Professional Documents
Culture Documents
20 Năm Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
20 Năm Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
22/03/2008
I. TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH HỆ THỐNG PHÁP
LUẬT VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
Từ thực tiễn thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(ĐTNN) 20 năm qua, đến nay có thể nói trong điều kiện của thế giới và khu vực
hiện nay, ĐTNN thực sự trở thành hình thức hợp tác kinh tế quốc tế rất hiệu quả
đối với các nước đang phát triển.
Nhìn lại 20 năm trước, trong bối cảnh quốc tế: chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và Đông Âu tan vỡ; các thế lực thù địch tìm cách chống phá Việt Nam
trên nhiều mặt. Thế giới có những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị và an
ninh quốc tế, sự phục hồi chậm của nền kinh tế thế giới và biến động giá cả trên thị
trường quốc tế... Các nước đang phát triển ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á
thực hiện cải cách kinh tế, trở thành khu vực phát triển năng động của thế giới.
Tình hình trong nước: Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng
nề bởi chiến tranh, nền kinh tế ở tình trạng kém phát triển, sản xuất nhỏ, mang
nặng tính chất tự cấp tự túc, cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, nền kinh
tế lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, mức lạm phát lên tới trên 700% vào
năm 1986, sản xuất đình trệ, cơ sở kỹ thuật lạc hậu và lâm vào tình trạng thiếu vốn
trầm trọng.
Với bối cảnh trong nước và quốc tế như vậy, để khôi phục và phát triển
kinh tế-xã hội, Đảng ta đã chủ trương mở cửa nền kinh tế, thực hiện công cuộc
“đổi mới” toàn diện, trong đó có việc hoàn thiện, nâng Điều lệ Đầu tư năm 1977
thành bộ Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, đã khẳng định sự đúng
đắn của chủ trương, đường lối mở cửa nền kinh tế của Đảng, góp phần quan trọng
vào thành công của sự nghiệp ĐỔI MỚI trong chặng đường vừa qua.
Sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã tạo môi
trường pháp lý cao hơn để thu hút vốn ĐTNN vào Việt Nam. Luật này đã bổ sung
và chi tiết hoá các lĩnh vực cần khuyến khích kêu gọi đầu tư cho phù hợp với hoàn
cảnh mới [1].
Đây là một trong những đạo luật đầu tiên của thời kỳ đổi mới. Việc ban
hành Luật Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) tại Việt Nam đã thể chế hóa đường lối của
Đảng, mở đầu cho việc thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ĐTNN, theo
phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại; góp phần
thực hiện chủ trương phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.
Kể từ khi ban hành năm 1987 đến nay, Luật ĐTNN đã được sửa đổi, bổ
sung 4 lần với các mức độ khác nhau vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000; cùng
với các văn bản dưới Luật đã được cộng đồng quốc tế đánh giá là một đạo luật
thông thoáng, hấp dẫn, về cơ bản phù hợp với thông lệ quốc tế. Pháp luật ĐTNN
và các văn bản pháp luật liên quan đến ĐTNN được ban hành đã tạo môi trường
pháp lý đồng bộ cho các hoạt động ĐTNN tại Việt Nam. Cùng với việc hoàn thiện
hệ thống pháp luật, khung pháp lý song phương và đa phương liên quan đến
ĐTNN cũng không ngừng được mở rộng và hoàn thiện với việc nước ta đã ký kết
51 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với các nước và vùng lãnh thổ. Vì
vậy, ngay trong điều kiện cơ chế thị trường của Việt Nam chưa hoàn thiện, các
nhà ĐTNN vẫn có thể tiến hành các hoạt động đầu tư thuận lợi ở Việt Nam mà
không có sự khác biệt đáng kể so với một số nước có kinh tế thị trường truyền
thống.
Nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường pháp lý, tạo sự
thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư và tạo "một sân chơi" bình đẳng,
không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư; đơn giản hoá thủ tục đầu tư, tạo điều
kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư; đáp ứng yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với hoạt
động đầu tư, năm 2005 Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư có hiệu lực từ ngày
01/7/2006 và thay thế Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong
nước. Sự thay đổi này thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với
thành phần kinh tế có vốn ĐTNN, một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Mặt
khác, đó cũng là yêu cầu phù hợp với quy luật chung, nhằm đáp ứng kịp thời sự
biến đổi khách quan của tình hình phát triển kinh tế trong nước cũng như quốc tế
trong từng thời kỳ, để tiến tới một đạo luật ngày càng hoàn chỉnh phù hợp với xu
thế hội nhập, nâng cao khả năng thu hút và sử dụng hiệu quả vốn ĐTNN. Thực tế
đã chứng minh việc ban hành Luật Đầu tư đã góp phần quan trọng trong việc tạo
ra những chuyển biến tích cực của tình hình ĐTNN vào Việt Nam kể từ năm 2006
tới nay.
Từ thực tiễn thu hút ĐTNN 20 năm qua cho thấy việc tạo dựng môi trường
pháp lý cho ĐTNN trong thời gian qua là rất cần thiết trong bối cảnh cạnh tranh
gay gắt thu hút vốn ĐTNN ở khu vực và trên thế giới, Luật Đầu tư nước ngoài đã
thực sự trở thành “đòn bẩy” quan trọng trong việc thu hút ĐTNN vào Việt Nam
trong 20 năm qua, đảm bảo cho việc thực hiện chủ trương thu hút ĐTNN của
Đảng và Nhà nước để phát triển kinh tế-xã hội đất nước ta vừa qua.
Luật Đầu tư năm 2005 xác định việc phân cấp mạnh cho UBND cấp tỉnh và
Ban quản lý Khu Công nghiệp, Khu chế xuất, Khu Công nghệ cao và Khu kinh tế
(sau đây gọi là Ban quản lý) cấp Giấy Chứng nhận đầu tư (GCNĐT) cũng như
quản lý hoạt động đầu tư và giảm bớt những dự án phải trình Thủ tướng Chính
phủ. Thủ tướng Chính phủ chỉ chấp thuận về nguyên tắc đối với một số dự án
quan trọng chưa có trong quy hoạch, hoặc chưa có quy hoạch. Những dự án đã có
trong quy hoạch được duyệt và đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật
và điều ước quốc tế cũng như các dự án còn lại sẽ do UBND cấp tỉnh và Ban
quản lý tự quyết định và cấp GCNĐT.
Việc phân cấp cấp GCNĐT về UBND cấp tỉnh và Ban quản lý là một chủ
trương thực hiện cải cách hành chính trong quản lý kinh tế và đã được tổng kết
trong nhiều năm qua, đã tạo điều kiện thuận lợi để UBND cấp tỉnh và Ban quản lý
thực hiện được trách nhiệm quản lý hoạt động đầu tư trong nước và ĐTNN trên
địa bàn. Việc phân cấp mạnh cho UBND tỉnh và Ban quản lý đã tạo điều kiện cho
các Bộ, ngành quản lý nhà nước tập trung thực hiện chức năng hoạch định chính
sách, dự báo, kiểm tra, giám sát.
Cho tới nay, công tác quản lý hoạt động ĐTNN ở địa phương, nhất là các
địa phương có nhiều doanh nghiệp ĐTNN đã đi vào nề nếp, theo trình tự hợp lý,
đã được đơn giản hóa,…được cộng đồng doanh nghiệp đánh giá có nhiều đổi mới,
góp phần cải thiện môi trường đầu tư-kinh doanh của địa phương.
Bên cạnh đó, các Bộ, ngành và UBND cấp tỉnh đã phối hợp chặt chẽ trong
quá trình thực hiện các nội dung quản lý hoạt động ĐTNN, từ thẩm định cấp
GCNĐT đến hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Bộ Kế hoạch và Đầu tư
đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tổ chức tập huấn, trao đổi nghiệp vụ và
hỗ trợ các địa phương từ việc tổ chức hội nghị, hội thảo vận động xúc tiến, xây
dựng danh mục dự án kêu gọi đầu tư, ban hành văn bản hướng dẫn về ĐTNN tại
địa bàn,…. đưa hoạt động quản lý ĐTNN ở các địa phương đi vào nề nếp. Mô
hình “một cửa, liên thông”, cách làm “trải thảm đỏ đón nhà đầu tư” tiếp tục xuất
hiện và có tác động lan toả rộng khắp trong cả nước, đã góp phần nâng cao hiệu
quả thu hút và sử dụng vốn ĐTNN vào Việt Nam.
Khuôn khổ pháp lý từng bước được hoàn thiện và nâng cao chất lượng quản
lý là các yếu tố và động lực góp phần đưa lại kết quả đáng khích lệ của hoạt động
ĐTNN tại Việt Nam, góp phần xác định vai trò quan trọng của khu vực kinh tế có
vốn ĐTNN trong sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hoá (CNH-HĐH) đất nước
ta.
II. KẾT QUẢ THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐTNN TẠI VÀO VIỆT
NAM QUA 20 NĂM
II.1.3. Quy mô dự án :
Qua các thời kỳ, quy mô dự án ĐTNN có sự biến động thể hiện khả năng
tài chính cũng như sự quan tâm của các nhà ĐTNN đối với môi trường đầu tư Việt
Nam. Quy mô vốn đầu tư bình quân của một dự án ĐTNN tăng dần qua các giai
đoạn, tuy có “trầm lắng” trong vài năm sau khủng hoảng tài chính khu vực 1997.
Thời kỳ 1988-1990 quy mô vốn đầu tư đăng ký bình quân đạt 7,5 triệu USD/dự
án/năm. Từ mức quy mô vốn đăng ký bình quân của một dự án đạt 11,6 triệu USD
trong giai đoạn 1991-1995 đã tăng lên 12,3 triệu USD/dự án trong 5 năm 1996-
2000. Điều này thể hiện số lượng các dự án quy mô lớn được cấp phép trong giai
đoạn 1996-2000 nhiều hơn trong 5 năm trước. Tuy nhiên, quy mô vốn đăng ký
trên giảm xuống 3,4 triệu USD/dự án trong thời kỳ 2001-2005. Điều này cho thấy
đa phần các dự án cấp mới trong giai đoạn 2001-2005 thuộc dự án có quy mô vừa
và nhỏ. Trong 2 năm 2006 và 2007, quy mô vốn đầu tư trung bình của một dự án
đều ở mức 14,4 triệu USD, cho thấy số dự án có quy mô lớn đã tăng lên so với
thời kỳ trước, thể hiện qua sự quan tâm của một số tập đoàn đa quốc gia đầu tư
vào một số dự án lớn (Intel, Panasonic, Honhai, Compal, Piaggio....).
Trong năm 2007 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào lĩnh vực
công nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh
vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm
2006 (31,19%) với nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây
dựng khu vui chơi, giải trí.v.v.
Tính đến hết năm 2007, chủ yếu các doanh nghiệp ĐTNN thực hiện theo
hình thức 100% vốn nước ngoài, có 6.685 dự án ĐTNN với tổng vốn đăng ký 51,2
tỷ USD, chiếm 77,2% về số dự án và 61,6% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức liên
doanh có 1.619 dự án với tổng vốn đăng ký 23,8 tỷ USD, chiếm 18,8% về số dự
án và 28,7% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh có
221 dự án với tổng vốn đăng ký 4,5 tỷ USD chiếm 2,5% về số dự án và 5,5% tổng
vốn đăng ký. Số còn lại thuộc các hình thức khác như BOT, BT, BTO. Có thể so
sánh tỷ trọng dự án hoạt động theo hình thức 100% vốn nước ngoài tính đến hết
năm 2004 là 39,9%, theo hình thức liên doanh là 40,6% và theo hình thứuc hợp
doanh là 19,5% để thấy được hình thức 100% vốn nước ngoài được các nhà đầu tư
lựa chọn hơn.
Tình hình phát triển các KCN, KCX, KCNC, KKT (gọi chung là
KCN).
Cả nước hiện có 154 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên
gần 33.000 ha, phân bổ trên 55 địa phương, 10 Khu kinh tế (KKT) được thành lập
với tổng diện tích đất tự nhiên xấp xỉ 550.000 ha và 2 KCNC (Hoà Lạc và tp Hồ
Chí Minh). Trong hơn 16 năm xây dựng và phát triển KCN, KCX và hơn 3 năm
thành lập KKT cho thấy khu vực này có đóng góp ngày càng quan trọng trong việc
thu hút vốn ĐTNN, đến cuối năm 2007 đã thu hút gần 2.700 dự án ĐTNN còn
hiệu lực với tổng vốn đăng ký khoảng 31 tỷ USD, chiếm 34% về số dự án và 37%
tổng vốn đăng ký của cả nước. Các dự án đầu tư công nghiệp đang có xu hướng
tăng nhanh tại các KCN-KCX. Các dự án đầu tư trong nước và nước ngoài trong
KCN, KCX đa dạng về hình thức đầu tư. (xem chi tiết tại Báo cáo đính kèm)
II.2. Tình hình triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh của các dự án
ĐTNN.
II.2.1. Vốn giải ngân ĐTNN từ 1988 đến 2007:
Trong số 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký hơn 83 tỷ đô la
Mỹ, đã có khoảng 50% dự án triển khai góp vốn thực hiện đạt hơn 43 tỷ USD (bao
gồm cả vốn thực hiện của các dự án hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời
hạn), chiếm 52,3% tổng vốn đăng ký, trong đó, vốn của bên nước ngoài đưa vào
(gồm vốn góp và vốn vay) khoảng 37,9 tỷ USD, chiếm 89,5% tổng vốn thực hiện,
các dự án ĐTNN đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế-
xã hội đất nước qua từng thời kỳ theo mục tiêu kế hoạch đề ra.
Vốn thực hiện có xu hướng tăng qua các năm nhưng với tốc độ
chậm trong khi vốn đăng ký và số lượng dự án cấp mới biến động tăng mạnh. Nếu
như cả giai đoạn 1991-1995 vốn thực hiện mới đạt 7,1 tỷ USD, chiếm 44% tổng
vốn đăng ký mới ( bao gồm phần vốn góp của Bên Việt Nam trên 1 tỷ USD - chủ
yếu là giá trị quyền sử dụng đất và vốn nước ngoài đưa vào khoảng 6,1 tỷ USD)
thì trong thời kỳ 1996-2000, mặc dù có ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh
tế khu vực, vốn thực hiện đã đạt 13,5 tỷ USD, tăng 89% so với 5 năm trước, chiếm
64,8% tổng vốn đăng ký mới (trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam là 1,4 tỷ USD
và vốn từ nước ngoài đạt 12 tỷ USD) và tăng 90% so với 5 năm trước. Trong 5
năm 2001-2005 vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD, chiếm 64,8% tổng vốn đăng ký
mới, tăng 6% so với 5 năm trước và vượt 30% dự báo ban đầu (11 tỷ USD) nêu
tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP, trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam đạt trên 1,1
tỷ USD và vốn từ nước ngoài đạt 12,6 tỷ USD. Riêng hai năm 2006 và 2007 tổng
vốn thực hiện đạt 8,7 tỷ USD (trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam đạt gần 1 tỷ
USD và vốn từ nước ngoài đạt 7,7 tỷ USD), tuy chỉ bằng 27% tổng vốn đăng ký
mới, nhưng vốn thực hiện năm 2007 tăng 12% so với năm 2006, và sẽ là tiền đề
cho việc giải ngân của 2 năm tới 2008 và 2009 tăng cao vì trong các dự án cấp mới
trong 2 năm 2006 và 2007 có nhiều dự án quy mô vốn đăng ký lớn.
II.2.2. Triển khai hoạt động sản xuất-kinh doanh của dự án ĐTNN :
Trong 20 năm qua, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã góp phần đáng kể
trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội đất nước bằng việc tạo ra tổng giá trị
doanh thu đáng kể, trong đó có giá trị xuất khẩu, cũng như đóng góp tích cực vào
ngân sách và tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động. Đồng thời, tiếp
tục khẳng định vai trò trong sự nghiệp phát triển kinh tế, đóng góp ngày càng lớn
vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của đất nước và thực sự trở thành bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế. Từ mức đóng góp trung bình 6,3% của GDP
trong giai đoạn 1991-1995, khu vực doanh nghiệp ĐTNN đã tăng lên 10,3% GDP
của 5 năm 1996-2000. Trong thời kỳ 2001-2005, tỷ trọng trên đạt trung bình là
14,6%. Riêng năm 2005, khu vực ĐTNN đóng góp khoảng 15,5% GDP, cao hơn
mục tiêu đề ra tại Nghị quyết 09 (15%). Trong hai năm 2006 và 2007 khu vực
kinh tế có vốn ĐTNN đóng góp trên 17% GDP.
Nếu trong giai đoạn 1991-1995 tổng giá trị doanh thu mới đạt 4,1 tỷ USD
(trong đó giá trị xuất khẩu không tính dầu thô đạt 1,2 tỷ USD, chiếm 30% tổng
doanh thu) thì trong thời kỳ 1996-2000 tổng giá trị doanh thu đã đạt 27,09 tỷ USD
(trong đó giá trị xuất khẩu không tính dầu thô đạt 10,59 tỷ USD, chiếm 39% tổng
doanh thu), tăng gấp 6,5 lần so với 5 năm trước. Trong giai đoạn 2001-2005 tổng
giá trị doanh thu đạt 77,4 tỷ USD (trong đó giá trị xuất khẩu không tính dầu thô
đạt 34,6 tỷ USD, chiếm 44,7% tổng doanh thu), tăng gấp 2,8 lần so với 5 năm
1996-2000. Trong hai năm 2006, 2007 tổng giá trị doanh thu đạt 69 tỷ USD, trong
đó giá trị xuất khẩu (trừ dầu thô) đạt 28,6 tỷ USD, chiếm 41% tổng doanh thu.
Không kể dầu thô, giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN cũng gia
tăng nhanh chóng. Cả thời kỳ 1991-1995 tổng giá trị xuất khẩu mới đạt 1,2 tỷ
USD, nhưng đã tăng lên 10,5 tỷ USD trong giai đoạn 1996-2000, gấp hơn 8 lần so
với 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, giá trị trên đạt hơn 34,6 tỷ USD, cao
gấp 3 lần so với thời kỳ 5 năm trước, trong đó năm sau tăng hơn năm trước, năm
2002 tăng 25%, năm 2003 tăng 38%, năm 2004 tăng 39%, năm 2005 đạt 11,2 tỷ
USD, tăng 26%, đóng góp 35% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước; tính
cả dầu thô tỷ lệ này là 56%. Năm 2006 giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn
ĐTNN đạt (nếu tính cả dầu thô) đạt 12,6 tỷ USD, chiếm trên 57% tổng giá trị xuất
khẩu của cả nước. Năm 2007, giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN đạt
19,7 triệu USD, nếu tính cả dầu thô thì giá trị xuất khẩu là 27,3 tỷ USD, chiếm
56,8% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước.
Tuy những năm đầu thi hành Luật Đầu tư nước ngoài, khu vực kinh tế có
vốn ĐTNN được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước, nhưng cũng đã tích cực
đóng góp vào ngân sách nhà nước, thể hiện qua việc thu nộp ngân sách tăng dần
qua các năm và bắt đầu vượt ngưỡng 1 tỷ USD từ năm 2005 (đạt 1,29 tỷ USD,
tăng 39,5% so với năm trước và chiếm 12% tổng thu ngân sách nhà nước, vượt
mục tiêu đề ra tại Nghị quyết 09 (10%). Giai đoạn 1991-1995 do chính sách ưu
đãi, khuyến khích ĐTNN của Nhà nước ta nên các doanh nghiệp ĐTNN đóng góp
ngân sách còn hạn chế 115 triệu USD, nhưng con số này đã tăng hơn 10 lần trong
thời kỳ 1996-2000 (đạt 1,49 tỷ USD). Lý do một số doanh nghiệp ĐTNN đã qua
thời gian hưởng chính sách ưu đãi thuế của nhà nước. Giai đoạn 2001-2005 khu
vực doanh nghiệp ĐTNN đã nộp ngân sách hơn 3,6 tỷ USD, tăng gấp hơn 2 lần 5
năm trước. Năm 2006 con số trên đạt 1,4 tỷ USD, bằng cả 5 năm 1996-2000. Năm
2007, dự kiến thu ngân sách đạt 1,576 tỷ USD, tăng 7% so với năm trước.
Đồng thời, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cũng tạo việc làm và thu nhập ổn
định cho một bộ phận dân cư, tính từ 1988 đến cuối 2007 có trên 1,26 triệu lao
động trực tiếp, chưa kể số lao động gián tiếp khác làm việc trong khu vực dịch vụ
mà theo kết quả điều tra của Ngân hàng Thế giới, cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo
việc làm cho khoảng từ 2-3 lao động gián tiếp khác. Số lao động làm việc trong
các doanh nghiệp ĐTNN cũng tăng lên qua từng giai đoạn, từ 21 vạn người vào
cuối năm 1995 đã tăng lên 37,9 vạn người vào cuối năm 2000, tăng 80% so với 5
năm trước. Đến cuối năm 2005 đã tăng gấp 2,5 lần so với 5 năm trước thể hiện số
lượng các doanh nghiệp đi vào triển khai dự án tăng lên. Trong 2 năm 2006 và
2007 do lượng dự án vào nhiều và triển khai nhanh nên số lượng lao động trong
khu vực ĐTNN tính đến cuối 2 năm này đã tăng 9,9% và 12% so với cuối năm
2005.
II.2.3. Rút Giấy phép đầu tư, giải thể trước thời hạn:
Tính đến hết năm 2007, đã có 38 dự án ĐTNN kết thúc đúng thời
hạn với tổng vốn đăng ký 658 triệu USD. Các dự án kết thúc đúng thời hạn chủ
yếu là các dự án đầu tư trong những lĩnh vực đặc thù như trục vớt tàu đắm, thăm
dò và khai thác dầu, khí, nuôi trồng thuỷ sản... Đồng thời, đã có 1.359 dự án
ĐTNN bị giải thể trước thời hạn với số vốn đăng ký giải thể khoảng 15,5 tỷ USD,
trong đó, vốn giải thể chủ yếu tập trung trong lĩnh vực dịch vụ chiếm 50%, lĩnh
vực công nghiệp- xây dựng chiếm 42,3%. Điều này cho thấy các doanh nghiệp
thuộc dịch vụ không vượt qua được khó khăn, trở ngại trong hoạt động. Trong các
dự án ĐTNN bị giải thể, số dự án hoạt động theo hình thức liên doanh chiếm đa số
(56% về số dự án và 67,2% về tổng vốn đăng ký), tiếp theo là hình thức Hợp
doanh (10,2% về số dự án và 15,5% về tổng vốn đăng ký). Hình thức 100% vốn
nước ngoài chiếm13,1% về số dự án và 15,5% về tổng vốn đăng ký
Vốn ĐTNN đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Từ năm
1991-2000, GDP tăng liên tục qua các năm với tốc động tăng bình quân mỗi năm
7,56%, trong đó: (i) 5 năm 1991-1995: tăng 8,18% (nông lâm ngư tăng 2,4%; công
nghiệp xây dựng tăng 11,3%, dịch vụ tăng 7,2%); (ii) 5 năm 1996-2000: tăng
6,94% (nông lâm ngư tăng 4,3%; công nghiệp xây dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng
5,75%). Nhờ vậy, đến năm 2000 tổng sản phẩm trong nước tăng gấp hơn 2 lần
năm 1990: (iii) 5 năm 2001-2005: tốc độ tăng GDP đạt 7,5% (nông lâm ngư tăng
3,8%; công nghiệp xây dựng tăng 10,2%, dịch vụ tăng 7%; (iv) Năm 2006 đạt
8,17% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng tăng 10,37%, dịch vụ tăng
8,29% và (iv) Năm 2007 đạt 8,48% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây
dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng 8,6%.
- ĐTNN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng
cao năng lực sản xuất công nghiệp:
Trong 20 năm qua ĐTNN đóng một vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng
của nền kinh tế nói chung và cho ngành công nghiệp nói riêng, trong đó từng bước
trở thành nguồn đầu tư quan trọng của Quốc gia, góp phần phát triển các ngành
công nghiệp và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Nhiều công trình lớn đã
hoàn thành đưa vào sản xuất, phát huy hiệu quả đầu tư, nhiều công trình trọng
điểm làm cơ sở cho tăng trưởng giai đoạn sau đó được khởi công và đẩy nhanh
tiến độ, nhất là các công trình điện, dầu khí, công nghiệp nặng, công nghiệp phục
vụ xuất khẩu...
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cao hơn
mức tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), tăng tỷ
trọng của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong ngành công nghiệp qua các năm (từ
23,79% vào năm 1991 lên 40% năm 2004, 41% năm 2005 và năm 2006).
Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN
trong 5 năm qua chiếm trung bình 42,5% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước.
Cụ thể tỷ trọng trên tăng từ 41,3% vào năm 2000 lên 43,7% vào 2 năm 2004 và
2005. Đặc biệt, một số địa phương (Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc..) tỷ lệ
này đạt đến 65-70% giá trị sản xuất công nghiệp của địa bàn.
ĐTNN đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực của
nhiều ngành công nghiệp như dầu khí, công nghệ thông tin, hóa chất, ô tô, xe máy,
thép, điện tử và điện tử gia dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da
giày, dệt may… Hiện ĐTNN đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm công
nghiệp (dầu khí, thiết bị máy tính, máy giặt, điều hòa), 60% cán thép, 33% hàng
điện tử, 76% dụng cụ y tế chính xác, 49% sản phẩm da giày, 55% sản lượng sợi,
25% hàng may mặc.
ĐTNN đã góp phần hình thành và phát triển trong cả nước hệ thống các khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao tương đối đồng bộ và hiện đại, đem
lại hiệu quả sử dụng đất cao hơn ở một số địa phương đất đai kém màu mỡ.
- Tác động lan tỏa của ĐTNN đến các thành phần kinh tế khác trong nền
kinh tế:
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ĐTNN được nâng cao qua số lượng
các doanh nghiệp tăng vốn đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất. Đồng thời, có tác
động lan tỏa đến các thành phần khác của nền kinh tế thông qua sự liên kết giữa
doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh nghiệp trong nước, công nghệ và năng
lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Sự lan tỏa này
có thể theo hàng dọc giữa các doanh nghiệp trong ngành dọc hoặc theo hàng
ngang giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành. Mặt khác, các doanh nghiệp
ĐTNN cũng tạo động lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước nhằm thích
ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa.
- ĐTNN đóng góp đáng kể vào NSNN và các cân đối vĩ mô:
Cùng với sự phát triển các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt
Nam, mức đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách ngày càng
tăng. Thời kỳ 1996-2000, không kể thu từ dầu thô, các doanh nghiệp ĐTNN đã
nộp ngân sách đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005,
thu ngân sách trong khối doanh nghiệp ĐTNN đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân
24%/năm. Riêng 2 năm 2006 và 2007 khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã nộp ngân
sách đạt trên 3 tỷ USD, gấp đôi thời kỳ 1996-2000 và bằng 83% thời kỳ 2001-
2005.
ĐTNN tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như
cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế thông qua
việc chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách
quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua máy móc và nguyên, vật liệu...
- ĐTNN góp phần giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống
kinh tế quốc tế:
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng nhanh,
cao hơn mức bình quân chung của cả nước, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng
kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Thời kỳ 1996-2000, xuất khẩu của khu vực
ĐTNN đạt 10,6 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước,
chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả nước; năm 2000 chiếm 25%, năm 2003 chiếm
31%; tính cả dầu thô thì tỷ trọng này đạt khoảng 54% năm 2004 và chiếm trên
55% trong các năm 2005, 2006 và 2007.
ĐTNN chiếm một tỷ trọng cao trong xuất khẩu một số sản phẩm: 100% dầu
khí, 84% hàng điện tử, máy tính và linh kiện, 42% sản phẩm da giày, 35% hàng
may mặc… Thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn xuyên quốc gia,
nhiều sản phẩm sản xuất tại Việt Nam đã tiếp cận được với các thị trường trên thế
giới.
Trong lĩnh vực khách sạn và du lịch, ĐTNN đã tạo ra nhiều khách
sạn cao cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế 4, 5 sao cũng như các khu du lịch, nghỉ dưỡng
đáp ứng nhu cầu khách du lịch quốc tế, góp phần gia tăng nhanh chóng xuất khẩu
tại chỗ.
Bên cạnh đó, ĐTNN còn góp phần đưa nền kinh tế nước ta từng
bước hội nhập với kinh tế thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Về mặt xã hội:
- ĐTNN góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng suất lao
động, cải thiện nguồn nhân lực:
Đến nay, khu vực có vốn ĐTNN đã tạo ra việc làm cho trên 1,2 triệu
lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp khác theo kết quả điều tra của
WB cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho từ 2-3 lao động gián tiếp phục vụ
trong khu vực dịch vụ và xây dựng, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện
đời sống một bộ phận trong cộng đồng dân cư, đưa mức GDP đầu người tăng lên
hàng năm. Thông qua sự tham gia trực tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp có
vốn ĐTNN, Việt Nam đã từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân
kỹ thuật có trình độ cao, có tay nghề, từng bước tiếp cận được với khoa học, kỹ
thuật, công nghệ cao và có tác phong công nghiệp hiên đại, có kỷ luật lao động tốt,
học hỏi được các phương thức, kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam cũng đã thúc
đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới công nghệ, phương thức
quản lý để nâng cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ trên
thị trường trong nước và quốc tế. Đặc biệt, một số chuyên gia Việt Nam làm việc
tại các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã dần thay thế các chuyên gia nước ngoài
trong đảm nhiệm các vị trí quản lý doanh nghiệp cũng như điều khiển các quy
trình công nghệ hiện đại.
- ĐTNN góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế
với khu vực và thế giới:
ĐTNN đã góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ cấm vận của Hoa
Kỳ đối với Việt Nam, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng
đa phương hóa và đa dạng hóa, thúc đẩy Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế khu
vực và thế giới, đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại và đầu tư. Đến nay,
Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO. Nước ta
cũng đã ký kết 51 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, trong đó có Hiệp định
thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA), Hiệp định tự do hoá, khuyến khích và bảo
hộ đầu tư với Nhật Bản. Thông qua tiếng nói và sự ủng hộ của các nhà đầu tư
nước ngoài, hình ảnh và vị thế của Việt Nam không ngừng được cải thiện.
IV. TRIỂN VỌNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM TRONG
THỜI GIAN TỚI
Chủ trương tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) được thể hiện trong các văn kiện của Đảng, Nhà
nước và tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần X. [5] Mục tiêu và
định hướng thu hút ĐTNN giai đoạn tới được xác định như sau:
IV.2. Định hướng thu hút vốn đầu tư trong một số ngành:
- Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý nhà nước đối với ĐTNN, đặc biệt
trong việc phê duyệt, cấp Giấy chứng nhận đầu tư, quản lý tốt các dự án ĐTNN,
gắn với việc tăng cường hợp tác, hỗ trợ, phối hợp hiệu quả công tác kiểm tra, giám
sát việc thi hành pháp luật về đầu tư.
- Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo thực hiện
nhiệm vụ theo quy định tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp quản lý đầu
tư nước ngoài.
- Đơn giản hóa và công khai quy trình, thủ tục hành chính đối với đầu tư
nước ngoài, thực hiện cơ chế "một cửa" trong việc giải quyết thủ tục đầu tư. Đảm
bảo sự thống nhất, các quy trình, thủ tục tại các địa phương, đồng thời, phù hợp
với điều kiện cụ thể.
- Xử lý dứt điểm, kịp thời các vấn đề vướng mắc trong quá trình cấp phép,
điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư .
- Tăng cường cơ chế phối hợp quản lý đầu tư nước ngoài giữa Trung ương
và địa phương và giữa các Bộ, ngành liên quan.
- Trong các giải pháp nêu trên cần phải tính đến yếu tố vùng, miền cho các
định hướng ưu tiên, đặc thù.. phù hợp thực tế để dần thu hẹp khoảng cách giữa các
vùng, miền trong thu hút ĐTNN phục vụ phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn nói
riêng và cả nước nói chung.
- Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng
nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý
công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan quản lý nhà nước.