Academia.eduAcademia.edu
Dịch Thuật và Thế Kỷ 21 0 Dịch Thuật và Thế Kỷ 21 Ngu Yên Ngày nay trên lãnh vực toàn cầu, hầu như học giả về dịch thuật đều đi đến một kết luận: Dịch không có nghĩa là nói những gì giống nhau mà nói khác nhau trong tinh thần văn hóa và kỹ thuật dịch, một cách giống nhau. Đặt câu hỏi một cách khác, dịch đòi hỏi tương đương đến mức độ nào? Và mức tối thiểu của tương đương đòi hỏi cho dịch thuật là bao nhiêu? Mặc dù câu hỏi mang tính cách khoa học, nhưng cần có câu trả lời, vì năm 1998, Bassnett đã từng đặt ra vấn đề, “Khi nào dịch thuật không phải là dịch thuật?” Hermans, năm 1999, nghi vấn “Dịch thuật không định nghĩa.” Những phát triển của dịch trong thế kỷ 21.  Ý nghĩa của tính năng tương đương và sự trung thực vẫn là hai khu vực còn nhiều nghi vấn. Vào cuối thế kỷ 20, Học Thuật Dịch Thuật mở rộng sự nghiên cứu vào văn học dân tộc, văn hóa của sắc dân chậm phát triển; nghiên cứu những vấn đề liên quan đến tư tưởng, đạo 1 đức xã hội như những yếu tố ảnh hưởng đến dịch.  Song song với dịch thuật bởi nhân lực, những chương trình máy dịch cũng phát triển nhanh chóng, nhờ sự tiến bộ lũy tiến của điện tử và máy vi tính. Những thay đổi mới nhất của chương trình dịch điện tử là phương pháp tồn trữ dữ liệu và ráp nhập dữ liệu theo sự đòi hỏi. Những dữ liệu mà Google tàng trữ là những dữ liệu thanh lọc từ sự dịch thuật đã có, đã do con người dịch trước đây, do đó, bản dịch của Google có hiệu quả tốt hơn các chương trình dịch khác trên thị trường. Mặc dù hiện nay kết quả của máy dịch chưa đạt tiêu chuẩn nhưng không ai có thể nói chuyện ngày mai. Câu hỏi đang được nêu ra, có thể nào máy dịch thay thế chỗ người dịch?  Một khuynh hướng khác đang thay đổi, đó là phong cách và bút pháp. Giáo sư Wilfrid Rotgé (2004) phân tích về văn phong trên văn bản ngày nay, đưa đến nhận xét, phong cách mới càng ngày càng quan tâm sự sinh động và dễ hiểu của lời nói. Cá tính của ngôn ngữ giao tiếp thường ngày dùng trở thành ngôn ngữ hiện đại. Ngày trước, phong cách là nét đẹp văn chương, là cá tính tác giả, thể hiện trên văn bản. Những văn phong độc đáo được xem như dấu ấn riêng biệt của cá nhân người viết. Trong 2 phạm vi văn học dân tộc, văn phong được trọng vọng. Nhưng văn phong đặc thù, đặc biệt hoặc quá nhiều cá tính sẽ gặp khó khăn khi vượt qua biên giới để gia nhập vào văn chương toàn cầu. Văn phong khác thường đối với dịch thuật là một trở ngại. Văn phong khác lạ đối với ý nghĩa là một màn che, làm cho ý nghĩa khó hiểu hơn. Vì nhu cầu giao tiếp toàn cầu, vì nhiệm vụ truyền tải ra khắp thế giới, văn học dân tộc theo đường dịch thuật ra chốn đại đồng. Sáng tác chú trọng đến tính đơn giản và dễ hiểu. Cấu trúc hành văn không còn ý muốn biểu diễn tài hoa, mà chủ yếu chia sẻ những gì cần phải nói, phải thông đạt. Văn phong sáng tác thay đổi, dĩ nhiên văn phong của dịch cũng thay đổi theo. Sử dụng văn phong đơn giản và dễ hiểu đã thâu ngắn sự cách biệt giữa văn phong văn bản gốc và văn phong văn bản dịch. Giáo sư Peter Verdonk (2004) nhận xét, "Phong cách tập trung vào việc phân tích các diễn đạt trong ngôn ngữ và mô tả về mục đích và hiệu quả của nó." Các khái niệm về mục đích và hiệu quả của văn bản đã được công nhận là các khái niệm chính được sử dụng để xử lý trong dịch về phân tích phong cách và văn bản.  Một đường hướng phong cách mới được gọi là Phong Cách Thực Dụng (Pragmatic Stylistc) xuất hiện trong thập niên gần đây. Sử dụng trong tất cả các thể loại văn bản, kể cả văn bản 3 văn chương. Theo như sự nghiên cứu của Billy Clark, trong tác phẩm The Place Near Thing Where We Went That Time, năm 2009, phong cách thực dụng chú trọng trên quá trình tâm lý liên quan đến sự hiểu biết, sự phát triển giải thích một văn bản. Nói một cách khác, văn phong thực dụng làm cho văn bản gốc dễ dịch và văn bản dịch dễ hiểu đối với độc giả ngôn ngữ dịch. Ngoài ra, theo Clark văn phong thực dụng có thể sử dụng trong bất kỳ lãnh vực nào. Và có thể giao tiếp dễ hơn trong nhiều loại ngôn ngữ trên thế giới.  Nối gót theo trào lưu vào cuối thế kỷ 20, sự thực tập, thực hành dịch mở rộng và sâu thêm trong phần đầu của thế kỷ 21. Sự thực tập được thực hiện bởi nhiều khuynh hướng khác nhau. Trên khắp thế giới, trong những trường đại học hoặc những trường chuyên môn về dịch thuật, những thử nghiệm được thực thi hàng ngày. Họ bớt quan tâm về lý thuyết mà chú trọng đến giả thuyết để thực nghiệm chứng minh. Một trong những sự kiện đáng kể là Học Thuật Áp Dụng Dịch (ATS: Applied Translation Studies.) Một chi nhánh của Học Thuật Dịch (Translation Studies.) Quan tâm việc tìm định những tiêu chuẩn cụ thể cho dịch thuật tiến tới phẩm chất cao. Họ tiếp cận những phương 4 pháp sư phạm, đề nghị những kỷ luật mà dịch giả nên tuân thủ. ATS là sự đối nghịch với những lý thuyết suông về dịch hoặc những phương pháp dịch không được chứng minh rõ ràng, như lối dịch "nhập thần" của dịch Kinh Thánh. Những thủ tục và kỹ thuật hữu hiệu của ATS là kết quả của thực tập và kinh nghiệm thực tiễn về dịch, cho phép dịch thuật tiến sâu hơn về những công việc tìm hiểu dịch trong tương lai và cải thiện dịch bằng điện tử bởi những dữ liệu thực tế. Vấn đề phát triển phẩm chất cao hơn của dịch bởi máy, tùy thuộc vào những nghiên cứu không phải chỉ dịch ngôn ngữ, mà còn, bằng cách nào đó, đưa dữ kiện văn hóa vào chuyển dịch. Không thể chỉ dịch từ ngữ và dịch văn phạm như hiện nay, mà phải dịch tương đương, tương xứng và tương ứng. (Gambier 2010:7-9.) Phát hiện những nhận thức tiếp cận dịch. Để cung cấp cho người dịch những kiến thức giá trị về những cơ bản dịch thuật, học thuật tiếp tục tìm kiếm những hiểu biết tiếp cận với dịch. Sự quan tâm đặt trên những liên quan hoạt động của nhận thức. Những thành tựu được ghi nhận: 1- Sự hiện diện của những giai đoạn căn bản liên quan đến sự hiểu biết và tái-diễn đạt. Ngoài ra, 5 còn có một số mô hình trung gian, phi ngôn ngữ. 2- Nhu cầu sử dụng và tích hợp nội bộ của nhận thức với các nguồn từ bên ngoài. 3- Vai trò của trí (bộ, kho) nhớ lưu trữ thông tin, dữ liệu. 4- Tính chất năng động và tương tác trong quá trình dịch, bao gồm những yếu tố, thành phần ngôn ngữ lẫn phi ngôn ngữ. 5- Tính chất phi câu cú trong diễn trình dịch, không tuân theo cách tiến hành của câu văn, cũng không hạn chế sự phát triển tuần tự trong giai đoạn căn bản. Do đó, cho phép trở ngược lại, tức là tác động đệ quy (danh từ chương trình điện tử vi tính, chỉ sự tự gọi.) 6- Sự hiện diện của các năng lực tự động và không tự động, kiểm soát và không kiểm soát. Chuyển dịch/thông dịch đòi hỏi cách giải quyết đặc biệt những thông tin, bao gồm sự cần thiết nhận biết của ý thức và sự kiểm soát của trí tuệ. 7- Vai trò xây dựng lại, giải quyết vấn đề, làm quyết định và sử dụng các phương pháp, các kỹ thuật dịch trong sự diễn tiến và quản lý của tiến trình dịch. 8- Sự hiện diện của các đặc điểm cụ thể tùy thuộc vào thể loại dịch. Ví dụ, trong việc dịch văn bản, 6 mỗi khó khăn trong bản dịch tạo ra mỗi vấn đề cụ thể, đòi hỏi một sự giải quyết cụ thể. Nói khác đi, người dịch cần phải biết, dù hiểu biết sâu rộng thế nào, tinh thông phương tiện ra sao, vẫn sẽ đối đầu những trở ngại luôn luôn khác nhau trong mỗi bản dịch, trong mỗi dòng tác phẩm của mỗi tác giả. Dịch thuật trong thế kỷ 21 không quan tâm nhiều đến tính năng tương đương, cũng không nỗ lực toàn bộ vào việc xác định một tiêu chuẩn tuyệt đối để tái tạo ưu tiên một bản dịch. Ngược lại, các hoạt động phát triển bởi các dịch giả phản ảnh sự liên kết bên trong những vấn đề nghiêm trọng của xã hội ngày nay, vấn đề của di dân, của bản sắc dân tộc. Dịch không còn được hiểu như công việc và nhiệm vụ của trí tuệ, mà dịch còn là hành vi đạo đức chính trị, như một khả năng truyền tải thông tin đến mọi lãnh vực, kể cả những xung đột về văn hóa, tôn giáo và sắc tộc. Nhiệm vụ của dịch mở rộng và năng lực của dịch trải ra khắp nơi, khiến cho hiệu quả của dịch được nhà văn Jorge Luis Borges bày tỏ, như ánh trăng tỏa sáng xuống những nơi có bóng đen trên địa cầu. Umberto Eco nhận định, công việc dịch là việc nghiêm túc vì nó ảnh hưởng đời sống toàn cầu. Người ta sử dụng dịch để nhìn thấy thực tế, thực tại ở khắp nơi. Trên phương diện văn chương, văn học thế giới, dịch trở thành những chiếc cầu, nối xa lộ đông tây 7 nam bắc, cho phép mọi người thụ hưởng kiến thức và tình tự từ tư tưởng, nghệ thuật, văn chương, văn hóa, từ những nơi khác lạ, từ thời đại cổ kim, mà trước đây chỉ có thể là giấc mơ. Do đó, quan niệm về dịch đã thay đổi, nhận thức về dịch tìm thấy gần như là sinh hoạt có liên quan chặt chẽ với sự tồn tại của đời sống. Kết luận. Sơ lược qua những lý thuyết dịch mới, những giả thuyết dịch thực hành, những chiến lược dịch sử dụng, những phương pháp dịch áp dụng, những thủ tục và kỹ thuật dịch từ thời hiện đại đến ngày nay, xác nhận sự mở rộng của học thuật dịch và lãnh vực ảnh hưởng cũng như bị ảnh hưởng bởi dịch. Và dù muốn hay không, không ai có thể chối cãi sự lợi ích và cần thiết của dịch. Tuy nhiên, có vài khuyết điểm cần lưu ý. Ví dụ: 1- Khái niệm về sự thừa thãi. Theo Margot (1979), nỗ lực để đạt được sự đối xứng giữa độc giả bản gốc và độc giả bản dịch là chuyện rườm rà. Để thực hiện dịch trong tinh thần hoàn chỉnh, dịch giả phải thêm bớt từ vựng, ngữ pháp, phong cách khi có sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ và văn hóa. Tuy nhiên, nếu trở thành ức chế những yếu tố của bản gốc và gia tăng thừa thãi cho trong bản dịch cho độc giả, là chuyện dư thừa hoặc quá trớn. 8 Cũng trong tinh thần này, sự tìm kiếm cùng chung một lối đi và cách trình bày khác nhau là thừa thãi. 2- Khái niệm hội nhập. Nida giới thiệu quan niệm này năm 1964, sau khi trình bày quan niệm Tương Dương Đa Năng (tương đương tự nhiên gần gũi nhất với ý nghĩa ngôn ngữ nguồn.) Ông cho rằng, hội nhập những yếu tố, thành phần ngôn ngữ, ý nghĩa bên bản gốc vào văn hóa bản dịch, có thể thực hiện. Tuy nhiên trong thực hành, sự hội nhập thường vượt quá xa văn bản gốc, để giải thích trong văn bản dịch. Sư lầm lẫn ở đây là độc giả bản dịch cũng có thể hiểu, đây là văn hóa, tập quán, phong tục lạ, không có sự tương đương trong tình huống quê nhà. Trong thực tế, vì nhiều học giả đưa ra nhiều tư tưởng, quan niệm và luận lý khác nhau, khiến cho kết quả, hiệu quả và tên gọi rất dễ bị lầm lẫn hoặc nghi vấn. Ví dụ, giữa chiến lược dịch và phương pháp dịch, không có khoảng cách và có nội dung trùng hợp với nhau; giữa kỹ thuật và thủ tục cũng dễ bị lầm vì tên gọi. Khoảng xám này, có khi tạo ra những lầm lẫn thông thường. Ghi nhận trên ba diện: 1- Lầm lẫn về thuật ngữ và các điều khoản trùng nhau. 9 Việc này tạo ra sự khó khăn khi sử dụng tên gọi và ứng dụng điều khoản một cách chính xác. Học giả này dùng từ "thích hợp", học giả khác dùng từ "tương đương cân xứng" để nói về cùng một vấn đề. Ngay cả từ "tương đương" là một trong những từ then chốt, nhưng sự lý luận của mỗi học giả khiến cho ý nghĩa có thể trở thành tương đồng, tương xứng, tương ứng.... 2- Lầm lẫn giữa quá trình dịch thật và kết quả dịch thuật. Vinay y Darbelnet đề nghị vấn đề này lần đầu tiên, khi trình bày các thủ tục như mô tả những cách mở đầu trong quá trình dịch. Tuy vậy, những thủ tục này không nhắm đến diễn trình mà là kết quả sau cùng. Sự lầm lẫn như vậy xảy ra trong các thể loại dịch khác, như sự lầm lẫn giữa phương pháp và chiến lược hoặc kỹ thuật và phương pháp. 3- Lầm lẫn giữa vấn đề liên quan đến hai ngôn ngữ gốc/dịch và hai văn bản gốc/dịch. Sự lầm lẫn này thể hiện rõ nơi trở ngại của ngôn ngữ và trở ngại của văn bản. Khi gặp phải trở ngại trong lúc dịch, phải phân biệt loại trở ngại. Trở ngại thuộc về ngôn ngữ hoặc thuộc về văn bản. Đây là hai loại trở ngại khác nhau và có cách giải quyết khác nhau. 10 Ở bình diện lớn hơn, hiện tượng ngôn ngữ học so sánh và hiện tượng liên quan văn bản dịch là hai chuyện khác biệt. Việc sử dụng kỹ thuật dịch bị giới hạn bởi hệ thống ngôn ngữ khác biệt, không hẳn là giải pháp cần thiết để dịch văn bản. Một số nhận định tiêu biểu cho thấy dòng văn học dịch hiện nay vẫn còn trẻ, chưa già dặn như dòng văn học chính. Còn một tương lai rộng mở, chưa thành hình rõ rệt trên những quan lộ. Quá trình của dịch đi từ phần một: tác phẩm gốc và tác giả, đến phần hai: khả năng chuyển dịch và dịch giả, qua phần ba: bản dịch và độc giả ngôn ngữ dịch. Bất kỳ là người dịch nào, cũng phải hoàn tất ba phần, ba giai đoạn này. Tuy nhiên, có người chú trọng phần đầu, lấy sự chính xác và ý muốn của tác giả làm tiêu chuẩn chính. Có người chú trọng phần hai, đặt nặng đường lối dịch, khả năng, kiến thức, kinh nghiệm và lòng trung thực của người dịch. Có người chú trọng đến phần ba, xem bản dịch như là bản tái sáng tác trong ngôn ngữ và văn hóa dịch, cho độc giả cảm tưởng đang đọc một tác phẩm bằng tiếng mẹ đẻ. Cho dù người dịch chọn lựa như thế nào, những cốt lõi bất biến của tác phẩm gốc, ý nghĩa và ý đồ của tác giả, không thể thiếu trong bản dịch. Mỗi người dịch cần có ba khả năng căn bản: 1- Khả năng thấu hiểu và thu nhận ý nghĩa và nghệ thuật từ bản gốc, 2- Khả năng hoán chuyển ngôn ngữ và 11 những gì đã thu nhận, 3- Khả năng tái tạo bản dịch thành văn bản văn chương và nghệ thuật. Từ khả năng biến thành bản lãnh là do kinh nghiệm và thời gian. Bản lãnh có độc đáo hay không là do tài hoa và công phu. Tất cả những học thuật còn lại chỉ là phương tiện. Để chấm dứt phần một, dịch thuật tổng quát, trước khi bước sang phần Dịch Thơ và Giả Thuyết Dịch Thường Thấu Thấm, một ca khúc Pháp, Aline của Christophe, được áp dụng những phương pháp và kỹ thuật vào thử nghiệm dịch ca khúc. Dịch ca từ, yếu tố quan yếu phải thực hiện là những âm sắc của từ Việt, phải trầm bổng theo nốt nhạc lên xuống. Sự cân nhắc âm sắc cùng một lúc tạo ra ý nghĩa, mô tả ý nghĩa và văn phong của bản nhạc, là một thử thách. Dịch âm sắc từ vựng, dịch văn phạm tương đương, dịch câu và dịch đoạn là những thủ thuật được sử dụng. Aline J'avais dessiné sur le sable Một mình nơi đây, trên bãi cát này Son doux visage qui me souriait Buồn vẽ chân dung em, em đang cười nhìn tôi. Puis il a plu sur cette plage Rồi cơn mưa rơi, trên bãi cát mềm 12 Dans cet orage, elle a disparu Làn gió điên cuồng, nhạt nhòa dung nhan em Et j'ai crié, crié, Aline, pour qu'elle revienne Làm tôi đau đớn, thét lên: Aline, về đây cùng anh Et j'ai pleuré, pleuré, oh! j'avais trop de peine Rồi tôi đã khóc, đã khóc, Nhớ thương người, tình bao sầu đau Je me suis assis près de son âme Ngồi lại nơi đây, hồn nghe rã rời Mais la belle dame s'était enfuie Hình bóng em yêu, nay đã rời xa tôi Je l'ai cherchée sans plus y croire Tìm lại nơi đâu, đã mất dấu tin yêu Et sans un espoir, pour me guider Mòn mỏi bao hy vọng, cho tôi gặp lại em Et j'ai crié, crié, Aline, pour qu'elle revienne Và tôi đau đớn, thét lên: Aline, về đây cùng anh Et j'ai pleuré, pleuré, oh! j'avais trop de peine Rồi tôi đã khóc, đã khóc, Nhớ thương người, lòng bao sầu đau Je n'ai gardé que ce doux visage 13 Còn lại trong tim, ngọt ngào nhan sắc người Comme une épave sur le sable mouillé vừa đã phôi phai trên làn cát ướt Et j'ai crié, crié, Aline, pour qu'elle revienne Lòng tôi đau đớn, thét lên, Aline, Về đây cùng anh Et j'ai pleuré, pleuré, oh! j'avais trop de peine..... Rồi tôi đã khóc, đã khóc, Nhớ thương người, tình bao sầu đau..... Ngu Yên 14