You are on page 1of 19

Vài so sánh giữa triết học phương Đông và

triết học phương Tây


Sao giờ lắm sách cổ học như kinh dịch, nho lão, tôn tử, đạo lão... thế nhỉ? Liệu hoài cổ quá có
hay lắm không? Luận sâu sắc về lời Hegel - Mác dạy có khi còn ít hơn cả luận Kinh Dịch, Mạnh
Tử, Tôn Tử ấy...

Bài này mong các bạn chia sẻ vài điểm khác biệt về triết học, triết lý Đông - Tây, từ đó quyết
định xem cân đối kiến thức sao cho hợp lý, hiệu quả cho cuộc sống.

- Thứ nhất, ta sẽ phân biệt đâu là Đông, đâu là Tây.

- Thứ hai, ta so sánh bối cảnh xã hội ra đời, pt triết học phương Đông, phương Tây

- Thứ ba, ta so sánh đối tượng nghiên cứu của triết học Đông, Tây

- Thứ tư, ta so sánh phương pháp nhận thứ của 2 nền triết học đó

- Thứ năm, những nhận xét về vận dụng hai dòng kiến thức đó sao cho hợp lý

Phương Đông
để chỉ các nước châu Á các nên văn minh trên ba lưu vực sông lớn: sông Nin, sông Hằng, sông
Hoàng Hà, chủ yếu là Ai Cập, ả rập, ấn độ và Trung Hoa. Hầu hết các nền tôn giáo lớn của thế
giới đều xuất hiện ở đây.

Phương Tây
Phương Tây chủ yếu là các nước Tây âu như Anh, Pháp, Đức, Ý, Áo, Tây Ban Nha... Ngày nay
chúng ta gộp cả Mỹ vào.

Đặc điểm hai loại hình cơ sở xã hội Đông - Tây là tĩnh, ổn định đối nghịch với động, biến động
nhanh. Triết học lỏng lẻo, mềm dẻo của Đông đối lại là triết học chặt chẽ, thống nhất thành hệ
thống của Tây. Triết học phương Tây đi từ gốc lên ngọn (từ thế giới quan, vũ trụ quan, bản thể
luận... từ đó xây dựng nhân sinh quan con người;) trong khi triết học phương Đông đi từ ngọn
xuống gốc (từ nhân sinh quan, vấn đề cách sống, lối sống sau đó mới là vũ trụ quan, bản thể
luận...). Đó là 2 nét chính của hai nền triết học Đông - Tây.

Nếu như ở phương Tây, triết học được xây dựng bởi chủ yếu là các nhà khoa học, gắn liền với
các thành tựu khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên thì ở phương Đông, triết học gắn với
những hiền triết - nhà tôn giáo, nhà giáo dục đạo đức, chính trị-xã hội.

Vậy nên đặc điểm chủ đạo là các nhà Triết học phương Tây thiên về giải thích thế giới theo
nhiều cách còn mục đích chính của phương Đông là cải tạo thế giới gồm có: ổn định xã hội, giải
thoát cho con người và làm sao cho con người hoà đồng với thiên nhiên.
Nguồn gốc là do ở phương Đông, thượng tầng kiến trúc ra đời trước và thúc đẩy dự phát triển
của hạ tầng cơ sở, còn ở phương Tây hạ tầng cơ sở quyết định đến thượng tầng kiến trúc.

Về đối tượng nghiên cứu của triết học Đông, Tây


Đối tượng của triết học phương Tây rất rộng gồm toàn bộ tự nhiên, xã hội, tư duy mà gốc là tự
nhiên. Nó ngả theo hướng lấy ngoại (ngoài con người) để giải thích trong (con người), nói chung
xu hướng nổi trội là duy vật.

Trong khi đó phương Đông lấy xã hội, cá nhân làm gốc là tâm điểm để nhìn xung quanh. Do đó
đối tượng của triết học phương Đông chủ yếu là xã hội, chính trị, đạo đức, tâm linh và do vậy xu
hướng là hướng nội, lấy trong để giải thích ngoài. Đa số trường phái thiên về duy tâm.

Về phương pháp nhận thức của 2 nền triết học đó

Triết học phương Tây ngả về tư duy duy lý, phân tích mổ xẻ còn phương Đông thì ngả về dùng
trực giác.

Cái mạnh của phương Tây là cho khoa học, kỹ thuật và về sau là công nghệ phát triển... và nhận
thức luôn hướng đến nhận thức cái chân lý vô hạn cùng. Phương Tây đi gần mãi đến chân lý qua
hàng loạt những trừu tượng, khái niệm, quy luật... của toàm thể vũ trụ, liên tiếp đi từ cấp độ bản
chất thấp đến mức độ bản chất cao hơn... cũng do vậy họ có xu hướng cô lập hoá , cách ly hoá,
làm mất đi tính tổng thể.

Triết học phương Đông ngược lại thường dùng trực giác, tức là đi thẳng đến sự hiểu biết, vào cái
sâu thẳm bản chất của sự vật, hiện tượng. Trực giác giữ được cái tổng thể mà tư duy phân tích,
mổ xẻ đạt đến. Nhưng nó có tiềm tàng nhược điểm là không phổ biến rộng được. Trực giác mỗi
người mỗi khác. Và không phải lúc nào trực giác cũng đúng. Thực ra 2 biện pháp kết hợp lẫn
nhau, nhưng ở đây nói về thiên hướng.

Triết học phương Tây có xu hướng tách chủ thể với khách thể để nhận thức cho khách quan còn
triết học phương Đông lại cho rằng người nhận thức và đối tượng nhận thức cùng hoà hợp vào
nhau (đặt cùng trong 1 hệ quy chiếu.) thì nhận thức sẽ dễ dàng.

Phương tiện nhận thức của triết học phương Tây là khái niệm, mệnh đề, biểu thức lôgíc để đối
tượng mô tả rõ ràng, thống nhất hơn thì trong triết học phương Đông lại là ẩn dụ, liên tưởng,
hình ảnh, ngụ ngôn... để không bị lưới giả về nghĩa do khái niệm che phủ. Nhưng điểm yếu của
triết học phương Đông chính là sự đa nghĩa, nhập nhằng khác biệt khi qua các phân tích khác
nhau.

Triết học phương Đông biến đổi tuần tự thay đổi dần về lượng, dù thay đổi bao nhiêu vẫn giữa
lấy phần gốc phần lõi làm nền, không rời xa gốc đã có.

Triết học phương Tây thay đổi theo hướng nhảy vọt về chất, nên càng tiến hoá càng phong phú
hơn, xa rời gốc ban đầu. Thậm chí có xu hướng cái sau phủ định hoàn toàn cái ở giai đoạn trước.
Trong phép biện chứng giải thích quy luật của sự vận động - phát triển cũng có nét khác biệt.
Phương Đông nghiêng về thống nhất hay vận động vòng tròn, tuần hoàn. Phương tây nghiêng về
sự đấu tranh và vận động, phát triển theo hướng đi lên.

Một nét nữa của triết học Tây - Đông là theo thống kê thì triết học phương Tây thiện về hướng
ngoại, chủ động, tư duy lý luận, đấu tranh sống còn, hiếu chiến, cạnh tranh, bành trướng, cá thể,
phân tích, tri thức suy luận, khoa học, tư duy cơ giới, chú ý nhiều đến thực thể...

Khuynh hướng nổi trội của phương Đông lại là hướng nội, bị động, trực giác huyền bí, hoà hợp,
quân bình chủ nghĩa, thống nhất, hợp tác, giữ gìn, tập thể, tổng hợp, minh triết, tôn giáo, tâm lý,
tâm linh, tư duy hữu cơ, chú ý nhiều tới quan hệ...

Đông (Á) Tây (Âu)


Tinh thần - Đời người - Tĩnh lặng cảm Vật chất - Máy móc - Mạnh mẽ, quyết liệt, Sức động,
nhận các mối quan hệ quan tâm thực thể độc lập
Thiên về tôn giáo, mỹ thuật, nghệ thuật Thiên về khoa học công nghệ
Sử dụng tình cảm, quan tâm đạo đức -- Sử dụng trí tuệ, tư tưởng, quan tâm sự vật/hiện tượng --
Con người, đạo học Vũ trụ, học thuyết
Dùng trực giác, tổng thể vẫn loanh Dùng lý trí, mất dần tổng thể, ngày càng phong phú, cụ
quanh những lối cũ, bề ngòai thể
Quan tâm phần ngọn: nhân sinh quan, Quan tâm phần gốc: thế giới quan, bản thể luận, nhận
cách sống, lối sống thức luận
Ảnh hưởng tới: kinh nghiệm/hoàn thiện Ảnh hưởng tới: giải thích/lý luận về thế giới, thực hành
cá nhân, ổn định xã hội kỹ nghệ, tự do cá nhân, cách mạng xã hội
Số lượt đọc:  55562  -  Cập nhật lần cuối:  03/10/2008 12:22:42 AM
  Về trang trước    Bản in    Gửi email    Về đầu trang

 
Khổng Tử và Học thuyết Nho giáo

中国国际广播电台

    Nói đến nền văn hóa truyền thống Trung


Quốc không thể không nói đến mô ̣t nhân vâ ̣t đó
là Khổng Tử. Trong thâ ̣p niên 70 của thế kỷ
trước, mô ̣t học giả Mỹ đã xếp Khổng Tử ở ngôi
vị thứ 5, chỉ sau chúa Giê-xu, Thính-ca-mâu-
ni...trong số 100 nhân vâ ̣t có ảnh hưởng trong
lịch sử. Đối với người Trung Quốc mà nói sự
ảnh hưởng của Khổng Tử có thể phải xếp thứ
nhất. Mỗi con người ít nhiều đều chịu sự ảnh
hưởng của học thuyết Khổng Tử.
  Khổng Tử là người sáng lâ ̣p học thuyết nho giáo ở Trung Quốc. Hơn hai nghìn
năm qua, tư tưởng Nho giáo ảnh hưởng đối với Trung Quốc không chỉ về chính trị,
văn hoá...mà còn thể hiê ̣n trong hành vi và phương thức tư duy của mỗi con người
Trung Quốc. Có học giả nước ngoài thâ ̣m chí coi tư tưởng nho giáo là tư tưởng tôn
giáo của Trung Quốc. Trong thực tế, trường phái nho giáo chỉ là mô ̣t chi trong rất
nhiều trường phái thời cổ Trung Quốc, nó là mô ̣t tư tưởng triết học chứ không phải
là tôn giáo, chẳng qua là do được coi là tư tưởng chính thống trong xã hô ̣i phong
kiến hơn 2 nghìn năm ở Trung Quốc và có ảnh hưởng tới mô ̣t số nước ở châu Á.
Bởi vì người Hoa và Hoa kiều có mă ̣t trên toàn thế giới, có thể nói sự ảnh hưởng
của tư tưởng Khổng Tử đã không còn giới hạn ở Trung Quốc và châu Á nữa.

  Khổng Tử sinh năm 551 trước công nguyên, mất năm 497 trước công nguyên,
sớm hơn 100 năm so với học giả nổi tiếng Hy Lạp A-rít-đốt. Khổng Tử lúc lên 3
thì cha mất, sau đó cùng mẹ tới định cư ở tỉnh Sởn Đông. Khổng Tử tên là Khổng
Khưu, Khổng Tử là tên xưng tôn kính đối với ông.Trong thời cổ Trung Quốc, mô ̣t
người có chữ Tử sau họ sẽ đại diê ̣n cho sự tôn xưng của mọi người.

  Khổng Tử sống trong thời xuân thu, thời kỳ này thể chế quốc gia thống nhất bị
phá vỡ, sản sinh ra nhiều nước Chư hầu lớn nhỏ. Khổng Tử sinh sống trong nước
Lỗ là nước có nền văn hóa tương đối phát triển lúc đó.

  Khổng Tử hầu như không làm quan lớn, nhưng ông rất có học vấn. Trong thời cổ
đại Trung Quốc, tiếp thụ giáo dục là đă ̣c quyền của tầng lớp qúi tô ̣c. Song Khổng
Tử đã phá vỡ đă ̣c quyền này, ông tự tiếp nhâ ̣n học sinh đến học, bất cứ thuô ̣c tầng
lớp nào, miễn là đóng mô ̣t số ít vâ ̣t phẩm và học phi là đều có thể tới theo học.
Khổng Tử tuyên truyền chủ trương chính trị và lý luâ ̣n tư tưởng của mình cho học
sinh. Được biết ông có tới 3 nghìn học trò, trong đó có mấy người trở thành những
đại học sĩ như ông. Những người này đã kế thừa và phát triển tư tưởng Khổng Tử,
và truyền bá rô ̣ng rãi.

  Tại sao học thuyết của Khổng Tử lại chiếm vị thế thống trị trong thời đại phong
kiến Trung Quốc? Đây là vấn đề không dễ giải thích trong mô ̣t vài câu. Nói mô ̣t
cách đơn giản là tư tưởng đẳng cấp nghiêm ngă ̣t và tư tưởng cải lương chính trị của
ông phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, có lợi cho ổn định xã hô ̣i lúc bấy
giờ, xúc tiến xã hô ̣i phát triển. Khổng Tử nhấn mạnh qui phạm và trâ ̣t tự luân lý
nghiêm ngă ̣t, cho rằng nếu làm trái với cấp trên hoă ̣c trái với cha mẹ đều là tô ̣i
nghiêm trọng. Theo lý luâ ̣n này, Vương quân phải quản lý tốt đất nước, thường dân
phải trung thành với vương quân. Mỗi người đều có nhiều thân phâ ̣n, có thể là con,
có thể là cha, có thể là thần tử...nhưng đều cần phải duy trì gianh giới tông tôi
nghiêm khắc. Như vâ ̣y nhà nước mới thái bình, nhân dân mới có cuô ̣c sống yên ổn.

  Khi học thuyết Khổng Tử mới xuất hiê ̣n không trở thành tư tưởng chủ yếu ngay
mà mãi đến thế kỷ thứ 2 trước công nguyên, Trung Quốc lúc đó đã là mô ̣t nhà
nước theo thế đô ̣ tâ ̣p quyền trung ương lớn mạnh và thống nhất. Kẻ thống trị phát
hiê ̣n lý luâ ̣n của Khổng Tử rất thích hợp cho giữ gìn sự ổn định của xã hô ̣i phong
kiến nên xác định nó là tư tưởng học thuyết chính thống của quốc gia.

  Luâ ̣n Ngữ là cuốn sách ghi lại tư tưởng và lời nói của Khổng Tử. Cuốn sách này
trong thời cổ đại Trung Quốc chẳng khác nào như “Kinh thánh” của phương tây.
Nếu là dân thường phải lấy tư tưởng của cuốn sách này để qui phạm đời sống của
mình, nếu là mô ̣t quan lại cũng phải am hiểu sâu cuốn sách này. Trong lịch sử
Trung Quốc có cách nói rằng nửa cuốn Luâ ̣n ngữ có thể thống trị thiên hạ, ý nói
chỉ cần biết mô ̣t nửa trong Luâ ̣n ngữ là đủ để quản lý đất nước.

  Trong thực tế “Luâ ̣n ngữ” không phải là cuốn sách tràn đầy giáo thuyết mà là mô ̣t
cuốn sách nô ̣i dung phong phú, ngôn ngữ sinh đô ̣ng, lấp lánh ánh hào quang trí tuê ̣.
Trong cuốn sách này những lời nói của Khổng Tử đề câ ̣p tới rất nhiều mă ̣t, như
đọc sách, âm nhạ, du ngoạn, kết bạn...Trong đó có ghi lại lời hỏi của mô ̣t học trò
tên là Tử Cống, hỏi về viêc̣ quản lý đất nước, nói rằng quân đô ̣i, lương thực và
nhân dân nếu cần bỏ đi mô ̣t thứ thì nên bỏ đi cái nào? Khổng Tử không do dự trả
lời là quân đô ̣i.

  Học thuyết Khổng Tử có nô ̣i dung phong phú, trong đó có nhiều thứ đến nay vẫn
có giá trị rất cao. Trong luâ ̣n ngữ có nhiều lời nói đến nay đã trở thành tục ngữ
được người Trung Quốc thường xuyên sử dụng. Ví dụ “trong ba người đồng hành
ắt có thầy của ta”, ý nói mỗi người đều có sở trường riêng, bởi vâ ̣y giữa con người
cần phải học tâ ̣p lẫn nhau.

Thuyết chính danh

Nguyễn Thị Hà   (23/03/2009 11:32:56 PM)

Gửi bạn Nguyễn Trọng Anh Tuấn,

Nội dung thuyết "chính danh" của Khổng Tử được cô đọng trong tám chữ "quân quân, thần thần, phụ
phụ, tử tử" (Luận ngữ, Nhan Uyên, 11), nghĩa là phải làm mọi việc cho ngay thẳng, người nào có địa vị,
bổn phận chính đáng của người ấy cứ thế mà làm, trên dưới, vua tôi, cha con, chồng vợ trật tự được
phân minh, vua phải ra vua, tôi phải ra tôi, cha phải ra cha, con phải ra con.

Khổng Tử cho rằng, nguyên nhân làm cho xã hội loạn lạc, dân tình khổ sở là do không “chính danh”,
muốn xã hội ổn định và phát triển thì phải giáo hoá đạo đức và thực hiện “chính danh, định phận”.

Khi Tử Lộ hỏi về chính trị, Khổng tử đáp: Muốn trị nước, trước hết phải thực hiện “chính danh”, bởi vì
“nếu không chính danh thì lời nói sẽ không đúng đắn, lời nói không đúng đắn sẽ dẫn đến việc thi hành
sai… Cho nên nhà cầm quyền xưng danh thì đúng với phận, với nghĩa, đã xưng danh đúng với danh
phận, thì phải tùy theo đó mà làm” (Luận ngữ, Tử Lộ,

Tư tưởng nho giáo về gia đình và việc xây dựng gia đình mới ở Việt Nam hiện
nay
Minh Anh - Tạp chí Triết học
Được ví như cái nước nhỏ, Nho giáo cho rằng, gia đình có vị trí
quan trọng trong sự ổn định của xã hội. Vì vậy, những hành vi ứng xử
và giao tiếp của mỗi thành viên trong gia đình được Nho giáo quy định
chặt chẽ, phụ thuộc vào danh phận mỗi người. Những quy định này, nếu
loại bỏ những yếu tô bảo thủ, mất dân chủ thì cho đến nay, vẫn còn có
giá trị. Do đó, kế thừa những tư tưởng tích cực của Nho giáo về gia đình
trong việc xây dựng gia đình mới ở Việt Nam hiện nay nhằm thực hiện thành công xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là việc làm cần thiết.
Khác với các học thuyết triết học Phương Tây, triết học phương Đông nói chung và đặc
biệt là Nho giáo nói riêng, luôn xem xét con người trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Ở
Nho giáo, chúng ta thấy, không tồn tại một con người cá nhân, một cái tôi tách khỏi xã hội.
Chính việc nhìn nhận con người trong các mối quan hệ xã hội đã giúp Nho giáo đề ra được
những giải pháp bình ổn xã hội.
Theo quan niệm Nho giáo, mọi người trong xã hội đều bị trói buộc bởi năm mối quan hệ
tự nhiên. Đó là quan hệ cha - con, vợ - chồng, anh - em, vua - tôi, bạn - bè. Năm mối quan hệ này
phản ánh hai mặt của cuộc sống hiện thực là quan hệ gia đình và quan hệ xã hội. Trong xã hội
phong kiến, mối quan hệ gia đình được củng cố bằng chế độ tông pháp và chế độ gia trưởng, còn
các quan hệ xã hội thì được duy trì bởi chế độ chính trị đẳng cấp. Đi cùng với các mối quan hệ
đó là những yêu cầu giao tiếp bắt buộc mà mỗi thành viên trong xã hội phải thực hiện.
Tương ứng với mỗi quan hệ, Nho giáo đặt ra những yêu cầu mang tính quy phạm đạo đức
và được pháp luật ngầm bảo trợ. Tất cả những mối quan hệ trên và các phương thức ứng xử hội
tương ứng với nó, theo Nho giáo, là cái trời đã định sẵn cho con người. Đã là gia đình thì phải có
vợ - chồng, cha - con, anh - em. Trong gia đình thì vợ - chồng phải hòa thuận, phu xướng thì vợ
phải tùy, là cha - con thì cha phải hiền từ biết thương yêu và nuôi dạy con cái, biết làm gương
cho con cái học tập. Ngược lại, phận làm con phải biết ghi nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục
của cha mẹ, biết hiếu thuận với cha mẹ. Đã là anh em thì phải biết đoàn kết, thương yêu đùm bọc
lẫn nhau, là anh chị thì phải biết nhường nhịn, thương yêu, là em thì phải biết nghe lời và lễ phép
với anh chị. Trong quan hệ xã hội, Nho giáo đòi hỏi trước hết phải có lòng trung thành trong
quan hệ vua tôi và trên dưới. Người dưới phục vụ người trên phải lấy chữ trung làm đầu. Kẻ trên
đối xử với kẻ dưới phải lấy chữ nhân làm đầu, phải biết giữ lễ và phải có lòng tín thật. Xét chung
trong mọi mối quan hệ, Nho giáo yêu cầu mỗi cá nhân phải lấy mình làm mốc mà yêu cầu đối
với người. Cái gì mình muốn thì cũng làm hết lòng cho người khác và ngược lại, cái gì mình
ghét thì cũng đừng đem lại cho người khác.
Bên cạnh đó, Nho giáo còn quan niệm rằng, mọi sự bất ổn trong xã hội đều có nguyên
nhân từ việc ứng xử không tốt các mối quan hệ xã hội. Để bảo đảm sự ứng xử được đúng, Nho
giáo yêu cầu mỗi người phải làm tết vai trò của mình. Vai trò đó được xác định bởi danh phận
của mỗi người do xã hội quy định. Đó là phận làm vua, phận làm tôi, phận làm cha, phận làm
con.... Danh phận của mỗi người quy định cách ứng xử của họ. Cách ứng xử theo danh phận Nho
giáo gọi là lễ. Theo Nho giáo, nếu trong xã hội mỗi người đều làm tất bổn phận của mình thì xã
hội sẽ thái bình. Nếu xã hội thái bình thì mọi người ai cũng được an cư lạc nghiệp. Khi đó tất cả
những người già cả, trẻ nhỏ và những người cô quả sẽ được mọi thành viên trong xã hội quan
tâm giúp đỡ. Cảnh tranh giành và chém giết nhau vì cái lợi sẽ không còn. Để làm được điều đó,
Nho giáo đặc biệt nhấn mạnh tới vai trò của gia đình.
Nho giáo cho rằng, gia đình chính là một cái nước nhỏ. Vì thế, nếu "một nhà nhân hậu thì
cả nước nhân hậu. Một nhả lễ nhượng thì cả nước ăn ở đều có lễ nhượng. Một người tham lam
thì cả nước bị rối loạn" (Đại học, chương IX). Do đó, một xã hội muốn thanh bình thì trước hết
cần phải có những gia đình hòa thuận. Gia đình hòa thuận là gia đình mà mọi thành viên luôn
quan tâm đến nhau, chăm lo cho nhau. Trong gia đình đó, vợ chồng sống hòa thuận thương yêu
nhau, cùng nhau chăm lo nuôi dưỡng dạy dỗ con cái nên người. Cha mẹ phải luôn giữ gìn lời ăn
tiếng nói cũng như tác phong làm việc của mình để làm tấm gương cho con cái noi theo. Ngược
lại, con cái phải luôn hiếu kính với ông bà, cha mẹ, biết phụng dưỡng chăm sóc ông bà, cha mẹ,
biết làm cho ông bà, cha mẹ được rạng rỡ và không làm việc gì khiến cho ông bà, cha mẹ phải
tủi hổ với hàng xóm láng giềng. Một gia đình hoà thuận còn là một gia đình mà anh em biết bảo
ban nhau cùng tiến bộ, biết thương yêu đùm bọc lẫn nhau, biết em ngã thì chị nâng.
Để làm được điều đó, Nho giáo đòi hỏi mỗi người trong gia đình phải biết giữ gìn và tuân
theo lễ, bởi cho rằng, chỉ có lễ con người mới trở thành con người xã hội: "Chim anh vũ có thể
biết nói nhưng vẫn thuộc loài chim, con tinh tinh có thể biết nói nhưng vẫn thuộc loài cầm thú.
Làm người mà không có lễ thì tuy biết nói đấy nhưng có khác gì loài cầm thú? Chỉ có loài cầm
thú là không có lễ, cho nên cha con ở lẫn lộn với nhau. Vì vậy việc làm của bậc thánh nhân là lấy
lễ dạy người khiến người ta ai cũng biết lễ để tự phân biệt mình với cầm thú" (Kinh Lễ, Khúc lễ
thượng). Nhờ có lễ, con người mới có thể biết được như thế nào là có hiếu với cha mẹ, là kính
với người trên, là từ đễ với anh em thân thích, là bạn hiền của bằng hữu, là nhân với người chung
quanh, là tín thực với thân thuộc. Theo lễ, người con có hiếu và biết lễ phép thì "Khi ở trước mặt
cha mẹ ruột hoặc cha mẹ chồng, nếu có lệnh phải vâng dạ kính cẩn, tiến thoái phải chu toàn thận
trọng, lên xuống ra vào phải cung kính, không dám ho hoẹ, đằng hắng hay ngáp dài, không được
đứng dựa nghiêng ngả liếc ngang liếc dọc, không dám phun nước bọt chùi nước mũi… Nếu như
cha mẹ có lỗi lầm gì, mình vẫn phải vui vẻ hoà nhã dùng lời nói ôn hoà mà can gián. Nếu can mà
(cha mẹ) không nghe lại càng phải giữ thái độ hoà nhã cung kính hơn, đợi cha mẹ nguôi ngoai
rồi lại can gián. Nếu cha mẹ không nghe để đến nổi phạm lỗi lầm có tội với bạn bè hàng xóm, ta
vẫn phải ôn hòa khuyên can. Nếu cha mẹ nóng giận đánh ta đến chảy máu, ta vẫn không dám
giận oán mà vẫn phải kính trọng hiếu thuận với cha mẹ" (Kinh Lễ, Chương XII, tiết 2). Ngược
lại, ngay từ khi con cái đến tuổi biết ăn cơm, cha mẹ "cần thiết phải dạy nó biết sử dụng tay phải,
con trai phải biết thưa dạ, con gái phải biết nhu hòa… Khi con lên sáu tuổi, hãy dạy chúng về số
học và đếm số… Tám tuổi, dạy chúng khi ra vào hay khi ngồi vào bàn ăn, nhất nhất phải theo
sau bậc trưởng thượng, bắt đầu dạy cho chúng biết nhường nhịn... Mười tuổi, cho ra ngoài học
thêm sách vở khác… bắt đầu hướng dẫn chúng về lễ, sớm tối tuân theo nghi thức của trẻ nhỏ…
Hai mươi tuổi là làm lễ đội mũ, bắt đầu học lễ… dạy chúng thuần hậu về hiếu lễ" (Kinh Lễ,
Chương XII, tiết 3). Nho giáo khẳng định, nếu xây dựng được một gia đình hoà thuận, con cái
biết hiếu đễ cha mẹ biết từ nhượng thì đó cũng là làm chính trị rồi. Bởi nước cũng chỉ là một cái
nhà to. Các căn nhà nhỏ - gia đình mà hòa thuận thì căn nhà to cũng sẽ hòa thuận. Vì thế, làm
chính trị không cứ là phải ra làm quan.
Những tư tưởng trên của Nho giáo, ở một mặt nào đó có thể nói rằng, phù hợp với Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta. Chúng ta cũng
coi "Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng
trong giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách". Vì thế, Đảng ta đòi hỏi "Các chính sách của
nhà nước phải chú ý tới xây dựng gia đình no ấm, hoà thuận, tiến bộ. Nâng cao ý thức về nghĩa
vụ gia đình đối với mọi lớp người"(1). Với tính cách tế bào xã hội, vườn ươm các nhân tài của
đất nước, nơi nuôi dưỡng những công dân mới cho tương lai, gia đình có vai trò quan trọng trong
việc xây dựng thành công nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự tốt xấu
của mỗi gia đình đều có ảnh hưởng tới sự ổn định của xã hội, tới sự chuyển đổi nền kinh tế từ kế
hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà chúng ta đang tiến hành. Tất nhiên,
gia đình mới mà chúng ta xây dựng là một gia đình hòa thuận dựa trên cơ sở dân chủ: vợ chồng,
cha con anh em tôn trọng lẫn nhau, cùng nhau bàn bạc và quyết định những vấn đề lớn của gia
đình. Gia đình mới mà chúng ta xây dựng cũng đòi hỏi vợ chồng phải có lòng chung thuỷ, làm
cha, mẹ phải có đức nhân từ, làm con phải có đức hiếu kính, làm anh em phải có sự thương yêu
nhường nhịn. Hạt nhân của mỗi gia đình ấy chính là vợ và chồng.
Có thể thấy rằng, gia đình mới hiện nay, trước hết, cần phải là một gia đình vợ chồng sống
chung thuỷ, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng với nhau về quyền lợi và trách nhiệm. Vợ chồng cùng
nhau chia sẻ trách nhiệm giáo dục con cái, phụng dưỡng cha mẹ, ông bà.
Thứ hai, là một gia đình con cái biết hiếu kính với cha mẹ, ông bà bởi đức hiếu kính của
người làm con để thờ cha mẹ cũng là cái gốc của đức nhân. Nói tới đức nhân là nói tới lòng yêu
thương người. Cái gốc của yêu thương người trước hết chính là yêu thương cha mẹ mình, anh em
của mình. Người mà không biết yêu thương cha mẹ có công sinh thành, dưỡng dục mình thì cũng
không thể có được lòng yêu thương đồng chí, đồng bào mình. Vì vậy, chúng ta ngày nay cũng
yêu cầu người làm con cần phải biết phụng dưỡng cha mẹ. Khi phụng dưỡng cha mẹ phải kính
cẩn và có lễ phép. Chúng ta cũng kiên quyết phê phán những hành động ngược đãi cha mẹ già,
không muốn làm nghĩa vụ phụng dưỡng cha mẹ già mà đùn đẩy cho xã hội hoặc con cái đun đẩy
trách nhiệm chăm sóc cha mẹ cho nhau, hoặc có nuôi cha mẹ thì như nuôi vật cảnh mà thiếu sự
kính trọng lễ phép. Đức hiếu ngày nay cũng đòi hỏi người làm con trong hành động và việc làm
phải làm sao để cho cha mẹ có thể được tự hào với bà con lối xóm. Việc lười lao động, ham cờ
bạc rượu chè chỉ biết đến của cải, lo liệu cho vợ con mà không nghĩ đến cha mẹ, không phải chỉ
Nho giáo mà ngày nay chúng ta cũng cần lên án là hành vi bất hiếu.
Thứ ba, anh em trong gia đình phải biết bảo ban nhau, yêu thương nhau trên tinh thần em
ngã chị nâng. Là người anh, người chị thì phải biết bao bọc che chở cho em, nhường nhịn em. Là
người em phải biết kính trọng anh chị, nghe lời anh chị dạy bảo. Xã hội xưa cũng như nay không
chấp nhận việc anh em chỉ biết yêu thương nhau qua đồng tiền, nhìn tình cảm anh em dưới lăng
kính vật chất thuần tuý.
Như vậy, gia đình mới là một gia đình mà mỗi người đều có trách nhiệm và nghĩa vụ đối
với danh phận của mình. Do đó, việc xây dựng gia đình mới cần dược gắn liền với việc giáo dục
trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người theo đúng danh phận của họ. Đó là cha phải ra cha, con
phải ra con, anh phải ra anh, em phải ra em. Cần kiên quyết lên án những người cha không còn ra
cha bởi lối sống ích kỷ, thực dụng đã để lại tấm gương xấu cho con cháu, cũng cần lên án và có
biện pháp nghiêm khắc đối với những người con không còn ra con, chỉ biết tiền mà không biết
tình, chỉ biết tới quyền lợi mà không biết tới nghĩa vụ khiến cho cha mẹ phải tủi hổ.
Việc xây dựng thành công gia đình mới có một ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây
dụng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Bởi gia đình mới chính là nền tảng của
sự ổn định xã hội, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế và bảo vệ Tổ quốc, là nơi phòng chống
có hiệu quả nhất mọi tệ nạn xã hội đang làm phương hại đời sống tinh thần của con người. Gia
đình mới còn là nơi có khả năng nhất trong việc bảo lưu giữ gìn những bản sắc truyền thống văn
hoá của dân tộc. Ngoài ra, đây còn là nơi cung cấp những công dân mới có đức, có tài cho sự
nghiệp xây dựng xã hội mới. Đặc biệt, trong điều kiện chúng ta tiến hành xây dựng một nền kinh
tế thị trường cùng với sự mở cửa hội nhập với thế giới thì gia đình mới càng đóng vai trò quan
trọng hơn bao giờ hết. Mô hình gia đình vợ chồng hoà thuận, cha từ con hiếu, anh em thương yêu
đùm bọc nhau chính là thành trì để ngăn cản sự xâm hại những tư tưởng thực dụng, vị kỷ, lối
sống gấp chỉ biết hôm nay mà không cần biết ngày mai. Như vậy, có thể nói rằng, nếu loại bỏ
những tư tưởng bảo thủ, mất dân chủ thì việc kế thừa những giá trị luân lý tích cực của Nho giáo
về gia đình để xây dựng gia đình mới nhằm đáp ứng được sự phát triển đất nước là điều nên làm.
Gia đình mới chính là nơi kế thừa những tinh hoa của gia đình cũ kết hợp với những chuẩn mực
đạo đức mới của xã hội mới. Những tinh hoa đó, trước hết, là tư tưởng vợ chồng hoà thuận, cha
từ con hiếu, anh em thương yêu đùm bọc nhau… của Nho giáo.
Thực tế những lý tưởng nhân đạo, khát vọng hoà bình của Nho giáo cũng là lý tưởng và
khát vọng của chúng ta hiện nay. Mặc dù bị hạn chế do lịch sử, song một số tư tưởng cũng như
biện pháp mà Nho giáo đề ra cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Cũng giống như Nho giáo, hiện
nay chúng ta đã và đang ra sức phấn đấu cho một thế giới hoà bình, cho sự bình đẳng của mọi
dân tộc trên toàn thế giới. Vì vậy, chúng ta cần ngăn chặn được các tệ nạn xã hội, mọi thảm hoạ
chiến tranh, chống lại được nạn khủng bố trên phạm vi toàn thế giới. Do đó, kế thừa các tư tưởng
nhân văn trong ứng xử và giao tiếp giữa người với người của Nho giáo là một việc làm hết sức
cần thiết.
________________________________________
(1) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991,
tr.5.
Theo Tạp chí Triết học

Về tư tưởng giáo dục Arixtốt


Nguyễn Bá Thái - Tạp chí Triết học

Người ta đã biết rõ về Arixtốt với tư cách nhà tư tưởng vĩ đại nhất

của thời cổ đại, khối óc bách khoa nhất trong số các nhà triết học Hy
Lạp cổ đại, người đặt nền móng cho logic học. Nhưng có lẽ còn ít người
biết về ông với tư cách nhà giáo dục, người mà cách đây hơn hai nghìn
năm, trong các tác phẩm Về giáo dục, Chính trị học và Đạo đức học...
đã đưa ra những quan điểm hết sức sâu sắc về vai trò, mục đích của giáo
dục, về hệ thống giáo dục và sư phạm học...
Về vai trò, mục đích của giáo dục
Theo quan niệm thông thường, mọi sự giáo dục, dù công khai hay không công khai, đều
hướng tới một lý tưởng nhân đạo Nhưng đối với Arixtốt, giáo dục như là cứu cánh của con
người, của nhân loại, là điều kiện rất quan trọng để cá nhân hoà đồng với xã hội. Arixtốt cho
rằng tài sản tối cao mà mọi người đều mong ước, đó là hạnh phúc. Nhưng con người hạnh phúc
của Arixtốt không phải là con người hoang dại, không phải là con người ở tình trạng tự nhiên,
mà là con người được giáo dục, con người sung sướng, sống tốt, có đạo đức ông tự đặt câu hỏi:
Có phải hạnh phúc là một cái gì có thể học được hay thu nhận được qua tập quán, qua các cuộc
tập dượt, hoặc cuối cùng, có phải hạnh phúc đến với chúng ta do sự chia sẻ của một ơn huệ thần
thánh nào đó hay chỉ là do sự may rủi.
Arixtốt cho rằng, ở con người có hai phẩm hạnh cơ bản là phẩm hạnh trí tuệ vả phẩm hạnh luân
lý. Phẩm hạnh trí tuệ phụ thuộc phần lớn vào học vấn đã tiếp thu được, cả cho sự sản sinh, sự lớn
lên và do vậy, phẩm hạnh ấy cần đến kinh nghiệm và thời gian. Còn phẩm hạnh luân lý là sản
phẩm của tập quán và do vậy, không có một phẩm hạnh luân lý nào được sản sinh do tự nhiên
(mang tính bẩm sinh). Ông viết: "Người ta muốn trở thành người tất thì phải tiếp nhận một sự
giáo dục và các tập quán của con người tất".
Như vậy, trong quan niệm của Arixtốt, phẩm hạnh trí tuệ được hình thành thông qua giáo
dục, còn phẩm hạnh luân lý được hình thành thông qua tập quán và do vậy, ngay từ khi còn nhỏ,
con người cần được giáo đục cả về kiên thức và tập quán của loài người.
Arixtốt cho rằng ba yếu tố làm cho con người trở thành người tất và đạo đức là: tư chất, tập quán
và lý trí (raison). Con người, theo ông ngay từ khi sinh ra đã có tư chất của một con người, đã có
một số khuynh hướng phát triển về thể xác và tinh thần. Nhưng cũng có nhiều phẩm chất (năng
khiếu) vốn có ở con người lại chẳng có lợi ích gì cho con người, bởi các tập quán mà người ta
tiếp nhận được từ giáo dục trong gia đình và xã hội đã làm biến đổi chúng, thậm chí còn làm cho
chúng mất hẳn. Hơn nữa, dưới tác động của các tập quán, một số phẩm chất thuộc về bản chất cơ
thể đã quay hướng về cái tất nhất hay cái xấu nhất. Ngoài tư chất, tập quán, con người còn sống
bằng lý trí và chỉ có con người mới có lý trí. Khi tư chất (năng khiếu) của con người được lý trí
thuyết phục theo một xu hướng khác, nghĩa là thông qua giáo dục, thì nó sẽ tất hơn cái năng
khiếu bấm sinh vốn có ở con người. Do đó, sự kết hợp hài hoà cả ba yếu tố (tư chất, tập quán và
lý trí) trong con người là rất cần thiết.
Với quan niệm đó, Arixtốt cho rằng, để đạt đến hạnh phúc, đến sự hoàn thiện, con người
phải có một số năng khiếu (khuynh hướng) nhất định ngay từ khi còn nhỏ. Nhưng cái đó chưa
đủ. Phải thông qua giáo dục thì hạnh phúc tiềm tàng mới trở thành hiện thực. Tương tự như vậy,
ông cho rằng, chỉ có thông qua giáo dục, con người mới có được các phẩm chất và sự khôn
ngoan và do vậy nó cần phải học nghệ thuật sống.
Trong triết lý giáo dục Arixtốt, giáo dục hướng đến sự thư nhàn chiếm vị trí trung tâm và
đó là khâu chủ yếu của việc giáo dục nghệ thuật làm người. Theo Arixtốt, con người chỉ có được
hạnh phúc thực sự khi có được sự thư nhàn. Sự thư nhàn mà Arixtốt nói đến ở đây không đồng
nghĩa với sự rong chơi, đó là tài năng của con người trong việc sử dụng một cách tự do thời gian
của mình. Và sự tự do là mục tiêu cuối cùng của giáo dục, bởi con người không thể có hạnh phúc
khi không có tự do, sự tự do được thực thi trong chiêm nghiệm, hoặc trong hoạt động triết học,
tức là trong sự hoạt động của ý thức khi đã gạt bỏ mọi sự ràng buộc về vật chất. Điều này phù
hợp với quan niệm của ông về triết học: triết học là nhu cầu của những nhu cầu đã được thỏa
mãn. Vì thế, theo ông, giáo dục thường không mang tính chất đào tạo nghề nghiệp, bởi việc thực
thi một nghề có thể là một thứ nô lệ hạn chế. Với Arixtốt, chức năng cao hơn của giáo dục là
đem lại cho con người sự tự do sáng tạo và một năng lực toàn diện chứ không phải chỉ là cung
cấp cho họ một nghề nghiệp rất hạn chế và do vậy, làm cho họ trở nên què quặt.
Theo Arixtốt, sự thư nhàn mà giáo dục cần hướng tới còn là con người được tự do chăm lo
đến các việc cần thiết. Chính qua sự tự do đó mà con người có được sự khôn ngoan, sự hiến dâng
cho triết học, sự chiêm nghiệm và đây mới là hạnh phúc thực sự của con người. Thông qua thư
nhàn - biểu hiện của sự tự do, giáo dục phải đạt được mục đích cuối cùng của con người là cuộc
sống trí tuệ và năng lực ý thức.
Đối với Arixtốt, giáo dục không những dẫn con người đến đạo đức, nguồn gốc chủ yếu của
hạnh phúc, mà còn tạo ra các điều kiện cần thiết cho việc xây dựng và ổn định đạo đức, nghĩa là
đảm bảo hạnh phúc cho cộng đồng. Theo Arixtốt, chính do giáo dục mà cộng đồng và xã hội
được hình thành. Sự hình thành xã hội gắn liền với sự hình thành cộng đồng, mà sự hình thành
cộng đồng là do giáo dục đem lại. Arixtốt nhấn mạnh, để thiết lập một xã hội có đạo đức và bảo
đảm tối đa hạnh phúc cho công dân, thì không thể phó mặc cho sự may rủi, mà phải dựa vào
khoa học và ý chí. Và ông còn cho rằng, giáo dục không những tạo ra xã hội, cộng đồng cấu
thành xã hội, mà còn đảm bảo sự ổn định xã hội. Theo ông, bất cứ một sự thay đổi nào cũng có
thể dẫn đến sự tham nhũng và do vậy, cái mà ông mong tìm được là một xã hội lý tưởng, hiện
thực trong trạng thái ổn định.
Cuối cùng, Arixtốt cho rằng, nếu giáo đục cá nhân phải hướng đến sự thư nhàn, thì ở cấp
nhà nước, giáo dục phải là giáo dục cho hoà bình. Cũng như thư nhàn, mục tiêu cuối cùng của
đời sống cá nhân, hoà bình là mục tiêu cuối cùng của chiến tranh xã hội. Cuộc sống, về tổng thể,
gồm hai bộ phận: công việc và thư nhàn, chiến tranh và hoà bình. Do vậy, chiến tranh phải
hướng đến hoà bình, công việc phải hướng đến thư nhàn; cái cần thiết và hữu ích phải hướng đến
những điều cao thượng, đến những cái mà các chính khách phải chú ý tới trong việc lập pháp,
cũng như trong việc giáo dục công dân.
Về hệ thống giáo dục
Hệ thống giáo dục mà Arixtốt hướng tới là một nền giáo dục thường trực, thường xuyên và
liên tục, bao trùm và kéo dài suốt đời người. Quá trình đó được chia thành nhiều giai đoạn; mỗi
giai đoạn gồm bảy năm. Giai đoạn đầu là giai đoạn giáo dục trẻ em trước khi vào học ở trường.
Ở giai đoạn này, trách nhiệm giáo dục thuộc về cha mẹ, nhất là người cha. Bởi, người cha là tác
giả của sự tồn tại của đứa trẻ (ơn huệ lớn nhất) cũng như của sự nuôi dưỡng và giáo dục nó.
Nhiệm vụ giáo dục này được thực hiện trước khi đứa trẻ sinh ra, cho nên cần áp đụng các biện
pháp để trẻ em khi sinh ra có được các phẩm chất vật chất thiết yếu. Cụ thể, tuổi cha và tuổi mẹ
phải ở một độ tuổi nhất định nào đó và nên có thai vào mùa đông. Trong thời kỳ thai nghén,
người mẹ phải chăm sóc kỹ lưỡng thân thể mình bằng cách đi dạo chơi và ăn uống đầy đủ, đồng'
thời phải có sự yên tĩnh hoàn toàn về tư tưởng. Trẻ sơ sinh phải có được một khẩu phần ăn giàu
về chất. Ngay từ tuổi ấu thơ, trẻ em phải được rèn luyện về thân thể vả phải được làm quen với
giá rét.
Đến 5 tuổi, trẻ em cần được đào luyện với các trò chơi. Nhưng các trò chơi phải thích hợp
với chúng, không được gây cho chúng sự mệt mỏi và quá buông thả. Ở chúng, mọi sự thô lỗ
trong ăn nói, hoặc việc xem các bức tranh không đúng đắn phải được loại trừ để tránh gây cho
chúng những cảm giác không xứng đáng, bởi nếu không, đến tuổi thanh niên sau này, chúng sẽ
xa lạ với tất cả những thứ mà luân lý trách phạt.
Khi 5 tuổi đầu qua đi, trong 2 năm tiếp theo, trẻ em cần được tham gia với tư cách thính
giả của các buổi giảng dạy mà bản thân chúng phải nghiền ngẫm sau này. Đến 7 tuổi, trẻ em cần
được đến trường. Thời kỳ này kéo dài đến tuổi 21 và được chia làm ba cấp. Tuy nhiên, quá trình
giáo dục chưa phải đã hoàn thành ở tuổi 21. Nhưng, không còn nghi ngờ gì nữa, trong thời kỳ
này, con người đã được tiếp thu một sự giáo dục và sự chăm sóc rất sáng suốt, bởi ngay cả khi đã
đến tuổi người lớn, họ vẫn phải thực hành những điều mà họ đã học được ở thời ký này và
chuyển chúng thành những tập quán, thói quen của mình. Theo Anxtốt, thân thể đạt đến độ chín
ở giữa tuổi 80 và 35, còn tâm linh thì vào khoảng tuổi 49.
Đối với Arixtốt, giáo dục là công việc của nhà nước. Các trường học phải là trường công
lập. Cũng như Platôn, Anxtốt đã đi trước thời đại trong việc xây dựng hệ 'thống giáo dục công
lập mà ngày nay, chúng ta vẫn đang thực hiện. Việc thiết lập một sự giảng dạy công cộng là một
sự dân chủ hoá của giáo dục. Giáo dục nhất thiết phải là thông nhất và đồng nhất cho mọi người,
kể từ khi lọt lòng cho đến 21 tuổi.
Về sư phạm học
Trước hết, Arixtốt cho rằng, cần phải tránh sự cực đoan, thái quá trong giảng dạy. Ngay cả
trong lĩnh vực thể dục, cũng không nên mong muốn đào tạo nên những nhà vô địch với bất ký
giá nào. Và trong giảng dạy âm nhạc, nên hướng đến sự hình thành thú vui âm nhạc ở mọi người
hơn là đào luyện các ký tài. Hơn nữa, chỉ nên đòi hỏi ở người học những cái mà anh ta có thể
làm được. Và không nên áp đặt những bài học chính trị đối với lớp thanh niên khi mà họ chưa có
một kinh nghiệm nào về cuộc sống.
Cuối cùng, giảng dạy phải có giới hạn thích hợp đối với người học, phải tính đến tuổi tác,
tính cách, năng lực tiếp thu, thể lực của người họe, bởi sự lập luận nhanh và đúng đắn không
phải là năng lực có tính đồng đều ở mọi người học. Theo Arixtốt, để phù hợp với tư chất của con
người, cả về thân thể, tinh thần và lý trí, sự giáo đục phải được tiến hành qua từng giai đoạn,
trong đó việc chăm sóc thân thể phải đi trước việc chăm sóc tinh thần và tiếp đến, phải thực hiện
việc chăm lo sở thích. Nhưng, chăm lo sở thích là để phục vụ cho trí tuệ và chăm sóc thân thể là
để phục vụ cho tinh thần. Do lý trí và trí tuệ chỉ phát triển ở trẻ em từ một độ tuổi nào đó, nên
giáo dục cần được khởi đầu bởi thể dục, tiếp đến là âm nhạc và kết thúc bằng triết học.
Arixtốt phân biệt hai loại sư phạm bổ sung cho nhau: giáo dục bằng lý trí và giáo đục bằng
tập quán.
Đối với giáo đục bằng tập quán, Arixtốt không ủng hộ cách dạy với sự lặp lại một cách
máy móc (đối lập với cái mà ngày nay chúng ta gọi là "sư phạm tích cực") Trong Đạo đức học,
ông nhấn mạnh: Cái thứ mà chúng ta được học để làm ra, thì trong khi làm, chúng ta đã học cái
thứ ấy. Thí dụ, chính chúng ta xây dựng mà chúng ta trở thành nhà xây dựng, chính chúng ta
chơi đàn cithara mà chúng ta trở thành nghệ nhân chơi cithara. Điều đó cũng có giá trị đối với
giáo dục đạo đức, luân lý: Chính qua thực thi các hành động đúng mà chúng ta trở thành người
đúng đắn, thực thi các hành động có điều độ mà chúng ta trở thành người điều độ, thực thi các
hành động can đảm mà chúng ta trở thành người can đảm, thực thi khoa học mà chúng ta trở
thành nhà khoa học, trở thành người nắm vững khoa học. Bằng tập quán và sự giáo dục tích cực
đó, các năng khiếu tự nhiên của con người sẽ không ngừng được phát triển.
Theo Arixtốt, phương pháp giáo dục như vậy không khiến cho người học phải hứng chịu
một cách thụ động. Trái lại, chỉ có phương pháp đó mới đánh giá chính xác kết quả học tập.
Cũng ở đây, lý thuyết về giáo dục đã đi theo trọng tâm của hệ thống triết học Arixtốt: được hành
động là một thú vui của con người.
Với Arixtốt, việc giáo dục bằng tập quán liên quan đến sự bắt chước, kinh nghiệm và trí
nhớ. Ông cho rằng, con người thích bắt chước. Đó là tập tính cố hữu của con người: có ở con
người ngay từ khi còn là trẻ thơ. Và theo ông, tất cả mọi nghệ thuật đều xuất phát từ sự bắt
chước thiên nhiên. Do vậy, sự bắt chước là yếu tố chính trong giảng dạy và giáo dục. Trong giáo
dục đạo đức, phải có gương tốt bởi không có gương tất thì không thể có được sự bắt chước
những điều tất, và điều đó là đúng với mọi lĩnh vực. Nhưng có một số phẩm hạnh và kiến thức
mà con người chỉ có thể thu nạp được bằng kinh nghiệm. Ví dụ, sự thận trọng và sự thận trọng
chỉ có thể trở thành thông thuộc với con người khi được thông qua kinh nghiệm, điều mà một
thanh niên không bao giờ có được. Chính vì vậy mà người ta có thể tự hỏi vì sao một đứa trẻ đã
có thể trở thành nhà toán học, mà lại không có khả năng trở thành nhà triết học, hoặc ngay cả nhà
vật lý học.
Nói về vai trò của trí nhớ và sự lập lại nhiều lần của các hành động trong giáo dục, Arixtốt
cho rằng, giáo dục bằng lý trí là phần phụ, bổ sung cho giáo dục bằng tập quán. Mục đích của nó
là làm cho người học hiểu rõ về các nguyên nhân của mỗi sự vật. Giáo dục bằng lý trí thường
hướng đến cái phổ thông, cái vượt qua kinh nghiệm. Với những người chỉ có kinh nghiệm, họ
biết rất rõ cái gì của sự vật, nhưng lại mù tịt cái tại sao của nó, còn những người có tri thức khoa
học thì lại hiểu cả cái tại sao lẫn cái vốn có của sự vật.
Arixtốt xác định hai phương pháp đặc trưng của giáo dục bằng lý trí là giảng dạy theo lối
quy nạp và giảng dạy theo lối diễn dịch. Theo ông, trên thục tế, chúng ta chỉ học theo lối quy nạp
hoặc diễn dịch mà thôi. Muốn chứng minh được tính chân thực, trước hết phải xuất phát từ các
nguyên tắc phổ biến và quy nạp (từ các trường hợp riêng biệt).
Theo Arixtốt, các khoa học lý thuyết (toán học, thần học) được giảng dạy phần lớn theo
cách diễn dịch, có nghĩa là không xuất phát từ các thí dụ, mà từ các nguyên tắc phổ biến. Đây là
trình độ cao nhất của giáo dục bằng lý trí và do đó, được thực thi bằng phép tam đoạn luận.
Như vậy, ở Arixtốt, giáo dục bằng lý trí trùng hợp với sự vận động của khoa học hay triết
học lý luận, còn giáo dục bằng tập quán trùng hợp với hành động đạo đức hay triết học thực
hành...
Tóm lại, theo Arixtốt, do bản chất của mình, con người vốn đã có những năng khiếu đặc
biệt, nhưng chỉ có thể bằng giáo dục thì con người mới học được cách làm người, mới trở thành
con người thực thụ, con người hoàn thiện. Tất cả các hoạt động nghệ thuật, các hoạt động giáo
dục đều hướng đến mục tiêu khắc phục những nhược điểm của con người. Chính thông qua giáo
dục mà nền văn hoá của nhân loại được tạo dựng. Khi con. người đã trở nên hoàn thiện thì không
cần đến giáo dục.
Lý thuyết giáo dục của Arixtốt không mất đi tỉnh thời sự của nó. Điều mà ông nói về vai
trò của giáo dục trong xã hội, về một hệ thống giáo dục thường xuyên và một nền giáo dục cho
hoà bình, về sư phạm học đã khiến cho những người có trách nhiệm đối với nền giáo dục hiện
thời phải suy ngẫm. Đặc biệt, điều đó rất có ý nghĩa đối với việc xây dựng và phát triển nền giáo
dục Việt Nam, một nền giáo dục đang thiếu sự định hướng của tư duy triết học.

“Nhân” trong luận ngữ của Khổng Tử


Lê Ngọc Anh    
Tạp chí Triết học 06:51' AM - Thứ năm, 17/08/2006

Thông tin liên quan:

Đạo đức công phu hay chính


trị thực hành
09/08/2010

Tu thân của Nho giáo và vấn


đề đối thoại văn hóa
23/07/2010

Hôm nay với Nho giáo


16/07/2010
Nho giáo trong lịch sử tư
tưởng văn hóa Việt Nam
22/04/2010

Một số đặc trưng cơ bản


của Nho giáo Việt Nam
13/04/2010

Bảy khúc biến tấu trên


một chủ đề của Khổng
phu tử
05/12/2009

Quân tử và tiểu nhân


trong Luận ngữ
30/11/2009

Kẻ chiến thắng
26/11/2009

Nho giáo và văn hóa Việt


Nam
24/11/2009

“Đương nhân bất nhượng ư


sư”
23/11/2009

Nền giáo dục theo tinh thần


nho giáo
09/11/2009

Nho giáo và kinh tế


03/11/2009

Khổng giáo luận


02/11/2009

Noi theo đạo nhà


08/10/2009

Khổng tử và Khổng giáo


11/08/2009

xem tất cả...


Nho giáo ra đời vào thế kỷ VI trước công nguyên do Khổng Tử (551 - 479 TCN) là người sáng
lập. Tại quê hương của Nho giáo đã từng có lúc rộ lên "Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua
tiếng", nhưng thực tế đã chứng minh, cuối cùng thì Nho giáo vẫn là học thuyết có sức sống lâu
bền nhất.

Lịch sử hình thành, phát triển của Nho giáo với nội dung, tính chất và vai trò lịch sử của nó
luôn là đề tài hấp dẫn đối với giới nghiên cứu lý luận. Dường như mỗi một bước tiến mới của
lịch sử thì từng vấn đề trong nội dung của Nho giáo lại được đề cập, xem xét lại và được đánh
giá một cách đầy đủ hơn, đúng đắn hơn. Có thể nói, một học thuyết ra đời cách đây hơn 2.500
năm đã được sự kiểm chứng của thời gian thì giá trị của nó về mặt lý luận và thực tiễn là điều
chúng ta không dễ bỏ qua. Trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi chỉ muốn góp thêm tiếng
nói về một khía cạnh mà, theo chúng tôi, mang tính tích cực và có ý nghĩa đối với chúng ta
trong thời đại ngày nay. Đó là tư tưởng "Nhân" trong học thuyết của Khổng Tử.

Khái niệm "Nhân" trong học thuyết của Khổng Tử được đề cập ở rất nhiều tác phẩm, nhưng
trong bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập tới nội dung của khái niệm này trong Luận ngữ. Luận
ngữ là tác phẩm ghi lại lời bàn luận giữa Khổng Tử và các học trò của ông. Theo nhà nghiên
cứu Nguyễn Hiến Lê, tác phẩm này do nhiều người ghi và ra đời sớm nhất cũng là sau khi
Khổng Tử đã mất chừng bảy mươi hoặc tám mươi năm. Chính vì vậy mà nhiều điều do Khổng
Tử nói ra đã không được các học trò của ông ghi lại đầy đủ. Điều đó khiến chúng ta gặp không
ít khó khăn khi nghiên cứu tư tưởng của Khổng Tử. Trong Luận ngữ có nhiều khái niệm được
lặp lại nhiều lần. Chẳng hạn như khái niệm "Nhân"- 109 lần, khái niệm "Người quân tử"- 107
lần, khái niệm "Lễ" - 74 lần, khái niệm "Đạo", 60 lần. Do đó, trong giới nghiên cứu đã có nhiều
ý kiến đánh giá khác nhau về nội đung của các khái niệm này.

"Nhân" trong Luận ngữ của Khổng Tử là một trong những khái niệm nhận được nhiều ý kiến
đánh giá khác nhau nhất. Có người cho "Nhân" là nội dung cơ bản của Luận ngữ và là tư tưởng
chủ đạo của Khổng Tử. Có người lại cho rằng "Lễ" mới là nội đung cơ bản của tác phẩm và có
người còn coi cả "Nhân" và "Lễ" đều là nội dung cơ bản của tác phẩm. Theo chúng tôi, quan
niệm coi "Nhân" là nội dung cơ bản của Luận ngữ, là tư tưởng chủ đạo của Khổng Tử - đó là
quan niệm chính xác, đúng đắn. Chúng tôi đồng ý với quan niệm này không phải là đồng ý với
nghĩa là khái niệm "Nhân" được nhắc tới nhiều lần trong tác phẩm, mà chính là vì xuất phát từ
hiện thực lịch sử của Trung Quốc lúc bấy giờ, Trung Quốc khi đó là thời kỳ mà "Chiến tranh
là phương thức phổ biến để giải quyết mâu thuẫn và quyền lợi, địa vị đương thời". Trong thời
đại của Khổng Tử, các tầng lớp thống trị, một mặt, dùng chiến tranh để tranh giành quyền lợi,
mặt khác, sử dụng chiến tranh để lôi kéo kẻ sĩ, sai khiến họ bầy mưu tính kế nhằm thu phục
thiên hạ và giành quyền bá chủ cho mình. Đứng trước tình hình xã hội như vậy, các kẻ sĩ muốn
dùng đạo của mình để cải tạo xã hội và Khổng Tử cũng không phải là trường hợp ngoại lệ.
Suốt cuộc đời mình, Khổng Tử luôn quan tâm tới vấn đề này. Ông nói: "Ta 15 năm tuổi để chí
vào việc học (đạo), 30 tuổi biết tự lập (tức khắc kỷ phục lễ, cứ theo điều lễ mà làm), 40 tuổi
không nghi hoặc nữa (tức có trí đức nên hiểu rõ ba đức nhân, nghĩa, lễ), 50 tuổi biết mệnh trời
(biết được việc nào sức người làm được, việc nào không làm được), 60 tuổi đã biết theo mệnh
trời, 70 tuổi theo lòng muốn của mình mà không vượt ra ngoài khuôn khổ đạo lý". Với một con
người suốt đời "học không chán, dạy người không mỏi", lúc nào cũng chỉ muốn đem cái đạo
của mình ra giúp đời và giúp cho đời ổn định thì đó phải là người có lòng nhân rộng lớn biết
bao.

Trong Luận ngữ, khái niệm "Nhân" được Khổng Tử nhắc tới nhiều lần và tùy từng đối tượng,
từng hoàn cảnh mà "Nhân" được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa sâu rộng nhất
"nhân" là một nguyên tắc đạo đức trong triết học Khổng Tử. “Nhân" được ông coi là cái quy
định bản tính con người thông qua "lễ", "nghĩa", quy định quan hệ giữa người và người từ
trong gia tộc đến ngoài xã hội. "Nhân" có quan hệ chặt chẽ với các phạm trù đạo đức khác
trong triết học Khổng Tử để làm nên một hệ thống triết lý nhất quán, chặt chẽ và do vậy, đã có
người cho rằng, nếu coi các phạm trù đạo đức trong triết học Khổng Tử như những vòng tròn
đồng tâm thì "Nhân" là tâm điểm, bởi nó đã chỉ ra cái bản chất nhất trong bản tính con người.
"Nhân" cũng có thể hiểu là "trung thứ", tức là đạo đối với người, nhưng cũng là đạo đối với
mình nữa. Trong một cuộc nói chuyện với các học trò Khổng Tử đã nói: Đạo của ta chỉ có một
lẽ mà thông suốt cả. Về điều này, Tăng Tử - một học trò của Khổng Tử cho rằng, Đạo của
Khổng Tử là "trung thứ". "Trung" ở đây là làm hết sức mình, còn "thứ" là suy từ lòng mình ra
mà biết lòng người, mình không muốn điều gì thì người cũng không muốn điều đó. "Trung
thứ" là sống đúng với mình và mang cái đó ứng xử tốt với người.

Dù trong Luận ngữ có nhiều sự giải thích khác nhau về "Nhân", song sự giải thích trong thiên
"Nhan Uyên" là có tính chất bao quát hơn cả. Có thể nói, ở đây "Nhân" trong quan niệm của
Khổng Tử là "yêu người" (Luận ngữ, Nhan Uyên, 21). Nếu nhìn toàn bộ tư tưởng của ông, phải
xem nội dung trên là tiêu biểu cho điều "Nhân". "Nhân" là "yêu người", nhưng người nhân
cũng còn phải biết "ghét người". Với Khổng Tử thì chỉ có người có đức nhân mới biết "yêu
người" và "ghét người". Khổng Tử nói: "Duy có bậc nhân mới thương người và ghét người
một cách chính đáng mà thôi" (Luận ngữ, Lý nhân, 3).

Có người cho rằng, "Nhân" (người) trong "ái nhân" (yêu người) là chỉ con người trong giai cấp
thống trị và yêu người trong tư tưởng Khổng Tử chỉ là yêu người trong giai cấp phong kiến.
Thực ra, khái niệm "Nhân" (người) mà Khổng Tử dùng ở đây là để đối với "cầm thứ'. Do đó, đi
liền với "Nhân" (người) là các khái niệm "thiện nhân", "đại nhân", "thành nhân", "nhân nhân",
"thánh nhân", "tiểu nhân"... Các khái niệm này nhằm chỉ những con người có tính cách khác
nhau, trình độ đạo đức khác nhau. "Thánh nhân" là người có đạo đức cao siêu, "tiểu nhân" là
người có tính cách thấp hèn… "Nhân" ở đây là chỉ con người nói chung và "ái nhân" là yêu
người, yêu bất cứ người nào, không phân biệt giai cấp, địa vị xã hội của họ.

Trong Luận ngữ, có chỗ Khổng Tử không dùng khái niệm "Nhân" (yêu người), nhưng nội dung
thể hiện ở đó lại thấm đượm tình yêu thương cao cả. Qua những trường hợp sau có thể thấy rõ.
Có lần một học trò của Khổng Tử là Tử Du hỏi về “hiếu”, Khổng Tử trả lời: "Điều hiếu ngày
nay chỉ có nghĩa là có thể nuôi cha mẹ. Nhưng đến loài chó ngựa cũng đều được nuôi, nếu
không có lòng kính thì làm thế nào phân biệt được". "Hiếu” ở đây vừa có ý nghĩa là nuôi nấng,
chăm sóc cha mẹ, vừa phải có lòng kính yêu cha mẹ, yêu thương rất mực đối với cha mẹ. Lại
một lần khác, Khổng Tử xong việc ở triều đình về, nghe nói chuồng ngựa cháy, câu đầu tiên
ông hỏi là: có ai bị thương không và không nói gì tới ngựa cả. Điều đó cho thấy, ông quan tâm
đến sinh mệnh con người (dù đó là những người hầu hạ) hơn là sự sống còn của ngựa (tức là
của cải). Tư tưởng "Nhân" là "yêu người" của ông thực sự đã được thể hiện ra mọi nơi, mọi
lúc.

Coi "Nhân" là "yêu người", trong Luận ngữ, Khổng Tử đã dành không ít lời để nói về đạo làm
người. Khi Nhan Uyên hỏi Khổng Tử về "Nhân", Khổng Tử đã nói: “Sửa mình theo lễ là nhân.
Ngày nào cũng khắc kỷ phục lễ, ngày đó mọi người trong thiên hạ tự nhiên cảm hoá mà theo
về đức nhân. Vậy nhân là do mình, chớ há do người sao?" (Luận ngữ, Nhan Uyên, l). Trọng
Cung - một học trò khác của Khổng Tử hỏi về "Nhân", Khổng Tử cho rằng, những cái gì mà
mình không muốn thì đừng đem thi hành cho người khác - đó là đức hạnh của người nhân
(Xem: Luận ngữ, Nhan Uyên, 2). Còn khi Phàn Trì hỏi về "Nhân", Khổng Tử giảng giải rằng,
“khi ở nhà thì giữ diện mạo cho khiêm cung, khi làm việc thì thi hành một cách kính cẩn, khi
giao thiệp với người thì giữ đức trung thành. Dẫu có đi đến các nước rợ Di, Địch cũng chẳng
bỏ ba cái đó, như vậy là người có đức nhân" (Luận ngữ, Tử Lộ, 19). Người nhân trong quan
niệm của Khổng Tử còn là người phải làm cho năm điều đức hạnh được phổ cập trong thiên hạ.
Năm điều đức hạnh đó là: cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Ông nói: "Nếu mình nghiêm trang cung
kính thì chẳng ai dám khinh mình. Nếu mình có lòng rộng lượng thì thu phục được lòng người.
Nếu mình có đức tín thật thì người ta tin cậy mình. Nếu mình cần mẫn, siêng năng thì làm
được công việc hữu ích. Nếu mình thi ân, bố đức, gia huệ thì mình sai khiến được người"
(Luận ngữ, Dương Hoá, 6). Không chỉ thế, người nhân, theo Khổng Tử, còn là người mà
"trước hết phải làm điều khéo, rồi sau mới đến thu hoạch kết quả" (Luận ngữ, Ung dã, 20), và
"người cứng cỏi, can đảm, kiên tâm, quyết chí, chất phác, thật thà, ít nói thì gần với nhân"
(Luận ngữ, Tử Lộ, 27). Với Khổng Tử, chỉ có người nhân mới có thể có được cuộc sống an vui
lâu dài với lòng nhân của mình và dẫu có ở vào hoàn cảnh nào, cũng có thể yên ổn, thanh thản.
Do vậy, theo ông, người nhân "bậc quân tử không bao giờ lìa bỏ điều nhân, dẫu chỉ trong một
bữa ăn. Người quân tử không bao giờ ở sai điều nhân, dẫu trong lúc vội vàng, khi ngả nghiêng
cũng vẫn theo điều nhân" (Luận ngữ, Lý nhân, 5).

Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của Khổng Tử, "Nhân" không chỉ là "yêu người",
"thương người", mà còn là đức hoàn thiện của con người, và do vậy, "nhân chính" là đạo làm
người - sống với mình vả sống với người, đức nhân là cái bền vững như núi sông. Với ông, nếu
thịnh đức của trời - đất là sinh thành, bắt nguồn từ đạo trung hoà, trung dung thì cái gốc của
đạo lý con người là "trung thứ" và đạo đức, luân lý con người là "Nhân", người có đạo nhân là
bậc quân tử, nước có đạo nhân thì bền vững như núi sông. Tuy nhiên, trong thời kỳ Xuân Thu -
Chiến Quốc đã có nhiều học thuyết phê phán chữ "Nhân" (yêu người) của Khổng Tử. Có người
cho đó là giả dối, có người cho đó là nói suông, có người lại cho đó là nguồn gốc của bất nhân,
bất nghĩa... Thế nhưng không phải vì thế mà tư tưởng "Nhân" của Khổng Tử không đi vào lòng
của nhiều người đương thời, gây cho họ biết bao sự xúc động và làm cơ sở cho hành động nhân
đạo của họ. Thực tế cho chúng ta thấy, "từ đời Hán trở đi, suốt trên hai nghìn năm đạo Khổng
được độc tôn, Vua Chúa đời nào cũng ráng áp dụng nó, mặc dầu không đúng. Nó thực tế hơn
đạo Mặc, đạo Lão, nhân bản hơn thuyết của Pháp gia". Cũng cần phải nói thêm rằng, trong
Luận ngữ, tư tưởng "Nhân" của Khổng Tử còn bao gồm nhiều đức khác, như: Trực (ngay
thẳng, không giả dối), Kính (nghiêm trang, cẩn trọng, cẩn thận trong công việc), Nghĩa, Lễ...

Để hiểu rõ hơn về tư tưởng "Nhân" của Khổng Tử cần so sánh nó với tư tưởng Kiêm ái của
Mặc Tử, tư tưởng Từ bi của đạo Phật. Nếu tư tưởng Kiêm ái của Mặc Tử coi ai cũng như mình,
người thân của người cũng là người thân của mình, không phân biệt riêng tư thì "Nhân" phân
biệt mình và người, lấy mình làm khởi điểm để phân biệt từ thân đến sơ, từ gần tới xa, phân
biệt người tất, kẻ xấu. Người Nhân trong quan niệm của Khổng Tử coi trọng đạo đức, chú ý
phần thiện trong bản tính con người thì người Kiêm ái chỉ chú trọng đến sự cứu giúp vật chất,
chú ý đến"giao tương lợi". Tư tưởng "Nhân" của Khổng Tử cũng khác xa tư tưởng Từ bi của
đạo Phật. Phật thương người và thương cả vạn vật. Lòng thương của Phật có một nỗi buồn vô
hạn, buồn cho sự mê muội của sinh linh, tìm cách giải thoát mọi sinh linh ra khỏi vòng sinh,
lão, bệnh, tử. Còn đạo Khổng tìm mọi cách giúp cho con người sống một cuộc sống vui vẻ hơn,
có nghĩa lý hơn và tìm kiếm hạnh phúc ngay trên cõi trần chứ không phải ở trên cõi niết bàn.
Chính vì vậy, ngay cả khi tư tưởng từ bi, cứu khổ, cứu nạn của Phật giáo du nhập và có chỗ
đứng trong đời sống tinh thần của con người Đông Á thì nó cũng không thể thay thế được vai
trò của đạo Khổng. Có thể nói "Nhân" của Khổng Tử là tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa tiêu biểu
nhất trong lịch sử các nước ở phía đông của Châu Á này.

Có thể nói, chế độ phong kiến Đông Á kéo dài được mấy nghìn năm một phần là nhờ tư tưởng
"Nhân" của Khổng Tử. Nhờ có đường lối "nhân nghĩa" của Khổng - Mạnh mà xã hội đó được
ổn định, con người với con người có quan hệ hòa hợp, còn xã hội trở thành một khối bền vững.
Sự trì trệ của xã hội phong kiến đó ở giai đoạn sau là do nguyên nhân khác, chứ không phải do
nguyên nhân ở tư tưởng "Nhân" của Khổng Tử.

Ngày nay, chế độ xã hội đã khác trước. Con người ngày nay cần một thứ nhân đạo chủ nghĩa
phù hợp với thời đại mình. Nhưng không phải vì vậy mà tư tưởng "Nhân" của Khổng Tử không
còn có ý nghĩa. Xã hội ngày nay vẫn còn những người nghèo khó, đói rét, cô đơn, bất hạnh,
những con người này rất cần đến sự quan tâm, thông cảm, giúp đỡ của người khác và của cả
cộng đồng. Do vậy, tư tưởng "Nhân" là yêu người của Khổng Tử vẫn còn có thể phát huy tác
dụng.

Xã hội là một cộng đồng của những con người, giữa họ có nhiều mối quan hệ. Nếu mỗi người
chỉ biết xuất phát từ lợi ích của mình để đối xử với người khác, nếu chỉ nghĩ đến lợi ích của
mình mà không thấy được quyền lợi của người khác thì xã hội sẽ có biết bao thảm kịch xảy ra.
Một khi mỗi con người đều biết quan tâm, nhường nhịn và hỗ trợ người khác thì không những
họ thấy cuộc sống của bản thân yên ấm, hạnh phúc, mà cả cộng đồng của họ cũng có sự gắn bó,
bền vững và có nhiều điều kiện để khắc phục những tai nạn do khách quan đưa lại. Điều này
không những đúng với xã hội ngày xưa, mà còn đúng với cả xã hội ngày nay. Khi xã hội loài
người đang trong quá trình toàn cầu hoá, phấn đấu để thế giới trở thành "ngôi nhà chung",
không còn có cộng đồng lớn hay nhỏ đứng ngoài "ngôi nhà chung" ấy, thì chúng ta càng cần
phải xích lại gần nhau, tạo ra những tiền đề cơ bản để có thể xây dựng một ngôi nhà chung
mang một sắc thái mới, đó là: đa sắc tộc, đa tín ngưỡng, đa văn hoá và trên hết là có một tinh
thần bao dung.

Có thể nói, phạm trù "Nhân" của Khổng Tử đã ra đời trong thời đại phong kiến, mang sắc thái
của xã hội phong kiến, có những điều không còn phù hợp với ngày nay, nhưng việc tìm hiểu và
rút ra được “hạt nhân hợp lý" của nó vẫn là việc chúng ta nên làm, cần làm.

Nguồn:  Tạp chí Triết học


Số lượt đọc:  24159  -  Cập nhật lần cuối:  23/03/2009 10:29:08 PM

  Về trang trước    Bản in    Gửi email    Về đầu trang

You might also like