You are on page 1of 27

20 Năm Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1988 - 2007)

22/03/2008
I. TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH HỆ THỐNG PHÁP
LUẬT VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

Từ thực tiễn thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(ĐTNN) 20 năm qua, đến nay có thể nói trong điều kiện của thế giới và khu vực
hiện nay, ĐTNN thực sự trở thành hình thức hợp tác kinh tế quốc tế rất hiệu quả
đối với các nước đang phát triển.
Nhìn lại 20 năm trước, trong bối cảnh quốc tế: chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và Đông Âu tan vỡ; các thế lực thù địch tìm cách chống phá Việt Nam
trên nhiều mặt. Thế giới có những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị và an
ninh quốc tế, sự phục hồi chậm của nền kinh tế thế giới và biến động giá cả trên thị
trường quốc tế... Các nước đang phát triển ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á
thực hiện cải cách kinh tế, trở thành khu vực phát triển năng động của thế giới.
Tình hình trong nước: Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng
nề bởi chiến tranh, nền kinh tế ở tình trạng kém phát triển, sản xuất nhỏ, mang
nặng tính chất tự cấp tự túc, cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, nền kinh
tế lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, mức lạm phát lên tới trên 700% vào
năm 1986, sản xuất đình trệ, cơ sở kỹ thuật lạc hậu và lâm vào tình trạng thiếu vốn
trầm trọng.
Với bối cảnh trong nước và quốc tế như vậy, để khôi phục và phát triển
kinh tế-xã hội, Đảng ta đã chủ trương mở cửa nền kinh tế, thực hiện công cuộc
“đổi mới” toàn diện, trong đó có việc hoàn thiện, nâng Điều lệ Đầu tư năm 1977
thành bộ Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, đã khẳng định sự đúng
đắn của chủ trương, đường lối mở cửa nền kinh tế của Đảng, góp phần quan trọng
vào thành công của sự nghiệp ĐỔI MỚI trong chặng đường vừa qua.
Sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã tạo môi
trường pháp lý cao hơn để thu hút vốn ĐTNN vào Việt Nam. Luật này đã bổ sung
và chi tiết hoá các lĩnh vực cần khuyến khích kêu gọi đầu tư cho phù hợp với hoàn
cảnh mới [1].
Đây là một trong những đạo luật đầu tiên của thời kỳ đổi mới. Việc ban
hành Luật Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) tại Việt Nam đã thể chế hóa đường lối của
Đảng, mở đầu cho việc thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ĐTNN, theo
phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại; góp phần
thực hiện chủ trương phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.
Kể từ khi ban hành năm 1987 đến nay, Luật ĐTNN đã được sửa đổi, bổ
sung 4 lần với các mức độ khác nhau vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000; cùng
với các văn bản dưới Luật đã được cộng đồng quốc tế đánh giá là một đạo luật
thông thoáng, hấp dẫn, về cơ bản phù hợp với thông lệ quốc tế. Pháp luật ĐTNN
và các văn bản pháp luật liên quan đến ĐTNN được ban hành đã tạo môi trường
pháp lý đồng bộ cho các hoạt động ĐTNN tại Việt Nam. Cùng với việc hoàn thiện
hệ thống pháp luật, khung pháp lý song phương và đa phương liên quan đến
ĐTNN cũng không ngừng được mở rộng và hoàn thiện với việc nước ta đã ký kết
51 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với các nước và vùng lãnh thổ. Vì
vậy, ngay trong điều kiện cơ chế thị trường của Việt Nam chưa hoàn thiện, các
nhà ĐTNN vẫn có thể tiến hành các hoạt động đầu tư thuận lợi ở Việt Nam mà
không có sự khác biệt đáng kể so với một số nước có kinh tế thị trường truyền
thống.
Nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường pháp lý, tạo sự
thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư và tạo "một sân chơi" bình đẳng,
không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư; đơn giản hoá thủ tục đầu tư, tạo điều
kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư; đáp ứng yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với hoạt
động đầu tư, năm 2005 Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư có hiệu lực từ ngày
01/7/2006 và thay thế Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong
nước. Sự thay đổi này thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với
thành phần kinh tế có vốn ĐTNN, một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Mặt
khác, đó cũng là yêu cầu phù hợp với quy luật chung, nhằm đáp ứng kịp thời sự
biến đổi khách quan của tình hình phát triển kinh tế trong nước cũng như quốc tế
trong từng thời kỳ, để tiến tới một đạo luật ngày càng hoàn chỉnh phù hợp với xu
thế hội nhập, nâng cao khả năng thu hút và sử dụng hiệu quả vốn ĐTNN. Thực tế
đã chứng minh việc ban hành Luật Đầu tư đã góp phần quan trọng trong việc tạo
ra những chuyển biến tích cực của tình hình ĐTNN vào Việt Nam kể từ năm 2006
tới nay.
Từ thực tiễn thu hút ĐTNN 20 năm qua cho thấy việc tạo dựng môi trường
pháp lý cho ĐTNN trong thời gian qua là rất cần thiết trong bối cảnh cạnh tranh
gay gắt thu hút vốn ĐTNN ở khu vực và trên thế giới, Luật Đầu tư nước ngoài đã
thực sự trở thành “đòn bẩy” quan trọng trong việc thu hút ĐTNN vào Việt Nam
trong 20 năm qua, đảm bảo cho việc thực hiện chủ trương thu hút ĐTNN của
Đảng và Nhà nước để phát triển kinh tế-xã hội đất nước ta vừa qua.
Luật Đầu tư năm 2005 xác định việc phân cấp mạnh cho UBND cấp tỉnh và
Ban quản lý Khu Công nghiệp, Khu chế xuất, Khu Công nghệ cao và Khu kinh tế
(sau đây gọi là Ban quản lý) cấp Giấy Chứng nhận đầu tư (GCNĐT) cũng như
quản lý hoạt động đầu tư và giảm bớt những dự án phải trình Thủ tướng Chính
phủ. Thủ tướng Chính phủ chỉ chấp thuận về nguyên tắc đối với một số dự án
quan trọng chưa có trong quy hoạch, hoặc chưa có quy hoạch. Những dự án đã có
trong quy hoạch được duyệt và đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật
và điều ước quốc tế cũng như các dự án còn lại sẽ do UBND cấp tỉnh và Ban
quản lý tự quyết định và cấp GCNĐT.
Việc phân cấp cấp GCNĐT về UBND cấp tỉnh và Ban quản lý là một chủ
trương thực hiện cải cách hành chính trong quản lý kinh tế và đã được tổng kết
trong nhiều năm qua, đã tạo điều kiện thuận lợi để UBND cấp tỉnh và Ban quản lý
thực hiện được trách nhiệm quản lý hoạt động đầu tư trong nước và ĐTNN trên
địa bàn. Việc phân cấp mạnh cho UBND tỉnh và Ban quản lý đã tạo điều kiện cho
các Bộ, ngành quản lý nhà nước tập trung thực hiện chức năng hoạch định chính
sách, dự báo, kiểm tra, giám sát.
Cho tới nay, công tác quản lý hoạt động ĐTNN ở địa phương, nhất là các
địa phương có nhiều doanh nghiệp ĐTNN đã đi vào nề nếp, theo trình tự hợp lý,
đã được đơn giản hóa,…được cộng đồng doanh nghiệp đánh giá có nhiều đổi mới,
góp phần cải thiện môi trường đầu tư-kinh doanh của địa phương.
Bên cạnh đó, các Bộ, ngành và UBND cấp tỉnh đã phối hợp chặt chẽ trong
quá trình thực hiện các nội dung quản lý hoạt động ĐTNN, từ thẩm định cấp
GCNĐT đến hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Bộ Kế hoạch và Đầu tư
đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tổ chức tập huấn, trao đổi nghiệp vụ và
hỗ trợ các địa phương từ việc tổ chức hội nghị, hội thảo vận động xúc tiến, xây
dựng danh mục dự án kêu gọi đầu tư, ban hành văn bản hướng dẫn về ĐTNN tại
địa bàn,…. đưa hoạt động quản lý ĐTNN ở các địa phương đi vào nề nếp. Mô
hình “một cửa, liên thông”, cách làm “trải thảm đỏ đón nhà đầu tư” tiếp tục xuất
hiện và có tác động lan toả rộng khắp trong cả nước, đã góp phần nâng cao hiệu
quả thu hút và sử dụng vốn ĐTNN vào Việt Nam.

Khuôn khổ pháp lý từng bước được hoàn thiện và nâng cao chất lượng quản
lý là các yếu tố và động lực góp phần đưa lại kết quả đáng khích lệ của hoạt động
ĐTNN tại Việt Nam, góp phần xác định vai trò quan trọng của khu vực kinh tế có
vốn ĐTNN trong sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hoá (CNH-HĐH) đất nước
ta.

II. KẾT QUẢ THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐTNN TẠI VÀO VIỆT
NAM QUA 20 NĂM

II.1. Tình hình thu hút vốn ĐTNN đăng ký từ 1988-2007:


II.1.1. Cấp phép đầu tư từ 1988 đến 2007:
Tính đến cuối năm 2007, cả nước có hơn 9.500 dự án ĐTNN được cấp phép
đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm). Trừ các dự
án đã hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện có 8.590 dự án còn
hiệu lực với tổng vốn đăng ký 83,1 tỷ USD. Biểu đồ tình hình cấp chứng nhận đầu
tư tại Việt Nam có sự biến động (xem tại Phụ lục).
Trong 3 năm 1988-1990, mới thực thi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam nên kết quả thu hút vốn ĐTNN còn ít (214 dự án với tổng vốn đăng ký
cấp mới 1,6 tỷ USD), ĐTNN chưa tác động đến tình hình kinh tế-xã hội đất nước.
Trong thời kỳ 1991-1995, vốn ĐTNN đã tăng lên (1.409 dự án với tổng vốn
đăng ký cấp mới 18,3 tỷ USD) và có tác động tích cực đến tình hình kinh tế-xã hội
đất nước. Thời kỳ 1991-1996 được xem là thời kỳ “bùng nổ” ĐTNN tại Việt Nam
(có thể coi như là “làn sóng ĐTNN” đầu tiên vào Việt Nam) với 1.781 dự án được
cấp phép có tổng vốn đăng ký (gồm cả vốn cấp mới và tăng vốn) 28,3 tỷ USD.
Đây là giai đoạn mà môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam đã bắt đầu hấp
dẫn nhà đầu tư do chi phí đầu tư-kinh doanh thấp so với một số nước trong khu
vực; sẵn lực lượng lao động với giá nhân công rẻ, thị trường mới, vì vậy, ĐTNN
tăng trưởng nhanh chóng, có tác động lan tỏa tới các thành phần kinh tế khác và
đóng góp tích cực vào thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội của đất nước. Năm
1995 thu hút được 6,6 tỷ USD vốn đăng ký, tăng gấp 5,5 lần năm 1991 (1,2 tỷ
USD). Năm 1996 thu hút được 8,8 tỷ USD vốn đăng ký, tăng 45% so với năm
trước.
Trong 3 năm 1997-1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký
hơn 13 tỷ USD; nhưng vốn đăng ký của năm sau ít hơn năm trước (năm 1998 chỉ
bằng 81,8% năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 46,8% năm 1998), chủ yếu là các dự án
có quy mô vốn vừa và nhỏ. Cũng trong thời gian này nhiều dự án ĐTNN được cấp
phép trong những năm trước đã phải tạm dừng triển khai hoạt động do nhà đầu tư
gặp khó khăn về tài chính (đa số từ Hàn Quốc, Hồng Kông).
Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu
phục hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng 21% so
với năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký
giảm, chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 (đạt 3,1 tỷ USD), tăng 6% so
với năm 2002. Và có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5 tỷ USD) tăng
45,1% so với năm trước; năm 2005 tăng 50,8%; năm 2006 tăng 75,4% và năm
2007 đạt mức kỷ lục trong 20 năm qua 20,3 tỷ USD, tăng 69% so với năm 2006,
và tăng hơn gấp đôi so với năm 1996, năm cao nhất của thời kỳ trước khủng
hoảng.
Trong giai đoạn 2001-2005 thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) đạt 20,8 tỷ
USD vượt 73% so với mục tiêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001
của Chính phủ [2], vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD tăng 30% so với mục tiêu. Nhìn
chung trong 5 năm 2001-2005, vốn ĐTNN cấp mới đều tăng đạt mức năm sau cao
hơn năm trước (tỷ trọng tăng trung bình 59,5%), nhưng đa phần là các dự án có
quy mô vừa và nhỏ. Đặc biệt trong 2 năm 2006-2007, dòng vốn ĐTNN vào nước
ta đã tăng đáng kể (32,3 tỷ USD) với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn đầu
tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp (sản xuất thép, điện tử, sản phẩm công nghệ
cao,...) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, du lịch-dịch vụ
cao cấp .v.v.). Điều này cho thấy dấu hiệu của “làn sóng ĐTNN” thứ hai vào Việt
Nam.

II.1.2. Tình hình tăng vốn đầu tư (1988-2007):


Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt động
có hiệu quả đã mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh, tăng thêm vốn đầu tư, nhất
là từ năm 2001 trở lại đây. Tính đến hết năm 2007 có gần 4.100 lượt dự án tăng
vốn đầu tư với tổng vốn tăng thêm hơn 18,9 tỷ USD, bằng 23,8% tổng vốn đầu tư
đăng ký cấp mới.
Thời kỳ 1988-1990 việc tăng vốn đầu tư hầu như chưa có do số lượng
doanh nghiệp ĐTNN còn ít. Từ số vốn đầu tư tăng thêm đạt 2,13 tỷ USD trong 5
năm 1991-1995 thì ở giai đoạn 1996-2000 đã tăng gần gấp đôi so với 5 năm
trước (4,17 tỷ USD). Giai đoạn 2001-2005 vốn đầu tư tăng thêm đạt 7,08 tỷ USD
(vượt 18% so dự kiến là 6 tỷ USD) tăng 69% so với 5 năm trước. Trong đó, lượng
vốn đầu tư tăng thêm vượt con số 1 tỷ USD bắt đầu từ năm 2002 và từ năm 2004
đến 2007 vốn tăng thêm mỗi năm đạt trên 2 tỷ USD, mỗi năm trung bình tăng
35%.
Vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất
công nghiệp và xây dựng, đạt khoảng 40,6% trong giai đoạn 1991-1995 ; 65,7%
trong giai đoạn 1996-2000, khoảng 77,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm
2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 80,17% và 79,1% tổng vốn tăng thêm.
Do vốn đầu tư chủ yếu từ các nhà đầu tư châu Á (59%) nên trong số vốn
tăng thêm, vốn mở rộng của các nhà đầu tư châu Á cũng chiếm tỷ trọng cao nhất
66,8% trong giai đoạn 1991-1995, đạt 67% trong giai đoạn 1996-2000, đạt 70,3%
trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 72,1% và
80%.
Việc tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất thực hiện chủ yếu tại các vùng kinh
tế trọng điểm nơi tập trung nhiều dự án có vốn ĐTNN: Vùng trọng điểm phía Nam
chiếm 55,5% trong giai đoạn 1991-1995 ; đạt 68,1% trong thời kỳ 1996-2000 và
71,5% trong giai đoạn 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là
71% và 65%. Vùng trọng điểm phía Bắc có tỷ lệ tương ứng là 36,7%; 20,4% ;
21,1% ; 24% và 20%.
Qua khảo sát của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản -JETRO tại Việt
Nam có trên 70% doanh nghiệp ĐTNN được điều tra có kế hoạch tăng vốn, mở
rộng sản xuất tại Việt Nam. Điều này chứng tỏ sự tin tưởng và an tâm của nhà
ĐTNN vào môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam.

II.1.3. Quy mô dự án :
Qua các thời kỳ, quy mô dự án ĐTNN có sự biến động thể hiện khả năng
tài chính cũng như sự quan tâm của các nhà ĐTNN đối với môi trường đầu tư Việt
Nam. Quy mô vốn đầu tư bình quân của một dự án ĐTNN tăng dần qua các giai
đoạn, tuy có “trầm lắng” trong vài năm sau khủng hoảng tài chính khu vực 1997.
Thời kỳ 1988-1990 quy mô vốn đầu tư đăng ký bình quân đạt 7,5 triệu USD/dự
án/năm. Từ mức quy mô vốn đăng ký bình quân của một dự án đạt 11,6 triệu USD
trong giai đoạn 1991-1995 đã tăng lên 12,3 triệu USD/dự án trong 5 năm 1996-
2000. Điều này thể hiện số lượng các dự án quy mô lớn được cấp phép trong giai
đoạn 1996-2000 nhiều hơn trong 5 năm trước. Tuy nhiên, quy mô vốn đăng ký
trên giảm xuống 3,4 triệu USD/dự án trong thời kỳ 2001-2005. Điều này cho thấy
đa phần các dự án cấp mới trong giai đoạn 2001-2005 thuộc dự án có quy mô vừa
và nhỏ. Trong 2 năm 2006 và 2007, quy mô vốn đầu tư trung bình của một dự án
đều ở mức 14,4 triệu USD, cho thấy số dự án có quy mô lớn đã tăng lên so với
thời kỳ trước, thể hiện qua sự quan tâm của một số tập đoàn đa quốc gia đầu tư
vào một số dự án lớn (Intel, Panasonic, Honhai, Compal, Piaggio....).

II.1.4. Cơ cấu vốn ĐTNN từ 1988 đến 2007:


ĐTNN phân theo ngành nghề:
- Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng:
Từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, Việt Nam đã chú trọng
thu hút ĐTNN vào lĩnh vực công nghiệp-xây dựng. Qua mỗi giai đoạn các lĩnh
vực ưu tiên thu hút đầu tư, các sản phẩm cụ thể được xác định tại Danh mục các
lĩnh vực khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư. Trong những năm 90 thực
hiện chủ trương thu hút ĐTNN, Chính phủ ban hành chính sách ưu đãi, khuyến
khích các dự án : (i) sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu, (ii) sản xuất hàng
xuất khẩu (có tỷ lệ xuất khẩu 50% hoặc 80% trở lên), (iii) sử dụng nguồn nguyên
liệu trong nước và có tỷ lệ nội địa hoá cao.
Sau khi gia nhập và thực hiện cam kết với WTO (năm 2006), Việt Nam đã
bãi bỏ các quy định về ưu đãi đối với dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao, không yêu cầu
bắt buộc thực hiện tỷ lệ nội địa hoá và sử dụng nguyên liệu trong nước. Qua các
thời kỳ, định hướng thu hút ĐTNN lĩnh vực công nghiệp- xây dựng tuy có thay
đổi về lĩnh vực, sản phẩm cụ thể nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến khích
sản xuất vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ thông tin, cơ khí chế
tạo, thiết bị cơ khí chính xác, sản xuất sản phẩm và linh kiện điện tử... Đây cũng
chính là các dự án có khả năng tạo giá trị gia tăng cao và Việt Nam có lợi thế so
sánh khi thu hút ĐTNN. Nhờ vậy, cho đến nay các dự án ĐTNN thuộc các lĩnh
vực nêu trên (thăm dò và khai thác dầu khí, sản xuất các sản phẩm công nghệ cao,
sản phẩm điện và điện tử, sản xuất sắt thép, sản xuất hàng dệt may...) vẫn giữ vai
trò quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và tạo nhiều việc làm
và nguồn thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động trực tiếp. Cơ cấu đầu tư có
chuyển biến tích cực theo hướng gia tăng tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực công nghệ
cao, lọc dầu và công nghệ thông tin (IT) với sự có mặt của các tập đoàn đa quốc
gia nổi tiếng thế giới: Intel, Panasonic, Canon, Robotech.v.v. Hầu hết các dự án
ĐTNN này sử dụng thiết bị hiện đại xấp xỉ 100% và tự động hoá đạt 100% cho
sản lượng, năng suất, chất lượng cao, do đó có ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu giá
trị của toàn ngành.
Tính đến hết năm 2007, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn
nhất với 5.745 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD, chiếm 66,8%
về số dự án, 61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện.

ST Chuyên Số dự Vốn đầu t ư Vốn thực


T ngành án (USD) hiện (USD)

1 CN dầu khí 38 3,861,511,815 5,148,473,303

2 CN nhẹ 2,542 13,268,720,908 3,639,419,314

3 CN nặng 2,404 23,976,819,332 7,049,365,865

4 CN thực phẩm 310 3,621,835,550 2,058,406,260


5 Xây dựng 451 5,301,060,927 2,146,923,027
5,74
Tổng số 5 50,029,948,532 20,042,587,769

- ĐTNN trong lĩnh vực dịch vụ:


Nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi thi hành Luật Đầu tư nước ngoài (1987).
Nhờ vậy, khu vực dịch vụ đã có sự chuyển biến tích cực đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp phần đẩy nhanh tăng
trưởng kinh tế. Một số ngành dịch vụ (bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng,
bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, kinh doanh bất động sản) tăng
trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động và thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với việc thực
hiện lộ trình cam kết thương mại dịch vụ trong WTO, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh
thu hút ĐTNN, phát triển các ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất và xuất
khẩu.
Trong khu vực dịch vụ ĐTNN tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động
sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh
hạ tầng khu công nghiệp (42% tổng vốn ĐTNN trong khu vực dịch vụ), du lịch-
khách sạn (24%), giao thông vận tải-bưu điện (18%) (xem bảng).

TT Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu Đầu tư


tư đã thực hiện
(triệu USD) (triệu USD)
1 Giao thông vận tải- 208 4.287 721
Bưu điện ( bao gồm cả
dịch vụ logicstics)
2 Du lịch - Khách sạn 223 5.883 2.401
3 Xây dựng văn phòng, 153 9.262 1.892
căn hộ để bán và cho
thuê
4 Phát triển khu đô thị 9 3.477 283
mới
5 Kinh doanh hạ tầng 28 1.406 576
KCN-KCX
6 Tài chính – ngân hàng 66 897 714
7 Văn hoá - y tế – giáo 271 1.248 367
dục
8 Dịch vụ khác (giám 954 2.145 445
định, tư vấn, trợ giúp
pháp lý, nghiên cứu thị
trường...)
Tổng cộng 1.912 28.609 7.399

Trong năm 2007 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào lĩnh vực
công nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh
vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm
2006 (31,19%) với nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây
dựng khu vui chơi, giải trí.v.v.

- ĐTNN trong lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư :


Dành ưu đãi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực Nông Lâm ngư nghiệp đã
được chú trọng ngày từ khi có luật đầu tư nước ngoài 1987. Tuy nhiên đến nay do
nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rủi ro đầu tư cao trong lĩnh vực này,
nên kết quả thu hút ĐTNN vào lĩnh vực Nông – Lâm ngư chưa được như mong
muốn.
Đến hết năm 2007, lĩnh vực Nông- Lâm- Ngư nghiệp có 933 dự án còn hiệu
lực, tổng vốn đăng ký hơn 4,4 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 2,02 tỷ USD; chiếm
10,8% về số dự án ; 5,37% tổng vốn đăng ký và 6,9% vốn thực hiện, (giảm từ
7,4% so với năm 2006). Trong đó, các dự án về chế biến nông sản, thực phẩm
chiếm tỷ trọng lớn nhất 53,71% tổng vốn đăng ký của ngành, trong đó, các dự án
hoạt động có hiệu quả bao gồm chế biến mía đường, gạo, xay xát bột mì, sắn, rau.
Tiếp theo là các dự án trồng rừng và chế biến lâm sản, chiếm 24,67% tổng vốn
đăng ký của ngành. Rồi tới lĩnh vực chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc chiếm
12,7%. Cuối cùng là lĩnh vực trồng trọt, chỉ chiếm gần 9% tổng số dự án. Có 130
dự án thuỷ sản với vốn đăng ký là 450 triệu USD,
Cho đến nay, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào ngành
nông-lâm-ngư nghiệp nước ta, trong đó, các nước châu Á ( Đài Loan, Nhật Bản,
Trung Quốc, Hồng Kông,..) chiếm 60% tổng vốn đăng ký vào ngành nông nghiệp
(riêng Đài Loan là 28%). Các nước thuộc EU đầu tư vào Việt Nam đáng kể nhất
gồm có Pháp (8%), quần đảo British Virgin Islands (11%). Một số nước có ngành
nông nghiệp phát triển mạnh (Hoa Kỳ, Canada, Australi)a vẫn chưa thực sự đầu
tư vào ngành nông nghiệp nước ta.
Các dự án ĐTNN trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp tập trung chủ
yếu ở phía Nam. Vùng Đông Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng ký của ngành,
đồng bằng sông Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Miền Bắc và khu
vực miền Trung, lượng vốn đầu tư còn rất thấp, ngay như vùng đồng bằng sông
Hồng lượng vốn đăng ký cũng chỉ đạt 5% so với tổng vốn đăng ký của cả nước.

Vốn đăng ký Vốn thực hiện


STT Nông, lâm nghiệp Số dự án
(USD) (USD)
Nông-Lâm
1 nghiệp 803 4,014,833,499 1,856,710,521
2 Thủy sản 130 450,187,779 169,822,132

Tổng số 933 4,465,021,278 2,026,532,653

ĐTNN phân theo vùng, lãnh thổ :


Qua 20 thu hút, ĐTNN đã trải rộng khắp cả nước, không còn địa phương
“trắng” ĐTNN nhưng tập trung chủ yếu tại các địa bàn trọng điểm, có lợi thế, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, làm cho các vùng này thực sự là
vùng kinh tế động lực, lôi kéo phát triển kinh tế-xã hội chung và các vùng phụ cận
(xem biểu 5).
Vùng trọng điểm phía Bắc có 2.220 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư trên
24 tỷ USD, chiếm 26% về số dự án, 27% tổng vốn đăng ký cả nước và 24% tổng
vốn thực hiện của cả nước; trong đó Hà Nội đứng đầu (987 dự án với tổng vốn
đăng ký 12,4 tỷ USD) chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thực hiện cả vùng.
Tiếp theo thứ tự là Hải Phòng (268 dự án với tổng vốn đăng ký 2,6 tỷ USD), Vĩnh
Phúc (140 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD), Hải Dương (271 dự án với
tổng vốn đăng ký 1,7 tỷ USD), Hà Tây (74 dự án với tổng vốn đăng ký 1,5 tỷ
USD), Bắc Ninh (106 dự án với tổng vốn đăng ký 0,93 tỷ USD) và Quảng Ninh
(94 dự án với tổng vốn đăng ký 0,77 tỷ USD).
Vùng trọng điểm phía Nam thu hút 5.293 dự án với tổng vốn đầu tư 44,87
tỷ USD, chiếm 54% tổng vốn đăng ký, trong đó, tp Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước
(2.398 dự án với tổng vốn đăng ký 16,5 tỷ USD) chiếm 36,9% tổng vốn đăng ký
của Vùng. Tiếp theo thứ tự là Đồng Nai (918 dự án với tổng vốn đăng ký 11,6 tỷ
USD) chiếm 25,9% vốn đăng ký của Vùng, Bình Dương (1.570 dự án với tổng
vốn đăng ký 8,4 tỷ USD) chiếm 18,8% vốn đăng ký của Vùng; Bà Rịa-Vũng Tàu
(159 dự án với tổng vốn đăng ký 6,1 tỷ USD) chiếm 13,6% vốn đăng ký của
Vùng; Long An (188 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD) chiếm 4,1% vốn
đăng ký của Vùng. Điều này, minh chứng cho việc triển khai thực hiện Nghị quyết
09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của Chính phủ và Chỉ thị 19/2001/CT-TTg ngày
28/8/2001 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả
ĐTNN thời kỳ 2001-2005. [3]
Chính vì vậy, ngoài một số địa phương vốn có ưu thế trong thu hút vốn
ĐTNN (Hà Nội, tp Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, Hải
Phòng, Quảng Ninh) một số địa phương khác (Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Phú Yên, Hà
Tây..) do yếu tố tích cực của chính quyền địa phương nên việc thu hút vốn ĐTNN
đã chuyển biến mạnh, tác động tới cơ cấu kinh tế trên địa bàn. Năm 2004 công
nghiệp có vốn ĐTNN chiếm 86% giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh Bà Rịa-
Vũng Tàu, 81% của tỉnh Vĩnh Phúc, 70% của tỉnh Đồng Nai, 65% của tỉnh Bình
Dương, 46% của Thành phố Hải Phòng, 35% của Thành phố Hà Nội và 27% của
thành phố Hồ Chí Minh. Đối với Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đang chuyển
dần sang trở thành trung tâm dịch vụ cao cấp của cả vùng (bưu chính, viễn thông,
tài chính, ngân hàng..) cũng như hướng thu hút vốn ĐTNN vào các ngành công
nghệ cao thông qua một số khu công nghệ cao (Quang Trung, Hòa Lạc)
Vùng trọng điểm miền Trung thu hút được 491 dự án với tổng vốn đăng ký
8,6 tỷ USD qua 20 năm thực hiện Luật Đầu tư, chiếm 6% tổng vốn đăng ký của cả
nước, trong đó: Phú Yên (39 dự án với tổng vốn đăng ký 1,9 tỷ USD) hiện đứng
đầu các tỉnh miền Trung với dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Vũng Rô có vốn
đăng ký 1,7 tỷ USD. Tiếp theo là Đà Nẵng (113 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ
USD), Quảng Nam (15 dự án với tổng vốn đăng ký 1,1 tỷ USD) đã có nhiều tiến
bộ trong thu hút vốn ĐTNN, nhất là đầu tư vào xây dựng các khu du lịch, trung
tâm nghỉ dưỡng, vui chơi đạt tiêu chuẩn quốc tế, bước đầu đã góp phần giảm tình
trạng “cháy” buồng, phòng cho khách du lịch, nhưng nhìn chung vẫn còn dưới
mức nhu cầu và tiềm năng của vùng. Tây Nguyên cũng ở trạng thái thu hút vốn
ĐTNN còn khiêm tốn như vùng Đông Bắc và Tây Bắc, trong đó, tuy Lâm Đồng
(93 dự án với tổng vốn đăng ký 318,4 triệu USD) đứng đầu các tỉnh khu vực Tây
Nguyên nhưng chỉ chiếm tỷ trọng 1% về số dự án. Đồng bằng sông Cửu Long thu
hút vốn ĐTNN còn thấp so với các vùng khác, chiếm 3,6% về số dự án và 4,4% về
vốn đăng ký và 3,2% vốn thực hiện của cả nước.
Tuy Nhà nước đã có chính sách ưu đãi đặc biệt cho những vùng có điều
kiện địa lý-kinh tế khó khăn nhưng việc thu hút ĐTNN phục vụ phát triển kinh tế
tại các địa bàn này còn rất thấp.

ĐTNN phân theo hình thức đầu tư:

Tính đến hết năm 2007, chủ yếu các doanh nghiệp ĐTNN thực hiện theo
hình thức 100% vốn nước ngoài, có 6.685 dự án ĐTNN với tổng vốn đăng ký 51,2
tỷ USD, chiếm 77,2% về số dự án và 61,6% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức liên
doanh có 1.619 dự án với tổng vốn đăng ký 23,8 tỷ USD, chiếm 18,8% về số dự
án và 28,7% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh có
221 dự án với tổng vốn đăng ký 4,5 tỷ USD chiếm 2,5% về số dự án và 5,5% tổng
vốn đăng ký. Số còn lại thuộc các hình thức khác như BOT, BT, BTO. Có thể so
sánh tỷ trọng dự án hoạt động theo hình thức 100% vốn nước ngoài tính đến hết
năm 2004 là 39,9%, theo hình thức liên doanh là 40,6% và theo hình thứuc hợp
doanh là 19,5% để thấy được hình thức 100% vốn nước ngoài được các nhà đầu tư
lựa chọn hơn.

ĐTNN phân theo đối tác đầu tư:


Thực hiện phương châm của Đảng và Chính phủ “đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ hợp tác.. Việt Nam muốn làm bạn với các nước trong khu vực và thế
giới...” được cụ thể hóa qua hệ thống pháp luật ĐTNN, qua 20 năm đã có 81 quốc
gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký trên 83 tỷ đô la
Mỹ. Trong đó, các nước Châu Á chiếm 69%, trong đó khối ASEAN chiếm 19%
tổng vốn đăng ký. Các nước châu Âu chiếm 24%, trong đó EU chiếm 10%. Các
nước Châu Mỹ chiếm 5%, riêng Hoa Kỳ chiếm 3,6%. Tuy nhiên, nếu tính cả số
vốn đầu tư từ các chi nhánh tại nước thứ 3 của các nhà đầu tư Hoa Kỳ thì vốn đầu
tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam sẽ đạt con số trên 3 tỷ USD, đứng vị trí thứ 5 trong
tổng số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam, ví dụ Tập đoàn Intel
không đầu tư thẳng từ Mỹ vào Việt Nam mà thông qua chi nhánh tại Hồng Kông.
Hai nước châu Úc (New Zealand và Australia) chỉ chiếm 1% tổng vốn đăng ký
(xem biểu 4).
Hiện đã có 15 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vốn đăng ký cam kết trên 1
tỷ USD tại Việt Nam (xem Phụ lục). Đứng đầu là Hàn Quốc vốn đăng ký 13,5 tỷ
USD, thứ 2 là Singapore 10,7 tỷ USD, thứ 3 là Đài loan 10,5 tỷ USD (đồng thời
cũng đứng thứ 3 trong giải ngân vốn đạt 3,07 tỷ USD), thứ 4 là Nhật Bản 9,03 tỷ
USD. Nhưng nếu tính về vốn thực hiện thì Nhật Bản đứng đầu với vốn giải ngân
đạt gần 5 tỷ USD, tiếp theo là Singapore đứng thứ 2 đạt 3,8 tỷ USD. Hàn Quốc
đứng thứ 4 với vốn giải ngân đạt 2,7 tỷ USD.
Trong nhưng năm đầu 90 thực hiện Luật Đầu tư, chủ yếu là dự án quy mô
nhỏ và từ các quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu Á, như Hồng Kông, Hàn Quốc
và Đài Loan. Cho tới hết năm 2007, vốn ĐTNN vào Việt Nam vẫn từ các nước
châu Á mặc dù Đảng và Chính phủ đã có Nghị quyết 09 đã đề ra ba định hướng
thu hút ĐTNN.[4]

Tình hình phát triển các KCN, KCX, KCNC, KKT (gọi chung là
KCN).
Cả nước hiện có 154 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên
gần 33.000 ha, phân bổ trên 55 địa phương, 10 Khu kinh tế (KKT) được thành lập
với tổng diện tích đất tự nhiên xấp xỉ 550.000 ha và 2 KCNC (Hoà Lạc và tp Hồ
Chí Minh). Trong hơn 16 năm xây dựng và phát triển KCN, KCX và hơn 3 năm
thành lập KKT cho thấy khu vực này có đóng góp ngày càng quan trọng trong việc
thu hút vốn ĐTNN, đến cuối năm 2007 đã thu hút gần 2.700 dự án ĐTNN còn
hiệu lực với tổng vốn đăng ký khoảng 31 tỷ USD, chiếm 34% về số dự án và 37%
tổng vốn đăng ký của cả nước. Các dự án đầu tư công nghiệp đang có xu hướng
tăng nhanh tại các KCN-KCX. Các dự án đầu tư trong nước và nước ngoài trong
KCN, KCX đa dạng về hình thức đầu tư. (xem chi tiết tại Báo cáo đính kèm)

II.2. Tình hình triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh của các dự án
ĐTNN.
II.2.1. Vốn giải ngân ĐTNN từ 1988 đến 2007:
Trong số 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký hơn 83 tỷ đô la
Mỹ, đã có khoảng 50% dự án triển khai góp vốn thực hiện đạt hơn 43 tỷ USD (bao
gồm cả vốn thực hiện của các dự án hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời
hạn), chiếm 52,3% tổng vốn đăng ký, trong đó, vốn của bên nước ngoài đưa vào
(gồm vốn góp và vốn vay) khoảng 37,9 tỷ USD, chiếm 89,5% tổng vốn thực hiện,
các dự án ĐTNN đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế-
xã hội đất nước qua từng thời kỳ theo mục tiêu kế hoạch đề ra.
Vốn thực hiện có xu hướng tăng qua các năm nhưng với tốc độ
chậm trong khi vốn đăng ký và số lượng dự án cấp mới biến động tăng mạnh. Nếu
như cả giai đoạn 1991-1995 vốn thực hiện mới đạt 7,1 tỷ USD, chiếm 44% tổng
vốn đăng ký mới ( bao gồm phần vốn góp của Bên Việt Nam trên 1 tỷ USD - chủ
yếu là giá trị quyền sử dụng đất và vốn nước ngoài đưa vào khoảng 6,1 tỷ USD)
thì trong thời kỳ 1996-2000, mặc dù có ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh
tế khu vực, vốn thực hiện đã đạt 13,5 tỷ USD, tăng 89% so với 5 năm trước, chiếm
64,8% tổng vốn đăng ký mới (trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam là 1,4 tỷ USD
và vốn từ nước ngoài đạt 12 tỷ USD) và tăng 90% so với 5 năm trước. Trong 5
năm 2001-2005 vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD, chiếm 64,8% tổng vốn đăng ký
mới, tăng 6% so với 5 năm trước và vượt 30% dự báo ban đầu (11 tỷ USD) nêu
tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP, trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam đạt trên 1,1
tỷ USD và vốn từ nước ngoài đạt 12,6 tỷ USD. Riêng hai năm 2006 và 2007 tổng
vốn thực hiện đạt 8,7 tỷ USD (trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam đạt gần 1 tỷ
USD và vốn từ nước ngoài đạt 7,7 tỷ USD), tuy chỉ bằng 27% tổng vốn đăng ký
mới, nhưng vốn thực hiện năm 2007 tăng 12% so với năm 2006, và sẽ là tiền đề
cho việc giải ngân của 2 năm tới 2008 và 2009 tăng cao vì trong các dự án cấp mới
trong 2 năm 2006 và 2007 có nhiều dự án quy mô vốn đăng ký lớn.
II.2.2. Triển khai hoạt động sản xuất-kinh doanh của dự án ĐTNN :
Trong 20 năm qua, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã góp phần đáng kể
trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội đất nước bằng việc tạo ra tổng giá trị
doanh thu đáng kể, trong đó có giá trị xuất khẩu, cũng như đóng góp tích cực vào
ngân sách và tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động. Đồng thời, tiếp
tục khẳng định vai trò trong sự nghiệp phát triển kinh tế, đóng góp ngày càng lớn
vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của đất nước và thực sự trở thành bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế. Từ mức đóng góp trung bình 6,3% của GDP
trong giai đoạn 1991-1995, khu vực doanh nghiệp ĐTNN đã tăng lên 10,3% GDP
của 5 năm 1996-2000. Trong thời kỳ 2001-2005, tỷ trọng trên đạt trung bình là
14,6%. Riêng năm 2005, khu vực ĐTNN đóng góp khoảng 15,5% GDP, cao hơn
mục tiêu đề ra tại Nghị quyết 09 (15%). Trong hai năm 2006 và 2007 khu vực
kinh tế có vốn ĐTNN đóng góp trên 17% GDP.
Nếu trong giai đoạn 1991-1995 tổng giá trị doanh thu mới đạt 4,1 tỷ USD
(trong đó giá trị xuất khẩu không tính dầu thô đạt 1,2 tỷ USD, chiếm 30% tổng
doanh thu) thì trong thời kỳ 1996-2000 tổng giá trị doanh thu đã đạt 27,09 tỷ USD
(trong đó giá trị xuất khẩu không tính dầu thô đạt 10,59 tỷ USD, chiếm 39% tổng
doanh thu), tăng gấp 6,5 lần so với 5 năm trước. Trong giai đoạn 2001-2005 tổng
giá trị doanh thu đạt 77,4 tỷ USD (trong đó giá trị xuất khẩu không tính dầu thô
đạt 34,6 tỷ USD, chiếm 44,7% tổng doanh thu), tăng gấp 2,8 lần so với 5 năm
1996-2000. Trong hai năm 2006, 2007 tổng giá trị doanh thu đạt 69 tỷ USD, trong
đó giá trị xuất khẩu (trừ dầu thô) đạt 28,6 tỷ USD, chiếm 41% tổng doanh thu.
Không kể dầu thô, giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN cũng gia
tăng nhanh chóng. Cả thời kỳ 1991-1995 tổng giá trị xuất khẩu mới đạt 1,2 tỷ
USD, nhưng đã tăng lên 10,5 tỷ USD trong giai đoạn 1996-2000, gấp hơn 8 lần so
với 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, giá trị trên đạt hơn 34,6 tỷ USD, cao
gấp 3 lần so với thời kỳ 5 năm trước, trong đó năm sau tăng hơn năm trước, năm
2002 tăng 25%, năm 2003 tăng 38%, năm 2004 tăng 39%, năm 2005 đạt 11,2 tỷ
USD, tăng 26%, đóng góp 35% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước; tính
cả dầu thô tỷ lệ này là 56%. Năm 2006 giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn
ĐTNN đạt (nếu tính cả dầu thô) đạt 12,6 tỷ USD, chiếm trên 57% tổng giá trị xuất
khẩu của cả nước. Năm 2007, giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN đạt
19,7 triệu USD, nếu tính cả dầu thô thì giá trị xuất khẩu là 27,3 tỷ USD, chiếm
56,8% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước.
Tuy những năm đầu thi hành Luật Đầu tư nước ngoài, khu vực kinh tế có
vốn ĐTNN được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước, nhưng cũng đã tích cực
đóng góp vào ngân sách nhà nước, thể hiện qua việc thu nộp ngân sách tăng dần
qua các năm và bắt đầu vượt ngưỡng 1 tỷ USD từ năm 2005 (đạt 1,29 tỷ USD,
tăng 39,5% so với năm trước và chiếm 12% tổng thu ngân sách nhà nước, vượt
mục tiêu đề ra tại Nghị quyết 09 (10%). Giai đoạn 1991-1995 do chính sách ưu
đãi, khuyến khích ĐTNN của Nhà nước ta nên các doanh nghiệp ĐTNN đóng góp
ngân sách còn hạn chế 115 triệu USD, nhưng con số này đã tăng hơn 10 lần trong
thời kỳ 1996-2000 (đạt 1,49 tỷ USD). Lý do một số doanh nghiệp ĐTNN đã qua
thời gian hưởng chính sách ưu đãi thuế của nhà nước. Giai đoạn 2001-2005 khu
vực doanh nghiệp ĐTNN đã nộp ngân sách hơn 3,6 tỷ USD, tăng gấp hơn 2 lần 5
năm trước. Năm 2006 con số trên đạt 1,4 tỷ USD, bằng cả 5 năm 1996-2000. Năm
2007, dự kiến thu ngân sách đạt 1,576 tỷ USD, tăng 7% so với năm trước.
Đồng thời, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cũng tạo việc làm và thu nhập ổn
định cho một bộ phận dân cư, tính từ 1988 đến cuối 2007 có trên 1,26 triệu lao
động trực tiếp, chưa kể số lao động gián tiếp khác làm việc trong khu vực dịch vụ
mà theo kết quả điều tra của Ngân hàng Thế giới, cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo
việc làm cho khoảng từ 2-3 lao động gián tiếp khác. Số lao động làm việc trong
các doanh nghiệp ĐTNN cũng tăng lên qua từng giai đoạn, từ 21 vạn người vào
cuối năm 1995 đã tăng lên 37,9 vạn người vào cuối năm 2000, tăng 80% so với 5
năm trước. Đến cuối năm 2005 đã tăng gấp 2,5 lần so với 5 năm trước thể hiện số
lượng các doanh nghiệp đi vào triển khai dự án tăng lên. Trong 2 năm 2006 và
2007 do lượng dự án vào nhiều và triển khai nhanh nên số lượng lao động trong
khu vực ĐTNN tính đến cuối 2 năm này đã tăng 9,9% và 12% so với cuối năm
2005.
II.2.3. Rút Giấy phép đầu tư, giải thể trước thời hạn:
Tính đến hết năm 2007, đã có 38 dự án ĐTNN kết thúc đúng thời
hạn với tổng vốn đăng ký 658 triệu USD. Các dự án kết thúc đúng thời hạn chủ
yếu là các dự án đầu tư trong những lĩnh vực đặc thù như trục vớt tàu đắm, thăm
dò và khai thác dầu, khí, nuôi trồng thuỷ sản... Đồng thời, đã có 1.359 dự án
ĐTNN bị giải thể trước thời hạn với số vốn đăng ký giải thể khoảng 15,5 tỷ USD,
trong đó, vốn giải thể chủ yếu tập trung trong lĩnh vực dịch vụ chiếm 50%, lĩnh
vực công nghiệp- xây dựng chiếm 42,3%. Điều này cho thấy các doanh nghiệp
thuộc dịch vụ không vượt qua được khó khăn, trở ngại trong hoạt động. Trong các
dự án ĐTNN bị giải thể, số dự án hoạt động theo hình thức liên doanh chiếm đa số
(56% về số dự án và 67,2% về tổng vốn đăng ký), tiếp theo là hình thức Hợp
doanh (10,2% về số dự án và 15,5% về tổng vốn đăng ký). Hình thức 100% vốn
nước ngoài chiếm13,1% về số dự án và 15,5% về tổng vốn đăng ký

III TÁC ĐỘNG CỦA ĐTNN ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ


III.1. Mặt tích cực:
Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ngày càng khẳng định vai trò quan trọng
trong nền kinh tế Việt Nam, là khu vực có tốc độ phát triển năng động nhất.

Về mặt kinh tế:


- ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng nhu
cầu đầu tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế:
Đóng góp của ĐTNN trong tổng vốn đầu tư xã hội có biến động lớn, từ tỷ
trọng chiếm 13,1% vào năm 1990 đã tăng lên mức 32,3% trong năm 1995. Tỷ lệ
này đã giảm dần trong giai đoạn 1996-2000, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính khu vực (năm 2000 chiếm 18,6%) và trong 5 năm 2001-2005 chiếm khoảng
16% tổng vốn đầu tư xã hội; hai năm 2006-2007 chiếm khoảng 16% (Theo Niên
giám Thống kê cơ cấu vốn đầu tư thực hiện của khu vực ĐTNN năm 2003 là 16%,
năm 2004 là 14,2%, năm 2005 là 14,9% và năm 2006 là 15,9%, ước năm 2007 đạt
trên 16%).

Vốn ĐTNN đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Từ năm
1991-2000, GDP tăng liên tục qua các năm với tốc động tăng bình quân mỗi năm
7,56%, trong đó: (i) 5 năm 1991-1995: tăng 8,18% (nông lâm ngư tăng 2,4%; công
nghiệp xây dựng tăng 11,3%, dịch vụ tăng 7,2%); (ii) 5 năm 1996-2000: tăng
6,94% (nông lâm ngư tăng 4,3%; công nghiệp xây dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng
5,75%). Nhờ vậy, đến năm 2000 tổng sản phẩm trong nước tăng gấp hơn 2 lần
năm 1990: (iii) 5 năm 2001-2005: tốc độ tăng GDP đạt 7,5% (nông lâm ngư tăng
3,8%; công nghiệp xây dựng tăng 10,2%, dịch vụ tăng 7%; (iv) Năm 2006 đạt
8,17% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng tăng 10,37%, dịch vụ tăng
8,29% và (iv) Năm 2007 đạt 8,48% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây
dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng 8,6%.

- ĐTNN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng
cao năng lực sản xuất công nghiệp:
Trong 20 năm qua ĐTNN đóng một vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng
của nền kinh tế nói chung và cho ngành công nghiệp nói riêng, trong đó từng bước
trở thành nguồn đầu tư quan trọng của Quốc gia, góp phần phát triển các ngành
công nghiệp và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Nhiều công trình lớn đã
hoàn thành đưa vào sản xuất, phát huy hiệu quả đầu tư, nhiều công trình trọng
điểm làm cơ sở cho tăng trưởng giai đoạn sau đó được khởi công và đẩy nhanh
tiến độ, nhất là các công trình điện, dầu khí, công nghiệp nặng, công nghiệp phục
vụ xuất khẩu...
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cao hơn
mức tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), tăng tỷ
trọng của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong ngành công nghiệp qua các năm (từ
23,79% vào năm 1991 lên 40% năm 2004, 41% năm 2005 và năm 2006).
Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN
trong 5 năm qua chiếm trung bình 42,5% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước.
Cụ thể tỷ trọng trên tăng từ 41,3% vào năm 2000 lên 43,7% vào 2 năm 2004 và
2005. Đặc biệt, một số địa phương (Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc..) tỷ lệ
này đạt đến 65-70% giá trị sản xuất công nghiệp của địa bàn.
ĐTNN đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực của
nhiều ngành công nghiệp như dầu khí, công nghệ thông tin, hóa chất, ô tô, xe máy,
thép, điện tử và điện tử gia dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da
giày, dệt may… Hiện ĐTNN đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm công
nghiệp (dầu khí, thiết bị máy tính, máy giặt, điều hòa), 60% cán thép, 33% hàng
điện tử, 76% dụng cụ y tế chính xác, 49% sản phẩm da giày, 55% sản lượng sợi,
25% hàng may mặc.
ĐTNN đã góp phần hình thành và phát triển trong cả nước hệ thống các khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao tương đối đồng bộ và hiện đại, đem
lại hiệu quả sử dụng đất cao hơn ở một số địa phương đất đai kém màu mỡ.

- ĐTNN thúc đẩy chuyển giao công nghệ:


ĐTNN góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam,
phát triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn thông, thăm dò
và khai thác dầu khí, hoá chất, cơ khí chế tạo điện tử, tin học, ô tô, xe máy... Nhất
là sau khi Tập đoàn Intel đầu tư 1 tỷ đô la Mỹ vào Việt Nam trong dự án sản xuất
linh kiện điện tử cao cấp, đã gia tăng số lượng các dự án đầu tư vào lĩnh vực công
nghệ cao của các tập đoàn đa quốc gia (Canon, Panasonic, Ritech.v.v)
Nhìn chung, trình độ công nghệ của khu vực ĐTNN cao hơn hoặc bằng các
thiết bị tiên tiến đã có trong nước và tương đương các nước trong khu vực. Hầu
hết các doanh nghiệp có vốn ĐTTNN áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, được
kết nối và chịu ảnh hưởng của hệ thống quản lý hiện đại của công ty mẹ.
Trong nông-lâm-ngư nghiệp, ĐTNN đã tạo ra một số sản phẩm mới có hàm
lượng kỹ thuật cao và các cây, con giống mới.

- Tác động lan tỏa của ĐTNN đến các thành phần kinh tế khác trong nền
kinh tế:
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ĐTNN được nâng cao qua số lượng
các doanh nghiệp tăng vốn đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất. Đồng thời, có tác
động lan tỏa đến các thành phần khác của nền kinh tế thông qua sự liên kết giữa
doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh nghiệp trong nước, công nghệ và năng
lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Sự lan tỏa này
có thể theo hàng dọc giữa các doanh nghiệp trong ngành dọc hoặc theo hàng
ngang giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành. Mặt khác, các doanh nghiệp
ĐTNN cũng tạo động lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước nhằm thích
ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa.

- ĐTNN đóng góp đáng kể vào NSNN và các cân đối vĩ mô:
Cùng với sự phát triển các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt
Nam, mức đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách ngày càng
tăng. Thời kỳ 1996-2000, không kể thu từ dầu thô, các doanh nghiệp ĐTNN đã
nộp ngân sách đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005,
thu ngân sách trong khối doanh nghiệp ĐTNN đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân
24%/năm. Riêng 2 năm 2006 và 2007 khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã nộp ngân
sách đạt trên 3 tỷ USD, gấp đôi thời kỳ 1996-2000 và bằng 83% thời kỳ 2001-
2005.
ĐTNN tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như
cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế thông qua
việc chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách
quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua máy móc và nguyên, vật liệu...

- ĐTNN góp phần giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống
kinh tế quốc tế:
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng nhanh,
cao hơn mức bình quân chung của cả nước, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng
kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Thời kỳ 1996-2000, xuất khẩu của khu vực
ĐTNN đạt 10,6 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước,
chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả nước; năm 2000 chiếm 25%, năm 2003 chiếm
31%; tính cả dầu thô thì tỷ trọng này đạt khoảng 54% năm 2004 và chiếm trên
55% trong các năm 2005, 2006 và 2007.
ĐTNN chiếm một tỷ trọng cao trong xuất khẩu một số sản phẩm: 100% dầu
khí, 84% hàng điện tử, máy tính và linh kiện, 42% sản phẩm da giày, 35% hàng
may mặc… Thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn xuyên quốc gia,
nhiều sản phẩm sản xuất tại Việt Nam đã tiếp cận được với các thị trường trên thế
giới.
Trong lĩnh vực khách sạn và du lịch, ĐTNN đã tạo ra nhiều khách
sạn cao cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế 4, 5 sao cũng như các khu du lịch, nghỉ dưỡng
đáp ứng nhu cầu khách du lịch quốc tế, góp phần gia tăng nhanh chóng xuất khẩu
tại chỗ.
Bên cạnh đó, ĐTNN còn góp phần đưa nền kinh tế nước ta từng
bước hội nhập với kinh tế thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.

Về mặt xã hội:
- ĐTNN góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng suất lao
động, cải thiện nguồn nhân lực:
Đến nay, khu vực có vốn ĐTNN đã tạo ra việc làm cho trên 1,2 triệu
lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp khác theo kết quả điều tra của
WB cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho từ 2-3 lao động gián tiếp phục vụ
trong khu vực dịch vụ và xây dựng, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện
đời sống một bộ phận trong cộng đồng dân cư, đưa mức GDP đầu người tăng lên
hàng năm. Thông qua sự tham gia trực tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp có
vốn ĐTNN, Việt Nam đã từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân
kỹ thuật có trình độ cao, có tay nghề, từng bước tiếp cận được với khoa học, kỹ
thuật, công nghệ cao và có tác phong công nghiệp hiên đại, có kỷ luật lao động tốt,
học hỏi được các phương thức, kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam cũng đã thúc
đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới công nghệ, phương thức
quản lý để nâng cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ trên
thị trường trong nước và quốc tế. Đặc biệt, một số chuyên gia Việt Nam làm việc
tại các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã dần thay thế các chuyên gia nước ngoài
trong đảm nhiệm các vị trí quản lý doanh nghiệp cũng như điều khiển các quy
trình công nghệ hiện đại.

- ĐTNN góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế
với khu vực và thế giới:
ĐTNN đã góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ cấm vận của Hoa
Kỳ đối với Việt Nam, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng
đa phương hóa và đa dạng hóa, thúc đẩy Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế khu
vực và thế giới, đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại và đầu tư. Đến nay,
Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO. Nước ta
cũng đã ký kết 51 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, trong đó có Hiệp định
thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA), Hiệp định tự do hoá, khuyến khích và bảo
hộ đầu tư với Nhật Bản. Thông qua tiếng nói và sự ủng hộ của các nhà đầu tư
nước ngoài, hình ảnh và vị thế của Việt Nam không ngừng được cải thiện.

Về mặt môi trường:


Theo kết quả điều tra năm 2002 (của Viện Quản lý kinh tế trung
ương), đa số các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường
Việt Nam và có kết quả môi trường tốt hơn so với số đông các doanh nghiệp trong
nước (có 77% doanh nghiệp có kết quả về các thông số gây ô nhiễm môi trường
thấp hơn tiêu chuẩn cho phép của Việt Nam). Đáng chú ý là 60% doanh nghiệp
ĐTNN trong lĩnh vực chế biến thực phẩm đã lắp đặt thiết bị xử lý nước thải đúng
tiêu chuẩn (so sánh với tỷ lệ 10% của các doanh nghiệp trong nước). Không có
doanh nghiệp ĐTNN nào được điều tra vi phạm tiêu chuẩn môi trường Việt Nam.

2. Mặt hạn chế:


Tuy đạt được những kết quả quan trọng nêu trên, nhưng hoạt động ĐTNN
tại Việt Nam còn những mặt hạn chế như sau:
- Sự mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ:
Mục đích cao nhất của các nhà đầu tư là lợi nhuận. Do đó những lĩnh vực,
ngành, dự án có tỷ suất lợi nhuận cao đều được các nhà đầu tư quan tâm, còn
những dự án, lĩnh vực mặc dù rất cần thiết cho dân sinh, nhưng không đưa lại lợi
nhuận thỏa đáng thì không thu hút được đầu tư nước ngoài.
Các nhà ĐTNN trong khi lựa chọn địa điểm để triển khai dự án đầu tư
thường tập trung vào những nơi có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi, do đó
các thành phố lớn, những địa phương có cảng biển, cảng hàng không, các tỉnh
đồng bằng là nơi tập trung nhiều dự án ĐTNN nhất. Trong khi đó, các tỉnh miềm
núi, vùng sâu, vùng xa, những địa phương cần được đẩy nhanh tốc độ phát triển
kinh tế, mặc dù chính phủ và chính quyền địa phương có những ưu đãi cao hơn
nhưng không được các nhà đầu tư quan tâm.
Tình trạng đó đã dẫn đến một nghịch lý, những địa phương có trình độ phát
triển cao thì thu hút được ĐTNN nhiều, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt quá
tốc độ tăng trưởng trung bình của cả nước. Trong khi đó, những vùng có trình độ
kém phát triển thì có ít dự án ĐTNN, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp.
Đối với các ngành nghề cũng xảy ra tình trạng tương tự, các nhà ĐTNN chỉ
đầu tư vào các ngành có khả năng sinh lợi cao, rủi ro thấp, còn các ngành, lĩnh vực
có khả năng sinh lời thấp, rủi ro cao không được sự quan tâm của các nhà ĐTNN.
- Tranh chấp lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chưa
được giải quyết kịp thời.
Các tranh chấp lao động là khó tránh, đặc biệt trong những thời điểm doanh
nghiệp mới bắt đầu hoạt động, hoặc khi doanh nghiệp gặp khó khăn về sản xuất
kinh doanh. Nhìn chung người chủ thường trả công cho người lao động thấp hơn
cái mà họ đáng được hưởng, không thỏa đánh với nhu cầu của người lao động.
Điều đó dẫn đến mâu thuẫn giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, dẫn đến
tình trạng đình công bãi công làm thiệt hại cho doanh nghiệp.
ĐTNN ở nước ta đã thu hút được hàng nghìn doanh nghiệp của các nước và
vũng lãnh thổ khắp thế giới. Điều đó cho thấy tính hấp dẫn của môi trường đầu tư
ở Việt Nam, đồng thời cũng thể hiện tính đa dạng của các nền văn hóa trong quan
hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động trong các doanh nghiệp ĐTNN.
- Sự yếu kém trong chuyển giao công nghệ
Nhìn chung công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp ĐTNN thường
cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm tại nước ta.
Tuy vậy, một số trường hợp các nhà ĐTNN đã lợi dụng sơ hở của pháp luật
Việt Nam, cũng như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu nên đã
nhập vào Việt Nam một số máy móc thiết bị có công nghệ lạc hậu thậm chí là
những phế thải của các nước khác. Tính phổ biến của việc nhập máy móc thiết bị
là giá cả đươc ghi trong hóa đơn thường cao hơn giá trung bình của thị trường thế
giới. Nhờ vậy một số nhà ĐTNN có thể lợi dụng để khai tăng tỷ lệ góp vốn trong
các liên doanh với Việt Nam.
Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam được thực hiện
thông qua các hợp đồng và được cơ quan quản lý nhà nước về khoa học công nghệ
chuẩn y. Tuy vậy, đây là một hoạt đông cực kỳ khó khăn đối với các nước tiếp
nhận đầu tư nói chung, kể cả Việt Nam, bởi khó có thể đánh giá chính xác giá trị
thực của từng loại công nghệ trong những ngành khác nhau, đặc biệt trong những
ngành công nghệ cao. Do vậy, thường phải thông qua thương lượng theo hình thức
mặc cả đến khi hai bên có thể chấp nhận được, thì ký kết hợp đồng chuyển giao
công nghệ.

IV. TRIỂN VỌNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM TRONG
THỜI GIAN TỚI

Chủ trương tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) được thể hiện trong các văn kiện của Đảng, Nhà
nước và tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần X. [5] Mục tiêu và
định hướng thu hút ĐTNN giai đoạn tới được xác định như sau:

IV.1. Mục tiêu Chương trình thu hút ĐTNN 2006-2010 :


Các chỉ tiêu chủ yếu về ĐTNN giai đoạn 2006-2010 cần đạt được là:
- Vốn ĐTNN thực hiện: đạt khoảng 24 - 25 tỷ USD (tăng 70-75% so với
giai đoạn 2001-2005) chiếm khoảng 17,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
- Vốn đăng ký bao gồm cả vốn FDI đăng ký cấp mới và tăng vốn đạt
khoảng 55 tỷ USD (tăng hơn 2 lần so với giai đoạn 2001–2005), trong đó vốn cấp
mới đạt 41 tỷ USD và vốn bổ sung đạt khoảng 14 tỷ USD. Bình quân mỗi năm đạt
khoảng 11 tỷ USD.
- Doanh thu: khoảng 163,4 tỷ USD
- Xuất - nhập khẩu: xuất khẩu đạt khoảng 93,3 tỷ USD (không kể dầu thô);
nhập khẩu đạt 103,tỷ USD.
- Nộp ngân sách nhà nước: đạt khoảng 8,4 tỷ USD.
- Cơ cấu vốn thực hiện theo ngành: vốn FDI thực hiện trong ngành công
nghiệp chiếm khoảng 60%, nông-lâm-ngư nghiệp khoảng 5% và dịch vụ khoảng
35%.
- Chú trọng thu hút đầu tư từ các nước G7 có công nghệ cao, đảm bảo phát
triển bền vững.

IV.2. Định hướng thu hút vốn đầu tư trong một số ngành:

(1) Ngành Công nghiệp-Xây dựng:


- Các ngành đặc biệt khuyến khích đầu tư gồm công nghệ thông tin, điện tử,
vi điện tử, công nghệ sinh học…; chú trọng công nghệ nguồn từ các nước công
nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản; hết sức coi trọng thu hút FDI gắn
với nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ.
- Công nghiệp phụ trợ: Khuyến khích thu hút FDI vào ngành công nghiệp
phụ trợ nhằm giảm chi phí đầu vào về nguyên-phụ liệu của các ngành công
nghiệp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước.
Để thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, cần tạo điều kiện để các dự án
sản xuất lắp ráp các sản phẩm công nghiệp nhanh chóng mở rộng quy mô và thị
trường tiêu thụ.

(2) Ngành Dịch vụ:


- Ngành dịch vụ còn dư địa lớn để đầu tư phát triển góp phần quan trọng
trong nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Từng bước mở cửa các lĩnh vực dịch vụ
theo các cam kết quốc tế, tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển
như dịch vụ ngân hàng, tài chính; dịch vụ vận tải, bưu chính-viễn thông, y tế, văn
hoá, giáo dục, đào tạo và các lĩnh vực dịch vụ khác.
Với định hướng trên, tiến hành xem xét, giảm bớt các lĩnh vực, ngành nghề
kinh doanh có điều kiện đối với ĐTNN có tính tới các yếu tố hội nhập và toàn cầu
hóa theo lộ trình “mở cửa”; tạo bước đột phá trong thu hút ĐTNN bằng việc xem
xét đẩy sớm lộ trình mở cửa đối với một số lĩnh vực dịch vụ, khuyến khích sự
tham gia của khu vực tư nhân vào phát triển hạ tầng. Cụ thể là:
- Khuyến khích mạnh vốn ĐTNN vào các ngành du lịch, y tế, giáo dục-đào
tạo. Mở cửa theo lộ trình các lĩnh vực dịch vụ “nhạy cảm” như ngân hàng, tài
chính, vận tải, viễn thông, bán buôn và bán lẻ và văn hoá.
- Khuyến khích ĐTNN tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật bằng các
phương thức thích hợp gồm BOT, BT để xây dựng cảng biển, cảng hàng không,
đường cao tốc, đường sắt, viễn thông, cấp nước, thoát nước… nhằm góp phần
nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng
nhanh của nền kinh tế.

(3) Ngành Nông-Lâm-Ngư nghiệp:


Theo Luật Đầu tư năm 2005, nuôi trồng, chế biến nông, lâm thuỷ sản, làm
muối; sản xuất giống nhân tạo, giống cây trồng và giống vật nuôi mới là một trong
những lĩnh vực được hưởng ưu đãi đầu tư. Phù hợp chiến lược phát triển ngành,
thu hút ĐTNN định hướng theo ngành hàng, sản phẩm chủ yếu như sau:
- Về trồng trọt và chế biến nông sản, ĐTNN tập trung vào các dự án xây
dựng các vùng trồng và chế biến nông sản xuất khẩu như lúa gạo, cây lương thực,
rau quả, cà phê, cao su, chè... theo hướng thâm canh, nâng cao chất lượng, hạ giá
thành sản phẩm, đổi mới thiết bị các xưởng chế biến.
- Về chăn nuôi và chế biến sản phẩm chăn nuôi, ĐTNN tập trung thu hút
vào các dự án sản xuất giống lợn, bò và gia cầm có chất lượng cao tại các vùng có
điều kiện thuận lợi về lao động, đất đai, đảm bảo vệ sinh môi trường khi phát triển
chăn nuôi với quy mô lớn, đồng thời tiếp tục thu hút đầu tư sản xuất thức ăn gia
súc có chất lượng cao.
- Về trồng rừng - chế biến gỗ, ĐTNN tập trung vào các dự án sản xuất
giống cây có chất lượng, năng suất cao nhằm đáp ứng nhu cầu trồng rừng nguyên
liệu phục vụ chế biến gỗ, lâm sản.

IV.3. Định hướng thu hút vốn đầu tư theo vùng:


Trong thời gian tới, dự báo vốn ĐTNN vẫn sẽ tập trung chủ yếu vào những
địa phương có điều kiện thuận lợi về địa lý-tự nhiên, nhất là các vùng kinh tế trọng
điểm. Để tăng cường thu hút ĐTNN tại những vùng có điều kiện kinh tế xã hội
còn khó khăn, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, bên
cạnh những ưu đãi của đối với ĐTNN tại các vùng đó đòi hỏi phải tăng cường đầu
tư xây dựng nhanh cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đường giao thông, điện, nước ở các
vùng kinh tế khó khăn bằng nguồn vốn nhà nước, vốn ODA và nguồn vốn tư nhân.
Tập trung thu hút đầu tư, lấp đầy các KCN-KCX-KCNC, khu kinh tế đã
được Chính phủ phê duyệt góp phần đẩy nhanh việc thu hẹp khoảng cách phát
triển giữa các vùng. Tận dụng những khu vực đất trống, đồi trọc, ít giá trị nông
nghiệp để phát triển KCN, xây dựng nhà máy, hạn chế xây dựng KCN-KCX-
KCNC trên đất canh tác nông nghiệp truyền thống.

V. NGUYÊN NHÂN, BÀI HỌC KINH NGHIÊM VÀ CÁC GIẢI


PHÁP CHỦ YẾU
V.1. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế của khu vực ĐTNN.
V.1.1. Nguyên nhân của những thành tựu:
- Trước hết đó là đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng cùng những cố
gắng và tiến bộ trong công tác quản lý của Nhà nước đã phát huy được nhân tố có
ý nghĩa quyết định là ý chí kiên cường, tính năng động, sáng tạo và sự nỗ lực phấn
đấu của các cấp, các ngành.
- Nước ta duy trì được ổn định chính trị xã hội, an ninh được đảm bảo,
được đánh giá là địa bàn đầu tư an toàn, đồng thời kiên trì thực hiện đường lối đổi
mới, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, tạo hình ảnh tích cực đối với các nhà đầu tư. Nền kinh tế tăng
trưởng cao, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế, nhất là về khả năng
mở rộng dung lượng thị trường trong nước của trên 80 triệu dân.
- Công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, của các Bộ, ngành và chính
quyền địa phương đã tích cực, chủ động hơn (đẩy nhanh lộ trình áp dụng cơ chế
một giá, hỗ trợ nhà đầu tư giảm chi phí sản xuất, tiếp tục thực hiện việc cải cách
hành chính, quan tâm hơn tới việc tháo gỡ khó khăn cho việc triển khai dự án).
- Công tác vận động xúc tiến đầu tư ngày càng được cải tiến, tiến hành ở
nhiều ngành, nhiều cấp, ở trong nước và nước ngoài dưới hình thức đa dạng, kết
hợp với các chuyến thăm, làm việc cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, gắn với
việc quảng bá rộng rãi hình ảnh Việt Nam và vận động đầu tư - xúc tiến thương
mại và du lịch. Chính vì vậy, mà hiệu quả đã được nâng dần với kết quả minh
chứng là nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã vào tìm kiếm cơ hội đầu tư và ký kết số
lượng lớn dự án quy mô lớn, mở đầu cho làn sóng đầu tư mới lần 2 vào Việt Nam,
kể từ năm 1987 đến nay.

V.1.2. Về nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế.


- Tư duy kinh tế chậm đổi mới. Chưa tạo lập đồng bộ các loại thị trường
theo nguyên tắc thị trường. Nhận thức về chung về ĐTNN đều thống nhất như các
chủ trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước là coi ĐTNN là một bộ phận cấu
thành hữu cơ của nền kinh tế, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với
các thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên, thực tế xử lý các vấn đề cụ thể ở nhiều
Bộ, ngành và địa phương vẫn còn phân biệt rất khác nhau giữa đầu tư trong nước
và ĐTNN, chưa thực sự coi ĐTNN là thành phần kinh tế của Việt Nam. Điều đó
thể hiện ngay từ khâu quy hoạch sản phẩm, phân bổ các nguồn lực phát triển kinh
tế (lao động, đất đai, vốn…) cũng chưa thực sự cho phép ĐTNN tham gia. Việc xử
lý tranh chấp kinh tế giữa các bên cũng thiên về bảo vệ quyền lợi cho phía Việt
Nam. Trong những thời điểm khó khăn, ta tranh thủ vốn ĐTNN nhưng khi điều
kiện thuận lợi lại có xu hướng không khuyến khích ĐTNN mà để trong nước tự
làm; những biểu hiện này có tác động làm nản lòng nhà ĐTNN.
- Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư tuy đã được sửa đổi, bổ sung
nhưng vẫn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán. Một số Bộ, ngành chậm ban hành các
thông tư hướng dẫn các nghị định của Chính phủ.
- Môi trường đầu tư-kinh doanh nước ta tuy được cải thiện nhưng tiến bộ
đạt được còn chậm hơn so với các nước trong khu vực, trong khi cạnh tranh thu
hút vốn ĐTNN tiếp tục diễn ra ngày càng gay gắt.
- Định hướng chiến lược thu hút vốn ĐTNN hướng chủ yếu vào lĩnh vực
công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nhưng sự liên kết, phối hợp giữa các doanh
nghiệp ĐTNN với doanh nghiệp trong nước còn yếu nên giá trị gia tăng trong một
số sản phẩm xuất khẩu (hàng điện tử dân dụng, dệt may) còn thấp. Nhiều tập đoàn
công nghiệp định hướng xuất khẩu đầu tư tại Việt Nam buộc phải nhập khẩu phần
lớn nguyên liệu đầu vào vì thiếu nguồn cung cấp ngay tại Việt Nam.
- Công tác quy hoạch còn có những bất hợp lý, nhất là quy hoạch ngành
còn nặng về xu hướng bảo hộ sả n xuất trong nước, chưa kịp thời điều chỉnh để
phù hợp với các cam kết quốc tế.
-Nước ta có xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, quy mô nền kinh tế nhỏ
bé; kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém; các ngành công nghiệp bổ trợ chưa
phát triển; trình độ công nghệ và năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao.
Chính sách, biện pháp để khuyến khích huy động tốt nguồn lực trong nước và
ngoài nước vào phát triển kinh tế, xã hội còn nhiều hạn chế.
- Sự phối hợp trong quản lý hoạt động ĐTNN giữa các Bộ, ngành, địa
phương chưa chặt chẽ. Đánh giá tình hình ĐTNN vẫn nặng về số lượng, chưa coi
trọng về chất lượng, còn bệnh thành tích trong cơ quan quản lý các cấp.
- Tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cải cách hành chính chưa đáp ứng
yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Năng lực của một bộ phận cán bộ, công
chức làm công tác kinh tế đối ngoại còn hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, không
loại trừ một số yếu kém về phẩm chất, đạo đức, gây phiền hà cho doanh nghiệp,
làm ảnh hưởng xấu đến môI trường đầu tư-kinh doanh.

V.2. Bài học kinh nghiệm:


Từ thực tiễn 20 năm hoạt động ĐTNN tại Việt Nam cũng như kinh
nghiệm của một số nước trong khu vực có thể rút ra một số bài học sau:
Một là, cần thống nhất nhận thức và có cách nhìn nhạy bén về kinh tế, chính
trị, nắm bắt thời cơ, thuận lợi, thấy rõ được những khó khăn, thách thức từ bên
trong cũng như bên ngoài để kịp thời đề ra được chủ trương, đường lối đúng đắn,
tập trung lực lượng, giải quyết dứt điểm các vấn đề nảy sinh. Chủ trương, đường
lối khi đã đề ra phải được quán triệt thông suốt, đầy đủ từ trung ương đến địa
phương và phải được cụ thể hóa kịp thời, tạo ra sự thống nhất và quyết tâm cao
trong việc tổ chức thực hiện để đảm bảo thành công.
Hai là, các chủ trương, phương hướng lớn phải được nhanh chóng thể chế
hóa thành pháp luật, cơ chế, chính sách một cách đồng bộ, tạo đủ hành lang pháp
lý cho việc thực hiện. Pháp luật và văn bản liên quan về ĐTNN phải minh bạch, rõ
ràng và phù hợp với thông lệ quốc tế có chú ý tới điều kiện và hoàn cảnh cụ thể
của nước ta. Cơ chế, chính sách phải đồng bộ thể hiện tính khuyến khích và canh
tranh cao so với các nước trong khu vực, có tính tới quy luật cạnh tranh và xu
hướng tự do hóa trong thu hút đầu tư phù hợp với tiến trình hội nhập sâu rộng vào
nền kinh tế thế giới, đồng thời tạo điều kiện, khuyến khích sự chủ động, sáng tạo
của người thực hiện.
Ba là, công tác chỉ đạo, điều hành phải thông suốt, thống nhất, có nền nếp,
kỷ cương trong bộ máy công quyền, tạo niềm tin và độ tin cậy đối với nhà đầu tư,
đặc biệt đối với người đứng đầu. Phải luôn luôn hướng về nhà đầu tư và doanh
nghiệp để nhanh chóng tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho hoạt động
đầu tư. Mọi thủ tục hành chính phục vụ cho hoạt động đầu tư phải đơn giản, gọn
nhẹ, không làm tăng chi phí, không gây phiều hà, sách nhiễu cho nhà đầu tư.
Bốn là, công tác cán bộ cần luôn được xem trọng để có kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng thường xuyên, liên tục nhằm xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ
làm công tác kinh tế đối ngoại không những tinh thông nghiệp vụ, am hiểu về kinh
tế đối ngoại, mà còn trong sạch về phẩm chất, đạo đức, vì đây là cầu nối giữa nhà
đầu tư với nước chủ nhà, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân thành công hay
thất bại.
Năm là, tùy điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, các cơ quan quản lý đầu tư các
cấp chủ động vận dụng, tổ chức triển khai, giám sát và đánh giá việc thực hiện các
nghị quyết, chủ trương, chính sách, pháp luật nhà nước về đầu tư sao cho hiệu quả,
đảm bảo hài hòa mối quan hệ giữa nhà đầu tư, nhà quản lý, giữa lợi ích của nhà
nước với lợi ích của nhà đầu tư trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội bền vững
trên địa bàn và trên cả nước.

V.3. Các giải pháp chủ yếu:


Để triển khai thực hiện việc thu hút và sử dụng hiệu quả vốn ĐTNN trong
giai đoạn 2006- 2010 và một số năm về sau, Chính phủ sẽ chỉ đạo thực hiện các
giải pháp sau :

Nhóm giải pháp về quy hoạch:


Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu; rà soát
để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án.
Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định mới của Luật Đầu tư trong
công tác quy hoạch, đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản
phẩm phù hợp với các cam kết quốc tế.
Hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều
kiện để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư.

Nhóm giải pháp về luật pháp, chính sách:


Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách để sửa đổi hoặc loại bỏ các điều kiện
áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO và có
giải pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư liên quan.
Xây dựng văn bản hướng dẫn các địa phương và doanh nghiệp về lộ trình
cam kết mở cửa đầu tư nước ngoài làm cơ sở xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp
thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Khẩn trương ban hành các văn
bản hướng dẫn các luật mới, nhất là các luật mới được Quốc hội thông qua trong
năm 2006 có liên quan đến đầu tư, kinh doanh.
Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các
công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao
động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu
kinh tế, đảm bảo sự tương thích với các luật pháp hiện hành.
Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập
đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và mỗi nước
thành viên EU, Hoa Kỳ.
Chấn chỉnh tình trạng ban hành và áp dụng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trái với
quy định của pháp luật. Tăng cường tập huấn, phổ biến nội dung và lộ trình thực
hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam.

Nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư:


- Các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục rà soát, cập nhật bổ
sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển và quy hoạch
phát triển ngành, địa phương.
- Triển khai nhanh việc thành lập bộ phận XTĐT tại một số địa bàn trọng
điểm. Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan xúc tiến đầu tư, xúc
tiến thương mại và xúc tiến du lịch các cấp, bao gồm cả trong nước lẫn đại diện ở
nước ngoài nhằm tạo sự đồng bộ và phối hợp nâng cao hiệu quả giữa các hoạt
động này. Đồng thời, thực hiện tốt Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia giai đoạn
2007-2010 để đảm bảo kinh phí cho vận động thu hút vốn ĐTNN nhằm đẩy mạnh
tuyên truyền, quảng bá hình ảnh Việt Nam, kết hợp chặt chẽ các chuyến công tác
của lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước với các hoạt động xúc tiến đầu tư-thương
mại-du lịch.
- Tổ chức hiệu quả các cuộc hội thảo ở trong nước và nước ngoài. Nâng cấp
trang thông tin điện tử về ĐTNN cập nhật và chất lượng tài liệu xúc tiến đầu tư
bằng một số ngôn ngữ đáp ứng nhu cầu của số đông nhà đầu tư (tiếng Anh, tiếng
Nhật, tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Nga)
- Tăng cường các đoàn vận động đầu tư theo phương thức làm việc trực tiếp
với các tập đoàn lớn, tại các địa bàn trọng điểm (Nhật Bản, Mỹ và EU) để kêu gọi
đầu tư vào các dự án lớn, quan trọng. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư
tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam.

Nhóm giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng:


- Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về
kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng.
Tăng cường công tác quy hoạch, thực thi các quy hoạch cũng như thu hút đầu tư
vào các công trình giao thông, năng lượng.
- Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc
biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước,
vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc,
trước hết là tuyến Bắc-Nam, hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc; nâng
cao chất lượng dịch vụ đường sắt, trước hết là đường sắt cao tốc Bắc-Nam, đường
sắt hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc, đường sắt nối các cụm cảng biển
lớn, các mỏ khoáng sản lớn với hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt nội đô
thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.v.v.
Trước mắt tập trung chỉ đạo, giải quyết tốt việc cung cấp điện, trong mọi
trường hợp không để xảy ra tình trạng thiếu điện đối với các cơ sở sản xuất. Tăng
cường nghiên cứu xây dựng chính sách và giải pháp khuyến khích sản xuất và sử
dụng điện từ và các loại năng lượng mới như sức gió, thủy triều, nhiệt năng từ mặt
trời.
- Khẩn trương xây dựng và ban hành cơ chế khuyến khích các thành phần
kinh tế ngoài nhà nước tham gia phát triển các công trình kết cấu hạ tầng trong đó
có các công trình giao thông, cảng biển, các nhà máy điện độc lập.
- Mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép đầu
tư dịch vụ cảng biển, đặc biệt dịch vụ hậu cần (logistic) để tăng cường năng lực
cạnh tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các cảng lớn của
các khu vực kinh tế như hệ thống cảng Hiệp Phước-Thị Vải, Lạch Huyện.v.v.
- Tập trung thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu chính-
viễn thông và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ
tầng mạng.
- Đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực (văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-viễn
thông, hàng hải, hàng không) đã cam kết khi gia nhập WTO. Xem xét việc ban
hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết đối với một số lĩnh vực
dịch vụ mà nước ta có nhu cầu,

Nhóm giải pháp về lao động, tiền lương:


- Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng tỷ lệ
lao động qua đào tạo lên 40% vào năm 2010. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư
hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có lên ngang tầm khu vực và thế giới, sẽ
phát triển thêm các trường đào tạo nghề và trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn
khác nhau.
- Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển
dịch cơ cấu kinh tế.
- Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp
pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ luật Lao động, bao
gồm:
- Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp
trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp
luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc
và đời sống cho người lao động.
- Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền
và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và
tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.

Nhóm giải pháp về cải cách hành chính:

- Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý nhà nước đối với ĐTNN, đặc biệt
trong việc phê duyệt, cấp Giấy chứng nhận đầu tư, quản lý tốt các dự án ĐTNN,
gắn với việc tăng cường hợp tác, hỗ trợ, phối hợp hiệu quả công tác kiểm tra, giám
sát việc thi hành pháp luật về đầu tư.
- Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo thực hiện
nhiệm vụ theo quy định tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp quản lý đầu
tư nước ngoài.
- Đơn giản hóa và công khai quy trình, thủ tục hành chính đối với đầu tư
nước ngoài, thực hiện cơ chế "một cửa" trong việc giải quyết thủ tục đầu tư. Đảm
bảo sự thống nhất, các quy trình, thủ tục tại các địa phương, đồng thời, phù hợp
với điều kiện cụ thể.
- Xử lý dứt điểm, kịp thời các vấn đề vướng mắc trong quá trình cấp phép,
điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư .
- Tăng cường cơ chế phối hợp quản lý đầu tư nước ngoài giữa Trung ương
và địa phương và giữa các Bộ, ngành liên quan.

Một số giải pháp khác:

- Trong các giải pháp nêu trên cần phải tính đến yếu tố vùng, miền cho các
định hướng ưu tiên, đặc thù.. phù hợp thực tế để dần thu hẹp khoảng cách giữa các
vùng, miền trong thu hút ĐTNN phục vụ phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn nói
riêng và cả nước nói chung.
- Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng
nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý
công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan quản lý nhà nước.

You might also like