You are on page 1of 21

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.

HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ LUẬT

ՋՋՋՋՋՋՋՋ

TIỂU LUẬN

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LÝ THUYẾT VỀ

VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ

Giảng viên: PGS.TS Đỗ Phú Trần Tình

NHÓM 5

Phan Văn Thái K174030292

Hà Thị Cẩm Tuyên K174030301

Nguyễn Thị Lệ Tuyết K174030302

Nguyễn Thị Cẩm Tú K174030305

Thủ Đức, ngày 18 tháng 4 năm 2019


Mục lục

Lời mở đầu ............................................................................................................... 1


Chương 1: Vai trò của nhà nước trong lịch sử các học thuyết kinh tế. ............. 2
1.Quan điểm nhà nước không can thiệp vào kinh tế........................................ 2
1.1 Adam Smith (1723-1790). ....................................................................... 2
1.2 Jean Baptiste Say (1767-1832). .............................................................. 4
1.3 Leon Walras (1834-1910). ......................................................................... 4
2.Quan điểm đề cao vai trò nhà nước trong nền kinh tế. ................................ 6
2.1 Chủ nghĩa trọng thương. ........................................................................ 6
2.2 Sismonde Sismondi (1773-1842). ........................................................... 7
2.3 John Maynard Keynes (1883-1946). ...................................................... 8
2.4 Karl Marx (1818-1883). .......................................................................... 9
3.Quan điểm chiết trung về vai trò của nhà nước trong nền kinh tế............ 12
3.1 Học thuyết “kinh tế thị trường xã hội”. .............................................. 12
3.2 Paul Anthony Samuelson (1915). ......................................................... 14
Chương 2: Ý nghĩa của việc nghiên cứu.............................................................. 16
Kết luận .................................................................................................................. 18
Tài liệu tham khảo ................................................................................................. 19
Lời mở đầu
Xã hội loài người đã đang trải qua những hình thái khác nhau. Ở mỗi giai đoạn
phát triển của lịch sử loài người đều có những hiểu biết và cách giải thích các hiện
tượng kinh tế xã hội nhất định. Việc giải thích các hiện tượng kinh tế xã hội ngày
càng trở nên hết sức cần thiết. Đối với đời sống kinh tế xã hội loài người. Lúc đầu,
việc giải thích các hiện tượng kinh tế xã hội bằng những hình thức tư tưởng kinh tế
lẻ tẻ rời rạc , về sau mới trở thành những trường phái với những quan điểm kinh tế
có tính hệ thống của những giai cấp khác nhau. Cho đến ngày nay, nhiều trường phái
kinh tế học đã xuất hiện với những đại biểu đưa ra những quan điểm khác nhau để lý
giải các hiện tượng kinh tế xã hội. Nhưng nhìn chung những lý giải này đều xoay
quanh vai trò của nhà nước và thị trường trong nền kinh tế.

Bài nghiên cứu tập trung chủ yếu và ba quan điểm về vai trò của nhà nước trong
nền kinh tế: không can thiệp vào kinh tế, can thiệp, trung dung của các nhà kinh tế
đại diện các trường phái.

1
Chương 1: Vai trò của nhà nước trong lịch sử các học thuyết kinh tế.
1. Quan điểm nhà nước không can thiệp vào kinh tế.
Trường phái cổ điển ra đời với tư tưởng chủ đạo là thực hiện tự do hoạt động, tự do
kinh doanh trong nền kinh tế, nhà nước không nên can thiệp vào nền kinh tế mà chỉ thực
hiện chức năng quản lý hành chính. Quan điểm nhà nước không can thiệp vào kinh tế hay
chủ nghĩa tự do kinh tế bắt đầu từ William Petty. Ông viết: Trong chính sách kinh tế cũng
như trong y học cần phải tính đến những quá trình tự nhiên, không nên dùng hững hành
động cưỡng ức riêng để chống lại những quá trình đó. Song quan điểm nhà nước không
can thiệp vào kinh tế được phát triển đầy đủ nhất ở Adam Smith bằng một ác phẩm nổi
tiếng là “Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân sự giàu có của các dân tộc” xuất bản năm
1776.

1.1 Adam Smith (1723-1790).

Adam Smith với quy luật “ bàn tay vô hình” ông đã trở thành người có tư tưởng coi
trọng yếu tố thị trường, coi trọng các quy luật kinh tế khách quan vào bậc nhất. Và hầu hết
các tư tưởng thị trường tự do sau này đều tiếp thu và phát triển lý luận của ông.

Tư tưởng này chiếm giữ vị trí trung tâm trong học thuyết của A.Smith, nội dung cơ
bản là đề cao vai trò của cá nhân, ca ngợi cơ chế tự điều tiết của kinh tế thị trường, thực
hiện tư do cạnh tranh, ủng hộ sở hữu tư nhân và nhà nước không can thiệp vào kinh tế.

Điểm xuất phát trong nghiên cứu lý luận kinh tế của ông là nhân tố “con người kinh
tế”. Theo ông, xã hội là liên minh những quan hệ trao đổi. Thiên hướng trao đổi là đặc tính
vốn có của con người. Chỉ có trao đổi và thông qua việc thực hiện những quan hệ trao đổi
thì nhu cầu con người mới thỏa mãn nhu cầu. “ Hãy đưa tôi cái tôi cần, tôi sẽ đưa anh cái
anh cần”. Trong quá trình trao đổi, con người bị chi phối bởi lợi ích cá nhân. Mọi
người chỉ biết có tư lợi và chạy theo tư lợi. Trong quá trình theo đuổi lợi ích cá nhân đó,
con người lại bị dẫn dắt bởi một “bàn tay vô hình”. “Bàn tay vô hình” này đã đưa cá nhân
đi từ chỗ đáp ứng một lợi ích khác nằm ngoài những toan tính cá nhân. Đó là lợi ích xã hội.
Vô tình làm lợi cho xã hội mà không biết. Giải quyết lợi ích cá nhân sẽ giải quyết được lợi

2
ích xã hội. “Bàn tay vô hình” chính là các qui luật kinh tế khách quan, tập hợp tất cả các
qui luật kinh tế khách quan lại sẽ hình thành nên một “trật tự tự nhiên”. Để có được sự hoạt
động của trật tự tự nhiên cần phải có những điều kiện nhất định. Đó là sự tồn tại và phát
triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Nền kinh tế phải được phát triển trên cơ sở tự do
kinh tế. Cần thiết phải sự tự do sản xuất, tự do liên doanh, liên kết, tự do mậu dịch. Trên cơ
sở đó hình thành mối quan hệ phụ thuộc vào nhau giữa người và người.

Theo ông, chỉ có phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới có những điều kiện kể
trên. Vì vậy, chỉ có chủ nghĩa tư bản mới là xã hội bình thường được xây dựng trên cơ sỡ
trật tự tự nhiên. Còn các xã hội trước đó là những xã hội không bình thường. Ông cho rằng
nhà nước không nên can thiệp vào nền kinh tế. Ông đề nghị cần phải tôn trọng trật tự tự
nhiên tôn trọng “ bàn tay vô hình”. Hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hoá cần được
phát triển theo tự điều tiết của “bàn tay vô hình”. Nhà nước có chức năng chính là bảo vệ
quyền sở hữu tư nhân, bảo vệ trật tự xã hội, an ninh tổ quốc và đôi khi có thực hiện chức
năng kinh tế khi chức năng này quá sức với doanh nghiệp: xây dựng công cộng, công trình
lớn khác.

Tuy nhiên, để thực hiện các hoạt động nhà nước cần phải có tiền. Vì vậy, hoạt động
chủ yếu của nhà nước là thu và chi ngân sách. Quan điểm của ông thu và chi phải cân bằng.
Ông chủ trương Nhà nước cần chi ít và ủng hộ những chi phí của ngân sách nhà nước có
mang lại lợi ích cho toàn xã hội. Về thu ngân sách Adam Smith là người đặt cơ sở cho chính
sách thuế của nhà nước tư sản. Ông cho rằng, thuế cần phải phù hợp với sức và khả năng
của công dân. Ông ủng hộ thuế gián thu, chống lại thuế trực thu. Ông cũng chủ trương xóa
bỏ thuế quan bảo hộ mậu dịch. Theo ông cần phải xóa bỏ mọi cản ngại đối với ngoại thương
bởi vì tự do thương mại sẽ đem lại lợi ích cho toàn xã hội. Việc thu chi ngân sách của nhà
nước theo Adam Smith là thực hiện chức năng quản lý hành chính của nó. Nhà nước theo
Adam Smith trước sau không nên can thiệp vào nền kinh tế.

Ông khẳng đinh quy luật kinh tế là vô địch, mặc dù chính sách kinh tế nhà nước có
thể kìm hãm hoặc thúc đẩy sự hoạt động của quy luật kinh tế. Như vậy lý thuyết “bàn tay

3
vô hình” của Adamsmith đã đề cập vai trò các quy luật kinh tế khách quan trong điều tiết
nền kinh tế thị trưòng, tự do cạnh tranh của các chủ kinh tế. Coi thi trường tự do là lực
lượng là sức mạnh tự điều tiết sản xuất và tiêu dùng xã hội. Xã hội muốn làm giàu phải có
được phát triển kinh tế trên tình thần tự do.

1.2 Jean Baptiste Say (1767-1832).

Ông - nhà kinh tế thuộc giai đoạn hậu cổ điển, đã cho rằng khủng hoảng kinh tế xảy
ra khi có sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế. Ông chống lại việc thành lập các doanh
nghiệp công cộng bởi vì có sự canh tranh bất bình đẳng của khu vực công cộng. Say quan
niệm rằng nền kinh tế tự do canh tranh nó sẽ tự cân bằng dưới tác động của các quy luật
kinh tế khách quan. Cung sẽ tự tạo ra cầu, sản xuất sẽ tạo ra những nơi tiêu thụ. Tư tưởng
đó dựa trên quan niệm: giá trị của sản oahm63 khi được tạo ra nó sẽ lập tức biến thành thu
nhập cho những người tham gia tạo ra nó. Tổng giá trị sản xuất sẽ bằng tổng thu nhậ, đến
lượt mình tổng thu nhập sẽ gây ra những chi tiêu, Cân bằng giữa sản xuất và tiêu dùng được
thiết lập. Khủng hoảng kinh tế chỉ là hiện tượng nhất thời, nó xuất hiện vì thiếu hàng hóa
trao đổi với hàng thừa. Việc thiếu hàng hóa là do các xí nghiệp nhà nước sản xuất không
đủ cung cấp cho nền kinh tế. Vì vây, để thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, ông chủ trương tự
do hóa nền kinh tế, tư nhân hóa các doanh nghiệp công cộng, bởi vì tư nhân làm được nhiều
hơn và tốt hơn, nền kinh tế từ đó sẽ tự bình quân.

Theo Say, nhà nước nên tránh xa mọi sự can thiệp vào các hoạt động kinh tế, chỉ
nên đảm bảo các chức năng đặc quyền: cung cấp các dịch vụ công cộng như đường xá cầu
cống…, đảm bảo an ninh quốc phòng, trật tự xã hội thông qua quân đội, tư pháp và cảnh
sát và tất cả điều này tạo thuận lợi cho sự làm giàu của các chủ tư bản. Nhà nước có vai trò
xúc tác cho sự phát triển và Say cũng không chủ trương thủ tiêu nhà nước.

1.3 Leon Walras (1834-1910).

Cũng giống như các nhà kinh tế chính trị học tư sản cổ điển, các nhà kinh tế trường
phái tân cổ điển cũng ủng hộ nguyên tắc tự do kinh tế. Đại biểu xuất sắc cho trường phái
tân cổ điển về vai trò nhà nước đối với kinh tế chính là Leon Walras (1834-1910). Ông

4
đã đưa ra lý thuyết về “Cân bằng tổng quát”. Lý thuyết cân bằng tổng quát của Leon Walras
được các nhà kinh tế học tư bản đánh giá cao. Lý thuyết này phản ánh sự phát triển tư
tưởng “Bàn tay vô hình” của Adam Smith về tư tưởng tự do kinh tế.

Theo Warlras, trong cơ cấu nền kinh tế thị trường, có ba loại thị trường chủ yếu: thị
trường sản phẩm, thị trường tư bản và thị trường lao động. Thị trường sản phẩm là nơi mua
bán hàng hóa, tương quan trao đổi giữa các loại hàng hóa là giá cả của chúng. Thị trường
tư bản là nơi hỏi và vay tư bản, lãi suất tư bản cho và là giá cả của tư bản. Thị trường lao
động là nơi thuê mướn công nhân, tiền lương hay tiền công là giá cả lao động. Ba thị trường
này vốn dĩ là độc lập với nhau, nhưng lại được liên kết với nhau bởi các doanh nhân. Doanh
nhân là người sản xuất hàng hóa để bán. Muốn sản xuất doanh nhân phải vay vốn trên thị
trường tư bản, thuê công nhân trên thị trường lao động, trên thị trường này doanh nhân là
sức cầu. Sản xuất được hàng hóa doanh nhân bán nó trên thị trường sản phẩm, ở đây doanh
nhân là sức cung. Để vay tư bản doanh nhân phải trả lãi suất, để thuê công nhân doanh nhân
phải trả tiền lương. Lãi suất và tiền lương được gọi là chi phí sản xuất.

Nếu giá bán hàng hóa trên thị trường sản phẩm cùa doanh nhân cao hơn chi phí sản
xuất, thì anh ta sẽ có lãi, doanh nhân có xu hướng mờ rộng sản xuất và anh ta phải vay thêm
tư bản và thuê thêm công nhân. Như vậy, sức cầu của doanh nghiệp tăng lên làm cho giá
cả tư bản và lao động tăng lên, túc chi phí sản xuất tăng lên. Ngược lại, khi có thêm hàng
hóa, doanh nhân sẽ tăng thêm hàng hóa trên thị trường sản phẩm, do đó giá cả hàng hóa
trên thị trường này sẽ giảm xuống làm cho thu nhập giảm xuống. Khi thu nhập giảm xuống
ngang với chi phí sản xuất, thì cung cầu ở trạng thái cân bằng. Doanh nhân sẽ không có lời
trong việc sản xuất thêm, nên không thuê thêm công nhân và không vay thêm tư bản nữa.
Như vậy giá cả hàng hóa ổn định làm cho lãi suất và tiền lương ổn định, cả ba thị trường
đều đạt trạng thái cân bằng tổng quát.

Điều kiện tất yếu để có cân bằng tổng quát là sự cân bằng giữa thu nhập bán hàng
và chi phí sản xuất. . Trong nền kinh tế tự do cạnh tranh, trạng thái cân bằng này được thực
hiện thông qua sự dao động tự phát của cung cầu và giá cả hàng hóa trên thị trường.

5
Lý thuyết cân bằng tổng quát đã làm yên lòng các nhà tư bản do không có khủng hoảng.
Trong kinh tế học tư bản, lý thuyết này phản ánh sự phát triển tư tưởng “Bàn tay vô hình”
của Adam Smith. Song trên thực tế, trạng thái cân bằng tông quát theo mô hình Leon Walras
là không hề có dưới chủ nghĩa tư bản. Trạng thái cân bằng ấy giống như trạng thái cân bằng
của trao đổi, là một trạng thái lý tưởng và không hiện thực: nó chỉ xảy ra khi nào giá bán
tuyệt đối ngang với giá thành của người sản xuất, và cũng chỉ xảy ra khi nào cung và cầu
thực sự của sản phẩm là tuyệt đối ngang nhau.

Tuy nhiên những tư tưởng của Walras là có ảnh hưởng lớn đến kinh tế học tư sản,
nó là sự phát triển tư tưởng tự do kinh tế của các nhà kinh tế học cổ điển và nó chiếm ví trí
quan trọng trong các giáo trình kinh tế học tư sản hiện đại.

2. Quan điểm đề cao vai trò nhà nước trong nền kinh tế.
2.1 Chủ nghĩa trọng thương.

Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã dược hình thành vào thế kỉ 15 ở các nước
Châu Âu như Anh, Pháp, Hà Lan… và quá trình tích lũy vốn tư bản cũng được thực hiện.
Đẩy nhanh quá trình ra đời của chủ nghĩa tư bản cần phải có sự tác động từ phía nhà nước
với tư cách như “bà đỡ”. Chính vì vậy chủ nghĩa trọng thương rất đề cao vai trò của nhà
nước trong nền kinh tế.

Chủ nghĩa trọng thương quan niệm rằng nhà nước phải quyết định các hoạt động
trong đời sống kinh tế xã hội mới đảm bảo lợi nhuận cho tư bản tư nhân. Theo quan điểm
của chu nghĩa trọng thương nhà nước lúc bấy giờ đã thực hiện một chính sách tiền tệ và
thương mại theo hướng thúc đẩy mạnh tích lũy tiền tệ, thu tiền về cảng nhiều càng tốt,
không cho tiền chạy ra nước ngoài và chính sách thương mai suất siêu. Nhà nước đã đề ra
những luật buộc các thương nhân nước ngoài khi vào trong nước buôn bán thì phải tiêu
dùng hết tiền của mình, không được mang tiền ra mà chỉ mang hàng hóa ra mà thôi. Nhà
nước còn ra lệnh cấm tiêu pha xa xỉ, tiêu dùng hàng xa xỉ nước ngoài và cấm nhập hàng
xa xỉ nước ngoài để giữ tiền lại trong nước. Nhà nước cũng quy định nơi được phép buôn
bán để dễ dàng kiểm tra kiểm soát các hoạt động của thương nhân.

6
Nhà nước của chủ nghĩa trọng thương còn thực hiện hàng rào thuế quan bảo hộ mậu
dịch, đánh thuế cao đối với hàng hạn chế nhập, áp dụng thuế đối với hàng hóa nguyên liệu
và máy móc. Đối với hàng hóa xuất khẩu thì nhà nước cũng áp dụng mức thuế thấp để
khuyến khích xuất khẩu. Ngoài ra nhà nước còn giúp đỡ các thương nhân trong nước bằng
các phương tiện vật chất và tài chính khi họ tham gia thương mại quốc tế. Nhà nước còn
cấm xuất khẩu nguyên liệu thô, để dành nguyên liệu lại trong nước cho việc phát triển công
nghiệp chế biến hàng xuất khẩu.

Đồng thời nhà nước cũng quy định tỷ suất cho vay thấp để khuyến khích các nhà tư
bản phát triển công nghiệp sản xuất kinh doanh. Nhà nước cũng quy định tỷ giá hối đoái,
cấm trả cho người nước ngoài cao hơn mức quy định của nhà nước. Nhờ các chính sách
trên mà các nước theo chủ nghĩa trọng thương đã tích lũy được một lượng của cải, tiền tệ
nhất định, công nghiệp chế biến của các nước đó cũng phát triển đến một trình độ nhất định.

2.2 Sismonde Sismondi (1773-1842).

Trước những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản như khủng hoảng, thất nghiệp, lạm
phát,… Sismondi đề nghị nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế nhằm điều tiết quan hệ
phân phối công bằng hơn để bảo vệ giai cấp tiểu tư sản. Ông coi nhà nước là đại diện của
lợi ích tất cả giai cấp, có khả năng điều hòa xã hội.

Ông viết: “ Chúng tôi coi chính phủ là người bảo vệ kẻ yếu chống lại kẻ mạnh, người
bảo vệ cho những ai không thể tự bảo vệ được, và là người đại diện thường xuyên, nhưng
bình tĩnh cho lợi ích của mọi người chống lại lợi ích nhất thời nhưng say sưa của mỗi
người”. Theo ông, sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế phải trở thành mục đích chung
của các dân tộc. Như vậy, ông đã đặt nền móng cho các lý thuyết về sự điều tiết của nhà
nước sau này.

Tóm lại, Sismondi là một nhà cải cách, chống lại sự bất công xã hội và yêu cầu nhà
nước bảo vệ người nghèo. Sismondi cũng là người chống lại tư tưởng về “bàn tay vô hình”
của A.Smith và muốn thiết lập sự can thiệp bằng “ bàn tay hữu hình” của nhà nước vào

7
kinh tế. Tuy nhiên, về căn bản Sismondi khác với những người theo chủ nghĩa Marx vì ông
không có phạm trù kinh tế quốc dân.

2.3 John Maynard Keynes (1883-1946).

Keynes đã đề cao vai trò của nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế. Theo
Keynes cần phải có tác động điều tiết của nhà nước để kích thích “tổng cầu” của nền kinh
tế bằng nhiều cách: tác động tăng nhu cầu nhà nước; tăng cường nhu cầu đầu tư nhà nước
để tạo công ăn việc làm cho khu vực công cộng nhằm cải thiện phúc lợi xã hội; in thêm
tiền cho lưu thông để hạ lãi suất nhằm khuyến khích đầu tư tư nhân; tạo ra lạm phát có
mức độ để kích thích tiêu dùng…

Trong logic phân tích của mình, Keynes cho rằng để thoát khỏi khủng hoảng và
thất nghiệp các nước tư bản chủ nghĩa cần phải có sự can thiệ của nhà nước vào nền kinh
tế để tăng tổng cầu, gia tăng việc làm và thu nhập.

Khuyến nghị chính sách can thiệp của nhà nước vào kinh tế gồm những vấn đề cơ bản
sau đây:

Một là, nhà nước phải duy trì cầu đầu tư, mở ra các công trình đầu tư lớn. Để duy
trì tổng cầu nhà nước phải sử dụng ngân sách để kích thích đầu tư của tư nhân và nhà
nước thông qua: các đơn đặt hàng của nhà nước, hệ thống mua của nhà nước, thực hiện
nhiều sự trợ cấp tài chính, tín dụng từ ngân sách nhà nước để tạo sự ổn định về lợi nhuận
và kích thích sự ham muốn đầu tư tư nhân...

Hai là, Keynes chủ trương sử dụng chính sách tài chính tín dụng và lưu thông tiền
tệ. Mục đích là để tạo lòng tin và sự lạc quan cho các nhà đầu tư. Từ đó, doanh nhân tích
cực đầu tư. Để đạt được mục đích này, ông chủ trương tăng thêm khối lượng tiền đưa vào
lưu thông để giảm cho vay, khuyến khích nhà kinh doanh mở rộng quy mô vốn vay, mở
rộng đầu tư tư bản. Ông chủ trương tạo “tạo lạm phát có kiểm soát” để tăng giá cả hàng
hóa. Trong điều kiện chi phí sản xuất không thay đổi, các nhà kinh doanh sẽ thu được lợi
nhuận nhiều hơn. Vì vậy lạm phát là biện pháp hữu hiệu kích thích thị trường mà không

8
gây ra sự nguy hiểm. Đề bù đắp cho thâm hụt ngân sách, Keynes chủ trương in thêm tiền
giấy để cấp phát cho ngân sách hoạt động, mở rộng đầu tư nhà nước và đảm bao chi tiêu
cho chính phủ. Để thực hiện sự điều tiết kinh tế, ông chủ trương đánh thuế. Đối với người
lao động cần thiết phải tăng thuế để bớt một phần tiết kiệm từ thu nhập của họ, đưa vào
ngân sách nhà nước để mở rộng đầu tư. Đối với nhà kinh doanh, ông chủ trương giảm thuế
để nâng cao hiệu quả của tư bản, khuyến khích nhà kinh doanh đầu tư phát triển.

Ba là, chính sách việc làm. Để nâng cao tổng cầu và việc làm, Keynes chủ trương
khuyến khích mọi hoạt động đầu tư để tạo việc làm. Theo ông, đầu tư vào lĩnh vực nào
cũng tốt miễn tạo ra việc làm. Kể cả những hoạt động đầu tư cho sản xuất vũ khí, chạy đua
vũ trang, quân sự hóa nền kinh tế. Có việc làm sẽ dẫn đến tăng thu nhập, tăng tiêu dùng và
cuối cùng chống được khủng hoảng kinh tế. Ông cũng chủ trương xây dựng một cơ chế
phối hợp giữa các nước để chống lại khủng hoảng kinh tế mang tính chất toàn cầu.

Bốn là, Keynes chủ trương khuyến khích tiêu dùng cá nhân đối với mọi tầng lớp, kể
cả người lao động, doanh nhân và nhà tư bản. Nhưng những biện pháp đó của ông không
đạt được mục đích vì tăng thuế, chính sách “ướp lạnh tiền lương” và tăng giá cả hàng hóa.

Tóm lại, tư tưởng trung tâm của lí thuyết điều chỉnh kinh tế mà Keynes đưa ra lầ nhà
nước phải có các biện pháp để tăng “cầu có hiệu quả”, kích thích tiêu dùng sản xuất và tiêu
dùng cá nhân, kích thích đầu cơ tư bản, từ đó đảm bảo việc làm, tăng thu nhập, chống khủng
hoảng và thất nghiệp.

2.4 Karl Marx (1818-1883).

Trên cơ sở xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, đã vạch ra con đường
cách mạng vô sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; đó là cướp chính
quyền, thực hiện triệt để cuộc cải cách kinh tế, tiêu diệt sự thống trị của giai cấp tư sản về
kinh tế… Sử dụng những biện pháp “tước đoạt những kẻ đi tước đoạt” như: tước đoạt sở
hữu ruộng đất; thuế tiến bộ cao; thay quyền thừa kế; tịch thu tài sản kẻ bỏ chạy; tập trung
tín dụng vào tay nhà nước; tập trung tất cả phương tiện vận tải vào tay nhà nước; nâng số
lượng xí nghiệp nhà nước; thực hiện nghĩa vụ lao động đối với mọi người; thống nhất nông
9
nghiệp với công nghiệp; giáo dục xã hội không mất tiền. Nhà nước có trách nhiệm và nghĩa
vụ quản lý điều hành sự hoạt động của nền kinh tế thông qua quá trình kế hoạch hóa hoàn
toàn nền kinh tế, làm cho nền kinh tế phát triển một cách có kế hoạch, cân đối, hạn chế
những cơn xáo trộn: khủng hoảng, lạm phát, thất nghiệp,… như trong nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa.

Theo quan điểm của Karl Marx, nhà nước chỉ tồn tại trong một điều kiện kinh tế -
xã hội nhất định, trong một xã hội còn tồn tại các giai cấp khác nhau. Khi xã hội loài người
tiến đến một xã hội không có sự phân chia giai cấp, không có sự phân biệt giữa công nghiệp
và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn,… thì lúc đó xã hội không cần có nhà nước,
nhà nước lúc đó sẽ tự tiêu vong. Của cải xã hội sẽ do một cơ quan chung của xã hội quản
lý và phân phối theo nguyên tắc làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu. Đó là xã hội cộng
sản tương lai, một xã hội tốt đẹp, mọi người điều bình đẳng với nhau, không phân hóa giàu
nghèo, không đấu tranh giai cấp, không tranh giành quyền lực, không có chiến tranh. Xã
hội đó có một năng suất lao động xã hội rất cao, cao hơn chủ nghĩa tư bản hiện đại nhiều
lần, dựa trên một trình độ khoa học kỹ thuât hiện đại, chỉ cần một phần thời gian lao động
đã đủ tạo ra một lượng của cải khổng lồ đủ để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của mọi
thành viên trong xã hội. Xã hội đó sẽ không cần nhà nước, nền kinh tế của xã hội đó sẽ
không dựa trên nền sản xuất hàng hóa mà việc phân phối sẽ tiến hành trực tiếp cho các
thành viên xã hội, không cần thông qua thị trường.

Theo Marx-Lê Nin, bất cứ nhà nước nào cũng có vai trò kinh tế, song ở một chế độ
xã hội nhất định, vai trò của nhà nước trong nền kinh tế có biểu hiện thích hợp với chế độ
xã hội đó.

Các nhà nước trước chủ nghĩa tự bản độc quyền nhà nước, vai trò kinh tế chỉ dừng
lại ở việc điều tiết bằng thuế và luật pháp là chử yếu. Ở đây, nhà nước chưa ở bên trong quá
trình sản xuất mà ở bên ngoài, bên trên theo cách nói của Ănghen. Để thực hiện nhiệm vụ
xây dựng, nhà nước vô sản phải hoàn thành việc tước đoạt giai cấp tư sản, phát triển mạnh

10
các lực lượng sản xuất, củng cố kỷ luật lao động mới: nâng cao năng suất lao động được
xem là nhiệm vụ cơ bản

Đến chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, với sự xuất hiện của khu vực sở hữu nhà
nước, làm cho nhà nước tư bản bắt đầu có vai trò kinh tế mới. Nhà nước này ngoài việc can
thiệp điều tiết nền sản xuất xã hội thông qua thuế và luật pháp còn có vai trò tổ chức quản
lý các xí nghiệp thuộc kinh tế nhà nước.

Chỉ đến nhà nước Xã hội Chủ nghĩa- nhà nước của dân, do dân, vì dân, mới xuất
hiện vai trò kinh tế đặc biệt và mới mẻ trong lịch sử phát triển. Vai trò này đã được hoàn
thiện hơn, điểm mới được quyết định ở đây là sự khác nhau về tích chất nhà nước.

Trong nền kinh tế hàng hóa vận động theo cơ chế thị trường, bên cạnh mặt tích cực
chủ yếu của nó, không tránh khỏi những khuyết tật vốn có: thất nghiệp, phá sản, lạm phát,
khuảng hoảng,… vai trò quản lý của nhà nước sẽ góp phần vào việc khắc phục những
khuyết tật, phát huy mặt tích cực của kinh tế hàng hóa là một tất yếu khách quan.

Về bản chất Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để
trấn áp một giai cấp khác, là bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với
giai cấp khác, là cơ quan quyền lực của một giai cấp đối với toàn xã hội, là công cụ
chuyên chính của một giai cấp.

Theo chủ nghĩa Mác thì không có và không thể có nhà nước đứng trên các giai cấp
hoặc nhà nước chung cho mọi giai cấp. Nhà nước chính là một bộ máy do giai cấp thống
trị về kinh tế thiết lập ra nhằm hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức của chúng đối với quần
chúng lao động. Giai cấp thống trị sử dụng bộ máy nhà nước để đàn áp, cưỡng bức các giai
cấp khác trong khuôn khổ lợi ích của giai cấp thống trị. Đó là bản chất của nhà nước theo
nguyên nghĩa, tức nhà nước của giai cấp bóc lột. Theo bản chất đó, nhà nước không thể là
lực lượng điều hòa sự xung đột giai cấp, mà trái lại, nó càng làm cho mâu thuẫn giai cấp
ngày càng gay gắt. Cũng theo bản chất đó, nhà nước là bộ máy quan trọng nhất của kiến
trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp.

11
Cũng theo những người Mác-xít, tất cả những hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội
do nhà nước tiến hành, xét cho cùng, đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Thực
tế lịch sử đã chứng minh rằng, cho dù được che giấu dưới hình thức tinh vi như thế nào,
cho dù có bị khúc xạ qua những lăng kính phức tạp ra sao, nhà nước trong mọi xã hội có
giai cấp đối kháng cũng chỉ là công cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.

3. Quan điểm chiết trung về vai trò của nhà nước trong nền kinh tế.
3.1 Học thuyết “kinh tế thị trường xã hội”.

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa phát xít Đức về mặt lý luận và thực tiễn
tỏ ra không còn hiệu quả. Các nhà kinh tế Đức ủng hộ chủ nghĩa tự do mới, trong đó có lý
thuyết về kinh tế thị trường xã hội.

Lý thuyết “Kinh tế thị trường xã hội” có những nguyên tắc cơ bản:

Thứ nhất, nền kinh tế thị trường xã hội là một nền kinh tế thị trường có mục tiêu, kết
hợp nguyên tắc tự do với nguyên tắc công bằng xã hội. Nó khuyến khích và bảo vệ lợi ích
cá nhân, cơ sở của mọi hoạt động kinh tế, chính trị. Đồng thời, nó hạn chế những tiêu cực
của nền kinh tế thị trường như: lạm phát, thất nghiệp, nghèo khổ…

Thứ hai, nền kinh tế thị trường xã hội thể hiện qua sáu tiêu chuẩn sau: Quyền tự do
cá nhân, công bằng xã hội, quá trình kinh doanh theo chu kỳ, chính sách tăng trưởng kinh
tế, chính sách cơ cấu, bảo đảm tính tương hợp của thị trường. Các tiêu chuẩn trên bổ sung
cho nhau và kết hợp với nhau để tạo nên nền kinh tế thị trường xã hội

Các chức năng cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường xã hội. Canh tranh có hiệu
quả được xem là một yếu tố trung tâm và không thể thiếu được trong khinh tế thị trường xã
hội. Nó có chức năng sau: Một là, sử dụng nguồn tài nguyên một cách tối ưu. Hai là, khuyến
khích tiến bộ kỹ thuật. Ba là, phân phối thu nhập lần đầu. Bốn là, thỏa mãn một cách đầy
đủ nhu cầu của người tiêu dùng. Năm là, điều chỉnh nền kinh tế một cách linh hoạt. Sáu là,
sự kiểm soát sức mạnh kinh tế. Bảy là, sự kiểm soát sức mạnh chính trị. Tám là, quyền tự
do lựa chọn và hành động cá nhân.

12
Như vậy, cạnh tranh có tác dụng rất quan trọng. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển
của nền kinh tế thị trường lại có các yếu tố đe dọa sự canh tranh. Những nhân tố đó bao
gồm: những nguy cơ do chình phủ gây ra như hoạt động hành chính, hoạt động thương
mai…: cũng có thể do tư nhân gây ra như hình thành các công ty độc quyền, sự thỏa thuận
giữa người sản xuất và người tiêu thụ, sự hình thành các doanh nghiệp có sức mạnh thị
trường, phân biệt đối xử với các bạn hàng…

Vù vậy, cần phải có những biện pháp để bảo vệ cạnh tranh. Ở Đức người ta thành
lập các tổ chức chống độc quyền.

Yếu tố xã hội trong nền kinh tế thị trường xã hội.

Trong nền kinh tế thị trường xã hội, yếu tố xã hội có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nó
nâng cao mức sống của các nhóm dân cư có thu nhập thấp, bảo vệ tất cả các tầng lớp dân
cư trước những rủi ro.

Để đạt dược các mục tiêu kinh tế trên, các công cụ sau đây được sử dụng: sự tăng
trưởng kinh tế; phân phối thu nhập công bằng; bảo hiểm xã hội, phúc lợi xã hội, các biện
pháp khác.

Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế xã hội. Vai trò này được thực hiện qua hai
nguyên tắc: nguyên tắc hỗ trợ, nguyên tắc tương hợp.

+ Nguyên tắc hỗ trợ: là nguyên tắc chủ đạo. Nó xác định sự can thiệp của nhà nước
vào nền kinh tế ở mức độ nào. Sự hỗ trợ của nhà nước trước hết phải bảo vệ và khuyến
khích các yếu tố cơ bản của nền kinh tế thị trường xã hội: cạnh tranh có hiệu quả; ổn định
tiền tệ; sở hữu tư nhân…Thứ đến nó phải bảo đảm an ninh và công bằng xã hội.

+ Nguyên tắc tương hợp: là việc nhà nước tạo ra sự hài hòa giữa các chức năng của
nhà nước và thị trường, nghĩa là nếu nhà nước quyết định can thiệp thì phải thực hiện sao
cho phù hợp nhất với cơ chế thị trường.

13
Ví dụ: Đối với chính sách sử dụng nhân công: để tạo ra công ăn việc làm, nhà nước
có thể khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thay vì các doanh nghiệp
lớn.

Đối với chính sách tăng trưởng: để thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế nhà nước có thể
hỗ trợ cho một chương trình phát triển của một vùng thay vì trợ giúp cho một ngành hoặc
một doanh nghiệp.

Chính sách chống chu kỳ kinh tế: nhà nước sẽ mua thật nhiều trong giai đoạn khủng
hoảng và mua ít trong thời kỳ hung thịnh thay vì giảm thuế, bởi vì giảm thuế thì doanh
nghiệp lớn sẽ có lợi hơn các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Chính sách thương mại: trách sử dụng các biện pháp bảo hộ mậu dịch.

Tóm lại, “Kinh tế thị trường xã hội” là chấp nhận quy tắc: “ Sử dụng thị trường nhiều
đến mức cho phép, sử dụng chính phủ nhiều đến mức cần thiết”. Nếu chính phủ can thiệp
thì phải làm cho sự can thiệp tương hợp với hệ thống thị trường.

3.2 Paul Anthony Samuelson (1915).

Nếu các nhà kinh tế cổ điển và tân cổ điển say sưa nói về “bàn tay vô hình” và “cân
bằng tổng quát” còn trường phái Keynes và Keynes mới say sưa với “ bàn tay nhà nước”
thì Samuelson chủ trương phát triển kinh tế phải dựa vào cà “ hai bàn tay” nghĩa là kết hợp
cả cơ chế thị trường với cơ chế điều tiết của nhà nước. Ông cho rằng “ điều hành một nền
kinh tế không có chính phủ hoặc thị trường cũng như vô tay bằng một bàn tay”.

Theo Samuelson, cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế, trong đó, cá
nhân người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định
ba vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế là: sản xuất cái gì?,Như thế nào? Cho ai? Cơ chế
thị trường “không phải là một hỗn hợp mà là một trât tự kinh tế”.

Thị trường là một quá trình, trong đó người mua và người bán tác động qua lại lẫn
nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hóa.

14
Do đó, nói đến cơ chế thị trường và thị trường là nói tới hàng hóa, người bán, người
mua và giá cả hàng hóa. Điều đó cũng có nghĩa nói tới cung cầu hàng hóa. Cung thay đổi
để xác định giá cả thị trường đồng thời sự biến động của giá cả thị trường cũng làm cho
trạng thái cân bằng cung cầu hàng hóa thường xuyên thay đổi. Đó cũng chính là nội dung
của quy luật cung cầu hàng hóa.

Theo Samuelson, nền kinh tế thị trường chịu sự điều khiển của hai ông vua: người
tiêu dùng và kỹ thuật. Người tiêu dùng thống trị thị trường vì họ tiêu dùng các hàng hóa mà
các doanh nghiệp sản xuất ra, họ bỏ phiếu bằng đô la. Đồng thời người tiêu dùng chịu sự
hạn chế cũa kỹ thuật. Nhu cầu tiêu dùng còn chịu theo sự cung ứng của người kinh doanh.
Vì người sản xuất còn chịu sự chi phối của chi phí sản suất. Họ có thể bỏ lĩnh vực này để
chuyển sang lĩnh vực khác để sản xuất. Ở đây, thị trường đóng vai trò môi giới trung gian
hòa giải sở thích người tiêu dùng và hạn chế của kỹ thuật.

Theo ông, trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận đóng vai trò là động lực chi phối
hoạt dộng của người kinh doanh. Môi trường cạnh tranh là môi trường chủ yếu của kinh tế
thị trường.

Kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật. Để hạn chế những khuyết tật của kinh
tế thị trường cần có các tác động nhất định của chính phủ.

Theo Samuelson, chính phủ trong nền kinh tế thị trường có các chức năng cơ bản:

Thứ nhất, thiết lập khuân khổ pháp luật. Ở đây, chính phủ đề ra các quy tắc mà mọi
người, kể cả chính phủ, phải tuân theo.Nó bao gồm các quy định về tài sản, các quy tắc về
hợp đồng, các điều luật để xác định môi trường kinh tế…

Thứ hai, sửa chữa những thất bại của thị trường để thị trường hoạt động có hiệu quả.
Ở đây chính phủ phải can thiệp để hạn chế độc quyền nhằm đảm bảo cho cạnh tranh có hiệu
quả…

Thứ ba, bảo đảm sự công bằng. Nền kinh tế thị trường tất yếu dẫn đến phân hóa và
bất bình đẳng. Vì vậy phải có chính sách phân phối thu nhập của chính phủ, mà công cụ
15
chủ yếu là thuế thu nhập lũy tiến để đánh vào người có thu nhập cao lớn hơn người có thu
nhập thấp, đồng thời có chính sách hỗ trợ thu nhập để giúp người già, tàn tật, thất nghiệp…

Thứ tư, ổn định kinh tế vi mô. Chính phủ sử dụng các chính sách tiền tệ, tài chính
tác động tới chu kỳ kinh doanh, giải quyết thất nghiệp, chống trì trệ, suy thoái, lạm phát…

Để thực hiện các chức năng trên, chính phủ sử dụng các công cụ là thuế, các khoản
chi tiêu của ngân sách và các quy định hay kiểm soát của chính phủ. Khi thực hiện các chức
năng kinh tế, chính phủ phải đưa ra các phương án đề lựa chọn. Nhiều khi sự lựa chọn của
chính phủ là không đúng, nên “bàn tay hữu hình” cũng có khuyết tật. Do vậy phải kết hợp
cơ chế thị trưởng và vai trò điều tiết kinh tế cũa chính phủ thành nền kinh tế hỗn hợp.

Chương 2: Ý nghĩa của việc nghiên cứu.


Việc nghiên cứu vai trò nhà nước trong lịch sử các học thuyết kinh tế vừa có ý nghĩa
về mặt khoa học, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn.

Thứ nhất, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc nghiên cứu vai trò nhà
nước trong nền kinh tế. Vai trò nhà nước trong lịch sử các học thuyết kinh tế là một bộ phận
đối tượng nghiên cứu quan trọng của lịch sử các học thuyết kinh tế. Lịch sử các học thuyết
kinh tế là một bộ môn khoa học độc lập, chiếm vị trí quan trọng trong số các môn khoa học
xã hội. Xuất phát từ việc nghiên cứu vai trò nhà nước trong lịch sử các học thuyết kinh tế
mà sau này phát triển thành bộ môn khoa học xã hội độc lập là môn quản lý nhà nước về
kinh tế.

Thứ hai, việc nghiên cứu vai trò nhà nước trong lịch sử các học thuyết kinh tế giúp
chúng ta hiểu rõ hệ thống quan điểm các lý luận về vai trò nhà nước trong nền kinh tế làm
cơ sở cho việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa của nước ta hiện nay.

Thứ ba, việc nghiên cứu vai trò nhà nước trong nền kinh tế, đặc biệt là lý thuyết về
nền kinh tế hỗn hợp giúp chúng ta nhận thức được những ưu điểm và nhược điểm của “hai

16
bàn tay”. Từ đó chúng ta nhận thức rõ hơn ranh giới tương đối của “bàn tay vô hình” và
“bàn tay hữu hình” để điều tiết hoạt động của nền kinh tế.

Thứ tư, việc nghiên cứu vai trò nhà nước trong lịch sử các học thuyết kinh tế giúp
chúng ta hiểu rõ bản chất của nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay.

Thứ năm, việc nghiên cứu vai trò nhà nước trong lịch sử các học thuyết kinh tế giúp
cho các nhà hoạch định hiểu rõ hơn bản chất sự can thiệp của nhà nhà nước vào nền kinh
tế để có những chính sách phù hợp.

Thứ sáu, trong điều kiện kinh tế Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu vai trò nhà
nước trong lịch sử các học thuyết kinh tế rất thiết để chúng ta có thể nắm vững các chủ
trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong quá trình xây dựng đất nước ta
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.

17
Kết luận
Cho đến nay vấn đề chú trọng vai trò của nhà nước hay vai trò cuả thị trường để phát
triển nền kinh tế vẫn gây nhiều tranh cãi giữa các học thuyết kinh tế, và giữa các quốc gia.
Lựa chọn đường nối đúng đắn để xây dựng nền kinh tế phát triển vưng chắc là vấn đề hết
sức quan trọng đối với mỗi quốc gia.

18
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Sự phát triển của các học thuyết kinh tế PGS TS. Nguyễn Văn Trình.
2. Bài giảng Lịch sử Các học thuyết kinh tế PGS.TS Đỗ Phú Trần Tình.
3. Tài liệu: “Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường từ một số học thuyết
kinh tế cận, hiện đại và vận dung vào Việt Nam.”, TS. Phạm Thị Hồng
4. vi.wikipedia.org : Học thuyết về Nhà nước của Chủ nghĩa Mác-Lênin

19

You might also like