You are on page 1of 34

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG CƠ SỞ 2

----------

MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG


CỘNG SẢN VIỆT NAM

CHỦ ĐỀ: QUÁ TRÌNH BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ


NGOẠI GIAO GIỮA VIỆT NAM – HOA KỲ

Giảng viên: ThS. Tô Ngọc Hằng


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................................... 1
Chương 1: Những nhân tố cơ bản tác động đến quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ.........................2
1.1 Bối cảnh thế giới............................................................................................................2
1.2 Khái quát về quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ trước năm 1995............................................2
1.3 Chính sách đối ngoại của hai nước................................................................................7
1.3.1 Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ sau Chiến tranh lạnh:.........................................7
1.3.2 Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới......................................9
Chương 2: Quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ.....................................13
2.1 Quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ trước năm 1986....................13
2.2 Quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ sau năm 1986.......................15
2.3 Ý nghĩa của việc bình thường quá quan hệ đối với Việt Nam......................................18
2.3.1 Về mặt an ninh - quốc phòng.................................................................................18
2.3.2 Về phát triển kinh tế - xã hội.................................................................................19
2.3.3 Về vị thế của Việt Nam.........................................................................................21
3.1 Một số nhận xét và bài học rút ra từ quá trình bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt
Nam - Hoa Kỳ....................................................................................................................22
3.1.1 Nhận xét về quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ....................22
3.1.2 Bài học rút ra từ quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ..............23
3.2 Triển vọng trong mối quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ trong tương..................................26
KẾT LUẬN........................................................................................................................... 30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................32
1

LỜI MỞ ĐẦU
Trải qua hơn 30 năm thực hiện công cuộc Đổi mới (từ năm 1986 đến nay), Việt Nam đã
đạt được rất nhiều thành tựu và trở thành một trong những quốc gia phát triển năng động ở
khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Đặc biệt, từ một quốc gia bị cô lập, bao vây cấm vận
vào những năm 1980, Việt Nam đã trở thành một quốc gia chủ động và tích cực trong hoạt
động đối ngoại. Minh chứng rõ ràng nhất cho thành tựu về đối ngoại của Việt Nam trong
hơn ba mươi năm qua là quá trình bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ (1995).
Trong suốt 30 năm từ 1945 đến 1975, không thể phủ nhận việc Việt Nam luôn coi Hoa
Kỳ là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất của dân tộc mình. Thế nhưng khi chiến thắng Mùa
Xuân 1975 chấm dứt chiến tranh, công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc được đặt lên hàng
đầu thì vấn đề “Bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ” là vấn đề mang lại nhiều băn
khoăn. Cơ hội bình thường hoá quan hệ với đất nước Hoa Kỳ đến với Việt Nam lần đầu tiên
vào năm 1977 khi Tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter có ý muốn mở ra quan hệ với Việt
Nam. Thế nhưng phải gần hai thập kỷ sau, ngày 11/7/1995, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ mới
chính thức được thiết lập.
Sự tác động của chính sách Đổi Mới của Việt Nam là một trong những nguyên nhân
quan trọng của sự thành công của quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Từ Đại hội Đảng lần thứ VI
(1986), Việt Nam đã có nhiều chuyển biến lớn về quan điểm đối với các vấn đề quốc tế và
quan hệ đối ngoại. Trong khi vẫn đề cao việc hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa, Việt Nam chủ trương đẩy nhanh quá trình bình thường hóa quan hệ với Hoa
Kỳ. Đến Đại hội VII (1991), Việt Nam khẳng định “muốn là bạn với tất cả các nước”, chủ
trương này đã góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và nâng cao vị thế quốc tế của Việt
Nam. 
 Việc bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ cũng được coi là chìa khóa quan trọng để
giúp Việt Nam có thể tiếp tục đẩy mạnh và mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế
giới, không phân biệt chế độ chính trị- xã hội, hợp tác, tồn tại hòa bình để phát triển, phù hợp
với lợi ích của nhân dân và xu thế phát triển chung của thế giới.
Trong phạm vi bài tiểu luận với đề tài “Quá trình bình thường hóa mối quan hệ Việt
Nam - Hoa Kỳ”, nhóm chúng em xin phép tóm tắt và phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến
2

quá trình bình thường hóa quan hệ đầy thử thách của Việt Nam - Hoa Kỳ. Qua đó, nhóm
chúng em xin đưa ra những nhận xét, bài học trong ngoại giao và triển vọng phát triển mối
quan hệ giữa hai nước trong thời gian sắp tới.
Chương 1: Những nhân tố cơ bản tác động đến quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ
1.1 Bối cảnh thế giới
Sau khi chiến tranh ở Việt Nam kết thúc năm 1975, những vết thương của cuộc chiến
tranh còn mang đậm dấu ấn trong cả hai dân tộc Việt - Mỹ. Quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ là
mối quan hệ giữa hai cựu thù, thể hiện rõ trong nhận thức và chính sách đối với nhau. Trong
thời gian này, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động bất lợi cho Việt Nam. Trong
bối cảnh của sự đối đầu Đông-Tây của cuộc Chiến tranh Lạnh, những mâu thuẫn giữa Liên
Xô và Trung Quốc trong mấy thập kỷ qua tiếp tục tác động tiêu cực đối với phe xã hội chủ
nghĩa mà lúc này đang là đồng minh trụ cột của Việt Nam. Ở khu vực Đông Nam Á, sự đối
đầu giữa nhóm các nước ASEAN (khi đó bao gồm Inđônêxia, Malaixia, Philipin, Thái Lan,
Singapo) và nhóm các nước Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia) trong vấn đề
Campuchia làm cho tình hình an ninh chính trị trong khu vực bị căng thẳng. Trong khi đó,
quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc chưa được cải thiện từ sau cuộc chiến tranh xâm lược
của Trung Quốc năm 1979, gây ra nhiều bất lợi cho Việt Nam trên các phương diện khác
nhau. Đặc biệt, chính sách bao vây cấm vận của Mỹ đặt Việt Nam vào thế bị cô lập trên
trường quốc tế, cản trở quan hệ đối ngoại của Việt Nam, đồng thời gây ra nhiều khó khăn
cho Việt Nam trong việc khôi phục lại đất nước. Những khó khăn trong nước của thời kỳ sau
chiến tranh cùng với những bất lợi của tình hình chính trị quốc tế và khu vực đã đặt Việt
Nam trước những thách thức vô cùng to lớn.
1.2 Khái quát về quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ trước năm 1995
Trước những khó khăn cả từ trong nước và ngoài nước và xuất phát từ những yêu cầu
bức thiết của sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI
(1986, Đại hội VI) đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Trên lĩnh vực ngoại
giao, Đại hội VI xác định những nhiệm vụ trọng tâm là: 
1) Đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô là hòn đá tảng của chính sách đối ngoại của
Việt Nam;
3

2) Phát triển và củng cố quan hệ đặc biệt với Lào và Campuchia;


3) Sẵn sàng đàm phán để giải quyết những bất đồng, tiến tới bình thường hóa quan hệ với
Trung Quốc;
4) Sẵn sàng thương lượng với các nước Đông Nam Á để giải quyết các vấn đề trong khu
vực, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hòa bình, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình,
ổn định và hợp tác.
5) Mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình.
Trong bối cảnh của Chiến tranh Lạnh và là thành viên của phe xã hội chủ nghĩa, quan
điểm chính thức của Việt Nam lúc đó coi Mỹ là kẻ đứng đầu của “các thế lực phản động
quốc tế” đang “tập hợp lực lượng mới nhằm phục vụ lợi ích đế quốc chủ nghĩa của chúng
chĩa mũi nhọn chống Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa khác và các lực lượng yêu chuộng
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ” trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Mặc dù vậy,
để gỡ thế bao vây cấm vận của Mỹ, Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định: “Tiếp tục bàn
bạc với Mỹ giải quyết các vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại và sẵn sàng cải thiện quan
hệ với Mỹ vì lợi ích của hòa bình, ổn định ở Đông Nam Á”.
Những định hướng về chính sách Đổi Mới nói chung và chính sách đối ngoại nói
riêng do Đại hội VI đề ra đã mở ra một giai đoạn mới với những chuyển biến quan trọng
trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước cũng như trong chính sách đối ngoại
của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, cục diện chính trị quốc tế từ nửa sau thập niên
1980 có nhiều bất lợi đối với Việt Nam. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu
bước vào giai đoạn khủng hoảng, do đó những giúp đỡ về vật chất và tinh thần của các nước
này cho Việt Nam bị hạn chế rất nhiều. Cuối năm 1989, các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu lần lượt sụp đổ. Trong khi đó, các nước lớn điều chỉnh chiến lược, đẩy mạnh hòa hoãn và
cải thiện quan hệ với nhau. Liên Xô bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (5-1989)
trong lúc quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc chưa được cải thiện. Liên Xô cũng từng
bước thỏa hiệp với Mỹ. Tại Hội nghị thượng đỉnh Xô - Mỹ tháng 12-1989, Tổng thống Liên
Xô M. Gorbachev tuyên bố Chiến tranh Lạnh đã kết thúc. Những thực tế đó đã chi phối
mạnh mẽ việc thực thi chính sách đối ngoại của Việt Nam nói chung và chính sách đối với
Mỹ nói riêng. Để phù hợp với hoàn cảnh mới và đáp ứng những mục tiêu lợi ích quốc gia,
4

Việt Nam tích cực mở rộng quan hệ đối ngoại cũng như từng bước cải thiện quan hệ với Mỹ.
Từ sau Đại hội VI, Việt Nam chuyển từ đối đầu sang đối thoại cùng tồn tại hòa bình với Mỹ
“trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, bình đẳng, cùng có lợi, giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng và những vấn đề tồn tại
thông qua thương lượng hòa bình”. Trên cơ sở đó trong những năm 1987-1989, Việt Nam và
Mỹ đã có những cuộc tiếp xúc để chuẩn bị cho các vòng đàm phán về vấn đề bình thường
hóa quan hệ giữa hai nước.
Do những tiến bộ trong tình hình an ninh chính trị của Campuchia và để thúc đẩy
nhanh xu thế đối thoại với các nước có liên quan, đặc biệt là Mỹ, và góp phần tìm giải pháp
chính trị cho vấn đề Campuchia, từ tháng 5-1988 Việt Nam đã rút hàng vạn quân về nước và
hoàn thành việc rút quân tình nguyện khỏi Campuchia vào tháng 9-1989. Cũng từ đây, vấn
đề Campuchia có nhiều chuyển biến nhanh chóng và có tác động lớn tới quan hệ Việt - Mỹ.
Mỹ một mặt khuyến khích các nước ASEAN đối thoại với Việt Nam, mặt khác chủ động
phối hợp với Việt Nam để giải quyết vấn đề Campuchia và đối thoại với Việt Nam về vấn đề
bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Tháng 10-1991, với sự tham gia của Liên hợp quốc,
các nước có liên quan đã ký Hiệp định Paris về Campuchia. Từ đây, Việt Nam có điều kiện
thuận lợi hơn để cải thiện quan hệ với các nước này, đặc biệt là với Mỹ, Trung Quốc và các
nước Đông Nam Á.
Cục diện chính trị thế giới trong những năm đầu thập niên 1990 có sự biến đổi căn
bản với sự tan rã của Liên Xô tháng 12-1991. Sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Đông
Âu và Liên Xô, những đồng minh chủ chốt của Việt Nam trước đây, đã tác động trực tiếp tới
quan hệ đối ngoại và kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Đại hội Đảng Cộng
sản Việt Nam lần thứ VII (1991, Đại hội VII) đã xác định đường lối đối ngoại của Việt Nam
là: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát triển”, và “Thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ với Mỹ”. Như
vậy, từ chỗ xác định Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa là đối tác chủ chốt ở Đại hội VI,
đến Đại hội VII Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại với tất cả các nước.
Trong quan hệ với Mỹ, với chủ trương nhanh chóng bình thường hóa quan hệ và với
tinh thần khoan dung, nhân đạo, Việt Nam đã tích cực hợp tác với Mỹ trong việc tìm kiếm
5

quân nhân mất tích trong chiến tranh. Từ năm 1974-1992, Việt Nam đã trao cho Mỹ hơn 300
bộ hài cốt lính Mỹ. Tháng 10-1992, Việt Nam trao cho phía Mỹ hơn 5.000 bức ảnh đen trắng
về các quân nhân Mỹ ở Việt Nam cùng với hàng nghìn tài liệu có liên quan. Những tài liệu
này đã giúp phía Mỹ giải quyết nhiều trường hợp người Mỹ mất tích ở Việt Nam. Việt Nam
cũng cho phép các quan chức Mỹ vào kiểm tra thực địa những nơi bị nghi là đang giam giữ
tù binh Mỹ. Việc làm này đã chứng minh cho thực tế là không còn tù binh Mỹ bị giam giữ ở
Việt Nam. Như vậy, Việt Nam đã chủ động đáp ứng những đòi hỏi của Mỹ về vấn đề
POW/MIAs và vấn đề Campuchia. Ngoài ra, Việt Nam đã tách các vấn đề nhân đạo ra khỏi
các vấn đề chính trị, hợp tác với Mỹ giải quyết vấn đề con lai Mỹ, đoàn tụ gia đình theo
chương trình ra đi có trật tự và cho phép những người Việt Nam đã từng hợp tác với Mỹ
trong chiến tranh được xuất cảnh sang cư trú tại Mỹ hoặc các nước thứ ba. Việt Nam cũng
tạo điều kiện cho các tổ chức phi chính phủ của Mỹ lập văn phòng đại diện ở Việt Nam,
chẳng hạn Dự án hòa giải Mỹ - Đông Dương hoạt động ở Việt Nam từ năm 1985 và Tổ chức
nhịp cầu hữu nghị hoạt động ở Việt Nam từ năm 1988. Việt Nam chủ động tham gia các hội
thảo khoa học và hoạt động xã hội giữa Việt Nam và Mỹ. Đối với Việt Nam, đây cũng là cơ
hội để đẩy mạnh việc tuyên truyền về đường lối, chính sách đối ngoại cũng như đất nước,
con người và văn hóa Việt Nam với công chúng Mỹ qua con đường ngoại giao nhân dân.
Chuyến đi của hai nhà văn Lê Lựu và Ngụy Ngữ (cựu sĩ quan quân đội của chế độ Sài Gòn
trước đây) sang Mỹ tháng 7-1988 tham dự Hội thảo các nhà văn cựu chiến binh Mỹ và Việt
Nam bàn về văn học chiến tranh là một minh chứng sinh động cho chính sách đổi mới và cởi
mở của Việt Nam.
Về phía Mỹ, chính quyền Mỹ đánh giá cao sự hợp tác của Việt Nam trong việc tham
gia giải quyết vấn đề POW/MIAs cũng như những hậu quả khác của chiến tranh và đã quyết
định điều chỉnh chính sách với Việt Nam. Tháng 4-1991, phía Mỹ đưa ra “lộ trình” cho việc
bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, trong đó có việc thiết lập văn phòng ở Hà Nội để
giải quyết vấn đề POW/MIAs, cam kết viện trợ nhân đạo (chủ yếu cho việc làm chân tay giả)
1 triệu USD cho Việt Nam, và nới lỏng hạn chế việc đi lại cho phái đoàn ngoại giao Việt
Nam ở New York. Năm 1992, Mỹ có thêm một số nới lỏng cấm vận với Việt Nam: khôi
phục liên lạc bưu chính và sau đó là điện thoại trực tiếp với Việt Nam, cung cấp thêm 3 triệu
6

USD viện trợ nhân đạo cho Việt Nam, cho phép bán các mặt hàng phục vụ nhu cầu cơ bản ở
Việt Nam, cho phép các tổ chức phi chính phủ của Mỹ thực hiện các dự án ở Việt Nam, và
cho phép các công ty Mỹ mở văn phòng ở Việt Nam. Cũng trong năm 1992, chính phủ Mỹ
chính thức thực hiện Chương trình Fulbright, cung cấp học bổng cho sinh viên Việt Nam
sang học ở các trường đại học của Mỹ. Mục  tiêu của Chương trình Fulbright  là “tăng cường
sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân Mỹ và nhân dân Việt Nam”.
Cũng cần lưu ý rằng, việc bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ không chỉ là nguyện
vọng của nhân dân Việt Nam mà còn là nguyện vọng của nhân dân Mỹ. Trong một cuộc
thăm dò công luận ở Mỹ năm 1993, lần đầu tiên đại đa số người Mỹ được hỏi ý kiến đã đồng
ý với việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam trong lúc chính quyền Mỹ còn đang thận
trọng với việc bình thường hóa. Những kết quả rất đáng khích lệ của 5 năm thực hiện chính
sách Đổi Mới của Việt Nam cũng có ý nghĩa lớn. Cùng với việc thực hiện chính sách mở
cửa, việc ban hành Luật đầu tư nước ngoài cởi mở năm 1987 đã thu hút nhiều nhà đầu tư
nước ngoài đến làm ăn ở Việt Nam, làm cho dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vào Việt
Nam tăng lên nhanh chóng: nếu như năm 1986 hầu như không có FDI ở Việt Nam, đến năm
1990 FDI vào Việt Nam đạt 2.205 triệu USD. Về thương mại, kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam năm 1986 là 789 triệu USD đến năm 1990 con số này tăng lên 2.404 triệu USD. Trước
thực tế đó, có người Mỹ cho rằng chính sách cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam đang tỏ ra
kém hiệu quả và Mỹ cần phải nhanh chóng bình thường hóa quan hệ với Việt Nam để không
bỏ lỡ cơ hội làm ăn ở Việt Nam khi quốc gia này đang thực thi chính sách Đổi Mới và mở
cửa với thế giới bên ngoài.
Với những nỗ lực của cả Việt Nam và Mỹ, những bước đi trong tiến trình bình thường
hóa quan hệ giữa hai nước diễn ra nhanh chóng từ đầu thập niên 1990. Tháng 7-1993, Tổng
thống B. Clinton tuyên bố Mỹ không phản đối các tổ chức tài chính quốc tế viện trợ cho Việt
Nam. Tháng 9-1993, Mỹ viện trợ nhân đạo bổ sung cho Việt Nam 3,5 triệu USD. Tháng 2-
1994, Chính quyền Clinton chính thức xóa bỏ cấm vận với Việt Nam. Ngay lập tức, 30 công
ty Mỹ đã mở chi nhánh ở Việt Nam. Tháng 1-1995, Việt Nam trao văn phòng Đại sứ quán
Mỹ ở Thành phố Hồ Chí Minh cho chính phủ Mỹ. Ngày 11-7-1995, Tổng thống Clinton đọc
diễn văn tuyên bố Mỹ bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, cho rằng đó là vì lợi ích của
7

Mỹ, rằng làm cho người Mỹ không còn bị chia rẽ, và cũng là để hàn gắn vết thương của
chính người Mỹ. Trong diễn văn đáp từ ngày 12-7-1995, Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt
hoan nghênh quyết định bình thường hóa quan hệ với Việt Nam của Mỹ vì nó “phù hợp với
xu thế phát triển hiện nay của tình hình quốc tế, góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình,
ổn định và phát triển ở Đông Nam Á cũng như trên thế giới”. Như vậy, Việt Nam và Mỹ đã
trải qua một chặng đường bình thường hóa đầy khó khăn giữa hai cựu thù để trở thành bạn
bè của nhau. Một quá khứ đau thương của hai dân tộc Việt - Mỹ đã được khép lại và mở ra
một thời kỳ mới trong quan hệ hai nước.
Tóm lại, sau hơn hai thập kỉ kể từ khi kết thúc cuộc chiến tranh giữa Mỹ với Việt
Nam, Mỹ thực thi chính sách cấm vận Việt Nam về kinh tế với việc duy trì các đạo luật,
chính sách kiềm chế sự phát triển của Việt Nam, hai nước đã vượt qua được những trở ngại
để tiến tới bình thường hóa quan hệ, phục vụ lợi ích của cả hai quốc gia, dân tộc. Việc bình
thường hóa quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam cũng có thể là sự hàn gắn tốt cho những vết
thương tinh thần mà chiến tranh để lại cho cả hai dân tộc. Quyết định đó đã nhận được sự
hoan nghênh nhiệt liệt của dư luận trong khu vực và trên thế giới, góp phần làm ổn định hòa
bình ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đó cũng là một bước đi quan trọng, phù hợp với
xu thế phát triển của tình hình thế giới: tiến hành chuyển từ đối đầu sang đối thoại, mở rộng
quan hệ ngoại giao để đẩy mục tiêu kinh tế.
1.3 Chính sách đối ngoại của hai nước
1.3.1 Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ sau Chiến tranh lạnh:
Các nhà quan sát châu Âu về Hoa Kỳ đã nhiều lần miêu tả với thái độ có phần ngạc
nhiên về lòng mong muốn của người Mỹ đối với một mục đích cao hơn cả trong lĩnh vực tư
nhân lẫn trong lĩnh vực chính trị. Họ nhận thấy “Hoa Kỳ sau khi đang liên tục đấu tranh cho
linh hồn của mình”. Điều này cũng thể hiện rõ sau khi chấm dứt chiến tranh lạnh. Ở Hoa Kỳ
sự say sưa chiến thắng đang ngự trị: “Chiến thắng cuộc Chiến tranh Lạnh có nghĩa là cái ý
thức có tính chất động lực về mục đích trước kia đã thấm nhuần vào xã hội và đường lối
chính trị của Hoa Kỳ kể từ cuối những năm 1940 nay bỗng nhiên biến mất, để lại một
khoảng trống và tâm trạng hoài nghi”. Ở Hoa Kỳ vẫn tồn tại một ước muốn tiếp tục một sự
nghiệp vĩ đại hơn khẳng định vị trí đặc biệt của Hoa Kỳ trên thế giới.
8

Trong chiến dịch tranh cử năm 1992, những khẩu hiệu như “Hoa Kỳ trước hết”, “Mỹ,
hãy trở về nhà!” và “Đã đến lúc chúng ta phải chăm sóc lấy chúng ta” đã được cả đảng Cộng
hòa và đảng Dân chủ tán thành. Tuy nhiên, sự tin tưởng chung rằng Hoa Kỳ phải tự do lấy
mình trước hết không hề có nghĩa là một sự xa rời chủ nghĩa quốc tế. Hơn 60% dân Mỹ cho
rằng Hoa Kỳ “phải tích cực tham gia vào sinh hoạt quốc tế”.
Với sự tan rã của Liên Xô, Nga không còn là một mối đe dọa và Chiến tranh Lạnh kết
thúc. Tuy nhiên, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục liên minh và NATO đã phát triển nhanh chóng, hiện
gồm có  hầu hết các nước Đông Âu. Những thách đố mới trở thành trọng tâm của sự chú ý
của thế giới, chẳng hạn như khủng bố và biến đổi khí hậu.  Sau Chiến tranh vùng Vịnh thành
công năm 1991, nhiều học giả, chẳng hạn như Zbigniew Brzezinski, cho rằng việc thiếu một
tầm nhìn chiến lược mới cho chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đã đánh mất nhiều cơ hội cho
chính sách đối ngoại của Mỹ. Trong suốt những năm 1990, Hoa Kỳ phần lớn cắt giảm ngân
sách chính sách đối ngoại cũng như ngân sách quốc phòng thời Chiến tranh lạnh – đã lên tới
6,5% GDP – trong khi tập trung vào sự thịnh vượng kinh tế trong nước dưới thời Tổng thống
Clinton. Ông đã thành công trong việc đạt thặng dư ngân sách trong năm 1999 và 2000. Hoa
Kỳ vẫn giữ vai trò là người gìn giữ hòa bình của LHQ trong các cuộc chiến tranh chấp sắc
tộc ở Nam Tư cũ.
Thế giới đã thay đổi từ lưỡng cực sang đa cực. Trong khi Hoa Kỳ vẫn là một cường
quốc về kinh tế và quân sự, các quốc gia đang lên như Trung Hoa, Ấn Độ và Brazil cũng
như Nga đã thách thức sự thống trị của Hoa Kỳ. Giới phân tích chính sách đối ngoại như
Nina Hachigian cho rằng sáu cường quốc mới nổi có cùng mối quan tâm: thương mại tự do,
tăng trưởng kinh tế, đề phòng khủng bố, nỗ lực ngăn chặn phổ biến vũ khí hạt nhân. Và nếu
họ có thể tránh được chiến tranh thì những thập kỷ sắp tới có thể có hòa bình và hiệu quả với
điều kiện là không có sự hiểu lầm hoặc cạnh tranh nguy hiểm.
Tổng thống Clinton nhậm chức Tổng thống năm 1993 với một chương trình nghị sự
toàn diện cho cải cách trong nước. Clinton chỉ quan tâm một cách dè dặt tới nhiệm vụ phát
triển một chính sách đối ngoại phù hợp với một trật tự đã thay đổi về căn bản. Ông đã phải
rút ra bài học rằng chính sách đối ngoại không thể được xem nhẹ bất chấp các ưu tiên khác.
Các thách thức về chính sách đối ngoại đứng trước Chính quyền Clinton có thể so sánh với
9

những thách thức dưới thời Chính quyền Truman vào lúc kết thúc Chiến tranh thế giới lần
thứ nhất. Có thể tóm tắt một số nhiệm vụ và vấn đề đặc biệt khó khăn mà Chính quyền
Clinton vấp phải như dưới đây:
+ Xác định vai trò Hoa Kỳ sẽ giữ trên chính trường thế giới: Hoa Kỳ sẵn sàng chấp
nhận cái giá và rủi ro nào.
+ Phát triển những tiêu chí cho các quyết định về việc can thiệp bằng quân sự vì các
mục đích nhân đạo: Hoa Kỳ có sẵn sàng từ bỏ chính sách đơn phương của mình để chấp
nhận vai trò quân sự dưới quyền bảo trợ của Liên hợp quốc không?
+ Cải cách viện trợ nước ngoài: Với sự kết thúc cuộc xung đột Đông – Tây, những
tiêu chí nào sẽ chỉ đạo việc lập các chương trình viện trợ nước ngoài và phân phối chúng cho
những khu vực nào?
+ Phát triển một chính sách mới đối với châu Âu: có nên mở rộng NATO sang phía
Đông?
+ Phát triển một chiến lược chính trị về quan hệ với các nước Cộng hòa Soviet trước
đây ngoài Nga ra.
1.3.2 Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng từ năm 1986 đến nay đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề và động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đổi mới công tác đối ngoại, mà trước hết là đổi
mới về chính sách và hoạt động đối ngoại là bộ phận rất quan trọng trong công cuộc đổi mới
toàn diện. Tiến tới Đại hội lần thứ X của Đảng, việc nghiên cứu, đánh giá và tổng kết quá
trình đổi mới sẽ góp phần đưa hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta lên tầm cao
mới, đáp ứng những đòi hỏi của tình hình hiện nay cũng như trong thập kỷ đầu của thế kỷ
XXI. 
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, đất nước ta đứng trước những khó khăn rất hiểm
nghèo. Ở trong nước, chúng ta phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm
trọng, kéo dài. Về đối ngoại, chúng ta phải đương đầu với tình trạng bị cô lập về chính trị, bị
bao vây cấm vận về kinh tế. Trong khi đó, trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học và công
10

nghệ diễn ra như vũ bão, xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa nổi lên, đặt ra những cơ hội và
thách thức cho nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Bước vào thập kỷ 90, sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu
đã đặt chúng ta trước những thách thức mới rất cam go. Tuy nhiên, những kết quả bước đầu
trong việc triển khai chính sách đối ngoại mới đã tạo tiền đề để Đảng ta đưa ra đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế với tinh thần
"Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình,
độc lập và phát triển". Hội nghị Trung ương 3, khóa VII đã đề ra tư tưởng chỉ đạo chính sách
đối ngoại là "giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải
rất sáng tạo, năng động, linh hoạt phù hợp với vị trí và hoàn cảnh của nước ta, cũng như diễn
biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng ta có thể quan hệ".
Sau 10 năm đổi mới, tình hình chính trị - xã hội nước ta dần đi vào ổn định; thế và lực
của ta được nâng cao hơn; quan hệ quốc tế được mở rộng; vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế được cải thiện; khả năng giữ vững độc lập tự chủ và hội nhập được tăng cường. Tuy
nhiên, chúng ta còn phải đối phó với nhiều khó khăn, thử thách, bao trùm lên tất cả là "Nguy
cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và gay
gắt do điểm xuất phát của ta quá thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt".
Đại hội VIII (tháng 6 - 1996) và Đại hội IX (4 - 2001) của Đảng tiếp tục hoàn thiện đường
lối đối ngoại thông qua việc khẳng định "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển". Ngoài ra, đại hội
còn nhấn mạnh, Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát
huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.
Tuy nhiên, nếu như chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là một chiến lược lâu dài, thì
những diễn biến của tình hình thế giới, khu vực và trong nước xảy ra thường xuyên, Đảng
liên tục có những điều chỉnh cho phù hợp với thực tế. Theo đó, tháng 7/2003, Hội nghị lần
thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX họp và ra Nghị quyết về Chiến lược bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nghị quyết đã thể hiện những nhận thức mới của Đảng về
nguyên tắc xác định đối tác và đối tượng trong quan hệ quốc tế của Việt Nam, nhấn mạnh:
Những ai tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác
11

bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của Việt Nam; bất kể lực lượng nào có âm
mưu và hành động chống phá mục tiêu cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh.
Đổi mới trong chính sách và hoạt động đối ngoại đã hòa nhịp cùng với đổi mới trên
mọi lĩnh vực của đất nước, đem lại những thành tựu rất to lớn, được thể hiện trên các mặt:
Từ chỗ bị bao vây cấm vận, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 169 nước; đặc
biệt, lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta có quan hệ với tất cả các nước, trung tâm chính trị -
kinh tế lớn trên thế giới:
- Chúng ta đã tạo được khuôn khổ quan hệ hợp tác hữu nghị, ổn định lâu dài và đan xen
lợi ích với tất cả các nước láng giềng, khu vực: Quan hệ đặc biệt và hợp tác toàn diện với
Lào không ngừng được củng cố và mở rộng, hợp tác kinh tế ngày càng chặt chẽ, hiệu quả.
Quan hệ với Campuchia được đổi mới theo hướng mở rộng, nâng cao hiệu quả hợp tác kinh
tế, phối hợp giải quyết các vấn đề an ninh, biên giới, lãnh thổ trong khuôn khổ các tổ chức
khu vực và quốc tế. Quan hệ với Trung Quốc được bình thường hóa hoàn toàn và nâng lên
tầm cao mới theo phương châm 16 chữ "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu
dài, hướng tới tương lai".
- Nước ta đã chủ động duy trì và thúc đẩy quan hệ hữu nghị với các nước bạn bè truyền
thống như Nga, Cu Ba, Ấn Độ, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Mông Cổ; các nước
thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập, Trung - Đông Âu trên nhiều lĩnh vực, thể hiện tình
nghĩa thủy chung, đoàn kết trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời,
chúng ta đã chủ động khôi phục và củng cố quan hệ hợp tác với các nước châu Phi, Trung
Đông và Mỹ La-tinh, nêu cao tinh thần đoàn kết và ủng hộ các nước bạn trong cuộc đấu
tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền và tự quyết dân tộc. Mặc dù chưa tương xứng với tiềm năng
và mong muốn của các bên, song kim ngạch buôn bán và đầu tư giữa ta và các nước này đã
và đang có những phát triển tích cực.
- Không những thế, nước ta cũng đã bình thường hóa và mở rộng quan hệ hợp tác cùng có
lợi với các nước lớn và trung tâm kinh tế - chính trị lớn trên thế giới. Từ chỗ là hai nước thù
địch trước đây, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao và hợp tác trên nhiều lĩnh vực với
Mỹ trên tinh thần gác lại quá khứ, hướng tới tương lai. Với Mỹ, hai nước đã xác lập khuôn
12

khổ "quan hệ hữu nghị, đối tác xây dựng, hợp tác nhiều mặt, ổn định, lâu dài trên cơ sở tôn
trọng lẫn nhau, bình đẳng, cùng có lợi". Nước ta tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt
với Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Tây Bắc Âu, nhất là trên các lĩnh vực
kinh tế, thương mại, đầu tư, viện trợ phát triển, văn hóa, du lịch, chuyển giao công nghệ. Các
nước này hiện đã trở thành những đối tác và thị trường hàng đầu của ta.
Hoạt động đối ngoại đã có những đóng góp to lớn trong công cuộc phát triển đất nước
thông qua việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định. Bằng những việc làm trực tiếp, cụ
thể, hoạt động đối ngoại đã phục vụ cho việc hoạch định chính sách kinh tế, đặc biệt là công
tác nghiên cứu, tham mưu, thông tin, vận động viện trợ, thu hút đầu tư, mở rộng các thị
trường buôn bán, lao động, du lịch; tham gia giải quyết vướng mắc trong quan hệ kinh tế
giữa Việt Nam với các nước khác.
Hoạt động ngoại giao đa phương có bước trưởng thành vượt bậc kết hợp chặt chẽ với
các mối quan hệ song phương, góp phần nâng cao hơn nữa vai trò và uy tín của Việt Nam tại
các tổ chức quốc tế như: Liên hợp quốc, ASEAN,... tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng
quan hệ đối ngoại, phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao vị thế và hình ảnh của Việt Nam trên
trường quốc tế; đồng thời đóng góp vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới bảo vệ
hòa bình, bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.
Đường đối ngoại rộng mở do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra đã được
các Đại hội và các Hội nghị Trung ương, Bộ Chính trị, từ khóa VI đến khóa XI tiếp tục bổ
sung, phát triển thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương
hóa quan hệ quốc tế, thể hiện ở mục tiêu đối ngoại, tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại và
phương châm đối ngoại. Đường lối đó đã góp phần giữ vững môi trường hòa bình, phục vụ
tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, nâng cao vị thế và uy
tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Cũng từ đường lối đúng đắn đó, Việt Nam
đã tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực, đưa các quan hệ quốc tế đã
được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, đồng thời hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn
vào các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương.
13

Chương 2: Quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ
2.1 Quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ trước năm 1986
Nhìn lại, những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ 19, Việt Nam và Hoa Kỳ đã có
những tiếp xúc ngoại giao đầu tiên. Năm đó, chính phủ Hoa Kỳ đã cử đặc sứ Edmuad
Roberts mang thư sang trình diện cho người đứng đầu nhà nước Việt Nam bấy giờ là vua
Minh Mạng để hai nước giao hảo, thông thương. Tuy nhiên, chuyến đi này đã không thành
công do đặc sứ Roberts mất đột ngột tại Ma Cao, bỏ lỡ cơ hội bang giao giữa hai nước. Đó là
chuyến đi đầu tiên và sau này, hai nước cũng đã nhiều lần bỏ lỡ các cơ hội để thiết lập quan
hệ ngoại giao với nhau, thậm chí cả hai nước còn bị cuốn vào vòng xoáy của cuộc chiến
tranh Hoa Kỳ-Việt Nam kéo dài trong hơn 20 năm. 
Việc bình thường hoá quan hệ giữa hai đối thủ vừa mới ra khỏi một cuộc chiến tranh,
nếu chỉ là riêng vấn đề của họ, tự nó cũng đã có nhiều khó khăn, phức tạp do so sánh lực
lượng, yếu tố tâm lí, chính trị, kinh tế. Nhưng cuộc chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh
giữa siêu cường và nước nhỏ yếu hơn. Một cuộc chiến tranh có màu sắc ý thức hệ, một cuộc
chiến tranh mà kết thúc lại là sự thất bại đầu tiên đối với siêu cường, thì vấn đề bình thường
hoá quan hệ giữa 2 bên lại càng khó khăn, phức tạp. Trong cuộc chiến tranh khốc liệt tại Việt
Nam, lần đầu tiên trong lịch sử của mình, nước Hoa Kỳ đã thất bại và phải trả giá cho những
tham vọng và quyết định sai lầm của giới lãnh đạo Hoa Kỳ. Hơn 58.000 lính Hoa Kỳ đã tử
trận ở Viêt Nam để lại một vết thương nặng nề, một sự chia rẽ sâu sắc trong nước Hoa Kỳ
mà người ta thường gọi là “Hội chứng Việt Nam”. 
Về phía Hoa Kỳ, các chính quyền Hoa Kỳ đã thi hành một chính sách cứng rắn đối với
Việt Nam: áp đặt lệnh cấm vận với Việt Nam ngay sau khi chiến tranh kết thúc. Đối với Hoa
Kỳ, tâm lý thua trận của một cường quốc lớn trước một dân tộc nghèo và nhỏ bé như Việt
Nam đã làm cho một bộ phận người Hoa Kỳ mang nặng tư tưởng hận thù, chống phá Việt
Nam. Cả Việt Nam và Hoa Kỳ đều để   ngỏ khả năng bình thường hóa quan hệ sau chiến
tranh kèm theo những điều kiện của riêng mình. 
Ngày 2/7/1976, nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức ra đời, đánh dấu
một bước phát triển của đất nước. Dù còn có quan điểm khác nhau về các vấn đề và khác
biệt hệ tư tưởng, hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ vẫn tìm cách đàm phán với nhau trong việc
14

tìm kiếm những nạn nhân mất tích trong chiến tranh. Phía Việt Nam yêu cầu Hoa Kỳ thực
hiện đúng cam kết trong hiệp định Paris 1973 là phải viện trợ cho Việt Nam tái thiết sau
chiến tranh nhưng tổng thống Hoa Kỳ G.Ford đã bác bỏ các yêu cầu đó, thậm chí Hoa Kỳ đã
dùng quyền phủ quyết tại Liên hợp Quốc để thể hiện thái độ không đồng ý việc Việt Nam
gia nhập Ngân hàng thế giới (World Bank) và Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng phát
triển châu Á (ADB) trong năm 1975-1976. Chính quyền Hoa Kỳ đồng thời đòi Việt Nam
cung cấp đầy đủ tin tức về 2.387 quân nhân Hoa Kỳ bị mất tích (MIAs) trong chiến tranh.
Nhiều người Hoa Kỳ thậm chí còn tin rằng Việt Nam vẫn đang giam giữ tù binh Hoa Kỳ
(POW). Chính quyền Hoa Kỳ coi việc giải quyết vấn đề POW/MIAs là điều kiện tiên quyết
cho việc bình thường hóa quan hệ hai nước.
Đầu năm 1977, khi nước Hoa Kỳ có tổng thống mới là Jimmy Carter, chính phủ Hoa
Kỳ cũng đã có những cố gắng nhằm tìm kiếm khả năng bình thường hóa quan hệ với Việt
Nam. Ngày 16/3/1977, một nhóm đặc phái viên được J.Carter cử sang Việt Nam để thảo
luận về các lợi ích song phương, đồng thời, Hoa Kỳ cũng cho phép các nước có viện trợ cho
Việt Nam được dừng tàu thủy và máy bay tại Hoa Kỳ để tiếp nhiên liệu. Trong vấn đề tìm
kiếm nạn nhân mất tích trong chiến tranh, Việt Nam trao trả lại hài cốt của 11 binh sĩ Hoa
Kỳ. Nhưng khi các nỗ lực chưa có kết quả thì tình hình thế giới thay đổi, Hoa Kỳ với Trung
Quốc bắt đầu hợp tác với nhau để đến bình thường hóa quan hệ từ cuối năm 1978. Do đó,
Jimmy Carter đã gác lại việc đàm phán với Việt Nam, thậm chí còn phải rút lại lời hứa viện
trợ nhân đạo cho Việt Nam. Vẫn lấy lí do về vấn đề Campuchia, từ năm 1979, các cuộc đàm
phán bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã bị ngừng trệ, quan hệ hai nước
trở nên đóng băng do Hoa Kỳ đã lôi kéo các nước nhằm chống phá, đả kích Việt Nam dưới
danh nghĩa ổn định tình hình an ninh, chính trị của khu vực.
Tháng 1/1981, nước Hoa Kỳ có tổng thống mới. Lần này là Regan tuyên thệ nhậm
chức. Dưới sức ép về vấn đề tìm kiếm nạn nhân mất tích trong chiến tranh (MIA), Regan
tuyên bố sẽ nỗ lực hết sức và coi vấn đề MIA là ưu tiên hàng đầu trong chính sách của mình,
thế nhưng nhiệm kỳ đầu của ông trôi qua mà vẫn không đạt được nhiều kết quả như mong
muốn. Từ năm 1985, tình hình thế giới có những thay đổi thì quan hệ Việt - Hoa Kỳ có
những tiến triển. Trong khi trả lời phóng viên hãng thông tấn Hoa Kỳ (UPI) Sylvana Foa
15

ngày 15/3/1985 nhân kỷ niệm 10 năm ngày giải phóng miền Nam, đồng chí Lê Đức Thọ đã
bày tỏ: “Chúng tôi bây giờ cũng muốn có quan hệ bình thường với Hoa Kỳ. Tôi cho rằng
bây giờ đã đến lúc hai nước nên gặp nhau… Không có lý do gì lại không thể gặp nhau vì
chiến tranh đã kết thúc hơn chục năm nay. Điều đó chỉ có lợi cho cả hai nước, cho cả hoà
bình trong khu vực. Cả hai nước được nhiều cái lợi, cả về kinh tế cũng như chính trị. Không
bao giờ chỉ một bên có lợi”.
2.2 Quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ sau năm 1986
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã đưa ra quyết định lịch sử, đưa đất nước ta
vào tiến trình đổi mới toàn diện. Với phương châm “thêm bạn bớt thù”, định hướng đối
ngoại của Việt Nam đã có những chuyển đổi cơ bản kể từ Đại hội VI. Trong quan hệ với
Hoa Kỳ, Đại hội VI đã nêu chủ trương: “Chính phủ ta tiếp tục bàn bạc với Hoa Kỳ về vấn đề
nhân đạo do chiến tranh để lại và sẵn sàng cải thiện quan hệ vì lợi ích của hoà  bình và ổn
định ở Đông Nam Á”. Từ 1988, ta đã không coi Hoa Kỳ là kẻ thù lâu dài và chủ trương đẩy
mạnh chính sách từng bước và phá vỡ thế bao vây, cấm vận của Hoa Kỳ và tiến tới bình
thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ.
Một trong những trở ngại chính trên con đường tiến tới bình thường hoá quan hệ Việt
Nam - Hoa Kỳ là vấn đề Cam-pu-chia. Trong bài phát biểu “Hãy nhìn quan hệ Việt Nam -
Hoa Kỳ với đôi mắt mới” tại Hội đồng đối ngoại Hoa Kỳ, Thứ trưởng Lê Mai đã kêu gọi
Hoa Kỳ không nên coi việc giải quyết Cam-pu-chia là điều kiện tiên quyết để bình thường
hoá quan hệ với Việt Nam. Ngày 18/7/1990, Ngoại trưởng Hoa Kỳ J.Baker đã tuyên bố mở
đối thoại trực tiếp với Việt Nam về vấn đề Cam-pu-chia và không công nhận chính phủ liên
hiệp Cam-pu-chia dân chủ ở Liên Hợp Quốc. Tuyên bố này của Hoa Kỳ đánh dấu bước điều
chỉnh chính sách quan hệ quan trọng nhất của Hoa Kỳ đối với Việt Nam và Cam-pu-chia và
quyết định này đã được dư luận quốc tế và Việt Nam hoan nghênh. Quyết định này đã mở
đường cho đối thoại chính thức đầu tiên giữa Hoa Kỳ và Việt Nam về vấn đề Cam–pu–chia.
Cuộc gặp giữa trưởng đại diện phái đoàn Việt Nam tại Liên Hợp Quốc, Đại sứ Trịnh Xuân
Lãng và phó trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ K. Quin diễn ra tại New York lần đầu tiên vào
ngày 06/08/1990. Nội dung chủ yếu của cuộc đối thoại là bàn về các vấn đề liên quan đến
một giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Cam–pu–chia.
16

Trong giai đoạn đó, có thể nói rằng các cuộc thương lượng tìm kiếm MIA như một chất
xúc tác, như chiếc cầu nối giúp hai bên bắt đầu hợp tác giải quyết các vấn đề do chiến tranh
để lại. Về phía Hoa Kỳ, tổng thống Reagan đã cử đặc phái viên John Vessy sang Việt Nam
(từ tháng 1 đến ngày 3 tháng 8 năm 1987) để thảo luận về vấn đề nhân đạo mà hai bên cùng
quan tâm. Chính John Vessy vào năm 1989, khi đệ trình danh mục những lời khuyên cho
tương lai cho Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, ông cũng đã nhấn mạnh vai trò quan trọng trong việc
theo đuổi các mối ngoại giao bình thường với các nước Đông Dương và kêu gọi nước Hoa
Kỳ nên từ bỏ sự dè dặt đối với các vấn đề Đông Dương.
Năm 1989, tổng thống Bush (cha) nhậm chức và thay đổi chính sách đối ngoại với Việt
Nam, mở ra những hi vọng mới trong thời kỳ này. Ngày 18/7/1990, Ngoại trưởng Hoa Kỳ
J.Baker tuyên bố mở đối thoại trực tiếp với Việt Nam về vấn đề Campuchia và không công
nhận chính phủ liên hiệp Campuchia dân chủ ở Liên hợp quốc. Quyết định này đã mở đường
cho đối thoại chính thức đầu tiên giữa Hoa Kỳ với Việt Nam về vấn đề Campuchia. Ngày
6/8/1990, vòng một đàm phán giữa Việt Nam-Hoa Kỳ đã được tổ chức. Đại diện cho Việt
Nam là đại sứ Trịnh Xuân Lãng và phía Hoa Kỳ là phó trợ lý Ngoại trưởng K.Quinn. Ngày
29 và 30 tháng 9 năm1990, Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch đã có cuộc
nói chuyện với Ngoại trưởng Hoa Kỳ J.Baker tại New York. Đến ngày 9 tháng 4 năm 1991,
Hoa Kỳ đưa ra lộ trình bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Lộ trình này gồm
bốn bước, mục đích là thúc đẩy giải quyết vấn đề Campuchia và vấn đề người Hoa Kỳ bị bắt
làm tù binh hay mất tích trong chiến tranh Việt Nam (POW/ MIA). Đây có thể coi là động
thái mềm dẻo, tích cực và có ý nghĩa bước ngoặt trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối
với Việt Nam.
Ngày 20/4/1991, tướng Vessy vào Việt Nam và bàn về vấn đề lập văn phòng
POW/MIA tại Hà Nội. Đến 25/4/1991, Hoa Kỳ tuyên bố tài trợ 1 triệu USD cho Việt Nam
để giúp Việt Nam trong vấn đề tay chân giả. Ngày 23/10/1991, Ngoại trưởng Hoa Kỳ và Bộ
trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm gặp nhau tại Paris nhân kỉ niệm ngày kí hiệp định
Paris về vấn đề Campuchia. Gần một năm sau, ngày 8/10/1992, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh
Cầm có cuộc gặp với Ngoại trưởng Hoa Kỳ Eagleburger và Bộ trưởng Quốc phòng Chenry
tại Bộ ngoại giao Hoa Kỳ đề bàn về quan hệ hai nước. Ngày 23/10/1992, tổng thống Bush
17

tuyên bố sẽ nhanh chóng bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, kể cả bãi bỏ cấm vận. Lúc
này, phía Hoa Kỳ đã có những nới lỏng cho Việt Nam như việc bãi bỏ hạn chế đi lại trong
vòng 25 dặm đối với các cán bộ Ngoại giao Việt Nam tại trụ sở Liên hợp quốc tại New
York, bãi bỏ hạn chế các nhóm du lịch, cựu chiến binh, các nhà báo, nhà kinh doanh trong
việc tổ chức đoàn đi Việt Nam…Với chuyển biến tích cực đó, ngày 22 tháng 11 năm 1991,
thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Lê Mai đã tiến hành cuộc đàm phán chính thức đầu tiên về
bình thường hóa quan hệ giữa hai nước với trợ lý ngoại trưởng Hoa Kỳ R.Solomon. Trước
khi rời Nhà trắng, kết thúc nhiệm kỳ của mình, ngày 14/12/1992, tổng thống Bush đã quyết
định bãi bỏ một phần lệnh cấm vận của Hoa Kỳ, cho phép các công ty Hoa Kỳ được mở văn
phòng đại diện tại Việt Nam, kí kết các hợp đồng kinh tế nhưng chỉ được kinh doanh sau khi
có lệnh bãi bỏ hoàn toàn cấm vận.
Tới năm 1993, khi Bill Clinton đắc cử tổng thống Hoa Kỳ, ông vẫn tiếp tục chính sách
về bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và ưu tiên hơn cả là vấn đề POW/MIA cũng như
sự hợp tác của Việt Nam trong giải quyết vấn đề này. Được sự giúp đỡ to lớn của Việt Nam,
tổng thống Clinton đã trình lên Quốc hội bản báo cáo về các tiến bộ đạt được trong giải
quyết tìm kiếm thông tin với những nạn nhân, quân nhân Hoa Kỳ mất tích trong chiến tranh.
Trong năm 1993, phó thủ tướng Phan Văn Khải đã có nhiều cuộc gặp gỡ, tiếp xúc ở các cấp,
đặc biệt là tiếp xúc với các chính giới Hoa Kỳ ở Washington. Đến ngày 2/7/1993, Tổng
thống Bill Clinton tuyên bố chấm dứt việc chống các nước cho Việt Nam vay tiền để trả nợ
quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Việc nới lỏng cấm vận này dẫn tới việc ngày 13/9/1993 Bộ tài
chính Hoa Kỳ ra tuyên bố và ngày 23/12/1993 ra quyết định cho phép các công ty Hoa Kỳ
tham gia các dự án của tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế thực hiện ở Việt Nam. Đồng thời,
ngày 3/2/1994, tổng thống Clinton tuyên bố bãi bỏ cấm vận và mở cơ quan liên lạc tại Việt
Nam, cho phép các doanh nghiệp Hoa Kỳ tiến hành các giao dịch tài chính, thương mại và
các giao dịch khác đối với Việt Nam và kiều dân Việt Nam.. Mặc dù vẫn còn một vài mặt
hàng bị kiểm soát, nhưng quan hệ kinh tế giữa hai nước đã có những bước chuyển biến. Đến
cuối năm 1994, buôn bán giữa hai nước đạt tới con số 100 triệu USD, đầu tư của Hoa Kỳ
vào Việt Nam đạt 225 triệu USD (đứng thứ 13 trong tổng số các nước đầu tư cho Việt Nam).
18

Hành động của tổng thống B.Clinton đã được hoan nghênh và nhiều người coi đó là động
thái đáng được khích lệ trên con đường khai thông quan hệ ngoại giao.
Ngày 28/1/1995, hai nước chính thức mở cơ quan liên lạc tại thủ đô Hà Nội và
Washington. Hoa Kỳ và Việt Nam đã kí hiệp định về tài sản ngoại giao, tài sản khác của
Việt Nam tại Hoa Kỳ và của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Có thể nói, đây là kết quả của một năm
đàm phán, là cột mốc và bước tiến quan trọng trong quá trình bình thường hóa giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ. Không lâu sau đó, với nỗ lực và thiện chí của cả hai bên, ngày 11/7/ 1995,
tổng thống Bill Clinton đã tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Thủ
tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt đã tuyên bố “Chính phủ và nhân dân Việt Nam hoan nghênh
quyết định của tổng thống Hoa Kỳ” và hưởng ứng lời đề nghị trao đổi đại sứ. Như vậy, kể từ
sau chiến tranh thế giới II, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao đầy đủ với các nước lớn trên
thế giới và nâng tổng số nước mà Việt Nam thiết lập quan hệ lên con số 155. Từ đây, quan
hệ Việt Nam-Hoa Kỳ bước vào giai đoạn mới, giai đoạn mở rộng quan hệ trên các lĩnh vực
hai bên cùng quan tâm mà trước hết là kinh tế, thương mại và khoa học kĩ thuật.
Tóm lại, sau hơn hai thập kỉ kể từ khi kết thúc cuộc chiến tranh giữa Hoa Kỳ với Việt
Nam, Hoa Kỳ thực thi chính sách cấm vận Việt Nam về kinh tế với việc duy trì các đạo luật,
chính sách kiềm chế sự phát triển của Việt Nam, hai nước đã vượt qua được những trở ngại
để tiến tới bình thường hóa quan hệ, phục vụ lợi ích của cả hai quốc gia, dân tộc. Việc bình
thường hóa quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam cũng có thể là sự hàn gắn tốt cho những vết
thương tinh thần mà chiến tranh để lại cho cả hai dân tộc. Quyết định đó đã nhận được sự
hoan nghênh nhiệt liệt của dư luận trong khu vực và trên thế giới, góp phần làm ổn định hòa
bình ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đó cũng là một bước đi quan trọng, phù hợp với
xu thế phát triển của tình hình thế giới: tiến hành chuyển từ đối đầu sang đối thoại, mở rộng
quan hệ ngoại giao để đẩy mục tiêu kinh tế.
2.3 Ý nghĩa của việc bình thường quá quan hệ đối với Việt Nam
2.3.1 Về mặt an ninh - quốc phòng
Sau hơn 15 năm, lòng tin Việt - Mỹ được củng cố hơn, lợi ích ngày càng đan xen, sự
nghi kỵ giảm dần, khuôn khổ hợp tác ngày càng đa dạng và phát triển. Năm 2009, Mỹ bắt
đầu đưa các đoàn học giả, chuyên gia, quan chức vào Việt Nam để thúc đẩy quan hệ và tìm
19

hiểu. Ngược lại, Việt Nam cũng thúc đẩy các chuyến thăm. Mỹ điều chỉnh chính sách và nhu
cầu hợp tác hai bên ngày càng tăng, hai bên đã đạt được Biên bản ghi nhớ (MoU) về hợp tác
quốc phòng (tháng 9-2011) xác định năm lĩnh vực thúc đẩy hợp tác quốc phòng gồm: hợp
tác an ninh hàng hải; hợp tác tìm kiếm cứu nạn; các hoạt động gìn giữ hòa bình; nhân đạo và
cứu trợ thiên tai; hợp tác giữa các trường đại học quốc phòng và các viện nghiên cứu. Năm
2013 chuyến thăm Mỹ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, hai bên mới ra tuyên bố chung
xác lập quan hệ đối tác toàn diện, tạo nền tảng vững chắc để quan hệ hai bên đi vào thực
chất, kể cả trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng. Những động thái đó phù hợp với lợi ích quốc
gia của cả Việt Nam và Mỹ, góp phần vào hòa bình, ổn định trong khu vực. Từ đó thấy được
triển vọng hợp tác quốc phòng giữa hai nước vẫn còn rất lớn và ý nghĩa cũng rất quan trọng,
phản ánh quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa hai nước, giúp hai nước củng cố lòng tin để vượt
qua những trở ngại trong quá khứ và  ngày càng phát triển.
2.3.2 Về phát triển kinh tế - xã hội
Từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ năm 1995 đến năm 2000 kim ngạch thương
mại Việt- Mỹ chỉ tăng từ 450 triệu USD lên 1,09 tỷ USD; nhưng từ khi có BTA đến nay đã
gia tăng bình quân 20%/năm; năm 2005 là 6,75 tỷ USD, năm 2010 là 18,10 tỷ USD, năm
2015 đạt 41,28 tỷ USD, năm 2019 đạt 75,72 tỷ USD, gấp 75 lần năm 2000.
Quy chế tối huệ quốc (MFN), giảm mức thuế quan trung bình đánh vào hàng nhập
khẩu từ Việt Nam từ 40% xuống 4%, mở cửa thị trường cho các nhà xuất khẩu Việt Nam.
Tháng 12/2006, Tổng thống G.W.Bush quyết định trao cho Việt Nam Quy chế quan hệ
thương mại bình thường vĩnh viễn.
Trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Mỹ năm 2000 là 0,733 tỷ
USD, năm 2005 là 5,93 tỷ USD, năm 2010 là 14,24 tỷ USD, năm 2015 là 33,48 tỷ USD và
năm 2019 là 61,35 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu của Mỹ vào Việt Nam năm 2000 là 0,363
tỷ USD, tăng lên hơn 1,1 tỷ USD trong năm 2003- 2004, giảm xuống còn 0,862 tỷ USD năm
2005, đạt 3,77 tỷ USD năm 2010, 7,8 tỷ USD năm 2015 và 14,37 tỷ USD năm 2019. Năm
2019, Hoa Kỳ trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam chiếm 28,5% tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng hóa. Theo Phòng thương mại Mỹ tại Việt Nam (AmCham), Việt Nam
đang gia tăng vị thế là nhà cung cấp hàng đầu trong khu vực ASEAN cho Mỹ; từ một nước
20

thành viên ASEAN có kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ thuộc loại ít nhất, năm 2014 Việt Nam
đã trở thành nước xuất khẩu lớn nhất, chiếm 21,6% tổng kim ngạch xuất khẩu ASEAN vào
Mỹ. Thương mại là mảng sáng trong quan hệ kinh tế Việt Nam- Hoa Kỳ.
Một số vấn đề còn tồn đọng sau khi bình thường hóa quan hệː
(1) Các vụ kiện thương mại đầu tiên là vụ cá ba sa (2002), tiếp đó là vụ tôm (2004)
cùng với 11 nước khác. Nguyên nhân Do chưa có nhận thức đầy đủ về luật pháp, quy trình,
thủ tục vụ kiện này, nên Việt Nam bị động đối phó, kết cục bất lợi.. Do vậy, cách tốt nhất là
phòng và tránh xảy ra các vụ kiện. Trong trường hợp không thể tránh xảy ra vụ kiện thì tìm
cách lobby để đơn kiện không được gửi đến Bộ Thương mại Mỹ (DOC) và Tòa Trọng tài
Mỹ (ITC), thực hiện biện pháp hoà giải với bên nguyên đơn bằng các khoản bồi thường hợp
lý.  theo Cục trưởng Cục kiểm tra sau thông quan của Tổng cục Hải quan thì một số doanh
nghiệp có kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng đột biến, trong đó có 19 nhóm mặt
hàng có nguy cơ gian lận về xuất xứ
(2) Quy tắc xuất xứ Để được hưởng ưu đãi về thuế quan của Mỹ, doanh nghiệp Việt
Nam phải đáp ứng được tiêu chuẩn cao về chất lượng sản phẩm và hàng rào kỹ thuật thương
mại; đồ gỗ của Việt Nam muốn vào thị trường Mỹ thì cần có xuất xứ là gỗ rừng trồng (có
Chứng chỉ gỗ từ rừng trồng được phép khai thác); hải sản xuất khẩu sang Mỹ không được
khai thác bất hợp pháp…
(3) Môi trường đầu tư Mặc dù môi trường đầu tư của Việt Nam được cải thiện, an
ninh chính trị, kinh tế, an toàn cho nhà đầu tư được đánh giá cao, nhưng có ba vấn đề chưa
đáp ứng đòi hỏi của các nhà đầu tư Mỹ: (1) Hệ thống luật pháp công khai, minh bạch, ổn
định, dễ dự báo được thực thi nghiêm chỉnh trong cả nước; đảm bảo chi phí cơ hội là đòi hỏi
có tính nguyên tắc của TNCs của Mỹ khi đầu tư vào nước ta; (2) Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
mà nước ta đã cam kết trong nhiều hiệp định liên quan đến đầu tư với những quy định khắt
khe . (3) Giảm thiểu thời gian tiến hành các thủ tục hành chính từ thẩm định cấp Giấy Chứng
nhận Đầu tư, triển khai thực hiện dự án. Chi phí bôi trơn, tham nhũng là những tệ nạn không
được chấp nhận đối với TNCs của Mỹ.
21

2.3.3 Về vị thế của Việt Nam


Sau khi bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ diễn ra, hoạt động đối ngoại
của Việt Nam đã được triển khai bài bản với tầm nhìn chiến lược và các bước đi cụ thể, hiệu
quả, góp phần quan trọng vào việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thu hút các
nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc và nâng cao hơn nữa vị thế đất nước trên trường quốc tế. Đến nay, Việt
Nam đã thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược với 16 nước, Đối tác toàn diện với 11 nước,
trong đó có tất cả các nước P5 (Mỹ, Nga, Trung Quốc, Pháp, Anh) và hầu hết các nước chủ
chốt trong trong khu vực và trên thế giới.. Ở khía cạnh ngoại giao kinh tế, đến nay, đã có
trên 70 nước công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Trong nhiều năm qua, Việt Nam
đã tham gia hết sức tích cực vào việc đàm phán cũng như ký kết, phê chuẩn các Hiệp định
thương mại tự do (FTA) với 16 FTA song phương và đa phương.
Hoạt động đối ngoại đa phương của Việt Nam đã chuyển mạnh Điều này thể hiện qua
việc Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc, như:
Hội đồng Bảo an (2008-2009); Hội đồng Kinh tế-Xã hội (1998-2000 và 2016-2018), Hội
đồng Nhân quyền (2014-2016), Hội đồng Chấp hành UNESCO (2015-2019), Ủy ban Luật
pháp quốc tế (2017-2021); Ủy ban Luật thương mại quốc tế (2019-2025), Tháng 11/2017,
Việt Nam cũng đã trở thành tâm điểm chú ý của cả thế giới khi tổ chức thành công Tuần lễ
Cấp cao Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC). Và gần đây nhất Việc
Việt Nam được chọn là quốc gia duy nhất của khu vực châu Á-Thái Bình Dương ứng cử vào
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021. Tất cả các sự kiện trên đã cho thấy sự
coi trọng của các nước đối với vai trò, vị thế ngày càng cao của Việt Nam trên trường quốc
tế; đồng thời thể hiện sự chủ động và “tầm vóc” của Việt Nam trong hội nhập quốc tế, tham
gia kiến tạo và định hình các thể chế khu vực và toàn cầu.
Chương 3: Một số nhận xét về quá trình bình thường hóa quan hệ và triển vọng trong quan
hệ Việt Nam - Hoa Kỳ trong tương lai
22

3.1 Một số nhận xét và bài học rút ra từ quá trình bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt
Nam - Hoa Kỳ.
3.1.1 Nhận xét về quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ
Trải qua “Cuộc đàm phán” kéo dài gần 2 thập kỷ, cuối cùng cả Việt Nam và Hoa Kỳ
đều đã chạm được vào cái đích mình muốn. Trong “cuộc thương lượng” dai dẳng ấy, chắc
chắn cả hai đều có những toan tính cho riêng mình. Sẽ là một quan điểm sai nếu như nói
rằng, Việt Nam không mong muốn cũng chẳng thiết tha đi đến bình thường hóa quan hệ với
Hoa Kỳ. Không thể phủ nhận được rằng bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam
và Hoa kỳ là một bước ngoặt trong lịch sử phát triển đất nước Việt Nam. Hoa Kỳ có một nền
kinh tế lớn nhất và phát triển nhất trên thế giới, cũng như chiếm một vị trí quan trọng trong
chính sách đổi mới của Việt Nam nói chung và chính sách đối ngoại của Việt Nam nói riêng.
Thực tế chính sách bao vây, cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam là một trong những
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng kinh tế khó khăn của Việt Nam. 
Trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, Việt Nam rất cần đến vốn,
công nghệ và thị trường của các nước, đặc biệt là những nước phát triển, trong đó có Hoa
Kỳ. Chính vì vậy, việc bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ từ sau 7/1995 kết hợp với quyết
định đổi mới toàn diện đất nước của Đảng được đưa ra trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI (1986) đã đưa nền kinh tế và đất nước Việt Nam sang hẳn 1 trang mới trong lịch sử phát
triển. Vai trò chủ đạo của Hoa Kỳ trong các thiết chế kinh tế, tài chính chủ yếu của thế giới
cũng là một nhân tố quan trọng trong tính toán thúc đẩy quan hệ giữa ta với Hoa Kỳ. Quan
hệ bình thường với Hoa Kỳ đã giúp Việt Nam tranh thủ huy động được các nguồn vốn cho
vay của Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới. Hơn nữa, quan hệ với Hoa Kỳ cũng sẽ
mở đường cho Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO. 
Là một thị trường hầu như chưa được khai thác, với dân số gần 80 triệu, đứng thứ hai ở
khu vực, Việt Nam tạo nên những cơ hội buôn bán, đầu tư không thể bỏ qua đối với các
công ty Hoa Kỳ. Hơn nữa, được đánh giá là một đất nước có tiềm năng to lớn bởi những
nguồn tài nguyên phong phú, nguồn nhân lực dồi dào và tài năng, Việt Nam đang ngày càng
trở nên hấp dẫn đối với các nhà đầu tư và buôn bán của Hoa Kỳ. Các công ty Hoa Kỳ có
những cơ hội kinh doanh to lớn ở Việt Nam trong những lĩnh vực công nghiệp, máy bay, dầu
23

lửa, điện tử, thông tin liên lạc, du lịch, hàng nông sản, hàng hải và bảo hiểm. Việc Hoa Kỳ
vẫn tiếp tục duy trì cấm vận đối với Việt Nam sẽ tước bỏ những cơ hội to lớn của các doanh
nghiệp Hoa Kỳ, trong khi các nước khác như Nhật Bản, ASEAN và các nước NICs ở Châu
Á đang nhanh chóng tiếp cận những cơ hội thương mại và đầu tư to lớn ở Việt Nam.
Thiết lập quan hệ bình thường với Việt Nam cũng sẽ mang lại những lợi ích to lớn cho
Hoa Kỳ trong việc thúc đẩy tìm kiếm những người Hoa Kỳ mất tích trong cuộc chiến tranh,
một trong những mục tiêu chủ yếu trong chính sách của Hoa Kỳ ở Châu Á – Thái Bình
Dương. Hoa Kỳ cho rằng chỉ với chính sách can dự với Việt Nam mới có thể thúc đẩy tiến
bộ về vấn đề MIA/POW. Trong tính toán của Hoa Kỳ, Việt Nam là một nhân tố quan trọng
trong cân bằng chiến lược ở Đông Nam Á và bình thường hóa quan hệ với Việt Nam phục
vụ lợi ích chiến lược của Hoa Kỳ ở Đông Á – Thái Bình Dương. Lo ngại về sự trỗi dậy của
Trung Quốc và khả năng Trung Quốc có thể thách thức vị trí lãnh đạo của Hoa Kỳ trong
tương lai, Hoa Kỳ cho rằng Việt Nam có thể tạo nên một sự đối trọng nào đó trong tương lai
đối với ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc ở khu vực. Bình thường hóa quan hệ với
Việt Nam còn phục vụ lợi ích thúc đẩy dân chủ, nhân quyền và cải cách chính trị ở Việt
Nam. Dưới chính quyền Clinton, thúc đẩy dân chủ nhân quyền đã trở thành một trong ba trụ
cột của chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ.
Tóm lại, những lợi ích kinh tế, chính trị và hàn gắn vết thương chiến tranh quả là những
động lực cơ bản thúc đẩy chính sách bình thường hóa quan hệ với Việt Nam thời kỳ cuối
những năm 1980 và đầu 1990. Có một sự nhất trí chung giữa chính quyền của Đảng cộng
hòa dưới thời tổng thống Bush và chính quyền Dân chủ dưới thời tổng thống Clinton về lợi
ích của nước Hoa Kỳ trong việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Và, câu trả lời cho
câu hỏi ai là “Được” và ai là “Phải” có lẽ chẳng thể có một đáp án chính xác nào.
3.1.2 Bài học rút ra từ quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ
Hai mươi năm cho lộ trình bình thường hoá một mối quan hệ có lẽ cũng đã là một bài
học để Việt Nam và chính sách đối ngoại của Việt Nam nhớ mãi. Phải mất đến gần hai thập
kỷ với rất nhiều nỗ lực, Việt Nam và Hoa Kỳ mới có thể xây dựng được một mối quan hệ
đối tác mới phục vụ lợi ích của cả hai quốc gia. Cả một bài học lớn dài đằng đẵng suốt hai
mươi năm ấy, cho đến tận bây giờ, chưa chắc đã có ai học được một cách kĩ càng và thấu
24

đáo. Chỉ biết rằng, nhìn vào từng chặng đường mà đất nước Việt Nam đã đi qua, mỗi người
có thể rút ra bài học nhỏ theo cách nhìn nhận của mỗi cá nhân cho nền ngoại giao của một
đất nước nhỏ chiến thắng trong chiến tranh với một siêu cường.
Thứ nhất, nhìn nhận lại cơ hội bình thường hoá đầu tiên đến với Việt Nam năm 1977,
bên cạnh nhân tố cho rằng cuộc đàm phán bình thường hoá không đi đến thành công là do sự
cay cú của nước Hoa Kỳ sau khi bại trận trong chiến tranh, liệu có ai băn khoăn về cái nhìn
thời cuộc không tỉnh táo của chính mình lúc này? 
Vào thời điểm ấy, trong tình hình Đông Nam Á lúc đó có những dòng nước ngược: có
đồng minh cũ, vì chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, đã trở thành kẻ thù mới của ta và đã gây ra một
cuộc chiến mới làm cho tình hình khu vực tiếp tục không ổn định. Có nước là chỗ dựa và
hậu phương lớn của ta trong chiến tranh nay lại có ý đồ kiềm chế ta, thậm chí gây xung đột
và chiến tranh nóng ở biên giới và hải đảo của ta, gây rất nhiều khó  khăn cho ta và tạo ra
một tình hình rất căng thẳng cho ta và cho khu vực. Rất tiếc là trong một thời gian dài ta đã
không nhìn thấy những chuyển biến đó. Trước hết và điều quan trọng nhất ta đã chậm nhìn
thấy ý đồ tập hợp lực lượng mới chống ta để kịp thời có chính sách và chiến lược thoả đáng.
Mặt khác, cho đến nhiều năm sau chiến tranh, ta vẫn nhìn tình hình khu vực theo cái nhìn cũ.
Vì vậy, ta vẫn coi Hoa Kỳ là kẻ thù trực tiếp và nguy  hiểm đang lăm le thi hành “kế hoạch
hậu chiến” chống ta và ít quan tâm đến việc bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ, đòi bình
thường hoá có điều kiện là Hoa Kỳ phải thi hành điều 21 của Hiệp định Paris về Việt Nam,
thực chất là đòi Hoa Kỳ bồi thường chiến tranh, một điều mà một siêu cường như Hoa Kỳ
không thể nào chấp nhận được. Thiết nghĩ, nếu hồi đó ta có cái nhìn tỉnh táo hơn, thức thời
hơn đối với tình hình thế giới và khu vực, thấy rõ và cân bằng hơn hai nhiệm vụ chiến lược
của ta sau chiến tranh là xây dựng và bảo vệ đất nước, có lẽ ta đã có một chính sách đối
ngoại sáng suốt hơn, và con đường bình thường hoá có lẽ sẽ không chông gai đến thế.
Thứ hai, quá trình bình thường hóa quan hệ Việt - Hoa Kỳ, đặc biệt là những nỗ lực
bình thường hóa không thành công thời kỳ 1977 – 1978 cung cấp cho ta một bài học quan
trọng về chính trị nội bộ của nước Hoa Kỳ. Bình thường hoá quan hệ với Việt Nam đã từng
là một vũ khí chính trị trong cuộc đấu tranh quyền lực giữa ngành hành pháp và lập pháp
Hoa Kỳ trong thời kỳ 1977 – 1978. Bài học của quá trình bình thường hoá quan hệ với Việt
25

Nam cho ta thấy một thực tế là chính sách của Hoa Kỳ đối với Việt Nam có tính phân tán và
không tập trung cao. Mặc dù trong quốc hội Hoa Kỳ có một sự ủng hộ lớn của cả hai Đảng
đối với việc tăng cường quan hệ với Việt Nam, quan hệ hai nước từ khi được bình thường
hoá đầy đủ đã trở nên phức tạp hơn và Quốc hội sẽ ngày càng lớn tiếng về vấn đề nhân
quyền.
Thứ ba, ở nhiều khía cạnh, Việt Nam vẫn luôn là một điểm nhạy cảm đối với Hoa Kỳ.
Hay nói một cách khác, cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ ở Việt Nam là một ràng buộc lịch sử
và cũng là một gánh nặng lịch sử trong mối quan hệ Việt Hoa Kỳ. Nó đã là một nhân tố chi
phối quan hệ Việt - Hoa Kỳ trong suốt hơn một phần tư thế kỷ kể từ khi cuộc chiến tranh của
Hoa Kỳ ở Việt Nam kết thúc và nó sẽ tiếp tục là một nhân tố chi phối quan hệ Việt - Hoa Kỳ
trong nhiều năm tới.
Thứ tư, quá trình bình thường hóa quan hệ Việt - Hoa Kỳ cho thấy bài học quan hệ
giữa một nước lớn và một nước nhỏ. Là một siêu cường với những lợi ích toàn cầu, Hoa Kỳ
luôn nhìn quan hệ với Việt Nam từ góc độ lợi ích chiến lược, qua lăng kính quan hệ của Hoa
Kỳ với các nước lớn. Hoa Kỳ coi Việt Nam là một lực lượng quan trọng, và cùng với các
nước ASEAN, có khả năng đối trọng với một Trung Quốc đang lớn mạnh. Trên thực tế,
những tính toán chiến lược này của Hoa Kỳ đối với Việt Nam đã là một trong những nguyên
nhân thúc đẩy bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và việc Hoa Kỳ ủng hộ Việt Nam gia
nhập ASEAN.
Và bài học cuối cùng và cũng là bài học quan trọng nhất  “Bài học Mới rút ra từ câu
chuyện Cũ”, đó là vấn đề cái nhìn thời cuộc của nền ngoại giao Việt Nam, vấn đề thấy rõ và
cân bằng các nhiệm vụ chiến lược đúng đắn tương xứng với tình hình quốc tế và khu vực.
Như đã nói ở trên, nỗ lực bình thường hóa quan hệ Việt - Hoa Kỳ năm 1977 có thể đã đi đến
thành công nếu chúng ta có cái nhìn sáng suốt và thông thoáng hơn trong mối quan hệ giữa
Việt Nam và Hoa Kỳ cũng như các nước trong khu vực lúc bấy giờ. Áp dụng bài học đã xa
xưa ấy vào thời điểm hiện nay, khi Việt Nam đang đứng trước những thách thức còn mới mẻ
khi bước vào WTO chưa lâu, khi Việt Nam cùng toàn thế giới đối mặt với cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu đang hoành hành, Việt Nam liệu nên có những bước đi mới mẻ thế nào
trong quan hệ với Hoa Kỳ? Bài phát biểu của Thượng Nghị sĩ John McCain trong chuyến
26

viếng thăm Việt Nam mới đây có đề cập: “Giờ đây, công việc bình thường hóa quan hệ khó
khăn nhất đã lùi lại phía sau. Tôi tin rằng, đã đến lúc chúng ta chuyển từ việc bình thường
hóa quan hệ song phương sang hiện đại hoá những liên kết giữa hai nước cho tương xứng
với vị thế ngày càng tăng của Việt Nam ở khu vực và trên thế giới. Chúng ta không nên chỉ
tự thoả mãn với thành công và để cho mối quan hệ hệ ở mức bão hoà. Đã đến lúc cần có
bước đi mới”. Bài học mới đặt ra cho Việt Nam lần này, có lẽ không chỉ dừng lại ở việc giải
quyết vấn đề còn tồn tại, mà còn là cả một lối tư duy trong phương hướng phát triển, có tính
định hướng và làm nền tảng cho sự phát triển của đất nước Việt Nam mai sau. Một bài học
tưởng đã cũ nhưng còn mới như lần này, đối với Việt Nam mà nói, sẽ là một cơ hội, cũng là
một thử thách cần phải đương đầu.
3.2 Triển vọng trong mối quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ trong tương
Trong hơn 25 năm qua, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đã có một bước chuyển biến đặc
biệt, đó là từ “cựu thù sang đối tác", Việt Nam và Hoa Kỳ đã chuyển sang bình thường hóa
quan hệ và phát triển quan hệ lên một tầm cao mới - đối tác toàn diện. Hai bên cũng chia sẻ
nhiều giá trị chung như sự tự do, cởi mở và nhiều vấn đề bao quát.
Từ khi chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, đến nay, quan hệ giữa hai nước đã
chuyển đổi thành công từ đối đầu sang đối thoại, trở thành đối tác toàn diện của nhau trong
các lĩnh vực chính trị - ngoại giao, kinh tế, giáo dục, khoa học công nghệ, an ninh quốc
phòng…với động lực hợp tác ngày càng được củng cố mạnh mẽ hơn, các lĩnh vực hợp tác
ngày càng đa dạng, sâu rộng và hiệu quả.
Trong thời gian qua, lãnh đạo cấp cao hai nước thường xuyên trao đổi các chuyến
thăm và tiếp xúc, với các cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thể chế
chính trị của nhau. Cả hai đảng trong Quốc hội Hoa Kỳ đều ủng hộ thúc đẩy quan hệ với
Việt Nam. Đặc biệt, đến nhiệm kỳ của Tổng thống Donald Trump, ông là Tổng thống Hoa
Kỳ đầu tiên thăm Việt Nam hai lần trong một nhiệm kỳ. Các chuyến thăm này đã tăng cường
sự hiểu biết, tạo đà cho quan hệ, thông qua các tuyên bố để thiết lập các khuôn khổ mà trong
đó quan trọng nhất là quan hệ đối tác toàn diện trên tất cả lĩnh vực giữa hai nước. Vào ngày
27/8/2019, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Daniel Kritenbrink cũng đã có chuyến thăm Nghĩa trang
27

liệt sĩ Trường Sơn và cầu Hiền Lương. Có thể khẳng định, đây là chuyến thăm mang tính
biểu tượng của sự hòa giải và tôn trọng lẫn nhau. 
Ông Eyler -  Giám đốc chương trình Đông Nam Á thuộc Trung tâm nghiên cứu
Stimson (Hoa Kỳ) cho rằng việc chuyển mối quan hệ từ xung đột sang hợp tác khắc phục
hậu quả chiến tranh là thành tựu đáng ghi nhận trong quan hệ song phương. Hai bên đã hợp
tác chặt chẽ nhằm hàn gắn vết thương chiến tranh, giải quyết những vấn đề liên quan đến
chất độc da cam, rà phá bom mìn, hỗ trợ những người tàn tật và những cá nhân, cũng như
cộng đồng bị ảnh hưởng, và tiến trình hợp tác này vẫn cần tiếp diễn. Ngoài ra, Việt Nam và
Hoa Kỳ còn ký kết các hiệp định thương mại Việt – Mỹ. Ông Eyler khẳng định đây là nền
tảng quan trọng của mối quan hệ kinh tế và thương mại, cũng như những lợi ích về an ninh
và quốc phòng mà hai bên đạt được.
Kể từ khi Hiệp định Thương mại Song phương Việt-Mỹ có hiệu lực, kim ngạch xuất
nhập khẩu giữa hai nước đã tăng trưởng khá cao và ổn định. Theo số liệu của Tổng cục Hải
quan Việt Nam, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Mỹ và Việt Nam tăng trung bình 20%
mỗi năm, từ khoảng 41,28 tỷ USD vào năm 2015 lên 58,8 tỷ USD năm 2018 và 75,72 tỷ
USD năm 2019 - cao gấp 75 lần so với con số của năm 2000.
Ở bình diện đa phương, hai nước đã chia sẻ lợi ích chiến lược trong việc duy trì hòa
bình, an ninh, ổn định, hợp tác và trật tự dựa trên luật lệ tại khu vực châu Á-Ấn Độ Dương-
Thái Bình Dương, trong đó có các vấn đề Biển Đông, bán đảo Triều Tiên, hay phối hợp tại
các diễn đàn ASEAN, Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Liên
hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Hai nước cũng đạt những bước tiến ấn tượng trong hợp tác quốc phòng - an ninh, đặc
biệt là hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh, nâng cao năng lực chấp pháp trên biển… Việt
Nam tiếp tục phối hợp tìm kiếm quân nhân Hoa Kỳ mất tích trong chiến tranh tại Việt Nam
(MIA). Đến nay, Việt Nam và Hoa Kỳ đã tổ chức thành công 134 đợt hoạt động chung, hồi
hương gần 1000 bộ hài cốt có liên quan đến MIA, nhờ đó phái Hoa Kỳ đã nhận được 730
trường hợp. 
Hiện hai bên tiếp tục trao đổi, duy trì các cơ chế đối thoại song phương và tiếp xúc tại
các diễn đàn khu vực. Hai bên đã thông qua Kế hoạch hành động 3 năm về hợp tác quốc
28

phòng giai đoạn 2018-2021 và hai nước cũng phối hợp trong hoạt động gìn giữ hòa bình của
Liên hợp quốc, tăng cường hợp tác đối phó hữu hiệu với các nguy cơ về an ninh khu vực và
quốc tế.
Đề cập yếu tố quyết định sự ổn định của mối quan hệ giữa hai nước, ông Eyler đã
nhấn mạnh phía Hoa Kỳ có được những lợi ích về đầu tư, thương mại bởi Việt Nam là một
đối tác kinh tế hàng đầu ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Từ mức 450 triệu USD trong
1995, kim ngạch song phương đã tăng 170 lần lên 76 tỷ USD vào năm 2019. Kinh tế Việt
Nam và Hoa Kỳ ngày càng tăng tính hỗ trợ lẫn nhau. Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu
lớn nhất của Việt Nam, với nhiều mặt hàng có thế mạnh như thủy sản, dệt may, giày dép,
nông sản, viễn thông, hàng không cho đến dịch vụ tài chính, ngân hàng, giáo dục…Ngày
càng có nhiều sản phẩm của Hoa Kỳ được làm tại Việt Nam và các sản phẩm của Việt Nam
đạt chất lượng cao hơn so với các nước khác trong khu vực. Ví dụ: Thanh long là mặt hàng
nông sản chủ lực của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ; hay bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ đã
chính thức công nhận hệ thống kiểm soát an toàn thực phẩm cá da trơn của Việt Nam xuất
khẩu sang Mỹ. Điều này giúp cá tra Việt Nam dễ dàng hơn trong việc tiếp cận và mở rộng
thị trường xuất khẩu không chỉ Hoa Kỳ mà còn các thị trường khác.  
Về đầu tư, Hoa Kỳ là nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ 11 tại Việt Nam với hình thức
đầu tư đa dạng. Sau thời gian dài hoạt động hiệu quả, nhiều tập đoàn lớn của Hoa Kỳ mong
muốn mở rộng quy mô đầu tư, giúp Việt Nam từng bước tạo dựng chỗ đứng trong chuỗi
cung ứng khu vực và toàn cầu. Gần đây, mặc dù bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19,
song Việt Nam vẫn tiếp tục thu hút các tập đoàn công nghệ lớn của Mỹ như Google và cả
Apple. Hiện tại, tập đoàn Ford đã quyết định gia tăng năng lực sản xuất bằng việc đầu tư nhà
máy lắp ráp tại Hải Dương; General Electric cũng đã tăng vốn đầu tư vào nhà máy tua bin
gió ở Hải Phòng…
Về du lịch, lượng khách Hoa Kỳ đến Việt Nam tăng đều đặn hằng năm. Năm 2019,
Hiệp hội Du lịch Hoa Kỳ đã bình chọn Việt Nam là một trong 10 điểm đến hấp dẫn nhất thế
giới. Với du khách Hoa Kỳ, Việt Nam đang trở thành điểm đến an toàn, thân thiện, có khả
năng tổ chức sự kiện quốc tế.
29

Ngoài ra, Việt Nam đang đóng vai trò là cầu nối quan trọng giữa Hoa Kỳ với Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), mở ra các hình thức tham gia vào việc phát triển các
vấn đề kinh tế và môi trường trong khu vực.
Để quan hệ giữa hai nước tiếp tục phát triển trong thời gian tới, ngoài hợp tác trong
việc giải quyết hậu quả chiến tranh, hai nước cần thúc đẩy phối hợp nhiều hơn về các vấn đề
giáo dục, y tế và môi trường. Hầu hết các phân tích đều cho rằng cả Hoa Kỳ và Việt Nam
đều phải đối mặt với những tác động của biến đổi khí hậu nghiêm trọng trong tương lai gần.
Hai nước có thể hợp tác cùng nhau để chia sẻ các kinh nghiệm tốt nhất cũng như các nguồn
lực của mình.
Theo ông Eyler, đây chắc chắn là sự hợp tác hai bên cùng có lợi, và Hoa Kỳ có có thể
học hỏi từ Việt Nam, giống như cách Hoa Kỳ đã học hỏi và nhận được hỗ trợ từ Việt Nam
trong cuộc chiến chống Covid-19. 
Qua quá trình hợp tác, Việt Nam có thể tận dụng các khoản đầu tư của Mỹ vào những
ngành, lĩnh vực đặc biệt đang cần để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình. Đó là những ngành
công nghệ cao có thể đem lại giá trị sản xuất cao hơn, chuyển giao các công nghệ quan trọng
trong chiến lược phát triển khoa học, kỹ thuật của Việt Nam; ngược lại Mỹ rất cần hàng hóa
đảm bảo chất lượng, giá thành cạnh tranh như giày da, nông thủy sản của Việt Nam...
Ông Gregory Poling, Giám đốc Tổ chức Sáng kiến minh bạch hàng hải châu Á
(AMTI) thuộc Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS) Hoa Kỳ nói rằng trong
hơn hai thập niên qua, hai nước đã cố gắng xây dựng một mối quan hệ kinh tế chặt chẽ từ
điểm khởi đầu hầu như không có gì, đồng thời đạt được những bước tiến lớn trong việc giải
quyết các di sản chiến tranh và gỡ bỏ lệnh cấm vận buôn bán vũ khí của Hoa Kỳ đối với Việt
Nam. Đặc biệt, trong mối quan hệ tổng thể đó, hợp tác quốc phòng và an ninh, một trong
những lĩnh vực nhạy cảm nhất trong quan hệ giữa hai nước, gần đây đã được thúc đẩy mạnh
mẽ và là động lực chính của mối quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ vào thời điểm hiện tại.
Trong năm 2017, Mỹ đã chuyển giao cho Việt Nam một tàu cảnh sát biển (Việt Nam
đặt tên là tàu Cảnh sát biển 8020 - tàu Cảnh sát biển hiện đại nhất Việt Nam). Đây từng là
tàu thuộc lực lượng Phòng vệ bờ biển Hoa Kỳ, được chính phủ Hoa Kỳ chuyển giao cho
Cảnh sát biển Việt Nam thông qua Chương trình bán trang bị quốc phòng dư thừa (EDA).
30

Tháng 3/2018, lần đầu tiên một tàu sân bay của Mỹ (tàu USS Carl Vinson) đã đến thăm Việt
Nam. Trong vòng 3 năm (1917 - 2020), lực lượng Tuần duyên Mỹ đã chuyển giao 24 xuồng
tuần tra cho Việt Nam.
Bất chấp vẫn còn bất đồng về một số lĩnh vực khác, Hoa Kỳ và Việt Nam có nhận
thức và chia sẻ tầm nhìn chiến lược tương đồng ở khu vực. Đây là lực đẩy hai nước xích lại
gần nhau và điều này vẫn sẽ được tiếp tục duy trì trong tương lai gần.
KẾT LUẬN
Câu chuyện quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ vừa khác biệt vừa đặc biệt so với các mối
quan hệ khác, trải qua đầy đủ các cung bậc thăng trầm, từ chiến tranh, thù địch, cấm vận, đến
hòa giải, tin cậy và phát triển vượt trên kỳ vọng. Hơn 25 năm qua, Việt Nam và Hoa Kỳ đã
đi một chặng đường đầy ý nghĩa khi từng bước vượt qua khác biệt để trở thành đối tác gắn
kết với nhau vì lợi ích chung, mối quan hệ giữa hai nước tiếp tục được củng cố theo đúng
Tuyên bố về Tầm nhìn chung là “gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng,
hướng tới tương lai”.
Trước tình hình thế giới có nhiều thay đổi, Đảng và Nhà nước ta đã có những đổi mới
trong tư duy đối ngoại, đặt mục tiêu tối đa hóa lợi ích dân tộc lên hàng đầu và chủ động
trong việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới. Chúng ta đã chủ động
mạnh dạn trong việc thúc tiến quan hệ chính trị - ngoại giao với Hoa Kỳ thông qua trao đổi
các đoàn ở hầu hết các cấp, các ngành và những chuyến công tác của các nhà lãnh đạo hai
nước. Những cuộc đàm phán tiếp xúc này đã từng bước giúp hình thành được một khuôn
khổ cho mối quan hệ ổn định, lâu dài vì lợi ích và hòa bình của nhân dân mỗi nước và vì sự
ổn định, phát triển ở khu vực và trên thế giới. 
Bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ là một trong những thành công lớn trong chính
sách đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới. Thành công trong việc bình thường hoá quan
hệ ngoại giao Việt - Mỹ năm 1995 mới chỉ là một bước khởi đầu, mặc dù rất quan trọng trên
con đường tiến tới bình thường hoá hoàn toàn quan hệ giữa hai quốc gia Việt Nam – Hoa
Kỳ, nhưng con đường phía trước trong vấn đề chính sách đối ngoại với Hoa Kỳ thì vẫn còn
là một ẩn số. Thời cuộc mới trước mắt vẫn đang thay đổi, những thử thách, khó khăn mới
trước mắt vẫn đang chờ Việt Nam đương đầu. Do vậy, chính sách đối ngoại của Việt Nam
31

cần tìm tòi nhiều hơn nữa những nét mới trong bài học cũ, cần hướng về phía trước để đón
lấy những thời cơ, cơ hội mới cho đất nước. Quá trình bình thường hoá quan hệ Việt-Mỹ có
thể nói đây là một chặng đường dài, đầy chông gai với hàng loạt cuộc đàm phán căng thẳng,
những sự thương lượng, thỏa hiệp, cân nhắc lợi ích quốc gia phức tạp. Tuy nhiên, những
chông gai đó đã đem lại "quả ngọt". Bằng chứng là quan hệ song phương Việt Nam-Mỹ
đang phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết về tất cả mọi mặt và trong tương lai, quan hệ hai
nước sẽ ngày một bền chặt hơn nữa. Việc thiết lập quan hệ bình thường giữa hai nước không
chỉ có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, mà còn có ý nghĩa to
lớn vượt ra ngoài biên giới, đóng góp quan trọng vào củng cố hoà bình, an ninh, chính trị và
hợp tác ở châu Á-Thái Bình Dương nói chung và ở khu vực Đông Nam Á nói riêng. Các vấn
đề như Biển Đông và quan hệ với Trung Quốc, vấn đề mới nổi tại Thái Lan… đã có tác động
cụ thể đến vị thế của Việt Nam tại Đông Nam Á. Do đó, Việt Nam đã và đang trở thành một
nhân tố quan trọng tại Đông Nam Á nói riêng và toàn bộ châu Á nói chung và những xu
hướng tích cực này sẽ tiếp tục được Việt Nam tận dụng nhằm nâng cao vị thế của mình trong
tương lai.
32

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. https://web.archive.org/web/20070218112849/http://www.thanhnien.com.vn/News/
-Event. aspx?EventID=726
2. https://baoquocte.vn/viet-nam-la-cau-noi-quan-trong-giua-hoa-ky-va-asean-
119184.html
https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/nhin-lai-25-nam-quan-he-ngoai-giao-viet-%E2%80%93-
my-1491867213
3. https://baoquocte.vn/viet-nam-hoa-ky-mot-phan-tu-the-ky-vuot-qua-khac-biet-vi-
loi-ich-chung-118968.html
4. https://vietnam.vnanet.vn/vietnamese/viet-nam-hoa-ky-25-nam-mot-chang-
duong/453849.html
5. https://tailieuxanh.com/vn/tlID1598190_tieu-luan-qua-trinh-binh-thuong-hoa-moi-
quan-he-viet-nam-hoa-ky.html?fbclid=IwAR1iqiREqqOW3NyE2e4fyNKoVHFbDGcwX21-
jnjRW_iIlcyCNPWZyvWfR40
6. https://www.kas.de/c/document_library/get_file?uuid=a822eb58-6b84-437f-0450-
70daf3589379&groupId=252038&fbclid=IwAR1lSenSORgpZdX6gwLUBB6fEgEEYVfZp
aSchUQNtmPJpNpdxRej81u8tHg

You might also like