intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Quá trình đổi mới tư duy lý luận của đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:110

79
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn làm rõ quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thông qua việc khảo cứu các văn kiện đại hội Đảng và cương lĩnh xây dựng đất nước. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Quá trình đổi mới tư duy lý luận của đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay

  1. Đại học quốc gia hà nội Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn ========= o0o ========= Nguyễn Thị Đào Quá trình đổi mới tư duy lý luận của đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay Luận văn thạc sĩ khoa học Hà nội – 12/2008
  2. Đại học quốc gia hà nội Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn ------------- o0o ------------- Nguyễn Thị Đào Quá trình đổi mới tư duy lý luận của đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay Luận văn thạc sĩ triết học Chuyên ngành: Triết học Mã số: 60 22 80 Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thúy Vân Hà nội - 12/2008
  3. Luận văn thạc sĩ triết học Lời cảm ơn Hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành cảm ơn sự dạy dỗ nhiệt tình của các thày cô giáo trong khoa Triết học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt thời gian em học tập và nghiên cứu tại khoa, tại trường. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Thúy Vân đã trực tiếp hướng dẫn tận tình và chu đáo trong quá trình em thực hiện và hoàn thiện luận văn tốt nghiệp này. Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn luận văn sẽ không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thày, các cô, cùng toàn thể các bạn để luận văn này được hoàn thiện hơn. Hà Nội, ngày 01 tháng 12 năm 2008 Tác giả Nguyễn Thị Đào Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học 3
  4. Luận văn thạc sĩ triết học Mục lục Mở đầu ...................................................................................................................................... 1 Chương 1. đổi mới tư duy lý luận và tính tất yếu của việc đổi mới tư duy lý luận của đảng ta ..................................................................................................................................... 13 1.1. Một số vấn đề về tư duy lý luận và đổi mới tư duy lý luận ............ 13 1.1.1. Tư duy lý luận ............................................................................ 13 1.1.2. Đổi mới tư duy lý luận và đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội 24 1.2. Tính tất yếu của việc đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ......................................................... 32 1.2.1. Nhân tố khách quan .................................................................... 32 1.2.2. Nhân tố chủ quan ........................................................................ 39 Chương 2. Đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội – Bước phát triển mới trong nhận thức của đảng ta ............................ 45 2.1. Nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội trước thời kỳ đổi mới (trước 1986) ..................................................... 45 2.2. Tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến nay) .......................... 66 Kết luận ................................................................................................................................. 103 Tài liệu tham khảo .............................................................................................................. 105 Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học 4
  5. Luận văn thạc sĩ triết học Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên xô (cũ) đã đem đến một tổn thất to lớn cho phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới, đánh dấu một bước “thụt lùi tạm thời” trong sự phát triển của hình thái kinh tế – xã hội Cộng sản chủ nghĩa mà chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu. Đồng thời, cán cân sức mạnh chính trị tạm thời nghiêng về chủ nghĩa tư bản với đế quốc Mỹ là kẻ cầm đầu. Chiến tranh lạnh kết thúc, từ “hai cực” chiến tuyến trở thành “một cực”. Các nước Mỹ và Tây Âu đã “chiến thắng” nhưng cũng phải gánh chịu không ít hậu quả do chiến tranh lạnh đem lại. Vì vậy, họ phải gấp rút phát triển kinh tế và trang bị sức mạnh quân sự cho mình ngày càng hoàn bị hơn. Nhờ có cuộc cách mạng khoa học và công nghệ – sức mạnh tiềm tàng này đã và đang nâng đỡ các nước tư bản chủ nghĩa trên các lĩnh vực kinh tế, quân sự… ngày càng phát triển mạnh. Đồng thời, đem đến những mối đe doạ lớn đối với các nước xã hội chủ nghĩa còn lại cũng như các nước thuộc thế giới thứ ba bởi sự can thiệp nội bộ, cũng như sự “tấn công” bằng những hình thức biến tướng với chiến thuật “diễn biến hoà bình” vào các lĩnh vực cụ thể như kinh tế, chính trị…của đất nước, nhằm mục đích thống trị của chủ nghĩa đế quốc. Điều đó làm nảy sinh do dự và hoang mang của một số nhà lãnh đạo, nhà nghiên cứu. Họ bắt đầu nghi ngờ về tính khả thi của chủ nghĩa xã hội, họ đòi xét lại con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, ca tụng chủ nghĩa tư bản. Nhiều khuynh hướng cải lương đã xuất hiện và có không ít người mộng tưởng rằng phát triển theo tư bản chủ nghĩa sẽ đem lại một tương lai sáng lạn hơn đối với những nước chủ nghĩa xã hội còn lại, cũng như các nước thuộc thế giới thứ ba. Điều này đặt các nước trước những yêu cầu và thách thức lớn để tồn tại và Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học 5
  6. Luận văn thạc sĩ triết học phát triển với sự kiên định chọn lựa mục tiêu và định hướng cho quốc gia dân tộc mình theo con đường xã hội chủ nghĩa. ở Việt Nam, việc áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội theo Liên Xô (cũ) trong những năm 60, 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ XX một cách rập khuôn, máy móc đã gây ra một cuộc khủng hoảng trên nhiều lĩnh vực của đời sống, đặc biệt là kinh tế. Những biểu hiện cụ thể của sự khủng hoảng này thể hiện ở sự tụt hậu về kinh tế, nghèo nàn về sản phẩm tiêu dùng, lạc hậu về khoa học – kĩ thuật và công nghệ, quan liêu trong tổ chức hành chính… dần dần đánh mất và giảm dần lòng tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa của một bộ phận quần chúng nhân dân. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, song có một nguyên nhân quan trọng là do xuất phát từ tư duy, từ nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về những khó khăn, phức tạp trên con đường phát triển “rút ngắn” (bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa) lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sự sai lầm và hạn chế trong nhận thức, tư duy lý luận cho thấy trong công cuộc xây dựng đất nước chúng ta đã vi phạm nguyên tắc thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Do đó, thực tiễn yêu cầu phải có tư duy mới, phải đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là vấn đề cấp bách trong sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với sự tồn tại và phát triển của mô hình xã hội chủ nghĩa hiện thực ở nước ta. Chính vì vậy, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã đánh dấu bước ngoặt trong đổi mới tư duy lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ đó cho đến nay, nội dung của vấn đề này ngày càng được Đảng ta làm rõ hơn. Để nghiên cứu quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; thông qua đó, thấy được ý nghĩa của tư duy lý luận trong nhận thức xã hội, trong hoạt động thực tiễn và Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học 6
  7. Luận văn thạc sĩ triết học đặc biệt trong việc xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, nhằm bác bỏ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội. Do đó, tôi chọn đề tài “ Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận văn. 2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam, từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật thì vấn đề đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được đặt ra cấp thiết. Đã có nhiều tác giả và tập thể tác giả, nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về vấn đề này. Có thể điểm qua một số công trình sau: - Lại Văn Toàn: “Đổi mới tư duy lý luận – tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới”, tạp chí triết học, số 1-1988; tác giả đề cập vấn đề đổi mới tư duy lý luận đã được đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra, cũng như tính cấp thiết của vấn đề đổi mới được thông qua, để thấy được vai trò của tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới đất nước - đó là một nhân tố không nhỏ trong việc định hướng các sách lược, chiến lược phát triển đất nước. - Phạm Ngọc Quang: “Đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội ở nước ta – khảo lược lịch sử”, tạp chí triết học số 5, tháng 10-2000: Tác giả đã thông qua việc khảo sát các văn kiện đại hội Đảng toàn quốc và khảo lược quá trình đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội của Đảng ta. Từ đó, tác giả đã chỉ ra tính cấp thiết phải đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội. - Trong cuốn sách: “Một số vấn đề suy nghĩ về chủ nghĩa xã hội: từ lý luận đến thực tiễn” của TS. Nhị Lê, Nxb Lao động, 2002: Tác giả trên cơ sở nghiên cứu tính tất yếu và sứ mệnh lịch sử của chủ nghĩa xã hội, để kiến giải từ bình diện lý luận và thực tiễn quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái phủ nhận chủ nghĩa xã hội ở Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học 7
  8. Luận văn thạc sĩ triết học Việt Nam, đấu tranh chống lại cách nhìn sai về chủ nghĩa xã hội. Và đồng thời đưa ra triển vọng và dự báo về chủ nghĩa xã hội trong tiến trình lịch sử của thời đại ngày nay trên quy mô toàn thế giới. - Trong cuốn sách: “Tư duy lý luận với sự nghiệp đổi mới” của giáo sư Trần Nhâm, Nxb Chính trị quốc gia, 2004: Tác giả trên cơ sở nghiên cứu vấn đề đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta trong bối cảnh thời đại, trong mối quan hệ với toàn cầu hoá và những thách thức đặt ra, cũng như trong mối tương quan giữa chủ nghĩa Mác – Lênin và thời đại hiện nay. Để từ đó, nghiên cứu, xem xét và tổng kết đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và đổi mới tư duy lý luận về kinh tế của Đảng ta. - Trong cuốn sách: “Đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta” của TS. Nguyễn Đức Tài, Nxb Chính trị quốc gia, 2005: Tác giả đã khảo sát quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu sự đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta trong các lĩnh vực cụ thể như kinh tế, văn hoá…Từ đó, chứng minh việc đổi mới tư duy lý luận là tất yếu để phát triển đát nước trong bối cảnh mới của thực tiễn. - Trong cuốn sách: “Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta từ 1986 đến nay” do tập thể các tác giả Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, 2006: Đây là cuốn sách tập hợp sự đóng góp của rất nhiều nhà nghiên cứu, là một công trình nghiên cứu có uy tín với sự tổng kết những hạn chế và thành tựu trong công cuộc đổi mới tư duy lý luận của đảng ta về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Đồng thời chỉ ra những hạn chế trong nhận thức, tư duy về chủ nghĩa xã hội trước đổi mới. Các tác giả đi vào khảo sát vấn đề đổi mới tư duy lý luận trong từng lĩnh vực cụ thể. Để từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm và yêu cầu tiếp tục đổi mới Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học 8
  9. Luận văn thạc sĩ triết học toàn diện theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa đất nước vào thời kỳ phát triển mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá. … Qua các công trình nghiên cứu, các tác giả đều cho rằng cách tư duy máy móc, siêu hình, chủ quan, duy ý chí v.v… là nguyên nhân cản trở quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do vậy, việc đòi hỏi phải đổi mới tư duy lý luận là tất yếu. Đồng thời các bài viết, các công trình nghiên cứu cũng nhận định quá trình đổi mới phải dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cần bổ sung và phát triển những thành tựu lý luận đã đạt được để đổi mới phương pháp tư duy, khắc phục lối tư duy kinh nghiệm… Các tác giả đã chỉ ra trong quá trình đổi mới cần phải bám sát vào thực tiễn, tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, đó là yêu cầu to lớn mà thực tiễn đặt ra cho hoạt động lý luận của Đảng ta. Như vậy, đổi mới tư duy lý luận đã được nhiều sự quan tâm trong việc nhận thức, tổng kết, khái quát thực tiễn để từ đó có định hướng đúng đắn trong việc lựa chọn con đường chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì thế, vấn đề đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi phát triển của đất nước, là vấn đề mang tính cấp thiết hiện nay. Việc nghiên cứu sự đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thông qua việc khảo sát các văn kiện của Đảng của mỗi tác giả có những đặc trưng riêng, và tiếp cận đối tượng, vấn đề dưới những góc cạnh khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu việc đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta như một quá trình thể hiện sự thay đổi về mặt nhận thức thông qua các văn kiện, cương lĩnh xây dựng đất nước của Đảng có tính hệ thống còn ít được đề cập. Chính vì vậy, đề tài cũng muốn tiếp cận và làm rõ hơn quá trình đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học 9
  10. Luận văn thạc sĩ triết học đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, với mong muốn đóng góp quan điểm của mình vào việc nghiên cứu sự đổi mới tư duy lý luận của Đảng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở hệ thống hoá những nội dung liên quan đến tư duy lý luận và đổi mới tư duy lý luận, luận văn làm rõ quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thông qua việc khảo cứu các văn kiện đại hội Đảng và cương lĩnh xây dựng đất nước. - Nhiệm vụ nghiên cứu: + Hệ thống hoá một số nội dung cơ bản liên quan đến khái niệm tư duy lý luận và đổi mới tư duy lý luận. + Làm rõ sự đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội - đánh dấu bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng qua các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc và cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu: Thông qua các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ về đổi mới và định hướng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận. Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học 10
  11. Luận văn thạc sĩ triết học Cơ sở lý luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhất là các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nhận thức và tư duy. - Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp phân tích – tổng hợp, lịch sử - logic; các phương pháp được sử dụng đan xen để làm rõ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. 6. Đóng góp của luận văn - Luận văn hệ thống hoá và phân tích ở góc độ triết học vấn đề đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta, thông qua các văn kiện Đại hội Đảng và cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn - ý nghĩa lý luận: Trên cơ sở hệ thống hoá và phân tích dưới góc độ triết học về vai trò của tư duy lý luận và của đổi mới tư duy lý luận trong việc nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta, góp phần làm rõ vai trò của lý luận đối với việc chỉ đạo hoạt động thực tiễn, cũng như mối quan hệ biện chứng giữa chúng. Khẳng định ý nghĩa của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho mọi hành động, quyết sách của Đảng và Nhà nước trong công cuộc đổi mới đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. - ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu, học tập các văn kiện Đảng, các chuyên đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đóng góp thêm ý kiến trong công cuộc đổi mới công tác tư tưởng, lý luận của Đảng Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học 11
  12. Luận văn thạc sĩ triết học 8. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm 4 phần: Phần mở đầu, nội dung, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Phần nội dung gồm: 2 chương và 5 tiết. Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học 12
  13. Luận văn thạc sĩ triết học Chương 1 Đổi mới tư duy lý luận và tính tất yếu của việc đổi mới tư duy lý luận của đảng ta 1.1. Một số vấn đề về tư duy lý luận và đổi mới tư duy lý luận 1.1.1. Tư duy lý luận Ngay thuở ban đầu sơ khai, khi khoa học chưa phát triển và khi triết học đóng vai trò “bách khoa toàn thư” đã xem vấn đề tư duy như một đối tượng không thể thiếu trong nghiên cứu. Các nhà triết học đã đi vào tìm hiểu và giải thích về nguồn gốc sinh thành, phát triển của tư duy, các quy luật của tư duy, cũng như vai trò của nó đối với đời sống hiện thực. Từ những lập trường triết học khác nhau (duy vật hay duy tâm) mà câu trả lời cũng rất phong phú và đa dạng. Trong lịch sử triết học, vấn đề tư duy có vị trí đặc biệt quan trọng. Tư duy với tư cách là đối tượng nghiên cứu, và xem xét nó trong mối quan hệ với vật chất, với thế giới hiện thực khách quan, là vấn đề xuyên suốt trong lịch sử triết học. Chính vì vậy, Ph.Ăngghen khẳng định: “Vấn đề cơ bản của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại” [41; 403]. Khi khoa học tự nhiên và khoa học xã hội và nhân văn phát triển, tư duy ngày càng được nghiên cứu dưới nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau: Sinh lý học nghiên cứu tư duy với tính cách là hoạt động của các hệ thần kinh cấp cao, điều khiển học nghiên cứu cơ chế điều khiển của tư duy, lôgic học thì nghiên cứu những hình thức và những quy luật của tư duy, tâm lý học nghiên cứu sự tác động của hệ thần kinh cấp cao, não người với môi trường xung quanh … Mỗi ngành khoa học đều muốn khám phá tư duy dưới những góc độ riêng, và thông qua những khám phá ấy để minh chứng vai trò to lớn của tư duy trong hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn của con người. Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học 13
  14. Luận văn thạc sĩ triết học Trong hoạt động sống của mình, con người chịu tác động của môi trường thiên nhiên, đồng thời con người cũng tác động trở lại môi trường thiên nhiên ấy, nhằm cải tạo thiên nhiên phục vụ cho cuộc sống của chính mình. Trong mối quan hệ ấy, con người với tư cách là chủ thể tác động vào đối tượng khách quan bằng phương thức riêng biệt đặc trưng riêng cho loài của mình, đó là quá trình tư duy. “Việc tạo một cách thực tiễn ra thế giới vật thể, việc cải tạo thế giới tự nhiên vô cơ là sự tự khẳng định của con người với tư cách là một sinh vật có tính loài có ý thức” [42; 136]. Cố nhiên con vật cũng sản xuất nhưng con vật chỉ sản xuất một cách phiến diện, trong khi con người sản xuất một cách toàn diện. Con vật sản xuất chỉ vì bị nhu cầu thể xác chi phối, còn con người sản xuất cả khi không bị nhu cầu ràng buộc. Cũng có thể nói, khi con người sản xuất không bị nhu cầu thể xác ràng buộc thì con người mới sản xuất theo đúng ý nghĩa của từ đó. Điểm khác biệt giữa con người và con vật là ở chỗ: con vật thì chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên. Quá trình sản xuất của con người không phải một cách tuỳ tiện, vô nguyên tắc mà con người sản xuất theo “quy luật của cái đẹp”, nhà kiến trúc sư trước khi xây dựng ngôi nhà đã hình thành sẵn trong đầu mình mô hình về ngôi nhà đó rồi. Ranh giới phân biệt giữa con người và con vật không phải về mặt địa lý, mặt không gian và thời gian, mà là về mặt tư duy, ý thức. “Chính con người, khi phát triển sự sản xuất vật chất và giao tiếp vật chất của mình, đã làm biển đổi, cùng với hiện thực đó của mình, cả tư duy lẫn sản phẩm tư duy” [36, 38]. Thực chất, tư duy là chức năng riêng biệt vốn có của não người, đó là quá trình con người tiếp cận và nắm bắt hiện thực, là hình thức cao cho sự phản ánh hiện thực, là hình thức cao cho sự phản ánh tích cực, chủ động, có mục đích về thế giới hiện thực khách quan; và được thể hiện ra như là sự nhận thức có tính gián tiếp, khái quát về các mối liên hệ, quan hệ giữa các sự vật, Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học 14
  15. Luận văn thạc sĩ triết học hiện tượng. Tư duy là hình thức cao trong sự phản ánh hiện thực khách quan, trong đó con người qua các tài liệu thu được từ nhận thức cảm tính thực hiện, thông qua các thao tác tư duy (phân tích, tổng hợp, so sánh, phán đoán, suy lý…) phân tích các dữ kiện, tài liệu để đưa kết luận cuối cùng trong chuỗi phản ánh. Mỗi kết luận được đưa ra thường đem lại những tri thức mới. Nội dung của tư duy hình thành trên cơ sở các tài liệu của cảm giác, tri giác, biểu tượng về các sự vật và hiện tượng của thế giới bên ngoài tác động vào chủ thể tư duy. Nhưng quá trình tư duy không phải là sự tổng hợp đơn giản các cảm giác và tri giác ấy. Với bộ công cụ đặc biệt của mình, tư duy giúp cho chủ thể nhận thức phản ánh được những thuộc tính cơ bản, những mối liên hệ cơ bản không chỉ có ở những sự vật riêng lẻ, mà còn ở một nhóm sự vật. Tư duy có khả năng nắm bắt, phát hiện được bản chất của sự vật ngày càng sâu sắc hơn. Tính gián tiếp, khái quát hoá, trừu tượng hoá, tính tích cực và sáng tạo là đặc trưng cơ bản của tư duy con người. Nhờ những đặc trưng này, tư duy thoát khỏi sự ràng buộc của hoàn cảnh trực tiếp mà vẫn có thể nhận thức được đối tượng. Tư duy giúp con người nhận thức sự vật, hiện tượng ở mức độ bản chất của nó. Trong quá trình trừu tượng hoá, dường như tư duy tách rời khỏi hiện thực, khỏi cái cụ thể, cái cảm tính để gạt bỏ cái bề ngoài, ngẫu nhiên, đi vào bên trong, bản chất của sự vật, phát hiện những mối liên hệ căn bản nhất. Từ đó, tái tạo về sự vật, hiện tượng một cách toàn diện, sâu sắc. Tuy nhiên, thế giới khách quan là vô cùng phong phú và đa dạng mà tư duy là kết quả của sự tác động bởi yếu tố khách quan và chủ quan. Vì vậy, quá trình tư duy là một quá trình phức tạp, nó không tiến hành phản ánh một lần mà phải thực hiện cả một chuỗi phản ánh để đi đến nhận thức sâu sắc về đối tượng. Khả năng “tư duy của con người vừa tối cao vừa không tối cao, và khả năng nhận thức của con người vừa vô hạn vừa có hạn. Tối cao và vô hạn là xét theo bản tính, sứ mệnh, khả năng và mục đích lịch sử cuối cùng; không tối cao và có hạn là xét Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học 15
  16. Luận văn thạc sĩ triết học theo sự thực hiện riêng biệt và thực tế trong mỗi thời điểm nhất định” [39; 127]. Do đó, tư duy của con người với sản phẩm của nó, không phải tất cả đều là chân lý, và không thể là một “chân lý vĩnh cửu”. Trên thực tế, vì tư duy có tính sáng tạo; do đó, nó có khả năng vượt trước thực tiễn, đi trước hiện thực khách quan. Nhưng cũng vì sự linh động này mà đôi khi tư duy dễ mắc phải những sai lầm trong quá trình phản ánh khi nó thoát ly hoàn toàn thực tiễn. Điều này làm cho tư duy được thể hiện ra rất phong phú về độ phản ánh cũng như phương pháp phản ánh. Lĩnh vực phản ánh của tư duy rất đa dạng: bao gồm tư duy về kinh tế, tư duy về chính trị, tư duy về văn hóa … nhưng mọi hình thức phản ánh, lĩnh vực phản ánh của tư duy đều có mục đích cuối cùng là nhằm tạo ra sản phẩm được chứng nhận với tên gọi là chân lý. Vì vậy, phương pháp tư duy có thể là tư duy hình thức, tư duy biện chứng hay tư duy siêu hình, tư duy kinh viện… và thông qua cách thức mà chủ thể tư duy phản ánh về đối tượng, sẽ cho phép chúng ta đánh giá được chủ thể tư duy đang ở trình độ nào trong tư duy. ở đây, chúng ta xem xét đến mối quan hệ giữa tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận để xem xét và trả lời cho câu hỏi: Vậy thì trình độ tư duy có mối liên hệ như thế nào với phương pháp tư duy và nó có vai trò như thế nào trong đời sống hiện thực, điểm khác biệt của chúng là ở đâu? Trong mối quan hệ giữa tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận, chúng ta thấy rõ được sự tác động qua lại giữa hai trình độ tư duy này, chúng không hoàn toàn phủ định nhau một cách sạch trơn mà đó là sự phủ định có tính kế thừa, mặc dù có sự khác biệt rõ nét. Tư duy kinh nghiệm với sản phẩm của nó là những tri thức kinh nghiệm, là tập hợp những hiểu biết tích luỹ được, rút ra trong hoạt động nhận thức của chủ thể tư duy, là kết quả được nhận thức bằng con đường trực quan, cảm tính mang tính kinh nghiệm của mỗi người. Những tri thức rút ra từ tư Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học 16
  17. Luận văn thạc sĩ triết học duy kinh nghiệm không phải là chân lý lý luận, là chân lý khoa học đích thực mà chỉ là “chân lý” của những cái đã trải qua và nó bó hẹp trong phạm vi thế giới kinh nghiệm. Cái chung ở tri thức kinh nghiệm chỉ là tổng cộng những sự vật, mối liên hệ riêng lẻ, đơn nhất được tập hợp theo dấu hiệu tương tự, bề ngoài, được lặp đi lặp lại nhiều lần một cách trực quan chứ không phải là cái bản chất, tất yếu, phổ biến tồn tại trong những cái riêng. Kinh nghiệm là sự phản ánh những dấu hiệu, những mối quan hệ hình thức, bề ngoài lặp đi lặp lại nhiều lần trong cuộc sống hiện thực. ở tư duy kinh nghiệm, con người sử dụng những tri thức kinh nghiệm cũ cũng như thông qua hoạt động cải tạo hiện thực khách quan một cách trực tiếp làm phương tiện và cơ sở cho việc xử lý những thông tin mới trong hiện thực, cho việc chế biến ra những tri thức kinh nghiệm mới từ tài liệu cảm tính để định hướng cho hoạt động tiếp theo. Tri thức kinh nghiệm là tri thức của những cái riêng mang tính chất kinh nghiệm nên không thể tự vạch ra con đường nhận thức chân lý trong từng ngẫu nhiên tự phát. Nó chỉ có thể thụ động chạy theo những cái tất yếu, cái bản chất, chuyển hoá của sự vận động chứ không phải là cái có khả năng bao quát được sự vật đó. Tư duy đó hạn chế nhận thức của chủ thể ở trình độ tự phát, thụ động chứ chưa phải tự giác, sáng tạo. Tư duy kinh nghiệm chỉ chủ yếu đi vào những cái riêng, cái đơn nhất không bản chất. Và ở tư duy kinh nghiệm còn tồn tại vô số những cái ngẫu nhiên, tạo nên tổng số những tri thức hạn chế về đối tượng chứ không phải là tái tạo lại toàn bộ sự biện chứng đối tượng trong tư duy. Tư duy lý luận là trình độ cao hơn về chất so với tư duy kinh nghiệm, với sản phẩm là tri thức lý luận, khác với tổng số những tri thức kinh nghiệm mảnh đoạn, tri thức lý luận là hệ thống những khái niệm, phạm trù, quy luật chỉ ra tính tất yếu, phổ quát bao trùm toàn bộ biện chứng của đối tượng. Tri thức lý luận là sản phẩm dựa trên sự tổng hợp, khái quát các tri thức về tự nhiên, xã hội trong quá trình hoạt động của con người hướng đến sự giải Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học 17
  18. Luận văn thạc sĩ triết học thích, làm sáng tỏ những mối liên hệ phổ biến và các quy luật phát triển của hiện thực khách quan. Sức mạnh của tri thức lý luận đã vượt qua cái bề ngoài hình thức của đối tượng, vượt lên những cái thường biến, sinh động của đối tượng để thấy được những mối liên hệ bên trong, lắng đọng, ít biến động, những quan hệ bản chất mà bằng nhận thức trực tiếp, riêng lẻ không thấy nhận thấy được. Tư duy lý luận phản ánh bản chất, quy luật ở các cấp độ, các giai đoạn, các hình thức của sự vật, hiện tượng. Nó đi vào nghiên cứu sâu tầng lớp bên trong của sự vật và bóc tách vấn đề để phản ánh một cách sâu nhất về đối tượng, phản ánh xu thế vận động của đối tượng nên tư duy lý luận có khả năng bao quát, bám sát sự vận động của đối tượng cũng như có khả năng vượt lên trên và dẫn đường, định hướng cho sự vận động và phát triển của đối tượng. Tư duy lý luận là hình thức phản ánh cao nhất của tư duy, nó chính là quá trình mà tư duy tiếp cận, nắm bắt hiện thực, nắm bắt nhận thức trong tái tạo hiện thực khách quan bằng lý luận và được thông qua những giả thuyết, lý thuyết có quan hệ tương hỗ với nhau (tài liệu giảng dạy của TS. Ngô Đình Xây). Tư duy lý luận bao giờ cũng có tính hệ thống và nghệ thuật chuyển hoá lẫn nhau, có tính biện chứng, phản ánh sự vật một cách đa dạng và đầy đủ nhất dưới hình thức lý luận và được thể hiện thông qua những lý thuyết, giả thuyết. Do vậy, vai trò của tư duy lý luận trong hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn là rất lớn. Ph. Ăngghen nói: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận” [40; 489]. Bởi vì, tư duy lý luận cho phép nhà nghiên cứu vạch mở được bản chất phát triển của khách thể nghiên cứu, tạo bước chuyển về chất của đối tượng từ trạng thái này sang trạng thái khác phát hiện và phản ánh vào khoa học các luận điểm, lý thuyết, quy luật tồn tại và phát triển của nó mà nhận thức cảm tính không thể tiếp cận Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học 18
  19. Luận văn thạc sĩ triết học được. “Nhưng làm thế nào khoa học tự nhiên đã chuyển sang lĩnh vực lý luận và trong lĩnh vực này những phương pháp kinh nghiệm trở nên bất lực, chỉ có tư duy lý luận mới có thể giúp ích được” [40; 487]. Bằng tư duy lý luận con người khám phá bản chất, khoan sâu đến bản chất của hiện tượng. Tư duy lý luận đóng vai trò là chất keo dính các sự kiện, hiện tượng, các mối liên hệ, quan hệ của sự vật, hiện tượng. “Dù người ta tỏ ý khinh thường tư duy lý luận như thế nào đi nữa, nhưng không có tư duy lý luận thì người ta cũng không thể liên kết hai sự kiện trong giới tự nhiên với nhau được, hay không thể hiểu được mối liên hệ giữa hai sự liên kết đó” [40; 508]. Tư duy lý luận gắn kết các hình ảnh hoạt động, vận hành bộ máy công cụ của mình để giúp cho nhận thức đi vào bản chất của sự vật. Nhận thức xã hội là quá trình phản ánh đời sống xã hội vào trong ý thức của con người, là một bộ phận của hình thái ý thức xã hội, nó bao gồm nhiều thành tố, hình thái xã hội khác nhau của đời sống tinh thần. Mối quan hệ giữa tư duy lý luận và nhận thức xã hội là mối quan hệ bản chất. Với tư cách là hình thức phản ánh cao nhất của tư duy, là quá trình tư duy tiếp cận, tái tạo và nắm bắt hiện thức khách quan bằng lý luận và thông qua những giả thuyết, lý thuyết có quan hệ tương hỗ; tư duy lý luận giúp cho con người đi sâu vào bản chất của hiện tượng xã hội để tìm ra tính có quy luật, lôgic vận đồng của hiện tượng xã hội. Để từ đó có cách thức, biện pháp thúc đẩy hoạt động thực tiễn của xã hội loài người. Vai trò của tư duy lý luận trong nhận thức xã hội là rất quan trọng. Tư duy lý luận đóng vai trò là phương pháp và phương pháp luận cho nhận thức xã hội. Tư duy lý luận là trình độ phát triển cao hơn về chất so với tư duy kinh nghiệm. Các thao tác tư duy như phân tích – tổng hợp, phân loại – so sánh, cụ thể hoá - hệ thống hoá, khái quát hoá - trừu tượng hoá… được tư duy lý luận sử dụng một cách đa dạng, phong phú, linh động và hiệu quả nhất. Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học 19
  20. Luận văn thạc sĩ triết học Trong tư duy lý luận các thao tác được sử dụng một cách chuyên dụng và có quan hệ kết dính, tương hỗ với nhau tạo thành một hệ thống chặt chẽ. Với tư cách là phương pháp, tư duy lý luận dựa trên bộ công cụ là các thao tác tư duy giúp cho nhận thức xã hội đi sâu vào bản chất của hiện tượng xã hội, tìm ra tính quy luật, tính lôgic trong sự phát triển của hiện tượng xã hội, loại bỏ những cái ngẫu nhiên, bề ngoài, riêng lẻ, tiểu tiết. Tư duy lý luận giúp cho chủ thể nhận thức phân biệt được đâu là nội dung, đâu là hình thức; đâu là bản chất, đâu là hiện tượng; đâu là nguyên nhân, đâu là kết quả; đâu là tất yếu, đâu là ngẫu nhiên… Từ đó, nhận thức xã hội có thể phản ánh được hiện thực xã hội không phải ở cái ngẫu nhiên, ở cái cảm tính trực quan, ở cái bề ngoài, phản ánh những mảnh vụn của hiện thực xã hội, những mảnh vỡ của hoạt động nhận thức mà là ở tính hệ thống, tính bản chất và có quy luật của nó. Với tư cách là phương pháp luận cho nhận thức xã hội, tư duy lý luận còn được xem như là cơ sở lý luận, là cương lĩnh lý luận cho hoạt động nhận thức xã hội. Nó điều khiển hoạt động nhận thức của con người cũng như tính có hiệu quả của hoạt động. V.I. Lênin từng nói: Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng và chỉ có một Đảng nào có được lý luận tiên phong dẫn đường thì mới đóng vai trò tiên phong trong sự phát triển xã hội. Vai trò phương pháp luận góp phần định hướng, chỉ đạo, tìm phương hướng tiếp cận vấn đề lý luận một cách có hiệu quả nhất. Mà ở đây phương pháp tư duy biện chứng được xem là phương pháp tối ưu, với sự góp mặt của ba quy luật và sáu cặp phạm trù cơ bản. Tư duy lý luận với sản phẩm là tri thức lý luận, nó đóng vai trò làm điều kiện, tiền đề cho nhận thức xã hội, trên cơ sở đó vận dụng vào quá trình nhận thức xã hội, phản ánh hiện thực xã hội và cũng như việc áp dụng những học thuyết, lý thuyết xã hội vào trong quá trình hoạt động thực tiễn, giải thích thế giới. Trong vai trò là “bà đỡ lý luận” này, các học thuyết xã hội còn làm tiền đề để xây dựng các học thuyết, lý thuyết xã hội mới trên cơ sở kế thừa, bổ Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
26=>2