You are on page 1of 80

LOGIC HỌC VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU KHOA

HỌC
LOGIC HỌC

VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC


Tác giả: Lê Tử Thành

LỜI NÓI ĐẦU

Ngày nay, để việc nghiên cứu khoa học đạt được kết quả cao nhất, với
ít tốn kém nhất về tiền bạc cũng như về thời gian, hầu như không thể không
biết đến khoa học về nghiên cứu (science dễ recherche). Thực hiện một công
trình nghiên cứu, dù đơn giản hay phức tạp cũng là một việc có trình tự nhất
định. Từ khi chọn đề tài, tìm tư liệu, khai thác tư liệu chó đến khi tổng hợp tư
liệu và trình bày kết quả nghiên cứu là một quá trình hợp lý. Đó là đối tượng
của Khoa học nghiên cứu.

Thông thường ở bậc Đại học, trước khi ra trường, sinh viên phải trình
luận văn tốt nghiệp. Nhiều sinh viên tỏ ra vô cùng lúng túng. Không ít người
đã phạn phải những sai sót sơ đẳng, đáng tiếc chẳng hạn như: không biết
giới hạn đề tài cho phù hợp với sức học và thời gian có được. Không biết
cách trích dẫn và ghi cước chú (tác giả, tác phẩm, nhà xuất bản, nơi xuất bản,
năm xuất bản, số trang... được sắp xếp lộn xộn, không đúng qui cách). Luận
văn không có lời nói đầu, không có "kết luận", không có mục lục, không có tài
liệu tham khảo, v.v... Thế nhưng có những luận văn như vậy vẫn được thông
qua. Trong khi đó, đối với sinh viên không những ở bậc Đại học mà cả sau
Đại học và trên Đại học), việc trang bị cho họ và đòi hỏi họ phải biết cách tiến
hành việc nghiên cứu khoa học một cách có phương pháp, là đều bắt buộc.

Đáng nói hơn nữa là tình trạng không biết phương pháp nghiên cứu
khoa học, không thấy thích thú và đam mê nghiên cứu "va vấp trong nghiên
cứu v.v... không phải chỉ có ở học sinh, sinh viên mà còn có cả ở một số "bậc
thầy". Đó là hệ quả tất nhiên của một thời mà chính những người ấy - xưa kia
là sinh viên - cũng đã không được trang bị hoặc tự trang bị Phương pháp
nghiên cứu. Thế nhưng thực trạng ấy cho đến nay, vẫn chưa để cải tiến là
bao.

Mặt khác, có một số người, vì nghề nghiệp, không thể từ bỏ việc nghiên
cứu. Nhưng rất tiếc, họ đã không tìm được sự thích thú đối với công việc
thậm chí còn cảm thấy “nặng nhọc” phải “đối phó”..). Chỉ vì họ chưa thạo việc,
nghĩa là chưa biết cách tiến hành việc nghiên cứu một cách dễ dàng và có
hiệu quả.

Vì vậy để đáp ứng phần nào nhu cầu trên đây của những người tập sự
đi vào con đường nghiên cứu khoa học, chúng tôi góp phần xuất bản tập sách
nhỏ này. Đây là tài liệu chúng tôi đã dùng tại các lớp Triết học năm thứ IV,
nghiên cứu sinh...) của Trường Đại học Tổng Hợp và Cao học Sử (khóa II)
của Viện Khoa Học Xã Hội Thành Phố Hồ Cho Minh. Tài liệu này nó được
trình bày một cách giản yếu. Việc đào sâu hơn sẽ được thực hiện tại các lớp
học mà chúng tôi có dịp hướng dẫn hoặc trong những tài liệu khác mà chúng
tôi sẽ xin ra mắt quí vị độc giả trong một ngày gần đây

Cùng với phần chính, tập sách này còn có phần Phụ lục: Với Phụ lục I,
chúng tôi xin cung cấp một số từ ngữ quốc tế thông dụng mà đa số là gốc La
tinh), thường gặp trong các ấn phẩm của các nước phương Tây, để chúng ta
làm quen. Và các Phụ lục II. III, IV chúng tôi có dụng ý dành riêng để nhắc
nhở các bạn sinh viên, cần hết sức thận trọng trong việc nghiên cứu. Bởi vì
ngay đối với những người đã có nhiều tác phẩm và đã nổi danh nhưng không
đủ cẩn thận vẫn có thể mắc phải những sai sót đáng tiếc... Hiển nhiên không
có một bài báo nào hay cuốn sách nào lại không có những thiếu sót. Thế
nhưng, cố gắng tránh thiếu sót càng ít càng tốt, thiển nghĩ vẫn hơn...

Sàigòn Tháng 10.1991

Thật là một sự khích lệ lớn lao cho chúng tôi, khi cuốn Lô gích học và
phương pháp nghiên cứu khoa học được in lại lần thứ hai trong vòng chưa
đầy một năm.
Thiển nghĩ điều đó cho thấy Lô gích học và phương pháp nghiên cứu
khoa học là một trong những vấn đề đang được nhiều độc giả quan tâm.

Thực ra đây không phải là một nguồn tri thức mới được khám phá trái
lại đã có từ lâu. Thế nhưng vì cả nhà trường (nội dung đào tạo) và xã hội (báo
chí, sách vở và các phương tiện truyền thông khác hoặc bỏ sót, hoặc chưa
đáp ứng đủ nên nguồn tri thức này trở nên thiếu. Và xã hội nào cũng thế, luôn
luôn cần đến cái mà nó đang thiếu.

Trong lần tái bản này, chúng tôi có tăng bổ và sửa chữa một số vấn đề
theo ý kiên đóng góp của qúi và độc giả mà đa số là của các bạn sinh viên.
Chẳng hạn các bạn muốn tác giả giới thiệu rõ hơn về khái niệm khoa học, về
phương pháp nghiên cứu trong từng khoa học cụ thể. Theo ý các bạn, nội
dung cuốn Lô gích học và phương pháp nghiên có khoa học là nhằm giới
thiệu cách thức tiến hành công trình nghiên cứu khoa học một cách có hiệu
quả nhất. Song khái niệm khoa học không phải là mặc nhiên ai cung biết,
không cần bàn đến. Mặt khác, những phương pháp giúp cho người nghiên
cứu có thể nhận thức được, nắm bất được nội dung nghiên cứu như phương
pháp phân tích và tổng hợp, diễn dịch và quy nạp, hệ thông và cấu trúc, hình
thức hóa, mô hình hoá, v.v... là cần thiết và bổ ích nhưng vẫn còn ở mức độ
rất chung. Cần làm rõ hơn nữa, cụ thể hơn nữa phương pháp nghiên cứu
trong từng khoa học riêng biệt. Trong khuôn khổ hạn hẹp của một cuốn sách,
dĩ nhiên không đủ để cho một độc giả, sau khi đọc xong phương pháp toán
học, có khả năng trở thành một nhà toán học, đọc xong phương pháp thực
nghiệm, có khả năng trở thành nhị nhà khoa học thực nghiệm, đọc xong
phương pháp tâm lý học.. có khả năng trở thành một nhà tâm lý học, v.v...
Nhưng ít ra người đọc cũng có thể hiểu được một cách "đại cương, khái quát
con đường (phương pháp) đạt đến đích của một nhà toán học, vật lý học, tâm
lý học, xã hội học, sử học... cụ thể là như thế nào?

Đó là những ý kiến (hoặc gọi là những yêu cầu của độc giả chắc cũng
không sai), rất xác đáng, khiên chúng tôi lấy làm trân trọng và cố gắng đáp
ứng trong dịp tái bản.
Thực tình khi viết cuốn sách nhỏ này chúng tôi chỉ muốn hạn chế trong
việc giới thiệu nhung bước đi, những cách thức hợp lý và hiệu quả nhất mà
các nhà khoa học có thể đạt được mục tiêu nghiên cứu của mình. Còn khái
niệm khoa học là gì, chúng tôi không đề cập đến vì e rằng sẽ làm "loãng"
trọng tâm của chủ đề, vả lại thiển nghĩ, khái niệm khoa học "ai mà chẳng
biết". Thế nhưng rồi ra chúng tôi được hiểu "khoa học" không phải là một khái
niệm mặc nhiên ai cũng am tường. Và vì thế trong lần in lại này chúng tôi bổ
sung thêm vào phần phụ lục những yêu cầu của độc giả mà chúng tôi vừa
trình bày trên đây.

Khoa học nào cũng phải có đối tượng (objet) và phương pháp
(méthode). Có bao nhiêu khoa học là có bấy nhiêu phương pháp (để đạt
được đối tượng riêng biệt của mình), mà các khoa học cụ thể ngày nay lại
khá nhiều, không phải hàng chục mà hàng trăm. Do đó thật khó có thể giới
thiệu hết những phương pháp của tất cả các khoa học. Vậy chúng tôi chỉ xin
giới thiệu một số khoa học có phương pháp nghiên cứu tương đối ổn định và
đã thành nên...

Cuộc sống luôn luôn biến nổi, phát triển, Phương pháp nghiên cứu
khoa học cũng vậy, luôn luôn được sửa chữa, bổ khuyết cho ngày càng tốt
hơn. Vì vậy chúng tôi cố gắng giới thiệu những phương pháp đã được hình
thành cùng những bổ khuyết gần nhất. Tuy nhiên rất có thể còn những điều
chúng tôi chưa cập nhật kịp, hoặc vì thiếu thông tin hoặc vì sự hiểu biết của
mình có hạn.

Ngoài ra còn có ý kiến: nên giới thiệu một luận văn hoặc một luận án
làm mẫu. Đó là một yêu cầu chính đáng. Nhưng chúng tôi xin phép không
thực hiện điều đó ở đây, vì rằng cuốn sách nhỏ này nhằm trình bày cách thức
để thực hiện nhiều công trình nghiên cứu khác nhau chứ không chỉ riêng luận
văn, luận án. Vả lại, dù không có một luận văn hoặc luận án làm mẫu, nhưng
cách thức thực hiện cùng bố cục của một luận văn, luận án nói chung như thế
nào, chúng tôi cũng đã có trình bày khá cụ thể (xem trang 88-110). Sau cuốn
Tìm hiểu Lôgích học bàn về Lô gích học hình thức (Logique formlelle), cuốn
Lôgich học và phương pháp nghiên cứu khoa học của chúng tôi lại nghiêng
về Lô gích học ứng dụng (Logique appliquée). Vì phương pháp nghiên cứu
khoa học chính là một vấn đề của phương pháp luận. Mà phương pháp luận
(méthodologie) cùng với khoa học luận (épisténlologie) là hai bộ phận hợp
thành lôgích học ứng dụng, hay còn gọi là triết lý khoa học (philosophie des
sciencs). Nói "nghiêng về" vì ở đây chúng tôi đề cập đến những vấn đề của
phương pháp luận nhiều hơn, chẳng hạn như lo pháp nghiên cứu khoa học
nói chung (chọn đề tài, tìm tư liệu, khai thác tư liệu, trình bày...), phương pháp
nhận nức khoa học (phân tích - tổng hệ diễn dịch - qui nạp, xác xuất - thông
kê, hệ thông - cấu trúc...), phương pháp trong các khoa học cụ thể (toán học,
khoa học thực nghiệm, sử học, xã hội học, tâm lý học...)

Còn những vấn đề của khoa học luận như giá trị (chân lý đạo đức) của
khoa học, nguồn gốc của các khái niệm toán học nền tảng của phép qui nạp,
định luật khoa học với vấn đề tất yếu và ngẫu nhiên, v.v.. chúng tôi chưa có
dịp đề cập đến. Hy vọng rồi đây chúng tôi còn có dịp tiếp tục công việc này và
mong rằng sẽ còn được quí vị độc giả quan tâm theo dõi và khích lệ.

Sài gòn, Tháng 7.1992.

Chương I. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC LÀ GÌ?

Mục I. PHÂN BIỆT MỘT SỐ THUẬT NGỮ


Trong ngôn ngữ của ta, có một số từ hơi giống nhau, nhưng ý nghĩa lại
khác nhau:

Nghiên cứu: Theo từ nguyên; nghiên là nghiền, nghiền ngẫm. Cứu là


tra xét, xem xét. Nghiên cứu là tìm tòi, suy xét kỹ lưỡng để nắm chắc một vấn
đề nào đó. Ví dụ: nghiên cứu bài giảng, nghiên cứu hồ sơ, v.v...

Về mặt khoa học, nghiên cứu là đi sâu vào việc tim tòi, suy xét (có khi
còn làm cả một số thí nghiệm) về một số vấn đề thuộc khoa học xã hội, khoa
nọc tự nhiên, khoa học kỹ thuật để nâng cao trình độ hiểu biết hoặc khám phá
ra được những điều thới lạ. Ví dụ: nghiên cứu sử học, văn học, triết học hoặc
nghiên cứu những giống lúa mới, v.v...

Khảo cứu: Khảo có nghĩa là xét, hạch, hỏi. Ví dụ: khảo cứu giám khảo.
Khảo cứu là xem xét, tra vấn để hiểu cho rõ một vấn đề nào đó.

Nghiên cứu và khảo cứu thường được dùng gần như nhau nhưng chữ
nghiên cứu thông dụng hơn.

Biên khảo. Biên là chép, ghi vào sổ. Khảo là tìm tòi tra xét. Biên khảo
và tìm tòi, tra vấn, suy xét để ghi lại, viết lại

Nghiên cứu khoa học: Thường được hiểu là nghiên cứu những vấn
đề của khoa học như khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học kỹ thuật.

Nhưng nghiên cứu khoa học còn được hiểu là nghiên cứu một vấn đề
nào đó một cách khoa học, nghĩa là không tuỳ tiện, chủ quan, phiến diện, v.v...

Nói chung, nghiên cứu khoa học là tìm kiếm, xem xét, điều tra (có khi
cần cả đến những thí nghiệm) để từ những dữ kiện đã có (kiến thức, tài liệu,
phát minh, v.v..) đạt đến một kết quả mới hơn, cao hơn, giá trị hơn.

Khoa học về nghiên cứu (science de recherche): là môn học dạy ta


đạt được kết quả nghiên cứu tôí đa với một nỗ lực tối thiểu.

Đây là khoa học giúp ta biết cách tìm kiếm, phân tích, đánh giá, chọn
lọc tài liệu, rồi hệ thống hóa, tổng hợp lại, suy luận, v.v... để sáng tạo nên một
công trình mới.

Như vậy là từ những kiến- thức đã có, nhà nghiên cứu phát hiện, khám
phá, xây dựng nên ý kiến riêng của mình (với những luận cứ và luận chứng
chắc chắn hơn) trong một lĩnh vực khoa học nào đó.

Nói cách khác, khoa học về nghiên cử chỉ dẫn cho ta biết cách tiến
hành việc nghiên cứu theo một quá trình hợp lý để đạt được kết quả nhiều
nhất với tốn kém (thời giờ, tiền bạc...) ít nhất.

Cuối cùng khoa học về nghiên cứu còn giúp ta biết cách trình bày kết
quả nghiên cứu làm sao cho rõ ràng, đầy đủ, tuân theo những quy ước đã
được quốc tế hóa để mọi người đều có thể hiểu được dễ dàng. Tóm lại Khoa
học về nghiên cứu dạy ta phải biết làm gì, từ khi bắt tay vào việc nghiên cứu
cho đến lúc hoàn thành.

Mục II. LÔGIC HỌC VÀ VIỆC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC


Tiết 1. Nghiên cứu khoa học là vấn đề của phương pháp luận

Nghiên cứu khoa học một cách có phương pháp là điều cần cho bất cứ
khoa học nào. Đây là vấn đề của phương pháp luận. Nhưng phương pháp
luận là một bộ phận của lôgích học. Vì vậy, nghiên cứu khoa học cũng là một
vấn đề của lôgích học. Vậy lôgích học là gì?

1. Nếu nhìn từ góc độ "vật chất và vận động, ta có lô gích học hình
thức và lôgích học biện chứng.

Mọi người đều biết, bất cứ dạng vật chất nào cũng đều ở trong quá
trình phát triển không ngừng. Nhưng điều đó không loại trừ hiện tượng đứng
im tương đối của vật chất. Nếu không có sự đứng im tương đối, tạm thời, thì
sẽ không có sự vật cụ thể nào cả.

Vì vậy, nếu vật chất có hai dạng: ổn định và phát triển (đứng im tương
đối và vận động tuyệt đối), thì lô gích cũng có hai loại: Lògich học hình thức
(logique formelle) phản ảnh sự vật tư trong tình trạng tương đối ổn định và
xác định vào trong óc người. Và Lôgich biện chứng (logique delectique) phản
ảnh sự vật trong tình trạng phát triển, biến đổi của nó. Mỗi loại lô gích học đều
phát hiện được những qui luật và hình thức của tư duy phù hợp với hai dạng
của vật chất vừa được nói đến ở trên.

2. Nếu nhìn từ góc độ "ứng dụng” hay không ứng dụng vào các khoa
học cụ thể, ta có lô gích hình thức và lôgich ứng dụng.

- Ló gích hình thức (logique formelle) chỉ nghiên cứu những hình thức
(khái niệm, phán đoán, suy luận) và quy luật của tư duy mà không bận tâm
đến nội dung của tư duy. Nói cách khác, lôgícn -học nhằm đạt đến hình thức
và qui luật tư duy đúng, đối với bất cứ nội dung nào (sinh, hóa, lý, địa chất, v
v)

- Lô gích ứng dụng (logique appliquée) chỉ có tên là lô gích khoa học
(logique scientirque) là nhằm đến một mục đích khác.

Tư duy của con người luôn luôn hướng về một đối tượng ở bên ngoài.
Ví dụ: đối tượng của toán học là hình và số, đối tượng của vật lý học là các
hiện tượng tự nhiên, đối tượng của sử học là những sự kiện đã qua. Muốn
đạt được những đối tượng đó, tư quy của ta nói chung phải tuân theo những
nguyên tắc nào, qui luật nào, phương pháp nào: Đó là đối tượng nghiên cứu
của lô gích ứng dụng.

Chính lô gích ứng dụng sẽ chỉ cho ta biết, với đối tượng nào thì phải
dùng phương pháp nào, để có thể đạt được chân lý. Mỗi loại đối tượng có
một phương pháp nghiên cứu thích hợp đối với nó. Toán học, sinh vật học,
hóa học... đều có phương pháp nghiên cứu riêng mà các nhà lôgich ứng dụng
phải xác định rõ.

Lô gích ứng dụng gồm có hai phần: phương pháp luận và khoa học
luận.

Khoa học luận (épistémologie): Theo từ nguyên Hy Lạp (épistéthè:


khoa học; logos: thảo luận), khoa học luận có nghĩa là nghiên cứu khoa học.
Đó là sự nghiên cứu, phê bình về những nguyên tắc được áp dụng, những
giả thuyết được nêu ra và những kết quả đạt được của các khoa học. Nói
cách khác, khoa học luận đặt và giải quyết những vấn đề về nguồn gốc, giá trị
của khoa học và một tương quan giữa khoa học và thực tại. Đứng trước
những nguyên lý, những giả thuyết, những kết quả đã hoàn thành của khoa
học, khoa học luận đặt vấn đề: giá tri của chúng ra sao?

Phương pháp luận (méthodologie): Là sự nghiên cứu hậu nghiệm về


các phương pháp khoa học.
Nó giúp cho những người không chuyên môn, những người tập sự
muốn đi vào con đường nhiên cứu khoa học có thể nhanh chóng nhận biết
được phương pháp nào là phương pháp cần thiết cho sự nghiên cứu của họ.

Tiết 2. Phương pháp luận, sự nghiên cứu hậu nghiệm về các


phương pháp

Phương pháp (méthode), theo nghĩa thông thường, là hệ thống những


cách thức, nguyên tắc được đúc kết lại, nhằm chỉ dẫn cho ta đạt được mục
đích một cách tốt nhất với sự tốn kém (sức lực, thời gian, tiền bạc...) ít nhất.
Ví dụ: phương pháp học ngoại ngữ, phương pháp đánh máy chữ, phương
pháp trồng nấm. Còn theo nghiã triết học phương pháp là một hệ thống
những quy nấc mà chủ thể phải tuân theo để điều chỉnh hoạt động nhận thức
và hoạt động cải tạo thực tiễn, xuất phát từ sự vận động khách quan và có
quy luật của khách thể. Ví dụ: phương pháp qui nạp, phương pháp diễn dịch,
phương pháp hệ thống – cấu trúc, vv…

Phương pháp luận (méthodoiogie) là một bộ phận của lôgích học,


nhằm nghiên cứu một cách hậu nghiệm (a posteriori) về các phương tháp
nghiên cứu khoa bọc.

Như vậy các nhà phương pháp luận không đề xuất trước phương pháp
cho các nhà nghiên cứu noi theo. Họ không sáng tạo ra phương pháp. Trái lại
họ chỉ quan sát cách thức mà các nhà khoa học đã làm, rồi xác định "con
đường" (tức phương pháp mà đa số các nhà khoa học đã áp dụng một cách
có hiệu qủa khi nghiên cứu). Nói cách khác, họ làm công việc chọn lọc hoặc
"tổng hợp” những phương pháp mà các nhà khoa học đã tìm tòi, khám phá
được trong một ngành khoa học nào đó (đối với phương pháp riêng của các
khoa học cụ thể) hay trong nhiều ngành khoa học (đối với phương pháp
chung, phổ biến).

Đứng trước những con đường khác nhau dẫn đến cùng một mục tiêu,
phương pháp luận chỉ cho ta con đường nào là con đường ngắn nhất, tốt
nhất
Xét về nguồn gốc thì khoa học có trước phương pháp. Thật vậy, mãi tới
thời cận đại người ta mới nói đến phương pháp toán học, mặc dù toán học đã
có từ thời cổ đại. Còn phương pháp thực nghiệm, phải chờ đến thế kỷ XVII,
FRANCIS BACON mới đề cập đến trong cuốn "Công cụ mới" (Novum
Organum) và đến thế kỷ XIX, CLAUDE BERNARD nới hoàn chỉnh phương
pháp này.

Nhưng khi phương pháp đã xuất hiện thì lại sẽ thúc đẩy cho khoa học
tiến nhanh hơn. Đó là mối quan hệ biện chứng giữa hoa học và phương pháp
nhận thức khoa học.

HEGEL là một trong những người đầu tiên đã có công đối với ngành
phương pháp luận. Ông chủ trương rằng có sự khác biệt giữa phương pháp
triết học với những phương pháp của các khoa học cụ thể, rằng không thể
nhập chung phương plháp triết học và các phương pháp của khoa học lại làm
một được ông nhấn thạnh rằng phương pháp là sự vận động của bản thân
nội dung nên không thể nghiên cứu phương pháp mà lại tách rời khỏi nội
dung.

Tuy nhiên, vì là một nhà triết học duy tâm nên HEGEI đã quan niệm một
cách sai lầm rằng khoa học là sản phẩm của Tinh Thần Tuyệt Đối nên
phương pháp khoa học cũng chỉ là sản phẩm của Tinh Thần Tuyệt Đối mà
thôi.

Phương pháp luận Mác-xít ngược lại coi các phương pháp khoa học là
phản ảnh một cách khách quan "con đường" mà các nhà khoa học phải tuân
theo khi tìm hiểu thế giới hiện thực ở bên ngoài con người.

Công việc của các nhà phương pháp luận vừa có tính khoa học lại vừa
có tính nghệ thuật. Họ phải biết tập trung tất cả những kinh nghiệm nghiên
cứu rồi phân tích, lựa chọn, xây dựng thành một hệ thống các nguyên tắc để
tạo thành phương pháp. Họ phải biết tìm cho mỗi đối tượng cần được nghiên
cứu, một phương pháp thích hợp nhất để có thể đạt được kết quả tốt nhất.
Thế nhưng thế giới quan của các nhà phương pháp luận cũng giữ một
vai trò quan trọng trong việc xây dựng phương pháp. Nó hướng dẫn họ lựa
chọn một cách nhìn nào đó (duy tâm hay duy vật, biện chứng hay siêu hình)
khi xem xét các phương pháp đã được áp dụng để nghiên cứu một sự kiện
khoa học. Mãi đến thế kỷ thứ XVIII, thế giới quan của phần lớn loài người vẫn
còn là thế giới quan siêu hình" (do trình độ hiểu biết về thế giới còn nông cạn,
sai lệch, thiếu khoa học) nên phương pháp luận siêu hình vẫn chiếm địa vị
thống trị. Tới thế kỷ XIX nhờ trình độ khoa học được nâng cao hơn, nhiều
người mới khám phá ra rằng, trong thế giới tự nhiên không có gì là bất biến.
Mọi cái đều có liên hệ với nhau và luôn luôn ở trong trạng thái phát triển, biến
đổi.

Tiết 3. Phương pháp nghiên cứu khoa học, điều kiện cần của mọi
khoa học

Mỗi khoa học đều có phương pháp nghiên cứu riêng biệt, tùy theo đối
tượng của nó. Nhà toán học, vật lý học, sử học... có những phương pháp
nghiên cứu khác nhau, nhờ đó khám phá được chân lý trong lĩnh vực chuyên
biệt của mình.

Phương pháp nghiên cứu khoa học nói chung hay khoa học về nghiên
cứu (science de recherche) không phải là phương pháp của các khoa học
vừa nói (phương pháp toán học, phương pháp khoa học thực nghiệm,
phương pháp sử học...) vì nó không bận tâm đến việc khám phả ra những qui
luật của vật lý học, toán học, hay sử học. Trái lại nó chỉ muốn tìm hiểu xem
nhà vật lý học, nhà toán học, nhà sử học nói chung đã tiến hành việc nghiên
cứu theo lớp lang nào, đã làm việc theo cách thức nào mà đạt được kết quả.

Phương pháp luận nói chung, căn cứ vào phương pháp nghiên cứu
của các nhà khoa học mà rút ra những qui tắc, những điều kiện chung cho
việc khám phá chân lý trong khoa học. Chẳng hạn các nhà triết học như
FRANCIS BACON, JONH STUART MILL, CLAUDE BERNARD đã xác định
được những qui tắc của phương pháp thực nghiệm. Với công việc này, họ đã
trở thành những nhà phương pháp luận.
Đối với khoa học về nghiên cứu cũng vậy. Trong lĩnh vực này những
người như EDWARD FREEMAN, JOSE A. ADEVA, TYRUS, HILLWAY,
CARTER V.GOOD... là những nhà "phương pháp luận". Họ không chỉ "con
đường (tức phương pháp) riêng cho các nhà sinh vật học, kinh tế học, văn
học, sử học... hoặc sinh viên của các khoa sinh, khoa kinh tế khoa văn, khoa
sử khám phá được chân lý trong khoa học chuyên biệt của mình, nhưng họ
chỉ cho tất cả những người ấy "đường đi nước bước" để đạt được mục đích
mà họ muốn. Vì thế để gặt hái được kết quả với những bước đi hợp lý nhất,
hiệu quả nhất, bất cứ ai muốn tiến hành việc nghiên cứ khoa học cũng cần
phải biết phương pháp nghiên cứu nếu không muốn tự mình mày mò mất thì
giờ…

Chương II. PHÂN LOẠI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Mục I. C ÁC LOẠI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC


Tiết 1. Tóm tắt khoa học

Đây là loại nghiên cứu khoa học đơn giản nhất. Tác giả tóm tắt lại nội
dung một bài báo, một cuốn sách hay một buổi báo cáo khoa học... Tuy nhiên,
chỉ tóm tắt thôi chưa đủ, tác giả còn phải đánh giá công trình khoa học nữa và
có kết luận về công trình ấy.

Tóm tắt khoa học giúp ta mở rộng kiến thức và tạo cho ta thói quen tự
mình khai thác tư liệu, sở đắc những thông tin và những khám phá mới của
khoa học một cách ngắn gọn, cô đọng, súc tích.

Một hình thức đặc biệt của tóm tắt khoa học là "tự tóm tắt". Đó là
trường hợp tác giả tóm tắt chính công trình khoa học của mình (một luận án
hay một tiểu luận chẳng hạn). Tác giả trình bày ngắn gọn kết quả công trình
khoa học mà tác giả đã thực hiện. Tác giả cần nêu bật được những đóng góp
mới mẻ của mình và trình bày một cách mạch lạc, chặt chẽ.
Phần đầu của một tóm tắt khoa học thường nêu vắn tắt: tên tác phẩm,
bài báo hay buổi nói chuyện; tên tác giả (gồm một hay nhiều người cùng tham
gia), thời gian hoàn thành; cấu trúc của tác phẩm, sơ đồ, tranh ảnh, phụ lục…

Phần cuối tác giả đánh giá về công trình nghiên cứu khoa học được
tóm tắt.

Lưu ý: Ở phần thứ hai, nội dung được tóm tắt phải xác thực không bị
xuyên tạc, bóp méo. Nếu tóm tắt khoa học là bản "tự tóm tắt" thì phải phản
ánh hoàn toàn đúng với nguyên bản. Những ý kiến, lập luận, kết luận cho đến
cấu trúc của bản tóm tắt phải giống với luận án hoặc tiểu luận... của mình.

Tiết 2. Tổng luận khoa học

Là một loại nghiên cứu khoa học cao hơn và phức tạp hơn tóm tắt khoa
học. Tổng luận khoa học có nhiều dạng:

- Tóm tắt các tạp chí, các tuyển tập về khoa học.

- Tóm tắt nhiều tài liệu về một đề tài khoa học.

- Tóm tắt (báo cáo) các công việc của các đại hội hoặc một hội nghị
khoa học.

Mục đích của người làm tổng luận khoa học là nhằm giới thiệu những
công trình khoa học mới được công bố với độc giả và nhất là với giới làm
công tác nghiên cứu khoa học. Kèm theo lời giới thiệu, cần phải có cả sự
đánh giá, phê bình của tác giả.

Qua tổng luận về tạp chí chẳng hạn, tác giả có thể biết được nội dung
của tạp chí hay một số tạp chí ở thời gian nào đó trong một định kỳ là 3 tháng,
6 tháng, 1 năm, v.v...

Bỗ cục của một tổng luận khoa học thường gồm như sau:

1. Phần đầu: Nêu lên những nét chung của tạp chí (hay tuyển tập)
khoa học như: tên tạp chí (hay tuyển tập), số trang, nơi xuất bản, thời gian
xuất bản, bố cục gồm có bao nhiêu phần, tên của các phần, v.v...)
2. Phần giữa: Nêu tên đặc điểm chung, khuynh hướng chung của các
công trình nghiên cứu cá nhân (hay tập thể) được in trong tạp chí hoặc tuyển
tập giới thiệu tác giả của công trình ấy; giới thiệu các tài liệu mới được sưu
tầm và các thí nghiệm, nếu có; giới thiệu phương pháp nghiên cứu...

Tổng luận khoa học phải giới thiệu một lúc nhiều kết quả nghiên cứu
khoa học khác nhau nên không thể tóm tắt tất cả được. Vì vậy, tác giả cần
phải biết chọn những gì đáng chú ý nhất để tóm tắt (có thể là một số bài báo
nào đó hoặc một đề tài nào gồm nhiều bài).

Cùng với việc nêu tóm tắt, dĩ nhiên cần có cả nhận định, phê bình của
tác giả. Do đó người làm tổng luận cần có kiến thức rộng về những thông tin
mới và biết đánh giá sâu sắc những công trình khoa học đó.

3. Phần cuối: Tác giả kết luận ngắn gọn và đưa ra những ý kiến để
đánh giá chung. Đồng thời cần lập một bảng danh sách gồm tất cả những tài
liệu (tức thư tịnh) đã được dùng để xây dựng tổng luận khoa học.

Ngày nay vì lượng thông tin khoa học rất lớn nên tác giả khó có thể thu
thập đầy đủ mọi nguồn tài liệu cần tổng luận. Do đó người làm tổng luận nên
cho biết rõ bản tổng luận được xây dựng với những tài liệu nào và những tài
liệu ấy được ấn hành trong thời gian nào.

Tổng luận khoa học là một hình thức nghiên cứu rất cần cho các nhà
khoa học. Bất cứ một "công trình khoa học" nào cũng được bắt đầu với một
tổng luận khoa học về những ấn phẩm có liên quan đến đề tài nghiên cứu của
mình.

Nếu tổng luận về một hội nghị khoa học, thì nguồn tài liệu được dùng
sẽ là tất cả những gì được nghe (đọc và trao đổi tại hội nghị) và những tài liệu
được in ra. Nội dung của một tổng luận khoa học thuộc loại này thường đề
cập đến:

1. Đặc điểm chung của hội nghị.

2. Tổ chức: cách thức báo cáo, trao đổi; thành phần những người tham
gia; thời gian mở hội nghị; lịch làm việc, thâm nhập thực tế, tham quan v.v...
3. Những vấn đề được chú ý trao đổi, tranh luận nhiều nhất.

4. Những báo cáo quan trọng cần được đặc biệt nhấn mạnh và bình
phẩm.

5. Cuối cùng, trong kết luận cần nêu lên những vấn đề nào được nhiều
người nhất trí, vấn đề nào còn được tồn đọng, chia rẽ ý kiến

Tiết 3. Nhận xét khoa học

Là loại nghiên cứu khoa học nhằm đánh giá một công trình nghiên cứu
nào đó: sách, bài báo, luận án, tiểu luận, luận văn, v.v…

Tác giả phải viết ra những nhận xét, nêu rõ những ưu điểm và khuyết
điểm.

1. Về mặt ưu điểm: Chỉ rõ những đóng góp mới có giá trị (những ưu
điểm về mặt tài liệu, lý luận, nhận thức, phương pháp v.v...)

2. Về mặt khuyết điểm. Đề tài có thiết thực không? Những luận cứ


(tức những bằng chứng được đưa ra để làm sáng tỏ đề tài) có xác thực
không, có đáng tin cậy khộng? Lập luận có vững vàng mạch lạc không?

Khi nhận xét, tác giả phải hoàn toàn khách quan, vô tư vì nhận xét phục
vụ hai đối tượng khác nhau, nên có hai công dụng khác nhau. Đối với độc giả,
một nhận xét khoa học tốt sẽ giúp cho độc giả hiểu được thực chất của một
công trình khoa học: Công trình ấy đạt được thành tựu gì và còn thiếu sót gì?
Như vậy nhận xét khoa học giúp cho độc giả có một thái độ đúng đắn đối với
tác phẩm.

Còn đối với tác giả của công trình nghiên cứu đang được nhận xét, nếu
là một nhận xét tốt (đúng, sâu sắc, xây dựng, có tính chất thuyết phục) sẽ
giúp cho tác giả của công trình ấy trưởng thành nhanh hơn.

Nhận xét một luận án, luận văn, thật khác với việc nhận xét bản thảo
của một bài báo được gởi đến tòa soạn hay một tác phẩm được gởi tới nhà
xuất bản. Nhưng nói chung bất cứ bản nhận xét khoa học nào cũng cần đề
cập đến những vấn đề sau đây:
- Đề tài nghiên cứu có thiết thực không? Nghĩa là đế tài ấy có ích lợi gì
cho xã hội? Gần cuộc sống hay xa rời cuộc sống, thậm chí chống lại cuộc
sống của con người? Đề tài ấy có ý nghĩa gì về mặt lý luận và thực tiễn?

- Tài liệu tham khảo nghèo nàn hay phong phú, mới hay cũ? Tài liệu ấy
đã được tác giả khai thác như thế nào?

- Phương pháp nghiên cứu có phù hợp với đề tài không? Có- hiện đại
không? Nếu là đề tài thuộc khoa học trắc nghiệm thì những thí nghiệm đã
được thực hiện có đủ để đảm bảo cho kết luận chưa, hay thí nghiệm còn quá
ít?

- Lập luận có lôgích không, nghĩa là có chặt chẽ, vững vàng không?

- Đánh giá chung: Công trình nghiên cứu này có những ưu điểm và
khuyết điểm như thế nào? Đâu là mặt thành công, đâu là mặt còn bị hạn chế?

Tóm lại bố cục của một nhận xét khoa học thường có ba phần:

1. Nhìn chung về tính chất của tác phẩm.

2. Phân tích có phê phán các bộ phận của tác phẩm.

3. Kết luận về giá trị toàn bộ của tác phẩm.

Tiết 4. Bài báo khoa học

Bài báo khoa học là một “tác phẩm khoa học thu nhỏ”. Tác giả trình bày
một đề tài khoa học nào đó một cách có hệ thống. Những ý kiến của tác giả
dựa trên những bằng chứng (luận cứ) chắc chắn và được sắp xếp, nối kết với
nhau (luận chứng) một cách mạch lạc và hợp lý. Tất cả những yếu tố vừa kể
được trình bày một cách súc tích, hạn chế, thu hẹp về khối lượng.

Bài báo khoa học, nếu phát triển lên, có thể trở thành một tác phẩm
khoa học.

Bài báo khoa học phải luôn luôn chứa đựng một điều gì mới (về lý luận,
tư liệu, thí nghiệm, phương pháp nghiên cứu...) Nhưng cái mới đó có thể còn
trong tình trạng tranh luận, cần được làm sáng tỏ thêm bởi chính tác giả hay
những nhà khoa học khác. Do đó giá trị của bài báo khoa học không tùy thuộc
ở số lượng dài hay ngắn mà tùy thuộc ở chất lượng: những điều mới mẻ
chứa đựng trong đó nhiều hay ít, chắc chắn hay bấp bênh.

Vì bài báo khoa học đòi hỏi phải có những phát hiện mới (dù lớn hay
nhỏ, ít hay nhiều, sâu hay cạn) nên có công dụng giúp độc giả nắm bắt được
chiều hướng phát triển mới của khoa học.

Trên đây là tính chất và đặc điểm của một bài báo khoa học nói chung.
Ngoài ra, một bài báo khoa học còn có thể mang một nội dung khác nữa:
thông báo kết quả một công trình nghiên cứu đã hòan thành. Trong trường
hợp này, những điều mới mẻ không nằm ở bản thân bài báo nhưng nằm ở
công trình khoa học mà bài báo giới thiệu, thông tin, phổ biến…

Tiết 5. Báo báo khoa học

Báo cáo khoa học là loại nghiên cứu khoa học được trình bày trực tiếp
tại một hội nghị khoa học để công khai trao đổi, thảo luận, tranh luận.

Thời gian được dành cho một bài báo cáo khoa học, thường được giới
hạn trong khoảng từ 10 phút đến 20 phút. Vì vậy nội dung của bài báo cáo
phải phù hợp với thời gian được dành cho báo cáo viên, nghĩa là phải ngắn
gọn.

Bố cục của một báo cáo khoa học thường gồm có ba phần.

1. Phần đầu: Liên hệ bài báo cáo của mình với mục đích, yêu cầu
chung của hội nghị, nghĩa là gắn "cái riêng" với "cái chung".

Bài báo cáo không được "lạc đề" hoặc "quá xa với chủ đề chung, để
tránh cho những người tham dự có cảm tưởng rằng tác giả không nắm được
mục đích, yêu cầu của hội nghị hoặc lấy một bài nào đó đã viết sẵn, không ăn
nhập gì với hội nghị khoa học, để "đọc cho có".

2. Phần giữa (phần chính): Trình bày cô đọng nội dung vấn đề khác
của tác giả, cùng những luận điểm tác giả muốn đưa ra để thảo luận.

Nêu vấn đề để thảo luận là một yêu cầu không thể thiếu được trong bất
cứ một báo cáo khoa học nào.
Tác giả chỉ cần nêu lên những ý quan trọng, cơ bản và dành thời gian
còn lại để chứng minh cho những ý kiến đó. Vậy chỉ cần chọn hai hoặc ba vấn
đề chủ chốt để nêu lên, tránh ôm đồm, tản mạn; vì làm như thế sẽ không gây
được ấn tượng mạnh và phân tán sự chú ý của thính giả.

Để chứng minh luận đề của mình, tác giả phải dựa trên những luận cứ
chắc chắn và phải được luận chứng một cách chặt chẽ. Nói cách khác, những
bằng chứng mà tác giả ra để chứng minh (cho đề tài) phải xác thực và có liên
hệ với đề tài. Đồng thời lập luận của tác giả phải mạch lạc, hợp với qui tắc
lôgích, không ngụy biện.

3. Phần cuối: Kết luận và đưa ra những đề nghị, nếu có

Sau đây là một số việc khi tham gia một hội nghị khoa học, tác giả cần
lưu ý.

1. Viết xong bài báo cáo khoa học.

Viết xong đề cương bài báo cáo.

Cả bài báo cáo và đề cương phải được gởi cho ban tổ chức hội nghị
đúng kỳ hạn để ban tổ chức kịp sắp xếp chương trình và in tài liệu để giới
thiệu với những người tham sự.

Khối lượng báo cáo khoa học không hạn chế. Nhưng đề cương thì phải
hết sức ngắn gọn, thường không quá nửa trang đánh máy (hàng đôi).

Nội dung đề cương chỉ nêu vắn tắt vấn đề sẽ được giải quyết.

Còn vấn đề sẽ được giải quyết cụ thể ra sao thì chưa nói. Làm như thế,
vừa đáp ứng đòi hỏi của một đề cương vừa gây được tò mò cho những
người đến nghe báo cáo, hoặc kích thích những người tham dự tìm đọc bản
báo cáo khoa học đầy đủ của tác giả.

Nói cách khác, đề cương chỉ mới giới thiệu trước: "Tác giả sẽ trình bày
những gì?" Còn những vấn đề đó ra sao (Luận cứ? Luận chứng?) thì chưa
được nói ra, còn "giữ kín".
2. Khi báo cáo, tác giả phải triệt để tuân thủ thời gian dành cho mỗi báo
cáo viên. Kéo dài quá thời gian hạn định là một điều tối kỵ. Hoặc để kịp thời
gian, báo cáo viên phải đọc hết sức vội vã, gấp rút cúng là điều nhất thiết nên
tránh.

Cần nhớ rằng các bài báo cáo và thời gian hội nghị đã được dự tính từ
trước. Những kẻ phá "rào" sẽ làm cho chương trình chung bị chuệch choạc.
Còn đọc báo cáo mà cứ như "bắn liên thanh" hoặc như "bị ma đuổi" thì thính
giả rất khó theo dõi, từ đó sẽ không còn quan tâm đến bài báo cáo nữa.

Vậy để tránh những khuyết điểm vừa nói, tác giả phải "chuẩn bị trước"
để trình bày bài báo cáo (cho đúng với thời gian được qui định) bằng miệng
hoặc bằng một bài tóm tắt viết sẵn. Trình bày miệng dĩ nhiên là có sức thuyết
phục hơn. Nhưng trình bày viết lại đỡ mất thì giờ hơn.

Nếu vì lý do nào đó, tác giả không nhớ được để trình bày miệng và
cũng không để chuẩn bị một bài tóm tắt để đọc, thì tác giả nên dùng chính
bản báo cáo rồi lược bỏ trước những đoạn ít quan trọng, chỉ giữ lại những
đoạn chính yếu và phải đọc thử xem có phù hợp với thời gian của Ban tổ
chức qui định hay không.

3. Khi báo cáo, không vội vàng, hấp tấp. Nên trình bày một cách rõ
ràng, thong thả. Thong thả chứ không phải "lề mề", chậm chạp. Nên nói lớn,
không nói "lí nhí", "thì thầm", "tiếng được tiếng mất". Nhưng nói lớn không
phải là gào thét chát chúa như hét vào tai.

Nói tóm lại, khi trình bày bài báo cáo khoa học, tác giả nên ung dung,
đĩnh đặc, hùng hồn...

Tiết 6. Luận án, tiểu luận, luận văn

1. Luận án: là một loại nghiên cứu khoa học, do một người và chỉ một
người thôi thực hiện để "bảo vệ" công khai, nhằm mục đích đạt được học vị
Tiến sĩ, Phó tiến sĩ, Thạc sĩ, v.v...

Thông thường, kết cấu của một luận án gồm có phần khai tập, phần
chính và phần phụ lục…
2. Tiểu luận: là một "luận án nhỏ"; xét về chất tức là xét về phạm vi và
chiều sâu của đề tài khoa học nhưng không nhất thiết nhỏ về lượng.

Tại các nước phương Tây như ở Pháp chẳng hạn, sinh viên thường
bảo vệ tiểu luận, đối với các học trình dưới 6 năm. Còn đối với các học trình
trên 6 năm, sinh viên bảo vệ luận án Tiến sĩ.

3. Luận văn: Còn luận văn có lẽ nên dùng để chỉ một nghiên cứu tốt
nghiệp, dành cho học trình đại học từ 4 năm trở xuống

Nội dung luận văn nhằm giải quyết một vấn đề khoa học thật nhỏ, qua
đấy chứng tỏ sinh viên đã nắm vững những kiến thức cơ bản (về tài liệu,
nhận thức, lý luận, phương pháp) và biết trình bày luận văn đúng qui cách (về
bố cục, trích dẫn, cước chú, thư tịch...)

Tiết 7. Sách giáo khoa

Sách giáo khoa là một loại công trình khoa học, trình bày một vấn đề
liên quan đến một lĩnh vực khoa học nào đó để giảng dạy cho học sinh, sinh
viên... Nội dung của các sách giáo khoa có thể do một nhà khoa học (hay một
tập thể các nhà khoa học) thực hiện. Đây là một công việc khó khăn và có
trách nhiệm cao nhất.

Một công trình nghiên cứu với tư cách là sách giáo khoa luôn luôn phải
đảm bảo những qui định sau đây:

1. Nội dung hoàn toàn đúng với chương trình của bộ giáo dục đã qui
định và hợp với trình độ của sinh viên học sinh.

Bố cục của sách giáo khoa cũng phải được chia thành phần, chương,
mục... rành mạch và hoàn toàn theo đúng chương trình mà Bộ đã công bố.

2. Phản ảnh được những thành tựu của khoa học hiện đại và những
phương pháp nghiên cứu mới nhất.

3. Phải được trình bày một cách có hệ thống, và phải gọn gàng, súc
tích (đầy đủ nhưng không rườm rà, không đi sâu vào chi tiết vụn vặt).
4. Nội dung của sách giáo khoa (trong đó có cả định nghĩa) phải hoàn
toàn đúng, chính xác, đáng tin cậy.

5. Lời văn cần sáng sủa, giản dị, dễ hiểu.

8. Kèm theo mỗi phần, chương, mục... phải có những ví dụ, bài tập và
có thể có cả tranh vẽ, sơ đồ, biểu đồ... để minh họa.

7. Sách giáo khoa chỉ trình bày kiến thức cơ bản vì vậy nó chỉ mới có
công dụng xây dựng nền móng. Để hiểu sâu hơn một môn học nào đó, sinh
viên còn phải tham khảo thêm. Vì thế sách giáo khoa phải có "mục lục sách
tham khảo" còn được gọi là "thư tịch", "thư mục”, "thư lục", v.v...

Tiết 8. Tài liệu giáo khoa

Tài liệu giáo khoa là một loại nghiên cứu khoa học gần như sách giáo
khoa nhưng có những khác biệt sau đây:

1. Tài liệu giáo khoa không trình bày hết chương trình chỉ một môn học
như sách giáo khoa, mà chỉ trình bày một phần nào đó của chương trình. Vì
vậy tác giả có điều kiện để trình bày một vấn đề nào đó toàn diện hơn với
những chi tiết phong phú hơn và sâu hơn.

2. Đối với tài liệu giáo khoa, tác giả cũng dễ dàng cập nhật những kiến
thức mới hơn về tư liệu, về lý luận cũng như về phương pháp nghiên cứu.
Sữa chữa, bổ sung hay viết lại một tài liệu giáo khoa bao giờ cũng dễ thực
hiện hơn là đối với sách giáo khoa.

Tóm lại, vì khối lượng công việc và vì tính chính xác, tính ổn định của
nó, sách giáo khoa bao giờ cũng được biên soạn lại chậm hơn tài liệu giáo
khoa.

Tiết 9. Tác phẩm khoa học

Tác phẩm khoa học là một loại công trình nghiên cứu khoa học đi sâu
vào một hay nhiều lĩnh vực khoa học nào đó. Vì vậy tác giả của tác phẩm
khoa học có thể là một hay nhiều người (hợp soạn).
Một tác phẩm khoa học nhất thiết phải chứa đựng những điều mới mẻ
hoặc về tài liệu, chứng tích, hoặc về nhận thức, lý luận, hoặc về phương pháp
nghiên cứu, hoặc về những ứng dụng vào thực tế,. v. v...

Một tác phẩm khoa học hẳn nhiên phải dựa trên những luận cứ chân
xác và phải được luận chứng một cách vững chắc. Vì vậy giá trị của một tác
phẩm khoa học tùy thuộc vào tính chất chân xác của luận cứ và tính chất
lôgích của luận chứng.

Tác phẩm khoa học còn được gọi là tác phẩm chuyên khảo khi nó đi
vào lĩnh vực khoa học nào đó sâu hơn và toàn diện hơn.

Tác giả thường là người rất chuyên môn trong lĩnh vực ấy, có kiến thức
uyên bác, đã từng nghiên cứu lâu năm và đã đạt được nhiều thành tựu khoa
học. Tóm lại tác giả của tác phẩm chuyên khảo thường phải là những nhà
khoa học chuyên sâu và nổi tiếng

Thông thường tác phẩm khoa học bao giờ cũng có những phát hiện
mới quan trọng về tài liệu, nhận thức, lý luận, phương pháp nghiên cứu,v.v..Vì
vậy tác phẩm khoa học thực sự là động lực của khoa học, góp phần thúc đẩy
cho khoa học phát triển.

Tiết 10. Báo cáo việc hoàn thành một công trình nghiên cứu khoa
học

Báo cáo việc hoàn thành một công trình nghiên cứu khoa học là một
loại nghiên cứu khoa học đặc biệt, nhằm báo cáo kết quả toàn bộ hoặc một
phần của công trình nghiên cứu sau khi đã hoàn tất, với cơ quan hoặc tổ
chức quản lý đề tài.

Đây là công việc của người chủ trì đề tài (cá nhân hay tập thể). Có hai
loại báo cáo việc hoàn thành một công trình nghiên cứu khoa học:

1. Báo cáo từng phần: được soạn thảo sau khi một giai đoạn hay một
số giai đoạn nào đó nằm trong toàn bộ công trình, đã được thực hiện xong.
2. Báo cáo tổng kết: được thực hiện khi một công trình nghiên cứu
khoa học đã được kết thúc hoàn toàn.

Đối với một báo cáo từng phần, tác giả thường phải đề cập đến những
vấn đề sau đây:

a) Trình bày khái lược kế hoạch (plan) và chương trình (programme)


của các giai đoạn nghiên cứu đã được kết thúc.

b) Nói rõ phương pháp nghiên cứu đã được áp dụng.

c) Cho biết đầy đủ những kết quả thực sự đã đạt được.

Thực chất của những kết quả đó ra sao? Cần đặc biệt nhấn mạnh đến
những phát hiện mới, nếu có.

Nếu là báo cáo tổng kết, thì trong phần kết luận, cần có nhận xét ý
nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn của những thành quả, đồng thời nêu lên
những vấn đề còn tồn đọng vì hoặc chưa có dịp nghiên cứu (thiếu điều kiện,
thời gian...) hoặc nghiên cứu mà chưa có kết quả. Từ đó tác giả đưa ra
những đề nghị để nghiên cứu thêm những vấn đề còn có thể tiếp tục

Thông thường kèm theo bản báo cáo, có phần phụ lục dùng làm cơ sở,
bằng chứng (tức những luận cứ) từ đó tác giả rút ra những kết luận có tính
chất khách quan và xác thực. Phần phụ lục có thể gồm các bản đồ, hình vẽ,
phim ảnh, sơ đồ, biểu đồ, v.v...

Ngày nay, để thực hiện báo cáo việc hoàn thành một công trình nghiên
cứu khoa học được dễ dàng, thống nhất, Ban tiêu chuẩn thuộc Hội đồng Bộ
trưởng của các quốc gia tiên tiến, thường ấn định rõ những yêu cầu, qui tắc,
nội dung, bố cục, v.v... cho một báo cáo thuộc loại này. Nhưng nhìn chung,
những qui định cho một báo cáo việc hoàn thành một công trình nghiên cứu
khoa học thường gồm những yêu cầu

a) nội dung báo cáo phải rõ ràng, rành mạch, chính xác.

Cách diễn đạt phải sáng sủa, gọn gàng, không trùng lắp, thừa...
b) Luận cứ phải xác thực, đầy đủ, xác thực tức là không mơ hồ, chủ
quan, hoàn toàn chắc chắn, không còn điều gì phải tranh luận. Đầy đủ nghĩa
là những chứng cứ không quá ít đủ để có thể rút ra kết luận.

c) Luận chứng phải lôgích, không nghịch lý, không ngụy biện.

d) Kết quả của công trình nghiên cứu phải được nêu lên cụ thể, không
chung chung. Kết luận rút ra phải có cơ sở vững chắc. Đề nghị đưa ra phải lý
và có khả năng thực hiện được.

e) Ngay từ đầu của bản báo cáo tổng kết hay báo cáo từng phần đều
phải ghi rõ tên đề tài, tên tác giả. Sau đó như trên đã nói, ở những trang kế
tiếp, là phần tóm tắt công trình nghiên cứu đã hoàn tất, những kết quả đã đạt
được, những kết luận được rút ra và đề nghị sau khi công trình được kết thúc.

Mục II. CÁC HÌNH THỨC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC


Có nhiều hình thức nghiên cứu, tùy thuộc những yếu tố sau đây:

Tiết 1. Số người nghiên cứu

Một công trình nghiên cứu có thể được thực hiện bởi một cá nhân (một
người) hay một tập thể (nhiều người).

Luận án, luận văn, tiểu luận luôn luôn là công trình của một người. Đó
là công trình mà một cá nhân nào đó thực hiện nhằm đạt cho riêng mình một
bằng cấp nhất định.

Còn một tác phẩm khoa học hay một cuốn sách giáo khoa, có thể là
công trình của nhiều người cùng hợp tác để viết

Tiết 2. Mục đích nghiên cứu

Một công trình nghiên cứu có thể nhằm mục đích đạt được những
thành tựu về mặt lý thuyết hoặc ứng dụng hay có khi nhằm đạt đến cả hai.

Có một số người tiến hành việc nghiên cứu để phát hiện, đề xuất
những cái mới về mặt lý luận, phương pháp, nghĩa là những vấn đề của khoa
học thuần túy, cơ bản, nhằm thúc đẩy khoa học phát triển. Nhưng cũng có
người tiến hành việc nghiên cứu để áp dụng khoa học vào đời sống nhằm cải
tiến kỹ thuật, cải tiến những sản phẩm đã có.

Tiết 3. Nơi nghiên cứu

Những nghiên cứu có tính chất ứng dụng, thực nghiệm, thông thường
được tiến hành trong các phòng thí nghiệm. Còn những nghiên cứu có tính
chất lý thuyết thì thường được thực hiện ở bên ngoài phòng thí nghiệm.
Nhưng có khi việc nghiên cứu phải cần đến cả hai nơi. (Phần lớn những đề
tài thuộc khoa học tự nhiên được tiến hành việc nghiên cứu cả ở trong và
ngoài phòng thí nghiệm).

Chương III. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN MỘT CÔNG TRÌNH NGHIÊN
CỨU KHOA HỌC
Nghiên cứu khoa học là sưu tầm và khai thác tất cả những tài liệu thích
đáng để tìm giải đáp cho một vấn đề hay một giả thuyết nào đó.

Trong cuốn "nhập ngôn về nghiên cứu" (Introduction to research), giáo


sư Tyrus Hillway cho rằng, để việc nghiên cứu được tiến hành một cách có
phương pháp, cần phải có 5 giai đoạn:

1. Chọn đề tài.

2. Tìm cứ liệu (tức tìm tài liệu để làm căn cứ cho đề tài)

3. Đặt giả thuyết.

4. Thể nghiệm giả thuyết.

5. Kết luận.

Giáo sư A.S.Gêorgiépxki trong cuốn "Phương pháp học và Phương


Pháp, công tác nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực Y học" chủ trương có
những giai đoạn như sau:

1. Chọn đề tài.
2. Vạch kế hoạch làm việc.

3. Sưu tầm và tích lũy tài liệu.

4. Phân tích và tổng hợp tài liệu.

5. Trình bày.

Nói chung, các nhà nghiên cứu khoa học đều phải thực hiện những
việc sau đây:

1. Chọn đề tài.

2. Lập kế hoạch và chương trình làm việc để thực hiện đề tài đã chọn.

3. Sưu tầm tài liệu để tìm giải đáp cho đề tài.

4. Khai thác những tài liệu đã sưu tầm với phương pháp thích hợp.

5. Trình bày công trình nghiên cứu.

Mục I. CHỌN ĐỀ TÀI


Đây là công việc đầu tiên đối với bất cứ một nhà nghiên cứu khoa học
nào. Tác giả sẽ tự hỏi: Nghiên cứu gì đây, chọn đề tài ra sao? Đó là câu hỏi
làm cho nhiều người phải phân vân, bối rối, có khi kéo dài khá lâu, trước khi
chọn được đề tài.

Nếu là một đề tài được "đặt làm" thì không có vấn đề chọn đề tài. Nhà
nghiên cứu chỉ cần cân nhắc xem có điều kiện và khả năng thực hiện không
(đối với đề tài cá nhân) hoặc trong đề tài ấy mình có thể nhận phần nào (đối
với đề tài tập thể).

Cho nên chọn đề tài tất nhiên là công việc dành cho đề tài tự chọn. Để
tiến hành việc chọn đề tài một cách có phương pháp, ta nên trả lời các câu
hỏi sau đây:

1. Đề tài đó có mới mẻ không?

Một đề tài chưa ai nghiên cứu hẳn nhiên là một đề tài mới. Nhưng
"mới" cũng còn có nghĩa: Một sự kiện lịch sử (ví dụ như cuộc cách mạng
1789 ở Pháp) có thể đã được trình bày hoặc giải thích nhiều cách. Nay ta
đem ra để xem xét lại, lý luận lại thử xem trong những ý kiến cũ, ý kiến nào là
thỏa đáng nhất? Hoặc cũng có thể ta đưa ra một cách trình bày, giải thích
khác với trước. Như thế cũng được gọi là mới.

2. Mình có thích không?

Thông thường người ta chỉ có thể làm tốt những gì mà mình thích. Đó
là một yếu tố cực kỳ quan trọng. Nghiên cứu khoa học là một việc đòi hỏi
nhiều cố gắng, cần mẫn và nhẫn nại. Nhà nghiên cứu thường phải làm việc
một mình. Nếu không thích công việc thì không phát huy được hết khả năng,
khó lòng vượt qua những trở ngại, đôi khi ngã lòng bỏ cuộc giữa đường, hoặc
phải bỏ đề tài này để chọn đề tài khác, làm mất thì giờ.

3. Nghiên cứu đề tài này có lợi ích gì?

Một đề tài sau khi được nghiên cứu phải đem lại những lợi ích thiết
thực về mặt lý luận và thực tiễn, đồng thời đem lại lợi ích cho bản thân (như
đạt một học vị hay được hưởng lợi do thành quả của công trình nghiên cứu
đem lại), hoặc xã hội (như góp phần làm cho khoa học phát triển).

Lợi ích càng nhiều thì càng kích thích nhà khoa học trong việc nghiên
cứu.

4. Mình có đủ khả năng để nghiên cứu đề tài này không?

Không ai hiểu mình hơn mình. Chỉ có mình mới thực sự biết mình có
kiến thức về những vấn đề gì? Mặt nào mạnh, mặt nào yếu? trình độ ngoại
ngữ ra sao?, v.v...

Chọn được một đề tài vừa sức là tốt nhất.

5. Có tài liệu tham khảo liên quan đến đề tài này không?

Để trả lời câu hỏi này, cần đọc phần liệt kê sách tham khảo của những
tác phẩm hay những bài báo mà các nhà nghiên cứu đi trước đã viết về cùng
vấn đề ấy.

6. Thời gian thực hiện sẽ mất độ bao lâu?


Thời gian là một yếu tố quan trọng góp phần quyết định nên chọn đề tài
nào. Có đề tài, chỉ cần chừng một tháng là có thể nghiên cứu xong. Nhưng có
những đề tài phải mất đến nhiều tháng hoặc nhiều năm mới có thể hoàn
thành.

Cho nên chọn một đề tài vì thích, chưa đủ mà còn tùy thuộc ở chỗ có
thời gian đủ để thực hiện đề tài đó hay không?

7. Có đủ phương tiện cần thiết để nghiên cứu không

Máy móc, thiết bi, tài chánh, v.v... là những yếu tố cần phải tính đến khi
chọn một đề tài. Ví dụ một đề tài về khoa học thực nghiệm mà không có điều
kiện làm những thí nghiệm để kiểm chứng giả thuyết thì không thể được chọn
làm đề tài nghiên cứu.

8. Đối với đề tài này có phương pháp để nghiên cứu không?

Khi chọn đề tài tức là chọn đối tượng để nghiên cứu. Có đối tượng thì
phải có phương pháp thích hợp để đạt được đối tượng.

9. Đề tài nên được giới hạn như thế nào?

Một số người mắc phải sai lầm là đã chọn một đề tài "quá lớn".

Người nghiên cứu phải biết giới hạn đề tài cho phù hợp với khả năng,
tài liệu, phương tiện, thời gian... và yêu cầu trước mắt (viết một bài báo, một
bài luận văn, một tiểu luận, một luận án hay một cuốn sách?).

Thông thường, chọn đề tài có hình thức một vấn đề, thì dễ giải quyết
hơn là một trào lưu hay một thời đại. Vì một thời đại hay một trào lưu tư
tưởng thường chằng chịt nhiều vấn đề mà nhà nghiên cứu sẽ gặp khó khăn,
không biết nên bắt đầu với sự kiện nào và kết thúc ở sự kiện nào.

10- Có người hướng dẫn không?

Đây là một câu hỏi đặt ra cho các sinh viên làm luận văn, tiểu luận, luận
án. Nếu có người hướng dẫn thì sinh viên đã tham khảo ý kiến của người
hướng dẫn khi chọn đề tài chưa?
Mục II. LẬP CHƯƠNG TRÌNH LÀM VIỆC
1. Sau khi có đề tài rồi, nhà nghiên cứu phải ấn định rõ thời gian bắt
đầu và kết thúc của cả công trình nghiên cứu và của từng giai đoạn, với
những công việc cụ thể. Nếu không, nhà nghiên cứu sẽ làm việc một cách tùy
tiện, thiếu đều đặn, liên tục và công việc sẽ kéo dài hơn thời gian cần thiết
hoặc không biết đến bao giờ mới kết thúc. Vì vậy công việc gồm có nhũng gì
và được thực hiện như thế nào, vào lúc nào, cần được vạch rõ.

Ví dụ: Việc thu thập tài liệu chẳng hạn sẽ gồm có:

a. Nắm nguồn tài liệu có liên quan đến đề tài bằng cách tra cứu những
bảng chỉ dẫn về tài liệu hoặc nhờ các chuyên viên hướng dẫn...

b. Lập một danh sách, càng đầy đủ càng tốt, tất cả những tài liệu có thể
có được, liên quan đến đề tài: sách, báo, thư từ, phim, ảnh, hình vẽ, biểu
đồ,v.v...

c. Làm những phiếu tài liệu (fiches) chứa những nội dung quan trọng có
liên quan đến đề tài.

d. Đọc tài liệu, tóm tắt tài liệu và ghi lại những điều cần thiết.

e. Tổng luận tài liệu: Tóm tắt chung tình hình tài liệu hiện có, liên quan
đến đề tài rồi đánh giá và kết luận, v.v...

Mỗi công việc như thế phải có chỗ đứng nhất định và được thực hiện
trong một thời gian bao lâu cần qui định rõ ràng cho phù hợp với quỹ thời
gian. Chẳng hạn việc sưu tầm và lập danh mục các tài liệu tham khảo chắc
chắn phải xảy ra trước việc làm tổng luận và thời gian thường phải nhiều hơn.

Nói cách khác, công việc phải được sắp xếp theo một trình tự hợp lý và
mỗi việc chiếm một tỷ lệ thỏa đáng đối với quỹ thời gian có thể có được.

2. Khi công việc của giai đoạn trước chưa hoàn tất, thì không nên bắt
tay vào công việc của giai đoạn sau. Phải có một lịch công tác và phải được
tuân thủ một cách nghiêm ngặt.
3. Đôi khi có những việc đột xuất xảy đến làm cho gián đoạn lịch làm
việc, nên trong chương trình luôn luôn phải có thời gian dự trữ để bù vào
những lúc công việc nghiên cứu bị xáo trộn.

Vì vậy phải điều chỉnh lịch làm việc là điều thường xảy ra. Nhưng để có
thể điều chỉnh thì phải có thời gian dự trữ.

4. Nếu là đề tài nghiên cứu tập thể thì ai làm gì, làm như thế nào, luôn
luôn được phân định rõ ràng để tránh trùng lắp dẫm đạp lên công việc của
nhau.

5. Khi lập chương trình và kế hoạch thực hiện đề tài, tuy chưa phải là
lúc áp dụng một phương pháp (hay nhiều phương pháp) nào đó để nghiên
cứu, nhưng tác giả cũng đã phải nghĩ tới và lựa chọn phương pháp nghiên
cứu nào là có triển vọng nhất, thích hợp đối với đề tài của mình? Ví dụ để
nghiên cứu một đề tài về sử học hay văn học thìphương pháp thực nghiệm là
không thích hợp, còn phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống cấu
trúc...thì thích hợp hơn.

6. Khi lập chương trình, tác giả cũng cần có một giả thuyết cho đề tài.
Giả thuyết là cách giải quyết tạm thời đề tài, là "người hướng dẫn công tác
nghiên cứu". Nhờ có giả thuyết, nhà nghiên cứu định hướng được công việc
của mình, tập trung thu thập tài liệu theo hướng đó, đỡ mất thì giờ thu thập
những tài liệu không cần thiết.

Nếu đó là một đề tài của khoa học tự nhiên hay khoa học kỹ thuật thì
giả thuyết luôn luôn được kiểm chứng càng sớm càng tốt bằng những thí
nghiệm. Nếu qua những sự kiện thu thập được, cho thấy giả thuyết không
đúng với thực tiễn thì phải đặt giả thuyết khác. Rồi nhà nghiên cứu lại tiếp tục
thí nghiệm để kiểm chứng giả thuyết mới.

Mục III. TÌM TÀI LIỆU


Tiết 1. Tìm tài liệu ở đâu?
Sau khi chọn đề tài xong, nhà nghiên cứu phải biết có những tài liệu
nào liên quan đến đề tài và tài liệu đó có thể tìm được ở đâu? Thông thường
khoa kinh tịch chí có thể cho ta biết đề tài hiện đã được những ai nghiên cứu
và nghiên cứu đến đâu. Khoa kinh tịch chí cho biết nơi tàng trữ những tài liệu
ấy.

Thế nhưng, khoa kinh tịch chí ở Việt Nam còn rất sơ sài. Do đó các nhà
nghiên cứu phải tự tìm lấy tài liệu ở các thư viện công hay tư và ở các kho
lưu trữ công văn của nhà nước. Tại các nơi này, nhà nghiên cứu có thể tìm
thấy tài liệu cần dùng trong ấn phẩm các loại như:

- Báo chí (ngày, tuần, nguyệt san, đặc san...)

- Sách biên khảo, truyện, thơ, kịch, nhạc.

- Tiểu sử, hồi ký.

- Thư từ, nhật ký.

- Phim, ảnh, tranh vẽ...

- Văn kiện của nhà nước, v.v...

Ngoài nguồn tài liệu tìm được ở các nơi trên đây, nhà nghiên cứu còn
có thể thu thập tài liệu bằng cách "đi thực tế" hoặc "phỏng vấn".

Phỏng vấn (interview) là cách thu thập tài liệu rất phong phú và giá trị
nếu những người được phỏng vấn là những người am tường nhiều về "thời
cuộc" hay những vấn đề quan trọng nào đó mà họ là những người chứng.

Tuy nhiên, phỏng vấn là một việc không dễ thực hiện. Người đi phỏng
vấn phải biết kỹ thuật phỏng vấn và phải "thạo nghề". Do đó có những điều
cần lưu ý, khi nhà nghiên cứu muốn thu thập tài liệu bằng phỏng vấn:

1- Nhà nghiên cứu chỉ phỏng vấn khi các phiếu điều tra không thể thay
thế cho việc cần có một cuộc đàm thoại sinh động, hoặc khi người được hỏi
không thể tự mình trả lời một số câu hỏi có tính chất phức tạp.

2- Phải biết rõ mình cần ở người kia những gì và phải đặt những câu
hỏi như thế nào?
3- Phải chuẩn bị ứng xử thích hợp khi gặp phải người được phỏng vấn
có thái độ thù nghịch, thoái thác, nghi ngờ, bất hợp tác.

4- Phải cố gắng làm cho người được phỏng vấn tin tưởng và sẵn sàng
hợp tác với mình. Như vậy cần phải xin hẹn gặp trước. Khi đến, y phục- cần
chỉnh tề. Phải trình bày rõ ý định của mình...

5- Lúc đến phỏng vấn, phải đi một mình, không kèm theo người thứ hai
(trừ trường hợp đặc biệt, bất khả kháng), để người được phỏng vấn cảm thấy
tự nhiên, khỏi ngượng ngùng, lúng túng khi trả lời. Nếu cuộc phỏng vấn được
ghi bằng máy ghi âm, cần được thực hiện một cách kín đáo, tốt hơn là nên
ghi bằng giấy bút tại chỗ.

6- Nên phỏng vấn càng nhiều càng tốt, như thế kết quả sẽ được chính
xác hơn.

7- Phải thật khéo léo để người được phỏng vấn không có cảm tưởng là
đang bị điều khiển, cưỡng bách, đòi hỏi quá nhiều, bị làm phiền.

8- Nếu là một cuộc phỏng vấn gián tiếp thì câu hỏi được in sẵn để gửi
đến các đối tượng liên hệ, càng nhiều càng tốt để kết quả càng được xác
thực hơn.

9- Phải biết gạn lọc tất cả những điều đã phỏng vấn được, lập bảng
thống kê tổng quát và tìm một xác suất cho vấn đề.

Đó là công việc sau cùng và hết sức quan trọng.

Tiết 2. Phân loại và đánh giá tài liệu

Tùy thuộc ở nguồn gốc phát xuất, các tài liệu được chia thành ba loại
và có giá trị khác nhau.

1. Tài liệu gốc

Tài liệu gốc hay tài liệu phát xuất từ tác phẩm nguyên thủy gồm các loại
sau đây:

- Kết quả những cuộc nghiên cứu, thí nghiệm của các Viện nghiên cứu,
trường Đại học, cơ quan, xí nghiệp...
- Kết quả những cuộc phỏng vấn.

- Kết quả những cuộc điều tra.

- Những luận án.

- Thư từ, nhật ký, hồi ký.

- Công báo, văn kiện, diễn văn, thông điệp, báo cáo... của các cơ quan
công quyền.

- Tin tức báo chí, thông tấn xã.

- Công trình nghiên cứu của các nhà bác học, khoa học, chuyên gia,
v.v...

Đây là nguồn tài liệu đáng tin cậy nhất vì vậy cũng là nguồn tài liệu có
giá trị cao nhất. Để tham khao, các nhà nghiên cứu trước hết nên dựa vào
nguồn tài liệu này.

2. Tài liệu từ nguồn gốc thứ hai

Là loại tài liệu đã dựa trên tài liệu gốc để viết lại. Trong đó những ý kiến
được trình bày lại thường không có dẫn chứng hoặc không ghi rõ ràng xuất
xứ. Những tài liệu thuộc loại này thường được viết cho đại chúng nên có tính
chất sơ lược. Vì vậy các nhà nghiên cứu cần thận trọng khi dùng loại tài liệu
này, do tính chất vừa nói của nó.

3. Tài liệu từ nguồn gốc thứ ba

Là những tài liệu đã dựa trên tài liệu thứ hai mà viết lại Thành ngữ Hán
Việt có câu: "Tam sao thất bổn". Chép lại ba lần thì mất gốc, không còn giống
nguyên bản Cái gì được truyền đi truyền lại nhiều lần thì sẽ bị sai lạc, mất
mát, không còn giống với nguồn gốc nữa. Vì vậy các nhà nghiên cứu cần sử
dụng hết sức hạn chế loại tài liệu có nguồn gốc thứ ba này.

Tiết 3. Đọc và ghi chép tài liệu

1. Mỗi khi tìm được tài liệu cần cho công trình nghiên cứu tác giả nên
ghi ngay vào một phiếu tài liệu (firche). Loại phiếu này (xin gọi là phiếu A) sẽ
giúp ta tìm được tài liệu dễ dàng khi bước vào giai đoạn đọc và ghi chép tài
liệu. Trên mỗi phiếu (lớn, nhỏ tùy tác giả, nhưng cỡ thông thường là 7x12cm)
chỉ ghi một tài liệu, gồm các chi tiết như sau:

(1) số phân loại của tài liệu tại thư viện.

(2) Chủ đề của tài liệu.

(3) Số thứ tự của tài liệu đã thu thập được (do người sưu tầm ghi).

Ví dụ: số 18 cho biết tác giả đã sưu tầm được 18 tài liệu về chủ đề này.

(4) Tên tác giả, tên tài liệu, các chi tiết xuất bản (nhà xuất bản, năm
xuất bản, nơi xuất bản, số trang).

(5) Ghi chú: Ghi rõ tên của thư viện và phần nào trong tác phẩm cần
đọc.

2. Sau khi thu thập tài liệu, nhà nghiên cứu bắt tay vào công việc đọc và
ghi chép. Ở giai đoạn này tác giả dùng một loại phiếu khác (xin gọi là phiếu
B), lớn, nhỏ tùy tác giả nhưng khổ thông thường là 13x20cm. Trên phiếu B, sẽ
được ghi:

(1) Tên chủ đề.

(2) Số thứ tự của tài liệu về chủ đề này là được ghi ở phiếu A.

(3) Phần ghi chép.

3. Ngoài ra tác giả còn phải có một loại phiếu nữa (xin gọi là phiếu C)
để ghi chép những ý kiến riêng của mình về những tài liệu đã đọc hoặc cách
giải quyết của mình đối với vấn đề đang được nghiên cứu. Những phiếu này
nên dùng loại giấy khác màu với phiếu ghi chép (phiếu B và nên xếp liền sau
phần ghi chép.

Tác giả làm phiếu này, sau khi đọc và - ghi chép xong một tài liệu nào
đó, nếu có ý kiến riêng: đồng ý hay không đồng ý, khen hay chê, nhất trì hoàn
toàn hay cần bổ sung, v v
Loại phiếu C này đặc biệt quan trọng vì phần lớn giá trị của công trình
nghiên cứu tùy thuộc vào những ý kiến riêng của tác giả. Còn tài liệu thu thập
được chỉ là những "chất liệu", là "bàn đạp" để tác giả đạt đến một kết quả
"cao hơn", "xa hơn"...

Lưu ý: Tác giả cũng có thể làm loại phiếu này, ngay cả trước khi đọc và
ghi chép tài liệu, ở giai đoạn mới thai nghén đề tài để ghi lại những suy nghĩ
riêng tư và đề tài sắp được nghiên cứu.

Tiết 4. Chọn lọc tài liệu

Ngay trong giai đoạn lập chương trình làm việc, tác giả đã phác thảo
một đề cương tổng quát (tức "giả thuyết" đối với đề tài) Nay tác giả đọc lướt
qua những gì đã ghi chép được để chọn lọc và chỉ giữ lại những tài liệu nào
thực sự cần thiết.

Với những tài liệu này tác giả sẽ xây dựng một đề cương chi tiết để
chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo: Viết bản thảo.

Trong đề cương này, những tài liệu đã chọn lọc sẽ được tính toán đề
phân bổ hợp lý cho các Phần, Chương, Mục, Tiết, Đoạn... Đồng thời, trên đề
cương chi tiết, các tài liệu cũng phải được đánh số hoặc ghi ký hiệu vắn tắt để
khi viết bản thảo, tác giả có thể tìm được tài liệu cần dùng một cách dễ dàng.

Mục IV. KHAI THÁC TÀI LIỆU


Công việc "Khai thác tài liệu" thực sự đã được bắt đầu từ giai đoạn đọc,
ghi chép, chọn lọc và sắp xếp tài liệu trong một đề cương chi tiết.

Thế nhưng, trong phần này, xin dành riêng để bàn đến những qui luật,
hình thức, phương pháp nhận thức và suy luận mà bất cứ nhà nghiên cứu
nào cũng cần đến trong suốt thời gian thực hiện công trình khoa học của
mình.
Để khai thác tốt những tài liệu đã sưu tập được, nhà nghiên cứu cần
nắm vững những qui luật và hình thức cơ bản của tư duy, cũng như những
phương pháp nhận thức khoa học sau đây.

Tiết 1. Các quy luật và hình thức cơ bản của tư duy

Nắm vững các qui luật và hình thức cơ bản của tư duy tức là nắm vững
những qui luật cơ bản của lôgich học hình thức và lôgích học biện chứng.

ĐOẠN I
LÔGÍCH HỌC HÌNH THỨC

A. Các qui luật của tư duy

1. Đồng nhất

Qui luật đồng nhất phản ánh tình hình thực tế khách quan của sự vật và
hiện tượng, phản ánh tính tương đối ổn định và xác định của sự vật và hiện
tượng. Qui luật đồng nhất được phát biểu như sau: "Cái gì có là có" nghĩa là
"A:A". V ật nào phải là vật ấy. Nếu không có vật nào ra vật nào thì mọi sự
đều hỗn loạn, lộn xộn, không thể tư duy được. Qui luật đồng nhất là nền tảng
của lôgích hình thức.

2. Mâu thuẫn

Đây là hình thức phủ định của qui luật đồng nhất và được phát biểu:
"Một vật không thể vừa có và không có cùng một lúc, nghĩa là "A không thể
vừa là A vừa là không A". Bây giờ trong túi tôi có tiền hay không có tiền chứ
không thể cùng một lúc, vừa có vừa không.

Cần lưu ý: Không được lẫn lộn "Mâu thuẫn trong thực tế sinh hoạt" với
"mâu thuẫn trong nghị luận không chính xác" (tức mâu thuẫn trong tư duy
lôgích). Mâu thuẫn trong thực tế sinh hoạt là mâu thuẫn tồn tại trong bản thân
sự vật của thế giới vật chất. Đó là 2 mặt mâu thuẫn cùng tồn tại bên trong sự
vật, đấu tranh với nhau, làm cho sự vật thay đổi phát triển. Còn mâu thuẫn
trong "nghị luận không chính xác, là mâu thuẫn xảy ra trong quá trình tư duy,
là vi phạm qui luật mâu thuẫn.
3. Triệt tam

Đây là hình thức phân tích của qui luật mâu thuẫn và được phát biểu
như sau: "Một vật hoặc có hoặc không có chứ không có trường hợp thứ ba".
Bây giờ trong túi tôi hoặc, một là có tiền, hai là không có tiền, chứ không có
trường hợp thứ ba. Nếu tôi "có tiền" là đúng thì "không có tiền" là sai. Ngược
lại nếu tôi "có tiền" là sai thì "không có tiền" là đúng.

Trong toán học do áp dụng qui luật triệt tam mà có lối chứng minh phản
chứng (raisonnement par l'absurde).

4. Lý do đầy đủ

Qui luật lý do đầy đủ được phát biểu: tất cả những gì tồn tại đều có lý
do để tồn tại. Cho nên không có một sự vật nào hoặc một hiện tượng nào xảy
ra mà không có lý

Để hiểu rõ hơn qui luật lý do đầy đủ, cần kể thêm hai qui luật phát xuất
từ qui luật này là qui luật nhân quả và qui luật hướng đích.

a. Qui luật nhân quả: "Mọi sự đều có nguyên nhân. Trong cùng một
điều kiện và cùng một nguyên nhân, sẽ sinh ra cùng một kết quả".

b. Qui luật hướng đích: "Mọi sự vật đều có hoặc đều hướng về một
mục đích".

Cần lưu ý: Theo Darwin, luật hướng đích, xảy ra trong giới hữu cơ chỉ
có tính tương đối, tùy thuộc vào sự chọn lọc tự nhiên.

Mặt khác, một vật chỉ biết hướng về một mục đích khi nào nó có ý thức.
Vì vậy chỉ có hoạt động của con người là có tính hướng đích rõ rệt.

B. Các hình thức của tư duy.

1. Khái niệm

Là một hình thức của tư duy, phản ánh những thuộc tính chung, chủ
yếu, bản chất của các sự vật và hiện tượng.

2. Phán đoán
Là một hình thức của tư duy, nối liền các khái niệm lại với nhau và
khẳng định rằng khái niệm này là khái niệm kia hoặc phủ định rằng khái niệm
này không phải là khái niệm kia.

3. Suy luận

Là một hình thức của tư duy, từ một hay nhiều phán đoán đã có (tiền
đề), ta rút ra được một phán đoán mới (kết luận).

ĐOẠN II
LÔGÍCH HỌC BIỆN CHỨNG

A. Các qui luật của tư duy (còn được gọi "các nguyên tắc" của tư duy).

1. Khách quan

"Khi xem xét sự vật, phải phát xuất từ chính bản thân sự vật"

Như thế ta không được xem xét sự vật một cách "chủ quan; tùy tiện,
gán ghép cho sự vật những thuộc tính mà nó không có ".

Đây là nguyên tắc xuất phát nền tảng, đầu tiên, dẫn đến việc nhận thức
khách thể một cách đúng đắn.

2. Toàn diện

"Khi xem xét sự vật, phải xem xét một cách đầy đủ với tất cả tính phức
tạp của nó".

Như thế, chủ thể cần nghiên cứu đối tượng trong tất cả các mặt, các
mối quan hệ (bên trong và bên ngoài), tất cả các mắt xích trung gian, từng
tổng thể những mối quan hệ phong phú, phức tạp và muôn vẻ của nó với các
sự vật khác.

Tuân thủ nguyên tắc này, ta tránh được những sai lầm của cách xem
xét chủ quan, phiến diện, thổi phồng một mặt nào đó tới mức làm sai lệch bản
chất của sự vật.

3. Lịch sử
"Khi xem xét sự vật, phải nhận thức sự vật trong sự phát triển, trong sự
tự vận động của nó"

Như thế, chủ thể cần xem xét sự vật ấy đã xuất hiện như thế nào trong
lịch sử, đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào và hiện nay nó ra
sao?

Tuân thủ nguyên tắc này, chủ thể tránh được những sai lầm của cách
xem xét sự vật một cách "siêu hình", cứng nhắc, bảo thủ...

4. Phân đôi cái thống nhất

“Bất cứ sự vật nào cũng là một thể thống nhất của các mặt đối lập và
luôn luôn có sự đấu tranh giữa các mặt đối lập. Sự đấu tranh ấy chính là
nguồn gốc và động lực bên trong của sự phát triển đối với các sự vật và hiện
tượng".

Như vậy khi xem xét sự vật, chủ thể cần nhận thức rằng bao giờ cũng
vậy, bất cứ sự vật hoặc hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất bao gồm
những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng trái ngược nhau, đấu
tranh với nhau, làm cho sự vật phát triển.

Tuân thủ nguyên tắc này, tức chủ thể nắm được hạt nhân của phép
biện chứng.

B. Các hình thức của tư duy

1. Khái niệm

Là một hình thức của tư duy trừu tượng, phản ánh những thuộc tính
chung, chủ yếu, bản chất của sự vật và hiện tượng. Nhưng lôgích biện chứng
không coi khái niệm là một cái gì cố định và đã hoàn chỉnh. Trái lại qua hoạt
động thực tiễn, nhận thức của con người luôn luôn được bổ sung những khái
niệm mới hoặc bổ sung những thuộc tính mới cho các khái niệm cũ, hoặc
thay thế khái niệm cũ bằng khái niệm mới chính xác hơn.

Trong Bút ký triết học, Lênin viết: "Khái niệm của con người không bất
động, mà luôn luôn vận động, chuyển hoá từ cái nọ sang cái kia, không như
vậy chúng không phản ánh đúng đời sống sinh động" (Lênin: Toàn tập, T.29,
nxb.Tiến Bộ, Matxcơva, 1981, tr.207).

2. Phán đoán

Là một hình thức của tư duy trừu tượng nhằm xác nhận hay phủ nhận
mối quan hệ bản chất của các sự vật và hiện tượng được phản ánh.

Ví dụ: quả đất thì chuyển động.

Tuy nhiên không phải phán đoán nào cũng có giá trị bất biến.

Trước đây nhân loại đã từng có những phán đoán sai lầm như: "Trái
đất thì đứng yên" (trước Galilée), "Mặt trời xoay quanh trái đất" (trước
Copernic).

Cũng như đối với khái niệm, qua hoạt động thực tiễn, nhận thức của
con người luôn luôn được bổ sung những phán đoán mới hoặc thay thế
những phán đoán cũ bằng những phán đoán mới chính xác hơn.

3. Suy luận

Cũng là một hình thức của tư duy trừu tượng. Từ một hay nhiều phán
đoán đã có, ta rút ra được một phán đoán mới.

Phải tuân thủ những quy luật của tư duy lôgích thì mới có được những
kết luận tất yếu được rút ra từ tiền đề. Nhưng chỉ chừng đó thôi thì chưa đủ.
Cần phải phát xuất từ những phán đoán đúng (dùng làm tiền đề) thì kết luận
được rút ra mới có thể là một phán đoán đúng.

Engels viết: "Nếu những tiền đề của chúng ta là đúng và nếu chúng ta
áp dụng đúng những qui luật của tư duy cho những tiền đề ấy, thì kết quả
phải phù hợp với hiện thực". (Dẫn trong: Chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chương trình cao cấp, nxb. Sách Giáo Khoa Mác-Lênin, Hà Nội, 1985, tr.286)

Tiết 3. Các phương pháp nhận thức khoa học

Trong lĩnh vực nhận thức khoa học, con người đã dùng đến những
phương pháp khác nhau để khám phá chân lý. Có những phương pháp xuất
hiện từ lâu và đã được sử dụng hầu như trong mọi khoa học như phương
pháp phân tích và tổng hợp, diễn dịch và qui nạp, lịch sử và lôgích, cụ thể và
trừu tượng…Có những phương pháp mới xuất hiện sau này và đang được
các khoa học cụ thể sử dụng ngày càng rộng rãi như phương pháp quan sát -
thí nghiệm, hệ thống cấu trúc, hình thức hóa, mô hình hóa, v.v...

Lôgích học và các phương pháp nhận thức khoa học không phải là hai
vấn đề riêng biệt, độc lập, nhưng có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Không thể
có những phương pháp nhận thức khoa học nếu không có lôgích học: "Từ
lâu, lôgích học đã cho chúng ta những chứng cứ đầy sức thuyết phục rằng nó
không phải là một trò chơi vô bổ đối với việc luyện tập trí óc mà là một
phương tiện đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của khoa học và thực
tiễn"

ĐOẠN I
PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH VÀ TỔNG HỢP

1. PHÂN TÍCH

Là tách một vật thể hoặc một hiện tượng phức tạp ra thành những bộ
phận, những yếu tố, những mặt đơn giản của nó. Ví dụ: Trong hóa học phân
tích nước thành Hydro và Oxy. Trong vật lý học dùng lăng kính phân tích ánh
sáng thành 7 màu (tím, chàm, lam, lục, vàng, cam, đỏ). Trong toán học, phân
tích là đi từ mệnh đề phải chứng minh (kết luận) ngược trở lên những mệnh
đề đã được công nhận (tiền đề).

Ví dụ:

3 góc của 1 tam giác = 2 góc vuông => phải chứng minh

Vì 3 góc của 1 tam giác = 2 góc bù, Mà 2 góc bù = 2 góc vuông => đã
được công nhận

Trong văn học: Phân tích một đoạn văn, một bài thơ, một cuốn tiểu
thuyết.v.v...
Phân tích (analyse) khác với phân chia (division). Phân chia chỉ là cắt
một khối lớn ra thành những phần nhỏ mà những phần nhỏ ấy vẫn có đủ các
yếu tố như toàn thể, có đủ những tính chất phức tạp như toàn thể.

Ví dụ: Chia một ly nước lớn thành 3 ly nước nhỏ thì trong mỗi ly nước
nhỏ vẫn có đủ H2O.

2. Tổng hợp

Là liên kết, thống nhất lại các bộ phận, các mặt, các yếu tố đã được
phân tích.

Ví dụ: Tổng hợp H2 và O thành nước. Tổng hợp 7 màu tím, chàm, lam,
lục, vàng, cam, đỏ thành màu trắng. Tổng hợp các tài liệu lịch sử để tái tạo lại
một giai đoạn lịch sự đã qua. Trong toán học, tổng hợp là đi từ những mệnh
đề đã được công nhận đến mệnh đề cần được chứng minh:

Ví dụ:

2 góc bù = 2 góc vuông; 3 góc của một tam giác = 2 góc bù => đã được
công nhận

Vậy 3 góc của 1 tam giác = 2 góc vuông => phải chứng minh

Tổng hợp biện chứng là kết hợp hai thực tại mâu thuẫn (chính đề và
phản đề) để đưa đến một kết quả mới phong phú hơn, cao hơn, tiến bộ hơn.
Chẳng hạn LOUIS DE BROGLIE đã tạo ra thuyết cơ học ba động căn cứ vào
hai thuyết mâu thuẫn nhau về ánh sáng: Thuyết ánh sáng truyền đi bằng
những hạt cực nhỏ (của NEWTON) và thuyết ánh sáng truyền đi bằng ba
động (của HUGGHENS).

Tổng hợp (synthèse) khác với hỗn hợp (mélange). Trong một hỗn hợp,
các thành phần khác nhau vẫn đứng cạnh nhau chứ không hòa đồng thành
một toàn thể duy nhất. Chẳng hạn hỗn hợp xăng và nước.

3. Mối quan hệ biện chứng của phân tích và tổng hợp

Giữa phân tích và tổng hợp, có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Không
tách các bộ phận để nghiên cứu thì không thể hiểu thấu đáo cái toàn bộ. Và
ngược lại, không tổng hợp các bộ phận vào một toàn bộ thì không hiểu được
vai trò, vị trí, tính chất của các bộ phận ấy trong cái toàn bộ.

ENGELS viết: "Trước hết tư duy không chỉ đem những đối tượng nhận
thức phân chia thành các nhân tố, mà còn đem các nhân tố để quan hệ với
nhau hợp thành một thể thống nhất. Không có phân tích thì không có tổng
hợp" (Chống Đuy-rinh, nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1971, tr.71).

Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp khác nhau nhưng lại có mối
quan hệ biện chứng với nhau. Phân tích chuẩn bị cho tổng hợp, tổng hợp
giúp cho phân tích đi sâu vào bản chất của sự vật. Vì thế Lênin coi sự thống
nhất giữa phân tích và tổng hợp là một yếu tố quan trọng trong phép biện
chứng.

ĐOẠN II
PHƯƠNG PHÁP DIỄN DỊCH VÀ QUY NẠP

1. Diễn dịch (déduction).

Là phương pháp suy luận đi từ tổng quát đến đặc thù, từ cái chung đến
cái riêng, từ nguyên lý tới hậu quả của những nguyên lý ấy; từ một hay nhiều
mệnh đề, dùng làm tiền đề đến một mệnh đề là kết quả tất yếu của chúng,
theo qui tắc lôgich. Do đó có hai loại diễn dịch:

Diễn dịch hình thức hay tam đoạn luận là lối suy luận có 3 mệnh đề
(gồm hai tiền đề và một kết luận); từ hai mệnh đề (hay phán đoán) đã biết suy
ra phán đoán thứ ba, và trong hai phán đoán đã biết, nhất thiết phải có một
phán đoán chung. Ví dụ:

Mọi người đều chết; An là người => Tiền đề

Vậy An phải chết => Kết luận

Diễn dịch toán học cũng là lối suy luận gồm có các tiền đề và một kết
luận (là kết quả tất yếu được rút ra từ một tiền đề). Nhưng khác với diễn dịch
hình thức (tam đoạn luận) có tính chất chắc chắn nhưng nghèo nàn, còn diễn
dịch toán học có tính chất vừa chắc chắn vừa phong phú.
Ví dụ:

Tồng số góc trong một tam giác = 180o

Tổng số tam giác chứa trong 1 đa giác = số cạnh đa giác – 2 => Tiền đề

Vậy tổng số góc trong một đa giác = (n-2) 180o => Kết luận

2. Quy nạp (induction)

Là phương pháp suy luận đi từ đặc thù đến tổng quát, từ những nhận
thức các sự vật hoặc hiện tượng riêng lẻ đến nguyên lý chung, từ những tri
thức về cái riêng đến tri thức về cái chung. Có hai loại qui nạp:

Qui nạp hình thức hay qui nạp hoàn toàn là lối suy luận đi từ tất cả
những trường hợp riêng đã biết đến một kết luận chung.

Ví dụ:

Kim tinh, Mộc tinh, Hỏa tinh, Thổ tinh, Thiên vương tinh, Hải vương
tinh, quả đất xoay quanh mặt trời theo hình bầu dục.

Thế mà chúng là những hành tinh thuộc Thái dương hệ.

Vậy các hành tinh thuộc Thái dương hệ quay quanh mặt trời theo hình
bầu dục.

Loại qui nạp này cho ta một kết luận chắc chắn về tất cả những gì đã
quan sát được bằng một hình thức khái quát hơn, nhưng không đem lại điều
gì mới mẻ.

Qui nạp phóng đại hay qui nạp không hoàn toàn, hoặc còn có tên là qui
nạp Bacon là lối suy luận đi từ một số trường hợp riêng đã biết đến một kết
luận chung, vượt quá tổng số những trường hợp đã biết. Nới cách khác, qui
nạp phóng đại là phương pháp tiến từ sự kiện đến qui luật. Ví dụ:

Làm thí nghiệm với 1, 20, 50, 70... cục diêm sinh, cứ đến 113 độ thì
diêm sinh tan chảy; ta kết luận: "Diêm sinh nóng chảy ở 113 độ ".

3. Mối quan hệ biện chứng giữa diễn dịch và quy nap


Phương pháp qui nạp và diễn dịch tuy khác nhau, nhưng có mối quan
hệ biện chứng với nhau. Bất cứ suy luận diễn dịch nào cũng phải phát xuất từ
những nguyên lý, đã do suy luận qui nạp đem lại trước đó. Nhưng những
nguyên lý ấy có giá trị nhiều hay ít lại tùy thuộc vào việc được kiểm chứng
nhiều hay ít (thông qua phương pháp diễn dịch, gắn nguyên lý với những
trường hợp cụ thể.

Engels viết: "Qui nạp và diễn dịch đi đôi với nhau một cách tất nhiên
như tổng hợp và phân tích. Không được đề cao cái này lên tận mây xanh và
hy sinh cái kia, mà phải tìm cách sử dụng mỗi cái cho đúng chỗ và chỉ có thể
làm như vậy, nên người ta không quên rằng chúng liên hệ với nhau và bổ
sung lẫn nhau. (Engels, Biện chứng của tự nhiên, nxb. Sự Thật, Hà Nội,
1971, tr.353).

ĐOẠN III
PHƯƠNG PHÁP LỊCH SỬ VÀ LOGIC

Muốn nhận thức đúng sự vật, ta phải nắm được lịch sử của sự vật (tức
quá trình phát sinh, phát triển của nó), đồng thời phải nắm được bản chất và
qui luật của sự vật. Phương pháp lịch sử và phương pháp lô gích có thể giúp
ta đạt được điều đó

1. Lịch sử

Phương pháp lịch sử nhằm phản ánh trong tư duy quá trình lịch sử cụ
thể của sự phát triển. Mỗi sự vật hoặc hiện tượng đều có quá trình phát sinh,
phát triển và tiêu vong của nó. Quá trình ấy biểu hiện cụ thể qua những bước
phát triển quanh co, phức tạp, muôn hình muôn vẻ, có lúc tất nhiên có lúc
ngẫu nhiên, liên tục xảy ra trong thời gian.

Ví dụ như nghiên cứu chế độ thực dân, bằng phương pháp lịch sử, ta
phải mô tả quá trình phát sinh, phát triển của nó tại các nước thuộc địa trên
khắp thế giới qua thời gian với đầy đủ những chi tiết cụ thể, phức tạp, bao
hàm cả những biểu hiện tất nhiên, phổ biến, lẫn ngẫu nhiên, đặc thù.

2. Lôgích
Phương pháp lôgích nhằm khám phá bản chất, tính tất nhiên, tính qui
luật của sự vật trong quá trình phát triển.

Lịch sử phát triển của sự vật dù có quanh co, phức tạp, muôn vẻ và
nhiều ngẫu nhiên đến đâu thì luôn luôn vẫn bị cái tất nhiên chi phối. Cái tất
nhiên ấy (tức qui luật phát triển khách quan của sự vật) chính là lôgích khách
quan của sự vật

Và lôgích của tư duy thì phản ánh lôgích khách quan đó

3. Mối quan hệ biện chứng giữa lịch sử và lôgích.

Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgích tuy khác nhau nhưng lại
gắn bó chặt chẽ với nhau. Có hiểu lịch sử phát sinh, phát triển của sự vật, ta
mới vạch ra được bản chất và qui luật của nó. Ngược lại, có nắm được bản
chất và qui luật của nó thì ta mới có thể hiểu đúng được lịch sử phát sinh,
phát triển của sự vật. Nhiệm vụ của phương pháp lôgích là dựng lại cái lôgích
khách quan trong sự phát sinh phát triển "quanh co, khúc khuỷu”của sự vật
mà phương pháp lịch sử đã cung cấp cho nó. ENGELS nói phương pháp
lôgích "Chẳng qua cũng chỉ là phương pháp lịch sử chỉ có khác là đã thoát
khỏi những hình thức lịch sử và những ngẫu nhiên pha trộn. Lịch sử bắt đầu
từ đâu, quá trình tư duy cũng bắt đầu từ đó" (MARX-ENGELS: Tuyển tập, T.I,
nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1970, tr.242).

Như vậy ta thấy luôn luôn có sự phù hợp giữa lôgích và lịch sử. Bước
đi của lôgích bao giờ cũng phản ánh bước đi của lịch sử, nhưng phản ánh
một cách khái quát những mốc chính, chủ yếu chứ không mô tả mọi diễn biến
của lịch sử. Vậy khi dùng phương pháp lịch sử và lôgích ta không được dừng
lại ở việc mô tả sự kiện mà phải biết từ những sự kiện phức tạp ấy rút ra
được sợi dây lôgích xuyên suốt qua nhiều diễn biến quanh co, phức tạp,
muôn hình muôn vẻ, nghĩa là phải vạch ra được qui luật phát triển của lịch sử.

ĐOẠN IV
PHƯƠNG PHÁP CỤ THỂ VÀ TRỪU TƯỢNG
Trong quá trình nghiên cứu khoa học, tư duy con người đi từ cụ thể đến
trừu tượng nhưng không dừng lại ở đó, mà còn đi ngược lại. Đấy là con
đường đi từ cái đơn nhất đến cái phổ biến, rồi lại quay về cái đơn nhất.

1. Cụ thể: Có hai nghĩa cần phân biệt.

a. Cái cụ thể cảm tính: là những sự vật và hiện tượng tồn tại trong thế
giới khách quan mà ta có thể nhận biết trực tiếp được nhờ các giác quan của
ta.

Cài cụ thể cảm tính là điểm xuất phát của mọi nghiên cứu Không có cái
cụ thể cảm tính thì không thể có cảm giác, tri giác biểu tượng về sự vật và
hiện tượng.

b. Cái cụ thể trong tư duy: là cái đến sau những cái trừu tượng, trong
quá trình nghiên cứu khoa học.

Cái cụ thể trong tư duy phản ánh cái cụ thể cảm tính hay thế giới hiện
thực bằng những khái niệm, phạm trù, qui luật. Đó là "sự thống nhất của cái
muôn vẻ" là "một tổng thể phong phú của rất nhiều qui định và quan hệ". Vì
thế khác với cái cụ thể cảm tính, cái cụ thể trong tư duy thì phong phú và sâu
sắc hơn

2. Trừu tượng: cũng có hai nghĩa cần phân biệt.

a. Tư duy trừu tượng: là hoạt động của trí tuệ sau khi loại bỏ được
những thuộc tính phụ, khái quát được những đặc tính căn bản trong mỗi
nhóm sự vật (gồm nhiều cá thể) "Những danh từ như "vật chất", "vận động"
đều chỉ là những tên gọi tắt, trong những tên đó chúng ta tập hợp nhiều sự
vật khác nhau có thể cảm thấy bằng giác quan, theo thuộc tính chung của
những sự vật đó" (ENGELS: Biện chứng của tự nhiên).

Nhờ tư duy trừu tượng, từ các sự vật riêng lẻ, rời rạc, ta khái quát được
những khái niệm, phạm trù, qui luật (phản ánh mối quan hệ cơ bản, nội tại
của các sự vật, hiện tượng).
Những ai cho rằng ta không chụp hình được sự trừu tượng (như chụp
hình sự vật) nên sự trừu tượng không có thật, là nguy biện. Qui luật về sự
hấp dẫn của vạn vật (do NEWTON phát minh năm 1687) không thể chụp hình
được, nhưng không có nghĩa là qui luật ấy không có. MARX viết: "Việc phân
tích những hình thức kinh tế không thể dùng kính hiển vi hay những thuốc thử
của hóa học được. Chỉ có sự trừu tượng là lực lượng duy nhất có thể dùng
làm công cụ cho sự phân tích đó thôi".

b. Cái trừu tượng: Chính là những khái niệm, phạm trù, qui luật…mà tư
duy trừu tượng đã đạt được trong quá trình nhận thức.

Những cái trừu tượng ấy là kết quả của sự trừu tượng hóa một mặt,
một thuộc tính, một mối quan hệ nào đó trong tổng thể phong phú của sự vật.

3. Mối quan hệ biện chứng giữa cụ thể và trừu tượng

Không có cái cụ thể cảm tính thì không thể có cái trừu tượng. Và không
có cái trừu tượng thì không thể có cái cụ thể trong tư duy.

Quá trình nhận thức chính là sự thống nhất của hai hướng ngược
nhau: Từ cụ thể đến trừu tượng rồi từ trừu tượng đến cụ thể. Cái trừu tượng
cho ta biết một mặt hoặc những mặt nào đó của sự vật. Chính "cái cụ thể
trong tư duy mới cho ta biết sự vật một cách sâu sắc (chung, chủ yếu, bản
chất). Vì thế, mục đích cuối cùng của khoa học là khám phá ra "cáicụ thể
trong tư duy".

Xuất phát từ những sự vật cụ thể đi đến những cái trừu tượng, ta có
cảm tưởng như nhận thức đã đi xa cái cụ thể. Thực ra ở đây nhận thức không
tách rời, thoát ly khỏi cái cụ thể mà lại có điều kiện để hiểu cái cụ thể sâu sắc
hơn. "Tư duy tiến lên từ cái cụ thể đến cái trừu tượng, không xa rời chân lý,
mà đến gần chân lý. Những sự trừu tượng, về qui luật tự nhiên, sự trừu
tượng về giá trị, v.v:..(...). Tóm lại tất cả những trừu tượng khoa học (đứng
đắn nghiêm túc, không tùy tiện) phản ánh giới tự nhiên sâu sắc hơn".

Thế rồi trên chặng đường ngược lại (từ trừu tượng đến cụ thể) với
những "vật liệu do trừu tượng cung cấp, tư duy "xây dựng" lại cái cụ thể một
cách "hoàn chỉnh" hơn. (xét như một tổng thể của nhiều qui định và quan hệ).
MARX viết: "Phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể chỉ là phương pháp
nhờ nó mà tư duy quán triệt được cái cụ thể và mô tả lại cái cụ thể dưới hình
thái một cái cụ thể trong tư duy".

Tác phẩm "Tư bản" của MARX là một ví dụ về việc áp dụng phương
pháp nghiên cứu khoa học "đi từ trừu tượng đến cụ thể". Bằng con đường
trừu tượng hóa xã hội tư bản "trước đây", MARX có được những phạm trù
như "sản xuất", "lưu thông", "hàng hóa", tiền tệ", "tư bản", có được mối quan
hệ như sản xuất và lưu thông, có được nhân tố chứa đựng những mầm mống
của những mâu thuẫn trong xã hội tư bản là hàng hóa, v.v... Rồi với những
chất liệu ấy, MARX đã dựng lại xã hội tư bản đó như một chỉnh thể cụ thể (với
những vận động nội tại của nó).

ĐOẠN V
PHƯƠNG PHÁP QUAN SÁT – THÍ NGHIỆM

Phương pháp quan sát thí nghiệm hay phương pháp thực nghiệm là
phương pháp hàng đầu, đã đem lại cho khoa học tự nhiên và khoa học kỹ
thuật nhiều thành quả to lớn, và nay được sử dụng cả trong lĩnh vực khoa học
xã hội (thực nghiệm xã hội).

1. Quan sát

Là sự ghi nhận một cách đầy đủ và chính xác các hiện tượng đúng như
đã xảy ra trong thiên nhiên, nhằm khám phá ra nguyên nhân và qui luật của
chúng. Ví dụ: quan sát một vật rơi, một thanh sắt giãn nở... Vì thế quan sát
khoa học (observation scientifique) rất khác với quan sát thường nghiệm
(observation empirique). Quan sát thường nghiệm chỉ dừng lại ở những gì
giác quan thụ cảm được. Còn quan sát khoa học thì tích cực hơn, có cả sự
tham gia của tư duy để cắt nghĩa sự kiện, tìm ra qui luật của nó. Ví dụ: Chú ý
theo dõi một quả táo rơi rồi đặt câu hỏi (tại sao quả táo rơi) và tìm cách trả lời.
Đó là quan sát khoa học.

2. Thí nghiệm
Là nghiên cứu các sự vật, hiện tượng, bằng cách can thiệp vào hiện
tượng tự nhiên của chúng, là tạo ra hiện tượng trong những điều kiện do nhà
khoa học qui định để có thể quan sát được chính xác hơn hoặc để kiểm
chứng một giả thuyết. Vì thế có hai loại thí nghiệm là thí nghiệm để xem
(expérience pour voir) và thí nghiệm để kiểm chứng (expérimentation).

Thí nghiệm để xem là loại thí nghiệm được thực hiện khi chưa có giả
thuyết, dùng để bổ túc cho quan sát.

Ví dụ: GALILÉE đặt một mặt phẳng nằm nghiêng cho các viên bi lăn
trên đó. Với thí nghiệm này ông can thiệp vào "sự rơi tự nhiên" của viên bi, vì
mặt nghiêng đã làm giảm đi sức hút của quả đất khiến cho viên bi lăn chậm
hơn. Nhờ đó GALILÉE quan sát vận tốc của vật rơi sẽ rõ rệt và dễ dàng hơn.

Thí nghiệm kiểm chứng được thực hiện sau khi đã có giả thuyết, để
xem giả thuyết đúng hay sai.

3. Quan sát thí nghiệm

Trong phương pháp thực nghiệm, nhà khoa học cần dùng cả quan sát
và thí nghiệm. Nhưng hai phương pháp này có những chỗ giống và khác
nhau.

Về mặt giống nhau: Cả quan sát và thí nghiệm đều cần có những
phương tiện vật chất giúp mở rộng tầm quan sát, phát hiện những đặc tính
của sự vật, hiện tượng mà giác quan không ghi nhận được.

Người quan sát và thí nghiệm phải có những phẩm chất tinh thần như
vô tư, khách quan. CLAUDE BERNARD nói: "Nhà quan sát phải chụp hình
các hiện tượng. Sự quan sát phải trình bày đúng thiên nhiên. Phải quan sát
không có định kiến, trí tuệ nhà quan sát phải thụ động, tức là yên lặng, nhà
quan sát nghe thiên nhiên đọc cho mà viết". Và khi thí nghiệm: "Nhà bác học
đặt câu hỏi cho thiên nhiên, nhưng khi thiên nhiên nói thì ông phải yên lặng,
phải ghi nhận những điều thiên nhiên đáp lại, nghe thiên nhiên đến cùng và
trong mọi trường hợp, phải khuất phục theo các quyết định của thiên nhiên",
lúc ấy "Nhà thí nghiệm phải biến thành nhà quan sát".
Nhà quan sát và thí nghiệm lại còn phải có óc tò mò ham thích hiểu
biết, biết lựa chọn, phân biệt những sự kiện quan trọng và không quan trọng,
phải có óc phê bình, chân thành và kiên nhẫn.

Về mặt khác nhau: trong quan sát, các phương tiện vật chất được dùng
là nhằm nâng cao hiệu quả những gì được quan sát chứ không nhằm thay đổi
chúng hoặc can thiệp vào tiến trình tự nhiên của chúng. Trái lại trong thí
nghiệm, nhà nghiên cứu lại tác động trực tiếp lên đối tượng cần nghiên cứu,
cố ý tác động vào quá trình phát triển của sự vật; chủ động tạo ra các tình
huống, điều kiện cần thiết... để phục vụ cho việc nghiên cứu.

Quan sát được dùng để tìm giả thuyết nhiều hơn là để kiểm chứng giả
thuyết. Còn thí nghiệm thường nhằm mục đích kiểm chứng giả thuyết. Vì lẽ
đó, khi nói đến thí nghiệm ta hay có khuynh hướng nghĩ đến "thí nghiệm kiểm
chứng" hơn là "thí nghiệm để xem".

Kiểm chứng giả thuyết là xem xét giá trị của một giả thuyết là đúng hay
sai. Có hai cách kiểm chứng: Quan sát hoặc thí nghiệm.

Ví dụ:

Bằng quan sát, GALL dùng viễn vọng kính để kiểm chứng giả thuyết
của LE VERRIER về Hải vương tinh.

Còn CLAUDE BERNARD năm 1843 quan sát thấy trong nước tiểu của
một con thỏ đem từ chợ về thì trong và có chất acid. Trong khi thông thường,
nước tiểu của giống ăn cỏ như thỏ thì phải đục và có chất kiềm. CLAUDE
BERNARD đặt giả thuyết, tạm thời cắt nghĩa sự kiện đó như sau: Các con thỏ
đem từ chợ về đã bỊ người bán bỏ đói cho nên chúng "sống bằng chính máu
của chúng" và vì thế chúng bị đặt trong tình trạng của loài ăn thịt nên nước
tiểu trong và có acid. Để kiểm chứng giả thuyết đó CLAUDE BERNARD cho
những con thỏ này ăn rau cỏ no nê: Nước tiểu của chúng trở lại màu đục và
có chất kiềm. Ông bỏ đói chúng một thời gian, nước tiểu lại trở thành trong và
có acid. Ông cho chúng ăn thịt bò, nước tiểu của chúng vẫn trong và có acid.
Như vậy giả thuyết đã được kiểm chứng.
ĐOẠN VI
PHƯƠNG PHÁP MÔ HÌNH HOÁ

Mô hình hóa là một phương pháp nhận thức khoa học. Với phương
pháp này, người ta phát hiện những đặc trưng của một khách thể nào đó dựa
trên một khách thể khác. Khách thể đó được gọi là mô hình. Như vậy ta
không nghiên cứu đối tượng một cách trực tiếp mà là nghiên cứu đối tượng
một cách gián tiếp qua mô hình của nó.

Đối tượng cần nghiên cứu được gọi là nguyên bản, còn mô hình là bản
sao, là cái tương tự bản gốc.

Các nhà nghiên cứu chỉ dùng đến phương pháp mô hình hóa khi nào
không thể nghiên cứu trực tiếp một đối tượng nào đó vì khó khăn (kích thước
quá lớn hoặc quá nhỏ, quá xa chúng ta, thời gian sống quá ngắn...), tốn kém,
mất nhiều thời gian, bị cấm đoán, v.v... Kết quả gián tiếp thu nhận được trên
mô hình cho ta một lượng thông tin giống như đã nghiên cứu trên nguyên
bản. Ví dụ phương pháp nghiên cứu thực nghiệm trên động vật hoặc chế tạo
các hình mẫu như máy bay, tàu thủy, ô tô, đập thủy điện... của cơ học là được
xây đựng trên cơ sở của phương pháp mô hình hóa

Muốn dùng phương pháp mô hình hóa, người nghiên cứu phải tìm ra
được sự phù hợp (tương tự, giống nhau, đồng dạng...) giữa mô hình và
nguyên mẫu về mặt tính chất, cấu trúc thuộc tính, chức năng, qui luật vận
hành, v.v...

Sự phù hợp ấy phải ở trong "mức độ có thể dựng mô hình". Nghĩa là


đối tượng (tức "nguyên mẫu", "bản gốc") và mô hình (tức "bản sao") không
được hoàn toàn giống nhau hoặc khác nhau: Nếu hoàn toàn giống nhau thì
một là không thể giải thích được vì sao phải nghiên cứu "gián tiếp", hai là
không thể phân biệt được cái nào là bản gốc, cái nào là bản sao (vì rằng tất
cả những gì có ở đối tượng này, cũng có ở đối tượng kia). Còn nếu hai bên
hoàn toàn khác nhau thì rõ ràng không thể áp dụng phương pháp mô hình
hóa được.
Trong khoảng từ tuyệt đối giống nhau đến tuyệt đối khác nhau giữa đối
tượng và mô hình, được gọi là "giới hạn mô hình hóa". Trong giới hạn ấy có
mức mức độ phù hợp và mức độ phù hợp càng cao, thì mô hình càng cho ta
nhiều thông tin về nguyên bản và việc nghiên cứu bằng phương pháp mô
hình hóa càng có nhiều kết quả.

Ví dụ: Những đối tượng như người với vượn có "mức độ có thể dựng
mô hình" cao hơn là những đối tượng người với cá, và càng cao hơn những
đối tượng người với cây hay người với đá

ĐOẠN VII
PHƯƠNG PHÁP HÌNH THỨC HOÁ

Hình thức hóa là mô tả chính xác nội dung của nhận thức bằng các
phương pháp hình thức như ngôn ngữ thông thường, ngôn ngữ toán học,
ngôn ngữ lôgích..

Có thể nói ngôn ngữ thông thường (tiếng nói, chữ viết) là loại hình thức
hóa đầu tiên. Sự vật, hiện tượng, khi được nói lên, viết ra thì nội dung (phong
phú, phức tạp, muôn vẻ) của nó đã được hình thức hóa (tức chỉ còn giữ lại
dưới dạng chung, trừu tượng, khái quát, đơn giản.)

Ngày nay nói đến phương pháp hình thức hóa trong khoa học, chủ yếu
là nói đến sự tham gia của toán học để mô tả chính xác một nội dung nhận
thức nào đó. Chẳng hạn DESCARTES dùng lượng giác học để diễn tả nội
dung qui luật về khúc xạ ánh sáng (Sin i = n sin r). GALILÉE dùng đại số học
để diễn tả nội dung qui luật về sự rơi (e = 1/2gt 2). Như vậy DESCARTES và
GALILÉE đã hình thức hóa các nội dung trên đây bằng ngôn ngữ toán học.

Phương pháp hình thức hóa nội dung nào đó bằng toán học không
những được áp dụng trong khoa học tự nhiên mà cả trong khoa học xã hội
nữa.

Ví dụ: WEBER và FECHNER hình thức hóa mối quan hệ giữa cảm giác
và vật kích thích như sau: “Vật kích thích tăng theo cấp số nhân thì cảm giác
tăng theo cấp số cộng". BINET và SIMON mô tả số thương trí tuệ bằng công
thức toán:

AM (Tuổi tâm lý)


QI =
AR (tuổi thật)
Trong xã hội học, hầu như không thể không lập các bảng thống kê và
sử dụng phép tính xác suất, v.v...

Toán học rõ ràng có một công dụng lớn lao đối với các khoa học. Nó là
thứ ngôn ngữ gọn gàng, chính xác để mô tả những mối quan hệ về lượng của
các sự kiện khoa học. HENRI POINCARÉ nói: "Tất cả các qui luật ấy cần phải
có một thứ tiếng riêng vì tiếng nói thông thường không thể diễn tả những mối
quan hệ thật chính xác Đó là lý do cốt yếu khiến cho nhà vật lý học không thể
bỏ qua toán học. Toán học cung cấp cho họ thứ tiếng duy nhất để nói".

Tuy nhiên sự áp dụng toán học vào các khoa học khác, có những giới
hạn mà ta cần biết rõ:

Một là mức độ sử dụng và ý nghĩa của toán học không hoàn toàn giống
nhau trong các khoa học khác nhau. Hai là đối tượng được nghiên cứu càng
phức tạp và đa dạng về chất bao nhiêu, thì càng khó áp dụng ngôn ngữ toán
học để hình thức hóa bấy nhiêu. Vì lẽ đó, cho đến ngày nay, việc áp dụng
toán học vào các khoa học xã hội còn ít và hạn chế hơn trong các khoa học
tự nhiên và khoa học kỹ thuật.

ĐOẠN VIII
PHƯƠNG PHÁP HỆ THỐNG CẤU TRÚC

Phương pháp này đã được các nhà sáng lập chủ nghĩa MARX LÊNIN
sử dụng từ lâu. Ví dụ MARX đã áp dụng phương pháp này để nghiên cứu hệ
thống các quan hệ "kinh tế tư bản" trong bộ Tư bản. LÊNIN cũng dùng
phương pháp này trong các tác phẩm: "Chủ nghĩa đẾ quốc, giai đoạn tột cùng
của chủ nghĩa tư bản", "Bàn về kết cấu của chính quyền, về tiền đồ và về chủ
nghĩa thủ tiêu", "Stô-lư-pin và cách mạng", v.v...
Nhưng mấy chục năm trở lại đây, các nhà nghiên cứu khoa học ở
phương Tây (đặc biệt là triết học) đã "phát hiện" nó như là một phương pháp
mới.

Gần đây, các nhà nghiên cứu tại các nước Xã hội chủ nghĩa trở lại áp
dụng phương pháp hệ thống - cấu trúc, đặt nó một cách vững chắc trên nền
móng duy vật biện chứng và gạt bỏ những khuyết tật do chủ nghĩa cấu trúc
(structuralisme)

Phương pháp hệ thống cấu trúc thống nhất hai phương pháp: hệ thống
và cấu trúc; hay đúng hơn: thống nhất hai mặt của một phương pháp.

1. Hệ thống

Hệ thống (système) là một thể thống nhất, một chỉnh thể bao gồm
những bộ phận (tức thành tố) khác nhau kết hợp và tương tác với nhau để
tạo nên những thuộc tính mới của hệ thống, mà các thành tố (tức bộ phận)
không có, gọi là đặc tính nhất thể (qualités intégratives)

Ví dụ: các yếu tố acid nuclêic, celloloz, ADN, ARN... tạo nên tế bào;, Tế
bào là một chỉnh thể, một hệ thống, có tính chất “sống”, “trao đổi chất”… Tính
chất ấy hoàn toàn “mới”, không có ở các yếu tố tạo thành nó.

(Như vậy chữ hệ thống ở đây hoàn toàn khác với nghĩa thông thường:
Hệ thống là một tổ hợp những yếu tố, những vật thể, những hiện tượng…
giống nhau có những mối liên hệ nhất định với nhau hay với tổ hợp đó)

2. Cấu trúc

Cấu trúc (structure) là mặt bất biến của một hệ thống. Các bộ phận
(thành tố) được sắp xếp theo cấu trúc nào, thì sản sinh ra hệ thống ấy; và hệ
thống nào thì có ý nghĩa ấy.

Chẳng hạn trong ngôn ngữ, các chữ vốn chưa có ý nghĩa nhất định.
Chữ chỉ có nghĩa do những trương quan (cũng gọi là mối quan hệ tương tác)
mà chữ đó có với những chỗ khác trong một câu (tức hệ thống), nghĩa là
những chữ để được sắp xếp theo một kiểu cách (cấu trúc) nhất định:
Ví dụ ta có các chữ (thành tố): không, chó, mèo, thích.

Cũng bốn chữ ấy nhưng với cấu trúc khác nhau, ta sẽ có những câu
khác nhau với nghĩa khác nhau:

1. Méo không thích chó.

2. Mèo chó không thích.

3. Chó mèo thích không.

4. Chó thích không mèo.

5. Thích mèo không chó.

6. Không thích chó mèo.

7. Không chó thích mèo.

8. Thích không mèo chó.

9. Chó thích mèo không.

10. Chó mèo không thích.

Ý nghĩa của mỗi câu trên đây không nằm trong từng chữ, cũng không
phải là cộng các chữ lại. Nghĩa của mỗi câu hoàn toàn mới. Đó là thuộc tính
mới của hệ thống.

3. Mối quan hệ biện chứng giữa hệ thống và cấu trúc

Hệ thống và cấu trúc là 2 mặt của một vấn đề. Không thể nói đến hệ
thống mà không nói đến cấu trúc; ngược lại không thể nói đến cấu trúc mà
không nói đến hệ thống.

Theo quan điểm của khoa học hiện đại thì bất kỳ một khách thể nào
trong thế giới hiện thực cũng là một hệ thống. Việc nghiên cứu khách thể với
tính cách là một hệ thống đã dẫn đến việc hình thành một phương pháp mới
gọi là phân tích hệ thống (analyse systématique). Khi áp dụng phương pháp
nghiên cứu này, nhà nghiên cứu phải lưu ý đến những mặt cơ bản sau đây
của đối tượng.

a. Mặt thành tố (aspect composite).


Trước hết phải xác định đầy đủ các yếu tố cấu thành hệ thống.

Những cái nằm ngoài hệ thống được gọi là môi trường. Ở đây nhà
nghiên cứu không những phải chú ý đến một liên hệ giữa các bộ phận ở trong
hệ thống mà còn phải chú ý cả đến một liên hệ giữa hệ thống và môi trường.
Một hệ thống có mối quan hệ với môi trường là hệ thống mở (système
ouvert). Một hệ thống không có tác động qua lại với môi trường là một hệ
thống đóng (système fermé).

b. Mặt cấu trúc (aspect structural).

Mỗi hệ thống gắn liền với hình thức tổ chức nhất định của các thành tố.
Đó là cấu trúc của một hệ thống.

Mỗi hệ thống gồm nhiều hệ con. Mỗi hệ thống vừa là thành tố (hệ thống
con) của một hệ thống cao hơn (hệ thông mẹ), vừa là hệ thống mẹ của những
hệ thống con thấp hơn. Chẳng hạn đối với thành phố, quận là những hệ thống
con, nhưng đối với phường, quận là hệ thống lớn.

c. Mặt chức năng (aspect fonctionnel).

Các bộ phận (thành tố) của hệ thống luôn luôn kết hợp và có mối quan
hệ qua lại với nhau: quan hệ bên trong (giữa các thành tố của hệ thống), quan
hệ bên ngoài (giữa hệ thống và môi trường), quan hệ thứ bậc (giữa hệ thống
mẹ và hệ thống con), v.v...

d. Mặt nhất thể. (aspect intégratif).

Các thành tố của hệ thống kết hợp và tương tác với nhau làm phát sinh
những thuộc tính mới. Thuộc tính mới này được gọi là tính nhất thể của hệ
thống. Thuộc tính mới này, đặc biệt quan trọng, vốn không có trong các bộ
phận riêng lẻ của hệ thống và cũng không phải là cộng các bộ phận lại vì vậy
người ta nói chỉnh thể lớn tổng số các bộ phận của nó.

ĐOẠN IX
PHƯƠNG PHÁP XÁC SUẤT VÀ THỐNG KÊ

1. Xác suất
Xác là đúng, rõ. Suất là một phần. Xác suất là đúng một phần, đúng với
một tỷ lệ nào đó. Nói cách khác, xác suất là số đo khả năng xuất hiện khách
quan của một sự vật hoặc hiện tượng, trong những điều kiện nhất định có thể
lặp đi lặp lại đến vô hạn.

Ví dụ:

Khi tung một đồng tiền lên, ta có thể đoán được rằng nó rơi xuống sấp
hay ngửa. Kết quả sấp hay ngửa không thể đoán trước được. Thế nhưng nếu
tung 10.000 lần, ta có thể đoán được có 5.000 lần sấp và 5.000 lần ngửa.
Càng tung nhiều lần thì tỷ số đó càng trở nên rõ ràng. Bởi vì tung nhiêu lần thì
các điều kiện thay đổi trong mỗi lần (như vị trí của đồng tiền được cầm trong
tay, khi rơi xuống đất, mặt đất bằng phẳng hay ghồ ghề...) càng bị triệt tiêu đi.
Và kết quả chỉ còn lấy thuộc vào sự kiện nào bất biến trong tất cả các lần
tung. Đó là số mặt của đồng tiền (2 mặt). Do đó khi ta đặt mặt ngửa chẳng
hạn, khả năng được bạc sẽ là 1/2. Nếu ta chơi thò lò 6 mặt tự khả năng được
bạc sẽ là 1/6. Còn nếu ta chơi với 2 con thò lò, khả năng được bạc sẽ là [1/(6
x 6)] = 1/36

Càng đánh nhiều thì kết quả càng gần với tỷ số lý thuyết. Đó chính là
luật số lớn (Lois des grands nombres). Vậy trong những trường hợp phức tạp,
không thể đoán trước được kết quả, thi "ngẫu nhiên"... vẫn có sự tất định, gọi
là tất định thống kê.

Muốn tính xác suất của sự kiện A chẳng hạn thì ta phải quan sát hay thí
nghiệm nhiều lần trong những trường hợp tương tự; rồi tính tỷ số của những
hiện tượng phát sinh đối với tổng số lần đã quan sát hoặc thí nghiệm. Tỷ số
đó (hay trình độ xác suất) có quan hệ với số lần quan sát hoặc thí nghiệm.
Nếu số lần quan sát, thí nghiệm đã tương đối đủ thì những lần quan sát, thí
nghiệm mới thực tế sẽ không làm thay đổi độ xác suất nữa. Độ xác suất đã
trở thành đặc điểm khách quan của hiện tượng A.

Vì tính toán xác suất đòi hỏi phải có trường hợp tương tự xảy ra nhiều
lân, nên chỉ có thể áp dụng vào những sự vật hoặc hiện tượng hay xảy ra.
Ngày nay phương pháp hay lý thuyết xác suất (théorie des probabilités)
đã được áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực khoa học (vật lý học, cơ học lượng
tử, điều khiển học, hóa học, sinh vật học, xã hội học, tâm lý học...), kỹ thuật
(pháo thuật, điện thoại, độ bền của vật dụng như bóng đèn, vải vóc...)

Tuy nhiên, không phải mọi sự bất định (ngẫu nhiên) đều có thể mô tả
bằng xác suất. Không phải bao giờ cũng ứng dụng được lý thuyết xác suất. Ví
dụ đối với dự đoán về sự phát triển kinh tế của một đất nước hay phản ứng
tâm lý của một con người...thì phương pháp xác suất bị hạn chế rất nhiều.

2. Thống kê

Thống là một quan hệ giữa các hiện tượng trong một phạm vi xác định.
Kê là tính toán. Thống kê là dùng các phép tính để nối kết một quan hệ giữa
các sự vật hoặc hiện tượng trong một phạm vi nào đó lại với nhau, nhằm tìm
ra thuộc tính chung, bản chất của sự vật hoặc hiện tượng đó. Phương pháp
thống kê không phải chỉ nghiên cứu một sự vật hoặc hiện tượng về mặt số
lượng. Trái lại số lượng của sự vật hoặc hiện tượng được thống kê chính là
cơ sở vật chất để ta phân tích về chất lượng của sự vật hoặc hiện tượng ấy
về sau này. Việc áp dụng phương pháp thống kê, có những giai đoạn cơ bản
sau đây:

1) Quan sát: Các sự vật và hiện tượng trước hết phải "lọt vào ống
nhắm" của nhà nghiên cứu và chúng phải:

- "Đồng nhất" với nhau, nghĩa là có đặc tính giống nhau.

- "Đông đảo" và “tiêu biểu”, nghĩa là có một số lượng cần thiết đủ để


bộc lộ được tính chất lặp đi lặp lại, chung, phổ biến ở đối tượng được nghiên
cứu.

2) Tập hợp và phân loại: Tất cả những đối tượng sau khi đã được quan
sát riêng lẻ, nay được tập hợp lại thành những nhóm nhất định và được diễn
tả bằng những biểu thống kê. Các đối tượng được quan sát riêng lẻ này giờ
đây đã trở thành những dãy số trong các bảng cho biết những đặc tính về số
lượng của chúng (đồng thời cũng là dấu hiệu, ý nghĩa của những tập hợp
đồng nhất về chất lượng mà nhà nghiên cứu sẽ đạt được trong giai đoạn
phân tích).

3) Phân tích: Đây là giai đoạn cuối cùng của phương pháp thống kê.
Nhà nghiên cứu tính toán ra những chỉ số thống kê, những đại lượng trung
bình và hệ số tương đối..., nghĩa là xử lý bằng toán thống kê đối với các dữ
kiện có thể cho biết tính chất của mối quan hệ, ý nghĩa của sự khác biệt, mức
độ tin cậy, v.v... Kết quả của phân tích thống kê thường được trình bày dưới
hình thức những bản phân tích tổng kết, những biểu đồ.

Đây là giai đoạn cuối cùng và cũng là giai đoạn quan trọng nhất, giai
đoạn làm cho "Những con số biết nói" lên ý nghĩa của sự kiện khoa học đã
được quan sát, tập hợp, phân loại.

3. Mối quan hệ biện chứng giữa xác suất và thống kê

Phương pháp xác suất và thống kê tuy khác nhau nhưng có mối quan
hệ qua lại mật thiết với nhau. Nhà nghiên cứu không thể nào tính được xác
suất của một sự kiện (khoa học) mà không cần đến việc thống kê các dữ kiện
đã thu lượm được. Ngược lại, thống kê các dữ kiện là để tính toán được tỷ lệ,
khả năng có thể xảy ra của sự kiện được nghiên cứu. Ví dụ: sự thông kê về
sinh đẻ cho biết xác suất của tỷ số con trai là khoảng 51% trong tổng số trẻ
mới sinh.

Trên đây là một số phương pháp nhận thức khoa học chính, cơ bản. Đó
là những phương pháp phổ biến, được áp dụng rộng rãi trong nhiều lãnh vực
nghiên cứu: Những phương pháp này có liên quan với nhau, bổ sung cho
nhau, không tồn tại độc lập. Vì vậy khi nghiên cứu, các nhà khoa học cần nắm
vững tất cả những phương pháp này, dĩ nhiên tùy từng trường hợp cụ thể mà
mỗi phương pháp được áp dụng nhiều hay ít chủ yếu hay thứ yếu...
Mục V. TRÌNH BÀY MỘT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Đây là phần viết và trình bày một công trình nghiên cứu. Dĩ nhiên mỗi
người có một thói quen khác nhau khi thực hiện bản thảo. Nhưng tốt hơn hết,
nên phân việc viết bản thảo thành hai giai đoạn.

Ở giai đoạn thứ nhất, tác giả nên tập trung viết bản thảo một mạch từ
đầu đến cuối để tư tưởng được liên tục và công việc được tiếp nối dễ dàng.
Nếu lời văn chưa được trau chuốt hay các cước chú chưa được đầy đủ,
chính xác..., tác giả không nên bận tâm lắm.

Ở giai đoạn thứ hai, tác giả sẽ hoàn chỉnh bản thảo cả về nội dung lẫn
hình thức: bổ sung những ý còn thiếu sót; chữa lại những đoạn, những câu
chưa được rõ ràng, gẫy gọn, trau chuốt; sửa lại các cước chú chưa đầy đủ,
chính xác, v.v...

Dù viết luận án, tiểu luận, tài liệu giáo khoa hay bất cứ loại nghiên cứu
khoa học nào, tác giả cũng phải tuân theo những quy ước nhất định, nhằm
đối với người viết, đơn giản hóa được sự trình bày, còn đối với người đọc,
qua những ghi chú vắn tắt, người đọc vẫn có thể hiểu được đầy đủ.

Một kết quả nghiên cứu thuộc loại này được trình bày đúng cách
thường có 3 phần: phần khai tập, phần chính và phần phụ đính.

Tiết 1. Phần khai tập

Phần khai tập gồm có trang bìa, trang nhan đề, trang ghi ơn, lời nói
đầu, mục lục.

Các trang khai tập thường không được kể vào nội dung của công trình
nghiên cứu vì thế phải dùng số La mã để đánh số trang mà phân biệt với
phần nội dung.

Ví dụ: I, II, III...

Từ trang đầu và những trang kế tiếp của phần nội dung, phải đánh số Ả
rập.

Ví dụ: 1,2,3,...
Trang bìa và trang nhan đề. In chữ lớn. Nội dung cùng cách trình bày ở
hai trang này hoàn toàn giống nhau. Nếu là một luận án, tiểu luận hay luận
văn thường gồm có:

- Nhan đề: phải gọn gàng, đủ nói lên nội dung của công trình nghiên
cứu, in bằng chữ lớn.

- Họ, tên, ngày, tháng, năm sinh của tác giả (có thể lược bớt).

- Họ, tên người hướng dẫn.

- Tên Trường, Khoa, Viện Đại Học...

- Tháng năm bảo vệ luận án, luận văn...

Trang ghi ơn: Thông thường tác giả dùng một hay vài "trang danh dự",
liền sau trang nhan đề để ghi ơn các cá nhân hoặc cơ quan đoàn thể đã trực
tiếp hoặc gián tiếp giúp đỡ tác giả hoàn thành công trình nghiên cứu.

Đây là một việc khá tế nhị. Thường thì người có công nhiều được ghi
trước. Nhân dịp này cũng có thể ghi ơn cả ông bà, cha mẹ (những người có
công sinh thành, dưỡng dục mình) nếu tác giả muốn, bằng những lời chân
thành và ngắn gọn.

Lời giới thiệu: Đối với những công trình nghiên cứu như tài liệu giáo
khoa, sách giáo khoa, tác phẩm khoa học...trong phần khai tập, có thể có cả
“lời giới thiệu” do một nhà khoa học nổi tiếng hơn, viết giới thiệu tác giả với
người đọc. Do uy tín của người viết lời giới thiệu, mà tác giả và tác phẩm
được người đọc tin tưởng hơn.

Lời nói đầu: Do tác giả viết, thường là nói về lý do ra đời của công
trình nghiên cứu và ý định cùng ước vọng của tác giả khi thực hiện công trình
này.

Vì vậy trong lời nói đầu, tác giả cho biết tại sao chọn đề tài, ý nghĩa
khoa học và thực tiễn của đề tài ra sao, đề tài đã được giải quyết đến đâu,
cuối cùng tác giả mong đợi hay hy vọng những gì...
Mục lục: Ngay sau trang ghi ơn thường có một bản "sơ mục" liệt kê
khái quát bố cục của công trình, còn “mục lục chi tiết”, thường được để ở
cuối, liệt kê đầy đủ các phần, chương, mục, tiết, đoạn, cùng số trang liên hệ.

Số trang được đánh bằng số Ả rập (1,2,3..) và các số đơn vị phải nằm
thẳng theo một hàng đọc.

Tiết 2. Phần chính

Đây là phần thân bài của luận án, tiểu luận, luận văn, tác phẩm khoa
học..., thường gồm có một chương nhập đề (cũng còn được gọi là "dẫn
nhập") các "chương chính" và "kết luận".

1. Chương nhập đề hay dẫn nhập thường phải có nội dung như sau:

a. Mục đích và phạm vi (tức giới hạn) của đề tài.

b. Ý nghĩa về lý luận và thực tiễn của đề tài.

c. Định nghĩa những khái niệm cơ bản, then chốt, được dùng trong luận
văn, luận án...

d. Phương pháp nghiên cứu được dùng.

e. Tổng luật về những công trình nghiên cứu đã có, liên quan đến đề
tài.

2. Tiếp sau chương nhập đề là các chương chính.

Số chương nhiều hay ít, tùy thuộc vào nội dung nghiên cứu. Mỗi
chương còn được chia thành nhiều "mục", mỗi mục được chia thành nhiều
"tiết", mỗi tiết được chia thành nhiều "đoạn” v.v..

Ngày nay một số nhà nghiên cứu chỉ dùng duy có số Ả rập để phân
chia cho được tiện lợi và đơn giản (chứ không dùng mục, tiết, đoạn...). Trong
một chương thì hàng đơn vị được dành cho ý lớn nhất. Hàng chục được dành
cho ý nhỏ hơn. Hàng trăm dành cho ý nhỏ hơn nữa, v.v...

Ví dụ:

1.
1.1.

1.2.

1.3.

2.

2.1.

2.2.

2.3.

2.3.1.

2.3.2.

2.3.3.

3. Cuối cùng là chương kết luận.

Trong chương này tác giả tóm tắt lại tất cả những ý kiến và thành tựu
đã đạt được, đồng thời nêu lên những triển vọng về mặt lý luận và thực tiễn,
những hạn chế. Và sau hết là những đề nghị (nếu có) của tác giả.

Ngoài ra còn một số quy địnhl, nhà nghiên cứu cần biết để trình bày
công trình của mình:

a. Phần chính (hay thân bài) của luận văn, luận án...phải đánh máy
hàng đôi và được chừa lề như sau:

- 3 cm trên đầu trang.

- 2,5 cm dưới cuối trang.

- 2,5 cm bên phải trang.

- 2 cm bên trái trang.

b. Từ Chương đến Mục, Mục đến Tiết, Tiết đến Đoạn... phải thụt lề 1
cm.

Ví dụ:

Chương I.
Mục I.

Tiết I

Đoạn I.

c. Đối với đoạn trích dẫn:

- Nếu dài dưới 4 hàng thì để trong "ngoặc kép" và đánh máy hàng đôi
như thường.

- Nếu dài trên 4 hàng thì phải xuống hàng, thụt vào 4 đập đánh máy và
đánh máy hàng đơn.

d. Đối với các cước chú:

- Phải được đánh máy hàng đơn.

- Cách hàng cuối của trang bằng một gạnh ngang dài khoảng 4 âm (tức
12 đập máy chữ).

- Cước chú thứ nhất cách gạch ngang trên đây 2 gạt máy chữ và thụt
khỏi lề bên trái 5 đập máy chữ.

- Các cước chú, không được viết liên tiếp, phải tách riêng, và xuống
dòng, khoảng cách giữa các cước chú là hai gạt máy chữ (tức khoảng 2mm).

Nếu cước chú dài hơn một hàng, thì hàng thứ hai được đánh máy sát
lê bên trái, không thụt vào 5 đập đánh máy như hàng trên.

Tiết 3. Phần phụ đính

Phần phụ đính (annexe) là phần đính kèm phụ thêm, nằm sau chương
kết luận của phần chính, gồm có thư mục (còn gọi "thư tịch "thư lục", “liệu
tham khảo"...), phụ lục ngữ điển. bảng chỉ dẫn, v.v...

ĐOẠN I
THƯ MỤC

1. Thư mục (bibliographie, ouvrage đe référence) là bản liệt kê tất cả tài


liệu đã được tham khảo đề viết tác phẩm khoa học, luận án, luận vãn,
v.v...Bản liệt kê tài liệu tham khảo này gồm có sách báo, bách khoa từ điển,
ấn phẩm của nhà nước, các bài giảng thuyết, v.v...

2. Vị trí của "thư mục" được xếp ngay sau trang cuối của phần chính
(trường hợp có phần phụ lục, mà thư mục lại liên quan đến cả phần chính lẫn
phần phụ lục thì có thể xếp "thư mục" nằm sau phần phụ lục).

3. Sự cần thiết của thư mục.

Trước hoặc sau khi đọc một công trình nghiên cứu khoa học, độc giả
thường thắc mắc: Tác giả đã tham khảo những tài liệu nào? Những tài liệu ấy
có đầy đủ không, có chứa những dữ kiện quan trọng không? Tư liệu có mới
không?

Để trả lời những thắc mắc hoặc "to mò" đó, tốt nhất tác giả nên nói rõ
những tài liệu mà mình đã đùng.

Tuy nhiên liệt kê những nguồn tài liệu là cần nhưng chưa phải là đủ:
Một ngôi nhà được xây cất với những vật liệu tốt, đó là một ưu điểm. Nhưng
những vật liệu ấy được xây cất như thế nào, có tạo dựng được một căn nhà
chắc chắn hay không, có đẹp không, lại là chuyện khác, còn tùy thuộc vào sự
"tính toán" và "tài nghệ" của người làm ra nó.

Thực hiện một công trình nghiên cứu khoa học cũng vậy:

Giá trị của nó không phải chỉ tùy thuộc ở những tài liệu tác giả có được
mà còn tùy thuộc vào cách thức khai thác, sử dụng những tài liệu ấy.

Cần phải hiểu rõ như thế, đề tránh cực đoan trong việc quá đề cao vai
trò của tài liệu...vì lẽ, không phải không có những người tưởng rằng tất cả giá
trị của một công trình nghiên cứu là ở tài liệu. Cho nên họ đã khoe khoang và
"hù” người khác bằng cách liệt kê thật nhiều tài liệu, kể cả những tài liệu chưa
hề đọc đến.

Trong khi đó cũng có những người vì "thiếu thật thà", hoặc vì "thiếu
khoa học" (chưa hiểu tầm quan trọng của thư mục) đã không chỉ rõ nguồn tài
liệu mà họ đã sử dụng.
Vậy tóm lại, một công trình nghiên cứu khoa học, đúng là khoa học, thì
một là không thể thiếu phần thư tịch, (cũng như phần cước chú sẽ được trình
bày sau), hai là phần thư tịch phải được thực hiện một cách khoa học, nghĩa
là có phương pháp, đúng quy cách.

4. Thứ tự trong thư mục.

Được xếp theo tên tác giả và thứ tự của mẫu tự.

Ví dụ:

Đào Trọng Cần.

Lê Ngọc Bách.

Nguyễn Văn An.

Hoặc:

An, Nguyễn Văn

Bách, Lê Ngọc

Cần, Đào Trọng

Trường hợp không có tên tác giả thì lấy tên của tài liệu, xếp theo thứ tự
mẫu tự cùng với tên của những tác giả khác

Lưu ý: Khi ghi tên tài liệu không kể mạo tự (article) đứng đầu, đố với
các tài liệu nước ngoài.

Nếu tài liệu tham khảo nhiều (khoảng trên 30), nên chia ra nhiều loại
(sách, tạp chí, tự điển...) rồi mới sắp xếp như vừa nói.

(Riêng tại các nước xã hội chủ nghĩa, trước đây các nhà nghiên cứu
thường để các tác phẩm kinh điển lên đầu danh sách của tài liệu tham khảo).

5. Thư mục được đánh máy dòng đơn.

Các tài liệu không nằm liền nhau. Mỗi tài liệu phải được xuống dòng,
cách khoảng hai gạt máy chữ. Dòng đầu của mỗi tài liệu nằm sát lề trái. Dòng
thứ hai và kế tiếp của cùng một tài liệu (nếu có) nằm thụt vào 5 đập máy chữ.
6. Các chi tiết của mỗi tài liệu trong thư mục.

Những chi tiết trong thư mục thay đổi tùy loại tài liệu: sách, tạp chí, diễn
văn, thư từ hay bách khoa từ điển...Nhưng thường mỗi tài liệu cần có những
chi tiết sau đây.

a. Tên tác giả.

- Đối với người âu Mỹ, thường được sắp xếp như sau:

Họ Tên Chữ lót (viết tắt)


Adeva, Jose A
- Đối với người Việt Nam, thường được sắp xếp:

Họ Chữ lót Tên


Nguyễn Đình Chiểu
Hoặc:

Tên Họ Chữ lót


Chiểu Nguyễn Đình
Lưu ý.

Đối với người âu Mỹ, trong thư mục và trong cước chú, cách sắp xếp
về tác giả có chỗ khu nhau như sau:

Thư thục:

Họ Tên Chữ lót (viết tắt)


Adeva, Jose A
Cước chú:

Tên Chữ lót Họ


Jose A. Adeva
Còn đối với người Việt Nam, trong cước chú luôn luôn theo thứ tự:

Họ Chữ lót Tên


Đoàn Thị Điểm
- Nếu là biệt hiệu hay bút hiệu thì vẫn để nguyên:

Nguyễn Bính.

Nam Cao.

Tế Hanh.

- Nếu trong thư mục có nhiều tác phẩm cùng một tác giả thì từ tác
phẩm thứ hai, không cần lập lại tên tác giả mà thay vào đó bằng chữ Idem
(đối với tác giả nước ngoài) hoặc chữ ctg (đối với tác giả Việt Nam), hoặc một
mẩu gạch ngang.

Ví dụ:

Lévi - Strauss, Claude: Antropologie Structurale, Plon, Paris, 1958.

Idem: Le Cru et le Cuit, Plon, Paris 1965.

Idem: Le Totémisme aujourd hui, PUE., Paris, 1962.

Hoặc:

Lévi - Strauss, Claude: Antropologie Structurale, Plon, Paris, 1958.

_____: Le Cru et le Cuit, Plon, Paris 1965.

_____: Le Totémisme aujourd hui, PUE., Paris, 1962.

b. Tên tài liệu

- Mẫu tự đầu của tài liệu phải viết hoa

- Tên của tài liệu phải được gạch dưới (nếu không in chữ nghiêng). Còn
nếu in nghiêng thì không cần gạch dưới.

c. Tên nhà xuất bản, năm và nơi xuất bản

- Những chi tiết về xuất bản có thể được sắp xếp: nơi xuất bản, nhà
xuất bản, rồi đến năm xuất bản. Sau nơi xuất bản là dấu hai chấm.

Ví dụ:

Hà Nội: Sự Thật, 1985.


- Nhưng cách sắp xếp các chi tiết xuất bản theo kiểu sau đây thông
dụng hơn: nhà xuất bản, nơi xuất bản, năm xuất bản.

Ví dụ:

nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1985.

Hoặc cũng có thể viết:

Sự Thật xb., Hà Nội, 1985.

Tóm lại nội dung các chi tiết của một tài liệu (ví: dụ như sách), trong thư
mục thì hoàn toàn giống nhau, nhưng có thể sắp xếp khác nhau như sau:

1. Nguyên Kim Thản: Lược sử ngôn ngữ học. Hà Nội: Đại học và Trung
học chuyên nghiệp, 1984, 500 tr.

2. Nguyễn Kim Thản, Lược sử ngôn ngữ học, nxb. Đại học và Trung
học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1984, 500 tr.

3. Nguyễn Kim Thản: Lược sử ngôn ngữ học, nxb. Đại học và Trung
học chuyên nghiệp, Hà Nội 1984, 500 tr.

Lưu ý:

- Sau tên tác giả có thể là dấu phẩy, dấu chấm hay dấu hai chấm. Sau
năm xuất bản là số trang (nếu có). Trong thư mục tiếng Việt, sẽ viết tắt: 300 tr.
(còn trong cước chú khi viết tr 231; chữ trang đi trước con số là để chỉ câu
hay đoạn trích nằm ở trang nào).

- Nếu tài liệu không có tên nhà xuất bản thì ghi hai chữ n.p. (tiếng Anh
do chữ no publisher) hay p.e. (tiếng Pháp do chữ pas d'édition), còn tiếng Việt
có thể ghi k.t. (không tên).

- Nếu tài liệu không có năm xuất bản thì ghi hai chữ n.d. (tiếng Anh do
chữ no date) hay p.d. (tiếng Pháp do chữ pas de da te) còn tiếng Việt có thể
ghi k.n. (không năm).

ĐOẠN II
PHỤ LỤC
Phụ lục (appendice) là phần gồm những đoạn trích quá dài không thể
ghi trong phần chính (thân bài) của công trình nghiên cứu.

Phần này được tách rời khỏi phần thư mục bằng một tờ giấy để trắngl
có hai chữ phụ lục, đánh máy bằng chữ hoa.

Xưa kia các nhà nghiên cứu thường in lại trong phần phụ lục những tài
liệu chưa được xuất bản, mà tác giả đã có nói đến hoặc trích dẫn, nhưng
không được đầy đủ ở phần thân bài. Dụng ý của tác giả là cung cấp thêm tài
liệu về những phần ấy để độc giả hiểu rõ hơn. Đó là những "bản văn biện
chính", người Pháp đã từng gọi như vậy (pieces justifca- tives).

Ngày nay "phụ lục" lại có nghĩa là phần in một số bài trích hay những
cước chú quá dài, không tiện để ở phần thân bài, sợ làm cho bồ cục mất cân
đối, người ta đem đặt ở cuối. Vì thế phụ lục có thể mang ý nghĩa "biện chính",
"bàn rộng" hay "bổ Bung".

Phụ lục là cần thiết nhưng "cước chú" và "thư mục" có tầm quan trọng
hơn. Do đó ngày nay nhiều nhà nghiên cứu chỉ lập thư mục và cước chú, bỏ
qua phần phụ lục.

ĐOẠN III
NGỮ ĐIỂN

Ngữ điển (glossaire) là phần kê khai, giải thích rõ tất cả những từ quan
trọng, những thuật ngữ chuyên môn đã được dùng trong phần thân bài. Nói
cách khác, đó là những từ ngữ lạ, khó, ít dùng, thổ ngữ, tên các chất khoa
học, những từ thông thường nhưng dùng với nghĩa đặc biệt, v.v...

Những từ ngữ này phải được sắp xếp theo mẫu tự A, B, C như một
cuốn từ điển nhỏ.

Sau mỗi từ, khi đã được giải thích đầy đủ, cần ghi rõ số trang mà từ đó
xuất hiện.
Nếu một từ xuất hiện nhiều lần thì ghi đủ số lần và lần xuất hiện đầu
tiên hoặc được nói đến một cách đầy đủ, thì số trang cần in đậm hoặc gạch
dưới. Các sồ trang phải ghi theo thứ tự từ nhỏ đến lớn.

Trường hợp ở phần ngữ điển, không ghi số trang thì có thể dành việc
ghi số trang ở một phần khác, gọi là "bảng chỉ dẫn.

ĐOẠN IV
BẢNG CHỈ DẪN

Bảng chỉ dẫn (index) là phần ghi lại tất cả các từ, tên người, tên đất, tên
sách... cùng với số trang từ ấy đã xuất hiện và được sắp xếp theo mẫu tự A,
B, C...

Lẽ ra đã có "bảng chỉ dẫn" thì không cần có "ngữ điển". Nhưng có sách,
vừa có phần ngữ điển vừa có bảng chỉ dẫn: Thông thường, bảng chỉ dẫn có
nhiều từ hơn. Cũng có khi hai phần được nhập chung làm một: "Bảng chỉ dẫn
và ngữ điển"

Phần chỉ dẫn có thể gồm nhiều bảng: Bảng chỉ dẫn tên người. tên đất,
tên sách, tên vấn đề, v.v... và các từ được sắp xếp theo qui cách đã nói ở
trên, trong phần ngữ điển.

Tiết 4. Cước chú

Cước chú và thư thục là hai việc hết sức cần thiết, không thể thiếu
trong một công trình khoa học nào.

Trên đây, ở phần phụ đính, ta đã nói qua về cước chú, trong tiết, này
vấn đề cước chú sẽ được đề cập đến một cách chi tiết hơn.

ĐOẠN I
CƯỚC CHÚ LÀ GÌ?

Theo từ nguyên, cước là chân, chú là chép nghĩa cho rõ ràng. Cước
chú (foot notes, notes au bas de la page) là những giải thích, dẫn chứng ghi ở
cuối mỗi trang, cuối mỗi chương hay cuối cả phần chính của công trình
nghiên cứu, để giúp người đọc biết rõ xuất xứ một đoạn văn, một ý kiến, một
tin tức hoặc để giải thích một chữ, một ý... được dùng trong bài.

ĐOẠN II
CÁCH GHI CƯỚC CHÚ

Cước chú đầu tiên nằm dưới một gạch ngang. Gạch ngang này dài
4cm (tức 12 đập của máy chữ) cách hàng cuối của trang sách, 2 gạt máy
chữ, và cách lề trái 5 đập máy chữ:

Ngày nay nhiều ấn phẩm không theo đúng qui định này và cách ghi
cước chú có thề thay đổi như sau:

1. “Gạch ngang" nằm sát hàng chữ ở lề trái, chứ không thụt vào

2. Hoặc không có "gạch ngang ".

Giữa hàng cuối của trang sách và cước chú đầu tiên cách nhau khoảng
1 cm.

Mỗi cước chú phải được tách riêng và phải xuống hàng.

Nếu đánh máy thì cước chú được đánh hàng đơn (còn các phần khác
thì đánh hàng đôi). Nếu in, cước chủ phải được dùng khổ chữ nhỏ hơn và
hàng sít hơn so với khổ chữ và hàng được dùng ở trên.

ĐOẠN III
CÁCH ĐÁNH SỐ CƯỚC TRÚ

1. Mỗi khi trích một đoạn văn, cần ghi cước chú để cho biết đoạn văn
đã được trích trong sách nào, của ai, trang bao nhiêu?

Có hai cách trích: Trích trực tiếp và trích gián tiếp. Trích trực tiếp là trích
nguyên văn. Trích gián tiếp là chỉ trích lấy ý và diễn đạt bằng lời văn của
mình. Nhà nghiên cứu cũng có thể trích lại đoạn văn của một người, do người
khác trích dẫn. Nhưng nên hạn chế tối đa kiểu trích này, trừ khi phải trích một
câu hay một đoạn văn nước ngoài mà ta không hiểu ngôn ngữ của họ, đành
dùng lời dịch của người trung gian.
Những loạn trích trực tiếp, phải ghi lại đúng nguyên văn dù biết có chỗ
sai lầm, ta có thể lưu ý người đọc bằng hai cách:

a. Hoặc ghi chữ [sic] ngay sau chỗ sai.

Ví dụ: "Napoléon chết ngày 5.5.1912" [sic]

b. Hoặc ghi lại sự hiệu đính ngay sau chỗ sai và để trong dấu móc.

Ví dụ: Napoléon chết ngày 5.5.1912 [1821]

2. Liền sau mỗi đoạn được trích dẫn, phải ghi cước chú bằng số Ả rập
(1, 2, 3...). Con số này thường cao hơn hàng chữ thường, hoặc ngang với
hàng chữ thường và để trong ngoặc đơn. Ví dụ

"Người là con vật xã hội"(1)

"Người là con vật xã hội”(1)

3. Có ba cách đánh số cước chú:

a. Đánh số toàn bộ: Trong trường hợp này tất cả cước chú được xếp ở
sau phần chính, tức trước phần phụ đính.

b. Đánh số từng chương. Tất cả cước chú của mỗi chương, được xếp
ở cuối chương.

c. Đánh số từng trang. Tất cả cước chú của mỗi trang, được xếp ở cuối
trang. Trong ba cách trên, cách thứ ba có nhiều ưu điểm nhất vì giúp cho
người đọc dễ theo dõi. Khi cần thêm hoặc bớt một vài cước chú, chỉ cần đánh
số lại trong trang ấy thôi, không phải sửa lại tất cả.

4. Nếu mỗi trang, số cước chú chỉ có ít thì thay vì đánh số (1, 2, 3, 4,
5...) có thể dùng các dấu hiệu như hoa thị, ngôi sao...

Ví dụ:

* (cước chú 1)

** (Cước chú 2)

*** (Cước chú 3)


@ (Cước chú 1)

@@ (Cước chú 2)

@@@ (Cước chú 3)

ĐOẠN IV
CÁC CHI TIẾT CỦA CƯỚC CHÚ

Các chi tiết của cước chú thay đổi tùy theo loại tài liệu: sách, báchn
khoa từ điển, bài báo, thư từ, cuộc phỏng vấn, luận án, luận văn, v.v...

Thông thường, một ước chú gồm có: Tên tác giả, tên tác phẩm, tên nhà
xuất bản, nơi xuất bản, năm xuất bản, số trang và có thể sắp xếp theo nhiều
kiểu khác nhau.

1. Sách

a. Một tác giả viết một cuốn sách

Có thể theo một trong các cách sau đây:

Thiện Nhân, Đấu tranh chống tệ nạn quan liêu (Hà Nội: Sự Thật, 1983),
tr.6.

Thiện Nhân: Đấu tranh chống tệ nạn quan liêu, nxb. Sự Thật, Hà Nội,
1983, tr.6.

Thiện Nhân, Đấu tranh chống tệ nạn quan liêu, nxb. Sự Thật Hà Nội,
1983, tr.6.

André Fontaine, Historie de la guerre froide (Paris: Fayard, 1966), T.1,


p.5.

André Fontaine, Histone de la guerre froide, Fayanl, Paris, 1966, T.1,


p.5.

André Fontaine: Historie de la guerre froide, Fayard, Paris 1966, T.1,


p.5.
Những chữ viết tắt. nxb (nhà xuất bản), T. (tập), tr.(trang), p (page,
trang).

b. Nhiều tác giả viết một cuốn sách

Đái Xuân Ninh và tgk: Ngôn ngữ học, nxb. Khoa Học Xã Hội, Hà Nội,
1984, T.1, tr.115.

Berques Jacques et al: The Philippine Revolutionary Martyrs, American


Pubhshing Company, Chicago, 1945, p.20.

Những chữ viết tắt: tgk (tác giả khác, tiếng Việt) et al (et alliance tiếng
nước ngoài).

Lưu ý. Cả tiếng Anh và tiếng Pháp đều dùng “et al”.

c. Một người dịch một cuốn sách

Trường hợp đối với sách dịch, tên người dịch được ghi liền sau tên
sách và thêm chữ dg. (dịch giả)

Ví dụ:

A.S. Gêorgiépxki: Phương pháp học và phương pháp, Nguyễn Trinh


Cơ, dg., nxb. "Mịr", Matxcơva, 1976, trr 18.

2. Báo

Các chi tiết cước chú gồm có: Tên tác giả (nếu có, vì những bài báo ở
báo hàng ngày, ít khi có tên tác giả) tên bài báo (để trong ngoặc kép), tên tờ
báo (có gạch dưới hoặc in nghiêng), số bao nhiêu (đối với các tập san), thời
gian xuất bản, ở trang nào

Ví dụ:

a. Báo hàng ngày (nhật báo)

"Mật trận văn học, nghệ thuật Việt Nam trước những nhiệm vụ mới của
cách mạng", báo Nhân Dân, 27 tháng 4-1984, tr.3.

b. Báo hàng tuần (tuần san).


Đoàn Khắc Xuyên, "Paris: không chỉ hoa lệ...” Tuổi Trẻ Chủ Nhật, số 48,
3 tháng 12/1989, tr.8.

c. Báo hàng tháng (nguyệt san)

Trần Quốc Vượng, "Con người Việt Nam giữa luật và lệ, giữa tình và lý"
tạp chí Triết học, số 1, tháng 3-1998, tr.42.

3. Bách khoa từ điển

Các chi tiết cước chú gồm có: Tên tác giả (nếu có) tền bài viết (để trong
ngoặc kép), tên Bách khoa từ điển có gạch dưới hoặc in nghiêng), tập bao
nhiêu, năm bao nhiêu, năm xuất bản, (để trong ngoặc đơn) ở trang nào.

Ví dụ:

Beruard Brodie, "Sea Power", Encyclopedia Britannica, Vol.XX (1958),


tr.249 - 251.

4. Luận án

Các chi tiết cước chú gồm có: tên tác giả, tên luận án (có gạch dưới
hoặc in nghiêng), chữ luận án (Thesis, Thèse), nơi trình luận án, năm trình
luận án, ở trang nào.

Ví dụ:

Đinh Việt, Kinh kỳ đảo trong nghi lễ điền thổ của dân Lạc, Luận án, Viện
Đại Học Sài Gòn, 1960, tr.70.

5. Bài thuyết trình

Các chi tiết cước chú gồm có: Tên người báo cáo, tên đề tài (để trong
ngoặc kép), chữ thuyết trình có ghét dưới hoặc in nghiêng (lecture,
conférence), nơi báo cáo, thời gian báo cáo, số trang (nếu có in ra).

Ví dụ:

Trần Đức Thảo, "Phương pháp luận của vấn đề con người”, thuyết
trình, Liên Hiệp Các Hội Khoa Học TP. Hồ Chí Minh, 20 tháng Bảy 1988.

6. Bản báo cáo


Các chi tiết cước chú gồm có: Tên tác giả (cá nhân hay tập thể) tên bản
báo cáo (có gạch dưới hoặc in nghiêng) nơi và thời gian, trang nào.

Ví dụ:

Trần Văn Minh, Báo cáo của Nhóm nghiên có về việc phát triển nông
nghiệp tại Đồng bằng sông Cửu Long (TP. Hồ Chí Minh, 20/11/1987), tr 81.

Hoặc cùng có thể viết:

Trần Văn Minh, Báo cáo của Nhóm nghiên cứu về việc phát triển nông
nghiệp tại đồng bằng sông Cửu Long. TP. Hồ Chí Minh, 20/11/1987. tr 81.

7. Thư từ

Các chi tiết cước chú gồm có: Tên tác giả, chức vụ của tác giả, nơi và
ngày viết bức thư.

Ví dụ:

Phan Trung Trực, Nhà văn, Thư từ (Nha trang: 20 tháng Mười 1982).

8. Phỏng vấn

Các chi tiết cước chú gồm có: Tên họ, chức vụ người được phỏng vấn,
chữ "phỏng vón" ("Interview), nơi phỏng vấn.

Ví dụ:

Nguyễn Trần Lưu, Giám đốc xí nghiệp Sao Vàng, Phỏng vấn (Nha
Trang: 17 tháng Tám 1984). Tải bản FULL (file doc 174 trang): bit.ly/3u1usNA
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
ĐOẠN V
CÁCH DÙNG CÁC CƯỚC CHÚ ĐẶC BIỆT

Nhà nghiên cứu có thể tách một câu hay một đoạn ở trong một tác
phẩm, sau khi đã ghi cước chú đẩy đủ, lại trích thêm những câu hoặc đoạn
khác trong cùng tác phẩm ấy. Trong trường hợp này nhà nghiên cứu sẽ dùng
nhưng cước chú đặc biệt (ibid, op.cit., loc.cit) để tránh phải lặp lại các chi tiết
cước chú, đỡ mất thì giờ.

Ví dụ:
1. Ibid

Viết tắt chữ La tinh ibidem, có nghĩa là cùng một chỗ. Nếu những đoạn
trích kế tiếp nhau ở trong cùng một trang của tác phẩm thì từ đoạn thứ hai trở
đi, chỉ cần ghi cước chú: Ibid (luôn luôn có gạch dưới nếu đánh máy).

Nếu những đoạn trích kế tiếp ở khác trang của tác phẩm thì từ đoạn
thứ hai trở đi cần phải ghi thêm số trang.

Ví dụ: Ibid., p.87.

2. Op.cit

Viết tắt của chữ La Tinh “opere citato”, có nghĩa là “trong tác phẩm đã
dẫn”

Op.cit. được dùng như ibid với sự khác nhau như sau:

a. Sau một cước chú với đầy đủ chi tiết, nếu bị ngắt quãng bởi những
cước chú thuộc các tác phẩm khác thì dùng op.cit. chứ không dùng ibid.

b. Cước chú op.cit. phải nằm ở khác trang với cước chú đầy đủ vừa
dẫn

c. Tên tác giả phải được nhắc lại trước chữ op.cit.

Ví dụ: K.Marx, op.cit, p.85.

3. Loc.cit.

Viết tắt của chữ La tinh “loco citato”, có nghĩa là "chỗ đã dẫn”

Loc.cit. được dùng như op.cit. Nhưng cước chú loc.cit. phải nằm cùng
trang với cước chú đã dẫn trước đó.
Tải bản FULL (file doc 174 trang): bit.ly/3u1usNA
Ví dụ: Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
K.Marx, (Cước chú đã dẫn đầy đủ trước đó), p.81.

K.Marx, loc.cit.

Hoặc:

K.Marx (cước chú đã dẫn đầy đủ trước đó), p.81.


K.Marx, loc.cit, p.81.

Đối với các tác phẩm tiếng Việt, thiển nghĩ có thể chuyển các cước chú
đặc biệt bằng tiếng La tinh ra tiếng Việt như sau:

Ibid. -> Sđd.

Ibid. p.70. -> Sđd.tr.70.

Hegel, op.cit., p.68. -> Hegeb sđd., tr.68.

Hegel, loc.cit., p.65. -> Hegel, sđd., tr.65.

Riêng đối với những sách bằng chữ Hán, thay vì "trang” phải nói "tờ".
Và do mỗi tờ có hai mặt nên các nhà nghiên cứu thường dùng chữ a để chỉ
mặt trước và chữ b để chỉ mặt sau. Ví dụ đối với các tác phẩm như "Khâm
Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục" hay "Đại Việt Sử Ký Toàn Thư", sẽ
được cước chú như sau:

Cương mục, Tiền biên, q.2, tờ 3b.

Toàn thư, Ngoại kỷ, q.3, tờ 8a.

Còn đối với các loại sách như Kinh thánh, vì mỗi quyển chia thành
chương và mỗi chương đều có đánh số từng câu nên khi cước chú, các nhà
nghiên cứu không ghi số trang mà lại ghi như sau:

Sáng thế ký, 3:15

Khải huyền, 1:5.

LỜI KẾT

Đến đây chúng ta đã hiểu thế nào là nghiên cứu khoa học và những
việc cần thực hiện, từ khi bắt đầu cho đến lúc kết thúc.

Tuy nhiên, đó cũng chỉ mới là những công việc cơ bản. Còn biết bao
nhiêu vấn đề nữa có liên quan đến công việc nghiên cứu khoa học mà tài liệu
này chưa có dịp đề cập tới như: phương pháp đọc tài liệu (nhất là đọc sao
cho nhanh), phương pháp ghi chép, sắp xếp tài liệu, phương pháp làm đề
cương, (đề cương tổng quát, đề cương chi tiết), phương pháp viết (viết lần
4097541

You might also like