Professional Documents
Culture Documents
Bài 3 Ngân Sách Nhà Nư C
Bài 3 Ngân Sách Nhà Nư C
32 TXNHLT05_Bai 3_v1.0014110216
Bài 3: Ngân sách nhà nước
1. Vậy, nguyên nhân cơ bản nào dẫn tới tình trạng sụt giảm của khả năng thu
ngân sách nhà nước và sự gia tăng chi ngân sách nhà nước?
2. Hậu quả của tình trạng chi vượt quá số thu cho phép và nó sẽ tác động như
thế nào đến nền kinh tế của Việt Nam?
TXNHLT06_Bai 3_v1.0014108207 33
Bài 3: Ngân sách nhà nước
3.1. Bản chất kinh tế, đặc điểm và vai trò của ngân sách nhà nước
34 TXNHLT05_Bai 3_v1.0014110216
Bài 3: Ngân sách nhà nước
3.1.2.1. Ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất, gắn với quyền lực
của nhà nước trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn lực
của tài chính
Tất cả các nguồn thu từ lớn đến nhỏ của quốc gia đều được tập trung vào quỹ ngân
sách nhà nước, mọi khoản chi tiêu lớn nhỏ của nhà nước cho nền kinh tế – xã hội đều
được xuất ra từ quỹ ngân sách quốc gia. Việc tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ ngân
sách luôn gắn liền với quyền lực của nhà nước. Vì vậy tính pháp lý của ngân sách nhà
nước là cao nhất. Tất cả các quan hệ tài chính trong quá trình tạo lập các khoản thu và
cấp phát thanh toán các khoản chi ngân sách nhà nước đều phải do luật định (chủ yếu
là luật Ngân sách nhà nước, các luật Thuế, luật Quản lý nợ công, luật Đầu tư…)
3.1.2.2. Ngân sách nhà nước gắn bó mật thiết với quyền sở hữu của nhà nước và
lợi ích chung của công cộng
Hoạt động của ngân sách nhà nước được thực hiện theo một
chu trình có tính nguyên tắc, bao gồm 3 khâu: lập dự toán,
chấp hành và quyết toán ngân sách. Hoạt động thu chi ngân
sách nhà nước là sự thể hiện đầy đủ các mặt hoạt động kinh tế
của nhà nước. Là quá trình xử lý các mối quan hệ lợi ích đối
với các chủ thể khác nhau trong xã hội khi nhà nước tham gia
tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn tài chính quốc gia.
Lợi ích quốc gia phải đảm bảo nguyên tắc công bằng, tính hợp
lý và khoa học trong ngắn hạn và dài hạn, trước mắt và lâu dài. Các nguyên tắc này
phải thể hiện được ngay cả trong quá trình phân phối thu nhập của các doanh nghiệp
và cộng đồng dân cư, cả trong việc phân bổ các nguồn lực tài chính cho các chủ thể
khác nhau trong xã hội để thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội,
bảo đảm an ninh quốc phòng và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của mọi thành
viên trong xã hội.
3.1.2.3. Việc quản lý ngân sách nhà nước được thực hiện không chỉ đối với quỹ
tiền tệ tập trung mà cả đối với các quỹ tiền tệ không tập trung
Hoạt động của ngân sách nhà nước phải bảo đảm lợi ích chung của cộng đồng, tạo
mọi điều kiện cần thiết cho sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Quỹ ngân sách nhà
nước được phân chia thành các quỹ tiền tệ tập trung và không tập trung. Quỹ tiền tệ
tập trung chủ yếu do hệ thống tài chính nhà nước quản lý, được phân cấp cho ngân
TXNHLT06_Bai 3_v1.0014108207 35
Bài 3: Ngân sách nhà nước
sách trung ương và ngân sách địa phương. Quỹ tiền tệ không tập trung của nhà nước
có nguồn gốc từ ngân sách nhưng đã được cấp phát và phân chia cho các bộ ngành,
các đơn vị quản lý và sử dụng dưới mọi hình thức, cấp vốn điều lệ cho các doanh
nghiệp nhà nước (công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên), phần vốn đầu tư của
nhà nước trong các công ty cổ phần, doanh nghiệp liên doanh, cấp vốn để thành lập
các quỹ tài chính công ngoài ngân sách (quỹ Dự trữ nhà nước, quỹ Bảo hiểm xã hội,
Bảo hiểm y tế, Bảo vệ môi trường Việt Nam, quỹ Đầu tư phát triển địa phương…),
cấp vốn cho các cơ quan hành chính nhà nước, các đơn vị nghiệp công lập, các tổ
chức chính trị – xã hội…
Các quỹ tiền tệ có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước nhưng không tập trung này có cơ
chế sử dụng riêng, phù hợp với chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của các tổ chức
theo luật định. Như vậy, việc quản lý và điều hành ngân sách nhà nước nói chung dựa
trên nguyên tắc phân cấp, phân chia sẽ thuận lợi, thông thoáng và hiệu quả hơn.
3.1.2.4. Các khoản thu chi của ngân sách nhà nước không được hoàn trả trực tiếp
Tính chất không hoàn trả trực tiếp các khoản thu chi
của ngân sách nhà nước là một trong những đặc trưng
cơ bản của ngân sách nhà nước. Mọi khoản thu chi của
ngân sách nhà nước từ các thể nhân và pháp nhân trực
tiếp tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
đều có nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước dưới các hình
thức thuế, phí và lệ phí để hình thành quỹ ngân sách
nhà nước. Nghĩa vụ đóp góp của họ chủ yếu dựa trên kết quả thu nhập và đặc điểm,
tính chất hoạt động, được hay không được nhà nước ưu tiên, khuyến khích… Các
khoản thu này đều có tính chất bắt buộc và không được hoàn trả trực tiếp. Họ được
nhà nước hoàn trả gián tiếp một phần dưới các hình thức sử dụng các công trình thuộc
kết cấu hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng, cải tạo môi trường sinh thái, tạo
lập thị trường cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, ổn định nền kinh
tế vĩ mô…
Mọi khoản chi của ngân sách nhà nước cho các thể nhân và pháp nhân từ các quỹ tiền
tệ tập trung và không trung dưới các hình thức cấp phát và đầu tư (ngoại trừ các khoản
nhà nước cho vay) đều không phải hoàn trả trực tiếp. Mức độ cấp phát và đầu tư của
ngân sách nhà nước dựa trên đặc điểm, tính chất hoạt động của tổ chức, cơ quan và
đơn vị. Tính hoàn trả gián tiếp một phần cho nhà nước của các tổ chức, cơ quan và
đơn vị này được thể hiện rất trừu tượng và đa dạng, tuỳ thuộc vào hiệu quả công việc
và sự đóng góp của họ vào quá trình phát triển kinh tế xã hội, hỗ trợ cho các ngành
kinh tế phát triển, chăm sóc sức khoẻ cho cộng đồng, bảo vệ môi trường sinh thái, cải
cách hành chính, ổn định chính trị và trật tự xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, mở
rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế…
36 TXNHLT05_Bai 3_v1.0014110216
Bài 3: Ngân sách nhà nước
nền kinh tế thị trường, ngân sách nhà nước đảm nhận vai trò quản lý vĩ mô đối với
toàn bộ nền kinh tế, xã hội.
3.1.3.1. Ngân sách nhà nước là công cụ củng cố bộ máy quản lý nhà nước, tăng
cường sức mạnh quốc phòng và giữ vững an ninh quốc gia
Bộ máy quản lý nhà nước của Việt Nam được chia ra ba hệ thống quyền quyền lực: hệ
thống lập pháp bao gồm Quốc hội và Chủ tịch nước, hệ thống hành pháp bao gồm các
cơ quan của Chính phủ, hệ thống tư pháp bao gồm Viện kiểm sát và Toà án nhân dân
tối cao. Để thực hiện đầy đủ chức năng quản lý và điều hành toàn bộ hoạt động của
nền kinh tế – xã hội, bộ máy quản lý nhà nước cần phải được củng cố và hoàn thiện về
tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động. Ngoài ra, sự hoạt động của nhà nước trong các
lĩnh vực chính trị, quốc phòng an ninh, kinh tế, xã hội luôn đòi hỏi phải có các nguồn
tài chính để chi tiêu cho những mục đích xác định. Các nhu cầu chi tiêu của nhà nước
được thỏa mãn từ các nguồn thu bằng hình thức thuế và thu ngoài thuế. Đây là vai trò
lịch sử của ngân sách nhà nước, được xuất phát từ tính nội tại của phạm trù tài chính
mà trong bất kỳ chế độ xã hội và cơ chế kinh tế nào, ngân sách nhà nước đều phải
thực hiện và phát huy.
3.1.3.2. Ngân sách nhà nước là công cụ chủ yếu phân bổ các nguồn lực tài chính,
đảm bảo cho nền kinh tế phát triển với tốc độ nhanh, ổn định và bền vững
Ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước, đóng vai trò chủ
đạo đối với sự phát triển của nền kinh tế. Toàn bộ các khoản thu của nhà nước, bao
gồm các khoản thu trong nước và ngoài nước đều được tập trung vào quỹ ngân sách
nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của nhà nước.
Nội dung thu chủ yếu của ngân sách nhà nước là các loại
thuế. Việc xây dựng một chính sách thuế khoa học, với
các mức thuế suất hợp lý có tính đến các quy định về ưu
đãi, miễn giảm thuế, thưởng phạt thuế… không những
tạo nguồn thu ổn định cho nhà nước để thực hiện đầy đủ
các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, mà cón có tác
dụng kích thích mạnh mẽ đối với cho các doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và hoàn thành
các nghĩa vụ đối với nhà nước. Chính vì vậy, chính sách thu của nhà nước phải kết
hợp đồng thời các mục tiêu cơ bản là khai thác tích cực các nguồn thu và chống thất
thu, bồi dưỡng nguồn thu, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Các khoản chi của ngân sách nhà nước, bao gồm chi thường xuyên và chi đầu tư phát
triển kinh tế đều nhằm mục đích đảm bảo các điều kiện cần thiết cho bộ máy quản lý
nhà nước hoạt động bình thường và thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh
tế – xã hội. Chi ngân sách nhà nước có phạm vi và đối tượng vô cùng rộng lớn, nó
được phân cấp, phân quyền cho các chủ thể và các đối tượng khác nhau của nền kinh
tế, hình thành nên một hệ thống quản lý quỹ ngân sách nhà nước từ trung ương đến
địa phương.
Các khoản chi cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội tập trung chủ yếu vào các ngành và
lĩnh vực trọng điểm, then chốt của nền kinh tế, các công trình thuộc hệ thống kết cấu
hạ tầng, không có khả năng thu hồi vốn hoặc thu hồi vốn rất chậm. Tuy nhiên, các
TXNHLT06_Bai 3_v1.0014108207 37
Bài 3: Ngân sách nhà nước
công trình này góp phần quan trọng tăng nhanh tốc độ luân chuyển hàng hoá, dịch vụ,
tạo ra và tăng thêm thu nhập của nền kinh tế.
Nhà nước sử dụng nhiều công cụ để phân bổ các nguồn lực tài chính từ các quỹ tiền tệ
tập trung và không tập trung của nhà nước. Tuy nhiên, ngân sách nhà nước là quỹ tiền
tệ tập trung lớn nhất của nhà nước. Vì vậy, ngân sách nhà nước là công cụ chủ yếu để
phân bổ các nguồn lực tài chính của nhà nước. Đây cũng chính là vai trò quan trọng
bậc nhất của ngân sách nhà nước đối với nền kinh tế của các quốc gia, dưới các chế độ
chính trị khác nhau và trong mọi thời đại.
3.1.3.3. Ngân sách nhà nước là công cụ điều tiết thu nhập của các chủ thể trong
nền kinh tế, góp phần giải quyết các vấn đề về đời sống và xã hội
Một mâu thuẫn gay gắt đang nảy sinh trong thời đại hiện nay là mâu thuẫn giữa tính
nhân đạo xã hội mà mỗi nhà nước và mỗi cá nhân cần vươn tới và quy luật khắt khe
của nền kinh tế thị trường xung quanh vấn đề thu nhập, đó là sự chênh lệch quá lớn về
thu nhập giữa người giàu và người nghèo. Vấn đề đặt ra là phải có một chính sách
phân phối hợp lý thu nhập của toàn xã hội. Chính sách đó phải vừa khuyến khích sự
tăng trưởng, lại vừa đảm bảo tính công bằng xã hội một cách hợp lý. Bằng việc sử
dụng công cụ ngân sách nhà nước, cụ thể là chính sách thuế và chính sách chi tiêu
ngân sách, chính phủ đã làm giảm bớt sự chênh lệch quá lớn về thu nhập giữa người
giàu và người nghèo nhằm ổn định đời sống của các tầng lớp dân cư trong phạm vi cả
nước. Hay nói cách khác, vai trò quan trọng của ngân sách nhà nước trong điều chỉnh
phân phối thu nhập được thể hiện trên phạm vi rộng lớn ở cả hai mặt hoạt động thu và
chi ngân sách nhà nước. Cụ thể:
Công cụ thuế
Thông qua thuế thu nhập cá nhân, nhà nước
thực hiện việc điều tiết một phần thu nhập của
những người giàu, để đảm bảo mức tiêu dùng
hợp lý giữa các tầng lớp dân cư, hạn chế sự
phân hoá giàu nghèo và tiến tới đảm bảo công
bằng xã hội về thu nhập.
Với việc đánh thuế tiêu thụ đặc biệt, đánh thuế
giá trị gia tăng với thuế suất cao đối với các mặt hàng xa xỉ, các loại dịch vụ cao
cấp, nhà nước có thể để điều tiết một phần thu nhập của những người giàu có.
Sử dụng chính sách chi tiêu ngân sách
Thông qua các khoản chi an sinh xã hội, chi cho các chương trình giải quyết việc làm,
xoá đói giảm nghèo, chi trợ cấp trợ giá các mặt hàng thiết yếu (lương thực, điện,
nước), chi phí cho việc cung cấp hàng hoá khuyến dụng, hàng hoá công cộng… thì
ngân sách nhà nước như một trung tâm phân phối lại thu nhập, nhằm chuyển bớt một
phần thu nhập từ các tầng lớp giàu có sang tầng lớp những người nghèo. Thông
thường ở các quốc gia trên thế giới, các khoản chi phí cho mục tiêu phúc lợi xã hội,
mục tiêu trợ cấp cho người nghèo được bố trí theo chiều hướng tăng lên theo một tỷ lệ
nhất định so với tỷ lệ tăng trưởng kinh tế.
38 TXNHLT05_Bai 3_v1.0014110216
Bài 3: Ngân sách nhà nước
3.1.3.4. Ngân sách nhà nước là công cụ tăng cường tiềm lực tài chính quốc gia,
góp phần ổn định tiền tệ, giá cả và kiềm chế lạm phát
Ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội,
an ninh, quốc phòng và đối ngoại của đất nước. Cần hiểu rằng, vai trò của ngân sách
nhà nước luôn gắn liền với vai trò của nhà nước theo từng giai đoạn nhất định. Đối với
nền kinh tế thị trường, ngân sách nhà nước đảm nhận vai trò quản lý vĩ mô đối với
toàn bộ nền kinh tế – xã hội. Ngân sách nhà nước là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền
kinh tế – xã hội, định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả,
điều chỉnh đời sống xã hội. Huy động các nguồn tài chính của ngân sách nhà nước để
đảm bảo nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Mức động viên các nguồn tài chính từ các chủ
thể trong nguồn kinh tế đòi hỏi phải hợp lí nếu mức động viên quá cao hoặc quá thấp
thì sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế, vì vậy cần phải xác định mức huy
động vào ngân sách nhà nước một cách phù hợp với khả năng đóng góp tài chính của
các chủ thể trong nền kinh tế.
Đối với thị trường sức lao động
Cơ chế điều tiết: Muốn điều tiết nhà nước sử dụng các chính sách làm thay đổi
cung cầu trên thị trường lao động, các chính sách như: thuế thu nhập, chính sách
chi cho giáo dục.
Chính sách hiện hành: Khủng hoảng tài chính tác động nặng nề đến thị trường
lao động, số lao động bị thất nghiệp tăng cao nhưng lao động trình độ cao thì
còn thiếu.
Nhà nước sử dụng ngân sách nhà nước chi cho hoạt động đào tạo nguồn nhân lực,
nâng cao chất lượng đội ngũ lao động. Bên cạnh đó, nhà nước sử dụng các quỹ trợ
cấp thất nghiệp.
Chính sách thu: Chính sách thuế thu nhập cá nhân.
Đối với thị trường vốn
Cơ chế điều tiết: Nhà nước điều tiết thị trường vốn bằng cách
tác động đến cung cầu vốn vay. Chính sách như sau: Chính
sách thuế thu nhập, kênh phát hành trái phiếu.
Chính sách hiện hành: Chính sách thuế thu nhập làm thay đổi
tài sản và thu nhập của các chủ thể làm thay đổi khả năng
cung ứng vốn. Phát hành trái phiếu chính phủ là một kênh
huy động vốn hiệu quả của chính phủ.
Vai trò của ngân sách nhà nước trong việc bình ổn giá và kiềm
chế lạm phát
Chúng ta đã biết ngân sách nhà nước là khâu chủ đạo trong tài chính, là công cụ để
nhà nước thực hiện kiểm soát vĩ mô và cân đối vĩ mô nền kinh tế, bởi lẽ ngân sách nhà
nước là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước. Thông qua ngân sách nhà nước
các nguồn tài chính tập trung vào nhà nước như hình thức: thu thuế, lệ phí, phí… sẽ
được nhà nước sử dụng để thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình.
Ngân sách nhà nước có vai trò là công cụ điều chỉnh ổn định nền kinh tế thị trường,
nhà nước sử dụng hiệu quả ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường thể hiện
qua 2 công cụ chủ yếu sau:
Thông qua công cụ thuế: thuế chính là khoản chuyển giao thu nhập bắt buộc từ các
cá nhân, pháp nhân do nhà nước theo mức độ và thời hạn pháp luật quy định nhằm
TXNHLT06_Bai 3_v1.0014108207 39
Bài 3: Ngân sách nhà nước
sử dụng cho mục đích công cộng. Vì vậy thuế không chỉ là nguồn thu quan trọng
của ngân sách nhà nước mà còn là công cụ điều tiết vĩ mô giúp kích thích hoạt
động sản xuất kinh doanh, định hướng đầu tư trên thị trường. Thuế có tác dụng
bình ổn giá cả thị trường. Thuế thuộc khâu phân phối có tác động vào tiền công và
lợi nhuận làm thay đổi nhu cầu thị trường, tác động đến sản xuất, tiêu dùng và thu
nhập mỗi cá nhân, thuế gián tiếp vào thu nhập thông qua giá cả thị trường có thể
làm tăng hoặc giảm số lượng và yếu tố cầu trên thị trường.
Thông qua thuế trực tiếp và gián tiếp nhà nước có thể áp dụng ưu đãi về thuế cho
các hàng hóa dịch vụ làm cho giá cả hàng hóa nhập khẩu tăng, nhờ đó giảm giá
hàng hóa trong nước.
Thị trường tiền tệ: Nhà nước đã sử dụng thuế như một công cụ điều tiết sản xuất
và tiêu dùng, điều tiết vĩ mô nền kinh tế ở cả thu và chi ngân sách. Nhà nước thông
qua các công cụ kinh tế, chính sách đòn bẩy kinh tế để tác động vào thị trường mà
thuế chính là công cụ sắc bén nhất.
Thông qua công cụ chi ngân sách nhà nước: Về mặt thị trường, ngân sách nhà
nước có vai trò quan trong đối với việc thực hiện các chính sách ổn định về giá cả
thị trường và chống lạm phát. Bằng công cụ chi ngân sách nhà nước, công cụ thuế
và sử dụng quỹ dự trữ nhà nước có thể điều chính được giá cả thị trường một cách
chủ động.
Cơ chế điều tiết: Hoạt động điều tiết của chính phủ sử dụng các quỹ dự trữ của nhà
nước và các chính sách thuế.
Khi giá của một hàng hóa nào lên cao, để kìm hãm và chống đầu cơ, chính phủ
đưa dự trữ hàng hóa đó ra thị trường để tăng cung, sẽ bình ổn được giá cả và hạn
chế khả năng tăng giá đồng loạt gây nguy cơ lạm phát. Khi giá của một hàng hóa
bị giảm mạnh, gây thiệt hại cho người sản xuất và tạo xu hướng di chuyển vốn
sang lĩnh vực khác, chính phủ sẽ bỏ tiền để mua các hàng hóa đó theo giá nhất
định đảm bảo quyền lợi cho người sản xuất.
Đối với việc chống lạm phát
Tác động của lạm phát
Lạm phát bên cạnh làm méo mó giá cả, nó còn làm
xói mòn tiết kiệm và không khuyến khích đầu tư,
hạn chế tăng trưởng kinh tế, gây ra những bất ổn
chính trị và xã hội. Công cụ ngân sách nhà nước
chống lạm phát: Tăng thuế tiêu dùng, giảm thuế
đối với đầu tư, và thắt chặt chi tiêu của ngân sách
nhà nước.
Chính sách chi
Nhà nước thắt chặt chi tiêu: Từ trung ưng đến địa phương đảm bảo tiết kiệm và
hiệu quả trong chi tiêu ngân sách. Cắt giảm các khoản đầu tư không hiệu quả, và
các khoản chi phúc lợi vượt quá khả năng của nền kinh tế. Cải tiến bộ máy nhà
nước gọn nhẹ hơn.
Chính sách thu
Khai thác các khoản thu đặc biệt là thu thuế, giảm mức bội chi, cổ phần hóa các
doanh nghiệp nhà nước, hạn chế phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách.
40 TXNHLT05_Bai 3_v1.0014110216
Bài 3: Ngân sách nhà nước
3.1.3.5. Ngân sách nhà nước là công cụ mở rộng quan hệ đối ngoại, đẩy nhanh quá
trình hợp tác và hội nhập quốc tế
Trong xu thế mở cửa và hội nhập, các quan hệ chính trị, kinh tế giữa các quốc gia
không ngừng phát triển và ngày càng đa dạng. Mặc dù trong cộng đồng quốc tế còn có
sự chênh lệch khá lớn về tiềm lực kinh tế, đặc biệt là mức độ giàu nghèo, song xét trên
phương diện quan hệ quốc tế, các quốc gia đều phải tôn trọng các nguyên tắc cơ bản,
đó là sự bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền, các bên cùng có lợi. Vai trò quan
trọng của ngân sách nhà nước đối với các quan hệ quốc tế thể hiện ở chỗ: mọi khoản
thu chi tài chính phát sinh trong quan hệ quốc tế đều có liên quan trực tiếp đến hoạt
động của ngân sách nhà nước, đặc biệt là những khoản thu chi về đầu tư trực tiếp và
gián tiếp, các khoản viện trợ và tiếp nhận viện trợ, các khoản đi vay và cho vay do nhà
nước quản lý. Mọi khoản thu của ngân sách nhà nước từ nước ngoài, dưới mọi hình
thức, đều phải được quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả, riêng đối với các khoản
vay nợ phải hoàn trả đúng thời hạn. Các khoản chi của ngân sách nhà nước ra nước
ngoài phải được tính toán kỹ lưỡng trên cơ sở đáp ứng các mục tiêu nhiệm vụ quốc tế
của nhà nước trước mắt và lâu dài.
Tóm lại, để mở rộng và phát triển các quan hệ đối ngoại trên cơ sở tôn trọng các
nguyên tắc cơ bản trong quan hệ quốc tế, nhà nước cần phải củng cố và tăng cường
tiềm lực tài chính. Khi nguồn thu ngân sách nhà nước dồi dào, tiềm lực vốn và khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước không ngừng tăng lên, đó là những
điều kiện cơ bản, cần thiết để chúng ta mở rộng quan hệ đối ngoại và đẩy nhanh quá
trình hợp tác bình đẳng với cộng đồng quốc tế.
3.2.1. Thu ngân sách nhà nước và cơ cấu thu ngân sách nhà nước
Để có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu, nhà nước
thường sử dụng ba hình thức động viên đó là: quyên góp
của dân, vay của dân và dùng quyền lực nhà nước bắt buộc
dân phải đóng góp. Trong đó hình thức quyên góp tiền và
tài sản của dân và hình thức vay của dân là những hình
thức không mang tính ổn định và lâu dài, thường được nhà
nước sử dụng có giới hạn trong một số trường hợp đặc biệt.
Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên, nhà nước dùng
quyền lực chính trị của mình ban hành các luật thuế để bắt
buộc dân phải đóng góp một phần thu nhập của mình cho
ngân sách nhà nước. Đây chính là hình thức cơ bản nhất để
huy động tập trung nguồn tài chính cho nhà nước.
TXNHLT06_Bai 3_v1.0014108207 41
Bài 3: Ngân sách nhà nước
Thu ngân sách nhà nước phản ánh các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình
phân chia các nguồn tài chính quốc gia giữa nhà nước với các chủ thể trong xã hội.
Chúng ta biết rằng, nguồn tài chính được tập trung vào ngân sách nhà nước chính
là một phần thu nhập của các tầng lớp dân cư được chuyển giao cho nhà nước.
Do vậy, việc xác định các khoản thu phải trên cơ sở giải quyết hài hoà giữa lợi ích
nhà nước với lợi ích của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Thu ngân sách nhà nước trước hết và chủ yếu gắn liền với các hoạt động kinh tế
trong xã hội. Mức độ phát triển kinh tế, tỷ lệ tăng trưởng GDP hàng năm là tiền đề
và là yếu tố khách quan hình thành nên các khoản thu ngân sách nhà nước và quyết
định mức độ động viên các khoản thu của ngân sách nhà nước.
Về mặt nội dung, thu ngân sách nhà nước chứa đựng các quan hệ phân phối dưới
hình thức giá trị nảy sinh trong quá trình nhà nước dùng quyền lực tập trung một
phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước.
42 TXNHLT05_Bai 3_v1.0014110216
Bài 3: Ngân sách nhà nước
Ý nghĩa của cách phân loại này: các phân loại này phản ánh cơ cấu của nền kinh
tế, thông qua đó có thể đánh giá tính hiệu quả, tính hợp lý của nền kinh tế.
Đơn vị: %
2007 2008 2009 2010
Thu trong nước (Không kể thu từ dầu thô) 55,17 55,13 60,96 63,32
Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 9,94 10,52 11,45 11,26
Thu từ khu vực công, thương nghiệp,
dịch vụ ngoài quốc doanh 9,87 10,44 10,81 12,53
Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao 2,35 3,10 3,24 4,71
Thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu 6,96 7,44 6,47 10,08
Thu viện trợ không hoàn lại 1,35 1,74 1,47 0,99
Cơ cấu thu ngân sách nhà nước của Việt Nam qua một số năm gần đây
(Thông tin từ website của Bộ tài chính)
Căn cứ vào tính chất phát sinh và nội dung kinh tế, thu ngân sách nhà nước
bao gồm:
Thu thường xuyên
Là các khoản thu phát sinh tương đối đều đặn, ổn định về mặt thời gian và số
lượng gồm thuế, phí, lệ phí.
Trong đó:
o Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc của các tổ chức, cá nhân cho nhà nước
theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định, không mang tính chất hoàn
trả trực tiếp, nhằm trang trải các nhu cầu chi tiêu của nhà nước.
TXNHLT06_Bai 3_v1.0014108207 43
Bài 3: Ngân sách nhà nước
o Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân
khác cung cấp dịch vụ (được quy định trong danh mục phí ban hành kèm theo
Pháp lệnh về phí và lệ phí).
o Lệ phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải nộp khi được cơ quan nhà nước
hoặc tổ chức được uỷ quyền phục vụ công việc quản lý nhà nước (được quy
định trong danh mục lệ phí ban hành kèm theo Pháp lệnh về phí và lệ phí).
PHÍ và
THUẾ LỆ PHÍ
PHÍ
Chịu thuế
(giá) dịch vụ
Không chịu thuế
44 TXNHLT05_Bai 3_v1.0014110216
Bài 3: Ngân sách nhà nước
Tổng thu cân đối ngân sách nhà nước trong năm 2012 của Việt Nam
Đơn vị tính: tỷ đồng
STT Chỉ tiêu Năm 2012
3.2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới cơ cấu thu ngân sách nhà nước
Một vấn đề hết sức quan trọng trong thu ngân sách nhà nước là việc xác định mức
động viên và lĩnh vực động viên một cách đúng đắn, hợp lý. Điều đó không chỉ ảnh
hưởng đến số thu ngân sách nhà nước, mà còn tác động mạnh mẽ đến quá trình phát
triển kinh tế, xã hội. Mức động viên và lĩnh vực động viên lại chịu tác động của nhiều
nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia.
Yếu tố chủ quan
Nhóm yếu tố chủ quan bao gồm bộ máy quản lý và điều hành.
Bộ máy quản lý càng gọn nhẹ, càng đơn giản bao
nhiêu thì tỷ trọng thu càng được cao bấy nhiêu.
Năng lực, phẩm chất của cán bộ thu càng cao, càng
tốt, thì quá trình thu sẽ càng được đẩy nhanh, không
có tình trạng gian lận, tham ô tham nhũng, thì sẽ
đẩy mạnh được hiệu quả của mức độ động viên của
các khoản thu.
Yếu tố khách quan
Chủ yếu liên quan đến diễn biến chu kỳ kinh tế. Mặc dù nhóm yếu tố này xảy ra là
sự tất yếu của sự phát triển nển kinh tế. Tuy nhiên chúng ta có sự chuẩn bị kỹ
lưỡng, và có các biện pháp thích hợp, đồng bộ, và nâng cao vai trò kiểm tra kiểm
sát các hoạt động lập dự toán, thu ngân sách nhà nước. Phối hợp với các bộ ban
ngành để hạn chế những tác động xấu tới khả năng thu của nền kinh tế.
Thu ngân sách nhà nước khó khăn có thể làm gia tăng qui mô thâm hụt ngân sách nhà
nước, tăng nợ công, tạo nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô, đồng thời hạn chế khả năng tăng
TXNHLT06_Bai 3_v1.0014108207 45
Bài 3: Ngân sách nhà nước
chi ngân sách nhà nước để kích thích kinh tế, tăng đầu tư công và xử lý nợ xấu cũng
như miễn giảm thuế để hỗ trợ sản xuất kinh doanh. Chính sách quản lý giá và phí tác
động tới lạm phát nhưng không hỗ trợ nhiều cho tăng thu ngân sách nhà nước do sức
tiêu thụ bị hạn chế.
Do vậy, chúng ta luôn phải tìm ra giải pháp để tăng tỷ trọng các khoản thu thậm chí
phải nghĩ tới cải cách cơ cấu thu để cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế – xã
hội và theo mục tiêu của từng thời kỳ đó.
46 TXNHLT05_Bai 3_v1.0014110216
Bài 3: Ngân sách nhà nước
Cũng giống như thu ngân sách nhà nước, để đánh giá và phân tích các khoản chi.
Người ta cũng xây dựng các tiêu chí, và chính các tiêu chí này là căn cứ để phân loại
các khoản chi.
Căn cứ vào tính chất các khoản chi
Chi thường xuyên
Là khoản chi có tính đều đặn, liên tục gắn với nhiệm vụ thường xuyên của nhà
nước về quản lý kinh tế – xã hội. Chi thường xuyên được mang tính ổn định, phần
lớn mang tính tiêu dùng và gắn với cơ cấu tổ chức có tính bắt buộc.
Chi đầu tư phát triển
Là khoản chi nhằm tạo cơ sở vật chất kỹ thuật, có tác dụng làm cho nền kinh tế
tăng trưởng và phát triển. Thông thường là các khoản chi lớn, không mang tính ổn
định, có tính tích luỹ, gắn với mục tiêu, định hướng, quy mô vốn phụ thuộc vào
nguồn, tính chất…
Chi trả nợ, viện trợ:
Bao gồm các khoản chi để nhà nước thực hiện nghĩa vụ trả nợ các khoản đã vay
trong nước, vay nước ngoài khi đến hạn và các khoản chi làm nghĩa vụ quốc tế;
o Trả nợ trong nước: là những khoản nợ mà trước đây nhà nước đã vay các tầng
lớp dân cư, các tổ chức kinh tế và các tổ chức khác bằng cách phát hành các
loại chứng khoán nhà nước như tín phiếu kho bạc, trái phiếu quốc gia.
o Trả nợ nước ngoài: là các khoản nợ nhà nước vay của các chính phủ nước
ngoài, các doanh nghiệp và các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế.
Hàng năm số chi trả nợ của nhà nước được bố trí theo một tỷ lệ nhất định trong
tổng số chi của ngân sách nhà nước nhằm đảm bảo khả năng trả nợ đúng hạn.
Chi dự trữ nhà nước:
Dự trữ quốc gia cho phép duy trì sự cân đối và ổn định trong phát triển kinh tế,
giải quyết các vấn đề kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động của nền kinh tế
và trong những trường hợp nhất định cho phép ngăn chặn, bù đắp các tổn thất bất
ngờ xảy ra đối với nền kinh tế – xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động
của các quy luật kinh tế có thể dẫn đến những biến động phức tạp không có lợi cho
nền kinh tế hoặc xảy ra thiên tai đòi hỏi phải có một khoản dự trữ giúp nhà nước
điều tiết thị trường, khắc phục hậu quả. Khoản dự trữ này được hình thành bằng
nguồn tài chính được cấp phát từ ngân sách nhà nước hàng năm. Ngoài ra còn một
số khoản chi khác…
Sơ đồ nguyên lý cơ bản của ngân sách nhà nước
Chi thường xuyên
TXNHLT06_Bai 3_v1.0014108207 47
Bài 3: Ngân sách nhà nước
48 TXNHLT05_Bai 3_v1.0014110216
Bài 3: Ngân sách nhà nước
Trong quá khứ và cho đến hiện tại, đã có nhiều học thuyết bàn luận về cân đối ngân
sách nhà nước. Tuy nhiên, các học thuyết này chủ yếu là đưa ra quan điểm cân đối,
mà chưa mổ xẻ các nội dung quan trọng của cân đối ngân sách nhà nước và sự ứng
TXNHLT06_Bai 3_v1.0014108207 49
Bài 3: Ngân sách nhà nước
dụng vào mỗi nền kinh tế. Ngày nay, các học thuyết hiện đại về cân đối ngân sách nhà
nước, đặc biệt là thuyết cân bằng ngân sách nhà nước theo chu kỳ và thuyết cố ý thiếu
hụt, đã được chính phủ các nền kinh tế thị trường vận dụng rất linh hoạt trong chính
sách tài khóa để thúc đẩy kinh tế phát triển.
Các học thuyết hiện đại về cân đối ngân sách
Lý thuyết cân đối theo ngân sách chu kỳ: Mỗi chu kỳ nền kinh tế gồm 3 giai đoạn
là phồn thịnh – khủng hoảng – suy thoái.
o Giai đoạn phồn thịnh: thu > chi
o Giai đoạn khủng hoảng – suy thoái: thu < chi
o Cân bằng ngân sách trong một chu kỳ…
Lý thuyết về ngân sách cố ý thâm hụt:
Áp dụng trong giai đoạn nền kinh tế suy thoái.
Việc thúc đẩy những hoạt động của nền kinh tế đang đình trệ sẽ làm nhẹ gánh
nặng của ngân sách nhà nước đối với khoản chi trợ cấp thất nghiệp.
Chính sách cố ý tạo ra sự mất cân đối của ngân sách nhà nước, xét cho cùng chỉ là
một việc làm trước hạn, căn cứ vào những việc chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai.
Thuyết hạn chế tiêu dùng trong thời chiến:
Nhà nước cần tài chính phục vụ cho chiến tranh; người dân không chi xài hết thu
nhập khả dụng → nhà nước có thể thu vào một phần số tiền mà mình chi ra thông
qua thuế, phát hành công trái.
Cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước là một vấn đề quan trọng được đặt ra
đối với mỗi nhà nước, nó đảm bảo cho nhà nước thực hiện tốt chức năng, nhiệm
vụ của mình.
Đặc biệt khi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, nhà nước phải phát huy
vai trò vượt trội của mình để can thiệp tới vấn đề này nhằm ổn định tình hình, tạo
điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia vào nền kinh tế.
A+B+C=D+E+F
Công thức tính thâm hụt ngân sách nhà nước của một năm sẽ như sau:
Thâm hụt ngân sách nhà nước = Tổng chi – Tổng thu = (D + E + F) – (A + B) = C
50 TXNHLT05_Bai 3_v1.0014110216
Bài 3: Ngân sách nhà nước
Nguyên nhân
Tác động của chu kỳ kinh doanh
Khủng hoảng làm cho thu nhập của nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng
lên, để giải quyết những khó khăn mới về kinh tế và xã hội. Điều đó làm cho mức
thâm hụt ngân sách nhà nước tăng lên.
Ở giai đoạn kinh tế phồn thịnh, thu của nhà nước sẽ tăng lên, trong khi chi không
phải tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức thâm hụt ngân sách nhà nước. Mức
thâm hụt do tác động của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là bội chi chu kỳ.
Tác động của chính sách cơ cấu thu chi của nhà nước
Khi nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ làm
tăng mức thâm hụt ngân sách nhà nước. Ngược lại, thực hiện chính sách giảm đầu
tư và tiêu dùng của nhà nước thì mức bội chi ngân sách nhà nước sẽ giảm bớt.
Mức thâm hụt do tác động của chính sách cơ cấu thu chi gây ra được gọi là thâm
hụt cơ cấu.
Trong điều kiện bình thường (không có chiến tranh, không có thiên tai lớn…), tổng
hợp của thâm hụt chu kỳ và thâm hụt cơ cấu sẽ là bội chi ngân sách nhà nước.
Ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách
Lạm phát
Thâm hụt ngân sách nhà nước làm nền kinh tế thiếu tiền, có các cách khắc phục là
đi vay, phát hành tiền. Khi phát hành tiền sẽ làm tăng lượng tiền trong lưu thông,
dẫn đến giá cả tăng (tiền mất giá) gây ra lạm phát. Đối với việc đi vay, bao gồm
vay trong nuớc và vay nuớc ngoài. Khi vay nước ngoài thì thuờng có những điều
khoản ràng buộc, và một mức lãi suất nhất định.
Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và lạm phát
Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007
Tỷ lệ bội chi ngân sách 4,3% 4,9% 5% 5%
Tổng sản phẩm trong nước 715 839 973 1.143
Tốc độ tăng GDP 16,64 17,34 15,97 17,47
Mức bội chi 31 41 49 57
Mức bội chi cộng dồn 98 139 187 245
Tỷ lệ bội chi cộng dồn so với GDP 13,66 16,54 19,26 21,40
Tốc độ tăng bội chi 51,98 33,72 18,34 17,47
Tỷ lệ lạm phát 7,8 8,3 7,5 12,63
TXNHLT06_Bai 3_v1.0014108207 51
Bài 3: Ngân sách nhà nước
52 TXNHLT05_Bai 3_v1.0014110216
Bài 3: Ngân sách nhà nước
Doanh nghiệp, hoặc các tổ chức tài chính đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp
luật được bảo lãnh phát hành. Phí phát hành cao, độ rủi ro cao nhưng lại được
phần trăm hoa hồng cao hơn. Và số lượng trái phiếu đã nhận bán không được
trả lại nếu như không bán hết.
o Đấu thầu
Đấu thầu cạnh tranh lãi suất
Việc phát hành này diễn ra giữa các nhà đầu tư có quy mô lớn, có tiềm lực
và khả năng về tài chính.
Có khả năng mua được trái phiếu với mức rẻ nhất và lãi suất họ mang về là
cao nhất.
TH1: Đấu thầu cạnh tranh lãi suất có chỉ đạo
Nguyên tắc: Lãi suất chỉ đạo và mọi thông tin đều được bí mật. Nó sẽ là lãi
suất tối đa mà chính phủ sẽ mua. Lãi suất trúng thầu sẽ là lãi suất đặt thấp
hơn hoặc bằng lãi suất chỉ đạo.
Trên thực thế không phải lúc nào việc phát hành trái phiếu qua hình thức
đấu thầu cũng thành công. Bởi lẽ có những lúc lãi suất bỏ thầu lớn hơn lãi
suất chỉ đạo.
Ví dụ: năm 2008, việc phát hành trái phiếu của Chính phủ đã không thành
công vì Chính phủ đưa mức lãi suất chỉ đạo ra là 9,8% tuy nhiên không có
nhà thầu nào đặt thấp hơn hoặc bằng 9,8%.
Cách xét: Đến ngày quy định, ban tổ chức sẽ mở tất cả các hồ sơ mở thầu.
Sắp xếp các nhà đầu tư theo thứ tự tăng dần của lãi suất mà các nhà đầu tư
đưa ra.
Ví dụ: Nhà nước dự định huy động 1 khoản vay 100 tỷ qua phát hành trái
phiếu với kỳ hạn 3 năm. Lãi suất chỉ đạo là 11%. Các hồ sơ sau khi mở thầu
có số liệu như sau
Khối
Khối
Lãi suất đặt thầu lượng Khối lượng
Nhóm lượng
(%/năm) chọn lũy trúng thầu lũy kế
đặt
kế
1 10,2 5 5 5
2 10,3 10 15 15
3 10,5 30 45 45
4 10,8 75 120 100
5 11 70
6 11,2 40
Gỉa sử có 3 nhà đầu tư nhóm 4 cùng đưa ra mức lãi suất 10,8%.
A khối lượng là 30 tỷ.
B khối lượng 20 tỷ.
C khối lượng 25 tỷ.
Số lượng trái phiếu được huy động từ nhóm 4 là 55 tỷ.
Do vậy, mỗi nhà đầu tư nhóm 4 sẽ được đặt là:
A: 55/75 30 = 22
TXNHLT06_Bai 3_v1.0014108207 53
Bài 3: Ngân sách nhà nước
B: 55/75 20 = 14,67
C: 55/75 25 = 18,33
Còn 3 nhóm 1, 2, 3 sẽ trúng thầu với số lượng đã đăng ký.
Có 2 vấn đề:
Nếu áp dụng một mức lãi suất đồng nhất thì lãi suất trúng thầu sẽ là lãi suất
trúng thầu cao nhất khi các nhà đầu tư chào thầu. Và tất cả các nhà đầu tư
phải mua theo một mức lãi suất đó cho dù mức lãi suất họ đưa ra khác
nhau. Trong trường hợp này, nếu áp dụng một mức lãi suất đồng nhất thì lãi
suất trúng thầu là 10,8%.
Nếu áp dụng đa lãi suất thì nhà đầu tư nào bỏ mức lãi suất nào thì được
mua với mức lãi suất đó. Trong trường hợp này, nhóm 4 mua với mức
10,8%. Nhưng nhóm 1: mua 10,2%, nhóm 2: 10,3 % và nhóm 3 được mua
với mức lãi suất là 10,5%.
Thực ra với hình thức này, chính phủ có thể không huy động được bất cứ
đồng nào từ việc đấu thầu theo lãi suất chỉ đạo.
TH2: Đấu thầu không có lãi suất chỉ đạo
Chính phủ sẽ không đưa ra một mức lãi suất trần nào. Cách thức xét thầu
hoàn toàn như cách xét thầu của lãi suất chỉ đạo.
Cũng lấy từ thấp lên cao cho đủ số lượng bán ra.
Với trường hợp này thì chính phủ luôn vay được đủ số tiền mình cần.
Đấu thầu không cạnh tranh lãi suất
Thường thì khi tiến hành phát hành trái phiếu, chính phủ luôn để ra một tỷ
lệ nhất định để đấu thầu không cạnh tranh lãi suất.
Điều này được ưu tiên cho các nhà đầu tư nhỏ lẻ không có khả năng phân
tích nhưng muốn đầu tư. Họ chấp nhận được lãi suất.
Mức lãi suất được căn cứ vào mức lãi suất hình thành qua đấu thầu cạnh
tranh lãi suất.
Vi dụ: Đấu thầu trái phiếu tại ngân hàng ngoại thương năm 2008. Dành ra
một khoản đấu thầu không cạnh tranh lãi suất. Bên cạnh lãi suất đấu thầu là
6% khi đấu thầu cạnh tranh.
b. Phát hành tiền
Nhà nước phát hành thêm tiền. Việc xử lý bội chi
ngân sách nhà nước có thể thông qua việc nhà
nước phát hành thêm tiền và đưa ra lưu thông. Tuy
nhiên, giải pháp này sẽ gây ra lạm phát nếu nhà
nước phát hành thêm quá nhiều tiền để bù đắp bội
chi ngân sách nhà nước. Đặc biệt, khi nguyên nhân
bội chi ngân sách nhà nước là do thiếu hụt các
nguồn vốn đối ứng để đầu tư cho phát triển gây
“tăng trưởng nóng” và không cân đối với khả năng tài chính của quốc gia.
c. Cắt giảm chi tiêu, tăng thuế…
Việc tăng các khoản thu, đặc biệt là thuế có thể sẽ bù đắp sự thâm hụt ngân sách
nhà nước và giảm bội chi ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, đây không phải là giải
54 TXNHLT05_Bai 3_v1.0014110216
Bài 3: Ngân sách nhà nước
pháp cơ bản để xử lý bội chi ngân sách nhà nước, bởi vì nếu tăng thuế không hợp
lý sẽ dẫn đến làm giá cả hàng hóa tăng gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời
sống nhân dân, nghiêm trọng hơn sẽ triệt tiêu động lực của các doanh nghiệp trong
các ngành sản xuất kinh doanh và làm mất đi khả năng cạnh tranh của nền kinh tế
đối với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Nhóm giải pháp gián tiếp (mang tính triệt để nhằm tăng GDP)
Tăng cường vai trò quản lý nhà nước nhằm bình ổn giá cả, ổn định chính sách vĩ
mô và nâng cao hiệu quả hoạt động trong các khâu của nền kinh tế.
Để thực hiện vai trò của mình, nhà nước sử dụng một hệ thống chính sách và công
cụ quản lý vĩ mô để điều khiển, tác động vào đời sống kinh tế – xã hội, nhằm giải
quyết các mối quan hệ trong nền kinh tế cũng như đời sống xã hội, nhất là mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với
giữ gìn môi trường…
Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi lạm phát là một vấn nạn của các nước trên
thế giới, vấn đề tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với quản lý ngân sách nhà
nước nói chung và xử lý bội chi ngân sách nhà nước nói riêng có ý nghĩa vô cùng
cấp thiết.
o Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công và chi thường xuyên từ ngân sách nhà
nước. Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô cùng quan trọng
với mỗi quốc gia khi xảy ra bội chi ngân sách nhà nước và xuất hiện lạm phát.
o Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công có
nghĩa là chỉ đầu tư vào những dự án mang tính
chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo ra những đột phá
cho sự phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt
những dự án chưa hoặc không hiệu quả thì phải
cắt giảm, thậm chí không đầu tư.
Mặt khác, bên cạnh việc triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công, những khoản chi
thường xuyên của các cơ quan nhà nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi
này không hiệu quả và chưa thực sự cần thiết.
Và một số giải pháp khác…
Có nhiều cách để chính phủ bù đắp thiếu hụt ngân sách như tăng thu từ thuế, phí,
lệ phí; giảm chi ngân sách; vay nợ trong nước, vay nợ nước ngoài; phát hành tiền
để bù đắp chi tiêu… Sử dụng phương cách nào, nguồn nào tùy thuộc vào điều kiện
kinh tế và chính sách kinh tế tài chính trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia đó.
TXNHLT06_Bai 3_v1.0014108207 55
Bài 3: Ngân sách nhà nước
toán ngân sách nhà nước và phân tích các hoạt động kinh tế, tài chính thuộc khu vực
nhà nước.
56 TXNHLT05_Bai 3_v1.0014110216
Bài 3: Ngân sách nhà nước
TXNHLT06_Bai 3_v1.0014108207 57
Bài 3: Ngân sách nhà nước
3.4. Năm ngân sách và chu trình ngân sách nhà nước
Ý, Na uy 1/7/N–1 30/06/N
Dự toán ngân sách gắn chặt với các năm ngân sách, nên khi năm ngân sách này kết
thúc có nghĩa là bắt đầu năm ngân sách mới. Do vậy, hoạt động của ngân sách có tính
chu kỳ, lặp đi lặp lại hình thành nên các chu trình ngân sách liên tục.
58 TXNHLT05_Bai 3_v1.0014110216
Bài 3: Ngân sách nhà nước
bộ quá trình thu, chi ngân sách trong một năm ngân sách. Quyết toán ngân sách nhà
nước sẽ cung cấp đầy đủ thông tin về quản lý điều hành thu, chi ngân sách nhà nước
cho những cơ quan nhà nước có thẩm quyền như: Quốc hội, Hội đồng nhân dân,
Chính phủ, các nhà tài trợ, người dân... từ đó rút ra các ưu điểm, nhược điểm và bài
học kinh nghiệm cho chu trình ngân sách nhà nước tiếp theo.
TXNHLT06_Bai 3_v1.0014108207 59
Bài 3: Ngân sách nhà nước
60 TXNHLT05_Bai 3_v1.0014110216
Bài 3: Ngân sách nhà nước
TXNHLT06_Bai 3_v1.0014108207 61