« Home « Kết quả tìm kiếm

PHE BINH NỮ QUYỀN


Tóm tắt Xem thử

- Nhà triết học Aristotle tuyên bố rằng: “Đàn bà là đàn bà bởi một sự thiếu thốn nhất định về những phẩm chất”, và Thánh Thomas Aquinas tin rằng phụ nữ là một “người đàn ông không hoàn hảo”.
- Khi một người đàn bà cố gắng để tự định nghĩa, chị bắt đầu bằng cách nói “tôi là một đàn bà”.
- Không người đàn ông nào sẽ làm như vậy.
- Đàn ông định nghĩa nhân tính, chứ không phải đàn bà.
- Bị phân tán giữa đám đàn ông, đàn bà không có một lịch sử phân li, không có sự đoàn kết tự nhiên.
- Đàn bà bị siết chặt vào một mối quan hệ chênh lệch với đàn ông.
- Đàn ông là kẻ Một, đàn bà là kẻ Khác.
- Sự thống trị của đàn ông củng cố một khí hậu ý hệ về sự phục tùng: “những nhà lập pháp, giáo sĩ, triết gia, nhà văn và nhà khoa học đã phấn đấu để chỉ ra rằng vị thế phụ thuộc của đàn bà thì được muốn từ trên trời và thuận lợi trên trái đất”.
- Đàn bà bị tạo thành những kẻ dưới và sự áp bức được phức hợp bởi niềm tin của đàn ông rằng đàn bà là những kẻ-dưới-bởi-bản-tính.
- Dường như có năm tiêu điểm chính dính líu trong hầu hết những thảo luận về sự khác biệt giới tính: Sinh học Kinh nghiệm Diễn ngôn Vô thức Những điều kiện kinh tế và xã hội 4 Những lập luận đề cập tới sinh học như nền tảng và giảm nhẹ sự xã hội hoá được sử dụng chủ yếu bởi đàn ông để giữ người đàn bà trong “vị thế” của họ.
- Nếu cơ thể của một người đàn bà là số mệnh của chị, vậy thì tất cả những toan tính chất vấn những vai trò giới tính được gán cho đập vào mặt với cái trật tự tự nhiên.
- Bất cứ sự tranh luận cực đoan nào về cái bản tính đặc biệt của đàn bà có nguy cơ đáp vào, bởi một tuyến đường khác, cùng vị trí với những nhà cực độ bênh giống đực (sô- vanh).
- Nguy cơ này cũng đến với những người viện ra kinh nghiệm đặc biệt của đàn bà như căn nguyên của những giá trị nữ giới tích cực trong cuộc sống và trong nghệ thuật.
- Lập luận này cho rằng, vì chỉ có đàn bà, đã trải qua những kinh nghiệm đời của phụ nữ một cách chuyên biệt đó (rụng trứng, kinh nguyệt, sinh đẻ), chỉ họ mới có thể nói về cuộc sống của một người đàn bà.
- đàn bà không nhìn thấy sự vật trong cùng những cung cách như đàn ông, và có những ý tưởng và cảm xúc khác về cái gì là quan trọng hay không quan trọng.
- Một tuyển tập sớm gồm những bài tiểu luận nữ quyền, “Hình tượng về phụ nữ trong tiểu thuyết” (Images of Women in Fiction) (1972) do Susan Cornillon biên soạn, bị sa lầy trong sự phân tích về nội dung, biện luận rằng hầu hết tiểu thuyết thế kỉ 19 và 20 thì không trung thực đối với kinh nghiệm có thật của đàn bà.
- Nếu chúng ta chấp nhận lập luận của Foucault rằng cái gì là “chân thực” phụ thuộc vào người kiểm soát diễn ngôn, vậy thì hợp lí để tin rằng sự ngự trị của đàn ông về diễn ngôn đã đánh bẫy đàn bà bên trong một “chân lí” giống đực.
- Hầu hết các nhà nữ quyền cấp tiến có quan điểm rằng phụ nữ đã bị tẩy não bởi loại hệ ý thức phụ quyền này nó tạo ra những khuôn sáo về đàn ông mạnh mẽ và đàn bà yếu đuối.
- Margaret Mead, nhà nhân loại học, đã chỉ ra rằng trong những xã hội phi phương Tây thì những thuộc tính chỉ định cho đàn ông và đàn bà có thể khác nhau rất xa.
- đàn ông có thể là yêu chuộng hoà bình, còn đàn bà hiếu chiến.
- Bà thừa nhận rằng đàn bà cũng góp phần như đàn ông kéo dài những thái độ này trong những tạp chí phụ nữ và hệ tư tưởng về gia đình.
- Đàn bà như một nhóm bị áp bức có thể được và đã được so sánh với những người da đen và với tầng lớp lao động.
- mặc dù, như Simone de Beauvoir vạch ra, không giống những người da đen, đàn bà không phải là một thiểu số, và không giống như giai cấp vô sản, đàn bà không phải là một 7 sản phẩm của lịch sử.
- Người ta đã từng nói rằng phạm trù bị áp bức nhất của tất cả là người da đen, tầng lớp lao động và đàn bà.
- Với Millett, như Cora Kaplan diễn đạt, “hệ tư tưởng là chiếc dùi cui dương vật phổ quát mà với nó đàn ông của mọi tầng lớp sử dụng để đánh đập đàn bà”.
- Đàn ông đơn giản phóng chiếu lên đàn bà những thuộc tính của sự yếu đuối và sự khổ dâm.
- Điều này ảnh hưởng đến văn học như thế nào? Trước hết, chính những giá trị và qui ước văn học hình thành bởi đàn ông, và đàn bà thường tranh đấu để diễn đạt những mối quan tâm của chính họ trong những dạng thức có thể là không thích hợp.
- Quảng cáo ti-vi cho một vòi sen điện, trình ra một người phụ nữ khiêu khích buông rơi khăn tắm chỉ quá trễ cho người xem (đàn ông) thoáng thấy cơ thể trần truồng của chị, hiển nhiên loại trừ người xem đàn bà.
- Tuy nhiên, rõ ràng từ ví dụ này ta thấy rằng cũng có thể đối với người xem đàn bà lại câu kết trong việc loại trừ này và để xem “như một người đàn ông”.
- Bà bỏ lỡ, chẳng hạn, bản chất phản thường (deviant) sâu sắc của tác phẩm Nhật kí của kẻ cắp (The Thief’s Journal) của Genet, và chỉ thấy, trong thế giới đồng tính được miêu tả, một hàm ý về sự khuất phục và hạ cấp người đàn bà.
- Cách xúc tiến này sẽ không công bằng, chẳng hạn, đối với cách đối xử của Joyce về tính dục đàn bà.
- những tiến trình văn hoá trong đó đàn ông và đàn bà được thể hiện một cách khác nhau.
- Trước hết, bà khen ngợi sự biện luận duy vật chủ nghĩa của Virginia Woolf rằng những điều kiện mà dưới chúng đàn ông và đàn bà sản xuất văn học thì khác nhau về vật chất và ảnh hưởng đến hình thức và nội dung của cái họ viết.
- Thứ hai, hệ tư tưởng về phái tính ảnh hưởng cung cách mà những văn bản của đàn ông và đàn bà được đọc và cách những quy điển (canon) kiệt xuất được thiết lập.
- Thứ ba, những nhà phê bình nữ quyền phải kể đến bản chất hư cấu của những văn bản văn học và không đắm mình trong “luân lí học thịnh hành” bằng cách kết tội toàn bộ tác giả đàn ông vì tất cả sự phân biệt giới tính trong những cuốn sách của họ và tán đồng những tác giả đàn bà vì nêu lên những đề xuất về phái tính.
- Tuy nhiên, đàn bà có thể và nên cố gắng để 10 khẳng định sự ảnh hưởng của họ trên cung cách mà ở đó giới tính được định nghĩa và thể hiện một cách văn hoá.
- Trong bài giới thiệu cho cuốn “Phê bình nữ quyền và thay đổi xã hội” (Ferminist Criticism and Social Change, 1985) Judith Newman và Deborath Rosenfelt biện luận cho một sự phê bình nữ quyền duy vật chủ nghĩa tránh chủ nghĩa yếu tính bi thảm của những nhà phê bình nữ quyền kia đang phóng chiếu một hình ảnh về đàn bà như bất lực một cách phổ quát và ngoan ngoãn một cách phổ quát.
- Họ chỉ trích cái họ cho là tính nghĩa đen hẹp hòi của tác phẩm có thế lực “Người đàn bà điên trong rầm thượng” (The Madwoman in the Attic) của Gilbert và Gubar, và đặc biệt là họ sao nhãng về những thực tế xã hội và kinh tế đóng một phần quan trọng trong việc xây dựng vai trò phái tính (xem dưới đây về Gilbert và Gubar).
- Bà đưa ra quan điểm rằng, trong khi không có tính dục đàn bà hay trí tưởng tượng đàn bà cố định hoặc bẩm sinh, nhưng vẫn có một sự khác biệt sâu sắc giữa bản viết của đàn bà với đàn ông, và rằng một truyền thống trọn vẹn về văn viết đã bị sao nhãng bởi những nhà phê bình đàn ông: “cái lục địa mất đi của truyền thống nữ giới dâng lên giống như đảo Atlantics từ biển của văn học Anh vậy”.
- Thứ ba, giai đoạn “giống cái” (từ 1920 trở đi) đã thừa hưởng những đặc tính của những giai đoạn trước và đã phát triển ý tưởng về văn viết đàn bà và kinh nghiệm đàn bà chuyên biệt trong giai đoạn về tự khám phá.
- Bà cố gắng tự giác để tạo ra những câu tỉnh lược và phần mảnh để mà truyền đạt điều bà cứu xét là hình dạng và kết thức của tâm trí đàn bà.
- Một thế hệ mới của đàn bà được giáo dục đại học, những người không còn cảm thấy nhu cầu biểu hiện những sự bất bình phái nữ, bao gồm A.
- Virginia Woolf đã viết nhiều về văn viết của đàn bà và, giống như Richardson, là một người tiên phong quan trọng của phê bình nữ quyền hiện đại.
- Bằng cách áp dụng đạo lí tính dục về “lưỡng tính” (androgyny), của nhóm Bloomsbyry, bà đã chấp nhận việc rút êm đềm khỏi cuộc tranh đấu giữa phân biệt giới tính đàn ông và đàn bà.
- Virginia Woolf dường như đang nói rằng sự nghiệp “phái nam” ngớ ngẩn của nữ công tước (“đại bộ tác phẩm”) bừng sáng bởi một sự bướng bỉnh “đàn bà” bỡn cợt (“thất thường”, “lan man.
- để sáng tạo thời gian và không gian cho văn viết, một phụ nữ phải sử dụng những mưu mẹo và sự nịnh nọt đàn bà.
- Thứ hai, sự cấm kị về diễn đạt dục vọng đàn bà đã ngăn cản bà “nói lên sự thật về những kinh nghiệm của chính cá nhân như một thân thể”.
- Sự khước từ giới tính đàn bà và vô thức thì chẳng hề được vượt thắng trong tác phẩm hay cuộc sống của bà.
- Quả thực, bà đã không tin vào một vô thức đàn bà, nhưng đã nghĩ rằng đàn bà viết khác đàn ông không vì họ khác nhau về tâm lí mà bởi vì 14 những kinh nghiệm xã hội của họ khác nhau.
- Những toan tính của bà để viết về những kinh nghiệm của đàn bà thì có ý thức và nhằm khám phá những cách thức ngôn ngữ của việc miêu tả cuộc sống chật hẹp của phụ nữ.
- Bà tin rằng cuối cùng tới khi nào đàn bà đạt được sự bình đẳng xã hội và kinh tế với đàn ông, sẽ không còn gì để ngăn cản đàn bà khỏi việc phát triển tự do những tài năng nghệ thuật của họ.
- Văn bản nữ giới phê bình sơ kì gây ấn tượng nhất với tôi là cuốn Nghĩ về đàn bà (Thinking about women,1986) của Mary Ellmann.
- Không giống Showalter, Ellmann không có khuynh hướng đồng nhất văn viết đàn bà với kinh nghiệm đàn bà, nhưng tương quan nó với những phong cách văn học nhất định.
- Trong quan điểm của bà, không phải mọi người viết nữ đều áp dụng một phong cách văn viết đàn bà.
- Ellmann lưu ý tới cuốn Hai quý bà nghiêm túc (Two Serious Ladies, 1943) của Jane Bowles, một tiểu thuyết hài kì quái về hai người đàn bà sa sút vào một thế giới thứ cấp của truỵ lạc trong khi vẫn duy trì một sự hợp thức lịch thiệp trong cách phát âm và cách ứng xử.
- Đàn bà ăn mừng trong một cung cách hoàn toàn không tự giác những niềm vui tế nhị về sự độc lập của đàn bà.
- Cuốn tiểu thuyết này là một khảo sát sơ kì tuyệt vời về sự lật đổ của đàn bà với những giá trị đàn ông.
- Chỉ một tiểu thuyết gia nữ mới có thể dùng sự trả thù độc ác như vậy trên uy thế của đàn ông và “tinh thần xây dựng” của ông ta! Bowles sử dụng những nhân vật chính của mình để khảo sát một ý thức và hệ thống giá trị “đàn bà”.
- Cô hỏi “Điều này bao hàm những gì?” Ông đáp lại, “nó bao hàm… việc em là một người đàn bà chân chính.
- Vài thân thể tôi thích thì kinh khủng.” Ở đây điều đàn ông có thể coi như tính bất thường của đàn bà là được chuyển dịch âm thầm thành sự khác biệt của đàn bà làm ta sáng mắt.
- Trong cuốn Người đàn bà điên trong rầm thượng (The Madwoman in the Attic, 1979) Sandra Gilbert và Susan Gubar biện luận rằng những người viết nữ chủ chốt kể từ Jane Austen đã đạt được một tiếng nói đàn bà khu biệt bằng cách “cùng một lúc tuân thủ và phá vỡ những chuẩn mực văn học phụ quyền”.
- Những khuôn mẫu đàn bà về “thiên sứ” và “quái vật” (người đàn bà điên) đồng thời được chấp nhận và giải cấu trúc.
- Một quan điểm triệt để hơn về sự khác biệt của đàn bà được mở ra bởi phân tâm học hiện đại.
- Trước Lacan, những lí thuyết của Freud, đặc biệt ở Mĩ, được giảm trừ thành một trình độ sinh học thô: bé gái, nhìn cơ quan đàn ông, nhận ra chính mình như đàn bà vì cô thiếu dương vật.
- Theo Freud, sự ghen tị dương vật là phổ quát trong đàn bà và chịu trách nhiệm về “phức cảm thiến hoạn” (castration complex) của họ gây nên hậu quả là họ xem chính mình như “những đàn ông khiếm khuyết” (homes manqués) hơn là một giới tính tích cực riêng về phần họ.
- Không thể tránh được là những nhà nữ quyền phản ứng cay đắng với một quan điểm về đàn bà như “thụ động, ái kỉ, khổ dâm và ghen tị dương vật” (Eagleton), như không có gì trong chính bà nhưng chỉ đo lường được trong mối quan hệ với một tiêu chuẩn đàn ông.
- Trong cùng cách ấy “đàn bà” là một cái biểu thị, không phải là một đàn bà sinh học.
- Không có sự tương ứng đơn giản nào giữa một thân thể riêng với cái biểu thị “đàn bà”.
- Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng, nếu chúng ta lấy đi tấm biển xuyên tạc của cái biểu thị, thì một người đàn bà “có thực”, “tự nhiên”, sẽ ra ánh sáng như chị ta ắt là trước sự bắt đầu biểu tượng hoá.
- Đàn bà đại diện cho một vị thế chủ thể đã bị lưu đày ra bóng tối bên ngoài (“lục địa tối tăm”) bằng quyền lực thiến hoạn của chủ nghĩa trung tâm dương vật, và quả thực, bởi vì sự thống trị như thế làm thông qua diễn ngôn, bằng “chủ nghĩa trung tâm lí tính dương vật” (phallogocentrism) (sự thống trị bởi luận lí dương vật).
- Người đàn ông bị “thiến hoạn” bởi không là sự đầy đủ toàn thể được hứa hẹn bởi hình tượng dương vật, trong khi người đàn bà bị “thiến hoạn” bởi không là đàn ông.
- Việc người đàn bà đi qua phức cảm Ơ-đíp thì không phân minh như thế.
- Khi ông gợi lại câu hỏi không trả lời được của Freud “Đàn bà muốn gì? (Was will das weib.
- “Đàn bà không bao giờ nói giống (pareil) (tương tự, ngang bằng, giống như).
- Một lần nữa, có một sự nguy hiểm về sự trượt lại vào một hệ thống trung tâm dương vật mà gạt đàn bà sang bên lề, loại họ ra như là không vững chắc, không thể tiên đoán và hay thay đổi.
- Cái dường như ngăn cản một sự phục hồi như thế của “sự cởi mở” đàn bà với hệ thống phụ quyền là sự ưu đãi đặc quyền tích cực 22 về sự cởi mở này.
- Tính dục đàn bà thì trực tiếp liên kết với năng suất thơ mộng – với những động hướng tâm thể (psychosomatic drives) ngắt đi sự chuyên chế của ý nghĩa đơn nhất và diễn ngôn trung tâm lí tính (và bởi vậy là trung tâm dương vật lí tính).
- Đàn bà là sự yên 23 lặng của vô thức có trước diễn ngôn.
- Kristeva, không giống như Cixous và Irigaray (những người chúng ta sắp thảo luận) không xử lí đàn bà như khác biệt trong nguyên tắc với sự áp bức lên những nhóm bị gạt bên lề và bị bóc lột.
- Nhiều nhà nữ quyền Pháp (bao gồm Chantal Chawa, Xavière Gauthier và Luce Irigaray) biện luận rằng tính dục đàn bà là một thực thể ngầm và không được biết đến.
- Tiểu luận của Hélène Cixous, “Tiếng cười của nàng Medusa” (1976) là một bản tuyên ngôn nổi tiếng của văn viết đàn bà mà kêu gọi phụ nữ đặt thân thể của họ vào văn viết của mình.
- Trong khi Virginia Woolf từ bỏ cuộc đấu tranh cho sự nói về thân thể đàn bà, Cixous viết một cách mê mẩn về vô thức phong phú của đàn bà: “Hãy viết về chính bạn.
- Không có tâm trí đàn bà phổ quát.
- trái lại trí tưởng tượng đàn bà thì vô tận và đẹp.
- Bởi vì văn viết là chốn mà tư tưởng dấy loạn có thể nảy mầm, đặc biệt xấu hổ khi phần lớn truyền thống trung tâm dương vật thành công trong việc không cho đàn bà có tiếng nói của họ.
- Người đàn bà phải giải trừ sự kiểm duyệt chính mình, lấy lại “thứ của chị, những cơ quan của chị, những địa hạt thân thể bao la của chị đã bị giữ dưới dấu triện.” Chị phải loại bỏ sự phạm tội của mình (vì là quá nóng bỏng hay quá lạnh lùng, quá giống mẫu tính hay thiếu mẫu tính, vân vân).
- Việc quay về với Mẹ Hiền mang tính giải phóng này là nguồn gốc của viễn kiến thơ ca của Cixous về văn viết đàn bà và mở ra khả năng của một mẫu tính dục mới.
- Quả thực, sự tường thuật của Cixous về tính dục đàn bà thường nhắc người ta nhớ về sự miêu tả của Barthes về văn bản tiên phong.
- “Một thân thể của đàn bà”, Cixous viết, “với một nghìn lẻ một ngưỡng cửa của sự hăng say… sẽ làm cho tiếng mẹ đẻ riêng in dấu xưa vang vọng còn hơn là một ngôn ngữ.” Bà đang nói về “sự khoái lạc” (jouissance), mà trong đó Barthes và Kristeva, kết hợp những hàm ý về cực khoái tính dục với tiếng nói đa nghĩa.
- Vốn luôn luôn vận hành bên trong diễn ngôn bị đàn ông thống trị, đàn bà cần “phát minh cho chính chị một ngôn ngữ để nhập vào bên trong.” Lối xúc tiến của Cixous thì mang tính viễn kiến, tưởng tượng một ngôn ngữ có thể hơn là miêu tả một ngôn ngữ đang hiện hữu.
- Nó mang nguy cơ như những lề lối xúc tiến khác, đã thảo luận, vì đẩy đàn bà vào trong một sự rút lui vô thức mờ mịt nơi mà im lặng ngự trị chỉ bị gián đoạn bởi “tiếng ú ớ” của dạ con.
- Bà cho rằng sự áp bức phụ quyền đối với đàn bà được xây dựng trên mẫu của những cấu trúc phủ định tiêu cực đã kết hợp với lí thuyết của Freud về tính dục đàn bà.
- Khái niệm về ‘sự ganh tị dương vật’, chẳng hạn, được thiết lập trên một cái nhìn về đàn bà như kẻ khác của đàn ông: chị thiếu dương vật mà anh sở hữu (một cách mong 26 manh).
- Trong ý nghĩa này đàn bà thì vô hình đối với cái nhìn đăm đăm của đàn ông và chỉ có thể đạt được thứ đời sống hoang tưởng trong chứng bệnh ưu uất và trong huyền bí.
- Đàn bà giống như nhà huyền bí, có khả năng mất đi tất cả cảm thức của sự tồn tại chủ quan cá nhân, và bởi vậy có khả năng tuột qua tấm lưới phụ quyền.
- Tuy nhiên, giống như Cixous, Irigaray có khuynh hướng sa vào một chủ nghĩa sinh học dễ bị tổn thương một cách lạ kì khi bà gắng dịch nghĩa sự đặc thù của đàn bà.
- Trong khi đàn ông thì hướng về thị giác (họ thì thị dâm như chúng ta đã thấy ở trên), đàn bà tìm thấy lạc thú trong xúc giác, và bởi vậy văn viết đàn bà thì kết nối với lưu chất và xúc giác, với kết quả là “ ‘phong cách’ của chị chống cự và làm nổ tất cả những dạng thức hình thể, những ý tưởng, những khái niệm được thiết lập vững chắc.” Cuối cùng, dường như cách duy nhất để định nghĩa về đàn bà là nói rằng đàn bà thì không thể định nghĩa được.
- đàn bà phải sinh sản ra ngôn ngữ riêng của họ, và vũ trụ nhận thức của riêng họ, nó có thể không tỏ ra hợp lí với đàn ông.
- Bất chấp những sự khó khăn, đàn bà có quyền khẳng định giá trị của chính họ, khảo sát ý thức của riêng họ, và phát triển những dạng thức mới của biểu lộ tương ứng với những giá trị và ý thức của họ.
- Trong một cuốn sách 27 gần đây, Terry Eagleton biện luận rằng cuộc vận động của đàn bà đã thành công trong việc phát triển sự thống nhất và thách đố nhất về hành động chính trị và văn hoá