You are on page 1of 7

3/5/2018 Sám hối |

Mục Tiêu   Liên hệ   Gửi bài   Thắc mắc

  Tìm

Sám hối
Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
T7, 25/02/2012 ­ 16:25

1. Có người cho rằng sám hối là từ ngữ của nhà
Phật,  nhưng  Công  giáo  sử  dùng  thuật  từ  này  rất  phổ
biến,  chẳng  hạn  như  trong  các  bài  giảng,  các  linh  mục
thường  kêu  gọi  mọi  người  phải  sám  hối,  Mùa  Chay  là
mùa sám hối, bí tích Giao Hoà là bí tích Sám Hối, vv…
Như  vậy  phải  chăng  khi  nói  đến  sám  hối,  người  Công
giáo  có  cùng  một  quan  niệm  về  sám  hối  như  bên  Phật
giáo?
 
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa của từ sám hối theo nguyên ngữ của nó,
trong quan niệm của nhà Phật và nhìn lại quan niệm của Công giáo về việc sám hối.
 
2. Nghĩa của từ sám hối.
 
懺  gồm bộ tâm忄 và chữ tiêm 韱 , chữ tiêm chỉ dùng cho phát âm. Có người giải thích chữ
Sám
tiêm 韱  nguyên thuỷ là hai chữ sơn­cửu 山韭 , nghĩa là rau hẹ rừng. Rau hẹ rừng mọc tùm lum, khi một
người hối hận về một việc gì thì tâm trí cũng “tùm lum” như rau hẹ rừng, nên có bộ tâm. Thực ra,
“sám” là lược âm của tiếng Phạn kṣama, đúng âm là “sám­ma ( 懺   摩 )”. Nhiều tác giả [1] cho rằng
“sám” đồng nghĩa với “hối”, nghĩa là hối tiếc những việc sai lầm đã qua, nhưng theo ngài Nghĩa Tịnh
[2] “sám” nghĩa là khoan thứ hoặc xin được khoan thứ (forgiveness, tolerance) [3]. Từ điển của Gérard
Huet [4] cũng cho nghĩa này: “Sám” (dt. kṣamā) (1) Sự chịu đựng ; (2) Tha tội, tha thứ ; (tt. kṣama) (1)
Kiên nhẫn, có sức chịu đựng ; (2) Có thể; (3) Chịu đựng được, khoan thứ; (đt. kṣam) (1) Kiên trì, chịu
đựng, nâng đỡ ; (2) Cho phép ; (3) Tha thứ, khoan dung với...
 

http://tgpsaigon.net/baiviet­tintuc/20120225/7128 1/7
3/5/2018 Sám hối |

Hối 悔  có bộ tâm 忄 và chữ mỗi 每 , chữ mỗi dùng cho phát âm, nghĩa là tiếc điều lỗi trước (do


bởi từ trong lòng hối hận những lời nói hay việc làm có thiếu sót, nên có bộ tâm). Hối là tiếng thuần
Hán, nói đủ là hối­quá ( 悔  過 ), có nghĩa là: dt. (1) Thiếu sót ; (2) Tiếc nuối ; đt. (3) Hối lỗi, thừa nhận lỗi
lầm ; (4) Giận ghét ; (5) Chừa cải.
 
Như vậy, hai chữ “sám” và “hối” không đồng nghĩa với nhau mà chỉ có mối liên hệ gần nhau
thôi.
 
Đại Từ Điển Tiếng Việt giải nghĩa: Sám hối là ăn năn, hối hận về tội lỗi của mình [5].
 
3. Quan niệm về sám hối theo Phật giáo.
 
Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Sám giả sám kỳ tiền khiên, hối giả hối kỳ hậu quá: Sám là sám trừ tội
trước, hối là hối cải lỗi sau [6]”. Sám hối là tự mình ăn năn, hổ thẹn những lỗi lầm trước đây đã tạo,
nguyện sửa đổi không dám tái phạm những lỗi lầm đó nữa. Về mặt từ nguyên, sám hối vốn được sử
dụng trong Phật Giáo có nghĩa là thuyết tội (Phạn: āpatti­deśanā) hoặc thuyết ác (Phạn: pāpa­deśanā
[5]) , tức là nói lên những lỗi lầm hay việc làm phi pháp của mình, Luật tạng thường gọi là phát lộ.
 
Cần lưu ý rằng quan niệm về tội trong Phật giáo khác hẵn với Kitô giáo. Chữ “tội” tiếng Phạn
là "āpatti", có nghĩa là: cái bị rơi, do động từ “pat”: rơi, đi xuống mà thành. Vì thế, nhà Phật quan niệm
tội nhân là người không theo kịp mọi người, bị rơi từ chỗ cao xuống chỗ thấp do phạm phải các điều
xấu ác. Cũng như trong một lớp học, phần lớn học sinh theo kịp bài thì cuối năm được lên lớp, còn bên
cạnh đó là một số ít không theo kịp nên phải lưu ban hoặc bỏ học. Đối với những người “bị rơi” như thế
­ tức là những người yếu đuối, sự giúp đỡ từ những người “không bị rơi” là điều rất cần thiết, cho nên
họ xưng thú (phát lộ) lỗi lầm của mình trước vị tăng (những người không bị rơi) để cầu xin năng lực
nâng đỡ. Nhờ những lời chỉ bảo và đức hạnh của các tăng, ý chí làm lành lánh dữ (thiện pháp) ở trong
con người lầm lỗi sẽ được nâng đỡ và tăng cường. Hơn nữa, xét về tâm lý, người phạm tội luôn mang
cảm giác hối hận, bứt rứt, khiến cho tâm hồn bất an. Những cảm giác ấy nếu để lâu không giải toả sẽ
chuyển  thành  trạng  thái  mặc  cảm  dưới  dạng  vô  thức  và  tiếp  tục  ảnh  hưởng  đến  tâm  thái  của  người
phạm tội. Việc sám hối (thuyết tội, thuyết ác) như thế trong chừng mực nào đó sẽ giải toả cái tâm lý
đang bị dồn nén ấy. Đây chính là ý nghĩa mang tính chữa trị tâm lý của việc sám hối.
 
Ngoài ý nghĩa chữa trị thuộc lãnh vực tâm lý này, sám hối còn có ý nghĩa tu tập thuộc lĩnh vực
tâm linh và là một trong những phấp tu tập khá phổ biến đối với Phật Giáo Đại Thừa, đồng thời cũng là
http://tgpsaigon.net/baiviet­tintuc/20120225/7128 2/7
3/5/2018 Sám hối |

một phương pháp nhằm ngăn ngừa việc tái phạm của 3 nghiệp [8] trong Phật Giáo Nguyên Thủy. Nếu
Phật Giáo Đại Thừa chọn 2 ngày 14 hay ngày rằm, ngày 29 hay 30 làm ngày lễ sám hối chung cho hai
giới xuất gia và tại gia, thì Phật Giáo Nguyên thủy dùng phương pháp quan sát 3 nghiệp của chính mình
làm phương pháp tu tập, có nghĩa là kiểm tra 3 nghiệp đã qua của mình, nghiệp nào trong 3 nghiệp ấy
phạm phải sai lầm, người đó cần tìm thầy hay tương đương vị thầy để bộc bạch trình bày lỗi lầm của
mình và phát nguyện từ đây về sau không tái phạm lầm lỗi đó nữa.
 
Tóm lại, trong Phật giáo, sám hối có mục đích chữa trị về tâm lý, tu tập về tâm linh và tuyệt
nhiên không mang bóng dáng thần quyền như chúng ta có thể lầm tưởng.
 
4. Quan niệm về sám hối theo Công giáo.
 
Công Đồng Trentô định nghĩa: "Sám hối là cảm thấy đau buồn, gớm ghét tội đã phạm và quyết
chí chừa cải" [9] . Đau buồn và gớm ghét nhìn về quá khứ, còn quyết tâm chừa cải nhắm tới tương lai.
 
Sám hối là tâm tình và hành động mà người ta nhìn nhận và cố gắng sửa lại một sai trái để
nhận được sự tha thứ nơi người mà họ xúc phạm. Trong ngữ cảnh tôn giáo, sám hối thường chỉ sự ân
hận về những tội xúc phạm đến Thiên Chúa. Nó luôn bao gồm sự thừa nhận có tội, và đồng thời bao
gồm ít nhất một trong các điều sau: (1) Tuyên hứa hay quyết định không tái phạm; (2) Nổ lực đền bù lại
tác hại do tội lỗi gây ra hoặc bằng cách nào đó. (3) Đảo ngược lại những hậu quả tai hại nếu có thể.
 
Trong Cựu ước, có 2 động từ Hipri được dùng để diễn đạt nghĩa sám hối: (1) Shuv (đt. to turn,
to return, quay (Is 6,10), quay trở lại (Tv 51,13), thay đổi và (2) Nicham (đt. to feel sorrow, cảm thấy hối
hận). Ý nghĩa căn bản của nó được diễn tả trong trong tiếng Hy Lạp bởi danh từ metanoia, chỉ sự thay
đổi (meta) của tư tưởng và tâm hồn (nous).
 
Trong Tân Ước, có 3 từ Hy Lạp được dùng để diễn đạt nghĩa sám hối: (1) Metamelomai (đt.,
được dùng 6 lần): Chỉ sự thay đổi tư tưởng, chẳng hạn như có ý hối tiếc hay thậm chí hối hận vì tội,
nhưng không nhất thiết có sự thay đổi nội tâm. Chữ nầy được dùng trong trường hợp chỉ sự hối hận của
Giuđa Iscariot (Mt 27,3). (2) Metanoeo (đt., được dùng 34 lần): Chỉ sự thay đổi tư tưởng và chủ đích do
kết quả của việc nhận thức. (3) Metanoia (dt., cùng gốc với đt. nói trên, được dùng 24 lần): Chỉ sự sám
hối thực sự, một sự thay đổi tư tưởng, chủ đích và đời sống theo những đòi hỏi của việc xá tội.
 

http://tgpsaigon.net/baiviet­tintuc/20120225/7128 3/7
3/5/2018 Sám hối |

Quan niệm về tội theo Kitô Giáo: Đối với Kitô hữu, Thiên Chúa là cứu cánh tối hậu, là Thiện
hảo, là Sự sống, là Hạnh phúc thật của con người. Và tội (1) Là bất tuân lề luật Chúa; (2) Là quay lưng
chống lại Thiên Chúa, lấy thụ tạo làm cứu cánh; (3) Là khước từ tình yêu Thiên Chúa và do đó cũng là
khước từ tình yêu anh em. Thực vậy, lề luật Chúa không gì khác hơn là sự khôn ngoan của Ngài vạch
lối cho con người đi tới chỗ thành tựu đích thực, tội đã bẻ ngoặt con đường dẫn đến hạnh phúc thật của
ta là Thiên Chúa, kéo ta lìa xa Chúa, lấy mình làm cứu cánh. Nhưng nếu chỉ có những khoản luật vô tri,
vô giác và thực sự bao giờ cũng trừu tượng, sẽ không có tội ­ hiểu theo nghĩa Công Giáo. Cho nên câu
định nghĩa thứ ba đưa ta vào sâu trong bản chất của tội hơn cả: Tội luôn luôn là chống lại Thiên Chúa:
"Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa" (Tv 50), tội luôn luôn đụng tới những quan hệ liên vị, liên
chủ thể: Tội làm ta đoạn tuyệt với Thiên Chúa và đồng thời cũng chia rẽ ta với anh em.
 
Vậy, khi ta hướng nhìn về Chúa Tình Thương để nhận ra tội lỗi của mình, ta sẽ có thể thấy hết
tầm mức ghê tởm của tội lỗi nhưng đồng thời chúng ta cũng sẽ biết sám hối ăn năn, thay vì tự dày vò
mình trong mặc cảm tội lỗi không lối thoát. Mặc cảm tội lỗi chỉ là một trạng thái tâm lý không có đối
tượng  rõ  rệt  nhưng  rất  khắc  nghiệt;  còn  tâm  tình  sám  hối  phát  sinh  từ  một  nhận  thức  đúng  về  thực
trạng của mình trước mặt Thiên Chúa, thì giải phóng cõi lòng tội nhân.
 
Quan niệm về sám hối theo Công giáo bao gồm: (1) Sự nhận biết đích thực về hành vi và tình
trạng phạm tội của chính mình. (2) Nhận thức về lòng thương xót của Chúa nơi Đức Kitô. (3) Thật lòng
ghét bỏ mọi tội lỗi (Tv. 119, 128; G 42,5­6; 2Cr 7,10) và quay về với Chúa; Và (4) Kiên trì cố gắng theo
đuổi một cuộc sống thánh thiện theo đường lối Chúa bằng cách tuân giữ các giới răn của Chúa. Lòng
sám hối thực sự là sự nhận thức về tội (Tv 51,4.9), về sự nhơ uế của tội (51, 5.7.10) và sự bất lực của bản
thân (51,11; 109,21.22). Như vậy, hối nhân nhận ra mình như Chúa vẫn nhìn thấy và muốn kẻ ấy như
thế. Nhưng ý thức sám hối không duy chỉ là một sự cảm nhận về tội mà thôi, nhưng còn là sự cảm nhận
về lòng thương xót, thiếu yếu tố này thì không thể có lòng sám hối thưc sự được (51,1; 130,4). Trong
ngôn ngữ thần học, sám hối cũng hàm chỉ việc trở lại (metanoia) của tội nhân (Mt 8,2; 4,17) về với Chúa
trong đức tin, cậy, mến nhờ ơn Chúa giúp và tình thương tha thứ của Thiên Chúa.
 
Tóm lại, trong Công giáo, sám hối không phải là sự tự cứu thoát mình, mà là một tác động hỗ
tương giữa Thiên Chúa và tội nhân: Ơn Chúa kêu gọi và tội nhân thật tình đáp lại. Tình thương Chúa
đã thắng tội lỗi.
 
5. Nhận xét và tạm kết.
 
http://tgpsaigon.net/baiviet­tintuc/20120225/7128 4/7
3/5/2018 Sám hối |

Ngày xưa, cha Đắc Lộ cho rằng: "Sám hối là sự mê tín của người lương dân làm để được tha
tội; bởi lẽ là họ dâng cho tượng thần vật gì để các vị tế lễ ăn, và như vậy họ được các vị ấy xá tội cho"
[10], nên ngài đã không dùng từ sám hối để dịch từ contritio hay pænitentia trong La ngữ, mà dùng chữ
"hối tội, ăn năn tội [11]"   hoặc "cới tội" [12]. Cho đến thời cha Cố Chính Linh, cũng chưa thấy ngài
dùng từ sám hối: "Bay hãy ăn năn đền tội, vì nước thiên đàng đã gần đến" (Mt 3,2) [13].
 
Nhưng ngày nay, từ sám hối đã đi vào kho tàng ngôn ngữ Việt Nam, hoà nhập vào tiếng nói của
toàn dân. Có lẽ mọi người Việt đều hiểu sám hối như các từ điển lớn của Việt Nam giải nghĩa là "ăn
năn, hối hận về tội lỗi của mình" [14], "hối hận vì đã mắc lỗi và mong sửa chữa" [15], cho nên người
Công giáo cũng đã sử dụng thuật từ này trong đời sống đức tin của mình.
 
Tuy nhiên khi sử dụng, chúng ta cần lưu ý là từ này có nguồn gốc từ Phật giáo, khi đặt trong
ngữ cảnh Công giáo thì ý nghĩa, nội dung của thuật từ này khác hẳn với quan niệm của anh em Phật
giáo.
 
_________________________________________
 
Ghi chú
[1] x. Sách tham khảo (Đoàn Trung Còn, Thích Minh Châu ­ Minh Chi, Lê Ngọc Trụ: tr. 740).
義淨 , 635­713) là vị cao tăng thời nhà Đường, ông cùng với Cưu Ma La Thập (Phạn:
[2] Nghĩa Tịnh (
Kumārajīva,  鳩摩羅什 , 344­413), Chơn Đế (Phạn: Paramārtha, Nhật: Shindai,  眞諦 , 499­569) và
Huyền Tráng ( 玄奘 , 602­664), được xem như là 4 nhà phiên dịch vĩ đại trong văn học Phật Giáo
Trung Quốc.
[3] x. Hướng Thiên, Tìm hiểu về sám hối, trong TẬP SAN PHÁP LUÂN, PL.2548, Số 8, tháng 10 năm
Giáp Thân (2004).
[4] Gérard Huet, HÉRITAGE DU SANSKRIT, DICTIONNAIRE SANSKRIT­ FRANÇAIS, 1994, tr. 130.
[5] Nguyễn Như Ý (chủ biên), ĐẠI TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT, nxb. Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, 1999.
[6]  Thích  Thanh  Từ,  KINH  PHÁP  BẢO  ĐÀN  GIẢNG  GIẢI,  nxb.  TP.HCM,  tái  bản  lần  III,  TP.HCM,
1999, tr. 96.
[7] John Bowker, THE OXFORD DICTIONARY OF WORLD RELIGIONS, Oxford University Press,
1997, tr. 230.
[8] "Nghiệp" là hành động, được chia làm ba loại: (1) Hành động của thân (thân nghiệp): gồm những
động tác đi, đứng, nằm, ngồi và tất cả những động tác khác của tay, chân và thân thể (kể cả ăn uống

http://tgpsaigon.net/baiviet­tintuc/20120225/7128 5/7
3/5/2018 Sám hối |

và xúc chạm). (2) Hành động của miệng (khẩu nghiệp): gồm mọi lời nói và âm thanh do miệng lưỡi
phát ra. (3) Hành động của ý (ý nghiệp): gồm mọi tư tưởng phát xuất từ tâm ý.
[9] "Contritio, quae primum locum inter dictos paenitentis actus habet, animi dolor ac detestatio est de
peccato commisso, cum proposito non peccandi de cetero" (DZ.1676).
[10]  Alexandre  de  Rhodes,  TỪ  ĐIỂN  ANNAM  ­  LUSITAN  ­  LATINH  (TỪ  ĐIỂN  VIỆT  ­  BỒ  ­  LA),
Roma, 1651. Phiên dịch: Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính, nxb. Khoa Học Xã Hội,
Hà Nội 1991, P.II, tr. 200.
[11] Alexandre de Rhodes, sđd, P.I, tr. 334: pænitentia peccatorum cum petitione venix.
[12] Cới tội = cải hối. cf. Dict Hue: "cới, chừa cới: s'amender", xem trong: PHÉP GIẢNG TÁM NGÀY,
NGÀY  THỨ  TÁM  của  Alexandre  De  Rhodes,  in  trong  GIÁO  SĨ  ĐẮC  LỘ  VÀ  TÁC  PHẨM  CHỮ
QUỐC  NGỮ  ĐẦU  TIÊN  của  Nguyễn  Khắc  Xuyên,  Phạm  Đình  Khiêm,  nxb.  Tinh  Việt  Văn  Đoàn,
Saigon, 1961, tr.186: "Nhân vì sự ấy Đức Chúa trời có định ngày phán xét chung, mà nói ra cùng
người ta ngày sau có phán xét chung ấy, cho kẻ chẳng tránh tội vì phải kính dái Đức Chúa trời, ít là
cới tội vì dái xấu hổ, khi đã hay các tội mình, dẫu kín, ngày sau thì tỏ ra trước mặt cả và thiên hạ".
[13] Albertus Schlicklin, KINH THÁNH ­ CỨ BẢN VULGATA, Imprimerie de la Société des Missions­
Étrangères,  Hong  Kong  1913­1916.  Mt  3,2:  "Pænitentia  agite,  appropinquavit  enim  regnum
caelorum". Bản dịch của Nhóm CGKPV, 1998: "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần".
[14] x. Nguyễn Như Ý (chủ biên), sđd.
[15] Nguyễn Lân, TỪ ĐIỂN TỪ VÀ NGỮ VIỆT NAM, nxb. TP.HCM, TP.HCM, 2000.
______________________________________________
 
Tham khảo
1.         Alexandre de Rhodes, TỪ ĐIỂN ANNAM ­ LUSITAN ­ LATINH (TỪ ĐIỂN VIỆT ­ BỒ ­ LA),
Roma, 1651. Phiên dịch: Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính, nxb. Khoa Học Xã Hội, Hà
Nội 1991.
2.                  Albertus  Schlicklin,  KINH  THÁNH  ­  CỨ  BẢN  VULGATA,  Imprimerie  de  la  Société  des
Missions­Étrangères, Hong Kong 1913­1916.
3.         Nguyễn Khắc Xuyên, Phạm Đình Khiêm, GIÁO SĨ ĐẮC LỘ VÀ TÁC PHẨM CHỮ QUỐC NGỮ
ĐẦU TIÊN, nxb. Tinh Việt Văn Đoàn, Saigon, 1961.
4.         Thích Minh Châu, Minh Chi, TỪ ĐIỂN PHẬT HỌC VIỆT NAM, nxb. Khoa Học Xã Hội, Hà Nội,
1991.
5.         Đoàn Trung Còn, PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN, in lần thứ..., nxb. TP.HCM, TP.HCM, 1992.
6.         Lê Ngọc Trụ, TẦM NGUYÊN TỪ ĐIỂN VIỆT NAM, nxb. TP.HCM, TP.HCM, 1993.

http://tgpsaigon.net/baiviet­tintuc/20120225/7128 6/7
3/5/2018 Sám hối |

7.                  John  Bowker,  THE  OXFORD  DICTIONARY  OF  WORLD  RELIGIONS,  Oxford  University
Press, 1997.
8.         Nguyễn Như Ý (chủ biên), ĐẠI TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT, nxb. Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, 1999.
9.         Thích Thanh Từ, KINH PHÁP BẢO ĐÀN GIẢNG GIẢI, nxb. TP.HCM, tái bản lần III, TP.HCM,
1999.
10.       TẬP SAN PHÁP LUÂN, Số 8 ­ tháng 10 năm Giáp Thân, PL.2548, Tu Thư Phật Học, 2004.
11.       Gérard Huet, HÉRITAGE DU SANSKRIT, DICTIONNAIRE SANSKRIT­FRANÇAIS, Version
228, 28/06/2008.

http://tgpsaigon.net/baiviet­tintuc/20120225/7128 7/7

You might also like