You are on page 1of 28

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ĐÀ NẴNG

KHOA SINH – MÔI TRƯỜNG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ


KHOÁNG SẢN VÀ ĐỊA CHẤT

ĐỀ TÀI:
Đánh giá Thực trạng Quản lý Nhà nước về
Tài nguyên Khoáng sản và Địa chất

Giảng viên hướng dẫn :


Sinh viên thực hiện : Đào Bảo Ngọc
Lớp : 16CTM

Đà Nẵng, tháng 12 năm 2019.


MỤC LỤC
I. Tổng quan ............................................................................................................. 3
1. Đặt vấn đề ......................................................................................................... 3
2. Mục tiêu ............................................................................................................ 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................................... 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu................................................................................. 4
3.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 4
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 4
II. Thực trạng quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản ở nước ta ...................... 5
1. Tổng quát về hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản: ............................... 5
1.1. Loại hình khoáng sản được khai thác: ....................................................... 5
1.2. Loại hình doanh nghiệp tham gia khai thác khoáng sản : .......................... 5
1.3. Số lượng các doanh nghiệp tham gia khai thác khoáng sản : .................... 6
1.4. Quy mô các mỏ khoáng sản được khai thác............................................... 6
2. Tình hình thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động khai thác tài nguyên
khoáng sản ............................................................................................................... 7
2.1. Hệ thống thể chế, chính sách liên quan đến quản lý nhà nước về khai thác
tài nguyên khoáng sản hiện nay ........................................................................... 7
2.2. Quản lý nhà nước đối với hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản giai
đoạn 2012 – 2016 ............................................................................................... 11
3. Những bất cập trong quản lý nhà nước về TNKS và địa chất ........................ 22
I. Tổng quan

1. Đặt vấn đề
Trong hơn nửa thế kỷ qua nhu cầu về tài nguyên khoáng sản (TNKS) trên thị
trường thế giới tăng trưởng lớn dẫn đến tình trạng khai thác và cạn kiệt TNKS và để
lại nhiều hậu quả về xã hội và môi trường ở vùng khai thác khoáng sản của nhiều
nước trên thế giới. Trước tình hình đó, nhiều quốc gia trên thế giới và ngay cả các
Tập đoàn khai khoáng đã có những điều chỉnh chính sách và hoạt động nhằm quản
lý, khai thác sửdụng hiệu quả nguồn tài nguyên này đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng
trong tương lai.

Từ trước đến nay, Việt Nam vẫn được đánh giá là Quốc gia có tiềm năng về
khoáng sản với trên 5000 điểm mỏ của hơn 60 loại khoáng sản khác nhau. Để đảm
bảo đóng góp tích cực của ngành khoáng sản cho phát triển đất nước Bộ chính trị đã
có nghị quyết số 13/1996 về ngành khoáng sản. Quốc hội khóa IX cũng đã thông
qua Luật khoáng sản (LKS), có hiệu lực từ ngày 1/9/1996 (sửa đổi, bổ sung một
sốđiều tại văn bản luật số 46/2005/QH11); Sau gần 15 năm thực hiện LKS, ngành
khai khoáng ở Việt Nam có nhiều sự biến động cả về quy mô, công nghệ khai thác,
cũng như công tác tổ chức quản lý. Bên cạnh những đóng góp tích cực, ngành khai
thác khoáng sản cũng đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế, tiêu cực, ảnh hưởng đến hiệu
quả của hoạt động khoáng sản trên phạm vi cả nước. Nhiều quy định của LKS và
phương thức tổ chức thực hiện không còn phù hợp, một số vấn đề phát sinh trong
hoạt động khoáng sản chưa được điều chỉnh theo chủ trương mới của Đảng và Nhà
nước; chưa tương thích với một số Luật liên quan khác đã được điều chỉnh hoặc ban
hành mới như Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đầu tư, Luật doanh nghiệp, Luật Đất
đai... và chưa phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia.

Để đảm bảo phát triển bền vững, Việt Nam cần có những chính sách quản lý
nhà nước để điều chỉnh hợp lý về khung pháp lý cũng như tổ chức quản lý ngành
khai khoáng theo hướng sử dụng tài nguyên khoảng sản hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả,
hài hòa các lợi ích, vấn đề môi trường, giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển
và bảo vệ môi trường.

2. Mục tiêu
- Đánh giá hiện trạng quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản của nước ta.
- Tìm hiểu hiện trạng, khả năng thực thi pháp luật và xử phạt của nhà nước về
quản lý tài nguyên khoáng sản
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu


- Đối tượng nghiên cứu là quản lý nhủ nước về khai thác tài nguyên khoáng
sản ở Việt Nam.

3.2. Phạm vi nghiên cứu


- Về không gian trong phạm vi toản quốc.
- Về thời gian : chủ yếu số liệu nghiên cứu giai đoạn từ năm 2002 đến năm
2016.
- Về nội dung : tập trung phân tích việc tổ chức thực hiện các nội dung QLNN
thuộc chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể QLNN là các cơ quan nhà nước ( Chính
phủ, các Bộ, UBND các cấp, các sở, phòng, ban ) đối với các đối tượng quản lý
người dân, doanh nghiệp, cộng đồng, các loại hình tổ chức khác và cả xã hội trong
hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản.

4. Phương pháp nghiên cứu


- Phương pháp luận được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện
chửng và duy vật lịch sử để xem xét vấn đề quản lý nhà nước đối với tài nguyên
khoáng sản nói chung và khai thác tài nguyên khoáng sản nói riêng.
- Nguồn số liệu đã sử dụng nguồn số liệu thử cấp, từ các kết quả khảo sát, báo
cáo của Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường.
- Phương pháp xử lý số liệu đã sử dụng các phương pháp xử lý số liệu cụ thể
như sau :
+ Nghiên cứu tài liệu thử cấp : Thông qua phân tích các tài liệu chính thức và
không chính thức, từ các tài liệu được công bố, các báo cáo, thống kê của Tổng Cục
Tổng cục Địa chất Khoáng sản Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường, các bài
viết trên các báo, tạp chí chuyên ngành và một số trang Website có liên quan tới vấn
để QLNN về khai thác tài nguyên khoáng sản;
+ Phân tích, tổng kể: tiến hành thống kê số liệu, văn bản liên quan về hoạt
động khoáng sản và QLNN về khai thác tài nguyên khoáng sản của Chính phủ, Bộ
Tài nguyên Môi trường, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam và một số bài
viết, báo cáo khoa học khác. Từ đó phân tích thực trạng QLNN đối với lĩnh vực khai
thác tài nguyên khoáng sản trong phạm vi toàn quốc.
+ So sánh, tổng hợp: so sánh các thông tin, số liệu liên quan tới vấn để nghiên
cứu để thấy được sự thay đổi trong công tác QLNN về khai thác tài nguyên khoáng
sản ở Việt Nam trong thời gian qua.

II. Thực trạng quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản ở nước ta

1. Tổng quát về hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản:

1.1. Loại hình khoáng sản được khai thác:


Tính riêng các mỏ khoáng sản do cơ quan Trung ương cấp giấy phép, đến ngày
31 tháng 12 năm 2017 hiện có khoảng 350 mỏ/khu vực mỏ thuộc 10/12 nhóm
khoáng sản và 68 điểm nước nóng, nước khoáng đang khai thác. Tính riêng cho
khoáng sản rắn thì nhóm khoáng sản vật liệu xây dựng (sét xi măng, đá vôi xi măng,
đá ốp lát các loại, đá phiến lợp, cát silic phụ gia xi măng, nguyên liệu phụ gia xi
măng v.v…) chiếm tỉ lệ 36.96%. Nhóm khoáng sản nhiên liệu (than mỡ, than
antraxit) chiếm tỉ lệ 22,11%. Nhóm khoáng sản nguyên liệu sứ, gốm, thủy tinh, chịu
lửa, bảo ôn (kaolin, fenspat, sét gốm sứ, sét chịu lửa, đôlômit, quăczit, cát thủy tinh)
chiểm tỉ lệ 15.84%. Nhóm khoáng sản kim loại cơ bản thông thường (thiếc, anitmon,
đồng, chì – kẽm và nikel) chiếm tỉ lệ 4,29 %. Nhóm khoáng sản sắt và hợp kim của
sắt (sắt, mangan, crômit và wonfram) chiếm tỉ lệ 5.61%. Nhóm khoáng sản kim loại
nhẹ (bauxit, ilmenite) chiếm tỉ lệ 7.59%. Nhóm khoáng sản nguyên liệu kỹ thuật
(tacl, đá vôi trắng, các khuôn đúc, sét bentonite) chiếm tỉ lệ 4,29%. Nhóm khoáng
sản quý hiếm (đá quý, saphia) chiếm tỉ lệ 0.66%. Nhóm khoáng sản hóa chất và
phân bón (apatit, fluorit, secpentin) chiếm tỉ lệ 1.65% và nhóm khoáng sản kim loại
quý (vàng) chiếm 0.99%

1.2. Loại hình doanh nghiệp tham gia khai thác khoáng sản :
Chỉ tính riêng các doanh nghiệp có giấy phép do cơ quan Trung ương cấp đã
có khoảng 150 doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn của 37 tỉnh, thành phố. Trong
đó, số lượng doanh nghiệp Nhà nước có ưu thế tuyệt đối, chiếm 54.41% (chưa kể
công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước một thành viên, công ty cổ phần chuyển hóa
từ doanh nghiệp Nhà nước trước đây). Số lượng các doanh nghiệp còn lại là: công ty
cổ phần chiểm 22.79%; doanh nghiệp có vốn đầu tưu nước ngoài chiếm tỉ lệ 8.82%;
công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm 5.88%; công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước
một thành viên chiếm 3,68%; doanh nghiệp tư nhân chiếm 2,94%; hợp tác xã và
doanh nghiệp đầu tư 100% vốn nước ngoài chiếm tỉ lệ rất khiêm tốn 1.47% trong
tổng số doanh nghiệp đang hoạt động
1.3. Số lượng các doanh nghiệp tham gia khai thác khoáng sản :
Theo thống kê, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia chủ yếu
trong lĩnh vực khai thác khoáng sản phục vụ công nghiệp sản xuất xi măng (công ty
Xi măng Nghi Sơn, Công ty Xi măng Lusk Việt Nam, Công ty xi măng Holcim… ),
đá ốp lát (Công ty liên doanh Latina An Giang), đá vôi trắng (Công ty Yabashi,
Công ty liên doanh cacbonat canxi YBB), nước khoáng (Công ty Lavie), vàng (
Công ty trách nhiệm hữu hạn Bồng Miêu, Công ty trách nhiệm hữu hạn vàng Phước
Sơn), Niken (Công ty trách nhiệm hữu hạn Niken Bản Phúc), titan sa khoáng ( Công
ty khoáng sản Bình Định Việt Nam – Malaysia), đá phiến lợp (Công ty liên doanh
đá phiến Lai Châu), quặng sắt (Công ty trách nhiệm hữu hạn Khoáng sản và luyện
kim Việt – Trung). Có một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do hoạt động
không có hiệu quả phải giải thể, ngừng hoạt động trước thời hạn từ những năm cuối
thê kỷ 20 như: Xí nghiệp liên doanh vàng Việt – Nga, Công ty liên doanh đá quý
Việt – Thái, Công ty khai thác, chế biến titan Austinh Hà Tĩnh, Công ty trachhs
nhiệm hữu hạn khai thác đá ốp lát Halim (100% vốn nước ngoài).

1.4. Quy mô các mỏ khoáng sản được khai thác


Mặc dù phong phú về chủng loại và nhiều về số lượng nhưng phần lớn các mỏ,
điểm mỏ khoáng sản đã được phát hiện ở Viện Nam chủ yếu là các mỏ nhỏ và vừa.
Mặc khác, do hạn chế về vốn đầu tư, công nghệ khai thác nên các mỏ khai thác chủ
yếu có quy mô mỏ nhỏ, hoặc một số mỏ lớn được chia thành nhiều khu vực để khai
thác với quy mô nhỏ hơn. Các mỏ khai thác có quy mô công suất lớn tập trung vào
một số loại khoáng sản như: than (có 5 mỏ lộ thiên công suất 2 ÷ 3 triệu tấn than
nguyên khai/năm, 8 mỏ than hầm lò công suất 0,9 ÷ 1,5 triệu tấn than nguyên
khai/năm); đá vôi nguyên liệu xi măng (có 15 mỏ khai thác với công suất 1,5 ÷ 3
triệu tấn đá nguyên khai/năm); apatit (trên 500.000 tấn quặng/năm); đồng (công suất
trên 1 triệu tấn quặng nguyên khai/năm), số mỏ công suất trung bình (>400.000
tấn/năm đối với than, sét nguyên liệu xi măng, ilmenit) chiểm tỷ lệ không lớn, còn
lại các mỏ khoáng sản khai thác ở quy mô nhỏ.

Xét về giá trị tuyệt đối thì các mỏ khoáng sản rắn ở quy mô công nghiệp có số
lượng không nhiều so với các mỏ khoáng sản khác, nhất là khoáng sản làm vật liệu
xây dựng thông thường(đá, cát xây dựng, sét gạch ngói v.v…) và chỉ chiếm trên
10% tổng số các mỏ khoáng sản đang hoạt động trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên,
các mỏ khoáng sản rắn lại chiếm ưu thế về giá trị tổng sản lượng toàn ngành công
nghiệp khai thác mỏ (trừ dầu khí), giải quyết được số lượng lớn lao động (chỉ tính
riêng ngành khai thác than thì giá trị tổng sản lượng đã chiếm khoảng 60% tổng giá
trị sản lượng toàn ngành khai khoáng và giải quyết công việc làm cho khoảng
100.000 lao động thường xuyên).
Trong những năm gần đây, sản lượng khai thác một số loại khoáng sản có mức
tăng trưởng nhanh như than, quặng sắt, titan sa khoáng, chì – kẽm, apatit, nước
khoáng, đá vôi, đá sét sản xuất xi măng và đá làm vật liệu xây dựng thông thường.
Sản phẩm của ngành khai khoáng đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển ngành công
nghiệp trong thời gian qua. Trong nước đã hình thành được một số Tập đoàn kinh tế
mạnh, một số doanh nghiệp nhà nước có vai trò chủ đạo, chiếm tỷ trọng lớn trong
ngành khai thác khoáng sản như: Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt
Nam, Tổng công ty Thép Việt Nam, Tổng công ty xi măng Việt Nam. Một số doanh
nghiệp trong nước đã ổn định và phát triển khai khoáng như: Tổng công ty khoáng
sản và thương mại Hà Tĩnh, Công ty cổ phần đá Hóa An, Công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên vật liệu xây dựng Biên Hòa, Công ty cổ phần khoáng sản Bình
Định v.v…

2. Tình hình thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động khai thác tài
nguyên khoáng sản

2.1. Hệ thống thể chế, chính sách liên quan đến quản lý nhà nước về khai thác
tài nguyên khoáng sản hiện nay
* Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật
Luật Khoáng sản năm 1996 được ban hành, lần đầu tiên chúng ta có văn bản
luật – văn bản pháp lý cao nhất để quản lý tài nguyên khoáng sản và đánh dấu một
bước phát triển mới, quan trong trong quản lý nhà nước về khoáng sản. Từ khi Luật
Khoáng sản năm 1996 có hiệu lực từ tháng 9 năm 1996 đến nay về cơ bản thể chế
quản lý khoáng sản đã được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý quan trọng để quản lý,
bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm nguồn lực này để phát triển kinh tế - xã
hội đất nước. Theo đó, cùng với Luật Khoáng sản năm 2010 (thay thế Luật Khoáng
sản năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Khoáng sản năm 2005); thi
hành Luật Khoáng sản và Luật bảo vệ môi trường đến nay. Chính phủ và các bộ liên
quan đã ban hành 143 văn bản quy phạm pháp luật, Thủ tưởng chính phủ đã ban
hành văn bản chỉ đạo điều hành quản lý, gồm: 02 Nghị quyết, 06 Nghị định của
Chính phủ, 08 Chỉ thị, 05 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; 120 văn bản Quyết
định, Thông tư, Thông tư liên tịch của các Bộ ngành, 32 văn bản QPPL bảo vệ môi
trường trong khai thác khoáng sản (gốm: 01 Nghị quyết, 10 Nghị định của Chính
Phủ, 02 Quyết định của Chính phủ, 19 Quyết định, Thông tư, Thông tư liên tịch của
các Bộ ngành liên quan).
Luật khoáng sản năm 2010 đã được Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ họp
thứ 8 vào ngày 17 tháng 11 năm 2010. Theo đó, hệ thống văn bản quản lý đến nay
cơ bản được hoàn thiện. Đến nay Chính phủ đã ban hành được 06 Nghị định hướng
dẫn thi hành Luật Khoáng sản, 03 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 20 Thông
tư, Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành Luật Khoáng sản và các Nghị định của các
Bộ Tài nguyên và Môi trường, Công Thương, Xây dựng, Tài chính,… và gần 10 văn
bản khác liên quan đến lĩnh vực khoáng sản banh hành trước ngành 01 tháng 07 năm
2011 đang còn hiệu lực đã tạo nên hành lang pháp lý khá đầy đủ trong công tác quản
lý nhà nước về khoáng sản nói chung và khai thác tài nguyên khoáng sản
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì dự thảo Quốc hội, Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ phối hợp ban hành theo thẩm quyền 26 văn bản, trong đố có: 01
Luật của Quốc hội (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khoáng sản); 03
Nghị định của Chính phủ; 01 Quyết định và 03 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ;
ban hành theo thẩm quyền 01 thông tư, 11 Quyết định của Bộ trưởng và phối hợp
ban hành 06 Thông tư liên tịch liên quan đến quản lý nhà nước về khoáng sản
*Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên và khoáng
sản
Theo quy định của Luật Khoáng sản năm 2010: Hệ thống các cơ quan chịu
trách nhiệm quản lý nhà nước về khoáng sản bao gồm: Chính phủ, Bộ Tài nguyên và
Môi trường, bộ, cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân các cấp, trách nhiệm của các
cơ quan, cụ thể:
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về khoáng sản
- Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ về thực hiện
quản lý nhà nước về khoáng sản trong phạm vi cả nước, có trách nhiệm:
+ Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành tổ chức và thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về khoáng sản; ban hành
quy chuẩn kỹ thuật, định mức, đơn giá trong điều tra cơ bản về địa chất khoáng sản,
thăm dò khoáng sản
Lập, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược khoáng sản; lập, trình
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch khoáng sản theo phân công của Chính
phủ;
+ Khoanh định và công bố các khu vực khoáng sản theo thẩm quyền; khoanh
định và trình Thủ tướng Chính phủ quyết định khu vực không đấu giá quyền khai
thác khoáng sản theo thẩm quyền;
+ Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về khoáng sản; đào tạo, bồi
dưỡng nguồn nhân lực cho công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản và hoạt
động khoáng sản;
+ Cấp, gia hạn, thu hồi Giấy phép thăm dò khoáng sản, Giấy phép khai thác
khoáng sản; chấp thuận trả lại Giấy phép thăm dò khoáng sản, Giấy phép khai thác
khoáng sản, trả lại một phần diện tích khu vực thăm dò, khai thác khoáng sản; tổ
chức đấu giá quyền khai thác khoáng sản thuộc thẩm quyền;
+ Hướng dẫn, tổ chức thực hiện việc đăng ký hoạt động điều tra cơ bản địa
chất về khoáng sản; thống kê, kiểm kê trữ lượng khoáng sản;
+ Tổng hợp kết quả điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản, tình hình hoạt động
khoáng sản; quản lý thông tin, mẫu vật địa chất, khoáng sản;
+ Công bố, xuất bản các tài liệu, thông tin điều tra cơ bản địa chất về khoáng
sản;
+ Thường trực Hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản quốc gia;
+ Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về khoáng sản theo thẩm quyền.
- Bộ Công Thương, Bộ Xây Dựng có trách nhiệm lập và trình phê duyệt quy
hoạch về khoáng sản theo phân công của Chính phủ (quy định tại điều 8 Nghị số
15/2012/NĐ- CP ngày 9 tháng 3 năm 2012 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều của Luật Khoáng sản); đồng thời phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường
trong quản lý nhà nước về khoáng sản.
+ Trách nhiệm chính của Bộ Công Thương trong quản lý khoáng sản là lập,
trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch khoáng sản (trừ quy hoạch khoáng
sản thuộc thẩm quyền của Bộ Xây dựng và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh); tổ chức,
kiểm tra việc thực hiện quy hoạch khoáng sản và quy định điều kiện xuất khẩu
khoáng sản thuộc thẩm quyền, ban hành quy chuẩn kỹ thuật trong khai thác, chế
biến khoáng sản
Khoảng 2 điều 15 Luật khoáng sản năm 2010 quy định, trong phạm vi trách
nhiệm của mình, sau khi quy hoạch khoáng sản thuộc thẩm quyền lập đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt, trong phòng 30 ngày Bộ Công thương phải tổ chức
công bố công khai quy hoạch khoáng sản.
+ Trách nhiệm của Bộ Xây dựng chủ trì lập, trình Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt quy hoạch thăm dò, chế biến, sử dụng khoáng sản làm vật liệu xây dựng,
nguyên liệu sản xuất xi măng; tổ chức, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch khoáng
sản và quy định điều kiện xuất khẩu khoáng sản thuộc thẩm quyền, ban hành quy
chuẩn kỹ thuật trong khai thác, chế biến khoáng sản thuộc thẩm quyền.
Tương tự như trên, trách nhiệm công bố công khai quy hoạch khoáng sản
thuộc thẩm quyền lập đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trong phòng 30 ngày
Bộ Công thương phải tổ chức công bố công khai quy hoạch khoáng sản cũng được
quy định tại Khoảng 2 điều 15 Luật khoáng sản năm 2010.
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm:
+ Ban hành theo thẩm quyền văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định của
Nhà nước về quản lý, bảo vệ khoáng sản và quản lý hoạt động khoáng sản tại địa
phương;
+ Khoanh định và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt khu vực cấm hoạt
động khoáng sản, khu vực tạm thời cấm hoạt động khoáng sản; quyết định khu vực
không đấu giá quyền khai thác khoáng sản theo thẩm quyền;
+ Lập, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch thăm dò,
khai thác, sử dụng khoáng sản của địa phương theo quy định của Chính phủ;
+ Công nhận chỉ tiêu tính trữ lượng khoáng sản; phê duyệt trữ lượng khoáng
sản; thống kê, kiểm kê trữ lượng khoáng sản thuộc thẩm quyền cấp giấy phép;
+ Cấp, gia hạn, thu hồi Giấy phép thăm dò khoáng sản, Giấy phép khai thác
khoáng sản, Giấy phép khai thác tận thu khoáng sản; chấp thuận trả lại Giấy phép
thăm dò khoáng sản, Giấy phép khai thác khoáng sản, Giấy phép khai thác tận thu
khoáng sản, trả lại một phần diện tích khu vực thăm dò, khai thác khoáng sản; tổ
chức đấu giá quyền khai thác khoáng sản thuộc thẩm quyền;
+ Giải quyết theo thẩm quyền việc cho thuê đất hoạt động khoáng sản, sử dụng
hạ tầng kỹ thuật và các vấn đề khác có liên quan cho tổ chức, cá nhân được phép
hoạt động khoáng sản tại địa phương theo quy định của pháp luật;
+ Thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, khoáng sản chưa khai thác, tài
nguyên thiên nhiên khác theo quy định của pháp luật; bảo đảm an ninh, trật tự an
toàn xã hội tại khu vực có khoáng sản;
+ Báo cáo cơ quan quản lý nhà nước về khoáng sản ở trung ương về tình hình
hoạt động khoáng sản trên địa bàn;
+ Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về khoáng sản;
+ Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về khoáng sản theo thẩm quyền.
- Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm:
+ Giải quyết theo thẩm quyền cho thuê đất hoạt động khoáng sản, sử dụng hạ
tầng kỹ thuật và các vấn đề khác có liên quan cho tổ chức, cá nhân được phép hoạt
động khoáng sản tại địa phương theo quy định của pháp luật;
+ Thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, khoáng sản chưa khai thác, tài
nguyên thiên nhiên khác theo quy định của pháp luật; bảo đảm an ninh, trật tự an
toàn xã hội tại khu vực có khoáng sản;
+ Báo cáo Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp tình hình hoạt động khoáng sản
trên địa bàn;
+ Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về khoáng sản;
+ Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về khoáng sản theo thẩm quyền

Mô hình quản lý nhà nước về khoáng sản

2.2. Quản lý nhà nước đối với hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản giai
đoạn 2012 – 2016
* Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về khoáng sản và khai
thác tài nguyên khoáng sản:
Việc xây dựng và ban hành thể chế về quản lý khai thác tài nguyên khoáng sản
là nhiệm vụ, công việc hết sức quan trọng, là trách nhiệm của chủ thể, quản lý nhà
nước để quản trị có hiệu quả nguồn tài nguyên đặc biệt này. Do đó, công tác này
luôn được Nhà nước ta quan tâm, chỉ đạo thực hiện để ngày càng hoàn thiện thể chế,
chính sách pháp luật về khoáng sản.

Luật Khoáng sản năm 1996 được ban hành, lần đầu tiên chúng ta đã có văn
bản pháp luật – văn bản pháp lý cao nhất để quản lý tài nguyên khoáng sản và đã
đánh dấu một bước phát triển mới, quan trọng trong quản lý nhà nước về khoáng
sản. Từ khi Luật Khoáng sản năm 1996 có hiệu lực từ tháng 9 năm 1996 đến nay về
cơ bản thể chế quản lý khoáng sản đã được hoàn thiện, tạo thành hành lang pháp lý
quan trọng để quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm nguồn lực này để
phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Theo đó, cùng với Luật Khoáng sản năm 2010
(thay thế Luật Khoáng sản năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật
Khoáng sản năm 2005); thi hành Luật Khoáng sản và Luật bảo vệ môi trường đến
nay. Chính phủ và các bộ liên quan đã ban hành 143 văn bản quy phạm pháp luật,
Thủ tưởng chính phủ đã ban hành văn bản chỉ đạo điều hành quản lý, gồm: 02 Nghị
quyết, 06 Nghị định của Chính phủ, 08 Chỉ thị, 05 Quyết định của Thủ tướng Chính
phủ; 120 văn bản Quyết định, Thông tư, Thông tư liên tịch của các Bộ ngành, 32
văn bản QPPL bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản (gốm: 01 Nghị quyết,
10 Nghị định của Chính Phủ, 02 Quyết định của Chính phủ, 19 Quyết định, Thông
tư, Thông tư liên tịch của các Bộ ngành liên quan).

Mới đây nhất, Luật khoáng sản năm 2010 đã được Quốc hội khóa XII thông
qua tại kỳ họp thứ tảm vào ngày 17 tháng 11 năm 2010. Theo đó, hệ thống văn bản
quản lý đến nay cơ bản được hoàn thiện. Đến nay Chính phủ đã ban hành được 05
Nghị định hướng dẫn thi hành Luật khoáng sản; 03 Quyết định của Thủ tướng Chính
phủ; 20 Thông tư, Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành Luật khoáng sản và các
Nghị định của các Bộ Tài nguyên và Môi trường, Công Thương, Xây dựng, Tài
chính… và gần 10 văn bản khác liên quan đến lĩnh vực khoáng sản ban hành trước
ngày 01 tháng 07 năm 2011 đang còn hiệu lực đã tại nên hành lang pháp lý khá đầy
đủ trong công tác quản lý nhà nước về khoáng sản nói chung và khai khác tài
nguyên khoáng sản.

Riêng Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì dự thảo trình Quốc hội, Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành và ban hành, phối hợp ban hành theo thẩm
quyền 26 văn bản, trong đó có : 01 Luật của Quốc hội ( Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Khoáng sản ); 03 Nghị định của Chính phủ; 01 Quyết định và 03 Chỉ
thị của Thủ tướng Chính phủ; ban hành theo thẩm quyền 01 Thông tư, 11 Quyết
định của Bộ trưởng và phối hợp ban hành 06 Thông tư liên tịch liên quan đến quản
lý nhà nước về khoáng sản.

* Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về khoảng sản

Sau khi Luật Khoáng sản được ban hành, Bộ Công nghiệp trước đây, Bộ Tài
nguyên và Môi trường hiện nay và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương đã thường xuyên phối hợp tiến hành tổ chức công tác tuyên truyền,
hướng dẫn thi hành Luật Khoáng sản trong phạm vi cả nước.

Các phương tiện thông tin đại chúng ở Trung ương, địa phương đã đăng tải nội
dung Luật Khoáng sản; Các cuộc phỏng vấn, trao đổi, tọa đàm được thực hiện nhằm
tạo điều kiện phổ biến sâu rộng pháp luật về khoáng sản trong quần chúng nhân dân.
Công tác tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật về khoáng sản cho các tổ
chức, cá nhân hoạt động khoáng sản còn được thực hiện thông qua công tác thanh
tra, kiếm tra hoạt động khoảng sản. Riêng Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức
được 108 Lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường
cho lãnh đạo, cản bộ Sở Tài nguyên và Môi trưởng các tỉnh, thỉnh phố trực thuộc
Trung ương, 03 lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước và khoáng sản cho phóng
viên báo chí, 06 lớp cho cán bộ, chuyên viên Sở Tài nguyễn và Môi trường các tỉnh,
thỉnh phố trong cả nước. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp Chương trinh
SEMLA ( Thụy Điển ) xây dựng bộ tư liệu bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà về tài
nguyên và môi trường cấp huyện, trong đó có nêng một chuyên để quản lý nhà nước
về khoáng sản và tổ chức: 06 đợt tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ tài nguyên vỗ môi
trường cấp huyện.

Thực hiện đa dạng hóa công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về khoáng
sản, thông qua các phương tiện thủng tin đại chúng, Bộ Tài nguyên và Môi trường
đã phối hợp với Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam thực hiện nhiều
chuyên đề về công tác quản lý nhà nước về khoảng sân. Năm 2006 Bộ Tài nguyên
và Môi trường đã tổ chức thí điểm " Tuần lễ giáo dục pháp luật về tài nguyên vả môi
trường " trong đó có lĩnh vực quản lý nhà nước về khoáng sản tại một số khu vực.
Ngoài ra, từ năm 2006 đến nay, Bộ đã tiến hành 18 phiên giao lưu trực tuyến để giải
đáp pháp luật về tài nguyên và môi trường trên mạng Internet với Sở Tài nguyên và
Môi trưởng, người dân và doanh nghiệp và sẽ tiếp tục thực hiện trong các năm tiếp
theo để giải đáp những vấn đề vướng mắc của người dân và doanh nghiệp trong lĩnh
vực tài nguyên môi trường nói chung và về quản lý khai thác tài nguyên khoáng sản
nói riêng.

* Công tác xây dựng, phê duyệt quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và
sử dụng khoáng sản ( quy hoạch khoảng sản )

Thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về khoáng sản được phân công, từ năm
2005 Bộ Công nghiệp ( nay là Bộ Công Thương ), Bộ Xây dựng đã triển khai công
tác lập quy hoạch khoảng sản thuộc thẩm quyền. Đến nay, các Bộ đã xây dựng, trình
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hoặc Bộ trưởng Bộ Công Thương phê duyệt theo ủy
quyền của Thủ tướng Chính phủ 13 Quy hoạch đối với 39 loại khoáng sản, gồm:
quặng sắt; quặng chỉ - kẽm; quặng titan; quặng bauxit; quặng crômit, mangan;
quặng thiếc, vonfram và antimon; quặng vàng, đổng, niken, molipden; đá quý, đất
hiếm, urani; quặng apatit; nhóm khoảng chất công nghiệp ( serpentin, barit, grafit,
fluorit, bentonit, diatomit, talc); nhóm khoáng chất nguyên liệu ( đá hoa trắng,
felspat, cao lanh, magnezit); nhóm khoáng sản làm xi măng ( đá vôi xi măng, đá sét
xi măng, cát silic, puzzlan, laterit, đá bazan); nhóm khoáng sản làm vật liệu xây
dựng đất sét trắng, sét chịu lửa, cát trắng, đôlômắt, đá ốp lát ).

Thực hiện nhiệm vụ đã được phân cấp, hầu hết UBND các tỉnh, thành phố đã
lập và phê duyệt quy hoạch khoáng sản thuộc thẩm quyền. Theo số liệu tổng hợp từ
60 / 63 báo cáo của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đến tháng 6 năm
2009 mới có 47 / 63 tỉnh, thành phố đã phê duyệt quy hoạch khoáng sản trên địa bản
địa phương ( đạt 74, 6 % ). Công tác khoanh định, phê duyệt khu vực cấm, tạm cấm
hoạt động khoáng sản đã được các địa phương triển khai nhưng tiến độ phê duyệt
còn rất chậm. Đến tháng 6 năm 2009 mới chỉ có 27 / 63 tỉnh, thành phố hoàn thành
công tác ( đạt 42, 86 % ); đến hết năm 2016 có 55 / 63 tỉnh, thành phố đã thực hiện
công tác này.

Đến hết năm 2016, theo thống kê của 61 / 63 tỉnh, thành phố đã có 110 quy |
hoạch các loại khoáng sản được UBND các tỉnh, thành phố phê duyệt theo thẩm
quyền. Các địa phương đã rà soát, điều chỉnh 20 quy hoạch khoáng sản đã phê duyệt
trước đó để phù hợp với yêu cầu thực tế cũng như các quy hoạch có liên quan của cả
nước.
* Công tác cấp giấy phép hoạt động khoảng sản

Theo thống kê, từ khi Luật Khoáng sản có hiệu lực vào tháng 9 năm 1996 đến
hết năm 2008, Bộ Công nghiệp ( nay là Bộ Công Thương ), Bộ Tài nguyên và Môi
trường đã cấp, gia hạn, thu hồi, cho phép chuyển nhượng, thừa kế, cho phép tiếp tục
thực hiện quyền thăm dò, khai thác khoáng sản tổng cộng 1. 031 giấy phép hoạt
động khoáng sản. Trong đó, có 640 giấy phép thăm dò khoáng sản, 387 giấy phép
khai thác khoáng sản, 03 giấy phép khảo sát khoáng sản và 01 giấy phép chế biến
khoáng sản. Công tác cấp giấy phép hoạt động khoáng sản được thực hiện đúng theo
quy định của pháp luật về khoáng sản, nhất là sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Khoáng sản ban hành và có hiệu lực. Theo đó, khi cấp phép đều phải
tuân thủ quy hoạch đã phê duyệt, trường hợp chưa có quy hoạch phải có ý kiến chấp
thuận bằng văn bản của Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ được Thủ tướng Chính phủ
ủy quyền. Mặt khác, trong quá trình thẩm định, cấp giấy phép đều phải rà soát kỹ
các vấn đề liên quan đến an ninh - quốc phòng, di tích lịch sử văn hóa, cảnh quan,
môi trường cũng như các vấn đề khác có liên quan. Riêng năm 2016, Bộ Tài nguyên
và Môi trường cấp mới, gia hạn cho phép chuyển nhượng 78 giấy phép thăm dò /
khai thác khoáng sản và ban hành 03 Quyết định đóng cửa mỏ khoáng sản.

Về phía Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh; theo số liệu thống kê từ 60 / 63 báo cáo của
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đến tháng 6 năm 2009 có 331 giấy phép
thăm dò và 3. 882 giấy phép khai thác do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương cấp đang thực hiện. Trong đó có 82 % là giấy phép khai thác
khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, than bùn, 16 % là giấy phép khai
thác loại khoáng sản khác, còn lại là giấy phép khai thác tận thu.

Các tỉnh cấp nhiều giấy phép khai thác là Bình Thuận ( 200 giấy phép ), Vĩnh
Long ( 155 giấy phép ), Yên Bái ( 152 giấy phép ), Cao Bằng ( 142 giấy phép ), Lâm
Đồng ( 136 giấy phép ), Lai Châu ( 124 giấy phép ), Nghệ An ( 126 giấy phép ), Lào
Cai ( 121 giấy phép ), Thanh Hóa ( 101 giấy phép ). Tuy nhiên cũng có tính chưa
cấp giấy phép khai thác ( Bạc Liêu, Cà Mau ), hoặc chỉ cấp 1, 2 giấy phép ( Thái
Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, Bến Tre, Hưng Yên ).

Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, năm 2016, UBND cấp tỉnh
đã cấp mới tổng số 1. 083 giấy phép, trong đó : 395 Giấy phép thăm dò khoáng sản
và 688 Giấy phép khai thác khoáng sản; đã thu thu hồi 28 Giấy phép, cho phép trả
lại 18 giấy phép và quyết định đóng cửa 94 khu vực mỏ.
* Công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động khoáng sản

Công tác kiểm tra được tăng cường đối với các nội dung liên quan đến khai
thác, chế biến và sử dụng hợp lý tài nguyên khoáng sản như : kiểm tra công tác kiểm
kê, quyết toán tài nguyên khoáng sản đã khai thác, chế biến hàng năm; kiểm tra
công tác khai thác, sử dụng khoáng sản đi kèm với khoáng sản chính đang khai thác
( nếu có ); kiểm tra quy hoạch, kế hoạch xây dựng cơ bản của các mỏ mới được cấp
phép, kế hoạch khai thác 5 năm, hàng năm của doanh nghiệp liên quan đến trình tự,
công nghệ khai thác hợp lý nhằm thu hồi tối đa tài nguyên khoáng sản đang khai
thác; kiểm tra công tác đổ thải đất đá hợp lý ( không đổ thải đất đá mỏ lên các khu
vực có khoảng sản )…v…v…

Hàng năm, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chỉ đạo các đơn vị chức năng của
Bộ chủ trì, phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện trung bình 30 - 40
lượt kiểm tra định kỳ khai thác khoáng sản tại các mỏ trên địa bàn từ 8 - 10 tỉnh,
thành phố. Trong các năm 2007, 2008, 2009 công tác này đã được Bộ Tài nguyên và
Môi trường đặc biệt quan tâm chỉ đạo thực hiện với 05 đợt kiểm tra quy mô lớn tại
42 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó có 12 tỉnh, thành phố có 02 lượt kiểm tra.
Cụ thể : kiểm tra tình tỉnh thực hiện pháp luật về Khoáng sản tại 07 tỉnh : Thái
Nguyên, Cao Bằng, Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Nam, Lâm Đồng và Đồng Nai;
kiểm tra hoạt động khai thác, chế biến, vận chuyển, tiêu thụ và xuất khẩu khoáng
sản tại 07 tỉnh : Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Bình Định,
Ninh Thuận và Bình Thuận ( năm 2007 ); kiểm tra tình hình thực hiện thẩm quyền
cấp giấy phép hoạt động khoáng sản của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tại 15 tỉnh : Điện
Biên, Sơn La, Hòa Bình, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Gia Lai, Kon Tum, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Lâm Đồng
và thành phố Hà Nội ( năm 2008 ); tổng kiểm tra tình hình quản lý nhà nước về
khoáng sản và hoạt động khoảng sản tại 16 tỉnh, thành phố Cao Bằng, Thái Nguyên,
Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Hải Dương, Tuyên Quang, Phú Thọ, Bình Định, Phú Yên,
Quảng Bình, Thừa Thiên Huế Tây Ninh, An Giang, Đắk Lắc, Bình Thuận và TP Hải
Phòng; kiểm tra tình hình khai thác, vận chuyển, tiêu thụ, xuất khẩu cát trên địa bàn
10 tỉnh, thành phố : An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bến
Tre, Tiền Giang, Hậu Giang, Kiên Giang và Cần Thơ ( năm 2009 ). Năm 2016, Bộ
Tài nguyên và Môi trường thực hiện 21 cuộc thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch và 08
cuộc kiểm tra đột xuất với trên 260 tổ chức, cá nhân trên địa bàn 29 tỉnh, thành phố,
cụ thể : thực hiện 04 cuộc thanh tra chuyên để về quản lý, thăm dò, khai thác, sử
dụng đá ốp lát tại 04 tỉnh tại 01 doanh nghiệp gồm : Yên Bái ( 20 ), Ninh Bình ( 04
), Phú Yên ( 04 ), Gia Lai ( 13 ); 01 cuộc thanh tra trách nhiệm công tác QLNN về
KS đối với UBND tỉnh Bình Định có lồng ghép thanh tra chuyên để hoạt động khai
thác, sử dụng đá ốp lát tại 25 doanh nghiệp. Kiểm tra theo kế hoạch việc chấp hành
pháp luật khoáng sản tại 06 tỉnh đối với 62 tổ chức, cá nhân, gồm : Cao Bằng ( 12 ),
Thái Nguyên ( 09 ), Bắc Kạn ( 12 ), Đồng Tháp ( 04 ), Tây Ninh ( 10 ) và Lâm Đồng
( 15 ); kiểm tra việc thực hiện các kết luận sau thanh tra, kiểm tra ( hậu kiểm ) tại 02
tỉnh đối với 23 doanh nghiệp, gồm : Thừa Thiên Huế ( 03 ), Quảng Ninh ( 20 ).
Ngoài ra, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng thường xuyên chỉ đạo thực hiện nhiều
cuộc kiểm tra đột xuất theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, yêu cầu quản lý và
phản ánh của báo chí điển hình như : kiểm tra việc thu hồi cát từ dự án nạo vét Quân
cảng Vùng 5 Hải quân tại Kiên Giang; kiểm tra công tác quản lý cấp phép và hoạt
động thăm dò, khai thác vàng tại tỉnh Quảng Nam; kiểm tra việc chấp hành các quy
định của pháp luật trong hoạt động khai thác, nạo vét cát lòng sông tại các tỉnh
Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Hưng Yên và thành phố Hà Nội, kiểm tra sự cố vỡ bờ
trong khai thác titan tại mỏ Nam Suối Nhum, hoạt động khai thác titan tại Bình
Thuận, kiểm tra hoạt động thăm dò, khai thác đá ốp lát tại tỉnh Đắk Lắk…

Kết quả đã phát hiện các hành vi vi phạm quy định về thông báo, bổ nhiệm giám đốc
điều hành mỏ; thống kê, kiểm kê trữ lượng, khai thác khi giấy phép đã hết hạn; vượt
công suất, thiết kế mỏ; cắm mốc khu vực khai thác; bản đồ hiện trạng, hợp đồng
thuê đất; quan trắc giám sát môi trường; nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản…

- Khoáng sản xuất khẩu vẫn còn ở dạng nguyên liệu thô, quặng tỉnh

Mặc dù Nhà nước có nhiều văn bản yêu cầu không xuất khẩu khoảng sản thô,
quặng tỉnh nhưng trong thực tế vẫn chưa hạn chế được tình trạng xuất khẩu khoáng
sản ở dạng nguyên liệu thô; tình trạng mua, bán, vận chuyển quặng trái phép và xuất
khẩu quặng (như quặng antimon, chỉ - kẽm, sắt, crômit v.v...) vẫn còn diễn ra tại
một số địa phương, nhất là tại các tỉnh miền núi phía Bắc.

- Hoạt động khai thác thủ công, nhỏ lẻ chưa được quản lý chặt chẽ

Hoạt động khai thắc nhỏ lẻ, thủ công (cá thể, hộ gia đình) đối với khai thác
cát, sỏi lòng sông, khai thác sét làm gạch ngói thủ công v.v... mang tính mưu sinh
của người dân tại nhiều địa phương đến nay vẫn chưa được cấp phép theo quy định
để quản lý. Do phần lớn các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, hạn chế về năng lực vốn
đầu tư nên vẫn còn tình trạng chia các khu mỏ có quy mô lớn thành các khu vực nhỏ
để cấp cho nhiều doanh nghiệp. Điều này dẫn tới tình trạng đầu tư dàn trải, không
tập trung, tài nguyên khoáng sản khai thác, sử dụng chưa triệt để, đặc biệt là đối với
hoạt động khai thác đá vật liệu xây dựng thông thường.

- Công tác giám sát tổn thất, làm nghèo khoáng sản, công tác kiểm kê tài
nguyên khoáng sản chưa được quan tâm đúng mức

Công tác theo dõi thông tin tổn thất, làm nghèo khoáng sản trong quá trình
khai thác; biến động chất lượng, trữ lượng mỏ khoáng sản được khai thác, công tác
lập bản đồ hiện trạng khai thác mỏ định kỳ theo quy định của pháp luật về khoáng
sản chưa được các tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản thực hiện tốt. Điều nảy gây
khó khăn cho công tác quản lý kỹ thuật, nhất là công tác kiểm kê trữ lượng khoáng
sản phục vụ công tác quản lý nhà nước về khoáng sản, nhất là công tác quy hoạch,
định hướng phát triển công nghiệp khai khoáng,

* Đối với công tác QLNN về khai thác tài nguyên khoáng sản

Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả đáng kể nêu trên, nhưng công tác quản lý
nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản vẫn còn một số tồn tại bất cập cần
khắc phục, đó là:

- Một số văn bản hướng dẫn thi hành Luật chậm được ban hành hoặc ban
hành chưa đúng quy định

Một số nội dung đã được quy định trong Luật Khoáng sản nhưng chậm được
ban hình như: quy chế đấu thầu thăm dò, khai thác khoáng sản, quy định thủ tục cấp
vốn Nhà nước, thuế chuyển nhượng quyền thăm dò, khai thác khoáng sản v.v... nên
chưa được triển khai trong thực tế; quy định hoạt động điều tra cơ bản địa chất về tài
nguyên khoáng sản chưa rõ nét, khó thực hiện

Hiện nay pháp luật về khoáng sản chưa quy định về phân cấp thẩm quyền cấp
giấy phép khai thác khoáng sản cho Ủy ban nhân dân cấp huyện (hoặc Sở Tài
nguyên và Môi trường). Tuy nhiên, qua kiểm tra đã có một số địa phương quy định
phân cấp (hoặc ủy quyền nhưng thực chất là phân cấp) cho Sở Tài nguyên và Môi
trường hoặc Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp giấy phép hoạt động khoáng sản, phê
duyệt trữ lượng một số loại khoáng sản (có quy mô nhỏ, khai thác cá thể, hộ gia
đình) thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là chưa phù hợp với quy định
của pháp luật về khoáng sản và pháp luật khác có liên quan.

- Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về khoáng sản còn hạn chế

Mặc dù đã đạt được nhưng kết quả đáng kể, nhưng công tác tuyên truyền,
phổ biến pháp luật về khoáng sản thực hiện chưa thường xuyên, chưa phổ biến sâu
rộng tới mọi thành phần trong xã hội, nhất là người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng
miền núi khó khăn là những địa bàn chủ yếu có các hoạt động khai thác khoáng sản,
người dân ở những khu vực có khoáng sản chưa khai thác, cũng như những nơi có
hoạt động khoáng sản.

- Công tác lập, phê duyệt, thực hiện Quy hoạch khoáng sản còn bất cập

Một số địa phương cho phép đầu tư nhiều dự án chế biến hoặc chế biến sâu
khoáng sản chưa có trong quy hoạch Trung ương mà không có ý kiến của Thủ tướng
Chính phủ cũng như của các Bộ có liên quan (chế biến sâu quặng sắt, quặng mangan
tại Cao Bằng, chế biến sâu quặng sắt, chế biến quặng titan tại Thái Nguyên, chế biến
sâu quặng titan tại Bình Định, chế biến sắt tại Hải Dương v.v...). Điều này dẫn đến
những bất cập sau:

+Số lượng dự án chế biến sâu do địa phương quy hoạch hoặc đã cấp chứng
nhận đầu tư lớn hơn số lượng dự án trong Quy hoạch Trung ương đã phê duyệt;

+ Công suất thiết kế của các nhà máy chế biến sâu do Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh cho phép đầu tư lớn hơn công suất các nhà máy chế biến sâu trong quy hoạch
của Trung ương. Tuy nhiên do không cân đối được nguồn nguyên liệu khoáng sản
cung cấp cho các nhà máy dễ dẫn tới tình trạng tranh mua, tranh bán, cạnh tranh
không lành mạnh giữa các doanh nghiệp.

+ Tiến độ lập, phê duyệt quy hoạch khoáng sản, nhất là tiến độ khoanh định,
phê duyệt khu vực cấm, tạm cấm hoạt động khoáng sản chậm.

Đến năm 2015 đã có 78,5 % tỉnh, thành phố trong cả nước phê duyệt quy hoạch
khoáng sản thuộc thẩm quyền. Tuy nhiên, còn nhiều quy hoạch ban hình trước tháng
10 năm 2005 chưa được rà soát, điều chỉnh, nhất là điều chỉnh sau khỉ quy hoạch
khoáng sản của cả nước đã phê duyệt, chất lượng của quy hoạch của các địa phương
đã duyệt còn thấp; có sự chồng chéo giữa quy hoạch khoáng sản của Trung ương và
địa phương, nhất là các dự án chế biến sâu như đã nêu trên

- Việc thực hiện thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động khoáng sản của địa
phương vẫn còn một số bất cập

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khoáng sản đã tăng cường phân
cấp trong quản lý nhà nước cho các địa phương, nhất là thẩm quyền cấp giấy phép
thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản. Đây là một chủ trương đúng đắn, góp phần
tăng cường cải cách hành chính, tăng tính chủ động cho địa phương trong công tác
quản lý nhà nước về khoáng sản. Tuy nhiên, qua kiểm tra cho thấy công tác cấp giấy
phép hoạt động khoáng sản của các địa phương còn một số bất cập, đó là:

Còn nhiều giấy phép khai thác khoáng sản do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương cấp chưa đúng quy định (cấp trước khi quy hoạch
khoáng sản của Trung ương phê duyệt nhưng chưa có ý kiến của Thủ tướng Chính
phủ; khu vực cấp giấy phép thuộc quy hoạch khai thác do Trung ương quản lý cấp
giấy phép khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường nhưng khi sử
dụng lại làm cho mục đích khác như đá ốp lát, đá bột); hồ sơ cấp giấy phép khai thác
khoáng sản chưa chặt chẽ, sơ sài, trong quá trình cấp phép chưa ràng buộc chặt chẽ
trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm an toàn lao động, bảo vệ môi
trường, môi sinh, nhất là trách nhiệm khai thác triệt để, tiết kiệm, có hiệu quả tài
nguyên khoáng sản v. V...

- Tình trạng khai thác khoáng sản trái phép vẫn còn diển ra

Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong công tác giải tỏa các tụ điểm khai thác
khoáng sản trái phép thời gian qua những hoạt động khai thác khoáng sản trái phép,
nhất là đối với khai thác trái phép cát sỏi lòng sông, lòng hồ tại nhiều địa phương
vẫn còn diễn ra khá công khai, quy mô đáng kể như đã nêu trên. Hậu quả của hoạt
động khai thác khoáng sản trái phép là: gây mất trật tự an ninh, xã hội; gây thất thoát
tài nguyên khoáng sản của quốc gia gây hậu quả khá nghiêm trọng về môi trường
mà không được xử lý như: thiếc sa khoáng (Quỷ Hợp - Nghệ An), vùng sa khoáng
(Cao Bằng), vùng sa khoáng Thần Sa - Khắc Kiệm (Thái Nguyên), crômit sa khoảng
Cổ Định (Thanh Hóa), vùng sa khoáng, vùng gốc (Quảng Nam), vàng gốc (Lào
Cai), vùng sa khoảng (Lai Châu), than (Hải Dương, Quảng Ninh ) v.v...
- Công tác thanh tra, kiểm tra

Công tác này thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, vẫn
còn một số tồn tại hạn chế đó là: lực lượng cán bộ làm công tác thanh tra ở Trung
ương cũng như địa phương còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu cả về số lượng, chất
lượng, phương tiện, thiết bị, kinh phí còn thiếu không đáp ứng yêu cầu công tác
thanh tra chuyên ngành. Do đó, kết luận thanh tra, kiểm tra thường chung chung,
chưa cụ thể. Nội dung thanh tra chủ yếu tập trung vào các vấn đề về pháp lý, hồ sơ
mà chưa quan tâm đến nội dung quản trị tài nguyên khoáng sản của các chủ thể khai
thác khoáng sản như: công tác quản lý tinh giỏi mở, công tắc lập bản đồ hiện trạng,
mặt cắt hiện trạng, công tác thống kê, kiểm kê trữ lượng khoáng sản đã khai thác;
tổn thất khoáng sản đã khai thác; việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm, tối đa khoáng sản
trong khai thác....

- Nguồn thu cho ngân sách Nhà nước trục tiếp từ hoạt động khoáng sản còn
hạn chế

Tài nguyên khoáng sản là một trong những nguồn lực để phát triển đất nước,
cần phải được khai thác, sử dụng hợp lý, có hiệu quả để phát huy sức mạnh của nó.
Tuy nhiên, nguồn thu của Nhà nước từ tài sản tài nguyên khoáng sản chưa nhiều,
ngoài các khoản thuế như thuế doanh thu, thuế thu nhập doanh nghiệp thì Nhà nước
chỉ có nguồn thu thông qua thuế tài nguyên.

Trong thực tế, khi có giấy phép khai thác khoáng sản, các doanh nghiệp, nhất
là Công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân...dễ dàng chuyển nhượng quyền khai thác
với nguồn thu đáng kể mà Nhà nước không thu được khoản phí hoặc thuế nào.
Trong khi đó, nguồn thu của Nhà nước thông qua việc cấp giấy phép khai thác
không đáng kể, chưa thực sự phát huy được giá trị thực của nguồn tài sản này. Điều
này gây khó khăn cho việc tăng thu ngân sách Nhà nước từ hoạt động khai thác
khoáng sản nhằm điều tiết lợi ích trở lại cho người chủ thực sự của tài sản này là
người dân.

Mặt khác, các Doanh nghiệp đứng ra khai thác khoáng sản và nộp ngân sách
nhà nước như thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường, tiền cấp quyền khai thác
khoáng sản, Tuy nhiên, hiện nay các nguồn thu ngân sách từ các khoản này chủ yếu
là do doanh nghiệp tự khai báo sản lượng, trữ lượng mà nhà nước chưa có cơ chế để
kiểm soát được việc kê khai nảy. Nguồn thu từ khoáng sản chưa kiểm soát được dẫn
đến thất thu

3. Những bất cập trong quản lý nhà nước về TNKS và địa chất
* Về thể chế, chính sách

- Một số văn bản quy phạm pháp luật về khoáng sản do yêu cầu về tiến độ
soạn thảo đã bỏ qua bước khảo sát thực tế đã làm giảm tính thực tiễn của những văn
bản quy phạm pháp luật này, gây khó khăn khi thi hành.

- Do trải qua nhiều giai đoạn, chuyển qua nhiều bộ quản lý nên hệ thống văn
bản pháp luật về khoáng sản hiện hành bộc lộ nhiều tồn tại. Hoạt động khoáng sản
của các tổ chức, cá nhân còn bị điều chỉnh bởi một số văn bản pháp luật khác như:
Bảo vệ môi trường, Đất đai, Tài nguyên nước, Tài nguyên rừng, v.v... Trong khi các
văn bản luật nêu trên đều đã được sửa đổi để ban hảnh mới hoặc đã được sửa đổi, bổ
sung thì một số quy định của pháp luật về khoáng sản chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung
cho phù hợp gây khó khăn cho công tác quản lý, nhất là tại các địa phương.

- Xuất phát từ thực tiễn hoạt động khai thác khoáng sản (chủ yếu là cát, sỏi,
sét gạch ngói, đá chẻ v.v...) theo hình thức thủ công, nhỏ lẻ vì mục đích mưu sinh
của hộ gia đình, cá nhân diễn ra khá phổ biến, không thể ngăn cấm nhưng không áp
dụng quy định thủ tục hành chính hiện hình, chưa có quy định quản lý hoạt động nảy
trong pháp luật về khoáng sản nên một số địa phương đã “linh hoạt” quy định phân
cấp cho Ủy ban nhân dân cấp huyện, cho Sở Tài nguyên và Môi trường như đã nêu
trên.

- Cơ chế bảo vệ tài nguyên khoáng sản chưa khai thác, ngăn chặn hoạt động
khai thác khoáng sản trái phép chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính như hiện nay
kém hiệu quả, chưa phù hợp với đặc điểm và thực trạng công tác quản lý nhà nước
về khoáng sản. Do đó, hoạt động khai thác khoáng sản trái phép chỉ được ngăn chặn
mang tính tức thời, không giải quyết triệt để, nguy cơ tái diễn cao như đã xảy ra
trong thời gian qua. Trên thực tế, các địa phương vẫn chưa nghiên cứu, đề xuất được
cơ chế, chính sách, giải pháp bảo vệ tài nguyên khoáng sản hữu hiệu theo hướng gắn
trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp huyện, xã và quyền lợi của người dân địa
phương nơi có khoáng sản.
* Về công tác lập, phê duyệt, triển khai quy hoạch khoáng sản, khoanh định
và phê duyệt khu vực cấm, tạm thời cấm hoạt động khoáng sản

- Hầu hết các quy hoạch (trừ quy hoạch khoáng sản làm nguyên liệu xi măng)
chỉ nêu tên mở, khu vực mỏ hoặc địa danh có mỏ đưa vào quy hoạch mà không có
tọa độ, diện tích cụ thể, điều này gây khó khăn khi xem xét, cấp giấy phép hoạt động
khoáng sản, cũng như xác định các khu vực nằm ngoài quy hoạch của Trung ương
(để xác định thẩm quyền cấp phép của UBND cấp tỉnh).

- Một số quy hoạch ngay thời điểm phê duyệt đã không cập nhật các thông tin
mới nhất về các dự án thăm dò, khai thác đã và đang triển khai (không có phương án
xử lý đối với các dự án đang triển khai trước thời điểm phê duyệt quy hoạch); việc
xác định sản lượng quặng tính theo từng giai đoạn nêu trong quy hoạch không có
giai đoạn “quá độ” chuyển tiếp (titan), chưa phù hợp với thực tế hoạt động khai thác
của các doanh nghiệp (quy hoạch titan, chì - kẽm v.v.. ). Một số quy hoạch chưa có
sự thống nhất, đồng bộ về tiến độ thực hiện dự án giữa giai đoạn thăm dò và khai
thác (nêu trong quy hoạch dự án sẽ khai thác giai đoạn 2008 - 2015 nhưng giai đoạn
trước đó không có trong danh mục thăm dò, hoặc ngược lại như quặng sắt, đá ốp lát
v,v...). Dẫn đến tình trạng, ngay sau khi phê duyệt đã có nhu cầu điều chỉnh quy
hoạch.

- Phần lớn khoáng sản có tính đa công dụng, vừa sử dụng làm vật liệu xây
dựng, vừa sử dụng được để làm khoáng chất công nghiệp và các lĩnh vực khác cùng
tồn tại trong một mỏ khoáng sản (đá hoa trắng. caolin – fensat, đá vôi, điatomit,
bentonit v.v...). Nhưng nội dung quy hoạch thăm dò, khai thác một mỏ khoáng sản
lại được thể hiện trong 02 Quy hoạch nên khó có sự đồng bộ và khó khăn khi thực
hiện quy hoạch sau khi phê duyệt

- Quy hoạch các khoáng sản nêu trên sau khi được Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng Bộ Công Thương phê duyệt, các địa phương cũng lập và phê duyệt đối với
các khu vực ngoài quy hoạch Trung ương. Tuy nhiên, phần lớn trước khi phê duyệt
Quy hoạch không có ý kiến của Bộ quản lý chuyên ngành. Do đó, nhiều quy hoạch
địa phương đã duyệt có bất cập (công suất khai thác, chế biến như titan, quặng sắt,
magan, chì - kẽm... lớn hơn nhiều so với quy hoạch của Trung ương) như Cao Bằng,
Bắc Kạn v.v...
- Sau khi quy hoạch khoáng sản của Trung ương phê duyệt, việc công bố
công khai nội dung quy hoạch cũng như hướng dẫn thực hiện quy hoạch gần như
chưa thực hiện. Dẫn tới tình trạng mỗi địa phương hiểu theo một cách khác nhau vì
thực hiện cũng khác nhau, không đúng nội dung quy hoạch.

- Do phải chờ kết quả rà soát 3 loại rừng, khoanh định diện tích khu vực cấm,
tạm cấm về an ninh - quốc phòng nên công tác khoanh định, phê duyệt khu vực cấm,
tạm cấm hoạt động khoáng sản tại nhiều địa phương còn chậm. Dễ dẫn tới việc sau
khi cấp giấy phép hoạt động khoáng sản thì khu vực cấp phép lại thuộc diện tích khu
vực cấm, tạm cấm hoạt động khoáng sản;

* Về bộ máy, cán bộ làm công tác quản lý

- Trước năm 1996, khi hoạt động khoáng sản chưa sôi động, hoạt động khai
thác khoáng sản trái phép còn ít, công tác quản lý nhà nước và khoáng sản chưa
phức tạp; Bộ Công nghiệp nặng có Cục Quản lý tài nguyên khoáng sản Nhà nước và
02 Chi cục khu vực thuộc Cục thực hiện nhiệm vụ quản lý chuyên ngành về khai
thác khoáng sản. Hiện nay, hoạt động khoáng sản sôi động với số lượng doanh
nghiệp gấp hàng chục lần so với năm 1996, hoạt động khai thác khoáng sản trái
phép ngày một tinh vi và phức tạp, phạm vi quản lý nhà nước về khoáng sản rộng
(gồm cả hoạt động khảo sát, thăm dò, khai thác, chế biến); yêu cầu công tác quản lý
nhà nước về khoáng sản ngày càng cao nhưng lực lượng làm công tác quản lý nhà
nước ở Trung ương còn thiếu về số lượng, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác
quản lý:

- Lực lượng cán bộ, công chức thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường trực tiếp
là công tác quản lý nhà nước về khoáng sản của các tỉnh, thành phố còn thiếu về số
lượng, yếu về chất lượng. Theo số liệu thống kê của năm 2009 (số liệu tử 40/63 tỉnh,
thành phố) chỉ có khoảng 30% cán bộ đang làm công tác quản lý Nhà nước về
khoáng sản có chuyên ngành về địa chất - mỏ. Cán bộ tại phòng Tài nguyên và Môi
trường cấp quận/huyện còn thiếu về số lượng, hầu hết làm công tác kiêm nhiệm, gần
như không có chuyên môn về địa chất - mỏ. Thực trạng trên đã làm giảm hiệu quả
của công tác quản lý nhà nước về khoáng sản tại địa phương và là một trong những
nguyên nhân cơ bản dẫn tới công tác quản lý nhà nước về khoáng sản tại các địa
phương còn nhiều yếu kém, bất cập nhất là trong thẩm định hồ sơ cấp giấy phép
hoạt động khoáng sản.
* Về hệ thống cơ quan thanh tra chuyên ngành khoáng sản

Cho đến nay, mô hình tổ chức thanh tra chuyên ngành khoáng sản chưa có
một hệ thống thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Lực lượng thanh tra chuyên
ngành khoáng sản hiện còn quá mỏng, chưa đáp ứng yêu cầu về chuyên môn cũng
như nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành, nhất là chuyên ngành khai thác khoáng sản,
chức danh thanh tra viên chuyên ngành khoáng sản chưa được xây dựng để bổ
nhiệm đã làm giảm hiệu lực, hiệu quả của công tắc nảy.

Do hạn chế về lực lượng, thiết bị, kinh phí cũng như đặc thù của quản lý
khoáng sản với địa bàn quản lý rộng, phần lớn các mỏ nằm ở vùng sâu, vùng xa, hạ
tầng giao thông thấp kém nên công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động
khoáng sản đối với các doanh nghiệp khai thác khoáng sản của các địa phương chưa
được tiến hành thường xuyên; các biện pháp xử lý, chế tài chưa đủ mạnh để buộc
doanh nghiệp hoạt động khoáng sản phải thực hiện đúng đề án, thiết kế khai thác
mỏ; thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên
khoáng sản.

* Nguyên nhân về phía các doanh nghiệp hoạt động khoáng sản

Mặc dù số lượng doanh nghiệp lên tới gần 2000 doanh nghiệp, nhưng ngoài
các doanh nghiệp lớn của Nhà nước như Tập đoàn Công nghiệp Than -Khoáng sản
Việt Nam, Tổng công ty Thép Việt Nam, Tổng công ty Hóa chất, Tổng công ty công
nghiệp Xi măng, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, một số doanh nghiệp
lớn tại một số địa phương thì phần lớn các tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản
trên địa bàn các tỉnh, thành phố có quy mô trung bình và nhỏ, năng lực tài chính,
kinh nghiệm còn hạn chế, chưa đầu tư thích đáng để lựa chọn công nghệ, thiết bị
hiện đại nhằm thu hồi triệt để, sử dụng hợp lý tài nguyên khoáng sản trong khai thác,
chế biến:

Nhiều doanh nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, nhất là trong khai thác
khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, khai thác khoáng sản kim loại theo
quy mô nhỏ có tâm lý đầu tư ngắn hạn, thu hồi vốn nhanh, chỉ quan tâm đến lợi
nhuận, không quan tâm nhiều đến thực hiện nghĩa vụ bảo vệ môi trường, trách
nhiệm đối với cộng đồng, xã hội trong khai thác, chế biến khoáng sản;
Lãnh đạo doanh nghiệp, Giám đốc điều hành mỏ chưa chú trọng nghiên cứu
các quy định của pháp luật về khoáng sản, ý thức tuân thủ pháp luật của một số
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân còn thấp nên tình trạng vi phạm pháp luật nhất là về
bảo vệ môi trường, tuân thủ quy trình, quy phạm kỹ thuật, an toàn lao động trong
khai thác, chế biến khoáng sản vẫn còn tồn tại.

* Về phân cấp quản lý, cấp giấy phép, bảo vệ tài nguyên khoáng sản và sự
phối hợp trong công tác quản lý nhà nước về khoáng sản

- Chủ trương tăng cường phân cấp cho các địa phương là chủ trương đúng
đắn. Thực tế thời gian qua việc phân cấp thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động
khoáng sản cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp, thúc đẩy phát triển sản xuất, cải cách thủ tục hành chính. Tuy nhiên, năng
lực của cơ quan tham mưu thực hiện nhiệm vụ phân cấp tại nhiều địa phương còn
hạn chế nên nhiều giấy phép, hồ sơ giấy phép đã cấp còn những tồn tại như đã nêu
trên.

- Hệ thống quản lý Nhà nước về khoáng sản được tổ chức vừa theo ngành từ
Trung ương xuống địa phương vừa theo quản lý hành chính các cấp. Việc phân cấp
này có thuận lợi cho việc thống nhất quản lý theo chức năng và ngành kinh tế nhưng
cũng gặp trở ngại nếu không có cơ chế điều hành phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ
ngành và địa phương liên quan. Một số trở ngại trong thực tế về vấn đề này gồm:

+Chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản vừa bị chồng chéo,
vừa bị gián đoạn do có nhiều Bộ ngảnh cùng tham gia công tác quản lý; một số quy
định có mâu thuẫn và không rõ ràng với các luật liên quan vì liên bộ; có những quy
định dẫn đến việc phê duyệt chồng chéo của các Bộ và ngành khác nhau. Ví dụ
trong quá trình xin giấy phép đầu tư (Luật đầu tư), giấy phép hoạt động khoáng sản
(Luật Khoáng sản), cấp phép xây dựng công trình (Luật Xây dựng), đánh giá tác
động môi trường (Luật Bảo vệ môi trưởng) làm phức tạp và lâu dài quy trình cấp
phép.

+ Việc phân cấp quản lý chưa khoa học, sự phối hợp quản lý, trao đổi thông
tin giữa các Bộ ngành chưa hiệu quả. Sự phối hợp rất hạn chế do sự phân công trách
nhiệm và phân công quyền hạn giữa các Bộ ngành không rõ ràng, chặt chẽ;
+ Các cấp quản lý hành chính lồng ghép nhiều chức năng nhiệm vụ vào một
phòng chuyên môn, gây nhiều hạn chế cho công tác quản lý. Ví dụ Phòng Tàỉ
nguyên và Môi trường thuộc UBND cấp huyện có chức năng tham mưu, giúp
UBND cấp huyện QLNN về tài nguyên và môi trường gồm đất đai, tài nguyên nước,
khoáng sản, môi trường, biến đổi khí hậu, biển và hải đảo. Do đó, mỗi cán bộ có thể
kiêm nhiệm một số lĩnh vực, dẫn đến tình trạng cán bộ quản lý không có chuyên
môn sâu về lĩnh vực được giao quản lý...

- Chưa có sự trao đổi thường xuyên về mặt chuyên môn, nghiệp vụ trong quá
trình thẩm định, cấp giấy phép hoạt động khoáng sản theo thẩm quyền giữa cơ quan
chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh với cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung
ương. Ngoài một số địa phương thực hiện khá thường xuyên việc gửi giấy phép
thăm dò, khai thác đã cấp cho Bộ Tài nguyên và Môi trường (kèm theo bản đổ khu
vực thăm dò, khai thác) như Lạng Sơn, Hòa Bình, Đồng Nai, Sơn La, Hải Phòng,
Đồng Tháp, An Giang v.v.. vẫn còn nhiều tỉnh, thành phố không thực hiện. Đã gây
khó khăn trong việc phối hợp kiểm tra, giám sát công tác cấp phép và không xử lý
kịp thời những trường hợp cấp phép chưa đúng quy định của pháp luật.

- Sự phối hợp giữa các Sở, ngành có liên quan tại một số địa phương với
chính quyền địa phương trong quản lý tài nguyên khoáng sản chưa khai thác còn
chưa hiệu quả; chính quyền địa phương, nhất là cấp xã chưa thực sự cương quyết xử
lý lực lượng khai thác khoáng sản trái phép. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp
luật về khoáng sản còn hạn chế, chưa sâu rộng, nhất là đối với nhân dân nơi có mỏ
khoáng sản,
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội số 44/2002/PL – UBTVQH10 về
việc xử lý vi phạm hành chính

[2]. Pháp lệnh số 04/2008/ PL – UBTVQH12 - Sửa đổi và bổ sung một số điều của
Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính 44/2002/PL – UBTVQH

[3]. Pháp lệnh số 15/2012/QH13 - Luật xử lý vi phạm hành chính s

[4]. Nghị Định Số: 33/2017/NĐ - CP: Về Xử Phạt Vi Phạm Hành Chính Trong Lĩnh
Vực Tài Nguyên Nước Và Khoáng Sản

[5]. Nghị Định Số: 33/2017/NĐ - CP: Về Xử Phạt Vi Phạm Hành Chính Trong Lĩnh
Vực Tài Nguyên Nước Và Khoáng Sản

[6]. Luật Thanh Tra số: 56/2010/QH12

You might also like