You are on page 1of 10

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Phân tích nguồn của pháp luật kinh tế Việt Nam.


Nguồn của pháp luật kinh tế Việt Nam là tổng hợp tất cả các văn bản luật và các
hình thức khác chứa đựng những gì được xem là pháp luật liên quan đến kinh
doanh.
Nguồn của pháp luật kinh tế Việt Nam bao gồm:
- Văn bản quy phạm pháp luật: Văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành theo thủ tục, trình tự luật định và dưới hình thức nhất định, có chứa đựng
các quy tắc xử sử chung nhằm điều chỉnh một loại quan hệ xã hội nhất định,
được áp dụng nhiều lần trong thực tiễn đời sống và việc thực hiện văn bản đó
không làm chấm dứt hiệu lực của nó. Văn bản quy phạm pháp luật gồm: Văn
bản luật và văn bản dưới luật.
 Văn bản luật là văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành như
Hiến pháp, đạo luật, bộ luật. Văn bản luật có giá trị pháp lý cao nhất là
Hiến pháp năm 2013, ngoài ra các văn bản luật khác: Luật doanh nghiệp
2014, Luật thương mại 2005, Bộ luật dân sự năm 2005 (Bộ luật dân sự
sửa đổi bổ sung mới có hiệu lực năm 2017), Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015, luật phá sản 2014…
 Văn bản dưới luật là văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước
ban hành. Nhưng văn bản này có giá trị pháp lí thấp hơn các văn bản luật.
Bao gồm: Pháp lệnh và nghị quyết của Ủy ban thường vụ quốc hội; Lệnh
và quyết định của Chủ tịch nước; Nghị quyết, nghị định chính phủ, quyết
định chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định, chỉ thị, thông tư của
Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan khác thuộc
Chính phủ; Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp; Quyết định, chỉ
thị của Ủy ban nhân dân các cấp.
- Điều ước quốc tế: Điều ước quốc tế là thỏa thuận bằng văn bản được ký kết nhân
danh Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với
bên ký kết nước ngoài, làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật quốc tế, không
phụ thuộc vào tên gọi là hiệp ước, công ước, hiệp định, định ước, thỏa thuận,
nghị định thư, bản ghi nhớ, công hàm trao đổi hoặc văn kiện có tên gọi khác
(Điều 2 Luật điều ước quốc tế 2016). Có thể kể đến một số điều ước quốc tế:
Công ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế, Công ước Hamburg
năm 1978 của Liên hợp quốc về vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, hiệp
định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ…
Các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có giá trị pháp lý các quy định
của pháp luật Việt Nam (theo nguyên tắc Pacta Sunt Servanda buộc các quốc gia
phải tuân thủ các thỏa thuận, cam kết trong các điều ước quốc tế). Điều 5 Luật
thương mại quy định: “ Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng pháp luật nước ngoài, tập
quán thương mại quốc tế hoặc có quy định khác với quy định của Luật này thì áp
dụng quy định của điều ước quốc tế đó”
- Tập quán thương mại: Là những quy tắc xử sự hoặc thói quen hình thành từ xa
xưa, được thừa nhận rộng rãi trên một vùng lãnh thổ hoặc một lĩnh vực thương
mại có nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ
của các bên. Trong hoạt động kinh doanh, tập quán thương mại thường được áp
dụng và được coi là nguồn bổ sung của pháp luật khi quy phạm pháp luật không
thể bao quát hết các trường hợp. Điều 3 Bộ luật dân sự quy định: "Trong trường
hợp pháp luật không quy định và các bên không có thoả thuận, thì có thể áp
dụng tập quán, nếu không có tập quán thì áp dụng quy định tương tự của pháp
luật. Tập quán và quy định tương tự của pháp luật không trái với các nguyên tắc
của pháp luật Việt Nam". Tập quán thương mại gồm: Tập quán thương mại
trong nước và tập quán thương mại quốc tế
 Tập quán thương mại trong nước là thói quen đã thành nếp trong đời sống
xã hội, trong sản xuất kinh doanh, được cộng đồng nơi có tập quán đó
thừa nhận và làm theo như một quy ước chung của cộng đồng. Điều kiện
áp dụng tập quán thương mại trong nước: (i) Tập quán sẽ không được áp
dụng khi có quy định của pháp luật. Theo Nghị quyết số 04/2005/NQ –
HĐTP ngày 17 - 9 - 2005 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao “Đối với những vấn đề mà đương sự viện dẫn tập quán nhưng đã có
văn bản quy phạm pháp luật quy định, thì toà án phải áp dụng quy định
của văn bản quy phạm pháp luật đó để giải quyết mà không áp dụng tập
quán”. (ii) Tập quán cũng không được áp dụng khi các bên có thoả thuận
khác. (iii) Tập quán chỉ được áp dụng khi không trái với những nguyên tắc
của pháp luật. Theo Nghị quyết số 04/2005/NQ – HĐTP ngày 17 – 9 -
2005 của Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao “Chỉ chấp nhận tập
quán không trái pháp luật, đạo đức xã hội”.
 Tập quán thương mại quốc tế là thông lệ, cách làm lặp đi lặp lại nhiều lần
trong buôn bán quốc tế và được các tổ chức quốc tế có liên quan thừa
nhận. Điều kiện áp dụng tập quán thương mại quốc tế: (i) Tập quán quốc
tế không được áp dụng khi có quy định của pháp luật Việt Nam, điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên điều chỉnh. (ii) Tập quán cũng không
được áp dụng khi các bên có thoả thuận khác. (iii) Tập quán chỉ được áp
dụng khi không trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật. (iiii) Tập
quán quốc tế chỉ được đề cập trong “Quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài” nên có thể hiểu rằng tập quán quốc tế chỉ áp dụng nếu đó quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngoài.
Những tập quán thương mại quốc tế thông dụng nhất là các điều kiện cơ
sở giao hàng do Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) ban hành (các bản
INCOTERMS) và Bản Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng
từ (Uniformes Customs and Practice – UCP) do Phòng Thương mại Quốc
tế (ICC) ban hành.

2. Phân tích các bộ phận cấu thành khung pháp luật kinh tế.
Khung pháp luật kinh tế, theo nghĩa rộng là để chỉ một trật tự pháp luật tương ứng
với một trật tự kinh tế xã hội trong những giai đoạn phát triển cụ thể, bao gồm
những nguyên tắc và định hướng cơ bản của cơ chế kinh tế đã được thể chế hóa,
tổng thể các quy định của Nhà nước tham gia điều chỉnh các quá trình kinh tế và hệ
thống các định chế, thiết chế có liên quan. Theo nghĩa hẹp, khung pháp luật kinh tế
là hệ thống pháp luật kinh tế thực định điều chỉnh các quan hệ liên quan đến quá
trình sản xuất kinh doanh và tổ chức quản lý nền kinh tế nói chung.
Bộ phận cấu thành khung pháp luật kinh tế gồm: Hệ thống pháp luật kinh tế thực
định và hệ thống các định chế thị trường và các thiết chế hành chính tư pháp có liên
quan. Hay nói cách khác khung pháp luật kinh tế bao gồm các quy định pháp luật về
kinh tế và các định chế, thiết chế đảm bảo thực hiện các quy định đó. Các bộ phận
này là những thành tố có tính độc lập tương đối, song luôn tồn tại trong mối liên hệ,
tác động qua lại và ràng buộc lẫn nhau.
- Hệ thống pháp luật kinh tế thực định điều chỉnh toàn bộ quá trình từ đầu tư, sản
xuất đến phân phối trao đổi và các hoạt động tổ chức, quản lý nền kinh tế. Cụ thể
là:
 Bảo đảm sở hữu và tự do kinh doanh (Pháp luật về các hình thức sở hữu,
pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh, pháp luật về sở hữu trí
tuệ, pháp luật về hợp đồng).
 Quy định các loại hình sản xuất kinh doanh (Pháp luật về công ty, pháp
luật về hợp tác xã, pháp luật về tập đoàn , hiệp hội, pháp luật về doanh
nghiệp nhà nước và các loại hình doanh nghiệp khác).
 Điều chỉnh về thị trường yếu tố sản xuất (Pháp luật về đất đai, pháp luật
về thị trường lao động, pháp luật về khuyến khích đầu tư trong nước và
đầu tư nước ngoài, pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán,
pháp luật về ngân hàng và hợp tác xã tín dụng, pháp luật về ngoại hối…).
 Điều chỉnh về các bảo đảm xã hội và môi trường (Pháp luật về bảo hiểm,
pháp luật về lao động, pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng, pháp luật về
môi trường…).
 Giải quyết hậu quả pháp lý (Pháp luật về giải thể, phá sản , pháp luật về
giải quyết tranh chấp kinh tế, pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính và
hình sự trong lĩnh vực kinh doanh).
 Bảo đảm chức năng quản lý của nhà nước (Pháp luật về ngân sách, pháp
luật về kế hoạch hóa, pháp luật về quản lý thị trường, giá cả, xuất nhập
khẩu và tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa)
- Các định chế, thiết chế đặc trưng riêng của nền kinh tế thị trường đóng vai trò là
phương tiện đảm bảo sự vận động và phát triển các quan hệ thị trường, duy trì sự
vận hành của thị trường cũng như liên quan đến việc thực hiện và áp dụng pháp
luật gồm: các định chế thị trường (Sở giao dịch chứng khoán, Công ty môi giới
và phát hành chứng khoán, Quỹ đầu tư, Công ty thuê mua, Công ty kiểm toán
chứng khoán, các Công ty tài chính và Ngân hàng thương mại,…) và các thiết
chế hành chính tư pháp (Tài phán kinh tế gồm Tòa kinh tế, Tòa lao động; Cục
quản lý cạnh tranh).

3. Thực trạng của pháp luật kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
“Khung pháp luật kinh tế là một yếu tố không tách rời cơ chế thị trường. Vì thế có
thể xem khung pháp luật kinh tế là một bộ phận cấu thành cơ chế thị trường”. Cơ
chế thị trường muốn vận hành hoàn chỉnh cần một hệ thống pháp luật nói chung và
lĩnh vực pháp luật kinh tế nói riêng hoàn chỉnh.
Trong 30 năm đổi mới, Quốc hội nước đã 3 lần sửa đổi và ban hành Hiến pháp, sửa
đổi và ban hành trên 150 bộ luật và luật; Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng ban
hành trên 70 pháp lệnh, tạo cơ sở pháp lý cho sự chuyển đổi và vận hành của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó, hệ thống pháp luật kinh tế
Việt Nam đã đạt được những thành tựu sau:
- Hình thành một hệ thống pháp luật kinh tế tương đối đầy đủ để điều chỉnh các
quan hệ pháp luật phát sinh từ thực tiễn của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Cụ thể:
 Trước đổi mới chúng ta chỉ thừa nhận nền kinh tế có 3 thành phần (quốc
doanh, tập thể và cá thể), 3 hình thức sở hữu (toàn dân, hợp tác xã và tư
nhân). Đến nay, pháp luật đã quy định đầy đủ các chủ thể hoạt động trong
nền kinh tế thị trường của Việt Nam bao gồm: doanh nghiệp tư nhân, công
ty TNHH một thành viên, công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty
cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã và doanh nghiệp nhà nước. Ngoài
ra các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nước ngoài cũng được phép hoạt
động kinh doanh ở Việt Nam. Các chủ thể được quy định trong Luật
doanh nghiệp 2014 và Luật hợp tác xã 2012.
 Hành lang pháp lý về kinh doanh ngày càng hoàn chỉnh. Hoàn thiện pháp
luật hợp đồng trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện, tự do hợp đồng và tự chịu
trách nhiệm. Hoàn thiện pháp luật đầu tư với môi trường kinh doanh hấp
dẫn và thông thoáng cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Bộ luật
chung điều chỉnh quan hệ kinh tế là Bộ luật dân sự, ngoài ra các quan hệ
pháp luật chuyên ngành cũng được các luật chuyên ngành quy định như
Luật các tổ chức tín dụng 2010, Luật kinh doanh bảo hiểm 2014, Luật
kinh doanh bất động sản 2014, Luật nhà ở 2014…
 Pháp luật về giá đang từng bước được sửa đổi, bổ sung. Luật giá 2012 và
các văn bản hướng dẫn thi hành tạo ra cơ chế mới trong quản lý nhà nước
phù hợp với hội nhập quốc tế và gia nhập WTO. Giá cả hầu hết các loại
hàng hóa dịch vụ đã vận hành theo giá thị trường, được xác định theo
quan hệ cung cầu. Nhà nước tôn trọng quyền tự định giá của các doanh
nghiệp và chỉ can thiệp đối với các hàng hóa, dịch vụ thuộc sở hữu nhà
nước hoặc do Nhà nước độc quyền, các mặt hàng thiết yếu khi có biến
động giá thất thường. Các chính sách về phụ thu hàng nhập khẩu, trợ giá
xuất khẩu được áp dụng cơ bản phù hợp với các cam kết quốc tế...
 Hệ thống pháp luật về thuế đang hoàn thiện với cơ cấu hiện đại tương tự
các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Pháp luật về thu chi ngân
sách nhà nước năm 2002 được sửa đổi, bổ sung và có hiệu lực vào năm
2017 góp phần vào cải cách tài chính công, cơ cấu lại ngân sách nhà nước,
từng bước lành mạnh nền tài chính quốc gia. Hai hệ thống pháp luật này
hoàn thiện sẽ giúp tăng tiềm lực tài chính quốc gia, giúp thúc đẩy đầu tư
sản xuất, kinh doanh.
 Luật phá sản (1994, 2004 và 2014) ra đời và hoàn thiện giúp giải quyết
các hậu quả pháp lý khi một doanh nghiệp thua lỗ, mất khả năng thanh
toán, bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ và các bên liên quan như người lao
động, nhà nước, giúp doanh nghiệp tăng khả năng tái cơ cấu hoặc rút khỏi
thị trường một cách trật tự, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của
doanh nghiệp.
 Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong thực tiễn hoạt động kinh
doanh cũng được Nhà nước quan tâm thể hiện qua ban hành Bộ luật Tố
tụng dân sự và Luật trọng tài thương mại, theo đó tạo khung pháp lý cho
Tòa án hoặc Trọng tài thương mại là bên thứ 3 giải quyết tranh chấp
thương mại. Ngoài ra Nhà nước tôn trọng quyền tự do lựa chọn hình thức
giải quyết tranh chấp của các bên.
- Hệ thống pháp luật kinh tế hiện hành đã ghi nhận và tạo điều kiện triển khai trên
thực tế những nguyên tắc pháp lý cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Cụ thể là:
 Ghi nhận tự do sở hữu, theo đó các cá nhân, pháp nhân có quyền sở hữu
bất kì tài sản nào trừ các tài sản bị cấm hoặc hạn chế theo pháp luật.
 Ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền tự do kinh doanh thông qua xác
định các ngành nghề bị cấm, các ngành nghề kinh doanh có điều kiện,
ngành nghề nào được tự do kinh doanh mà không cần bất kì điều kiện gì.
Hạn chế sự can thiệp của Nhà nước vào các hoạt động của doanh nghiệp
trừ khi hoạt động đó xâm phạm trật tự công cộng và thuần phong mĩ tục.
 Tự do hình thành giá cả: Giá cả hình thành theo quy luật cung cấp và nhà
nước tôn trọng sự định giá của doanh nghiệp. Nhà nước hạn chế can thiệp
trừ khi có biến động lớn về giá cả các mặt hàng thiết yếu hoặc các hàng
hóa của Nhà nước hoặc Nhà nước độc quyền.
 Khuyến khích cạnh tranh, xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh,
chống cạnh tranh không lành mạnh, chống độc quyền, chống lạm dụng vị
trí thống lĩnh để vi phạm sự cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể kinh
doanh (Luật cạnh tranh 2004).
 Ghi nhận quyền bình đẳng của chủ thể kinh doanh, không phân biệt hình
thức sở hữu, quy mô kinh doanh hay lĩnh vực đầu tư (Hiến pháp 2013, Bộ
luật dân sự 2005, Luật doanh nghiệp 2014…)
 Vai trò điều chỉnh sai lệch thị trường của Nhà nước. Nền kinh tế Việt Nam
hiện nay là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thị trường có
những khuyết tật và cơ chế thị trường có thể bị thất bại trong giải quyết
một số vấn đề như khủng hoảng, đói nghèo, công bằng xã hội, môi trường.
Nhà nước tham gia điều chỉnh thị trường với tư cách là bộ máy quản lý xã
hội, bằng cách: (i) Đưa ra khung pháp lý rõ ràng, nghiêm minh, phù hợp
với cơ chế thị trường; (ii) Kiến tạo và bảo đảm môi trường vĩ mô ổn định,
khuyến khích kinh doanh; (iii) Sử dụng hiệu quả tài chính công, thu chi
ngân sách minh bạch, cung cấp kết cấu hạ tầng cũng như các dịch vụ và
hàng hóa công cộng; (iiii) Giải quyết hài hòa mục tiêu tăng trưởng kinh tế
và mục tiêu đảm bảo công bằng xã hội, hỗ trợ nhóm người nghèo điều
kiện tối thiểu để tham gia thị trường bình đẳng.
 Nhà nước pháp quyền là nguyên tắc cơ bản được quy định trong Hiến
pháp, bao gồm việc bảo hộ thích đáng của pháp luật về các quyền về kinh
tế, tài sản, hợp đồng của công dân; Pháp luật được áp dụng bình đẳng
không phân biệt thành phần kinh tế; Pháp luật phải rõ ràng, minh bạch và
gần gũi với tất cả mọi người.

Sau 30 năm đổi mới, khung pháp luật kinh tế Việt Nam đã có sự hoàn thiện nhất định,
tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế sau:

- Sự thiếu đồng bộ của khung pháp luật kinh tế chưa được hạn chế mà ngược lại
có mặt gia tăng. Quá trình sửa đổi luật từ văn bản luật tới các văn bản dưới luật
không đồng bộ dẫn tới những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, không rõ ràng,
minh bạch, không dễ áp dụng, áp dụng không thống nhất và nhiều vấn đề trong
thực tiễn chưa được điều chỉnh tới. Sự phức tạp diễn ra khi có có các văn bản sau
sửa đổi, bãi bỏ văn bản trước, thậm chí không có sự rà soát tính đồng bộ dẫn đến
ra văn bản đính chính văn bản sửa đổi, ví dụ: Bộ Tài nguyên – Môi trường có
công văn số 181/ĐC-CP ngày 23/10/2009 để đính chính 8 điểm của Nghị định
số 69/2009/NĐ-CP về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư.
- Khối lượng văn bản pháp luật kinh tế còn cồng kềnh dẫn đến thủ tục nhiêu khê,
kéo dài. Nhiều nguyên tắc được quy định trong Hiến pháp và các bộ luật chưa
được thực thi trong các văn bản quy phạm pháp luật. Nhiều đạo luật nội dung
còn chung chung dẫn đến phải ban hành nhiều văn bản dưới luật để hướng dẫn
thi hành. Việc pháp điển hóa hệ thống pháp luật kinh tế chưa hiệu quả, hợp lý.
Ví dụ: Một dự án nhà ở được thực hiện phải chịu ít nhất sự điều chỉnh của 4 Bộ
luật: Luật đất đai, Luật nhà ở, Luật kinh doanh bất động sản và Luật xây dựng,
đó là chưa kể các văn bản dưới luật đi kèm như Luật đất đai 2003 có 73 văn bản
dưới luật đi kèm, Luật nhà ở 2005 có 68 văn bản đi kèm, Luật kinh doanh bất
động sản có 13 văn bản đi kèm, Luật xây dựng có 51 văn bản hướng dẫn thi
hành. Riêng về lĩnh vực bất động sản đã có khoảng 400 văn bản hướng dẫn thi
hành dẫn đến nguyên tắc tự do kinh doanh được quy định trong Hiến pháp
không được thực hiện một cách triệt để, dễ dàng trong thực tiễn.
- Mức độ ổn định của các văn bản pháp luật không cao, thường xuyên phải sửa
đổi, bổ sung. Quy trình sửa đổi luật thường diễn ra chậm, không đáp ứng kịp sự
thay đổi của thực tiễn. Ví dụ: Luật đất đai 2013 đã có hiệu lực từ ngày
01/07/2014 mà đến này một số nghị định hướng dẫn thi hành vẫn đang là dự
thảo, chưa được ban hành như: (i) Nghị định của Chính phủ quy định bổ sung
một số nội dung về thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng
đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; (ii) Nghị định của Chính phủ quy
định về giao dịch điện tử trong lĩnh vực đất đai
- Về mặt nội dụng nhiều quy định không còn phù hợp với thực tế do việc đánh
giá, khảo sát thực tiễn về những vấn đề liên quan chưa thực hiện tốt.
Ví dụ: Quy định vốn pháp định còn tùy tiện, cao thấp khác nhau mà không lý
giải được dẫn đến sự không đồng tình của doanh nghiệp, cụ thể quy định vốn
pháp định đối với hầu hết doanh nghiệp kinh doanh bất động sản không thấp hơn
50 tỉ đồng là không phù hợp với thực tiễn và cản trở doanh nhân trẻ khởi nghiệp.
Một số điều kiện kinh doanh cũng được đưa ra tùy tiện, chưa thuyết phục gây
cản trở quyền tự do kinh doanh đã được ghi nhận trong Hiến pháp, ví dụ: điều
kiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ phải đảm bảo những điều kiện chung về
vốn điều lệ, tư cách người quản lý doanh nghiệp cũng như các điều kiện riêng
khác là không cần thiết bởi mua bán nợ bản chất là thay đổi chủ thể thực hiện
nghĩa vụ trả nợ bằng cách chuyển khoản nợ từ chủ thể này sang chủ thể khác mà
không thay đổi nghĩa vụ trả nợ hay nói cách khác “nợ” chỉ là một loại hàng hóa
thông thường được giao dịch trên thị trường.
- Các thiết chế thực thi pháp luật chậm được xây dựng và hoàn thiện, do đó cũng
có những ảnh hưởng nhất định đến việc thực thi pháp luật kinh tế Việt Nam. Ví
dụ: Hệ thống các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm và đăng ký bất động sản
đang tồn tại một cách phân tán, biệt lập, thiếu sự liên thông và còn yếu kém về
nhiều mặt khác. Chính tình trạng này cũng có ảnh hưởng không tốt đến việc bảo
vệ chủ sở hữu tài sản và đảm bảo sự quản lý của nhà nước đối với các giao dịch
có đối tượng là tài sản tại Việt Nam, nhất là bất động sản.
4. Một số vấn đề đặt ra khi hoàn thiện pháp luật kinh tế Việt Nam.
Những vấn đề đặt ra khi hoàn thiện pháp luật kinh tế Việt Nam là:
- Việc xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế Việt Nam chưa toàn diện, đầy đủ và
sâu sắc bởi kĩ thuật lập pháp còn yếu kém. Các nhà lập pháp chưa xác định được
các vấn đề trọng tâm quan trọng cần hoàn thiện, không đặt các văn bản luật cần
sửa đổi, bổ sung vào mối quan hệ với các văn bản quy phạm pháp luật khác có
liên quan dẫn đến sự chồng chéo, mâu thuẫn, khó áp dụng, không rõ ràng, tạo lỗ
hổng pháp luật. Do đó:
 Cần hoàn thiện kĩ thuật lập pháp như luật sửa nhiều luật, giải thích pháp
luật, đăng ký đạo luật, thống nhất cấu trúc văn bản, kĩ thuật viện dẫn, nhất
quán trong sử dụng thuật ngữ, thời hạn, thời hiệu, thẩm quyền tài phán,…
Cần chấm dứt việc xây dựng pháp luật như hiện hành, theo đó Quốc hội sẽ
chấm dứt hiệu lực của đạo luật được ban hành trước đó, thay vào đạo luật
mới dưới hình thức luật sửa đổi. Ví dụ: Bộ luật dân sự năm 2015 thay thế
cho Bộ luật dân sự 2005. Cách thức xây dựng pháp luật kiểu này gây tốn
kém thời gian, tiền bạc và cản trở việc hệ thống và pháp điển hóa. Do đó
cần thay thế bằng phương pháp luật bổ sung mà không thay thế hoàn toàn,
tương tự như cách hình thành Bộ luật dân sự Pháp tồn tại từ năm 1804 tới
nay, được sửa dổi, bổ sung bằng các đạo luật do Quốc hội ban hành, do đó
vẫn giữ các nguyên tắc cơ bản và tên gọi của nó nhưng nội dung được
thay đổi phù hợp với từng thời kì.
 Kĩ thuật lập pháp, lập quy của Việt Nam đang bộc lộ nhiều thiếu sót, bất
cập dẫn đến xây dựng hệ thống pháp luật không ổn định, thường xuyên
phải sửa đổi, bổ sung. Do đó, để nâng cao kỹ thuật lập pháp, lập quy, cần
tiếp tục đổi mới hoạt động nghiên cứu khoa học, đẩy mạnh nghiên cứu
pháp luật so sánh, tăng cường học tập kinh nghiệm lập pháp, lập quy của
các nước có điều kiện kinh tế, xã hội giống Việt Nam để đảm bảo tính
khoa học, tính hội nhập của pháp luật nước ta với pháp luật của thế giới.
Việc tiếp thu các nghiên cứu khoa học pháp lý về luật kinh tế của các
nước giúp chúng ta không tốn thời gian và công sức, góp phần giúp pháp
luật Việt Nam tương thích với pháp luật các nước trên thế giới, thúc đẩy
quá trình hội nhập khu vực và quốc tế. Những khái niệm cơ bản thuộc
phạm trù khoa học pháp lý đã thông dụng trên thế giới như: “Luật công”
và “Luật tư”, “ Luật chung” và “Luật chuyên ngành”, “ Vật quyền” và
“Trái quyền”, “Trật tự công” và “Lẽ công bằng” … cần được thừa nhận và
mạnh dạn sử dụng, tránh kìm hãm sự phát triển và quá trình hội nhập quốc
tế.
 Để xây một khung pháp luật kinh tế Việt Nam hoàn chỉnh không thể chỉ
thay đổi từng lĩnh vực đơn lẻ mà cần có gắn kết trong tổng thể, tầm nhìn
bao quát, toàn diện, cần đưa ra một chiến lược pháp luật tổng thể để từ đó
hoạch định chương trình xây dựng pháp luật dài hạn. Nhiều bộ luật, đạo
luật chưa có khả năng bao quát tình huống pháp luật dẫn đến sự ra đời
nhiều văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành. Các văn bản dưới luật do
nhiều cơ quan khác nhau ban hành gây ra tình trạng chồng chéo và mâu
thuẫn về nội dung. Cần có cơ chế kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của các
văn bản quy phạm pháp luật.
- Tạo ra một khuôn khổ pháp lý và hệ thống pháp luật nhất quán, đồng bộ và đảm
bảo thực thi trong thực tế, tạo môi trường pháp lý lành mạnh thúc đẩy phát triển
các doanh nghiệp dân doanh trong nước bằng cách:
 Đề cao các nguyên tắc cơ bản quy định trong Hiến pháp và sự nhất quán
trong việc thể hiện nguyên tắc trong các văn bản luật. Cụ thể: loại bỏ các
yếu tố cản trở quyền tự do kinh doanh, tự do sở hữu, cản trở cạnh tranh
lành mạnh, bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh. Đề cao giá trị pháp lý
cao nhất của các văn bản luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội
bằng việc khái quát hóa các quy định nhưng không đưa vào những quy
định chung chung, không rõ ràng. Giảm dần các văn bản dưới luật, khắc
phục tình trạng cồng kềnh, không đồng bộ, khó tiếp cận của hệ thống pháp
luật kinh tế.
 Vấn đề pháp điển hóa, hệ thống hóa, rà soát văn bản pháp luật chưa khoa
học, thường xuyên. Pháp điển hóa có vai trò quan trọng trong công tác xây
dựng luật, góp phần đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống
pháp luật. Nhờ pháp điển hóa có thể loại bỏ được sự chồng chéo và lỗ
hổng pháp luật. Pháp điển hóa pháp luật kinh tế được thực hiện dựa trên
việc phân chia các ngành luật, mô hình hóa hệ thống pháp luật, mối quan
hệ và chức năng của pháp luật kinh tế trong cả hệ thống pháp luật Việt
Nam. Do đó cần tăng cường hoạt động pháp điển hóa.
 Bảo đảm pháp luật kinh tế không chỉ phải phù hợp với thực tiễn Việt
Nam, mà còn phải đảm bảo sự tương thích với pháp luật của các nước trên
thế giới, vì đây là điều kiện quan trọng để thúc đẩy chủ trương hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam
 Bảo đảm sự ăn khớp giữa hệ thống các quy định pháp luật với các thiết
chế đảm bảo việc thực thi pháp luật. Cụ thể: Tăng cường ban hành luật,
xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, tinh thông về nghiệp vụ để
bảo đảm cho pháp luật được thực thi một cách nghiêm túc
 Đẩy mạnh cải cách hành chính: (1) Hoàn thiện các thủ tục hành chính trực
tiếp liên quan đến khu vực doanh nghiệp như thủ tục hoàn thuế, hải quan,
đất đai, xây dựng, công chứng…theo hướng tập trung, đơn giản hoá, thực
hiện chế độ công khai, minh bạch; (2) Hình thành một cơ quan đăng ký
kinh doanh chung cho các loại hình doanh nghiệp, tăng cường năng lực
cho cơ quan này đủ sức chịu trách nhiệm theo dõi tình hình phát triển,
thực hiện “tiền kiểm, hậu kiểm” theo quy định của pháp luật đối với hoạt
động của các loại hình doanh nghiệp đang được xem xét một cách tích
cực; (3) Xử lý nghiêm minh với các hành vi tham nhũng, tham ô, nhũng
nhiễu, hạch sách, gây phiên hà cho doanh nghiệp của các cán bộ, công
chức quản lý nhà nước về kinh tế.
- Việc xây dựng đổi mới khung pháp luật kinh tế phải gắn liền với tạo hành lang
pháp lý an toàn phát triển đồng bộ các loại thị trường: Thị trường hàng hóa, thị
trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường
khoa học, công nghệ…Việc gia nhập các hiệp định song phương và đa phương
đòi hỏi Việt Nam phải hoàn thiện hệ thống pháp luật theo cam kết và phù hợp
với hội nhập quốc tế và khu vực:
 Tiếp tục tự do hóa thương mại trên cơ sở các cam kết song phương, đa
phương. Nghiên cứu, ban hành và tổ chức thực thi các quy định pháp luật
về thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp và thuế chống phân biệt đối
xử; các quy định về thuế quan, hạn ngạch thuế quan…để đảm bảo môi
trường cạnh tranh lành mạnh và bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước. Hoàn
thiện hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật và kiểm dịch động thực vật nhằm góp
phần hạn chế sự tấn công của hàng hóa nhập khẩu từ các nước phát triển.
 Đẩy mạnh việc thực thi Luật bảo vệ người tiêu dùng bằng sự phối hợp liên
ngành giữa các cơ quan hải quan, thuế, quản lý thị trường trong việc kiểm
soát nguồn gốc xuất xứ, mã vạch hàng hóa; có chính sách hỗ trợ kinh phí
để các tổ chức và hội hoạt động nhằm gián tiếp giúp NTD có nơi tương
trợ hữu hiệu; tăng cường các biện pháp hậu kiểm và xử lý những vi phạm
trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch
chung giữa NTD với cá nhân, tổ chức kinh doanh.
 Hoàn thiện Bộ luật lao động theo hướng bảo vệ lợi ích của người lao động
và người sử dụng lao động, xóa bỏ các “lỗ hổng” pháp luật, cụ thể hóa các
quy định luật, tránh ban hành nhiều văn bản dưới luật rườm ra, đáp ứng
các cam kết về lao động trong các Hiệp định thương mại.
 Tập trung, thống nhất và đồng bộ các chính sách về đất đai, quy hoạch,
đầu tư, tài chính, hệ thống hóa các văn bản luật, loại bỏ những văn bản bất
hợp lý để tạo môi trường thông thoáng khuyến khích kinh doanh bất động
sản, đẩy nhanh việc xây dựng các cơ sở pháp lý cần thiết để điều chỉnh và
tạo thuận lợi cho sự vận hành của thị trường bất động sản.
 Mối liên kết, tác động qua lại giữa thị trường tài chính nói chung, thị
trường tiền tệ và thị trường vốn nói riêng còn thiếu chặt chẽ, hệ thống
ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro đòi hỏi sự minh bạch thông tin, hoàn thiện
hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách cho sự hoạt động và phát triển lành
mạnh của thị trường chứng khoán.
 Sớm rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới những văn bản dưới luật
liên quan tới sở hữu trí tuệ cho phù hợp thông lệ quốc tế và tiến trình hội
nhập của Việt Nam. Đổi mới công tác quản lý và tổ chức hoạt động khoa
học và công nghệ theo hướng thương mại hóa. Kiện toàn bộ máy quản lý
nhà nước về tài chính-kế toán trong chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ,
thị trường khoa học và công nghệ nhằm tăng cường đóng góp của khoa
học và công nghệ vào sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội.

You might also like