« Home « Kết quả tìm kiếm

Hoàn thiện Dự thảo Nghị định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ


Tóm tắt Xem thử

- Trên cơ sở tôn trọng tối đa quyền tự do thoả thuận của các bên, Dự thảo Nghị định đã có cách tiếp cận khá cởi mở về áp dụng pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
- “Thỏa thuận của các bên về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phù hợp với các nguyên.
- Như vậy, với điều khoản này, Dự thảo Nghị định cho phép các bên có thể thoả thuận về những nội dung liên quan đến bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác với quy định của pháp luật, và các thoả thuận này, nếu không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật.
- HOÀN THIỆN DỰ THẢO NGHỊ ĐỊNH VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ.
- Ngày Dự thảo Nghị định về Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đã được công bố để lấy ý kiến rộng rãi mọi cá nhân, tổ chức 1 (Dự thảo Nghị định).
- dân sự, không vi phạm giới hạn việc thực hiện quyền dân sự, sẽ được ưu tiên áp dụng so với các quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm.
- Tuy nhiên, quy định này không làm rõ được các quy định bắt buộc của pháp luật về biện pháp bảo đảm mà các bên không thể thoả thuận khác.
- đồng thời, tạo nên điểm mờ pháp lý rằng các bên được thỏa thuận về biện pháp bảo đảm khác với 9 biện pháp đã được quy định tại Điều 292 BLDS 2015.
- Quyền truy đòi tài sản bảo đảm Một trong những điểm cải cách quan trọng của pháp luật về biện pháp bảo đảm hiện nay là việc BLDS vận dụng lý thuyết vật quyền, trao cho bên nhận bảo đảm quyền năng trực tiếp tác động lên tài sản bảo đảm;.
- hệ quả pháp lý kéo theo là khi biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba, bên nhận bảo đảm sẽ có quyền truy đòi tài sản bảo đảm trong trường hợp tài sản đó đã được chuyển nhượng cho người khác (khoản 2 Điều 297 BLDS 2015).
- Mặc dù vậy, nguyên tắc này không phải tuyệt đối, bởi lẽ, quyền lợi của bên nhận bảo đảm trong.
- đồng thời, đưa ra một số các ngoại lệ mà người nhận chuyển nhượng không phải trả lại tài sản cho bên nhận bảo đảm (khoản 3 Điều 7)..
- Tuy nhiên, quy định của Dự thảo Nghị định vẫn chưa trực tiếp điều chỉnh mối quan hệ giữa bên nhận bảo đảm và người mua tài sản trong hoạt động thương mại bình thường.
- Theo thông lệ quốc tế về giao dịch bảo đảm, trong trường hợp này, bên mua tài sản sẽ được giải phóng khỏi quyền truy đòi nếu thoả mãn hai điều kiện: (i) bên bán hàng hóa phải đang kinh doanh, buôn bán thường xuyên chính mặt hàng đó và (ii) bên mua phải không biết, không buộc phải biết là giao dịch đó vi phạm quyền của bên nhận bảo đảm trong hợp đồng bảo đảm 3 .
- 2 Chẳng hạn, Điều 3 Luật mẫu về giao dịch bảo đảm của UNCITRAL quy định rõ những nội dung nào các bên không thể thỏa thuận khác với quy định của Luật và thỏa thuận đó không có hiệu lực với người thứ ba không phải là một bên trong hợp đồng bảo đảm:.
- 3 Điều 34 Luật mẫu về giao dịch bảo đảm của UNCITRAL..
- trường, Dự thảo Nghị định cần ghi nhận rõ ràng ngoại lệ như đã phân tích ở trên đối với quyền truy đòi của bên nhận bảo đảm 4 .
- Tài sản bảo đảm.
- Mô tả tài sản bảo đảm.
- BLDS 2015 đã tiếp cận theo hướng mở cho phép khai thác tối đa các loại tài sản có thể được sử dụng làm đối tượng tài sản bảo đảm.
- Theo đó, tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung, nhưng phải xác định được tài sản (khoản 2 Điều 295).
- Vì vậy, nhiệm vụ của văn bản hướng dẫn thi hành là phải làm rõ tiêu chí “xác định được tài sản”, nhưng không đi ngược lại xu thế mở của BLDS 2015 cho phép mô tả chung về tài sản bảo đảm.
- Cách tiếp cận này của Điều 15 Dự thảo Nghị định chưa phù hợp với định hướng chính sách tạo thuận lợi cho các bên trong việc xác lập giao dịch bảo đảm và giảm chi phí giao dịch, đồng thời cũng không phù hợp với thông lệ quốc tế về giao dịch bảo đảm và thực tiễn mô tả tài sản bảo đảm trong các hợp đồng bảo đảm ở Việt Nam.
- Quy định của Điều 15 Dự thảo Nghị định dẫn đến rủi ro lớn là tòa án có thể tuyên hợp đồng bảo đảm vô hiệu do không đáp ứng được yêu cầu về mô tả tài sản bảo đảm.
- tả tài sản bảo đảm đáp ứng yêu cầu “phải xác định được tài sản” có thể hiểu là liệt kê chi tiết, cụ thể từng tài sản bảo đảm, hoặc mô tả theo loại tài sản (ví dụ: hàng hóa luân chuyển trong kinh doanh hiện có và hình thành trong tương lai, các quyền đòi nợ (khoản phải thu) hiện có và hình thành trong tương lai, quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) hiện có và hình thành trong tương lai v.v…)..
- với tư cách là một đạo luật chung, BLDS 2015 không thể đưa ra các quy định chi tiết để điều chỉnh từng trường hợp đặc thù tương ứng với các loại động sản được dùng làm tài sản bảo đảm.
- Vì vậy, nhiệm vụ của văn bản hướng dẫn thi hành là bổ sung các quy phạm định nghĩa các loại tài sản bảo đảm là động sản.
- quy định hướng dẫn cụ thể từng giai đoạn xác lập giao dịch bảo đảm, xác định hiệu lực đối kháng của giao dịch bảo đảm với người thứ ba, xử lý tài sản bảo đảm, về thứ tự ưu tiên liên quan đến động sản tương ứng, phù hợp với từng loại động sản..
- 4 Mặt khác, để đáp ứng nhu cầu bảo vệ quyền lợi của bên nhận bảo đảm trong trường hợp này, Dự thảo Nghị định cũng nên bổ sung quy định về tài sản phái sinh từ tài sản bảo đảm như kiến nghị tại mục 2.2..
- Nguyễn Quang Hương Trà, Những điểm mới của chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Bộ luật Dân sự năm.
- Tuy nhiên, để giúp các chủ thể trong giao dịch bảo đảm nhận diện được tất cả các loại tài sản có thể được sử dụng làm tài sản bảo đảm và tạo thuận lợi cho họ trong việc mô tả tài sản bảo đảm theo loại tài sản, Dự thảo cần bổ sung, hướng dẫn các loại tài sản khác như sau:.
- Tài sản bảo đảm là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh Theo quan niệm của một số luật gia ở Việt Nam, hàng hóa luân chuyển trong kinh doanh cần được phân biệt với hàng tồn kho 6 .
- Về mặt pháp lý, chỉ nên có một định nghĩa và một cơ chế pháp lý thống nhất đối với tài sản bảo đảm hàng hóa luân chuyển trong kinh doanh (inventory).
- Tài sản bảo đảm là chứng từ hàng hóa có thể chuyển nhượng (negotiable document).
- Vì vậy, các chứng từ này cũng có giá trị, có thể chuyển nhượng trong các giao dịch, và có thể sử dụng làm tài sản bảo đảm..
- Dự thảo về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nên bổ sung quy định này để khuyến khích việc nhận bảo đảm bằng chứng từ hàng hóa như vận đơn, chứng chỉ hàng hóa lưu kho..
- 7 Điều 2(q) Luật mẫu về giao dịch bảo đảm của UNCITRAL năm 2016..
- 9 Điều 16 Luật mẫu về giao dịch bảo đảm của UNCITRAL..
- biện pháp bảo đảm.
- Trước đây, theo Điều 322 BLDS 2005, quyền đòi nợ, với tư cách là quyền tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, được phân biệt so với quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng 10 .
- Tài sản phái sinh từ tài sản bảo đảm Quyển 9 UCC và Luật mẫu của UNCITRAL đều quy định mở rộng phạm vi quyền của bên nhận bảo đảm không chỉ đối với tài sản bảo đảm ban đầu mà còn đối với tài sản phái sinh từ tài sản bảo đảm (proceeds) 11 .
- Trên thực tế, các tổ chức tín dụng ở Việt Nam thường liệt kê các quyền, lợi ích phái sinh từ tài sản bảo đảm trong hợp đồng bảo đảm (phần mô tả tài sản bảo đảm) để bảo vệ quyền lợi của mình.
- Để thực tiễn này được công nhận chính thức, Dự thảo Nghị định cần quy định về “tài sản phái sinh từ tài sản bảo đảm” trên cơ sở tham khảo định nghĩa về “proceeds” của UCC và Luật mẫu của UNCITRAL nhằm mở rộng đường cho các bên thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm về phạm vi tài sản bảo đảm và thỏa thuận đó có thể được tòa án công nhận hiệu lực khi có tranh chấp xảy ra.
- Khi thừa nhận tài sản phái sinh từ tài sản bảo đảm, cũng cần quy định rõ rằng, quyền lợi bảo đảm đương nhiên có.
- 13 Điều 9-102(29) UCC, Điều 10(1) Luật mẫu về giao dịch bảo đảm của UNCITRAL..
- Tài sản bảo đảm là giấy tờ có giá, số dư tài khoản ngân hàng, quyền sở hữu trí tuệ (SHTT).
- Đối với các tài sản này, Dự thảo Nghị định không chỉ dừng lại ở việc ghi nhận chúng có thể được dùng để bảo đảm (vì từ trước đến nay, các tài sản này vẫn được sử dụng làm tài sản bảo đảm), mà quan trọng hơn là phải thiết kế được các quy định riêng về hiệu lực đối kháng với người thứ ba, thứ tự ưu tiên và xử lý tài sản bảo đảm phù hợp với đặc thù của các loại tài sản nêu trên..
- Đối với quyền SHTT, cần quy định cụ thể, rõ hơn quyền SHTT được sử dụng làm tài sản bảo đảm bao gồm những quyền gì để các bên nhận diện được tài sản bảo đảm và thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm.
- Xác lập, thực hiện biện pháp bảo đảm 3.1.
- Xác lập hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm với người thứ ba.
- phương thức (i) đăng ký biện pháp bảo đảm, (ii) bên nhận bảo đảm nắm giữ tài sản bảo đảm và (iii) bên nhận bảo đảm chiếm giữ tài sản bảo đảm.
- Trên tinh thần đó, Điều 24 Dự thảo Nghị định đã quy định về thời điểm phát sinh hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm với người thứ ba đối với phương thức đăng ký hay nắm giữ trực tiếp, đồng thời bổ sung các quy định về hiệu lực đối kháng trong các trường hợp hợp đồng bảo đảm chấm dứt nhưng biện pháp bảo đảm chưa được xoá đăng ký, hay trường hợp quyền sở hữu tài sản bảo đảm đã được chuyển giao cho người khác..
- Thứ nhất, Dự thảo Nghị định chưa quy định rõ về hiệu lực xác lập quyền của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm..
- Một trong những điểm tiến bộ nổi bật của chế định biện pháp bảo đảm trong BLDS 2015 là đã phân biệt rõ ràng vấn đề hiệu lực của biện pháp bảo đảm giữa các bên và hiệu lực đối kháng với người thứ ba.
- Vì vậy, để đảm bảo tính tương xứng và hệ thống, bên cạnh điều luật về hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm với người thứ ba, Dự thảo Nghị định cần bổ sung một điều khoản về hiệu lực của biện pháp bảo đảm giữa các bên.
- Hiện nay, Dự thảo Nghị định đang sử dụng thuật ngữ “hiệu lực xác lập quyền của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm”.
- Mặt khác, Dự thảo Nghị định cần quy định rõ rằng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, đăng ký không phải là điều kiện phát sinh hiệu lực của giao dịch bảo đảm giữa các bên.
- Thứ hai, Dự thảo Nghị định vẫn chưa có cách tiếp cận hệ thống khi giải thích nội hàm của Điều 297 BLDS 2015 về áp dụng hai phương thức chiếm giữ và nắm giữ tài sản tương ứng với từng biện pháp bảo đảm và từng loại tài sản bảo đảm để xác lập hiệu lực đối kháng với người thứ ba..
- Tác giả cho rằng, thay vì giải thích theo một trong ba cách như trên, Dự thảo Nghị định cần giải thích khái niệm nắm giữ theo hướng rộng nhất bao hàm cả 3 cách diễn giải trên để bao quát đầy đủ các phương thức xác lập hiệu lực đối kháng với người thứ ba tương ứng với từng loại tài sản bảo đảm.
- Trên tinh thần đó, Điều 24 Dự thảo Nghị định cần được xây dựng thành một quy định chung diễn giải triệt để tinh thần của Điều 297 BLDS 2015 theo hướng: Chiếm giữ tài sản bảo đảm là phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng người thứ ba được áp dụng với biện pháp cầm giữ 15 .
- Nắm giữ thực tế, theo quy định của khoản 2 và khoản 3 Điều 24 Dự thảo Nghị định, có thể hiểu Dự thảo Nghị định đã tiếp cận phương thức nắm giữ tài sản theo nghĩa rộng bao hàm cả trường hợp bên nhận bảo đảm nắm giữ tài sản bảo đảm và trường hợp bên thứ ba nắm giữ tài sản.
- đồng thời, cần quy định cụ thể phương thức nắm giữ thực tế được áp dụng chung để xác lập hiệu lực đối kháng của cầm cố, và được hiểu bao gồm cả hai trường hợp: (1) Bên nhận bảo đảm thực tế nắm giữ tài sản đó, (2) Bên nhận bảo đảm ủy quyền cho bên thứ ba nắm giữ tài sản đó và bên thứ ba đồng ý tuân theo chỉ dẫn của bên nhận bảo đảm 16.
- Nắm giữ về mặt pháp lý: Dự thảo Nghị định cần quy định, trong trường hợp chứng từ hàng hóa được sử dụng làm tài sản bảo đảm và bên nhận bảo đảm nắm giữ chứng từ đó nhằm phát sinh hiệu lực đối kháng với bên thứ ba, thì bên nhận bảo đảm cũng được coi là nắm giữ hàng hóa thể hiện trên chứng từ 17 .
- Nắm giữ có tính chất kiểm soát chi phối tài sản: Dự thảo Nghị định cần tiếp cận theo hướng thừa nhận phương thức kiểm soát chi phối tài sản bảo đảm được áp dụng đối với tài khoản tiền gửi, chứng khoán, quyền được thanh toán trên cơ sở thư tín dụng.
- 16 Xét từ góc độ hệ thống chế định, có thể sẽ có lập luận cho rằng, BLDS 2015 thực tế đã dự liệu trường hợp bên thứ ba giữ tài sản bảo đảm nhưng đã chỉ cho phép điều đó trong trường hợp thế chấp tài sản (khoản 2 Điều 317 BLDS 2015).
- tham khảo kinh nghiệm của Luật mẫu của UNCITRAL, Dự thảo Nghị định cần quy định quyền lợi bảo đảm đối với tài khoản tiền gửi ngân hàng phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba nếu bên nhận bảo đảm kiểm soát, chi phối tài khoản tiền gửi đó theo một trong ba cách: (1) Bên nhận bảo đảm chính là ngân hàng nơi mở tài khoản;.
- hoặc (3) Bên nhận bảo đảm đứng tên chủ tài khoản đó 18 .
- Đồng thời, cần bổ sung quy định đặc thù về thứ tự ưu tiên giữa bên nhận bảo đảm kiểm soát, chi phối tài khoản ngân hàng và bên nhận bảo đảm đã đăng ký giao dịch bảo đảm.
- Theo thông lệ quốc tế, bên nhận bảo đảm đang kiểm soát, chi phối tài khoản ngân hàng có thứ tự ưu tiên cao hơn, kể cả trong trường hợp bên nhận bảo đảm còn lại đã đăng ký trước..
- Bên cạnh phương thức đăng ký và nắm giữ/chiếm giữ tài sản bảo đảm, còn có các phương thức khác như bên nhận thế chấp nắm giữ giấy chứng nhận về tài sản thế chấp, bên nhận bảo đảm thực hiện hành vi công khai quyền của mình bằng cách thông báo, niêm yết trên trang thông tin điện tử, trụ sở… hoặc hành vi công khai khác phù hợp với quy định của pháp luật.
- đảm vì phải tra cứu quá nhiều nguồn thông tin để xác định tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm, thay vì chỉ cần tra cứu tập trung tại cơ sở dữ liệu của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm.
- Hơn nữa, Dự thảo Nghị định đưa ra nhiều phương thức xác lập hiệu lực đối kháng với người thứ ba nhưng không làm rõ thứ tự ưu tiên giữa các bên nhận bảo đảm thực hiện công khai hóa bằng các phương thức này, có thể sẽ dẫn đến tranh chấp về thứ tự ưu tiên và khó khăn, vướng mắc cho tòa án trong việc giải quyết..
- Cầm giữ tài sản.
- Bên cạnh các biện pháp bảo đảm được hình thành trên cơ sở thoả thuận, BLDS 2015 lần đầu tiên quy định cầm giữ tài sản như là một biện pháp bảo đảm pháp định trong Mục Biện pháp bảo đảm (từ Điều 346 đến Điều 350).
- Trên tinh thần đó, Dự thảo Nghị định đã hướng dẫn chi tiết các vấn đề liên quan đến cầm giữ tài sản như về thời điểm biện pháp cầm giữ phát sinh hiệu lực đối kháng đối với người thứ ba, về bảo đảm quyền cầm giữ và thực hiện quyền cầm giữ 19 .
- 18 Điều 25 Luật mẫu về giao dịch bảo đảm của UNCITRAL.
- Bên cạnh 3 phương thức đăng ký, nắm giữ và chiếm giữ nêu trên, Quyển 9 UCC và Luật mẫu của UNCITRAL đều quy định quyền lợi bảo đảm đối với tài sản phái sinh tự động có hiệu lực đối kháng với bên thứ ba kể từ thời điểm đăng ký giao dịch bảo đảm đối với tài sản ban đầu, nếu tài sản phái sinh có thể xác định được.
- Dự thảo Nghị định nên được bổ sung quy định này nếu ghi nhận tài sản phái sinh từ tài sản bảo đảm để thuận lợi cho việc xác định thứ tự ưu tiên liên quan đến tài sản phái sinh..
- Giải quyết vấn đề trên, khoản 2 Điều 48 Dự thảo Nghị định đã kế thừa cách tiếp cận của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm (được sửa đổi bởi Nghị định số 11/2012/NĐ-CP), bảo vệ quyền lợi bên cầm giữ bằng cách quy định chỉ yêu cầu bên cầm giữ giao tài sản đang cầm giữ cho bên nhận thế chấp nếu bên nhận thế chấp hoặc bên có nghĩa vụ đã hoàn thành nghĩa vụ đối với bên cầm giữ.
- Điều 44 Dự thảo Nghị định đã cố gắng tách bạch giữa các trường hợp bảo đảm đối vật bằng tài sản của bên thứ ba và bảo đảm đối nhân (bảo lãnh), nhưng cách diễn đạt chưa rõ ràng, dễ dẫn đến sự nhầm lẫn khi áp dụng quy định này trong thực tế.
- Tên gọi của điều luật này cần được sửa thành “Thỏa thuận về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác”.
- Trường hợp bên thứ ba dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cho người khác nhưng không có cam kết thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ, giữa bên thứ ba và bên nhận bảo đảm phát sinh biện pháp cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược hoặc ký quỹ.
- Khi tài sản bảo đảm của bên thứ ba bị xử lý, nhưng chưa đủ để thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm, thì bên nhận bảo đảm không có quyền yêu cầu bên thứ ba thực hiện phần nghĩa vụ còn thiếu, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác..
- Trường hợp bên thứ ba cam kết thực hiện nghĩa vụ thay cho người khác thì giữa bên thứ ba và bên nhận bảo đảm phát sinh quan hệ bảo lãnh theo quy định từ Điều 335 đến Điều 343 BLDS 2015 và quy định tại tiểu mục này..
- Trường hợp bên bảo lãnh thỏa thuận với bên nhận bảo lãnh về việc áp dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của chính mình, thì giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh phát sinh đồng thời quan hệ bảo lãnh và quan hệ cầm cố, thế chấp, đặc cọc, ký cược hoặc ký quỹ.
- Trường hợp tài sản bảo đảm của bên bảo lãnh bị xử lý, nhưng chưa đủ để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện phần nghĩa vụ còn thiếu, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác..
- Xử lý tài sản bảo đảm.
- Quyền thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý trong trường hợp các bên có thoả thuận.
- Tôn trọng quyền tự do thoả thuận của các bên, đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế khuyến khích cơ chế thông thoáng, thuận lợi cho bên nhận bảo đảm tự mình thu giữ và xử lý tài sản bảo đảm mà không phải khởi kiện ra tòa án, Dự thảo Nghị định cần quy định minh thị về cơ chế tự thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý một cách linh hoạt, thuận tiện.
- hơn, trao quyền chủ động lớn hơn cho bên nhận bảo đảm.
- Cụ thể, Dự thảo Nghị định cần cho phép bên nhận bảo đảm có quyền tự mình thu giữ tài sản thế chấp là động sản để xử lý, thậm chí có thể không cần thông báo trước về thời gian, địa điểm, phương thức thu giữ nếu như các bên đã có thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm để tránh việc động sản bị tẩu tán.
- Khi tự mình thu giữ tài sản bảo đảm là động sản, bên nhận bảo đảm chỉ cần tuân thủ ba điều kiện: (i) Các bên đã có thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm về việc bên nhận bảo đảm được quyền tự mình thu giữ tài sản bảo đảm, (ii) Bên nhận bảo đảm đã thông báo cho bên bảo đảm, bên thứ ba giữ tài sản bảo đảm về việc vi phạm nghĩa vụ dẫn đến quyền xử lý tài sản bảo đảm và về việc bên nhận bảo đảm sẽ tiến hành thu giữ tài sản (nhưng không cần ghi rõ thời gian, địa điểm, phương thức thu giữ), và (iii) Tại thời điểm thu giữ, bên bảo đảm, bên thứ ba giữ tài sản bảo đảm không chống đối 21 .
- Điều đó có nghĩa là nếu bên bảo đảm, bên thứ ba đã nhận được thông báo, nhưng không có mặt tại địa điểm có tài sản để thể hiện sự chống đối, hoặc đã bỏ đi khỏi nơi có tài sản từ lâu, thì bên nhận bảo đảm vẫn có quyền tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý..
- Phương thức bên nhận bảo đảm tự bán tài sản bảo đảm hoặc nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ.
- Một trong điểm tiến bộ của BLDS 2015 về xử lý tài sản bảo đảm là đã thiết kế những quy định chung ghi nhận bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm có quyền thoả thuận một trong.
- Tuy nhiên, BLDS 2015 chưa quy định bên nhận bảo đảm phải tuân thủ các nghĩa vụ gì khi tự mình bán tài sản bảo đảm để tránh tình trạng giá bán quá thấp, ảnh hưởng đến quyền lợi của bên bảo đảm.
- BLDS chỉ có một điều quy định về nghĩa vụ thông báo của bên nhận bảo đảm về việc xử lý tài sản bảo đảm (Điều 300) và một điều quy định về định giá tài sản bảo đảm (Điều 306), trong đó yêu cầu.
- Theo thông lệ quốc tế, trong quá trình bán tài sản bảo đảm, bên nhận bảo đảm phải tuân thủ nguyên tắc “thiện chí” “”(good faith) và “đảm bảo tính hợp lý về thương mại” (commercially reasonable) 22 .
- 21 Điều 77 Luật mẫu về giao dịch bảo đảm của UNCITRAL..
- 22 Điều 9-610 U.C.C., Điều 4 Luật mẫu về giao dịch bảo đảm của UNCITRAL.

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt