban hành như hiện nay, trong thời gian quy định là 02 ngày làm việc đối với trường hợp KTSTQ tại trụ sở cơ quan hải quan;   trường hợp tiếp tục kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp, cơ quan hải quan ban hành quyết định kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp trong thời hạn tối đa 30 ngày kể từ ngày kết thúc kiểm tra tại trụ sở cơ quan hải quan . Về vấn đề này, như đã phân tích ở trên, một số cán bộ làm công tác KTSTQ về trị giá hải quan chưa đáp ứng đầy đủ những kiến thức và kinh nghiệm trong các lĩnh vực kế toán, kiểm toán, ngân hàng, ngoại thương…, một số trường hợp chưa có sự chuẩn bị thông tin đầy đủ, kịp thời thì không thể tiến hành thành công cuộc KTSTQ đạt kết quả tốt. Cũng vì vậy, cho nên trong thực tế, phần nhiều là cán bộ KTSTQ chấp nhận giá mà doanh nghiệp đã khai báo. *) Quy trình KTSTQ hiện nay chưa ban hành được kế hoạch đánh giá các kết quả thực hiện của quy trình theo mối quan hệ tương thích giữa yếu tố đầu vào và yếu tố đầu ra của quy trình. Yếu tố đầu vào là đối tượng KTSTQ (theo các chuyên đề; theo kế hoạch; theo dấu hiệu vi phạm…) và kết quả đầu ra là số thuế truy thu được. Do đó, nếu như có sự so sánh và đánh giá hiệu quả của các quyết định KTSTQ theo chuyên đề với các quyết định KTSTQ theo kế hoạch, theo chọn mẫu, theo phân tích và xử lý thông tin để xây dựng định hướng cho việc xác định đổi tượng KTSTQ hàng năm, KTSTQ ở Việt Nam sẽ biết được hiệu quả của các quyết định xác định đối tượng chịu KTSTQ, để từ đó có định hướng xác định đối tượng KTSTQ sau này được sát đúng hơn . Thứ ba: Chưa có chuẩn mực KTSTQ cho nên trong thực hiện là khó thống nhất; khó tránh khỏi tùy tiện và không đặt yêu cầu. Trước hết, chuẩn mực là những quy định và hướng dẫn về cách làm một công việc nào đó nhằm đảm bảo cho việc thực hiện một cách nhất quán trong toàn ngành để đạt được kết quả. Đó là những quy định về nguyên tắc hoạt động, điều kiện và đạo đức nghề nghiệp, năng lực đối với kiểm tra viên hải quan; quy định về nghiệp vụ KTSTQ và xử lý các mối quan hệ phát sinh trong hoạt động KTSTQ… mà kiểm tra viên phải tuân thủ khi tiến hành hoạt động KTSTQ… Trên thực tế, đã có nghiên cứu và có đề xuất áp dụng hệ thống chuẩn mực KTSTQ trong lực lượng Hải quan, song đến nay việc triển khai và áp dụng vẫn còn bỏ ngõ.Trong thời gian dài, Hải quan Việt Nam đã quen với phương thức kiểm soát đánh giá công việc theo định tính, ít theo định lượng, các dữ liệu dưới dạng số liệu phần lớn được dùng khi làm báo cáo và cũng chỉ thiên về kết quả trước mắt mà chưa gắn với việc đánh giá kết quả hướng đến các mục tiêu lâu dài dựa trên các chuẩn mực. Do vậy, những chuẩn mực đánh giá hiệu quả công việc vẫn đang tiến hành độc lập không gắn kết chặt chẽ với kiểm soát hoạt động nghiệp vụ là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém trong công tác KTSTQ về TGHQ. Thứ tư: Cơ chế phối kết hợp trong quá trình KTSTQ về TGHQ ở phạm vi trong và ngoài ngành Hải quan còn chưa tốt. Trong quá trình thực hiện KTSTQ về TGHQ, cơ chế phối kết hợp để hỗ trợ chuyên môn , chuyên sâu khi KTSTQ là rất quan trọng.Trên thực tế, dựa trên quy chế làm việc của Tổng cục Hải quan, các đơn vị trong quá trình thực hiện nghiệp vụ KTSTQ đã có sự phối hợp tương đối tích cực theo chức năng, nhiệm vụ được giao, tuy nhiên trong các văn bản hướng dẫn chưa thể hiện cụ thể, mối quan hệ phối hợp vẫn còn bỏ ngõ. Thể hiện: a.Mối quan hệ trong nội bộ ngành Hải quan: Mặc dù có sự chỉ đạo chung của Tổng cục về phối kết hợp trong toàn ngành nhưng sự phối hợp giữa các đơn vị với lực lượng KTSTQ chưa có hiệu quả rõ rệt, chưa mang tính hệ thống, mà còn mang tính sự vụ, thiếu sự đồng bộ. Cụ thể như mối quan hệ giữa khâu kiểm tra trong thông quan và khâu kiểm tra sau thông quan được đánh giá là quan trọng và thường xuyên thì trên thực tế đến nay vẫn chưa có quy chế phối hợp đồng bộ giữa bộ phận kiểm tra trong thông quan và bộ phận kiểm tra sau thông quan; giữa Cục Thuế xuất nhập khẩu và Cục Kiểm tra sau thông quan; giữa Cục Kiểm tra sau thông quan và Cục Điều tra chống buôn lậu trong việc chỉ đạo, xây dựng kế hoạch kiểm tra sau thông quan đối với những lô hàng có dấu hiệu gian lận thương mại cao, những địa bàn phức tạp hoặc để xác minh làm rõ những thủ đoạn gian lận thương mại, của những nhóm hàng, mặt hàng trọng điểm và những vụ việc nổi cộm có tính chất phức tạp . b.Mối quan hệ ngoài ngành Hải quan: Trên thực tế, trong thời gian qua, Tổng Cục Hải quan đã có các Quy chế phối hợp công tác giữa Tổng cục Hải quan với các đơn vị ngoài Ngành thông qua các quy chế phối hợp với Ngân hàng Nhà nước, Thuế, Kho bạc , Bộ công An… như Thông tư liên tịch 102/2010/TTLT-BTC-NHNN ngày 04/7/2012 của liên Bộ Tài chính - Ngân hàng Nhà nước Hướng dẫn về việc trao đổi, cung cấp thông tin giữa cơ quan quản lý thuế và các tổ chức tín dụng; Quy chế phối hợp số 3012/QCPH/TCHQ-TCCS ngày 22/06/2003 giữa Tổng cục Hải quan - Bộ Tài chính và Tổng cục Cảnh sát - Bộ Công an.; Quyết định số 1081/QĐ-BTC ngày 6/4/2004 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về quy chế phối hợp giữa 3 cơ quan Thuế, Hải quan, Kho bạc Nhà nước….Tuy nhiên, những Quy chế này quy định về phối hợp giữa Hải quan với các đơn vị: Ngân hàng, công an, cơ quan thuế,…chỉ tập trung về các nội dung phối hợp chống gian lận thuế, chống buôn lậu, …, chưa có quy định riêng về phối hợp cho lực lượng KTSTQ nên gây khó khăn khi cần phối hợp để triển khai các nghiệp vụ KTSTQ dẫn đến trách nhiệm hợp tác của các đơn vị còn nhiều hạn chế, cung cấp thông tin trao đổi phục vụ cho công tác KTSTQ về TGHQ còn chậm, chưa hiệu quả. Chưa có cơ chế phối kết hợp trong việc hỗ trợ chuyên môn, chuyên sâu khi KTSTQ cần đến, ví dụ như: kiểm toán viên, thanh tra viên, các chuyên gia…thì đến nay vẫn chưa có. Trong thực hiện cơ chế phối kết hợp về cung cấp thông tin giữa Bộ Tài chính và các tổ chức tín dụng, ngân hàng chưa phát huy được tác dụng và trách nhiệm của mỗi bên. Chưa có quy định rõ chế tài xử phạt trong trường hợp một trong hai bên không thực hiện cung cấp thông tin. Chính những điều chưa quy định rõ này đã gây nhiều khó khăn cho việc xác minh thông tin của KTSTQ ở Việt Nam. c. Mối quan hệ với Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) và các tổ chức khác trên thế giới. Để xác minh trị giá của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thì các nguồn thông tin, dữ liệu từ các nước, các tổ chức trên thế giới, trong đó có WCO là rất cần thiết. Đến nay, ngành Hải quan vẫn chưa triển khai được cơ chế phối hợp với hải quan các nước trong việc xác minh trị giá trong trường hợp nghi ngờ trị giá và chưa xây dựng cơ sở tại nước xuất khẩu hoặc có cơ chế hợp tác với cơ quan có thẩm quyền tại nước xuất khẩu để lấy thông tin về người xuất khẩu, về chi phí nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu. Chưa xây dựng được cơ chế mua tin từ các tổ chức quốc tế về thẩm định giá như SGS - Tổng công ty giám sát của Thụy Sỹ- là công ty hàng đầu thế giới trong lĩnh vực kiểm tra, thẩm định và chứng nhận với hơn 70.000 nhân viên làm việc tại 1.350 văn phòng, cơ sở giám định trên thế giới- để xác minh trong trường hợp cần thiết. Chính việc thiếu thông tin đã khiến cơ quan Hải quan gặp nhiều lúng túng trong việc xác định hành vi gian lận của doanh nghiệp hoặc trường hợp đã có bằng chứng doanh nghiệp khai thấp giá để trốn thuế cũng không có thông tin để tiến hành xác định chính xác trị giá của hàng nhập khẩu. Thứ năm: Công tác tham vấn để kiểm tra trị giá hải quan chưa được chú trọng trong công tác KTSTQ về TGHQ. Kể từ năm 2006 đến nay, việc tham vấn trị giá hải quan đã trở thành một trong những nghiệp vụ hải quan cơ bản của Hải quan Việt nam. Khi có nghi ngờ về trị giá khai báo trong quá trình thông quan, với sự chấp thuận của Chi cục trưởng Hải quan, công chức hải quan được tổ chức tham vấn để kiểm tra trị giá hải quan. Tham vấn trị giá, về cơ bản là tìm cách xác minh thẩm định tính trung thực, chính xác của trị giá khai báo. Trong trường hợp xác định được rằng, trị giá khai báo là không trung thực, không phản ánh đúng thực tế thương mại, không phải giá thực thanh toán của hàng hóa đó, mà là một mức giá khác thì cơ quan hải quan có thể bác bỏ trị giá khai báo, yêu cầu người khai hải quan xác định lại hoặc công chức Hải quan tự xác định rồi ấn định mức giá cho doanh nghiệp. Do vậy, mức thuế thu được từ doanh nghiệp sẽ không phải là mức thuế mà doanh nghiệp đã tính toán khi khai báo ban đầu. Đó phải là số thuế phản ánh chính xác hơn nghĩa vụ về kinh tế của doanh nghiệp đối với ngân sách nhà nước khi tham gia kinh doanh nhập khẩu hàng hóa. Bên cạnh đó, trong nhiều trường hợp, tham vấn giá giúp phát hiện các trường hợp chuyển giá cuả các công ty đa quốc gia hoặc các tổ chức tội phạm rửa tiến quốc tế. Với vai trò hết sức quan trọng như vậy, nhưng trước đây, các văn bản hướng dẫn vấn đề tham vấn giá chủ yếu tập trung trong khâu thông quan, cụ thể là Quyết định số 103/QĐ-TCHQ ngày 24/01/2011 của Tổng cục Hải quan về việc ban hành Quy trình kiểm tra, tham vấn, xác định giá tính thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu cũng quy định rất chi tiết về tham vấn giá. Với xu hướng chủ yếu là “ hậu kiểm” với 90% lượng hàng hóa nhập khẩu sẽ phải KTSTQ trong những năm gần đây, thì việc tham vấn giá chỉ tập trung ở khâu thông quan đã là một hạn chế trong công tác KTSTQ nói chung và KTSTQ về TGHQ nói riêng. Công tác tham vấn về giá trong quá trình thông quan hiện nay cũng không mang lại hiệu quả cao với tỷ lệ bác bỏ sau khi tham vấn từ 10%- 12% trên tổng số các lô hàng tham vấn còn lại, đa số là chấp nhận trị giá khai báo đã gây thất thu lớn cho ngân sách, làm giảm hiệu quả kiểm tra về trị giá đang là một vấn đề thách thức cho công tác KTSTQ. Tóm lại, chương 3 đã nêu lên được bối cảnh của công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan giai đoạn 2006- 2013 bằng cách đánh giá toàn diện thực trạng của KTSTQ về TGHQ. Với những số liệu qua khảo sát, thống kê từ Tổng Cục Hải quan, Cục KTSTQ đảm bảo đưa đến cái nhìn toàn diện về bức tranh KTSTQ về TGHQ ở nước ta trong những năm qua. Qua đó, rút ra được những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong lĩnh vực này; để làm cơ sở đề xuất các giải pháp, tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện để phát triển công tác KTSTQ về TGHQ đáp ứng yêu cầu theo phương pháp quản lý hiện đại. Luận án cũng đã khẳng định: KTSTQ về TGHQ là một lĩnh vực còn non trẻ, và đang gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện. Trong bối cảnh và yêu cầu của việc phát triển ngành Hải quan theo hướng hiện đại hóa thì việc tìm ra các giải pháp để khắc phục những khó khăn, nâng cao hiệu quả trong lĩnh vực KTSTQ về TGHQ là việc làm rất cần thiết. Chương 4 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN VỀ TRỊ GIÁ HẢI QUAN Ở VIỆT NAM 4.1. Các cam kết quốc tế về hải quan và những cơ hội, thách thức đối với kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan ở Việt Nam. 4.1.1 Các cam kết quốc tế về hải quan mà Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện Việt Nam đã là thành viên của nhiều tổ chức thế giới như WTO, WCO, APEC, ASEAN, ASEM… Hải quan Việt Nam được Nhà nước giao nhiệm vụ kiểm tra hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, xuất nhập cảnh phương tiện vận tải. Là thành viên của các tổ chức trên thế giới, Việt Nam phải cam kết thực hiện nhiều quy định đối với một thành viên chính thức của tổ chức. Trong đó, các cam kết về giảm thuế, ưu đãi mở cửa thị trường đóng một vai trò rất quan trọng. Các cam kết quốc tế về hải quan mà Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện luôn gắn liền với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, trong đó yêu cầu về kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan đóng vai trò chủ yếu. Các cam kết quốc tế về hải quan mà Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện có thể tóm tắt như sau: 4.1.1.1 Cam kết trong WTO Sau khi là thành viên đầy đủ của WTO ( từ ngày 12/01/2007), Việt Nam có trách nhiệm thực hiện các cam kết liên quan tới lĩnh vực hải quan, trong đó có lĩnh vực KTSTQ về TGHQ. Các cam kết trong khuôn khổ WTO liên quan đến hàng hóa xuất nhập khẩu mà Việt nam phải thực hiện là: Về trị giá hải quan: Việt Nam cam kết tuân thủ điều VII của Hiệp định GATT 1994 của WTO (gọi tắt hiệp định ACV). Theo đó, việc xác định trị giá hải quan sẽ dựa trên cơ sở trị giá giao dịch với tất cả các hàng hóa có xuất xứ từ các nước thành viên WTO. Về phí và lệ phí, Việt Nam cam kết các loại phí và lệ phí thực thu không vượt quá chi phí của dịch vụ cung ứng. Về thủ tục hải quan: Việt Nam cam kết sẽ hỗ trợ cao trong việc đơn giản và hài hòa hóa thủ tục hải quan theo Điều VIII của GATT/WTO. Liên quan đến những quy định về tự do quá cảnh theo Điều V Hiệp định GATT. Về kiểm soát việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới: Việt Nam đã có văn bản pháp lý cơ bản phù hợp với các quy định của Hiệp định TRIPS. Tuy nhiên để thực hiện đầy đủ Hiệp định TRIPS, Việt Nam cam kết sẽ bổ sung một số điểm như quyền của chủ sở hữu được phép kiểm tra những hàng hóa bị ngăn giữ và hải quan phải có thẩm quyền chủ động cho đình chỉ việc thông quan hàng hóa nếu có dấu hiệu đầy đủ cấu thành hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ từ phía doanh nghiệp. Về khiếu nại, khiếu kiện hành chính: Việt Nam phải cam kết các quy định chi tiết, minh bạch về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ khiếu nại hành chính, không sử dụng và giải quyết các thủ tục khiếu kiện theo mô hình “ gia đình chủ nghĩa” dưới dạng công văn cũng như văn bản, ban hành chính sách. Về minh bạch hóa chính sách: Việt Nam cam kết thực thi đầy đủ các quy định tại điều X Hiệp định GATT 1994, Điều III Hiệp định GATT 1994 và các yêu cầu khác của WTO về minh bạch hóa chính sách. Trong lĩnh vực hải quan, Việt Nam cam kết sẽ tạo các điểm hỏi đáp và cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp, hiệp hội, cá nhân liên quan, thành lập các điểm cung cấp thông tin và trả lời các yêu cầu của các thành viên trong lĩnh vực này. Về các cam kết khác: Việt Nam chưa có các cam kết liên quan đến giám định trước khi giao hàng. Về chống bán phá giá, Việt Nam cam kết sẽ tích cực phối hợp với Hải quan các nước xuất khẩu xác minh trị giá hải quan. Cam kết đảm bảo quyền kinh doanh, trong đó có kinh doanh xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp nước ngoài, mở cửa thị trường, cung cấp các dịch vụ chuyển phát nhanh, dịch vụ giao nhận vận tải, đại lý làm thủ tục hải quan, dịch vụ tư vấn pháp lý về hải quan, dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ kho bảo thuế, kho ngoại quan, cửa hàng miễn thuế sẽ phát triển. Cam kết về đơn giản hóa những thủ tục cấp phép hoạt động đối với kho bảo thuế, kho ngoại quan, cửa hàng miễn thuế , cấp chứng chỉ hành nghề đại lý làm thủ tục hải quan.v.v.. 4.1.1.2 Cam kết trong WCO Là thành viên của WCO, cùng với việc thực hiện hiệp định trị giá GATT về xác định trị giá hải quan đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu theo cam kết của WTO, Việt Nam còn có nghĩa vụ thực hiện Công ước Kyoto về thủ tục hải quan, Công ước HS về phân loại , áp mã hàng hóa xuất, nhập khẩu. Việt Nam chính thức tham gia công ước Kyoto từ năm 1997, Công ước Kyoto sửa đổi 1999 và tham gia Công ước HS từ năm 1998. Đây là công ước quốc tế liên quan chặt chẽ với hoạt động của cơ quan hải quan của các nước trên thế giới. Thực hiên các cam kết trong Công ước Kyoto và Công ước HS đặt ra yêu cầu các quốc gia thành viên có nghĩa vụ tuân thủ, thực hiện đúng và thống nhất các quy định về đơn giản hóa thủ tục hải quan. Trong WCO, ngoài những nghĩa vụ của thành viên WCO, các nước thành viên là bên tham gia các công ước do WCO quản lý phải tuân thủ các quy định đối với từng công ước cụ thể. Là thành viên của WCO, Việt Nam cam kết thực hiện các quyết định có liên quan đến phân loại, áp mã hàng hóa xuất, nhập khẩu đã được ủy ban kỹ thuật HS của WCO thông qua. Đối với công ước Kyoto, Việt Nam có nghĩa vụ tuân thủ và thực hiện các quyết định của Ủy ban các vấn đề và tạo thuận lợi cho thương mại. Đối với Hiệp định trị giá GATT, Việt Nam có nghĩa vụ tuân thủ các quyết định đã được Ủy ban kỹ thuật trị giá của WCO và WTO thông qua. Từ năm 2006, trong bối cảnh tăng cường an ninh và chống khủng bố, WCO đã xây đựng công cụ mới là Khung tiêu chuẩn về an ninh và tạo thuận lợi cho thương mại toàn cầu. (SAFE- Framworks of Standards to Scure and Facilitate Global Trade). Mục tiêu đầu tiên của khung tiêu chuẩn là thiết lập một bộ tiêu chuẩn cho an ninh và dây chuyền thương mại và tạo thuận lợi ở cấp dộ toàn cầu để tăng cường sự chắc chắn và có thể dự báo, chuyển các hướng dẫn liên quan đến an ninh sang các tiêu chuẩn có thể triển khai thực hiện một cách linh hoạt và phù hợp với thực tiễn. Hầu hết các biện pháp tăng cường an ninh trong Khung tiêu chuẩn được xây dựng dựa trên thủ tục hải quan hiện đại theo các hướng dẫn, khuyến nghị và văn kiện liên quan của WCO. Mọi dữ liệu đều được xây dựng theo một chuẩn chung và có thể dễ dàng trao đổi giữa các nước thành viên. 4.1.1.3 Cam kết trong ASEAN. Hiện nay, các nước thành viên ASEAN đang trong quá trình tiến tới thành lập Cộng đồng kinh tế chung. Vì vậy, việc thống nhất các tiêu chí phân loại đối với hàng hoá xuất, nhập khẩu đóng vai trò quan trọng trong hội nhập với bối cảnh ASEAN bao gồm những nền kinh tế có mức độ phát triển chênh lệch, khác nhau. Trên thực tế, các cam kết về hải quan trong ASEAN mang tính chuyên sâu về nghiệp vụ được thể hiện thông qua Chương trình hành động trong khuôn khổ về kế hoạch chiến lược phát triển Hải quan 2005-2010. Kế hoạch này bao gồm 15 lĩnh vực: Phân loại hàng hoá; Xác định giá trị hải quan; Xác định xuất xứ hàng hoá; Xây dựng hải quan điện tử ASEAN và ứng dụng CNTT trong hải quan nhằm tạo thuận lợi thương mại và kiểm soát hải quan; Thông quan hải quan; Quá cảnh hải quan; Tạm quản; Kiểm tra sau thông quan; Kiểm soát và hỗ trợ lẫn nhau; Cải cách và hiện đại hoá hải quan; Phát triển và quản lý nguồn nhân lực hải quan; Hợp tác quốc tế và hải quan ASEAN; Quan hệ đối với các bên có liên quan đến Hải quan và Cộng đồng doanh nghiệp ... Một số vấn đề đang được quan tâm trong khuôn khổ hợp tác ASEAN như: Xác định giá trị hải quan theo Hiệp định ACV: Trước tiên, Việt Nam áp dụng Hiệp định ACV đối với tất cả hàng hoá có xuất xứ ASEAN, được nhập khẩu theo hợp đồng thương mại và trong danh mục hàng hoá của Việt Nam để thực hiện Hiệp định về ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung. Kiểm tra sau thông quan: Đây thực chất là biện pháp nghiệp vụ hỗ trợ cho thực hiện hiệu quả và hiệu lực các Công ước, Hiệp định quốc tế về hải quan như Công ước HS về phân loại hàng hoá, Hiệp định trị giá về xác định giá tính thuế. Để hài hoá thủ tục, ASEAN đã xây dựng sách hướng dẫn về KTSTQ, trong đó có nội dung quan trọng hướng dẫn các phương pháp áp dụng, kinh nghiệm trong công tác xác định mã số hàng hoá theo HS để các nước thành viên ASEAN tham khảo. Đơn giản hoá danh mục biểu thuế Hài hoà ASEAN: Cho đến nay, các nước ASEAN đã tiến hành áp dụng các biểu thuế của nước mình cho hàng hóa ASEAN theo Danh mục đơn giản hoá Danh mục thuế quan hài hoà ASEAN, gọi tắt là Danh mục AHTN (Asean Harmonzied Tarif Nomenclature). ASEAN cam kết thực hiện danh mục AHTN theo phiên bản HS 2007 và ATHN theo HS2012. Việt Nam áp dụng Danh mục AHTN cho cả thương mại trong và ngoài khối ASEAN. Xuất xứ hàng hoá: ASEAN đã xây dựng các quy tắc xuất xứ dành cho chương trình cắt giảm thuế quan có hiệu lực chung cho khu vực mậụ dịch tự do ASEAN, đang đàm phán việc xác định quy tắc xuất xứ ASEAN với các nước đối tác như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, New Zealand, ASEAN cũng đang thảo luận về việc áp dụng chứng nhận xuất xứ điện tử cho hàng hoá trao đổi giữa các nước thành viên ASEAN và đang nghiên cứu mở rộng cho cả các nước là đối tác song phương của Việt Nam và ASEAN. Tờ khai hải quan ASEAN: Hải quan ASEAN đang xây dựng mẫu Tờ khai hải quan áp dụng chung để thống nhất trong ASEAN. Năm 2006, Hải quan Việt Nam cho áp dụng thí điểm nhưng chưa nhận được ý kiến đóng góp từ phía cộng đồng doanh nghiệp. Hiện nay, các nước thành viên ASEAN vẫn đang tiếp tục thảo luận để thống nhất các tiêu chí trong tờ khai hải quan chung ASEAN. Một nhóm nước có xu hướng giảm tiêu chí trong tờ khai hải quan chung ASEAN (Singapore, Thái Lan, Malaysia); một số nước khác đề nghị áp dụng đầy đủ các tiêu chí theo tờ khai mẫu của Cộng đồng Kinh tế Châu Âu (Tờ khai DAU). Do đó, các nước ASEAN đang xem xét để hoàn thiện tờ khai này. Cơ chế một cửa ASEAN: Điều này được quy định trong Công ước Kyoto sửa đổi. ASEAN đã xây dựng Hiệp định về xây dựng và thực hiện cơ chế một cửa ASEAN và Nghị định thư kỹ thuật. ASEAN-6 (gồm 6 nước Malaysia, Singapore, Thái Lan, Philippines, Indonesia, Brunei sẽ thực hiện vào năm 2008 và ASEAN-4 (gồm 4 nước Việt Nam, Lào, Campuchia, Mianma) thực hiện vào năm 2012. Tuy nhiên, để thực hiện có hiệu quả Hiệp định và Nghị định thư nói trên, Việt Nam cần sự hợp tác tích cực của tất cả các Bộ, ngành để triển khai thực hiện cam kết. 4.1.1.4 Cam kết trong APEC. Hải quan là một trong lĩnh vực quan trọng trong khuôn khổ hợp tác APEC. Thực chất, đây là một diễn đàn nên các vấn đề hợp tác kinh tế mới chỉ dừng ở mức thấp do trình độ phát triển của các nước quá chênh lệch. Tuy vậy, việc thống nhất trong cách phân loại, áp mã hàng hoá xuất , nhập khẩu phục vụ nhu cầu bảo đảm an ninh lại rất được coi trọng. Tiểu ban thủ tục hải quan, trong đó có Uỷ ban xây dựng các tiêu chí phân loại, áp mã hàng hoá xuất, nhập khẩu chính xác và thống nhất hoạt động dựa trên 5 nguyên tắc: thuận lợi, trách nhiệm, thống nhất, minh bạch và đơn giản hoá, nhằm thực hiện mục tiêu tạo thuận lợi cho thương mại, giảm chi phí giao dịch thông qua việc đơn giản hoá và hài hoà thủ tục hải quan, đồng thời, đảm bảo an ninh thương mại trong khu vực. Cho đến nay, các hoạt động của Tiểu ban thủ tục hải quan được đánh giá thông qua việc thực hiện 16 nội dung nằm trong kế hoạch hành động tập thể trong lĩnh vực hải quan, được các nền kinh tế thành viên xây dựng bằng việc đề ra các mục tiêu cũng như kết quả dự kiến đạt được, bao gồm: thực hiện Công ước HS về mô tả và mã hoá hàng hoá; tăng cường thông tin cho công chúng; đơn giản hoá và hài hoà hoá trên cơ sở Công ước Kyoto; thương mại phi giấy tờ; thực hiện Hiệp định trị giá của WTO; thực hiện Hiệp định TRIPS; thực hiện các điều khoản kháng nghị rõ ràng; thực hiện Hệ thống phân loại trước khi nhập khẩu; hài hoà dữ liệu thương mại trong APEC; đối thoại hải quan – doanh nghiệp. 4.1.1.5 Cam kết trong ASEM. Về cơ bản, ASEM đưa ra các sáng kiến nhằm thúc đẩy các hoạt động hướng vào mục tiêu chung là tăng cường hợp tác cơ quan hải quan giữa Châu Âu và Châu Á. Mục đích chủ yếu là nhằm đơn giản hoá và hài hoà hoá thủ tục hải quan, tăng cường kiểm soát và điều tra chống buôn lậu (ma tuý, vũ khí và hoạt động rửa tiền), trao đổi thông tin, cộng tác chặt chẽ giữa hải quan và giới doanh thương nhằm đạt được những hiệu quả cao trong cả hai lĩnh vực tuân thủ và thuận lợi, trợ giúp kỹ thuật và đào tạo cán bộ, trao đổi chuyên gia trog lĩnh vực nghiệp vụ. Sáng kiến của ASEM được tổ chức thành 3 hoạt động chính, đó là: nhóm làm việc về thủ tục hải quan; nhóm làm việc về kiểm soát hải quan và hội thảo hải quan và doanh nghiệp về đơn giản và hài hoà thủ tục hải quan. Trọng tâm của hoạt động hợp tác ASEM về hải quan là triển khai thực hiện kế hoạch hành động tạo thuận lợi cho thương mại, bao gồm một loạt các hoạt động, trong đó có 9 giải pháp khả thi chính liên quan đến hoạt động của ngành Hải quan là: + Tăng cường sự liên kết và hài hoà danh mục biểu thuế theo tiêu chuẩn WCO. + Thực hiện Hiệp định về trị giá WTO. + Tăng cường tính minh bạch thông qua tiếp cận được các cơ sở dữ liệu của các thành viên ASEM về thuế, danh mục biểu thuế, chỉ dẫn về thuế, quy trình và thủ tục XNK, quy tắc xuất xứ, luật lệ hải quan. Xác định các rào cản và xây dựng các biện pháp để xoá bỏ chúng. + Tổ chức hội thảo giữa hải quan và doanh nghiệp với sự tư vấn của Diễn đàn doanh nghiệp Á – Âu bao gồm các vấn đề phân tích rủi ro, trao đổi dữ liệu điện tử, hệ thống chứng từ điện tử, giảm thời gian thông quan. Coi Công ước Kyoto sửa đổi là tiêu chuẩn để đơn giản, hài hoà thủ tục hải quan. Áp dụng kiểm tra một cửa cho các đối tác ASEM trong điều kiện cho phép. + Cải thiện tính minh bạch qua việc phổ biến, làm rõ các quy trình thủ tục hải quan theo yêu cầu của doanh nghiệp. + Khai thác các lợi thế chung của các thành viên ASEM trong WCO và WTO. + Xem xét các nguồn tài trợ nhằm hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo về mặt nghiệp vụ, thủ tục hải quan, đóng góp kinh nghiệm cho ASEM. + Xây dựng bộ Quy tắc ứng xử, tăng cường tính liêm chính hải quan.[67] 4.1.2 Các cơ hội và thách thức, tác động đến công tác KTSTQ về trị giá hải quan trong thực hiện các cam kết quốc tế. 4.1.2.1 Các cơ hội: Sau khi trở thành thành viên của nhiều Tổ chức quốc tế lớn, liên minh hải quan các nước, ngành Hải Quan đã có nhiều cơ hội không nhỏ như: - Có điều kiện tham gia sâu rộng hơn trong việc hoàn thiện các phương pháp kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan cũng như trao đổi kinh nghiệm của mình với các nước thành viên. Ngành Hải quan có điều kiện thuận lợi hơn tăng cường năng lực hoạt động của mình trong việc hợp tác với hải quan các nước trong khu vực thông qua các khóa đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật. Thực hiện KTSTQ về trị giá hải quan sẽ giúp việc trao đổi thông tin dễ dàng hơn cho công tác điều tra chống buôn lậu và chống gian lận thương mại, cũng như việc trao đổi số liệu thống kê ngoại thương với độ tin cậy cao. - Việc tham gia các Liên minh Hải quan với các nước trong khu vực và trên thế giới tạo cơ hội mở rộng và nâng cao sự hợp tác với Hải quan các nước thành viên ASEAN, WTO trong việc thực hiện cơ chế phân loại chung, thống nhất theo tiêu chuẩn quốc tế, góp phần hợp tác trong việc đấu tranh chống gian lận thương mại. - Do yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế và sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, ngành Hải quan đã nhận được sự quan tâm rất lớn của Đảng và Nhà Nước đối với công cuộc cải cách, hiện đại hóa hải quan. Ngành Hải quan có thể đổi mới trang thiết bị với các công nghệ tiên tiến phục vụ cho công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá Hải quan. - Nhà nước đang trong quá trình xây dựng Chính phủ điện tử và ngành Hải quan là một trong những ngành ưu tiên của Chính Phủ để thực hiện cải cách hành chính, giảm tiêu cực phiền hà. Một trong những khâu quan trong góp phần giảm thiểu sự không thống nhất giữa Hải quan- Doanh nghiệp liên quan đến KTSTQ về TGHQ do đó sẽ giúp hải quan bắt kịp với những cải cách, hiện đại của hải quan các nước trong khu vực. - Nhà nước ưu tiên cho ngành Hải quan cùng ngành thuế thí điểm cơ chế khoán biên chế, khoán chi phí hành chính tạo điều kiện nâng cao thu nhập của cán bộ công chức đồng thời tạo điều kiện để ngành Hải quan thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ các hoạt động của ngành, đặc biệt có điều kiện mời chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực khác nhau vào làm việc hoặc cộng tác với cơ quan hải quan để thực hiện tốt công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Các cơ hội trên sẽ có những tác động tích cực trong việc phát triển ngành Hải quan thúc đẩy nền tài chính Việt Nam không ngừng đổi mới. Bên cạnh các cơ hội vẫn còn nhiều thách thức rất lớn, đòi hỏi phải có quyết tâm lớn để vượt qua các thách thức. 4.1.2.2 Thách thức - Hải quan Việt Nam thực hiện việc cải cách, hiện đại hóa chậm hơn các nước trong khu vực và trên thế giới nên việc hội nhập theo cam kết sẽ đặt ngành Hải quan trước những thách thức không nhỏ. Việt Nam là nước đi sau nên khó bắt kịp tốc độ với các nước đi trước. Việc triển khai các cam kết quốc tế để đáp ứng tự do hóa thương mại như áp dụng trị giá GATT, thực thi quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa xuất nhập khẩu tại biên giới, tuân thủ các cam kết về xuất xứ …thực sự là những nhiệm vụ khó khăn đối với ngành Hải quan nói chung và KTSTQ về trị giá nói riêng - Công tác của ngành Hải quan nói chung, KTSTQ về TGHQ nói riêng có liên quan chặt chẽ đến nhiều lĩnh vực công tác khác như nội, ngoại thương, ngân hàng, an ninh, ngoại giao, du lịch…Trong thời gian qua, mặc dù hệ thống pháp luật về hải quan đã được sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu của hội nhập, tự do hóa thương mại, tuy nhiên hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay còn thiếu sự đồng bộ giữa các văn bản, một vấn đề được ban hành ở nhiều văn bản khác nhau nên khó theo dõi. Thực tế khi thực hiện các văn bản pháp luật mới ban hành, mới bộc lộ rõ những khiếm khuyết và phải tiếp tục điều chỉnh, bổ sung. Rõ ràng đây là một thách thức không nhỏ cho KTSTQ cũng như KTSTQ về trị giá hải quan. - Nền hành chính vẫn chưa theo kịp yêu cầu đổi mới, nhiều rào cản thương mại vẫn còn duy trì, sự minh bạch trong thương mại tuy có tiến bộ nhưng vẫn chưa theo kịp với trình độ chung của quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hóa, tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động của thị trường các nước sẽ tác động đến thị trường trong nước, đòi hỏi chúng ta phải có chính sách vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình, cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế tiêu cực của những tác động từ phía thị trường thế giới. Công tác KTSTQ về trị giá hải quan vẫn còn nặng về thủ tục hành chính nên sẽ khó theo kip tốc độ phát triển của đất nước. - Kiểm soát trị giá hải quan hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu vẫn là một vấn đề khó khăn, nhức nhối của ngành Hải quan và Bộ Tài Chính. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của thương mại, hoạt động gian lận thương mại cũng diễn biến hết sức phức tạp gây tổn hại lớn cho nền kinh tế Việt Nam nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung. Một trong những hành vi gian lận thương mại đang được quan tâm nhất hiện nay là gian lận qua trị giá hải quan với tình hình lợi dụng việc áp dụng trị giá tính thuế (theo điều 7 - Hiệp định GATT/WTO) để trốn thuế ngày càng trở nên đáng lo ngại. Do đó, việc kiểm tra hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong quá trình thông quan cũng như sau thông quan nhằm ngăn chặn hoạt động gian lận thương mại nói chung và gian lận qua trị giá tính thuế nói riêng, là hết sức cần thiết trong giai đoạn phát triển đất nước hiện nay. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hiện nay nhằm xây dựng và hiện đại hoá ngành hải quan Việt Nam, trong tiến trình hội nhập của hải quan trong nước với hải quan thế giới . - Một bộ phận cán bộ hải quan vẫn chưa nhận thức đầy đủ về bối cảnh tình hình và nhiệm vụ được giao nên vẫn còn gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc thực hiện KTSTQ về giá, nhiều người vẫn giữ tư duy quản lý thủ công truyền thống nên có nhiều khi lại không am hiểu những tiến bộ mới trong việc kiểm tra trị giá trong quá trình KTSTQ. Các thách thức trên đòi hỏi ngành Hải quan cũng như công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan phải có tinh thần tự lực, tự cường, ý chí vươn lên, khắc phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ của từng cán bộ, công chức trong ngành Hải quan. 4.2. Quan điểm và phương hướng thực hiện kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan tại Việt Nam trong thời gian tới. 4.2.1 Quan điểm trực hiện Ngành Hải quan đang tích cực chủ động trong công cuộc cải cách hiện đại hóa Ngành. Các quy trình, thủ tục và phương pháp áp dụng thủ công trong kiểm tra sau thông quan về trị giá Hải quan thủ công đang được thay thế bởi các quy trình tiên tiến, ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, hội nhập quốc tế theo nhiều cấp độ khác nhau. Để thực hiện mục tiêu của ngành về nghiệp vụ KTSTQ cũng như kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan, cần quán triệt một số quan điểm sau: Quan điểm 1: Hoàn thiện cơ sở pháp lý trên hai lĩnh vực : KTSTQ và TGHQ theo hướng thống nhất về nội dung trong văn bản giữa các Ngành, các cấp sẽ tạo điều kiện để thực hiện KTSTQ về trị giá hải quan thống nhất với luật pháp quốc gia đồng thời phải đáp ứng yêu cầu vừa tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, tuân thủ các quy tắc pháp lý quốc gia và quốc tế vừa đản bảo quản lý chặt chẽ hàng hóa xuất, nhập khẩu theo đúng quy định pháp luật quốc gia về thực hiện chính sách quản lý xuất, nhập khẩu, chính sách giá, chính sách thuế của Nhà Nước. Quan điểm 2: Hoàn thiện mô hình tổ chức KTSTQ hiện đại và chuyên nghiệp. Chú trọng phát huy nguồn lực trong và ngoài nước trong đó yếu tố nôi lực của Ngành Hải quan là yếu tố quyết định nhất, đồng thời tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ của cộng đồng doanh nghiệp kết hợp với xem xét tham khảo, học tập kinh nghiệm của Hải quan các nước. Quan điểm 3: Hoàn thiện các phương pháp kỹ thuật nghiệp vụ dựa trên phương pháp quản lý doanh nghiệp bằng hệ thống thông tin hiện đại, tích hợp nhiều nguồn thông tin trong và ngoài ngành Hải quan để có thể phân loại, sàng lọc, xác định được các đối tượng trọng điểm để thực hiện kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan có kết quả cao. Quan điểm 4: Nâng cao nhận thức trong toàn ngành về KTSTQ. Hoạt động KTSTQ sẽ chiếm vị trí then chốt trong hoạt động kiểm tra hải quan Việt Nam, trong đó hoạt động KTSTQ về trị giá hải quan cần được đầu tư, nghiên cứu tập trung nguồn lực để giải quyết tình trạng khó khăn như hiện nay về chống chuyển giá. Quan điểm 5: Hoàn thiện quy trình, nghiệp vụ KTSTQ về trị giá hải quan theo hướng quy chuẩn, dễ hiểu, dễ thực hiện, dựa trên cơ sở phân tích rủi ro và được đánh giá hiệu quả theo đầu vào, đầu ra của quy trình theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế. 4.2.2 Phương hướng thực hiện Thời gian vừa qua, công tác cải cách, hiện đại hóa hải quan được Chính phủ, Bộ Tài chính và Ngành Hải quan đặc biệt coi trọng và được đẩy mạnh. Chiến lược phát triển Hải quan Việt Nam đến năm 2020 đã được xác định với mục tiêu tổng quát là: “Xây dựng Hải quan Việt Nam hiện đại, có cơ chế, chính sách đầy đủ, minh bạch, thủ tục hải quan đơn giản, hài hòa đạt chuẩn mực quốc tế, trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin, xử lý dữ liệu tập trung và áp dụng rộng rãi phương thức quản lý rủi ro, đạt trình độ tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á. Xây dựng lực lượng Hải quan đạt trình độ chuyên nghiệp, chuyên sâu có trang thiết bị, kỹ thuật hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả góp phần tạo thuận lợi cho các hoạt động thương mại hợp pháp, phát triển du lịch, thu hút đầu tư nước ngoài, đảm bảo an ninh quốc gia, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và nghĩa vụ hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Trong đó, chiến lược phát triển Hải quan Việt Nam đến năm 2020 đã xác định mục tiêu phát triển lực lượng Kiểm tra sau thông quan là: “Đến năm 2020, hoạt động kiểm tra sau thông quan đạt trình độ chuyên nghiệp, chuyên sâu, hiệu quả dựa trên phương pháp quản lý rủi ro với quy trình nghiệp vụ được chuẩn hóa trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin kết hợp với các biện pháp chế tài, xử lý nghiêm minh”. Trên cơ sở Chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2020 như nói trên, Bộ Tài chính đã phê duyệt Kế hoạch cải cách, phát triển và hiện đại hóa hải quan giai đoạn 2011 - 2015 theo Quyết định số 1514/QĐ-BTC ngày 22/6/2011. Theo đó định hướng phát triển lực lượng KTSTQ đến năm 2015 để đến 2020 đạt mục tiêu đề ra, cụ thể: “Công tác kiểm tra sau thông quan đến năm 2015 về cơ bản đạt trình độ chuyên nghiệp, hoạt động có hiệu quả, dựa trên nguyên tắc áp dụng quản lý rủi ro; quy trình nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan được chuẩn hóa trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin; phân loại được các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu; kiểm soát được các doanh nghiệp, loại hình, mặt hàng xuất, nhập khẩu có rủi ro cao” Bám sát nhiệm vụ trọng tâm của Tổng cục hải quan đề ra trong từng năm, cụ thể như hiện đại hóa và cải cách hành chính, thực hiện kế hoạch thu ngân sách của toàn nghành, xây dựng lực lượng hải quan trong sạch… để triển khai các công việc cụ thể trong công tác KTSTQ về trị giá hải quan. Phân loại đối tượng kiểm tra, lựa chọn doanh nghiệp KTSTQ theo hướng mở rộng mặt hàng , loại hình xuất , nhập khẩu để kiểm tra ngày càng sát hơn trị giá giao dịch. Ngăn chặn, đẩy lùi, được tình trạng gian lận, trốn thuế qua việc khai sai trị giá tính thuế và chống chuyển giá có kết quả. Các nghiệp vụ được chuẩn hoá, chủ yếu sử dụng công nghệ thông tin và dựa trên các cơ sở dữ liệu tương đối đầy đủ, sẵn sàng và cập nhật. Tăng cường trang thiết bị , ứng dụng công nghệ thông tin để hoạt động KTSTQ về trị giá hải quan có hiệu quả nhất. Lực lượng KTSTQ được thành lập năm 2003, trải qua gần 10 năm hoạt động đã có những kết quả bước đầu đáng khích lệ như có được tổ chức bộ máy khá hoàn chỉnh, xây dựng được hệ thống cơ sở pháp lý nền tảng để hoạt động, đào tạo được đội ngũ cán bộ có chuyên môn, chuyên sâu, chuyên nghiệp. Theo đó, về lực lượng đội ngũ cán bộ KTSTQ chuyên về trị giá cũng được chú trọng để nâng cao hơn nữa trình độ nhận thức của cán bộ KTSTQ về trị giá hải quan, đội ngũ này phải được đào tạo đầy đủ các chuyên môn theo yêu cầu nghiệp vụ, có các kỹ năng chuyên sâu về KTSTQ và am hiểu lĩnh vực trị giá. Bổ sung số lượng cán bộ và chuyên nghiệp hóa đội ngũ cán bộ làm công tác KTSTQ về TGHQ theo yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Ngoài ra cần tăng cường công tác theo dõi địa bàn để hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện KTSTQ về trị giá hải quan. Trong công tác KTSTQ về trị giá cần tìm các giải pháp để tháo gỡ các vấn đề đang có nhiều rủi ro, nhất là việc chống chuyển giá. 4.3. Giải pháp tăng cường công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan ở Việt Nam . Nhằm tăng cường công tác KTSTQ về TGHQ cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời gian sắp tới, xin đề xuất một số giải pháp chủ yếu sau: 4.3.1. Tăng cường mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng cán bộ KTSTQ, đặc biệt là cán bộ KTSTQ về trị giá hải quan. Kiểm tra sau thông quan nói chung, kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan nói riêng là nhiệm vụ trọng tâm, chính yếu của Ngành hải quan nhưng hiện nay, lực lượng cán bộ kiểm tra sau thông quan mới chiếm 6,8% lực lượng cán bộ toàn ngành là còn quá thấp so với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Đặc biệt là số lượng cán bộ KTSTQ về TGHQ còn quá mỏng. Để đảm bảo tỷ lệ tổng số người làm công tác KTSTQ kiểm tra trên tổng số tờ khai xuất, nhập khẩu và tổng số doanh nghiệp xuất, nhập khẩu tăng theo từng năm và để đảm bảo chu kỳ khoảng 5 năm phải kiểm tra được 01 (một) lần đối với 1 (một) doanh nghiệp, cần tăng cường mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng cán bộ, đồng thời chuyên môn hóa cho lực lượng KTSTQ về TGHQ theo cách sau: - Về số lượng: Việc bố trí biên chế cho lực lượng KTSTQ cần được thực hiện theo kế hoạch cụ thể, trong thời gian tới cần tăng ít nhất trên 20% so với biên chế cán bộ toàn ngành, trong đó cán bộ KTSTQ về TGHQ cần chiếm 50% trong tổng số cán bộ KTSTQ, cụ thể: + Nhóm các Cục HQ tỉnh, thành phố có quy mô về đối tượng quản lý lớn từ 400 doanh nghiệp trở lên trên địa bàn (ví dụ như TP.HCM, Hà Nội, Hải Phòng, Bình Dương, Đồng Nai, Đà Nẵng) đến năm 2015 phải bố trí tối thiểu khoảng 20% tổng biên chế cho Chi cục KTSTQ, đến năm 2020 phải đạt tối thiểu khoảng 30% tổng biên chế cho Chi Cục KTSTQ. + Các đơn vị có quy mô quản lý vừa (quản lý từ 200 - dưới 400 doanh nghiệp) đến năm 2020 phải bố trí khoảng 30% biên chế cho KTSTQ (Lạng Sơn, Long An, Quảng Ninh, Quảng Trị, Tây Ninh, Thanh Hoá, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Định), + Các đơn vị có quy mô về đối tượng quản lý nhỏ (chủ yếu các đơn vị ở biên giới Tây Nam, một số đơn vị ở biên giới phía Tây và phía Bắc) phấn đấu đến 2020 bố trí được tối thiểu 15% lực lượng cán bộ cho bộ phận KTSTQ. Quá trình tăng số lượng cán bộ KTSTQ đề nghị được chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1: Trước mắt cần thực hiện mục tiêu theo Chỉ thị 568- TCHQ ngày 9-2-2011 là đưa số cán bộ KTSTQ lên 10% lực lượng toàn ngành. Việc bổ sung được thực hiện bằng cách điều chuyển số lượng cán bộ trong nội bô của Ngành, ví dụ: sử dụng ngay số cán bộ đã làm việc ở khâu trong thông quan hiện nay để chuyển sang khâu KTSTQ (do sắp xếp lại công việc: một khối lượng công việc chuyển cho sau thông quan), và sử dụng một số cán bộ làm trong các công tác liên quan điều tra chống buôn lậu…Việc bổ sung lực lượng cán bộ từ hai bộ phận này đã có thể đảm bảo số cán bộ KTSTQ theo tỷ lệ 10% như Chỉ thị 568 đã đề ra. Giai đoạn 2: Tiếp tục nâng tỷ lệ lực lượng toàn ngành lên trên 20%. Lực lượng này nên được bổ sung từ hai nguồn: + Bổ sung biên chế từ nguồn tuyển dụng mới từ số sinh viên các trường đại học đã qua đào tạo cơ bản những kiến thức liên quan đến nghiệp vụ KTSTQ về trị giá hải quan. Chú ý đến sinh viên trong các trường Đại học có chuyên môn liên quan đến KTSTQ về TGHQ như Khoa Thuế &Hải Quan (Học Viện Tài Chính), Đại Học Ngoại Thương, Đại học Luật, Đại học thương mại, Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học quốc gia… Những sinh viên sau khi được tuyển dụng cần phải được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ tại trường Hải quan Việt Nam kết hợp với học tập, thực tập nghiên cứu ở nước ngoài trong một thời gian trước khi vào làm việc tại vị trí KTSTQ về TGHQ. + Tính chung toàn ngành, lộ trình tăng cán bộ KTSTQ qua từng năm tối thiểu phải đạt tỷ lệ: Năm 2014: 14%; Năm 2015: 15-17%; Năm 2016: 20%; Năm 2017: 24%; Năm 2018: 26%; Năm 2019: 28%; Năm 2020: 30%. - Về chất lượng: Đối với biên chế từ nguồn tuyển dụng mới : Cần nâng số lượng tuyển dụng công chức có trình độ đại học trở lên, tăng tỷ lệ tốt nghiệp đại học chính quy tốt nghiệp chuyên ngành kinh tế: Tài chính, Kế toán, kiểm toán, ngân hàng, ngoại thương; chuyên ngành kỹ thuật: công nghệ thông tin, công nghệ lắp ráp, tự động,… Đáp ứng yêu cầu điều kiện đã qua đào tạo về nghiệp vụ kế toán, kiểm toán, nghiệp vụ ngoại thương. Bên cạnh đó cần đáp ứng trình độ về ngoại ngữ, tin học nhất định để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ theo yêu cầu công việc trong thời kỳ hội nhập. Cần bố trí cán bộ lãnh đạo, cán bộ làm công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan đúng chuyên môn, được đào tạo, có trình độ kiến thức về kinh tế, tài chính kế toán và ngoại thương để có khả năng xử lý tốt nghiệp vụ chuyên môn. Đối với vị trí lãnh đạo cần đưa vào quy hoạch chức danh lãnh đạo và xem xét bổ nhiệm những cán bộ có năng lực làm việc tốt, tạo môi trường làm việc cho cán bộ KTSTQ an tâm công tác, phục vụ lâu dài. - Về chế độ luân chuyển: Do đặc thù của công tác KTSTQ về trị giá hải quan cần có tính chuyên sâu trong nghiệp vụ nên để đảm bảo chất lượng của công tác KTSTQ về trị giá , cần có kế hoạch rõ ràng, hiệu quả,mang tính kế thừa trong quá trình luân chuyển cán bộ phù hợp với yêu cầu công việc, trình độ chuyên môn tránh lãng phí trong đào tạo đối với những cán bộ đã có kinh nghiệm lâu năm nhưng lại chuyển sang làm công việc khác. Cần xây dựng riêng quy chế luân chuyển cán bộ kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan riêng, trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc sau: + Chỉ luân chuyển vị trí làm việc, không luân chuyển công việc chuyên môn. (Thí dụ đang làm KTSTQ ở Hải Phòng được chuyển về Hà Nội nhưng vẫn làm công tác KTSTQ) + Việc luân chuyển cán bộ phải đảm bảo tính kế thừa, không làm gián đoạn hoặc ảnh hưởng đến công việc chuyên môn. Tránh tình trạng luân chuyển hết số cán bộ KTSTQ ngay một lần sẽ dẫn đến khó khăn cho những người mới được chuyển tới. + Cán bộ đang làm công tác KTSTQ về trị giá nên được ổn định nơi công tác trong thời gian từ 3 đến 5 năm. Cán bộ kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan sẽ được luân chuyển sang bộ phận nghiệp vụ khác trong quy trình nghiệp vụ hải quan và thời gian trở lại làm công tác KTSTQ về trị giá hải quan có thể là 01 năm. - Về công tác đào tạo, tập huấn nâng cao nghiệp vụ: Cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp đào tạo lực lượng KTSTQ về trị giá hải quan theo hướng chuyên nghiệp, chuyên sâu: Tập trung đào tạo đội ngũ cán bộ KTSTQ, bao gồm đào tạo các kiến thức cơ bản cho toàn lực lượng, đào tạo chuyên sâu cho một bộ phận để làm nòng cốt trong hoạt động nghiệp vụ và đào tạo chuyên gia, giảng viên để đào tạo lại cho các cán bộ ở các bộ phận khác của đơn vị. + Nội dung đào tạo cơ bản gồm các kiến thức về kế toán, thương mại, thanh toán, điều tra, thanh tra thuế, nghiệp vụ KTSTQ, tin học, ngoại ngữ. + Nội dung đào tạo chuyên sâu, đào tạo chuyên gia gồm các kiến thức chuyên sâu như trên nhưng ở trình độ cao và các nghiệp vụ khác như kiểm toán, giám định tài liệu, công nghệ thông tin, kỹ năng tham vấn… Việc đào tạo và tự đào tạo cán bộ kiểm tra sau thông quan về trị giá Hải quan theo kế hoạch đào tạo của Tổng cục, học tập, cập nhật những thay đổi thường xuyên về chính sách, chế độ. Nội dung đào tạo cơ bản gồm các kiến thức về kế toán, thương mại, thanh toán, điều tra, thanh tra thuế, nghiệp vụ KTSTQ, tin học, ngoại ngữ. Nghiên cứu phương pháp và kinh nghiệm KTSTQ về TGHQ của các nước trong khu vực cũng như trên thế giới để đáp ứng được những yêu cầu về kiểm tra, phát hiện những gian lận thương mại trong quá trình kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan, đặc biệt là kinh nghiệm về chống chuyển giá. + Chương trình đào tạo: Việc đào tạo cần được tiến hành một cách hợp lý, thực dụng. Có hai hình thức đào tạo: * Đào tạo ngay tại nơi làm việc (người phụ trách nhóm, đội, đơn vị … trực tiếp hướng dẫn nghiệp vụ cho nhân viên dưới quyền). Hình thức đào tạo “cầm tay chỉ việc” sẽ đạt hiệu quả cao và tiết kiệm được chi phí (chỉ áp dụng cho công chức Hải quan) . * Đào tạo tập trung: Hoạt động đào tạo, tập huấn, truyền bá kiến thức được tiến hành tại một cơ sở đào tạo hoặc địa điểm đào tạo do nhà tổ chức đào tạo chỉ định. Đối với loại hình này khi tổ chức các khoá đào tạo cần chú ý các nội dung sau: Phải tiến hành phân tích nhu cầu đào tạo để tìm ra nội dung kiến thức thích hợp cho từng khoá đào tạo. Xây dựng kế hoạch đào tạo (đào tạo cho ai? tại đâu? thời gian mỗi khoá? giảng viên? kinh phí…) Đánh giá, rút kinh nghiệm sau mỗi khoá đào tạo. Trong quá trình đào tạo, cần chú trọng đào tạo theo những chuyên đề, chuyên sâu cụ thể: Chuyên đề về các hình thức chống gian lận thương mại phổ biến qua giá trong giai đoạn hiện nay, dấu hiệu nhận biết các hình thức này và biện pháp phòng, chống. Chuyên đề về kiểm tra trị giá khai báo của doanh nghiệp và các kinh nghiệm phát hiện gian lận và tham vấn trong kiểm tra trị giá bao gồm : Kiểm tra hồ sơ hải quan, tài liệu khai báo và kiểm tra tờ khai trị giá khai báo. Chuyên đề về tham vấn bao gồm : Chuẩn bị tham vấn; cách thức tham vấn; nội dung tham vấn; hình thức tham vấn; biên bản tham vấn; kết luận sau tham vấn . Chuyên đề về các phương pháp xác định trị giá sau thông quan, trình tự áp dụng các phương pháp; nguồn thông tin sử dụng để xác định lại giá, cách thức xác định lại giá . Chuyên đề về hệ thống thông tin dữ liệu bao gồm nguồn và cách thức thu thập, cập nhật, khai thác và sử dụng hệ thống thông tin dữ liệu về giá tính thuế... Ngoài các hình thức đào tạo như nói trên, việc phổ biến kiến thức còn có thể thực hiện thông qua hình thức hội thảo, soạn tờ rơi, cẩm nang tra cứu, sổ tay trị giá hải quan… 4.3.2. Có kế hoạch nâng cấp, kiện toàn hệ thống thông tin dữ liệu về trị giá hải quan để hổ trợ kịp thời cho việc thực hiện quy trình KTSTQ về TGHQ. Xây dựng, quản lý, khai thác hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin về trị giá hải quan, cùng với việc áp dụng phương pháp quản lý rủi ro, được xem là một trong những tiêu chuẩn căn bản để thực thi quy trình KTSTQ về TGHQ một cách khả dụng và đạt hiệu quả cao. Quản lý hệ thống thông tin dữ liệu về TGHQ là các phương pháp được sử dụng để thu thập, phân loại, xử lý các thông tin về đối tượng kiểm tra tiềm năng. Thực hiện tốt việc quản lý dữ liệu thông tin về TGHQ sẽ trợ giúp tốt cho kiểm tra viên hải quan KTSTQ về TGHQ lựa chọn được đối tượng kiểm tra thích hợp và tạo thuận lợi cho công tác chuẩn bị KTSTQ về TGHQ nhằm giúp chỉ ra những vi phạm có thể, ngay trước khi tiến hành KTSTQ về TGHQ. Việc quản lý dữ liệu thông tinTGHQ bằng máy tính là có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, đối với những đơn vị hải quan chưa có hoặc chưa đầy đủ hệ thống cơ sở dữ liệu được quản lý bằng máy tính thì cần thiết lập cơ chế quản lý hệ thống cơ sở dữ liệu và thông tin bằng giấy tờ trước khi áp dụng hệ thống quản lý bằng máy tính. Xử lý thông tin bằng máy tính sẽ không thể đạt hiệu quả cao nếu không được dựa trên một cơ chế nền tảng như vậy. Có thể thấy rằng, có được một hệ thống thông tin dữ liệu về trị giá đầy đủ, kịp thời và cập nhật sẽ mang lại hiệu quả cao trong việc thực hiện KTSTQ về TGHQ, từ đó góp phần chống gian lận thương mại qua giá. Muốn vậy, cần có một kế hoạch và quy trình nâng cấp và kiện toàn hệ thống thông tin dữ liệu về TGHQ. Quá trình này được thực hiện theo 3 nội dung sau: Thứ nhất: Xây dựng đề cương dữ liệu thông tin về trị giá và quy trình thu thập, tập hợp, cập nhật các dữ liệu thông tin về trị giá hải quan. Trước mắt, cần xác định rõ các nguồn thông tin cần có từ trong Ngành và ngoài Ngành hải quan để giúp hoàn thiện hệ thống thông tin dữ liệu. Trên cơ sở đó, bổ sung từ nhiều nguồn thông tin khác nhau như trong nội bộ Ngành hải quan, thông tin từ các bộ ngành, đơn vị, thông tin thu thập từ Internet; kiểm tra giá của hàng hoá trên thị trường quốc tế; trị giá giao dịch ở cửa khẩu cũng được truyền về Tổng cục Hải quan và thông tin cung cấp bởi các tuỳ viên hải quan ở nước ngoài....Cụ thể: Trong nội bộ: Các nguồn thông tin được lấy từ các hồ sơ hải quan, trong đó đặc biệt chú ý các tờ khai về trị giá hải quan, các biên bản, các quyết định xử lý qua công tác kiểm tra sau thông quan, kể cả phúc tập tờ khai hải quan, các báo cáo kết quả thanh tra tại doanh nghiệp, báo cáo kết quả kiểm toán tại doanh nghiệp. Ngoài ngành: Chú ý các thông tin từ các báo cáo kiểm toán, các báo cáo kiểm tra, thanh tra, các báo cáo quyết toán thuế... Ngoài ra, thông tin còn cập nhật từ các nguồn tài liệu thông qua các cuộc hội thảo, báo chí, các báo cáo công tác của Ngành có liên quan đến KTSTQ về TGHQ, giá chào bán trên Internet... Cần khẩn trương xây dựng các bài toán kiểm tra tính xác xuất của kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan thông qua việc ứng dụng phần mềm máy tính. Cục KTSTQ cần xây dựng các tiêu chí quản lý riêng để máy tính có thể so sánh ngẫu nhiên các kết quả thông quan các lô hàng của doanh nghiệp kinh doanh cùng mặt hàng với nhau, giữa các lô hàng của cùng một doanh nghiệp… So sánh trên máy tính các báo cáo tài chính của doanh nghiệp dựa trên phương pháp mô hình toán học để tìm ra nhanh nhất dấu hiệu vi phạm. Nâng cao chất lượng thông tin dữ liệu giá trên cơ sở tập trung hoàn thiện và nâng cao kỹ năng của cán bộ nhập dữ liệu máy tính đảm bảo các yếu tố thông tin của hàng hoá nhập máy từ nguồn tờ khai hàng hoá nhập khẩu, tờ khai trị giá đầy đủ, chí tiết, có thể so sánh được giữa các loại trị giá hàng hoá với nhau theo đúng nội dung yêu cầu quản lý. Đồng thời tổ chức được hệ thống thông tin bổ trợ kịp thời như giá chào bán trên Intenet, giá bán thị trường, giá do nhà xuất khẩu cung cấp, giá do các cơ quan quản lý, thẩm định giá cung cấp,…để sửa đổi, bổ sung thường xuyên, xây dựng Danh mục dữ liệu giá đã được in ra giấy và Bổ sung dữ liệu giá từ các nguồn khác trên chương trình dữ liệu giá điện tử. Hoàn thiện được quy trình truy cập,khai thác các thông tin này, đảm bảo tính chính xác và thống nhất trong khai thác và sử dụng các nguồn thông tin giá khác nhau. Cập nhật thường xuyên các dữ liệu thông tin trị giá hải quan tiêu chí cụ thể để phân loại, đánh giá được mức độ tin cậy của các nguồn thông tin theo mức độ rủi ro. Cụ thể, đó là các nguồn thông tin theo các tiêu chí về doanh nghiệp, tiêu chí về nhóm hàng, mặt hàng nhập khẩu, tiêu chí về thị trường xuất khẩu và tiêu chí về mức giá khai báo. Một số nét cụ thể như sau: Đối với tiêu chí về doanh nghiệp : Cần cập nhật các thông tin về loại hình doanh nghiệp, vốn kinh doanh, quy mô sản xuất, tình hình chấp hành pháp luật của doanh nghiệp … - Về mức độ chấp hành pháp luật của doanh nghiệp, người khai hải quan nên phân chia thành loại chấp hành pháp luật tốt (chưa vi phạm pháp luật về Hải quan); Loại thường xuyên vi phạm, đã bị xử phạt nhiều lần; Loại ít vi phạm hoặc vi phạm không nghiêm trọng để quản lý rủi ro có trọng tâm, trọng điểm. - Loại hình doanh nghiệp cơ quan hải quan có thể phân chia doanh nghiệp thành các loại như Doanh nghiệp nhà nước (các Tổng Công ty, các Tập đoàn); doanh nghiệp TNHH; Doanh nghiệp cổ phần; Doanh nghiệp liên doanh; và Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. - Ngành nghề kinh doanh, vốn kinh doanh: Có thể phân chia doanh nghiệp thành các loại như Doanh nghiệp có quy mô lớn (theo tiêu chí: vốn, nhà xưởng, đất đai,…); Doanh nghiệp có quy mô nhỏ và Doanh nghiệp có quy mô trung bình. Tiêu chí rủi ro của nhóm hàng, mặt hàng nhập khẩu: Theo nhóm tiêu chí này, có thể phân loại các nhóm hàng, mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu lớn, trị giá lớn, thuế suất cao, có khả năng biến động, được phân loại vào nhóm hàng rủi ro cao, các mặt hàng khác được phân loại vào nhóm hàng có độ rủi ro thấp. Tiêu chí về thị trường xuất khẩu: Theo nhóm tiêu chí này, hàng hoá nhập khẩu được phân loại theo mức độ rủi ro của thị trường xuất khẩu (ví dụ: hàng hoá nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc, Đài Loan, khu vực Asean có độ rủi ro cao về gian lận thương mại qua giá, ngược lại hàng hoá nhập khẩu từ thị trường EU; Mỹ có độ rủi ro thấp hơn,… Tiêu chí về mức giá khai báo: Theo nhóm tiêu chí này có thể phân chia mức giá khai báo thành 03 loại là loại có độ tin cậy cao, loại có độ tin cậy thấp và loại nghi ngờ. Tổng cục Hải quan cung cấp các trang Website về giá một số mặt hàng nhạy cảm, trọng điểm có liên quan đến các lô hàng nhập khẩu để hải quan các địa phương tra cứu. Thứ hai: Cũng cố tổ chức bộ máy về nhân sự cho bộ phận quản lý dữ liệu thông tin để đáp ứng khả năng vận hành hiệu quả hệ thống thông tin dữ liệu. Cần tăng cường lực lượng để củng cố hệ thống thông tin dữ liệu, phân luồng dữ liệu để định hướng việc kiểm tra trị giá, tham vấn tại các Cục Hải quan địa phương, tăng cường công tác kiểm tra thực tế, công tác đào tạo chuyên sâu về trị giá trong toàn Ngành. Bên cạnh đó, cần đầu tư đầy đủ, đồng bộ hệ thống máy tính và các trang thiết bị thích hợp phục vụ công tác kiểm tra trị giá cho tất cả các đơn vị Hải quan trong ngành, đến tận các Chi cục Hải quan.Tăng cường trang thiết bị, máy móc, phương tiện kỹ thuật, công nghệ thông tin như: đầu tư thêm máy phát hiện chứng từ giả, máy ghi âm, máy ảnh, máy quay.. để đảm bảo hoạt động KTSTQ về TGHQ đạt hiệu quả cao nhất. Thứ ba: Tập huấn ngay cho lực lượng KTSTQ cả về quy trình, cách thức thực hiện trong việc thu thập tổng hợp thông tin về TGHQ. Nâng cao chất lượng thông tin dữ liệu giá trên cơ sở tập trung hoàn thiện và nâng cao kỹ năng của cán bộ nhập dữ liệu máy tính đảm bảo các yếu tố thông tin của hàng hoá nhập máy từ nguồn tờ khai hàng hoá nhập khẩu, tờ khai trị giá đầy đủ, chi tiết, có thể so sánh được giữa các loại trị giá của các loại hàng hoá với nhau theo đúng nội dung yêu cầu quản lý. Quy định mang tính bắt buộc và đặt thành chỉ tiêu đối với từng cán bộ ở từng bộ phận KTSTQ về TGHQ. Việc thu thập dữ liệu thông tin trị giá theo định kỳ, từng tháng, quý để cung cấp về trung tâm tổng hợp nhập vào hệ thống. Luôn có sự kiểm tra để thưởng phạt nghiêm minh, tránh tình trạng cán bộ tùy tiện hoặc lơ là trong việc thu thập, cung cấp thông tin dữ liệu về trị giá. Chỉ có như vậy mới mong có được hệ thống dữ liệu trị giá dữ liệu trị giá hải quan phong phú và đa dạng, phục vụ cho công tác KTSTQ về TGHQ đạt hiệu quả. 4.3.3 Xây dựng và áp dụng chuẩn mực kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Cần khắc phục ngay tình trạng là cán bộ KTSTQ về TGHQ tuy vẫn thực hiện đầy đủ các bước công việc theo đúng trình tự của quy trình KTSTQ quy định nhưng nội dung trong từng bước công việc lại không có chất lượng hoặc nội dung chuẩn bị hời hợt do thiếu trách nhiệm, thiếu nguồn thông tin dữ liệu. Muốn vậy, cần thiết phải xây dựng và áp dụng chuẩn mực KTSTQ về TGHQ. Trước hết, chuẩn mực là những nội dung cơ bản mà đòi hỏi các bên hiểu đúng và tự giác tuân thủ để đảm bảo một quá trình nào đó được thực hiện một cách đúng đắn và hiệu quả; từ một góc nhìn xã hội, chuẩn mực chính là thức đo để đánh giá một hành vi có thể là hợp lý hay bất hợp lý. Từ góc nhìn pháp luật, chuẩn mực là thước đo hành vi hợp pháp hay bất hợp pháp. Bởi vậy, trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đều cần có chuẩn mực, nhất là trong điều kiện quản lý và phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay. Chuẩn mực kiểm tra sau thông quan về TGHQ là những quy định và hướng dẫn mang tính nguyên tắc trong kiểm tra việc xác định tính chính xác, trung thực của việc khai báo trị giá và làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Đó là những quy định và hướng dẫn mang tính nguyên tắc về nội dung cần phải đạt được của từng khâu công việc trong quy trình KTSTQ về TGHQ. Nói cách khác, nội dung các bước tiến hành trong quy trình KTSTQ về TGHQ cần được quy chuẩn hóa thành hệ thống chuẩn mực để các bên liên quan biết và thực hiện, cũng như các cơ quan hữu quan như thanh tra, kiểm tra, cơ quan bảo vệ pháp luật sử dụng trong việc thực thi nhiệm vụ của mình, cũng như kiểm tra giám sát đối với hoạt động KTSTQ về TGHQ. Việc xây dựng hệ thống chuẩn mực kiểm tra sau thông quan về TGHQ đảm bảo tính logic, hệ thống sẽ tạo thuận lợi để vừa nâng cao hiệu quả quản lý hải quan đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu, vừa kiểm soát được hành vi của người khai hải quan vi phạm pháp luật hải quan. Thông qua đó, hạn chế được sự tùy tiện trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ xuất nhập khẩu hàng hóa. Bởi vì, chuẩn mực kiểm tra sau thông quan chính là công cụ để xử lý sai phạm của các chủ thể khi tham gia quan hệ xuất nhập khẩu hàng hóa đó. Công chức hải quan thì căn cứ vào chuẩn mực để thực hiện theo chức trách được giao; doanh nghiệp và người khai hải quan thì căn cứ vào chuẩn mực để giám sát việc KTSTQ về TGHQ của công chức hải quan. Hai bên đều có những căn cứ để xác định mức độ tuân thủ pháp luật. Từ đó, sẽ làm cho KTSTQ về TGHQ ngày càng minh bạch và đạt kết quả cao hơn. Ngoài ra, nếu tuân thủ theo đúng chuẩn mực thì kết quả KTSTQ về TGHQ sẽ đảm bảo được tính trung thực và khách quan. Xây dựng và thực hiện các chuẩn mực KTSTQ phải dựa trên cơ sở chuẩn mực, cam kết quốc tế có liên quan đến hoạt động Hải quan. Việc xây dựng chuẩn mực KTSTQ về TGHQ thường tập trung vào 6 nội dung chủ yếu sau: 4.3.3.1 Nhóm chuẩn mực chung: Nhóm chuẩn mực chung: quy định những nội dung làm nền tảng cho hoạt động kiểm tra sau thông quan về TGHQ; Nhóm chuẩn mực chung bao gồm những nội dung chủ yếu như : Các quy định về tổng thể các nguyên tắc cơ bản, các yêu cầu có tính bắt buộc về cơ quan hải quan, về đoàn KTSTQ về TGHQ, về các kiểm tra viên hải quan, thực hiện KTSTQ về TGHQ, về các đối tượng KTSTQ và các đối tượng có liên quan đến KTSTQ về TGHQ, về phương thức về KTSTQ về TGHQ, về các cam kết quốc tế phải tuân thủ, về kỹ thuật quản lý rủi ro, về kỹ năng nghiệp vụ KTSTQ về TGHQ… Ví dụ như: Nội dung về yêu cầu mà kiểm tra viên phải thực hiện trong KTSTQ về TGHQ như: - Kiểm tra viên phải sử dụng chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với mức độ phức tạp của cuộc KTSTQ về TGHQ; thực hiện nhiệm vụ với trọng trách cao. - Kiểm tra viên hải quan ngoài những tiêu chuẩn chung của công chức hải quan phải có những kiến thức và kỹ năng cần thiết đã qua đào tạo về pháp luật về thuế, kế toán, kiểm toán và pháp luật về kiểm tra, thanh tra. - Kiểm tra viên phải có năng lực để kiểm tra, đánh giá và đưa ra các kiến nghị, bằng chứng xác đáng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ KTSTQ về TGHQ. - Kiểm tra viên phải có năng lực thực thi nhiệm vụ độc lập, sáng tạo và có khả năng ứng phó với mọi tình huống phức tạp phát sinh trong quá trình kiểm tra.. 4.3.3.2 Nhóm chuẩn mực về xây dựng và sử dụng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu. Nhóm chuẩn mực này bao gồm những nội dung chủ yếu như: Xây dựng, quản lý, khai thác hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về trị giá hải quan (như đã phân tích ở phần trên). Các quy định về tính thận trọng và bảo mật thông tin có liên quan đến hoạt động KTSTQ về TGHQ và liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Ví dụ như: - Kiểm tra viên phải sử dụng các kết quả của cuộc kiểm tra sau thông quan trước đó, của các cuộc thanh tra, kiểm tra, kiểm toán độc lập.. Kiểm tra viên hải quan phải xem xét, kiểm tra, sử dụng có chọn lọc khi có đủ chứng cứ để chứng minh rằng, kết quả đó đã được xác định khi đã đánh giá tính tuân thủ của các bên có liên quan, các chuẩn mực nghề nghiệp liên quan; khi sử dụng bằng chứng này, kiểm tra viên hải quan phải chịu trách nhiệm về tính xác thực khi đưa ra kết luận kiểm tra sau thông quan. - Kiểm tra viên phải có thái độ thực hiện công việc một cách thận trọng, phải giữ bí mật quốc gia, bí mật về nghiệp vụ Ngành và bí mật nghề nghiệp của đối tượng được KTSTQ về TGHQ… 4.3.3.3 Nhóm chuẩn mực về thực hành kỹ thuật nghiệp vụ KTSTQ về TGHQ. Nhóm chuẩn mực gồm những nội dung chủ yếu như quy định việc lập kế hoạch KTSTQ về TGHQ tại trụ sở cơ quan hải quan và KTSTQ về TGHQ tại trụ sở doanh nghiệp. Trong kế hoạch phải xác định rõ mục tiêu, nội dung, phạm vi, phương pháp thực hiện, thời gian và nhân sự cho việc KTSTQ về TGHQ. Quy định về tính kiểm tra tính hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ có liên quan chặt chẽ tới KTSTQ về TGHQ như hệ thống kế toán, hệ thống kiểm soát, kiểm soát nội bộ, tình hình kiểm tra, thanh tra của cơ quan chức năng đối với hoạt động xuất nhập khẩu của đơn vị được kiểm tra sau thông quan về TGHQ. Bằng chứng phải rõ ràng, dựa trên cơ sở hồ sơ, chứng từ thu thập được, phân loại, xắp sếp quản lý các bằng chứng theo từng mối quan hệ kinh tế, từng nhóm sai phạm để thuận tiện cho việc tham vấn và lập báo cáo về KTSTQ về TGHQ. Ví dụ như: - Xây dựng và thực hiện chuẩn mực về kiểm tra tính hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ. Trên thực tế, chuẩn mực này trong quá trình thực hiện thời gian qua chưa thực hiện, mặc dù chuẩn mực này đóng vai trò quan trọng giúp kiểm tra viên hải quan đánh giá được độ tin cậy của hệ thống kiểm soát nội bộ; dự đoán và đề phòng các rủi ro kiểm soát nhằm xây dựng kế hoạch kiểm tra cụ thể, phù hợp với thực tế kiểm tra. Thậm chí, khi thực hiện KTSTQ, nếu kiểm tra viên thu thập được các bằng chứng về sự kém hiệu lực của một khâu trong hệ thống kiểm soát nội bộ để so sánh với đánh giá ban đầu mà ảnh hưởng đáng kể đến các kết luận KTSTQ thì phải điều chỉnh lại theo kế hoạch kiểm tra cho phù hợp. 4.3.3.4 Nhóm chuẩn mực về đánh giá mức độ rủi ro về ý thức tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp. Nhóm chuẩn mực này gồm có những nội dung chủ yếu như quy định kiểm tra viên hải quan phải có ước lượng mức độ rủi roc cho tổng thể cuộc KTSTQ về TGHQ để xác định trọng tâm kiểm tra. Quy định về nội dung phân tích tình hình và kết quả kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp được kiểm tra. Quy định về chọn mẫu KTSTQ về TGHQ phải đảm bảo tính tiêu biểu, đại diện được cho tổng thể. Quy định về kiểm tra đánh giá chất lượng của cuộc KTSTQ về TGHQ một cách đầy đủ, đúng đắn, tránh được những sai sót cả về nội dung và phương pháp kiểm tra Ví dụ như: Quy định cụ thể việc chọn mẫu cần tuân thủ các yêu cầu sau: - Phải căn cứ vào kết quả của việc lựa chọn hình thức kiểm tra ở khâu thông quan; căn cứ vào mục tiêu hay nội dung của KTSTQ về TGHQ để xác định, lựa chọn mẫu kiểm tra. - Phải xác định tiêu thức đánh giá các sai số và mức sai số chấp nhận được làm cơ sở đưa ra những kết luận của KTSTQ về TGHQ, đồng thời phải phân tích rủi ro có thể gây ra của mẫu được chọn, khả năng phát sinh các sai sót và dự kiến các phương án giảm thiểu những rủi ro do phương pháp chọn mẫu mang lại… 4.3.3.5 Những chuẩn mực về đánh giá chính xác nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp đối với Nhà Nước. Nhóm chuẩn mực này gồm có những nội dung chủ yếu như: quy định về kiểm tra, đánh giá tình hình và khả năng tuân thủ pháp luật về khai báo trị giá hải quan của người khai hai quan. Quy định về mức độ đánh giá về mức độ tuân thủ pháp luật và các quy định cụ thể trong từng khâu công việc trong quy trình KTSTQ về TGHQ. Quy định về kiểm tra, phân tích các báo cáo tài chính của doanh nghiệp được KTSTQ về TGHQ. Ví dụ như: Chuẩn mực về kiểm tra, phân tích các báo cáo tài chính của đơn vị được KTSTQ về TGHQ thì kiểm tra viên hải quan khi thực hiện chuẩn mực này phải - Biết vận dụng các phương pháp, kỹ thuật phân tích báo cáo tài chính phù hợp với đặc điểm, tính chất, phạm vi, mục tiêu của cuộc KTSTQ về TGHQ. - Khi phát hiện những sai lệch hoặc biến động bất thường, kiểm tra viên hải quan phải tiến hành điều tra, thu thập thêm các bằng chứng để làm rõ nguyên nhân sai lệch và tính toán mức độ vi phạm… 4.3.3.6 Nhóm chuẩn mực báo cáo và kiểm tra việc thực hiện các kiến nghị của KTSTQ về TGHQ. Nhóm chuẩn mực này cần quy định về hình thức và nội dung của báo cáo KTSTQ về TGHQ. Nhóm chuẩn mực này phải đảm bảo nội dung, số liệu trong báo cáo phải chính xác, ý kiến nhận xét phải dựa trên những bằng chứng KTSTQ về TGHQ tin cậy và chính xác; đồng thời yêu cầu kiểm tra viên phải lập kịp thời, đúng thời hạn theo kế hoạch đã được phê duyệt. nhóm chuẩn mực này gồm có những nội dung chủ yếu như: quy định về lập báo cáo kết quả KTSTQ về TGHQ. Quy định về việc theo dõi, kiểm tra việc thực hiện kết luận và xử lý kết quả KTSTQ về TGHQ. Ví dụ như: Chuẩn mực phải nêu được những quy định cụ thể của báo cáo KTSTQ về TGHQ như: - Đản bảo tính chính xác về nội dung và số liệu trong báo cáo. Các ý kiến nhận xét phải phải dựa trên những bằng chứng KTSTQ về TGHQ. - Nội dung báo cáo phải được trình bày theo những nội dung chủ yếu như: Tóm tắt về cơ sở pháp lý, tình hình chấp hành pháp luật về thuế, về hải quan; tuân thủ các chuẩn mực ghi sổ kế toán của đơn vị được kiểm tra. .. Xây dựng và thực hiện chuẩn mực KTSQ về TGHQ là hết sức cần thiết và có nhiều thuận lợi trong việc thực hiện nâng cao chất lượng KTSTQ về TGHQ ở Việt Nam. Với những lý do như đã phân tích ở các phần nêu trên, xây dựng và áp dụng chuẩn mực KTSTQ về TGHQ như đề xuất, khác về cơ bản so với nội dung và quy trình KTSTQ hiện hành ở chỗ: Nội dung và quy trình KTSTQ chỉ là quy định trong nội bộ Ngành hải quan, nội dung chưa đầy đủ, chưa được công khai minh bạch nên chưa là cơ sở pháp lý, chưa là căn cứ cho việc thực hiện và giám sát giữa các bên liên quan trong KTSTQ về TGHQ. 4.3.4 Tăng cường phối hợp công tác giữa lực lượng KTSTQ về TGHQ với các lực lượng trong và ngoài Ngành Hải quan. a) Tăng cường hợp tác phối kết hợp KTSTQ về TGHQ với các lực lượng trong nội bộ Ngành Hải quan. Kiểm tra sau thông quan về TGHQ là một nghiệp vụ quan trọng không tách rời với các nghiệp vụ liên quan khác như: kiểm tra trước thông quan, kiểm tra trong thông quan, phúc tập hồ sơ hải quan, quản lý dữ liệu thông tin về trị giá, điều tra chống buôn lậu… cho nên phải phối hợp chặt chẽ với các lực lượng trên trong quá trình thực hiện. Xuất phát từ những hạn chế trong cơ chế phối kết hợp trong KTSTQ về TGHQ ở Việt Nam thời gian qua, cơ chế phối kết hợp trong KTSTQ về TGHQ trong nội bộ Ngành cần được hoàn thiện theo những chú ý sau đây: + Xây dựng quy trình phối kết hợp trong việc cung cấp, trao đổi thông tin giữa các đơn vị thuộc Tổng cục hải quan. Trong đó, lưu ý tổ chức tập huấn đào tạo trao đổi nghiệp vụ, phối kết hợp với các đơn vị trong Tổng Cục có liên quan phục vụ KTSTQ về trị giá hải quan. Cần xây dựng mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng kiểm tra trị giá tại khâu trong thông quan và khâu sau thông quan do đây là mối quan hệ phối hợp khép kín trong toàn bộ quy trình quản lý giá tính thuế từ khâu trong thông quan đến khâu sau thông quan nhằm mục tiêu kiểm soát được trị giá khai báo, ngặn chặn các hiện tượng gian lận thương mại. + Phối hợp với Cục công nghệ thông tin và các đơn vị quản lý cơ sở dữ liệu thông tin thuộc Tổng Cục để đảm bảo khai thác thông tin trên các cơ sở dữ liệu hiện có tại Tổng Cục phục vụ việc cung cấp thông tin cho lực lượng KTSTQ, đặc biệt là các thông tin liên quan đến các đối tượng được hưởng thuế suất ưu đãi đặc biệt ASEAN, ACFTA, AKFTA.. + Phối hợp với Cục Công nghệ thông tin và thống kê Nhà nước về hải quan để hoàn thiện xây dựng phần mềm “quản lý danh bạ doanh nghiệp trên máy tính” nhằm mục đích: Phân loại doanh nghiệp trên toàn quốc theo nhóm, phân loại mặt hàng trọng điểm, cung cấp thông tin và lựa chọn doanh nghiệp cho việc xác định đối tượng KTSTQ theo kế hoạch. + Phối hợp với Ban quản lý rủi ro hoàn thiện tiêu chí phục vụ công tác quản lý rủi ro trong KTSTQ. b) Tăng cường hợp tác phối kết hợp KTSTQ về TGHQ với các lực lượng ngoài Ngành Hải quan. Thứ nhất: Hợp tác với các Bộ, Ngành liên quan. Thực tế công tác KTSTQ về TGHQ cho thấy vẫn chưa có sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa các cơ quan có liên quan trong việc xác minh tính trung thực của trị giá khai báo hàng nhập khẩu. Để công tác KTSTQ về TGHQ hiệu quả hơn, cần tập trung thực hiện một số biện pháp sau: - Nghiên cứu xây dựng các cơ chế phối hợp giữa lực lượng KTSTQ với các cơ quan trong Bộ Tài Chính như Cục quản lý giá, Tổng cục Thuế: + Phối hợp với Tổng Cục thuế, Cục quản lý giá đưa ra các chế tài trong việc đấu tranh chống gian lận qua giá, bao gồm cả chuyển giá. Cần quy định những chế tài nghiêm khắc để xác định lại giá trong trường hợp chuyển giá. - Nghiên cứu xây dựng các Quy chế phối hợp giữa lực lượng KTSTQ với các cơ quan trong ngoài Bộ như Ngân hàng, Kiểm toán, kho bạc, công an..vv.. Sự phối hợp này sẽ tránh được sự chồng chéo trong kiểm tra của các cơ quan quản lý Nhà Nước cũng như tạo ra cơ sở pháp lý thuận lợi trong quá trình thu thập và xử lý thông tin về đối tượng chịu KTSTQ về trị giá hải quan được chính xác, đem lại hiệu quả cao. + Phối hợp với Ngân hàng để đưa ra các quy chế trong việc quản lý chặt chẽ thanh toán qua ngân hàng của các doanh nghiệp và các cá nhân có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu. Nghiên cứu để đưa tiêu chí trên tờ khai điện tử yêu cầu doanh nghiệp xuất nhập khẩu có thể kê khai các tài khoản được dùng để thanh toán cho lô hàng và chế tài trách nhiệm khi cơ quan Hải quan phát hiện có sai sót. + Phối hợp với Tổng Kiểm toán Nhà Nước và Kiểm toán hải quan các nước để xây dựng Bộ chuẩn mực Kiểm toán hải quan đế từ đó giúp cho công chức hải quan có định hướng rõ ràng hơn trong quá trình KTSTQ về trị giá hải quan như: phương pháp kiểm tra và xử lý kết quả KTSTQ . - Tiến đến, trình Bộ Tài chính ban hành quy chế phối kết hợp trong công tác trao đổi, cung cấp thông tin các Luật, Nghị định và các văn bản hướng dẫn giữa các đơn vị trong và ngoài Ngành. Thứ hai, hợp tác với cộng đồng doanh nghiệp: Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp đã hiểu và nắm rõ quyền và nghĩa vụ của mình thực hiện đúng các phương pháp xác định trị giá, quy trình KTSTQ theo quy định của các văn bản pháp quy. Trong các cuộc KTSTQ về trị giá, các doanh nghiệp cũng đã tích cực hợp tác với cơ quan Hải quan trong việc cung cấp tài liệu, số liệu trong xác định trị giá nhằm bảo vệ quyền lợi của chính họ.Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận doanh nghiệp chưa am hiểu các phương pháp xác định giá tính thuế, hoặc ý thức chấp hành pháp luật chưa cao hoặc còn một bộ phận lớn doanh nghiệp lợi dụng sự thông thoáng của chính sách áp giá để khai báo trị giá thấp nhằm trốn thuế. Xét trên khía cạnh tuân thủ pháp luật, có hai nguyên nhân khiến doanh nghiệp không tuân thủ là do không hiểu biết đầy đủ và cố tình tìm cách tận dụng các khe hở của pháp luật để gian lận. Do vậy, cần: + Tăng cường hơn nữa công tác hướng dẫn, công tác đào tạo, tuyên truyền, phổ biến Hiệp định Trị giá hải quan GATT/WTO đến doanh nghiệp bằng nhiều phương pháp khác nhau trong đó cần ưu tiên sớm xây dựng cơ chế phối hợp, cung cấp thông tin kịp thời cho các cơ quan báo chí (kênh Invest TV - Đài truyền hình VN, Truyền hình VTC, Thời báo Tài chính, Báo Hải quan...) để công tác tuyên truyền, phổ biến đào tạo được hiệu quả; + Xây dựng các tiêu chí để cùng doanh nghiệp đàm phán, ký kết thỏa thuận hợp tác. Hệ thống tiêu chí chủ yếu bao gồm nguyên tắc hợp tác; cách thức hợp tác; các yêu cầu với doanh nghiệp (chủ yếu là minh bạch hóa với cơ quan hải quan về hoạt động xuất nhập khẩu, cung cấp định kỳ cho cơ quan các số liệu về xuất nhập khẩu, về thuế); các lợi ích doanh nghiệp được hưởng như chưa đưa vào diện KTSTQ, khi phát hiện sai sót thì chủ yếu cho doanh nghiệp tự giải trình, khắc phục. Đây cũng là một hình thức phân loại trước để tập trung nguồn lực cho kiểm tra các đối tượng khác.Trong quá trình thực hiện cần chú ý đến việc tuyên truyền cũng như kịp thời giải đáp những vướng mắc phát sinh trong cộng đồng doanh nghiệp. + Đối với các doanh nghiệp cố tình không tuân thủ thì cần có những biện pháp mạnh như : Công khai các doanh nghiệp có hành vi gian lận thương mại đã bị cơ quan hải quan phát hiện trên trên Website của hải quan, trên báo Hải quan; Đẩy mạnh KTSTQ về trị giá hải quan tại trụ sở doanh nghiệp thường xuyên vi phạm, từ đó hạn chế được gian lận từ xa, tăng ý thức chấp hành pháp luật của doanh nghiệp; thắt chặt các quy định trong việc thành lập và giải thể doanh nghiệp … + Đẩy mạnh tuyên truyền cho các doanh nghiệp thông qua các hình thức như tổ chức các các hội nghị đối thoại, tập huấn chính sách thuế mới nhằm tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, góp phần cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao hiệu lực quản lý thuế Bên cạnh đó, kiểm tra, rà soát số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh để phát hiện kịp thời các trường hợp thực tế có kinh doanh nhưng không đăng ký kinh doanh, không đăng ký thuế để đưa vào diện quản lý. Giám sát và nắm bắt kịp thời số doanh nghiệp tạm nghỉ kinh doanh, số doanh nghiệp ngừng hoạt động (bỏ trốn, giải thể, phá sản), doanh nghiệp đang hoạt động… Thứ ba: Tăng cường hợp tác quốc tế . Thường xuyên phối hợp giữa cơ quan Hải quan Việt Nam với cơ quan Hải quan các nước trong khu vực và trên thế giới sẽ là cơ hội tốt hơn để học hỏi kinh nghiệm KTSTQ về TGHQ của hải quan các nước cũng như sự tranh thủ những trợ giúp kỹ thuật từ phía các cơ quan hải quan các nước trong quá trình hoàn thiện hệ thống kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan ở Việt Nam trên tinh thần: - Thực hiện hợp tác quốc tế trên tinh thần cởi mở, bình đẳng mà vẫn đản bảo nhiệm vụ chính trị được giao theo đúng chủ trương “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước”. Hải quan Việt Nam cần tiếp tục đưa nội dung hợp tác về KTSTQ về TGHQ trong các Hiệp định hợp tác hỗ trợ trong công tác Hải quan mà Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục ký kết với nhiều tổ chức quốc tế trong tương lai. - Tham khảo kinh nghiệm của các nước trong đấu tranh chống gian lận về giá khi áp dụng Hiệp định trị giá GATT thông qua các cuộc họp thường niên của Uỷ ban kỹ thuật về xác định trị giá hải quan. - Chủ động tăng cường hợp tác quốc tế, tiến hành thực tế khảo sát một số mô hình KTSTQ về TGHQ của một số nước tiên tiến trên thế giới như Nhật Bản, Mỹ, Pháp…nhằm trao đổi thông tin và kinh nghiệm, tranh thủ sự hỗ trợ về đào tạo nhân lực cho các cán bộ làm công tác KTSTQ về TGHQ. Công việc này cần tiến hành song song với các hoạt động nghiệp vụ khác trong quá trình hoạt động của KTSTQ về TGHQ. - Hiện nay cơ chế xác minh từ thông tin về trị giá lô hàng nhập khẩu đạt hiệu quả rất thấp. Để công tác KTSTQ về TGHQ có kết quả cần xây dựng cơ chế phối hợp với hải quan các nước thông qua việc ký các Hiệp định cung cấp thông tin giữa hải quan các nước. Khi Hải quan Việt Nam cần xác minh thông tin về trị giá của một lô hàng nhập khẩu thì đề nghị hải quan nước bạn phối hợp xác minh giá của lô hàng đó ghi trên tờ khai xuất khẩu tại nước xuất khẩu vì thông thường hàng hoá xuất khẩu thường được hoàn thuế nên trị giá khai báo trên tờ khai xuất khẩu sẽ phản ánh đúng giá thực tế của hàng hoá. Ngược lại, khi hải quan nước bạn đề nghị xác minh trị giá hải quan cho lô hàng nhất định, Việt Nam sẽ tìm kiếm trị giá trên tờ khai xuất khẩu tại Việt nam để cung cấp. Để việc hợp tác đem lại hiệu quả, trước mắt tập trung vào những nước, những vùng lãnh thổ có hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam với kim ngạch lớn, có khả năng xảy ra gian lận thương mại cao (ví dụ: Hàng hoá nhập khẩu từ các nước Asean, Trung Quốc, Đài Loan,…) . - Đẩy mạnh hoạt động của các tùy viên hải quan ở các nước. Hoạt động này cần những chính sách và kinh phí phù hợp, khắc phục những tồn tại không hiệu quả trong thời gian trước đây. - Xây dựng cơ chế mua tin qua các tổ chức thẩm định trị giá trung lập như: SGS,… để xác minh trị giá khai báo của một số trường hợp đặc biệt, cần củng cố thông tin để có kết luận cụ thể trong quá trình kiểm tra, tham vấn. Việc xây dựng cơ chế mua tin nhằm chủ động xác minh các nguồn thông tin có liên quan đến trị giá, ngăn chặn gian lận thương mại từ xa, rút ngắn thời gian kiểm tra, kiểm soát hàng hoá khi về đến Việt Nam, phù hợp với tiến trình hội nhập, cải cách và hiện đại hoá của Ngành Hải quan. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và trong khu vực về việc cử đại diện hải quan ở nước ngoài, nhất là tại các nước hoặc khối nước có mối quan hệ thương mại lớn với Việt nam là rất quan trọng và cần thiết, vừa giúp cho Hải quan nắm vững các thủ tục hải quan của các nước, cập nhật những nội dung mới phát sinh trong quá trình thực hiện Hiệp định trị giá GATT từ các nước thành viên và bổ sung nguồn thông tin trong quá trình kiểm tra trị giá, tham vấn và xác định giá..vv, vừa nắm được thông tin doanh nghiệp nước ngoài có quan hệ thương mại với Việt Nam . 4.3.5 Tăng cường hiệu quả tham vấn giá trong KTSTQ về TGHQ. Trong thực tế ở Việt Nam hiện nay, tham vấn về trị giá được chỉ được chú trọng trong khâu thông quan của quá trình làm thủ tục hải quan và hiệu quả tham vấn không cao. Theo mô hình chung của các nước phát triển thì bộ phận KTSTQ là đơn vị phụ trách về kiểm tra tính chính xác, trung thực của trị giá khai báo, và tiến hành tham vấn khi có nghi ngờ về trị giá khai báo. Vì vậy, một trong những giải pháp hỗ trợ công tác KTSTQ về trị giá hải quan là phải tăng cường hiệu quả công tác tham vấn trị giá hải quan. Cần tiến hành các giải pháp như: - Minh bạch hóa các văn bản pháp quy về xác định trị giá hải quan. Tính minh bạch của văn bản pháp quy đươc thể hiện ở hai phương diện là khả năng áp dụng trực tiếp điều khoản quy định vào thực tế và tính liên thông giữa các văn bản pháp luật có liên quan. Do vậy, đối với hệ thống văn bản pháp luật và văn bản dưới luật cần được giảm thiểu số lượng văn bản hướng dẫn, tiến đến khả năng trực tiếp áp dụng điều luật vào thực xác định trị giá. Bộ Tài Chính và Tổng Cục Hải quan cần tổ chức rà soát lại toàn bộ hệ thống văn bản liên quan đến xác định trị giá hải quan để thực hiện chỉnh sửa, bổ sung phù hợp. - Xây dựng quy trình tham vấn trị giá hải quan theo hướng hiện đại hóa bằng cách phân định rạch ròi giữa hai loại hình là tham vấn để xác định trị giá hải quan (tư vấn) và tham vấn để kiểm tra trị giá hải quan (kiểm tra sau thông quan). Mô hình tách hai hoạt động xác định và kiểm tra sẽ giúp bộ phận hải quan chuyên trách từng khâu nghiệp vụ có thể tập trung nguồn lực của mình để nâng cao hiệu quả công việc. Trong đó, cần đề cao vai trò quan trọng, quy định trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ trong quá trình tham vấn để kiểm tra trị giá hải quan, bởi vì trong khi áp lực hàng hóa thông quan ngày càng nhanh hơn, công chức hải quan trong khâu thông quan không thể đủ thời gian và cũng không đủ thông tin để kiểm tra hay tham vấn một cách bài bản, chi tiết mà khâu KTSTQ sẽ có nhiều thời gian để tập trung kiểm tra, tập trung kiểm chứng và chọn lọc thông tin tốt hơn. - Cần nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ quản lý tham vấn giá. Thường xuyên tổ chức các chương trình đào tạo và đào tạo lại cho đội ngũ công chức dặc biệt là xây dựng năng lực cho đội ngũ công chức kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan về nghiệp vụ kiểm định, kỹ năng tham vấn bao gồm: Kiểm tra hồ sơ, tài liệu khai báo và kiểm tra trị giá khai báo, chuẩn bị tham vấn, cách thức tham vấn, nội dung tham vấn, hình thức tham vấn, biên bản tham vấn, kết luận sau tham vấn. - Xây dựng hệ thống quản lý thông tin chung để đản bảo những người làm nhiệm vụ quản lý giá, tham vấn giá có thể truy cập và sử dụng, khai thác thông tin về hàng hóa, người khai hải quan, chủ hàng, ở mọi khía cạnh cần thiết. Bộ phận kiểm tra sau thông quan các cấp phải được trang bị quyền và khả năng truy cập vào tất cả các nguồn thông tin hợp pháp liên quan đến hoạt động doanh nghiệp; được cung cấp thông tin đầy đủ qua kênh thông tin của cơ sở dữ liệu giá, thông tin quản lý rủi ro, thông tin tình báo hải quan, lưu ý các thông tin này phải được xử lý bằng những công cụ hiện đại, cho pháp truy cập nhanh và chính xác. - Nâng cao chương trình phần mềm về quản lý cơ sở dữ liệu giá theo hướng tích hợp trực tiếp với chương trình quản lý dữ liệu chung của toàn Ngành. Trên thực tế, cơ sở dữ liệu giá hiện nay còn thể hiện hai hạn chế cơ bản là thiếu tính phong phú và biệt lập với hệ thống đa chức năng của Ngành. Để tiến tới áp dụng thông quan điện tử cho hàng hóa xuất, nhập khẩu, cần xây dựng được một hệ thống thông tin chung để đảm bảo người làm nhiệm vụ quản lý giá, tham vấn giá có thể truy cập, sử dụng và khai thác thông tin về hàng hóa, người khai hải quan, chủ hàng… ở mọi khía cạnh cần thiết. 4.4. Một số khuyến nghị: 4.4.1. Khuyến nghị với Chính phủ: Cần sắp xếp cơ cấu tổ chức của hệ thống cơ quan Hải quan, trong đó ưu tiên tăng biên chế cho ngành hải quan để bổ sung thêm lực lượng KTSTQ nhằm phù hợp với yêu cầu công việc, từng giai đoạn phát triển ngành Hải quan . Mô hình tổ chức của hệ thống cơ quan Hải quan tổ chức theo khu vực, theo yêu cầu công việc, không phụ thuộc vào địa giới hành chính của tỉnh là xu hướng của thực tế hiện nay. Mô hình này hiện đã được hải quan các nước trên thế giới áp dụng và triển khai có hiệu quả như: Hải quan Pháp, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc…. Việc sắp xếp hệ thống tổ chức theo khu vực của cơ quan Hải quan theo yêu cầu nhiệm vụ chứ không phải theo yêu cầu tổ chức hành chính. Việc tổ chức theo mô hình này sẽ tăng cường được năng lực quản lý, điều hành của cấp Tổng cục Hải quan, giảm bớt đầu mối trung gian để phù hợp với yêu cầu cải cách, hiện đại hóa. Tiêu chuẩn hóa trụ sở làm việc gắn với hệ thống cơ sở vật chất và công nghệ thông tin hiện đại. Đặc biệt, nguồn nhân lực sẽ được chuyên nghiệp và nâng cao chất lượng hơn trong đó có lực lượng KTSTQ. Biên chế của ngành Hải quan được xác định trong phạm vi tổng số biên chế được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao cho Bộ Tài chính. Bộ trưởng Bộ Tài chính giao chỉ tiêu biên chế cho ngành Hải quan phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao theo quy định trên cơ sở chủ động tổ chức, sắp xếp bộ máy quản lý và sử dụng lao động theo đúng chủ trương tinh giản biên chế của Nhà nước. Bên cạnh có cần có đề xuất thí điểm thực hiện thi tuyển các chức danh lãnh đạo cấp Tổng Cục, Cục…Tuy nhiên, làm sao đảm bảo tính chất chuyên sâu và không phụ thuộc vào địa giới hành chính thì ngành Hải quan cần phải xây dựng cụ thể, cần có lộ trình thực hiện thích hợp trong 5 đến 10 năm, có thể sẽ làm thí điểm ở một vài đơn vị. Chỉ đạo các Bộ, Ngành phối hợp, hỗ trợ đến công tác kiểm tra sau thông quan nói chung và kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan nói riêng. Chính phủ cần cẩy mạnh sự phối hợp giữa các Bộ, Ngành có liên quan đến kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan, trong đó có các nội dung như: + Chỉ đạo Bộ Tài Chính nghiên cứu, phối hợp với Bộ Công an đẩy mạnh sự phối hợp trong gian lận thương mại trong lĩnh vực hải quan, trốn lậu thuế…Giao cho Bộ Tài chính kiện toàn hệ thống kế toán công và kế toán doanh nghiệp để thực sự trở thành công cụ quản lý kiểm soát hoạt động kinh tế. + Chỉ đạo Bộ Tài chính, Tổng Cục hải quan, phối hợp với Ngân hàng nhà nước trong việc nâng cao hiệu quả việc kiểm tra, kiểm soát các khoản giao dịch thanh toán; giảm dần các giao dịch bằng tiền mặt, tiến tới chấm dứt các giao dịch tiền mặt giữa các tổ chức thương mại. + Chỉ đạo phối hợp với Bộ Công Thương trong việc hỗ trợ và phổ cập rộng rãi trên các phương tiện đại chúng về mức giá giao dịch của các mặt hàng chủ yếu nhập khẩu vào Việt Nam với số lượng lớn ở các thị trường lớn và khu vực. + Chỉ đạo phối hợp với Bộ Ngoại giao để hỗ trợ Bộ tài chính tổ chức được mạng lưới đại diện hải quan tại nước ngoài. 4.4.2 Khuyến nghị với Bộ Tài Chính: Bộ Tài Chính không ngừng hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn KTSTQ về TGHQ. Cần tăng cường hơn nữa nguyên tắc pháp chế trong hoạt động của KTSTQ nói chung và KTSTQ về TGHQ nói riêng. Nhằm nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật, Bộ Tài chính cần phải không ngừng rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định về pháp luật liên quan đến hoạt động KTSTQ. Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan cần tổ chức và xây dựng lại toàn bộ hệ thống văn bản hướng dẫn áp dụng trong nội bộ Ngành Hải quan về các phương pháp xác định trị giá hải quan, các quy trình xác định trị giá, các quy trình tham vấn trị giá , v.v… Trên cơ sở Luật Hải Quan sửa đổi sắp có hiệu lực vào năm 2015, Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan cần xem xét ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể về: quy trình tham vấn trị giá hải quan; quy trình kiểm tra trị giá hải quan; và những quy trình nghiệp vụ khác có liên quan đến lĩnh vực kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Bổ sung đầy đủ thẩm quyền về xử phạt vi phạm hành chính của lực lượng KTSTQ về TGHQ ngành Hải quan trong pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và quy định cụ thể thẩm quyền trong xử lý vi phạm về trị giá hải quan. Đồng thời, phải có chế tài xử lý nghiêm những hành vi gian lận về trị gá hải quan. Nghiên cứu đề xuất với Chính Phủ xây dựng cơ chế trưng mua tài sản đối với trường hợp gian lận qua trị giá hải quan. Việc trưng mua, trưng dụng tài sản của cá nhân, tổ chức đã được quy định trong các luật, pháp lệnh được ban hành trong thời gian gần đây nhưng mới chỉ dừng lại ở nguyên tắc chung, chưa có quy định cụ thể về đối tượng, thẩm quyền, điều kiện tiến hành việc trưng mua, trưng dụng. Vì vậy, để thực hiện đầy đủ Hiệp định trị giá GATT/WTO, thực hiện tốt kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan cần sớm nghiên cứu, xây dựng cơ chế trưng mua đối với những trường hợp trưng mua tài sản đối với trường hợp gian lận qua trị giá hải quan. Áp dụng cơ chế “trưng mua hàng hóa” trong trường hợp hàng nhập khẩu được bán phá giá, được trợ giá hoặc doanh nghiệp khai báo trị giá hàng hóa nhập khẩu quá thấp mà cơ quan hải quan chưa thể có đủ căn cứ để đấu tranh, thì có thể trưng mua hàng hóa đó theo giá khai báo sau khi đã bù đắp một số chi phí hợp lý cho doanh nghiệp. Như vậy mới góp phần răn đe, ngăn chặn việc gian lận thương mại qua giá tính thuế ở một số mặt hàng hóa xuất, nhập khẩu trong. Để làm được điều đó cần phải có cơ sở pháp lý quy định rõ ràng, minh bạch việc trưng mua, trưng dụng trưng mua tài sản đối với trường hợp gian lận qua trị giá Hải quan. Tăng cường chỉ đạo về cơ sở vật chất, chương trình hành động cho công tác KTSTQ về TGHQ. Bộ Tài Chính cần tăng cường chỉ đạo về cơ sở vật chất, chương trình hành động đối với ngành hải quan nói chung và KTSTQ nói riêng. Chú trọng đến nâng cao chất lượng các chương trình thực hiện thủ tục hải quan điện tử; hệ thống VNACCS/VCIS một cách hiệu quả; tăng hiệu quả hoạt động quản lý rủi ro; nhanh chóng triển khai công tác kiểm tra sau thông quan đối với thủ tục hải quan điện tử. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính phải đảm bảo kinh phí và tiến độ trang bị cơ sở vật chất, phương tiện, trang bị hiện đại phục vụ hoạt động nghiệp vụ của Ngành Hải quan.  Trang bị phương tiện, cơ sở vật chất, thiết bị kỹ thuật, vũ khí, công cụ hỗ trợ, thiết bị công nghệ thông tin đối với từng hoạt động nghiệp vụ của Ngành cũng đã được rà soát, xác định nhu cầu để lập kế hoạch, đề án trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. 4.4.3 Khuyến nghị với Tổng Cục Hải Quan: Đẩy mạnh cải cách hành chính, hiện đại hóa trong lĩnh vực hải quan. Trong bối cảnh triển khai công cuộc cải cách thủ tục hành chính hiện nay, Tổng cục Hải quan xác định cải cách, hiện đại hóa Hải quan là một đòi hỏi tất yếu từ thực tiễn phát triển kinh tế- xã hội và hội nhập của đất nước, đồng thời xuất phát từ thực trạng, nguồn lực quản lý của ngành Hải quan. Trọng tâm là cải cách thủ tục hải quan dựa trên phương pháp quản lý hải quan hiện đại theo hướng tuân thủ các chuẩn mực, thông lệ và cam kết quốc tế, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin. Để thực hiện tốt cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa hải quan cần: - Tập trung đầu tư, hiện đại hóa các trụ sở làm việc, đầu tư các trang thiết bị kỹ thuật, công cụ hỗ trợ; hạ tầng truyền thông và ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ cho các mặt hoạt động cơ quan hải quan. - Đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương nhằm chia sẻ kinh nghiệm về cải cách, hiện đại hóa, phương pháp, kỹ thuật quản lý hiện đại hóa hải quan. - Tìm kiếm, vận động các dự án hỗ trợ kỹ thuật, viện trợ không hoàn lại của các tổ chức quốc tế và các nước phục vụ cho quá trình cải cách, phát triển và hiện đại hóa ngành. - Bên cạnh đó, cần có chiến lược tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hiệu quả. Yếu tố con người là một trong những tiền đề quan trong cho sự thành công của cải cách, hiện đại hóa lĩnh vực hải quan. Muốn vậy, bên cạnh đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, Tổng cũng hải quan cũng cần có những chính sách, cơ chế đãi ngộ khen thưởng cho lực lượng KTSTQ về TGHQ. Nên thành lập các quỹ hỗ trợ KTSTQ để nhằm mục đích phục vụ cho công tác KTSTQ nói chung và KTSTQ về TGHQ nói riêng như: mua tin phục vụ cho công tác KTSTQ về TGHQ, mua các trang thiết bị hiện đại phục vụ cho công tác KTSTQ về TGHQ, thưởng các cá nhân trong và ngoài Ngành có thành tích trong việc phối hợp KTSTQ về TGHQ… Đồng thời với quy định chế độ ưu đãi, khen thưởng cụ thể, Tổng Cục hải quan phải có những quy định kỷ luật nghiêm khắc đối với những cán bộ hải quan làm công tác KTSTQ về TGHQ có hành vi trái pháp luật, gây tổn hại cho doanh nghiệp hoặc có hành vi tiêu cực cấu kết với doanh nghiệp để làm sai lệch kết quả KTSTQ về TGHQ. Xây dựng chuẩn mực kiểm tra sau thông quan. Tổng cục Hải quan cần nhanh chóng xây dựng chuẩn mực kiểm tra sau thông quan. Điều đó đòi hỏi quá trình thực hiện KTSTQ của cơ quan hải quan được tiến hành dựa trên cơ sở các chuẩn mực, với phương pháp tiếp cận khoa học, đảm bảo tính chính xác, trung thực và khách quan. Hệ thống chuẩn mực kiểm tra sau thông quan là cơ sở cần thiết để các bên có liên quan có nghĩa vụ phải thực hiện. Việc tuân thủ các chuẩn mực trong quá trình thực hiện nhiệm vụ KTSTQ đảm bảo cho quá trình này được tiến hành khách quan, khoa học, tuân thủ các quy định của pháp luật, đảm bảo cho kết quả KTSTQ có độ chính xác cao, có cơ sở pháp lý tin cậy, phục vụ cho việc đánh giá tính tuân thủ, đảm bảo hệ thống thanh tra, kiểm tra của cơ quan hải quan và cơ quan Nhà nước khác có thẩm quyền thực thi có hiệu quả, tránh chồng chéo gây cản trở cho hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Tăng cường đào tạo kỹ năng KTSTQ về TGHQ, trong đó chú trọng kỹ năng về kế toán, kiểm toán, phát hiện gian lận thương mại. Nếu các doanh nghiệp có hành vi gian lận trị giá hải quan qua chứng từ thương mại và chứng từ ngân hàng thì chắc chắn họ sẽ chỉnh sửa chứng từ kế toán để tạo ra nguồn tiền mặt thanh toán không chính thức cho bên mua. Vì thế phải có am hiểu về chứng từ trên mới có thể phát hiện ra được những hành vi gian lận của doanh nghiệp, do dó, nâng cao các kỹ năng kiểm tra chứng từ trong đó kỹ năng về kế toán, kiểm toán luôn phải được quan tâm đào tạo cho cán bộ thực hiện KTSTQ về TGHQ. Bên cạnh đó, cần tiếp tục kiểm tra phát hiện những hình thức vi phạm gian lận thương mại trong lĩnh vực khai báo trị giá hải quan, trong đó bao gồm cả hành vi chuyển giá. Ở Việt Nam, các hành vi chuyển giá diễn ra khá đa dạng và tương đối phức tạp. Hoạt động này được các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư sử dụng để giảm nghĩa vụ nộp thuế, gia tăng lợi ích cục bộ. Xét tổng thể, chuyển giá không những tạo ra rủi ro cho doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh, ảnh hưởng đến chính sách quản lý và điều hành nền kinh tế của Chính phủ. Vì thế, chuyển giá là hoạt động cần phải được ngăn chặn. Chính vì vậy, cơ quan Hải quan phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đối với trị giá tài sản góp vốn là máy móc, thiết bị nhập khẩu để ngăn ngừa tình trạng chuyển tiền qua việc khai tăng trị giá vốn góp là các hàng hoá nhập khẩu như hiện nay. Trên cơ sở thông tin dữ liệu hiện có của ngành thuế, cần khẩn trương rà soát lại các doanh nghiệp FDI, các tập đoàn kinh tế kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực để xác định các đầu mối doanh nghiệp là các bên liên kết, làm căn cứ cho việc xây dựng kế hoạch, xác định rõ phạm vi cần tiến hành các cuộc kiểm tra, thanh tra đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm theo nội dung yêu cầu của chuyên đề chống chuyển giá. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động chuyển giá, trong đó chú trọng công tác kiểm tra sau thông quan. 4.3.4.2. Hoàn chỉnh chế độ và áp dụng thành công quản lý Doanh nghiệp ưu tiên đặc biệt. Khái niệm doanh nghiệp ưu tiên và chương trình doanh nghiệp ưu tiên gắn liền với khung tiêu chuẩn về an ninh, tạo thuận lợi cho thương mại toàn cầu trên đã được WCO thông qua năm 2005. Một trong những mục tiêu của Khung tiêu chuẩn WCO là tăng cường sự hợp tác giữa Hải quan – Doanh nghiệp. Đồng thời, một trong bốn nhân tố chính của Khung tiêu chuẩn là chỉ ra những ưu đãi Hải quan dành cho các doanh nghiệp đáp ứng được yêu cầu tối thiểu của an ninh dây chuyền cung ứng và chấp hành tốt pháp luật hải quan. Theo đó, doanh nghiệp ưu tiên đặc biệt (AEO - Authorized Economic Operator) được định nghĩa là một bên tham gia vào hoạt động lưu chuyển hàng hóa quốc tế, được cơ quan Hải quan công nhận tuân theo những tiêu chuẩn của WCO hoặc những tiêu chuẩn an ninh dây chuyền cung ứng tương đương. Triển khai AEO hiện nay đang là một chương trình hàng đầu của hải quan nhiều nước. Hoàn chỉnh chế độ và áp dụng thành công chương trình” Doanh nghiệp ưu tiên đặc biệt” sẽ nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về Hải quan, tạo thuận lợi thương mại và khuyến khích doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật mối quan hệ đối tác giữa Hải quan và doanh nghiệp càng ngày càng được coi trọng và phát triển. Xác định đây là công việc lâu dài, có tầm quan trọng trong công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá Hải quan, Tổng Cục Hải quan cần có những giải pháp và định hướng cụ thể để tiếp tục triển khai chương trình AEO phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và điều kiện đặc thù của Việt nam. Qua đó, có chế độ đối xử phù hợp như tạo điều kiện cho doanh nghiệp chấp hành tốt, tập trung được nguồn lực kiểm tra đối với những đối tượng có nhiều rủi ro cao có khả năng vi phạm, gian lận, trốn thuế… Bên cạnh đó, cần có bộ phận chuyên trách đảm nhiệm vận hành chương trình này, không làm một cách tạm thời như hiện nay. Tổng cục Hải quan cần bố trí các bộ phận chuyên trách cấp phòng, ở địa phương, tùy theo số lượng và quy mô các AEO để thành lập cấp đội hoặc tổ trực thuộc chi cục KTSTQ. Nghiên cứu cụ thể việc xây dựng tổ chức bộ máy triển khai, thực hiện chế độ này. Nghiên cứu chương trình AEO của các nước để từ đó tìm ra những bài học kinh nghiệm áp dụng cho Hải quan Việt Nam… KẾT LUẬN Kiểm tra sau thông quan là một trong những nội dung trọng tâm của công tác hải quan. Trong kiểm tra sau thông quan thì kiểm tra về trị giá hải quan là chủ yếu và quan trọng nhất. Kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan là công cụ quan trọng số một trong việc phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi các hoạt động gian lận thương mại, đặc biệt là chống chuyển giá. Đối với Việt nam, vì nhiều lý do, công tác kiểm tra sau thông quan nói chung và kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan đang được đặt ra hết sức cấp bách cả về số lượng và chất lượng công việc, nhưng việc triển khai thực hiện trong thời gian qua đạt kết quả còn thấp. Chính vì vậy, nghiên cứu đề tài luận án: “Kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan ở Việt Nam”, mong muốn góp một số ý kiến nhằm tăng cường hiệu quả công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan cũng như góp phần trong công cuộc cải cách, hiện đại hóa và đổi mới của Ngành Hải quan. Luận án đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận về khái niệm kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan, các quy trình, kỹ thuật kiểm tra sau thông quan; vai trò và yêu cầu của kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Đồng thời, qua kinh nghiệm quốc tế trong kiểm tra sau thông quan của một số nước điển hình, luận án rút ra một số nhận xét và bài học làm cơ sở cho đề xuất các giải pháp ở phần tiếp theo. Trên cơ sở quan điểm về KTSTQ về TGHQ đã trình bày, luận án đi sâu phân tích về thực trạng kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan ở Việt Nam, đảm bảo đưa đến cái nhìn toàn diện trong công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan hiện nay. Qua đó, tác giả rút ra những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó; làm cơ sở tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan. Với những kiến thức tìm hiểu được, tác giả mạnh dạn đề xuất một số giải pháp tăng cường công tác kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan hiện nay và cả những năm tiếp theo, trong đó tập trung vào các giải pháp về chất lượng và số lượng cán bộ KTSTQ về TGHQ; Cải tiến hệ thống cơ sở dữ liệu giá và tăng cường hợp tác trong nước và quốc tế trong lĩnh vực KTSTQ về trị giá hải quan… Để thực hiện các giải pháp đề xuất trong đề tài không thể tách rời sự quan tâm, chỉ đạo thực hiện kiên quyết, thường xuyên, kịp thời và đồng bộ từ Chính Phủ, các Bộ, Ngành và cơ quan quản lý Nhà Nước có thẩm quyền kể cả sự hỗ trợ của quốc tế.v.v. Các giải pháp đề xuất áp dụng cần được thường xuyên cập nhật, điều chỉnh, bổ sung nhằm không ngừng hoàn thiện, đáp ứng sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của thương mại trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Tuy nhiên, kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan là lĩnh vực mới, và đang còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, việc thực hiện KTSTQ về TGHQ đang được hướng đến trong việc thực hiện thủ tục hải quan điện tử, thì vấn đề về KTSTQ về TGHQ vẫn là câu hỏi lớn cho những nghiên cứu tiếp theo. Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù tác giả đã có nhiều sự cố gắng, song luận án sẽ không tránh khỏi những hạn chế, khiếm khuyết. Tác giả rất mong được các cơ quan, đơn vị, cá nhân góp ý xây dựng chân thành để được chỉnh sửa luận án có chất lượng cao hơn./. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt: Ban Thư ký Asean (2004), Tài liệu hướng dẫn xác định trị giá hải quan Asean. Bộ tài chính (2001), Nghị định số 102/2001/NĐ-CP ngày 31/12/2001 của Chính phủ quy định chi tiết về kiểm tra sau thông quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Bộ tài chính (2003), Thông tư 96/2003/TT-BTC ngày 10/10/2003 của Bộ Tài chính được ban hành hướng dẫn thi hành Nghị định số 102/2001/NĐ-CP ngày 31/12/2001 của Chính phủ Bộ tài chính (2005), Thông tư 114/2005/TT-BTC ngày 15/12/2005 về hướng dẫn về kiểm tra sau thông quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. .Bộ tài chính (2004), Chiến lược phát triển và hiện đại hóa ngành Hải quan đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, Bộ Tài Chính (2010), Thông tư số 205/2010/TT-BTC ngày 15/12/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định số 40/2007/NĐ-CP quy định về việc xác định trị giá hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu Bộ Tài Chính (2005), Nghị định 154/2005/ND-CP ngày 15/12/2005 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra giám sát hải quan. Bộ Tài Chính (2013), Thông tư số 194/2010/TT-BTC ngày 6/12/2010 của Bộ Tài Chính hướng dẫn về thủ tục hải quan và kiểm tra giám sát hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Bộ Tài Chính (2008), Quyết định số 1102/2008/QĐ-BTC ngày 21/5/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc xây dựng cơ sở dữ liệu giá. Bộ Tài Chính (2008), Quyết định số 30/2008/QĐ-BTC ngày 21/5/2008 về việc ban hành tờ khai trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu và hướng dẫn khai báo. Bộ Tài Chính (2012), Thông tư số 182/2012/TT-BTC ngày 25/10/2012 của Bộ Tài chính về việc sửa đổi, bổ sung điểm 1, Mục I hướng dẫn khai báo trị giá tính thuế trên tờ khai trị giá ban hành kèm theo Quyết định số 30/2008/QĐ-BTC ngày 21/5/2008. Cục thuế xuất nhập khẩu – Tổng cục Hải quan (2011), Đề tài “ Hoàn thiện cơ sở dữ liệu giá tính thuế”. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (1999), Nghị định số 16/1999/NĐ-CP ngày 27/03/1999 quy định về thủ tục hải quan, giám sát và lệ phí hải quan. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2007), Nghị định số 40/2007/NĐ-CP ngày 16/3/2007 của Chính phủ quy định về việc xác định trị giá hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2010), Nghị định số 87/2010/NĐ-CP ngày 13/8/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Đề án tăng cường công tác kiểm tra sau thông quan, Tổng cục Hải quan (2006 ) Đào Ngọc Xuân, Xây dựng chuẩn mực kiểm tra sau thông quan, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ Tài chính.(2007) Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ- Xây dựng chuẩn mực Kiểm tra sau thông quan. . Hải quan New Zealand (2012), Cải thiện tính tuân thủ của Hải quan New Zealand www.customs.govt.nz. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT)- Kết quả vòng đàm phán Uruguay về hệ thống thương mại đa biên – NXB Thống kê năm 2000 Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) đã sửa đổi và bổ sung theo Nghị định thư sửa đổi hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung cho khu vực Thương mại tự do ASEAN (AFTA) ngày 15/12/1995- Ủy bán Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế Hoàng Việt Cường, Nâng cao hiệu quả nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan đối với hoạt động thanh toán quốc tế qua ngân hàng Hoàng Trần Hậu,( 2005), Sử dụng hiệu quả các công cụ kế toán, kiểm toán trong hoạt động kiểm tra sau thông quan ở Việt Nam hiện nay, Nà Nội, Học viện tài chính, (2009)- Giáo trình trị giá hải quan. Luật Hải quan Mỹ, (2003), Lực lượng Hải quan và Bảo vệ Bờ biển Hoa Kỳ Luật Hải quan New Zealand, (2005), Hải quan New Zealand Luật Hải quan Nhật Bản, (2000), Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản Luật Thuế Hải quan của Nhật Bản, (2000), Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản Mai Thế Huyên (2002), Cơ sở lý luận thực tiễn nội dung và tác nghiệp cụ thể nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan trong ngành Hải quan. Nghiên cứu hải quan : “Áp dụng quản lý rủi ro trong lĩnh vực tri giá hải quan – Kinh nghiệm của Hải quan Indonesia”, Nguyễn Thị An Giang, (2008)- Nâng cao hiệu quả hoạt động tham vấn trong khâu kiểm tra xác định trị giá hải quan tại các cục hải quan địa phương- Nguyễn Thị Thương Huyền,(2008) Kiểm tra hồ sơ hải quan đối với hàng hoá xuất, nhập khẩu - thực trạng và giải pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ Tài chính. Nguyễn Viết Hồng (2004), Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra sau thông quan đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ Kế hoạch cải cách pháp triển và hiện đại hoá hải quan giai đoạn 2004-2006 - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành, Tổng cục Hải quan. Nguyễn Văn Bình, (2007), Nâng cao hiệu quả kiểm tra sau thông quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu theo loại hình gia công, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành, Tổng cục Hải quan Nguyễn Thị Kim Oanh (20011), Kiểm tra sau thông quan ở Việt Nam trong bối cảnh tự do hóa thương mại – Luận án tiến sĩ Phạm Vũ Minh, (2007), Mô hình kiểm tra sau thông quan ở một số nước trên thế giới và khả năng áp dụng cho Việt Nam, Luận án tiến sĩ. Phương Linh (2001), “Kinh nghiệm Hải quan Thái Lan khi thực hiện Hiệp định Trị giá Hải quan GATT/WTO ”, Tạp chí Hải quan số 4, tr10. Phạm Ngọc Hữu, Nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan , Hà Nội, 4/2003 Phạm Thị Bích Ngọc & Thái Bùi Hải An, Đề tài nghiên cứu khoa học- Doanh nghiệp ưu tiên đặc biệt - Kinh nghiệm của các nước và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” Quốc hội khóa 10 (2001), Luật Hải quan số 29/2001/QH10 ngày 29/6/2001. Quốc hội khóa 11 (1993), Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu do Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam Quốc hội khóa 11 (2005), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải quan số 42/2005/QH11 ngày 14/6/2005. Quốc hội khóa 11 (2005), Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11 ngày 14/6/2005. Quốc hội khóa 11 (2006), Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006. Quốc hội khóa 13 (2012), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH13 ngày 20/11/2012. Quốc hội khóa 11 (2005), Luật Thương mại số 36/2005/QH11ngày 14/06/2005. Tổng cục Hải quan,(2003), Công ước Kyoto sửa đổi, Hà Nội Tổng cục Hải quan: Báo cáo triển khai thực hiện Chỉ thị 568/CT-TCHQ Tổng Cục Hải quan , Báo các tổng kết công tác ngành Hải quan năm 2003,2004,2005,2006,2007,2008, 2009, 2010,2011,2012,2013 Tổng cục Hải quan. Tổng Cục Hải quan, Báo các tổng kết công tác năm 2003,2004,2005,2006,2007,2008, 2009, 2010,2011, 2012,2013 Cục kiểm tra sau thông quan. Tổng Cục Hải quan , Báo các tổng kết công tác năm 2006,2007,2008, 2009, 2010,2011, 2012,2013 Phòng 1- Cục kiểm tra sau thông quan. Tổng Cục Hải quan (2013), Quyết định số 621/QĐ-TCHQ về việc ban hành Quy trình phúc tập hồ sơ hải quan và Quy trình Kiểm tra sau thông quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Tổng Cục Hải quan (2009), Quyết định 1383/QĐ-TCHQ ngày 14/7/2009 về ban hành Quy trình nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan, quy trình kiểm tra thuế đối với hàng hóa xuất khẩu nhập khẩu. Tổng Cục Hải quan (2013), Quyết định 3550/QĐ-TCHQ ngày 1/1/2013 về ban hành Quy trình nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan, quy trình kiểm tra thuế đối với hàng hóa xuất khẩu nhập khẩu. Tổng cục Hải quan , Tập bài giảng Trị giá Hải quan Việt Nam, 2006, Trung tâm đào tạo Bồi dưỡng Công chức Hải quan, Tổng cục Hải quan, Tài liệu giảng dạy của nhóm làm việc về Kiểm tra sau thông quan. Tổng cục Hải quan, (2006),Tài liệu dùng cho lớp nghiệp vụ Hải quan tổng hợp, chuyên đề Kiểm tra sau thông quan của Trung tâm đào tạo bồi dưỡng công chức hải quan. Tổ chức Hải quan Thế giới,(2000),Sổ tay Kiểm tra xác định Trị giá Hải quan của Tổ chức Hải quan Thế giới. Tổ chức Hải quan Thế giới,(1998), Giáo trình xác định Trị giá Hải quan của Tổ chức Hải quan Thế giới. Tổ chức Hải quan Thế giới,(2010), Sổ tay Kiểm tra xác định Trị giá Hải quan của Tổ chức Hải quan Thế giới. Tổng cục thống kê (2012)– NXB Thống Kê, Xuất nhập khẩu hàng hoá (International Merchandise Trade Viet Nam Tổ chức hải quan thế giới (2010), Sổ tay về chống gian lận thương mại. Tổ chức hải quan thế giới (2010), Sổ tay về kiểm tra trị giá. Tạ Thị Mão- (2008), Xây dựng phần mền thu thập, khai thác thông tin phục vụ công tác kiểm tra sau thông quan. Vụ hợp tác quốc tế- Tổng cục Hải quan (2008), Hướng dẫn xác định trị giá Hải quan ASEAN. Website: WTO.org Customs.gov.vn Trang Web của Tổ chức Asean, http://www.aseansec.org/14302.htm Tiếng Anh: 1. Mark Siegrist (2000), Report on the preparation Requirement for the implementation of WTO/ GATT valuation in Vietnam. 2. New Zealand Customs Service (2002), Customs post entry audit for Lao, Myanmar, Vietnam. 3. Alan Hall (2002) Strengthening the Capacity of Vietnam customs, Report on project implemetation during phase1 and recommendation possible – project phase 2 UNDP – Funded Project VIE/97/059. 4. WCO(2000)Commercial fraud enforcement techniques; Risk management, Profiling and Selectivity; Commercial Fraud; Investigative Procedures; Post – clearance Audit. 5. ASEAN PCA Manual (2004). 23 198 Tờ khai Nhập khẩu Xuất khẩu