Academia.eduAcademia.edu
1. Chính sách công Chính sách công là một trong những công cụ quản lý vĩ mô quan trọng của nhà nước. Thông qua việc ban hành và tổ chức thực thi các chính sách công, những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước được hiện thực hóa. Nhà nước là chủ thể chủ yếu ban hành các chính sách công, thông qua đó, Nhà nước thực hiện vai trò quản lý đối với đời sống xã hội. Các chính sách công là sự tác động của Nhà nước lên các lĩnh vực hoạt động nhằm thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Chính vì thế, ta nói rằng các chính sách công là những bộ phạn hiệp thành của toàn bộ chiến lược phát triển quốc gia. Cũng từ đó, khi tiến hành đánh giá sự phát triển của một nước, chúng ta phải xem xét một cách tổng thể các chính sách công của quốc gia đó để thấy được định hướng phát triển chung của quốc gia. Chính sách công được Nhà nước đề tra như một chương trình hành động trong một thời gian dài để giải quyết một vấn đề nhất định nào đó mà chính quyền quan tâm. Do đó, một chính sách thường bao gồm một loạt các quyết định quản lý có quan hệ với nhau cùng tác động đến vấn đề đó theo những mục tiêu mà Nhà nước đề ra. Như vậy, ta có thể đưa ra khái niệm về chính công như sau : Chính sách công là kết quả ý chí chính trị của nhà nước được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau, bao hàm trong đó định hướng mục tiêu và cách thức giải quyết những vấn đề công trong xã hội Do chủ thể ban hành và tổ chức thực thi chính sách công là Nhà nước nên chính sách luôn phản ánh bản chất của Nhà nước sản sinh ra nó. Trong các nhà nước phong kiến và nhà nước tư bản thì bản chất của Nhà nước là bản chất bóc lột của thiểu số giai cấp thống trị đối với đa số nhân dân lao động trong xã hội, điều này cũng là cho chính sách công của những Nhà nước này phục vụ chủ yếu quyền lợi của giai cấp thống trị. Trong quá trình quản lý, có những chính sách trùng hợp với quyền lợi chung của quốc gia và nhân dân lao động – như chính sách phát triển công nghiệp hiện đại, nhưng nhiều khi, chúng mâu thuẫn và đối lập lại quyền lợi của người lao động, khi đó chính sách công không được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, gây ra mâu thuẫn xã hội. Ở Việt Nam, các chính sách công là do Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đề ra. Bản chất của nhà nước ta là Nhà nước của giai cấp công nhân dựa trên nền tảng liên minh với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Bản chất dân chủ của nhà nước ta được khẳng định qua tất cả các bản Hiến Pháp trong suốt quá trình lịch sử phát triển. Theo khoản 2, Điều 2, Hiến Pháp 2013 có ghi rõ : “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.” Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo sâu sắc và toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng lãnh đạo Nhà nước và toàn dân xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng cũng là tổ chức đề xướng đường lối chiến lực phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, chính sách công ở Việt Nam là những bộ phận hợp thành, là sự cụ thể hóa đường lối phát triển kinh tế -xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. 2. Cấu trúc của chính sách công Thứ nhất, mục tiêu chính sách. Mục tiêu của chính sách là những giá trị và kết quả mà nhà nước mong muốn đạt được thông qua thực hiện các giải pháp chính sách. Mục tiêu chính sách thể hiện ý chí của Nhà nước – thực ra là ý chí của giai cấp cầm quyền, về một vấn đề công. Nếu nhà nước muốn duy trì hiện trạng của vấn đề thì nhà nước sẽ thực hiện “hành vi không hành động”, ngược lại khi nhà nước muốn thay đổi thực trạng vấn đề thì nhà nước phải đề ra các giải pháp để giải quyết vấn đề đó. Mục tiêu chính sách cũng thể hiện thái độ của nhà nước đối với một vấn đề công, đó có thể là ủng hộ hay phản đối. Mục tiêu chính sách được thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau, từ mục tiêu chung đến mục tiêu cụ thể từng lĩnh vực, từng địa phương, từ mục tiêu định tính đến mục tiêu định lượng. Thường thì những chính sách ban đầu đề ra những mục tiêu chung mang tính định tính, có nghĩa là nó được thể hiện dưới dạng ngôn từ chứ không phải dưới dạng những con số cụ thể. Từ những mục tiêu chung này sẽ được cụ thể hóa thành các chỉ tiêu cụ thể. Các mục tiêu cụ thể này phản ánh những khía cạnh của mục tiêu chung trong một giai đoạn thời gian nhất định, phù hợp với điều kiện thực thi cụ thể. Những mục tiêu cụ thể này cung cấp căn cứ cho việc giám sát, đo lường và đánh giá mức độ đạt mục tiêu chung của chính sách. Thứ hai, các giải pháp thực hiện chính sách. Giải pháp là cách thức giải quyết vấn đề nhằm đạt được mục tiêu chính sách. Dựa vào mục tiêu chính sách, Nhà nước xác định các giải pháp thích hợp để đạt được mục tiêu đó. Như vậy giải pháp chính sách phải phù hợp với mục tiêu chính sách. Mục tiêu nào thì giải pháp đó, đây chính là mối quan hệ giữa mục tiêu và phương tiện. Do mục tiêu chính sách được thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau từ khái quát đến cụ thể nên giải pháp chính sách cũng đi từ những giải pháp chung đến những giải pháp cụ thể. Những giải pháp cụ thể phải đề ra được những công cụ được sử dụng để thực thi chính sách, các nguồn lực cần thiết ( tài lực, vật lực, nhân lực), kế hoạch tổ chức thực hiện. Nói cách khác, cơ quan nhà nước các cấp chịu trách nhiệm thực thi chính sách phải xây dựng các quy trình, thủ tục, thành lập các tổ chức, thiết kế các chương trình, đề án, dự án cụ thể. Như vậy, cấu trúc của một chính sách gồm hai bộ phận hợp thành và thống nhất nhau là mục tiêu và giải pháp của chính sách. Mối quan hệ đó là mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả. 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực thi chính sách công ở Việt Nam: Thực tiễn ở nước ta, điều kiện thực thế vẫn chưa thật sự được quan tâm như là một tiền đề, điều kiện tối quan trọng để xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện chính sách. Vì thế, vẫn còn khá nhiều chính sách xa rời thực tế, gây khó khăn khi tổ chức thực hiện và không được dư luận thật sự đồng tình. Đặc biệt, những căn bệnh chủ quan, duy ý chí, chạy theo thành tích, thích "đánh bóng hình ảnh", lợi ích cục bộ của từng bộ, ngành hoặc lợi ích của một số nhóm trong xã hội vẫn tồn tại kéo dài đã gây những hậu quả ngày càng lớn cho xã hội, cho từng ngành và địa phương từ hoạt động hoạch định cho tới tổ chức thực thi Chính sách công. Bởi công tác ban hành và thực thi chính sách vẫn do Nhà nước “độc quyền” tiến hành chứ chưa huy động được sự tham gia của doanh nghiệp, tổ chức xã hội dân sự và quần chúng nhân dân. Nguyên tắc phân công, phân cấp, phân quyền làm chính sách đôi khi được thực hiện cứng nhắc đã tạo ra sự cục bộ của các bộ, ngành và địa phương trong công tác chính sách. Mỗi cơ quan, đơn vị, tổ chức làm chính sách điều ban hành riêng những chuẩn mực cho mình khiến chính sách công bị phân tán, không có sự gắn kết giữa các chính sách với nhau tạo nên một chỉnh thể. Các chính sách chỉ mới nếu ra mục tiêu với một bảng hệ thống các tiêu chí mà chưa đề ra nhiều cách thức thực hiện trong thực tế. Nói cách khác, các cách thức thực hiện đề ra vẫn còn chung chung, đại khái mà không chỉ ra một cách cụ thể để người thực thi chính sách thực hiện hiệu quả. Công tác quan hệ công chúng của cơ quan Nhà nước nói chung còn yếu, chưa xây dựng một kênh thông tin giao tiếp hữu hiệu giữa cơ quan thực thi chính sách với các đối tượng chịu tác động của chính sách. Lợi ích nhóm trong hoạch định và thực thi chính sách công đã được chính thức nhìn nhận như một lực cản của quá trình ban hành những chính sách hiện nay. Các nhóm lợi ích ngày càng gia tăng sự tác động đến chính sách công khiến các tính đại chúng, cộng đồng của chính sách bị ảnh hưởng. Trong lĩnh vực tổ chức thực thi Chính sách công bộc lộ những hạn chế, bất cập chủ yếu về tính kịp thời, đồng bộ, nhất quán trong tổ chức thực hiện, nhất là ở một số chính sách về kinh tế - xã hội và môi trường trong thời gian gần đây. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, thuyết phục, vận động nhằm định hướng dư luận trong quá trình thực hiện chính sách chậm được đổi mới về hình thức, phương pháp, nội dung; còn nhiều biểu hiện hình thức, "làm cho có"… nên kém hiệu quả. Công tác hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra chưa kịp thời, thường xuyên và thiếu thực chất. Việc xử lý khiếu nại, tố cáo các vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện còn chậm, nhiều trường hợp thiếu công bằng, nghiêm minh đã ảnh hưởng xấu đến thực hiện Chính sách công. Công tác tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm cho hoạch định và thực thi chính sách chưa được coi trọng, chưa làm thường xuyên, kịp thời. Trong một thời gian dài, hoạt động này chưa thật sự được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quan tâm, coi trọng do sự bất cập trong tư duy làm chính sách. Điều này không chỉ đúng với quy trình chính sách của chính quyền địa phương mà còn của Chính phủ, các bộ, ngành. 4. Những hạn chế trong việc thực thi chính sách công hiện nay Có thể khẳng định rằng có được chính sách công đúng đắn mới chỉ là “điều kiện cần” để đưa chính sách vào cuộc sống. Tổ chức thực thi là “điều kiện đủ” của chính sách công. Điều này cho chúng ta thấy rõ mối quan hệ có tính quyết định giữa các khâu trong quá trình thực thi chính sách. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn tồn tại những chính sách ban hành chưa sát thực tiễn nên thực hiện hiệu lực, hiệu quả thấp. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về nội dung và yêu cầu của chính sách có khi chưa đầy đủ, rõ ràng và kịp thời tới những đối tượng liên quan (nhà chức trách, những người thực thi và người dân), dẫn đến hiểu sai. Các văn bản hướng dẫn nhiều khi không rõ ràng, thống nhất, thậm chí mâu thuẫn nhau. Tình trạng luật, pháp lệnh đã ban hành nhưng phải chờ nghị định và thông tư hướng dẫn diễn ra khá phổ biến, cản trở việc áp dụng. Sự phân công nhiệm vụ giữa các đơn vị tổ chức thực thi chính sách chưa thực sự khoa học, vẫn có sự chồng chéo, trùng lặp giữa quyền hạn và lợi ích. Cơ chế phối hợp giữa các cấp và giữa các cơ quan đồng cấp chưa chặt chẽ, đặc biệt trong việc chia sẻ, trao đổi, công khai thông tin. Bên cạnh đó, một bộ phận trong đội ngũ cán bộ, công chức thiếu năng lực, trình độ và sự trong sạch trong thực thi chính sách cũng đang là một trong những nguyên nhân bóp méo, thậm chí đi ngược lại mục tiêu của chính sách. Những quy chế, thủ tục lập ra trong quá trình tổ chức thực thi chính sách thường thiếu tính ổn định tương đối, gây xáo trộn cho quá trình thực thi chính sách công. Thủ tục hành chính còn nhiều phức tạp, rắc rối gây khó khăn, cản trở việc thực thi chính sách. Sự thiếu cơ chế theo dõi và đánh giá làm cho việc đánh giá kết quả thực hiện các chính sách công trở nên khó khăn, không có các thông tin đáng tin cậy về những hoạt động tốt và những đòi hỏi cần hoàn thiện. Điển hình như chính sách Việc Làm ở nước ta. Mặc dù đã được thực hiện nhiều năm, đem lại nhiều kết quả đáng trân trọng nhưng quá trình thực thi chính sách này cũng vấp phải nhiều hạn chế như: Thứ nhất, hạn chế lớn nhất là chính sách việc làm hiện nay chủ yếu mới chú trọng đến tạo việc làm theo chiều rộng, càng nhiều việc làm càng tốt mà chưa chú trọng đến chất lượng việc làm. Vì vậy, chưa khuyến khích người lao động nâng cao trình độ và tay nghề. Thứ hai, chính sách về việc làm ban hành còn tản mạn ở nhiều văn bản gây chồng chéo. Các quy định của chính sách việc làm mang tính quy phạm chưa cao, chính sách chủ yếu hướng vào hỗ trợ, khuyến khích chưa rõ trách nhiệm của các đối tượng điều chỉnh của chính sách. Một số chính sách hỗ trợ việc làm chưa được hướng dẫn cụ thể như: chính sách miễn giảm thuế để khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị và cá nhân tạo việc làm cho nhiều người lao động; chính sách khuyến khích đưa nhiều lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật đi làm việc ở nước ngoài có thu nhập cao; đi làm việc tại các công trình, dự án do doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong nước trúng thầu, nhận thầu, đầu tư ở nước ngoài; chính sách hỗ trợ người lao động sau khi về nước... Thứ ba,chính sách tín dụng chưa phù hợp về điều kiện vay và mức vay, thiếu gắn kết giữa cho vay vốn và hỗ trợ đầu vào tiếp cận thị trường nên hiệu quả sử dụng vốn chưa cao. Nhiều chính sách ưu đãi tín dụng chồng chéo trên cùng một đối tượng gây khó khăn cho việc thực hiện và khó đi vào cuộc sống. Quỹ quốc gia giải quyết việc làm ngày càng tập trung nhiều cho hộ gia đình vay vốn, ít hỗ trợ các doanh nghiệp để tạo thêm nhiều việc làm mới. Các quy định về Quỹ giải quyết việc làm chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời gây khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện Thứ tư, hệ thống chính sách hỗ trợ lao động di chuyển đến các khu công nghiệp, khu đô thị còn thiếu. Đa số người dân di cư ra các đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất chưa được hưởng các chính sách hỗ trợ di chuyển và ổn định tại nơi đến. Trái lại, một số quy định còn hạn chế khả năng tiếp cận của người di cư đến việc làm tốt, các dịch vụ xã hội cơ bản tại đô thị. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hạn chế của chính sách việc làm hiện nay. - Cơ sở pháp lý quan trọng nhất để xây dựng các chính sách việc làm là Bộ luật Lao động (Chương II- Việc làm). Do Bộ luật này được xây dựng trong giai đoạn nền kinh tế nước ta mới chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên những vấn đề chủ yếu của kinh tế thị trường nói chung và quan hệ việc làm nói riêng mới chỉ ở giai đoạn sơ khai, chưa bộc lộ hết những yêu cầu của nó. Mặc dù đã sửa đổi, bổ sung Chương Việc làm của Bộ luật Lao động vào năm 2002, đồng thời ban hành mới một số văn bản Luật để kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội về việc làm, song, do sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các quan hệ việc làm ngày càng phát triển về số lượng, phong phú và đa dạng về hình thức, cho nên quá trình ban hành, thực hiện các chính sách việc làm đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế, phát sinh một số vấn đề mới về quan hệ việc làm cần được điều chỉnh trong một văn bản Luật thống nhất. - Chúng ta chưa có định hướng, quy hoạch tổng thể phát triển việc làm dài hạn, quy hoạch phát triển vùng, ngành nghề sản xuất kinh doanh cho nên sự chuyển dịch cơ cấu lao động còn chậm, lạo động chủ yếu làm trong lĩnh vực nông nghiệp hoặc khu vực phi chính thức có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế thấp. - Tổ chức thực hiện các chính sách việc làm chưa tốt. Sự phối hợp giữa các cơ quan trung ương và địa phương chưa đồng bộ. Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách việc làm đã được các cơ quan, tổ chức và các địa phương quan tâm nhưng hiệu quả chưa được như mong muốn. - Tổ chức hoạt động dịch vụ việc làm chưa chuyên nghiệp, chưa khoa học. Hoạt động của các trung tâm, doanh nghiệp giới thiệu việc làm còn quá chú trọng vào đào tạo nghề, còn hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, thông tin thị trường lao động chưa được chú trọng đúng mức. Sự phối hợp hoạt động giữa các trung tâm giới thiệu việc làm, giữa trung tâm với các doanh nghiệp, người sử dụng lao động còn hạn chế, đặc biệt trong lĩnh vực cung cấp thông tin thị trường lao động, do vậy thông tin thị trường lao động lao động chưa có sự kết nối giữa các vùng, các địa phương. - Hoạt động đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài chưa hiệu quả. Các chương trình hỗ trợ người lao động trở về nước tái hòa nhập thị trường lao động trong nước chưa được chú trọng. - Hiện tại và trong tương lai giải quyết việc làm phải hướng tới vấn đề về chất lượng, đảm bảo “việc làm bền vững”, “việc làm xanh”,... thì chỉ tiêu “tạo việc làm mới” bộc lộ nhiều hạn chế, khó khăn về phương thức tính toán, không phân biệt theo ngành nghề, giới tính, khu vực nông thôn/thành thị, không đảm bảo tính so sánh quốc tế, độ tin cậy thấp, phản ánh không sát với thực tế. Có nhiều nguyên nhân gây nên hạn chế trên, trong đó chủ yếu do: cơ sở dữ liệu quản lý dân cư chưa có; hệ thống thống kê báo cáo chưa khoa học; sự dịch chuyển lao động, phân tích việc làm mới- cũ rất khó khăn; tính pháp lý trong yêu cầu thực hiện chế độ thống kê, báo cáo chưa đủ sức bắt buộc các tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm túc... 5. Một số giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi chính sách công Nâng cao nhận thức về chính sách công theo hướng đầy đủ, đúng đắn các nội dung là yêu cầu quan trọng đầu tiên trong quá trình đưa chính sách của Nhà nước vào cuộc sống. Các nhà hoạch định, tổ chức thực thi chính sách, lực lượng tham gia và cả các đối tượng chịu ảnh hưởng chính sách cần hiểu rõ mục tiêu, ý nghĩa, nội dung của chính sách và các giải pháp thực hiện, từ đó tạo ra sự đồng thuận trong cả hệ thống chính trị, tạo nên sức mạnh tổng hợp tổ chức thực hiện có hiệu quả chính sách. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chính sách đến các đối tượng liên quan, các tầng lớp nhân dân; thực hiện công khai để mọi người biết, được bàn, được làm và được kiểm tra chính sách, từ đó tạo dư luận xã hội và môi trường thuận lợi cho việc thực hiện chính sách. Tuỳ từng đối tượng mà tổ chức các hình thức tuyên truyền, phổ biến và quán triệt phù hợp như: mở các lớp tập huấn tập trung để quán triệt, nghiên cứu các nội dung chính sách, bàn các giải pháp và phân công thực hiện (hình thức này phù hợp với các đối tượng tham gia trực tiếp vào quá trình tổ chức thực hiện và kiểm tra thực hiện chính sách); tổ chức các lớp tuyên truyền chính sách cho các cơ quan thông tin đại chúng, cán bộ tuyên truyền; gửi các tài liệu hướng dẫn nghiên cứu chính sách cho các tổ chức, doanh nghiệp liên quan để tự nghiên cứu và xây dựng chương trình tham gia thực hiện chính sách. Cụ thể hoá chính sách: sau khi chính sách mới ban hành, cần phải cụ thể hoá bằng các chương trình hành động, chương trình mục tiêu, các kế hoạch thực hiện; ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách, các biểu mẫu báo cáo (nếu có); xây dựng các đề án, dự án phát triển kinh tế - xã hội cụ thể (nếu có). Các thủ tục này tạo ra môi trường thực thi chính sách, quy định những đòi hỏi và bước đi cần thiết trong việc thực hiện chính sách. Tuy nhiên, khi ban hành các thủ tục hành chính cần phải nghiên cứu kỹ để tránh sự rườm rà, phức tạp không cần thiết; đồng thời phải đảm bảo tính ổn định tương đối để không gây nhiều xáo trộn cho quá trình thực thi. Bên cạnh đó, những thủ tục đã lỗi thời, kìm hãm việc thực thi cần được thay thế bằng những thủ tục mới hợp lý và thuận tiện hơn. Chuẩn bị nguồn lực cho việc thực hiện chính sách: huy động các nguồn lực (bao gồm nguồn nhân lực, nguồn kinh phí...) từ trung ương, các địa phương, các tổ chức quốc tế (nếu có). Về nguồn nhân lực, nên hạn chế ở mức ít nhất có thể số lượng cơ quan thực thi chủ yếu để đảm bảo tính hiệu quả của chính sách. Về nguồn kinh phí, nếu không có hoặc không đủ thì không thể thực hiện được chính sách, dù chính sách đó mang ý nghĩa xã hội to lớn. Có thể khai thác các nguồn lực trong nhân dân nhằm giảm bớt chi phí từ ngân sách nhà nước, nâng cao trách nhiệm cộng đồng xã hội, khai thác sự tài trợ của các tổ chức quốc tế và các chính phủ. Nguồn kinh phí cần sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát, kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng kinh phí và đánh giá hiệu quả. - Tổ chức thực hiện một cách khoa học, hợp lý, phân công trách nhiệm cụ thể cho các tổ chức, cá nhân liên quan; xác định người chịu trách nhiệm chính và những người tham gia phối hợp trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách. Trong phân công nhiệm vụ, cần chú ý đến khả năng, tính chất chuyên môn và thế mạnh của từng người; hạn chế tình trạng trùng chéo nhiệm vụ và không rõ trách nhiệm. - Thanh tra kiểm tra việc thực hiện chính sách. Mục đích của việc thanh tra, kiểm tra là phát hiện, phòng ngừa và xử lý vi phạm (nếu có); phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, trong chính sách và pháp luật để kiến nghị với cơ quan thẩm quyền có biện pháp khắc phục. Đồng thời, thông qua đó để phát huy nhân tố tích cực góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan  Ví dụ như để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Chính sách Việc làm đã nêu ở phần trên, ta có thể thực hiện những giải pháp như sau: Thứ nhất, cần ban hành Luật Việc làm để quy định cụ thể về chính sách việc làm của Nhà nước. Trong đó, Nhà nước không chỉ có trách nhiệm tạo việc làm mà phải có trách nhiệm định hướng phát triển việc làm hướng tới thúc đẩy và bảo đảm việc làm bền vững cho người lao động; có những quy định về các giải pháp cụ thể của Nhà nước. Thứ hai, cần gắn kết chính sách việc làm với chính quá trình và kế hoạch tổng thể về tái cấu trúc kinh tế theo hướng hiện đại và phát triển bền vững. chủ động phát triển có tổ chức các thị trường lao động có nhiều tiềm năng và hiệu quả kinh tế cao, nhất là thị trường lao động chất lượng cao về kinh tế nông nghiệp, kinh tế biển, công nghệ thông tin và xuất khẩu ỉao động. Để nâng cao hiệu lực của chính sách việc làm cần có sự phối hợp đồng bộ các cấp, ngành và địa phương có liên quan; tăng cường giám sát, kiểm tra việc thực hiện chính sách, phát hiện những hạn chế, những ách tắc để xử lý kịp thời, qua đó để các chính sách đi vào cuộc sống có hiệu quả hơn. Tổ chức tốt hoạt động dịch vụ việc làm. Hoạt động của các trung tâm giới thiệu việc làm cần chú trọng đến hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, thông tin thị trường lao động. Tăng cường phối hợp hoạt động giữa các trung tâm giới thiệu việc làm, giữa trung tâm với các doanh nghiệp, người sử dụng lao động. Thứ ba, chính sách việc làm cần được thực hiện trong đồng bộ và đồng thời, thậm chí đi trước một bước với các chính sách kinh tế khác. Đặc biệt, công tác đào tạo nghề cần bám sát nhu cầu thị trường và đi trước, đón đầu các quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội ở các địa phương, nhất là những địa bàn có tốc độ đô thị hóa và tốc độ tái cấu trúc kinh tế-xã hội nhanh. Sớm bổ sung các chính sách việc làm mới, trong đó đặc biệt chú ý phát triển nguồn nhân lực trình độ cao trong các ngành, lĩnh vực quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả tăng trưởng kinh tế cao, như kinh tế nông nghiệp sử dụng công nghệ cao, kinh tế biển, công nghệ thông tin và xuất khẩu lao động có kỹ thuật, cũng như khai thác tốt đội ngũ lao động từ nước ngoài trở về nước sau khi kết thúc hợp đồng lao động ở nước ngoài. Mặt khác, cần tạo môi trường áp lực cao để người lao động Việt Nam khắc phục ảnh hưởng của lao động trong nền sản xuất nhỏ, tiểu nông, manh mún, được học tập và rèn luyện trong các trường dạy nghề trọng điểm chất lượng cao, trường đại học đẳng cấp quốc tế, được quản lý theo mục tiêu bảo đảm chất lượng đào tạo và gắn với nhu cầu của xã hội. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện hiệu quả chính sách tín dụng ưu đãi phát triển sản xuất, tạo việc làm, chính sách hỗ trợ học nghề, hỗ trợ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, ưu tiên cho người nghèo, người dân tộc thiểu số thuộc các huyện nghèo, xã nghèo, thôn bản đặc biệt khó khăn. Tiếp tục thực hiện chiến lược, các chương trình, đề án về việc làm và dạy nghề, khẩn trương nghiên cứu xây dựng chương trình việc làm cho người thất nghiệp, thiếu việc làm. Để việc triển khai dạy nghề, học nghề có hiệu quả kinh tế thực sự, tránh hình thức và lãng phí xã hội trong quá trình triển khai các đề án đào tạo nghề, cần bảo đảm đầu tư đủ mức theo yêu cầu dậy và học nghề, tránh tư tưởng bình quân chủ nghĩa như kiểu “phát chẩn”, cửu đói. Mặt khác, cần tăng cường công tác tuyên truyền, linh hoạt và thiết thực về nội dung và phương thức đào tạo nghề, gắn với thực tế đối tượng học nghề, cũng như gắn với chương trình việc làm cụ thể của mỗi địa phương, để các đối tượng lao động nông thôn ở vùng sâu, vùng xa, nhất là vùng núi không bị lúng túng trong việc xác định nghề học, sắp xếp thời gian học. Hơn nữa, cần chú ý dạy nghề theo hướng tạo việc làm tại chỗ, trong đó có đáp ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp công nghệ cao, hoặc thúc đẩy quá trình tái cấu trúc toàn diện kinh tế và xã hội nông thôn theo tinh thần “ly nông bất ly hương”, để người lao động sống ở nông thôn sau khi tốt nghiệp các khóa đào tạo nghề có thể tăng khả năng và chủ động tìm kiếm, tạo lập công việc, thu nhập ngay tại quê nhà, không phải đi xa, giảm bớt áp lực quá tải, phi kinh tế lên các đô thị. Thứ tư, chính sách việc làm phải phát huy được các nguồn lực của xã hội vào việc tạo việc làm và đảm bảo việc làm. Tăng cường huy động các nguồn vốn của doanh nghiệp và các tổ chức cho đào tạo nâng cao trình độ người lao động. Thực hiện các cơ chế, chính sách ưu đãi (gồm những giải pháp ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, hỗ trợ về đất đai và ưu đãi tín dụng, hỗ trợ về đào tạo nhân lực chất lượng cao thuộc ngành nghề mũi nhọn) để khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu tư cho đào tạo với các hình thức khác nhau như đặt hàng với các cơ sở đào tạo, tự tổ chức đào tạo nhân lực trong doanh nghiệp và thành lập các cơ sở đào tạo trong doanh nghiệp để đào tạo nhân lực cho bản thân doanh nghiệp và cho xã hội. Huy động các nguồn vốn của dân để đầu tư xây dựng cơ sở đào tạo, tổ chức các loại quỹ khuyến học, khuyến tài...