Professional Documents
Culture Documents
Phật Giáo Phân hóa
Phật Giáo Phân hóa
Trần Thanh
Viết để tưởng nhớ đến Cố Đại Đức Thích Quảng Tấn,
Cựu Tuyên úy Sư Đoàn 18/BB, trụ trì chùa Long Thọ,
Long Khánh, đã bỏ mình trong trại tù lao cải của cộng
sản sau 1975.
TRẦN THANH
Sự phân hóa hay chia rẽ trong nội bộ Phật Giáo Việt
Nam ở hải ngọai không làm ai ngạc nhiên, bởi lẽ sau
thời gian tập hợp, nhờ chung cùng một thân phận lưu
đầy, đã không tạo được những bước đi xây dựng Đạo
pháp. Mỗi viện chủ, mỗi chùa, đều có sinh hoạt riêng
để kết hợp quần chúng Phật tử, xây dựng đạo tràng...
Từ đó có khi nội dung hành đạo và nghi lễ cũng thay
đổi cho hợp với hoàn cảnh địa phương.
Kể từ 1964, đạo Phật ở miền nam Việt Nam được xem
như một tôn giáo, với danh xưng Giáo Hội Việt Nam
Thống Nhất. Hai năm sau "THỐNG NHẤT" chỉ còn
là biểu tượng, khi xẩy ra biến cố ly khai ở miền
Trung. Từ đó Giáo Hội Việt Nam thống nhất phân ra
hai phái: phái Ấn Quang do các tu sĩ gốc miền Trung
hoặc miền Nam lãnh đạo, còn phái Việt Nam Quốc
Tự, Vĩnh Nghiêm, do tu sĩ gốc Bắc làm Viện chủ.
Sau 30-4-1975 Giáo hội Ấn Quang hay Giáo hội Việt
Nam Thống Nhất bị vùi dập dưới cơn lốc của bạo lực
chuyên chính vô sản. Tu sĩ bị lưu đầy, cơ sở giáo dục,
chùa khắp 45 tỉnh thành miền Nam, kể cả đất đai đều
bị cướp đoạt hoặc bị trưng dụng. Kế đến 1981, Giáo
hội Phật giáo Ấn Quang trở thành giáo hội thầm lặng
cho tập thể Phật tử lưu vong từ bên này đại dương
vọng về cố quốc
Tưởng cũng nên nhắc lại: Ở trong nước 1964-1975 vì
suy nghĩ nhập nhằng giữa Đạo và Đời, một số Thầy có
tham vọng chính trị: Như đòi triệu tập Quốc hội lập
hiến với thành phần đa số là Phật giáo đồ, tham gia
thành phần thứ ba. Việc làm này vô tình hay cố ý đã
làm lợi cho Cộng sản chiếm đoạt miền Nam.
Từ năm 1975 đến nay, thế quyền đã khống chế và
biến các tôn giáo trong đó có Phật giáo thành tổ chức
ngoại vi phục vụ cho đảng. Do đó sinh hoạt thế tục
tràn ngập chốn thiền môn, phần lớn do bàn tay của
bạo quyền cộng sản, song phần khác cũng do sự suy
thoái về mặt đạo hạnh của một số tu sĩ. Sự suy thoái
về mặt đạo hạnh nơi giới tu sĩ thời nào cũng có. Hơn
hai thế kỷ trước đây, Vua Quang Trung vì muốn
thiền môn là nơi thanh tịnh an lạc và từ nơi chốn này
đạo hạnh lan tỏa ra cho đời được thanh cao hơn,
lương hảo hơn, nên Ngài đã ra lệnh dẹp bỏ những
ngôi chùa nhỏ ở làng xã, xây dựng những ngôi chùa
lớn ở phủ hay huyện và chọn những tu sĩ đầy đủ đạo
đức và học thức trông coi; còn những ai không xứng
đáng hai mặt kể trên thì bắt hoàn tục, vì Ngài cho
rằng những người không phải chân tu, thường lợi
dụng cửa chùa để hành nghề mê tín dị đoan để mưu
sinh.
Suốt thế kỷ 19, dưới Triều đại Nhà Nguyễn, Nho học
độc tôn về mặt chính quyền, từ triều đình đến phủ
huyện, tuy nhiên trong quá trình truyền thừa và giao
thoa với hai dòng tư tưởng Nho-Lão, tinh hoa của
Phật học đã liên tục hòa nhập trong dòng chảy văn
học. Suối nguồn trong như pha lê, sáng như tinh tú đó
đã đi vào mạch sống của dân tộc, qua các tác phẩm
văn học như bài văn tế Thập Loại Chúng Sinh, văn tế
Tướng Sĩ Trận Vong, thi phẩm Truyện Kiều, tuồng
hát bội thì có Trương Ngáo hay Kẻ Đi Đòi Nợ Phật
v...v...
Từ sau hòa ước Patenôtre 1884, khi Pháp hoàn thành
nền đô hộ Việt Nam, cùng với vận nước nổi trôi, Phật
giáo cũng bị cuốn theo bước thăng trầm của lịch sử
dân tộc. Chữ nho không còn được trọng dụng như
trước, chữ quốc ngữ chưa truyền bá sâu rộng cho đại
chúng. Có thể nói trong giai đoạn này, thiền môn
cũng lắm kẻ như Lỗ trí Thâm trong Thủy Hử, Từ Hải
trong Ngu sơ Tân chí. Bình thường hơn nhiều kẻ
dùng lời kinh tiếng kệ tán thán nơi đình đám, ma
chay, làm kế sinh nhai.
Rồi từ 1931, một thời kỳ chấn hưng Phật giáo bắt
đầu, do các bậc cao tăng cũng như những cư sĩ uyên
thâm cả hai mặt nho học và tân học khởi xướng: Năm
1931 ở Saigon có Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học,
năm 1932 ở Huế có Hội An Nam Nghiên Cứu Phật
Học, năm 1934 ở Hà Nội có Hội Phật Giáo Bắc kỳ.
Ngày 6-5-1951 Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam ra đời ở
Huế. Mặc dù trải qua hai cuộc chiến tranh, phong
trào chấn hưng Phật giáo vẫn tiến triển như đào tạo
tăng tài, đưa các tăng sĩ trẻ đi du học ở Ấn Độ, Nhật,
Châu Âu. Trong thời kỳ dấn thân này phải kể đến
việc tham gia các công tác xã hội, giáo dục, tổ chức
gia đình Phật tử, Thanh niên Phật tử. Năm 1966 ở
miền Nam tuy có sự phân hóa ở thượng tầng, nhưng
các sinh hoạt Phật sự vẫn phát triển đều đặn về các
mặt.
Sau 30-4-1975, các tôn giáo ở Việt Nam gặp nạn đại
hồng thủy cộng sản, vì chủ nghĩa này vốn khắc tinh
với tín điều của tôn giáo:
• "...Tôn giáo một thế giới quan giả dối (1)...
• ....tôn gíáo, một sự phản ảnh không đúng hiện
thực trong ý thức con người (2)
• ...Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân (3)
• ...Đấu tranh triệt để với tôn giáo là nhiệm vụ của
giai cấp vô sản (4)...."
Cũng theo tài liệu lưu hành nội bộ ngành công an
nhân dân, do Viện Khoa Học Công An Hà Nội, thì
Phật giáo Miền Nam Việt Nam sau 30-4-1975 còn tám
tổ chức và hệ phái đang hoạt động với 10,000 tăng ni,
gần 5000 chùa và khoảng 2,5 triệu tín đồ (đã quy y).
Nhiều Sư được trí thức hóa, có trình độ cao về giáo lý
và một số người có tiếng tăm trong các tổ chức quốc
tế (5).
Từ đó sách lược của Hà nội đối với Phật giáo là xóa
bỏ các tổ chức Phật giáo nói trên, dần dần đưa Phật
giáo Miền Nam thống nhất với Phật giáo Miền Bắc,
thành lập từ 1956 và trở thành thành-viên của Mặt
trận Tổ quốc, một tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản.
Nghị quyết số 40-NQ/TW 1-10-1981 của ban Chấp
hành trung ương đảng cộng sản có đoạn ghi: "...
thành lập một tổ chức chung cho cả nước theo hướng
đi với dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở đó mà
xóa bỏ tổ chức Phật giáo Ấn quang".
Sau 7-11-1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam còn gọi
là Giáo hội Phật giáo quốc doanh ra đời,
Việt Nam Quốc Tự hoàn cảnh tăng ni trong nước
được kể như sau: Nhiều tăng sĩ bị tù đầy do có liên hệ
với chế độ cũ (tuyên úy Phật giáo) hoặc ra mặt chống
đối cộng sản.. Một số phải hoàn tục với nhiều lý do
khác nhau. Một số vượt biên ra nước ngoài. Số còn lại
tiếp tục bám chùa, gồm có sư ni quốc doanh, nhiệm
vụ của họ là "bảo vệ chính trị", còn tu hành là việc
phụ. Thành phần khác vì có duyên nghiệp với Phật
Pháp phải nhẫn nhục mà vâng lời chính quyền, để
yên tâm tu hành. Một thành phần nữa là ngả theo
thời thế, vì thói thường người ta phù thịnh chứ ai phù
suy bao giờ. Họ trở nên giàu có như Thi sĩ Trần tế
Xương đã mỉa mai:
"Công đức tu hành sư có lọng"
Từ thập niên 1990 trở đi, đời sống xã hội trở nên khá
hơn. Một phần nhờ sự giúp đở từ thân nhân ở hải
ngoại, phần khác việc làm ăn phát đạt hơn nhờ kinh
tế thị trường, dù là kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Người ta đi chùa nhiều hơn, do đó sự
đóng góp của khách thập phương cũng dồi dào hơn.
Nhiều chùa được trùng tu khang trang và tráng lệ
hơn. Nhiều địa phương đông dân cư có những công
trình kiến trúc chùa mới. Nếu bề ngoài có sự khởi sắc
và hào nhoáng đó, thì bên trong toàn là "những điều
trông thấy mà đau đớn lòng" cho những ai còn quan
tâm đến Phật sự. Trước những chuyện trái khoáy đầy
màu sắc tục lụy xẩy ra hằng ngày nơi chốn thiền môn.
Nhiều người năn nỉ với Mặt trận Tổ quốc địa phương
rằng, nếu chúng tôi ai có ý đa đảng hay đa nguyên thì
có công an xử lý, ngoài ra xin có Thầy trụ trì có đức
hạnh, để chúng tôi nương tựa mà tu hành, những lời
van xin tương tự như thế như tiếng kêu giữa sa mạc.
Không như ngày trước, đạo hữu cung thỉnh được
tăng sĩ có đạo tâm về trụ trì chùa. Còn ngày nay, tăng
sĩ muốn về chùa nào trước hết phải được Mặt trận tổ
quốc "đề xuất" (đảng chấp thuận trước) rồi Tăng sự
Tỉnh bổ nhiệm. Suốt quá trình đó, tăng sĩ phải đóng
tiền. Số tiền nhiều ít tùy theo chùa ở thành phố hay
quận huyện. Thời gian ở chùa tăng sĩ lo chuyện kinh
doanh nơi cửa Phật là chính. Ngoài việc trích phần
trăm tiền cúng dường của bá tánh cho tăng sự các
cấp, tăng sĩ còn làm ăn riêng và cơ hội tới sẽ lập chùa
riêng, hoặc phòng khi cấp trên (Mặt trận Tổ quốc)
buộc phải tự nguyện từ chức... Cho nên người ta
không lạ lùng gì khi sư, ni, có cơ hội làm giàu rồi, có
nhà, có đất đai, kể cả có kẻ "nâng khăn sửa túi" nữa.
Nhân sự (đa phần là tăng ni) như vậy nên Đạo Phật
trong nước hiện giờ như một tôn giáo đa thần, đầy mê
tín. Giờ đây hoạt động các chùa chủ yếu là ma chay,
xin xăm, hái lộc. Sang những năm đầu thế kỷ 21, nhà
nước Xã hội chủ nghĩa đã gần như quốc doanh toàn
bộ chùa cũng như tăng ni từ tỉnh , thành phố đến
quận huyện.
Sinh hoạt của Phật giáo Việt Nam Thống Nhất - còn
gọi là Phật giáo Ấn Quang - bị thu hẹp và bị bao vây
nơi hai cơ sở Tu viện Nguyên Thiều ở Bình Định và
Thanh Minh Thiền viện ở quận Phú Nhuận Saigon.
Hai cơ sở này giống như hai ngọn đèn leo lét trước gió
bão.
Tại sao đảng và nhà nước lại đối xử nghiệt ngã với
Phật Giáo trong khi các tôn giáo khác như Giáo hội
Thiên chúa gíáo Roma có kế hoạch chiến lược truyền
đạo và phát triển Đạo một cách quy mô. Điều này có
thể giải thích. Khi hoàn thành việc cưỡng chiếm miền
Nam đối với giáo hội Thiên Chúa Giáo Roma, họ
cũng có đối sách tương tự như đối với Phật giáo
nhưng họ không thể đặt Giáo hội Thiên Chúa dưới sự
lãnh đạo của Mặt Trận Tổ Quốc (đảng Cộng sản)
được vì:
• Các Tu sĩ Đạo Thiên Chúa có một Giáo hội Hoàn
vũ vừa có thực lực về kinh tế vừa có sức mạnh về
tổ chức.
• Thất bại trong việc thành lập một giáo hội Công
giáo Quốc doanh ly khai với Tòa Thánh, như
Trung Quốc đã làm năm 1949 mặc dù họ có sẵn
những tu sĩ quốc doanh.
• Giáo hội Thiên Chúa giáo ở Việt nam tuân hành
chỉ thị của Tòa Thánh là không làm chính trị như
đòi đa nguyên đa đảng nên Tổ chức doàn kết Bắc
Nam do họ lập ra trở nên hữu danh vô thực.
Do đó, họ (chính quyền Hà Nội) dùng lý lẽ và phương
tiện của kẻ mạnh qua công tác đấu tranh, trấn áp, cô
lập nhân sự, cũng như cơ sở còn lại của Giáo hội Phật
giáo Ấn Quang trong nước, đồng thời mở cuộc tấn
công ra hải ngoại, vì Phật giáo Việt Nam xưa nay vẫn
được sự quan tâm của nhiều nước trên thế giới như
Anh, Mỹ, Pháp, Nhật (6) và của các tổ chức tôn giáo
quốc tế. Họ, (Chính quyền Hà Nội) tố cáo Phật tử ở
nước ngoài đang chống chính sách của đảng Cộng
sản, của nhà nước XHCN như tố cáo CSVN, nên họ
(cũng chính quyền Hà nội) đề nghị Ban Việt Kiều liên
lạc với các cộng đồng Phật giáo ở nước ngòai để tổ
chức, tập hợp lực lượng nhằm phân hóa cô lập bọn
"phản động" (7).
Trước những phong ba bão táp đó, Tăng sĩ cũng như
Phật giáo đồ phản ứng như thế nào? Sau một thời
gian ổn định được cuộc sống nơi quê hương thứ hai,
người Việt tị nạn dành thời gian cho cuộc sống tâm
linh. Các sinh hoạt tôn giáo bắt đầu khởi sắc trong đó
có Phật giáo như một Phật tử quá cố đã nói: "Chúng
ta đi mang theo quê hương" (8). Nơi miền đất hứa và
xã hội đa văn hóa, Văn phòng 2 Viện Hóa Đạo thuộc
Giáo hội Việt Nam Thống Nhất ra đời trong bối cảnh
Nhà Nước XHCN Việt Nam tiếp tục đối đầu với tổ
chức Phật giáo ở Miền Nam Việt Nam trước 1975,
như đối đầu với một thế lực đối kháng rất nguy hiểm.
Còn Phật tử ở hải ngoại vì cùng thân phận lưu đầy,
dựa vào nhau và kết hợp cùng xây dựng Đạo Pháp
nơi quê hương thứ hai thì mầm móng chia rẽ và phân
hóa bắt đầu ló dạng vì những biến cố cũng như hoàn
cảnh sau đây:
• Phong ba bão táp từ trong nước (Nghị quyết 36
nhuộm đỏ cộng đồng) xuất hiện nơi chân trời hải
ngoại.
• Hành đạo trong môi trường xã hội thực dụng,
tăng sĩ phải hành xử như thế tục, trong cách lôi
kéo tín đồ.
Từ đó mỗi Trụ Trì , mỗi Viện Chủ là một vị Tăng
Thống đối với ngôi Chùa hay Tu viện của mình.
Tương quan giữa các chùa trong hệ thống tổ chức
Văn phòng 2 Viện Hóa Đạo (Hải ngoại) là tương quan
tương kính và tự nguyện hơn là sự ràng buộc về giáo
luật. Cho nên sau khi có giáo chỉ số 9, Văn phòng 2
mới được thành lập (Đại Hội bất thường ở Port
Arthur, Texas ngày 10-11-2007), gồm những Tăng sĩ
theo giáo chỉ số 9. Một số Tăng sĩ trước đây có chức
vụ trong Văn Phòng 2 cũ vừa giải tán, chống giáo chỉ
số 9, họp nhau lại thành lập Cộng Đồng Phật Giáo
Việt Nam Hải ngoại. Một thành phần khác gồm Tăng
sĩ và tập thể Phật tử không thuộc hai nhóm vừa nêu...
Thành phần này chiếm đa số 80% (9). Thành phần
này là đại đa số Phật tử xuất gia hay tại gia, chỉ một
lòng theo Phật chứ không theo ai cả (10). Họ đến
chùa, ăn chay niệm Phật, cúng dường lễ bái làm bố
thí, làm việc thiện là để tu học, mong tìm đường cứu
khổ, an lạc và giải thoát cho mình. Đó mới là khối
theo Đạo Phật phi chính trị, khác xa với ý niệm "PHI
CHÍNH TRỊ" mà Cộng sản đang rỉ tai trong cộng
đồng.
Phần 2
Phân Hoá
Trần Thanh
Như chúng tôi đã nói, việc phân hóa này không làm ai
ngạc nhiên, vì sau 25 năm cố gắng tập hợp nhau dưới
danh nghĩa Văn Phòng 2 Viện Hóa Đạo, thì như đến
lúc này, lực bất tòng tâm, do sinh hoạt Phật sự ở hải
ngoại phải thích hợp trong bối cảnh đời sống trọng
thực dụng, nặng cá nhân chủ nghĩa. Cộng Đồng Phật
giáo mới thành lập, trong tương lai xa hoặc gần, cũng
biến đổi hay phân ly, vì ở hải ngoại này, Phật tử hay
bất cứ ai đều có quyền lập chùa, lập tu viện, triệu tập
tín đồ. Chỉ có một thế lực vô minh nào đó biến hàng
giáo phẩm của Cộng đồng thành công chức hay siêu
công chức (Ngành Tôn giáo) như ở trong nước, lúc đó
Cộng đồng của quí Ngài mới trường thọ được...
Nhưng đó là sự trường thọ dưới bạo lưc của "ba dòng
thác cách mạng". Các Ngài có khi nào nghĩ đến
không??!!!.
Trở lại ngày 12-1-2008, trong Đại hội bất thường tại
Chùa Bảo Quang, tình cờ chúng tôi nghe được vài
mẩu đối thoại: - Một Hòa Thượng đả kích một vài vị
Tăng sĩ tuân theo giáo chỉ số 9, như nêu ra vị đó
không có chứng từ hợp pháp về di trú "không có lấy
tấm thẻ xanh". Việc này có liên quan gì đến tiền đồ
của Đạo Pháp đâu. Hèn gì chúng tôi thấy một số vị
trong Cộng Đồng mới (Chùa Phổ Đà thì phải) lo đi
học luyện thi quốc tịch! Tiếp đến một Chùa ở Santa
Ana tổ chức lễ mừng Phật Đản nhằm ngày Rằm
tháng tư âm lịch, đúng vào 19-5, ngày sinh của ông
Hồ. Đó là sự vô tình trùng hợp hay cố ý. Điều đáng
lưu ý ở đây là có bài giảng của một vị Sư vào chiều
hôm đó. Bài giảng nêu lên hai thiên tai, một ở Miến
Điện, một ở Tứ Xuyên Trung Quốc và so sánh biến cố
sau giáo chỉ số 9 với hai tai họa này. Vị Tăng sĩ đó cho
rằng hệ quả của giáo chỉ số 9 là biến động, là phân rã,
là pháp nạn. Chúng tôi thì cho rằng, pháp nạn đang
xẩy ra trong nước, từ 1975 đến nay. Còn sự phân hóa
hay phân ly ở hải ngoại đã xẩy ra và đang xẩy ra cho
Đạo Phật thì không nên coi đó là Pháp Nạn.
Theo thống kê mới đây, ở Hoa Kỳ hiện có 250 tôn
gíáo và giáo phái, nếu nay thêm vài ba giáo phái hay
vài ba tổ chức tôn gíáo nữa cũng không lấy gì trầm
trọng. Kinh Phật có dạy Vô Lượng Pháp Môn Tu.
Một cư sĩ đã nói: -Với người Phật tử nói chung, thì tổ
chức tôn giáo nào cũng tốt, miễn là duy trì được tùy
duyên bất biến vạ xứng hợp với các tiêu chí của Tam
Pháp Ấn cơ bản trong Đạo Phật (1). Đạo Phật có nói
đến Bờ Giác. Bờ Giác là đại dương mênh mông vô
tận, những môn phái, những pháp môn như những
dòng chảy trôi về biển cả, nếu có dòng chảy ô nhiễm
thì biển cả bao la hóa giải được cả .
Tôi nhớ lại cuối năm 2005 có trận sóng thần gây tai
ương cho đất nước In donesia, một tu sĩ ở Canada
bàn với Phật tử bán bớt một ngôi chùa để góp phần
cứu trợ nạn nhân thiên tai. Vị sư được sự hổ trợ của
Phật tử đã làm việc nghĩa nơi đã cưu mang mình buổi
đầu. Vị Sư này không thuộc môn phái hay văn phòng
nào cả. Cũng nói chuyện cứu trợ, khi cầu Cần Thơ
vừa mới sập, một vài vị Thầy lo chuyện cứu trợ trước
cả trong nước. Không biết quyên góp được bao nhiêu
mà qua TV chúng tôi thấy một vị Thầy (Viện Chủ
một ngôi Chùa to lớn tọa lạc ở đường Westminster,
Santa Ana) cùng các bà Phật tử trong nước, ngao du
trên sông rạch miền sông Hậu, như đi khảo sát văn
minh miệt vườn, thay vì đến thăm hỏi gia đình nạn
nhân. Chúng tôi nói ra đây trên quan điểm: Trọng
Phật phải Kính Tăng, nhưng không ảo tưởng nhìn
Phật qua Tăng; luôn luôn khẳng định cái áo không
làm nên thầy tu và với niềm tin "Chùa rách Phật
vàng" đời nào cũng có.
Cho đến hôm nay, các nơi hành lễ thuộc Văn phòng 2
vừa mới thành lập, hay thuộc Cộng Đồng Phật Giáo
Việt Nam (chống giáo chỉ số 9) đều dùng biểu trưng
cờ vàng ba sọc đỏ, nhận dưới sự lãnh đạo tinh thần
của hai Đại Lão Hòa Thượng Huyền Quang và
Quảng Độ. Có thể đó là hành động phát xuất từ trái
tim hướng về quốc nội, nơi các Ngài với tâm Bồ Đề
kiên cố đang thi gan với bạo quyền, hoặc đó là một
bước lùi tạm thời để sau Đại Hội Khoáng Đại của
Cộng Đồng phật Giáo Việt Nam vào cuối tháng 9 năm
2008, sẽ tiến hai bước. Rồi thời gian trôi qua xa dần
ngả rẽ phân ly, lúc chạnh lòng nghĩ đến các tiền bối
hay đồng môn đã bỏ mình nơi chốn lao cải, hoặc bản
thân các Ngài đã từng mất chùa phiêu bạt khắp nẻo
đường đất nước, trôi giạt nơi biển Đông, trên hoang
đảo, tìm cái sống trong cái chết. Đến đây quí Ngài sẽ
trả lời vì chế độ mới chứ gì - biết rồi khổ lắm nói mãi.
Chuyện đã qua rồi vì lòng từ bi mà quên đi. Người
Cộng sản bây giờ tin Phật lắm.
Khi các Ngài tự hỏi vì sao chúng ta có mặt nơi này,
thì phải nói đến trách nhiệm của Chùa Từ Đàm miền
Vạn Hạnh, nhất là Ban Đại diện Phật giáo Thừa
Thiên Huế, trong việc Miền Nam Việt Nam suy thoái
và bại vong trước sự xâm lăng của Cộng sản Bắc Việt.
Miền Nam trước 1975, trong tình trạng chiến tranh
vẫn có tự do, so với tự do có trên văn tự của nước
CHXH Việt Nam bây giờ hơn vạn lần. Có tự do như
thế mới có sự ly khai miền Trung 1966, mới có tình
trạng quốc gia trong một quốc gia... Nhớ lại mùa hè
2004, Tổng Thống G . W . Bush đã nói: những người
miền Nam Việt Nam trước đây (trước 1975) đã có tự
do rồi, để mất đi, bây giờ phải sống lưu vong thì nên
trách mình chứ đừng than thở nữa. Lời này làm tủi
thân những người di dân gốc Việt nhưng đó là sự
thật. Sự thật phũ phàng này là do sự tính toán đầy
tham vọng và sai lầm của một thợi kỳ "Phật giáo dấn
thân". Vì các Ngài cho rằng cơ hội đã đến để các Ngài
nối tiếp sự nghiệp hưng quốc của Thiền Sư Vạn Hạnh
hơn ngàn năm trước. Khi được sự hứa hẹn của Đại sứ
Henry Cabot Lodge và các báo Hoa kỳ ca tụng Người
làm rung chuyển nước Mỹ, các Ngài trở nên kiêu
căng coi thường sự xâm nhập của Cộng sản (12). Thất
bại trong việc lật đổ hai Tướng Thiệu Kỳ, các Ngài lại
đưa bàn thờ Phật xuống đường, rút vào chùa tự cô
lập, hoặc tuyên bố tuyệt thực vô thời hạn bỏ rơi quần
chúng Phật tử, còn quân nhân và công chức mà số
phận bi đát không kém, như rắn không đầu: một đơn
vị thuộc Sư Đoàn 1 ly khai đã để mặc quân cộng sản
Bắc Việt phục kích một Tiểu đoàn Thủy quân Lục
Chiến mà không can thiệp, dù trong khả năng có thể
tiếp cứu (13). Rồi các Ngài tiếp tục làm công việc hòa
giải và 10 ngày cuối cùng, các Ngài cũng không đủ tài
trí để đối phó trước sự trí trá của Cộng sản đang thừa
thắng xông lên. Cái Bi Trí Dũng đã không ngăn được
Sĩ quan Bắc Việt đã hành hạ Tướng Dương văn Minh
như Hạng Võ đã giết Tần Tử Anh (Vua cuối cùng của
Nhà Tần) đang quỳ gối dưới ngựa xin hàng .
Đành rằng "sự quá vãn nhi bất thuyết", chuyện đã
qua không nên nhắc lại, song trong Cộng Đồng Phật
Giáo Việt Nam mới thành lập, có thành phần thân
thuộc và không nhận việc làm có hại cho chế độ miền
Nam của giới Tăng sĩ Miền Trung 1966. Nếu năm đó
các Ngài tự mãn vì báo chí Hoa kỳ cho các Ngài là
người làm rung động nước Mỹ, thì giờ đây các Ngài
là những Tăng sĩ trí thức tân học, được Phật tử ca
tụng là Hoa Ưu Đàm, từ đó có ngài tự mãn tự cho
mình là Phật Sống, hoặc gần thành Phật Sống, để
truyền bá Tôn giáo của thiên niên kỷ. Ngày xưa Pháp
Sư Huyền Trang suýt vong mạng khi yêu hóa thân
thành một ngôi chùa tráng lệ để mời gọi Ngài vào
bẫy. Ngày nay đảng Cộng sản Việt Nam vốn con cháu
của họ Hồ (cáo), bây giờ hóa thành họ Hứa (hứa hẹn
rất nhiều để lừa những ai nhẹ dạ), nên họ có nhiều
chiêu bẫy độc đáo và tinh vi hơn yêu tinh Hồng Hài
Nhi trong Tây Du Ký nhiều lần. Cụ thể họ xây dựng
một ngôi chùa đồ sộ nguy nga trong có thờ ông Hồ
như một Bồ Tát, kinh phí có thể lên đến hàng trăm
triệu Mỹ kim, họ lại còn xin tổ chức Vesak một lần
nữa vào 2009. Công trình trên và đại hội như hứa hẹn
đang mời gọi các Ngài về tham quan và du lịch đó.
Nhiều người đi Việt Nam về kể rằng, đất nước biến
đổi nhiều, người ta nói từ thành thị đến nông thôn,
đâu đâu cũng có chùa hoành tráng và người đi chùa
như trẩy hội, nhưng sao lại thấy có một nhà sư trong
nước thuộc thành hội Phật giáo thành phố mang tên
Hồ đến Hoa Kỳ xin Phật tử đóng góp để xây dựng
một Niệm Phật Đường trong một nhà tù ở Bến Tre.
Rồi hàng ngày có người từ trong nước mang sổ sách
đến chùa trình ra công trình xây chùa đang dang dở
trong nước, để xin đóng góp. Thiệt là tiền chùa! Thì
ra sự đua tranh để chùa đẹp bất cứ đâu đều do sự
đóng góp của bá tánh trong và ngoài nước, mà người
ta xài quá lãng phí, vì người cộng sản xem sự đóng
góp của xã hội như nồi cơm Thạch Sanh, tuy nhỏ
nhưng vô tận! Nói như thế không có nghĩa dụng ý quy
chụp Tu sĩ và Phật tử với cộng sản, vì với người Phật
tử thì môn phái nào trong Đạo Phật đều tốt cho ai có
duyên tu học, miễn sao môn phái đó bằng hoằng pháp
để Đạo Phật Việt Nam tiếp tục truyền thừa trong
dòng chảy chung của Văn hóa Đồng Nguyên Phật Lão
Nho, trong truyền thống tâm linh của dân tộc.
Truyền thống đó khi nhập thế thì các Ngài hành xử
như Kẻ Sĩ xây dựng Đất Nước buổi ban đầu (thế kỷ
thứ 10), cùng lúc với xuất thế giải thoát cho chúng
sinh qua lời giảng Kinh Pháp. Do hoàn cảnh lịch sử
và vị trí địa lý Đạo Pháp giao thoa với nhiều luồng tư
tưởng khác nhau, giao hòa nhưng vẫn giữ màu sắc và
bóng dáng riêng của mình. Màu sắc đó, bóng dáng đó
truyền chảy trong huyết quản của thế hệ này sang thế
hệ khác. Chẳng hạn nhìn theo định nghĩa Tôn Giáo
của Văn Minh Tây phương thì tác giả, tác phẩm
Dương Từ Hà Mậu, cụ Nguyễn Đình Chiểu là tín đồ
gương mẫu của Đạo Nho. Song khi hướng về chiều
sâu tâm linh của tác giả trong một tác phẩm khác:
Lục Vân Tiên thì bóng dáng Văn Hóa Phật Giáo lại
hiện ra. Lời rằng: Chùa rách Phật vàng Ai hay trong
quán ẩn tàng kinh luân....
Giờ đây nhìn lại Đạo Phật trong nước sau 1975 trong
khí thế đua tranh với các Tôn giáo khác, thấy có sự
phục hưng, nhưng đó chỉ là phục hưng hình thức.
Chứ về nội dung dòng chảy Văn Hóa Phật Giáo đã tắt
nghẽn, vì những vị lãnh đạo Phật Giáo trong nước bị
pháp lệnh về Tôn giáo biến các vị thành công chức
hay siêu công chức để phục vụ chế độ. Trong hoàn
cảnh Đạo Pháp ở nước nhà như thế, ở hải ngọai này,
các Ngài có cơ may sống trong một xã hội đa nguyên,
đa văn hóa. Các Ngài với tài năng và đạo hạnh sẽ nối
tiếp sứ mạng của giới Tăng sĩ cũng như cư sĩ trong
nước hồi 1931-1934 với điều kiện lưu ý đến ảnh
hưởng thế tục từ trong nước tràn lan đến, dưới danh
nghĩa "ĐI HOẰNG PHÁP Ở HẢI NGOẠI". Từ thế
tục, thế quyền khống chế chùa mấy hồi. Khi các Ngài
nói "phi chính trị" với môn phái nào đó hoặc với tổ
chức, đoàn thể, kể cả cộng sản, xin các Ngài nhớ lại
lời Mai chí Thọ năm 1981 nói với Đại Lão Hòa
Thượng Thích Trí Thủ: "Theo hay chống chứ không
có con đường thứ ba". Đó là trong nước, chứ ở hải
ngoại này Phật tử có nhiều lựa chọn. Chẳng hạn một
số Phật tử gốc Việt ở Đông Âu, sau khi xây chùa xong
mời một vị sư gốc Đài Loan về trụ trì . Ở Hoa kỳ
nhiều Phật tử cũng tìm đến các thiền viện thuộc các
sắc tộc khác....
Để kết thúc tôi xin nêu ra vài câu sau:
- Hổ ly sơn hổ bại
- Tăng ly chúng Tăng tàn (14)
Câu 1 ngoài nghĩa đen còn có nghĩa khi các Ngài từ
chối gốc gác tị nạn của mình, tức là các Ngài dần dần
sa vào bẫy của yêu quỷ Hồng Hài Nhi đang giăng sẵn.
Hoặc một Thượng Tọa trụ trì một ngôi chùa ở Hoa
Kỳ đã tự thán:
• Tu hành không biết đọa hay siêu
• Đêm ngủ nằm mơ chỉ thấy biêu (Bills)
• Tiền điện tiền ga e nghẹt thở
• Thuế nhà, thuế đất, sợ tiêu diêu...
Trong hoàn cảnh tu học ở hải ngoại như thế, nếu các
Ngài vẫn nghĩ mình hóa giải được ma quỷ, tôi e
không thành công, ngọại trừ gia nhập hàng ngũ Tư
Sản Tư hữu đang trở thành giai cấp quý tộc đỏ ở
trong nước ./.