You are on page 1of 14

TÁI CƠ CẤU KINH TẾ: MỘT NĂM NHÌN LẠI

TS. Nguyễn Đình Cung


Phó Viện trưởng
Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương

Tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng lại tiếp tục là
chủ đề thảo luận của Diễn đàn kinh tế Mùa Xuân 2013 do Ủy ban Kinh
tế của Quốc hội phối hợp cùng Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt
Nam và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức
tại Nha Trang. Bài viết này nhằm mục đích góp vào các cuộc thảo luận
có liên quan của Diễn đàn, thúc đẩy mạnh hơn, hiệu quả hơn cho quá
trình tái cơ cấu đang ở giai đoạn rất ban đầu. Bài viết gồm ba phần nội
dung. Một là, điểm lại một cách vắn tắt diễn biến kinh tế Việt Nam từ
năm 2007 đến nay; qua đó, muốn làm nổi bật thực trạng kinh tế trong
đó không có giải pháp và con đường khác ngoài tái cơ cấu kinh tế và
chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Phần 2 giới thiệu những việc hay giải
pháp đã làm trong một năm qua liên quan đến tái cơ cấu kinh tế, chuyển
đổi mô hình tăng trưởng; phần ba là giới thiệu một số nhiệm vụ ưu tiên
thực hiện trong năm năm 2013.
I. Điểm lại diễn biến kinh tế Việt Nam từ năm
2007 đến nay
Đã có nhiều báo cáo nghiên cứu, đánh giá diễn biến kinh tế việt
nam 2001-2011 (có phân thành giai đoạn 2007 đến nay) và thực trạng
kinh tế việt nam hiện nay. Căn cứ vào các bằng chứng thực tiễn được
phân tích và sắp xếp một cách khoa học, hầu hết chúng ta đều thống
nhất nhận định về mức độ khó khăn của nền kinh tế Việt Nam và những
nguyên nhân của nó.
Từ năm 2008 đến nay, nền kinh tế nước ta đã và đang trải qua thời
kỳ khó khăn; và mức độ khó khăn của năm sau hình như luôn cao hơn

327
năm trước. Năm 2012, tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 2000; sản xuất
suy giảm; đầu tư phải cắt giảm, chỉ còn 29,5% GDP; lạm phát (tuy đã
được kiền chế) vẫn cao so với trước đây, so với tiêu chuẩn quốc tế; ổn
định kinh tế vĩ mô vẫn mong manh; nợ xấu ngân hàng cao, và chưa có
phương án xử lý đáng tin cậy; thị trường tín dụng ngưng trệ; thị trường
bất động sản (BĐS) đóng băng; thị trường chứng khoán (TTCK) suy
giảm và đìu hiu; đời sống của dân cư giảm sút; sức khỏe của doanh
nghiệp đang giảm sút; nguồn “năng lượng” tích trữ nhiều năm trước
2008 của không ít doanh nghiệp đang cạn dần, số doanh nghiệp giải thể,
phá sản và tạm ngường hoạt động đạt mức cao kỷ lục, niềm tin của nhà
đầu tư giảm sút xuống mức thấp nhất kể từ năm 2005.
Bên cạnh nguyên nhân từ bên ngoài, thì thực trạng hiện nay của nền
kinh tế nước ta do ba lớp nguyên nhân nội tại. Lớp nguyên nhân trực
tiếp chính là chuyển trọng tâm chính sách, thực hiện kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô (thắt chặt tài khóa, thắt chặt tìên tệ và tín dụng, lãi
suất cao, hạn chế, khống chế vốn tín dụng cho các ngành nhạy cảm, “phi
sản xuất”…). Lớp thứ hai chính là các yếu tố buộc chúng ta phải thay đổi
trọng tâm chính sách bằng nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/1/2011 và Kết
luận số 02/KL-TW ngày 16/3/2011… Cụ thể là từ năm 2007 dưới áp lực
của đẩy mạnh tăng trưởng, chúng ta đã chú trọng gia tăng đầu tư. Chính
sách tài khóa và chính sách tiền tệ buộc phải mở rộng để hỗ trợ đầu tư và
tăng trưởng. Điều đó kết hợp với dòng vốn vào quá mức từ bên ngoài đã
làm cho cung tiền tệ trở nên quá mức, và nền kinh tế trở nên tăng trưởng
nóng, lạm phát cao và bất ổn lớn về kinh tế vĩ mô.
Đầu tư và cung tiền quá mức đã thúc đẩy bong bóng thị thị trường,
tạo thành mức cầu ảo quá cao so với mức thu nhập và trình độ thưc tế
của nền kinh tế. Chính mức cầu ảo do bong bóng thị trường nói trên đã
thúc đẩy đầu tư dễ dãi, đầu tư cơ hội và hình thành nguồn cung, nhất
là cung về bất động sản, tương ứng với thực trạng cầu ảo nói trên. Quá
trình đó đã dẫn đến sai lệch lớn giữa cung - cầu thực của nền kinh tế
trên các mặt quy mô, chủng loại và giá cả, không phù hợp với đỏi hỏi
của quá trình phát triển của nền kinh tế. Kết quả hoạt động của nền kinh

328
tế ở giai đoạn này có phần do chính sách, cách thức điều hành kinh tế
và có phần do trách nhiệm của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp
quy mô lớn. Xét về chính sách và thể chế, thì phân bố nguồn lực chủ
yếu do nhà nước dẫn dắt (gồm nhà nước trung ương, địa phương và
doanh nghiệp nhà nước), và theo chỉ dẫn hành chính. Động lực đầu tư
là “đầu cơ” tạo và tìm kiếm địa tô hơn là tìm kiếm lợi nhuận. Các bên
có liên quan chạy theo và lợi dụng các mối quan hệ thân hữu, xin cho
để trục lợi; lợi dụng và lạm dụng độc quyền để trục lợi; đầu tư phục vụ
nhóm lợi ích, đầu tư theo tầm nhìn nhiệm kỳ và chia cắt theo nhiệm kỳ
và địa giới hành chính; đầu tư bầy đàn, phong trào thiếu cân nhắc, tính
toán cẩn trọng, chạy theo các giá trị ảo, “bong bóng thị trường” v.v... Hệ
thống nói trên khuyến khích và dung dưỡng dòng tiền chu chuyển T-T-T
với mức rủi ro đạo đức lớn; mà không khuyến khích và nuôi dưỡng đầu
tư phát triển sản xuất tạo năng lực sản xuất mới, tạo lợi nhuận và giá trị
gia tăng cho xã hội.
Lớp nguyên nhân thứ ba, nguyên nhân cơ bản là yếu kém của cơ
cấu và lạc hậu của mô hình tăng trưởng với hệ thống thể chế không
còn phù hợp, hệ thống khuyến khích thiên về thúc đẩy hành vi “trục lợi
địa tô” thay vì đầu tư tạo ra lợi nhuận, nâng cao giá trị gia tăng. Trong
bối cảnh đó, đáng lẽ, ngay từ 2006-2007, chúng ta phải đổi mới mạnh
hơn theo cơ chế thị trường, thay đổi cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng. Thay vì đổi mới mô hình tăng trưởng, chúng ta đã ưu tiên kích
thích tăng trưởng theo mô hình đã không còn phù hợp. Chính điều đó
đã làm cho phân bố nguồn lực vốn đã sai lệch, kém hiệu quả trở nên sai
lệch và kém hiệu quả hơn.
Tóm lại, khó khăn của nền kinh tế Việt Nam đã kéo dài nhiều
năm; và nền kinh tế mới “cất cánh” không lâu, đã dần mất động lực để
“bay” tiếp. Nguyên nhân cơ bản là những yếu kém và lạc hậu của cơ
cấu kinh tế; và thể chế hiện hành về phân bố nguồn lực đang làm trầm
trọng thêm những yếu kém đó của nền kinh tế. Vì vậy, không ít người
lo ngại về khả năng kinh tế nước ta sẽ bước vào thời kỳ suy giảm. Với
cách nhìn đó, thì giải pháp cho nền kinh tế nước ta không phải là những

329
tính toán ngắn hạn hàng năm (như cung tiền, tín dụng, đầu tư năm nay
là bao nhiêu), cũng không phải là những “gói” cứu một hay thậm chí
một số ngành cụ thể v.v… mà phải là đổi mới căn bản hệ thống động
lực khuyến khích huy động và phân bố nguồn lực để nguồn lực được
phân bố và sử dụng có hiệu quả hơn, tạo ra lợi nhuận và giá trị gia tăng
ngày càng cao. Kinh nghiệm thành công của cải cách trong mấy thập kỷ
qua cho thấy điều mong nuốn nói trên sẽ đạt được chỉ khi thị trường và
cơ chế thị trường được mở rộng hơn và hoạt động tốt hơn, cạnh tranh
thực sự và bình đẳng hơn, mở cửa nhiều hơn và thực chất hơn; cơ hội
nhiều hơn cho khu vực tư nhân; doanh nghiệp nhà nước và đầu tư nhà
nước giảm về quy mô nhường chỗ cho khu vực tư nhân, nhất là doanh
nghiệp vừa và nhỏ; môi trường kinh doanh không nhằm bảo vệ cơ hội
kinh doanh và lợi ích một nhóm doanh nghiệp hay một ngành cụ thể mà
tạo cơ hội cho bất cứ ai có sáng kiến và dám chấp nhận rủi ro v.v…
Sơ đồ 1. Những diễn biến của nền kinh tế Việt nam từ năm 2007 đến nay

330
II. Những việc đã và đang làm liên quan đến tái
cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng
1. Quan niệm về tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng
trưởng
Hai khái niệm “tái cơ cấu kinh tế” và “chuyển đổi mô hình tăng
trưởng” đã được giới truyền thông, nghiên cứu kinh tế và hoạch định
chính sách sử dụng phổ biến trong nhiều năm qua. Trong bài viết này,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng là quá trình chuyển “…từ chủ yếu phát
triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều
sâu, vừa mở rộng quy mô, vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả
và tính bền vững”. Như vậy, chuyển đổi mô hình tăng trưởng hiện nay
về bản chất là thay đổi động lực của tăng trưởng kinh tế; năng suất lao
động, hiệu quả sử dụng các nguồn lực phải được cải thiện để dần thay
thế số lượng đầu tư, lao động, tài nguyên thiên nhiên và trở thành động
lực của tăng trưởng kinh tế.
Sơ đồ 2. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng

Tái cơ cấu kinh tế là quá trình phân bố lại nguồn lực (trước hết là
vốn đầu tư) trên phạm vi quốc gia nhằm cải thiện và nâng cao hiệu quả
sử dụng các nguồn lực nói riêng và của tòan bộ nền kinh tế nói chung
của nền kinh tế (bao gồm hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bố). Để
làm được điều đó, về chính sách, cần cải thiện và nâng cao chất lượng
môi trường kinh doanh (ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển hạ tầng, phát
triển nguồn nhân lực và cải cách thể chế v.v…) để cơ chế thị trường

331
được vận hành tốt và phát huy đầy đủ hiệu lực trong huy động và phân
bố nguồn lực. Khởi động của tái cơ cấu kinh tế phải là đổi mới hệ thống
đòn bẩy khuyến khích, thúc đẩy nguồn lực phân bố đến những nơi sử
dụng có hiệu quả cáo hơn, đồng thời, buộc các doanh nghiệp, các nhà
đầu tư phải đổi mới cách thức sử dụng nguồn lực, đổi mới cách thức
quản lý v.v... để nâng cao hiệu quả, năng cao năng suất và nâng cao
năng lực cạnh tranh. Như vậy, thay đổi thể chế, thay đổi tạo lập hệ thống
đòn bẩy phù hợp chính là khởi đầu của quá trình tái cơ cấu kinh tế.
Sơ đồ 3. Quá trình tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng ở
nước ta giai đoạn 2013-2020

Ổn định
kinh tế vĩ Nâng cao
mô hiệu quả
kỹ thuật

Phát Cơ cấu
triển hạ kinh tế
tầng hợp lý,
Thay đổi Phân bố lại năng
hệ thống nguồn lực xã động,
Thay đổi thể hội trên phạm năng lực
chế (thị động các
đòn bẩy vi toàn quốc và cạnh
trường và toàn bộ nền tranh và
inclusive) có khuyến
khích kinh tế tiềm năng
liên quan phát triển
Cải thiện cao hơn
Phát triển hiệu quả
nguồn phân bổ
nhân lực

Thị trường Đầu tư Phân bố, cơ cấu Cơ cấu vùng


DNNN
tài chính công lại ngành sản kinh tế
xuất và dịch vụ

1. Một số việc đã và đang triển khai liên quan đến tái cơ cấu kinh
tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng
Có thể nói, tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng đã
thu hút sự quan tâm không chỉ của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, mà còn
của hầu như tất cả các nhóm và tầng lớp dân cư trong xã hội. Xét về văn
bản chính sách, một năm qua, Chính phủ đã ban hành:
• Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10/5/2012 về một số giải pháp
tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường
• Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 7/1/2013 Về những giải pháp
chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2013

332
• Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 7/1/2013 về một số giải pháp
tháo gở khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường,
giải quyết nợ xấu.
• Quyết định số 704/QĐ-TTg ngày 11/6/2012 phê duyệt Đề án
hoàn thiện quản trị doanh nghiệp theo thông lệ thị trường,
• Quyết định số 929/QĐ-TTg ngày 17/7/2012 phê duyệt Đề án
tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn, tổng
công ty nhà nước giai đoạn 2012-2015.
• Quyết định 339/QĐ-TTg ngày 19 tháng 2 năm 2013 Phê duyệt
Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình
tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng
lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020.
Sau đây, tôi xin điểm lại một số công việc chủ yếu đã và đang làm
liên quan đến tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
a. Hỗ trợ, “cứu” doanh nghiệp, giải quyết hàng tồn kho, kể cả tồn
kho bất động sản.
Đây không phải là giải pháp chính sách trong nội dung tái cơ cấu
kinh tế, nhưng có liên quan đến thực thi các chính sách tái cơ cấu kinh
tế. Các giải pháp tập trung vào tạm thời giảm chi phí tài chính cho một
số nhóm doanh nghiệp (giãn hay hoãn nộp thuế Thu nhập doanh nghiệp,
thuế giá trị gia tăng, giảm tiền thuê đất, giảm lãi suất v.v…), tăng thêm
cầu, mở rộng thêm tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, cho kinh
doanh bất động sản, cho người thu nhập thấp mua nhà ở xã hội; tăng
và đẩy nhanh giải ngân đầu tư bằng vốn ngân sách và trái phiếu chính
phủ; cơ cấu lại nguồn cung và tăng cầu mua nhà thu nhập thấp v.v… Về
bản chất, các giải pháp nhóm này nhằm vào giải quyết khó khăn phát
sinh từ thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/1/2011 về các giải
pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; và các giải pháp nói trên
không khác nhiều về bản chất so với nhiều giải pháp đã thực hiện trước
năm 2011, góp phần làm bất ổn vĩ mô và đẩy lạm phát lên cao. Xem xét
các giải pháp nói trên, tôi thấy có một số đặc điểm sau đây:

333
- Về cơ bản, chỉ xử lý vấn đề “ngọn”, không phải vấn đề gốc;
- Cách làm: vẫn “Nhà nước dẫn dắt”, “quan chức nhà nước dẫn
dắt”, vì lợi ích của một nhóm doanh nghiệp chứ không phải toàn nền
kinh tế;
- Thiên về hành chính, hơn là thị trường, không thấy động lực
mới, không thấy “hy sinh, đánh đổi”, không thấy cạnh tranh, không
thấy trách nhiệm giải trình buộc những doanh nghiệp, nhà đầu tư có sai
lầm phải trả giá cho những sai lầm đó của họ v.v….
- Động lực đằng sau đó là để phục hồi và duy trì hiện trạng phân
bố nguồn lực trước đây; dần dần chờ kinh tế phục hồi, giá lên, “đâu sẽ
vào đó, như cũ”; và lúc đó vấn đề sẽ được giải quyết.
Rõ ràng, các giải pháp này sẽ không thành công như mong đợi cả
về ngắn hạn và dài hạn; mà ngược lại, có thể chỉ kéo dài thêm tình trạng
trì trệ của doanh nghiệp, của nền kinh tế; không tạo cơ hội sáng tạo,
chuyển tài sản chết thành “vốn sống và lưu chuyển, làm “bùng nổ” cơ
hội đầu tư và kinh doanh; làm chậm lại quá trình tái cơ cấu kinh tế và
chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
b. Về tái cơ cấu DNNN, như trên đã nói, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành hai quyết định quan trọng (quyết định 929/QĐ-TTg ngày
17/7/2012; và quyết định 704/QĐ-TTg ngày 11/6/2012 về hoàn thiện
quản trị doanh nghiệp theo thông lệ thị trường). Các công việc đang
triển khai thực hiên bao gồm:
- Tái cơ cấu danh mục đầu tư, ngành nghề kinh doanh, tập trung
vào các ngành kinh doanh chính. Trên nội dung này, mục tiêu được xác
định là rất rõ ràng; quyết tâm chính trị cũng rất cao, đã được khẳng định
bằng Nghị quyết của Đảng, của Quốc hội và Chính phủ. Tuy vậy, việc
triển khai chưa thực sự khẩn trương; chủ yếu chuyển giao nội bộ tập
đoàn, tổng công ty hoặc giữa các doanh nghiệp nhà nước, mà chưa bán
ra bên ngoài theo cơ chế thị trường, giá thị trường. Nhìn chung, chưa
có động lực và áp lực buộc các DNNN, người quản lý DNNN phải tính
toán, cân nhắc các chi phí cơ hội; nên tâm lý sợ rủi ro, chờ đợi hoặc

334
trì hoãn, hơn là nỗ lực và sáng tạo nhanh chóng thoái vốn đầu tư ngoài
ngành để tập trung váo ngành nghề kinh doanh chính.
- Cổ phần hoá vẫn chậm; nếu mục tiêu cổ phần hoá là huy động
vốn, thì không hy vọng nhiều trong các năm tiếp theo.
- Các thể chế tạo thêm sức ép và đòn bẩy để DNNN hoạt động theo
cơ chế thị trường (sửa đổi Hiến pháp, Nghị định công bố thông tin đối
với tập đoàn, tổng công ty nhà nước; Nghị định về giám sát và đánh giá
kết quả hoạt động của DNNN, quy chế quản trị DNNN, kể cả lập cơ
quan chuyên trách thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước tại các doanh
nghiệp) đang được nghiên cứu, soạn thảo.
c. Về tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng, các giải pháp đã và
đang tập trung xử lý một số nội dung chính sau đây:
- Tái cơ cấu các ngân hàng thương mại yếu kém; đang triển khai tái
cơ cấu 9 ngân hàng yếu kém theo phương án đã được Ngân hàng Nhà
nước phê duyệt. Tuy vậy, kết quả tái cơ cấu cụ thể đối với từng ngân
hàng chưa được thông bao, và vẫn là một câu hỏi lớn.
- Phương án xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng đã được thông
qua; phương án thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của Công ty
quản lý tài sản (VAMC) đang được hoàn thiện. Các giải pháp khác để
xử lý nợ xấu đang được triển khai. Nợ xấu được thông báo đã giảm từ
khoảng gần 9% tổng dư nợ xuống còn 6% vào đầu tháng 3/2013.
Tuy vậy, xem xét các giải pháp xử lý nợ xấu cho đến nay (kể cả
đang trong soạn thảo), tôi thấy nợ xấu được xử lý theo các biện pháp
nghiệp vụ, hành chính nhiều hơn là chuyển khối tài sản thế chấp thành
vốn và chuyển vào các mục đích sản xuất, kinh doanh; chưa chú trọng
giải thoát cho các bên khỏi “mối quan hệ tín dụng hiện có”. Mới chú
ý nhiều đến làm sạch báo cáo tài chính của ngân hàng, chưa chú ý giải
phóng gánh nặng nợ cho doanh nghiệp. Vì vậy, các tổ chức tín dụng có
thể tuyên bố hay báo cáo đã hoàn thành xử lý nợ xấu, thì gánh nặng nợ
đối với doanh nghiệp có thể vẫn còn nguyên; do đó, doanh nghiệp vẫn
chưa tiếp cận được tín dụng một cách bình thường, và chưa thể khôi

335
phục lại hoạt động bình thường như mong muốn. Như vậy, mục đích xử
lý nợ xấu có thể chưa đạt được.
- Tái cơ cấu tổng thể, toàn diện cả hệ thống nói chung và từng
tổ chức tín dụng nói riêng. Sau hơn một năm tái cơ cấu, kết quả hay
được thông báo là “hệ thống vượt qua giai đoạn khó khăn nhất”, “thanh
khoản được cải thiện”, “nợ xấu không tăng, hay tốc độ tăng giảm…”.
Tuy vậy, hình như chưa có cải thiện nhiều trong vai trò của hệ thống các
tổ chức tín dụng đối với hoạt động bình thường của nền kinh tế.
d. Về tái cơ cấu đầu tư công, không có đề án riêng. Cho đến nay
chủ yếu thực hiện theo Chỉ thị 1792/CT-TTg ngày 15 tháng 10 năm
2011 về tăng cường quản lý vốn dầu tư từ ngân sách nhà nước và trái
phiếu chính phủ. Kết quả là đầu tư nhà nước đã được cắt giảm cả về số
vốn và số dự án; phân bố vốn đầu tư tập trung hơn; khắc phục một bước
tình trạng “đầu tư phân tán, dàn trải…”. Tuy vậy, thể chế và cách làm
cũ vẫn chi phối phân bố và sử dụng vốn đầu tư nhà nước; về cơ bản so
với trước đây điểm khác biệt là quy mô nhỏ hơn, số lượng dự án ít hơn,
nhất là số mới được quyết định đầu tư. Ngoài ra, hiện nay Bộ Kế hoạch
và Đầu tư đang soạn thảo khung kế hoạch đầu tư trung hạn; luật đầu tư
công. Điều quan trọng là phải xác định rõ và cụ thể vai trò, phạm vi và
chức năng của đầu tư nhà nước, quy trình, tiêu chí,… lựa chọn được
dự án có hiệu quả kinh tế xã hội cao và tập trung phân bố vốn vào dự
án có hiệu quả kinh tế-xã hội cao nhất; phải đổi mới được chế độ phân
cấp đầu tư, nhất là Trung ương - Địa phương; phải được “hard budget
constraints” để buộc các bộ, địa phương, tập đoàn và tổng công ty nhà
nước phải có đổi mới và sáng tạo trong đầu tư theo hướng “đầu tư ít
hơn, hiệu quả cao hơn”, hạn chế chạy theo số lượng đầu tư, số lượng dự
án, ngăn chặn được cơn “khát đầu tư” như thời gian qua.
Tóm lại, các công việc đã làm để tái cơ cấu kinh tế mới chỉ là giai
đoạn đầu; chưa tập trung vào giải quyết vấn đề căn bản là tạo lập một hệ
thống động lực khuyến khích mới để phân bố lại nguồn lực trong toàn
xã hội, làm cho nguồn lực được sử dụng có hiệu quả hơn, hợp lý và bền
vững hơn; chưa khuyến khích, tạo thuận lợi và ạo áp lực để các doanh

336
nghiệp, nhà đầu tư dám chấp nhận rủi ro, có tư duy mới, cách làm mới
để cơ cấu lại và sử dụng tốt hơn các nguồn lực và tài sản xã hội; mà trái
lại có phần dung dưỡng, che chắn cho một số doanh nghiệp mà chính
họ là những tác nhan của khó khăn kinh tế hiện nay. Từ dó, hình như
vẫn còn chần chừ, do dự ở các bộ, cơ quan nhà nước và doanh nghiệp,
muốn níu kéo lại những gì đã có. Chưa có những cải cách đáng kể, thực
sự theo cơ chế thị trường và hội nhập. Do đó, tuy đã có những khởi đầu
quan trọng, nhưng nền kinh tế chưa có động lực mới. Nền kinh tế hiện
nay như một chiếc xe trên ngã ba đường. Thẳng tiến là vực sâu; phải rẽ
sang xa lộ khác; nhưng để sang được xa lộ khác đẹp hơn, rộng hơn, thì
phải qua một chặng đường gập ghềnh và khúc khỉu; người lái và hành
khách trên xe có vẻ chưa đồng lòng vượt đốc.
III. Những công viêc ưu tiên thực hiện trong
năm 2013
Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh thành phố trực thuộc
trung ương, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước tập trung thực hiện
ngay các nhiệm vụ sau đây:
1. Thành lập Ban Chỉ đạo tái cơ cấu do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
làm Trưởng ban để tham mưu cho cấp uỷ Đảng, chính quyền chỉ đạo,
tổng hợp, điều phối và kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện tái cơ cấu
của từng Bộ, cơ quan, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ được giao.
2. Xây dựng và triển khai thực hiện ngay trong nửa đầu năm 2013
Chương trình hành động tái cơ cấu trên lĩnh vực, ngành hoặc vùng lãnh
thổ thuộc thẩm quyền quản lý. Đề án, chương trình tái cơ cấu trên các
ngành, lĩnh vực hoặc vùng lãnh thổ phải quán triệt và thể hiện đầy đủ
mục tiêu, quan điểm, nội dung và giải pháp tái cơ cấu của Đề án tổng
thể tái cơ cấu kinh tế; và phải có các nội dung: Mục tiêu, nội dung và
nhiệm vụ, các giải pháp cụ thể, lộ trình thời hạn thực hiện, cơ quan, đơn
vị chịu trách nhiệm thực hiện và các vấn đề khác có liên quan.

337
3. Đẩy nhanh việc hoàn thiện thể chế, có đột phá về tạo lập hệ
thống đòn bẩy, cơ chế khuyến khích và ưu đãi đầu tư đồng bộ (từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm và xuất khẩu), ổn định và dài hạn để tăng
cường huy động vốn đầu tư tư nhân trong nước và nước ngoài, phân bố
lại nguồn lực xã hội thực hiện tái cơ cấu kinh tế.
-Trước hết phải tập trung soạn thảo và trình Quốc hội các luật:
Luật Đầu tư công, Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư (sửa đổi), Luật Doanh
nghiệp (sửa đổi), Luật Đấu thầu (sửa đổi), Luật Ngân sách nhà nước
(sửa đổi), Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi, bổ sung một số
điều), Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi, bổ sung một số điều);
- Hoàn thiện khuôn khổ và nâng cao hiệu lực quản trị các tập đoàn
và tổng công ty nhà nước, trong đó tập trung soạn thảo và ban hành các
nghị định:
+ Nghị định về quy chế quản trị và công bố thông tin đối với công
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 100% sở hữu nhà nước (theo
chuẩn mực tương tự như các công ty niêm yết);
+ Nghị định (bổ sung, sửa đổi) quy định về thành lập, tổ chức lại,
giải thể công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 100% sở hữu nhà
nước;
+ Nghị định (sửa đổi, bổ sung) về giao, bán doanh nghiệp nhà nước;
+ Đề án thành lập cơ quan chuyên trách thực hiện quyền chủ sở
hữu nhà nước tại các doanh nghiệp và Dự thảo Nghị định về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan đó.
+ Nghị định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của
Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước;
+ Nghị định về giám sát tài chính và đánh giá hiệu quả tài chính
đối với doanh nghiệp 100% sở hữu nhà nước và hiệu quả vốn nhà nước
đầu tư tại các doanh nghiệp;
+ Nghị định (bổ sung, sửa đổi) về chuyển doanh nghiệp 100% vốn
nhà nước thành công ty cổ phần.

338
- Xây dựng quy trình liên thông thực hiện các thủ tục hành chính
về đầu tư - xây dựng, từ chấp thuận chủ trương đầu tư, chấp thuận hoặc
cấp giấy phép cho dự án đầu tư, đánh giá tác động môi trường đến thỏa
thuận giao đất, cho thuê đất, cấp phép xây dựng v.v..; đồng thời, tổ chức
dịch vụ một cửa liên thông cho các thủ tục hành chính nói trên.
- Xây dựng các chương trình đồng bộ hỗ trợ phát triển cụm sản
xuất liên ngành và nâng cấp chuỗi giá trị sản xuất, tăng giá trị gia tăng
nội địa đối với các sản phẩm: Điện tử và công nghệ thông tin, Dệt may,
giày da, chế biến lương thực, thực phẩm, công nghiệp xanh và năng
lượng tái tạo, cơ khí chế tạo, đóng mới và sửa chữa tàu biển, ô tô và phụ
tùng ô tô, máy nông nghiêp, lúa gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều, cá
da trơn, tôm và các loại hải sản khác, các loại rau, quả nhiệt đới v.v...
- Rà soát, đánh giá, kiến nghị bổ sung sửa đổi (hoặc bổ sung, sửa
đổi theo thẩm quyền) quy hoạch phát triển hạ tầng giao thông phù hợp
với Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, Nghị quyết số 13-
NQ/TW Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XI
về xây dựng hệ thống hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020; phát triển
hạ tầng giao thông phải gắn với thúc đẩy và khuyến khích đầu tư, thuận
lợi hoá thương mại, lưu chuyển người và hàng hoá.
4. Các tập đoàn và tổng công ty nhà nước chủ động thực hiện đề án
tái cơ cấu trên các mặt:
- Tái cơ cấu danh mục ngành, nghề kinh doanh và đầu tư, tập trung
vào các ngành, nghề chính có năng lực phù hợp và có lợi thế cạnh tranh;
đẩy nhanh thực hiện theo nguyên tắc thị trường việc thoái vốn nhà nước
đã đầu tư vào các ngành không phải kinh doanh chính hoặc không trực
tiếp liên quan đến ngành kinh doanh chính và vốn nhà nước ở các công
ty cổ phần mà Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối;
- Tái cơ cấu vốn và tài sản, củng cố và tăng cường tính bền vững
tài chính của doanh nghiệp, đối phó có hiệu quả với các biến động bất
lợi của thị trường;

339
- Tái cơ cấu, đổi mới quy trình sản xuất, đổi mới đa dạng hóa và
khác biệt hóa sản phẩm, xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm;
- Tái cơ cấu, đổi mới tổ chức quản lý, đổi mới và tăng cường hiệu
lực quản trị nội bộ;
- Tái cơ cấu thị trường, vừa giữ vững vị trí cạnh tranh ở thị trường
truyền thống, vừa phát triển các thị trường mới, chú ý tận dụng tối đa
các cơ hội của thị trường trong nước;
- Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu tái cơ cấu.
5. Về tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng, tập trung hoàn thiện
và trình Thủ tướng phê duyệt trong thời hạn sớm nhất các đề án: Đề án
xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, đề án thành lập Công ty quản lý
tài sản của Việt nam (VAMC) dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên Nhà nước, loại hình doanh nghiệp nhà nước đặc
biệt; đẩy nhanh triển khai xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng theo Đề
án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Đồng thời, cần phải đánh giá và xác định đầy đủ thực trạng sở hữu
chéo hiện nay trong hệ thống các ngân hàng thương mại và tổ chức tài
chính; cập nhật và công bố công khai cơ cấu sở hữu và thực trạng sở
hữu chéo của các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính trên trang
thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, và thực hiện các giải
pháp khác ngăn ngừa và loại trừ ảnh hưởng chi phối tiêu cực và vi phạm
pháp luật của các cổ đông, nhóm cổ đông chi phối trong huy động, phân
bổ và sử dụng vốn tín dụng ngân hàng; hạn chế các hành vi thâu tóm,
lũng đoạn và chi phối các ngân hàng thương mại cổ phần gây rủi ro đối
với từng ngân hàng và toàn hệ thống ngân hàng.

340

You might also like