« Home « Kết quả tìm kiếm

Giải bài tập Ngữ văn lớp 7 bài 18: Tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất


Tóm tắt Xem thử

- Tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất I.
- Bằng lối nói ngắn gọn, có lần, có nhịp điệu, giàu hình ảnh, những câu tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất đã phản ánh, truyền đạt những kinh nghiệm quý báu của nhân dân trong việc quan sát các hiện tượng tự nhiên và trong lao động sản xuất..
- Những câu tục ngữ ấy là “túi khôn” của nhân dân nhưng chỉ có tính chất tương đối chính xác vì không ít kinh nghiệm được tổng kết chủ yếu là dựa vào quan sát..
- Các em không chỉ đọc kĩ mà nên học thuộc, vì những câu tục ngữ này không chỉ có giá trị văn học mà còn có giá trị trong thực tế đời sống..
- Có thể chia tám câu tục ngữ trong bài làm mấy nhóm? Mỗi nhóm gồm những câu nào? Gọi tên từng nhóm đó..
- Tám câu tục ngữ trong bài có thể chia làm hai nhóm..
- Những câu tục ngữ nói về các hiện tượng thiên nhiên..
- Những câu tục ngữ nói về kinh nghiệm lao động sản xuất..
- Phân tích từng câu tục ngữ theo những phương diện nghĩa, cơ sở thực tiễn, khả năng áp dụng giá trị của kinh nghiệm mà câu tục ngữ thể hiện..
- Nghĩa: Nói về hiện tượng ngày đêm trái ngược nhau.
- Cơ sở thực tiễn: Dựa vào sự quan sát của nhân dân vào hai mùa tháng 5 (mùa hè), tháng 10 (mùa đông)..
- Khả năng áp dụng: Câu tục ngữ này hoàn toàn đúng với thực tế và cơ sở khoa học về sự vận động của trái đất quay xung quanh mặt trời..
- Giá trị kinh nghiệm: Câu tục ngữ giúp ta chủ động trong việc sắp xếp thời gian, lịch trình công việc của mình cho phù hợp với thời gian lúc ngày dài đêm ngắn và ngược lại, đặc biệt là ở nông thôn..
- Cơ sở thực tiễn: Đêm nhiều sao, trời không mấy thì khả năng mưa ít xảy ra..
- Khả năng áp dụng: Không hoàn toàn tuyệt đối, bởi lẽ có những lúc ngày sao nhiều mà trời vẫn mưa, và có những lúc sao ít nhưng trời lại nắng..
- Giá trị kinh nghiệm: Giúp cho người nông dân dự đoán được thời tiết ngày hôm sau để chủ động trong việc gieo trồng, gặt hái, cày bừa..
- Cơ sở thực tiễn: Dựa trên hiện tượng tự nhiên có thật mà nhân dân đã quan sát và thấy ứng nghiệm...
- Khả năng áp dụng: Hoàn toàn đúng với thực tế..
- Giá trị kinh nghiệm: Giúp người dân phòng chống được giông bão, giảm thiểu thiệt hại..
- Nghĩa: Vào tháng bảy âm lịch mà thấy kiến bò lên cao là hiện tượng báo sắp có lũ xảy ra..
- Cơ sở thực tiễn: Loài kiến thường hay làm tổ ở dưới đất, khi cảm nhận được sắp có lụt xảy ra chúng sẽ tìm cách bò lên chỗ cao..
- Khả năng áp dụng: Hiện tượng này thường rất đúng với thực tế..
- Giá trị kinh nghiệm: Nhìn vào đàn kiến bò lên cao tìm nơi ẩn trú người dân biết trước sắp có lụt xảy ra nên tìm cách bảo vệ tài sản mùa màng..
- Cơ sở thực tiễn: Đất là nơi con người trồng trọt, cày cấy, sản xuất ra lúa gạo, của cải vật chất mang lại sự sống ấm no..
- Khả năng áp dụng: Câu tục ngữ là một chân lí tuyệt đối đúng..
- Giá trị kinh nghiệm: Câu tục ngữ khuyên con người phải biết quý trọng đất đai, biết chăm chỉ lao động sản xuất.
- Nghĩa: Câu tục ngữ xếp thứ tự các ngành nghề trên cơ sở giá trị kinh tế do nghề ấy tạo ra: Thứ nhất nuôi cá, thứ hai trồng trọt, thứ ba làm ruộng..
- Cơ sở thực tiễn: Câu tục ngữ này không hoàn toàn chính xác bởi lẽ hiệu quả kinh tế của từng nghề còn phụ thuộc vào hoàn cảnh địa lí của từng thời vụ..
- Khả năng áp dụng: Dựa trên so sánh hiệu quả thực tế về kinh tế giữa các nghề mang lại..
- Giá trị kinh nghiệm: Giúp cho người dân đầu tư có hiệu quả trong sản xuất..
- Nghĩa: Câu tục ngữ khẳng định thứ tự quan trọng của các yếu tố đối với nghề trồng lúa: Thứ nhất là nước, thứ hai phân bón, thứ ba là chăm sóc, thứ tư là giống lúa..
- Cơ sở thực tiễn: Dựa trên cơ sở thực tế trồng lúa lâu đời của cha ông, nhân dân đã quan sát đúc kết nên kinh nghiệm đó..
- Khả năng áp dụng: Trong điều kiện khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển, thứ tự của bốn yếu tố đó có thể hoán đổi..
- Giá trị kinh nghiệm: Câu tục ngữ giúp người lao động biết được thứ tự quan trọng của các yếu tố trong nghề trồng lúa.
- Nghĩa: Câu tục ngữ nói về tầm quan trọng của thời vụ - mùa nào thì trồng cây ấy cho phù hợp với thời tiết – và việc cày xới đất đai để thuận lợi cho sự phát triển của cây trồng..
- Cơ sở thực tiễn: Dựa trên cơ sở thực tế của việc trồng trọt..
- Khả năng áp dụng: Hoàn toàn đúng với thực tế “mùa nào thức ấy” thì bao giờ cũng dễ gieo trồng hơn.
- Giá trị kinh nghiệm: Nhắc nhở người dân gieo trồng đúng thời vụ, cày bừa kĩ càng trước khi gieo trồng..
- Nhìn chung, tục ngữ có những đặc điểm về hình thức: Ngắn gọn, có vần, đối xứng, lập luận chặt chẽ, giàu hình ảnh.
- Ngắn gọn: Hầu hết các câu tục ngữ chỉ có 6 đến 8 chữ, có những câu chỉ có 4 chữ: “Nhất thì, nhì thục”.
- “Tấc đất, tấc vàng” cô đọng, súc tích thể hiện sự dứt khoát nhấn mạnh kinh nghiệm đồng thời làm cho câu tục ngữ dễ thuộc, dễ nhớ..
- Vần: Tám câu tục ngữ câu nào cũng có vần, đại đa số là vần lưng (vẫn nằm ở giữa câu) có những câu có tới hai vần.
- Mỗi câu tục ngữ thường có các vế đối xứng nhau về cả hình thức và nội dung.
- “tất đất 7 tấc vàng”, “nhất thì / nhì thục”.
- Tục ngữ là sự đúc rút của kinh nghiệm, là tiếng nói của trí tuệ, vì thế thường khô khan nhưng nhân dân ta đã diễn đạt tục ngữ bằng những hình ảnh cụ thể, sinh động..
- Có những câu tục ngữ cấu trúc theo quan hệ nhân quả, cách sử dụng số tự để sắp xếp thứ tự tầm quan trọng của từng khâu:.
- Tác dụng: Làm cho tục ngữ trở nên sinh động, dễ nhớ, dễ thuộc có sức thuyết phục cao..
- Sưu tầm thêm một số câu tục ngữ, có nội dung phản ánh kinh nghiệm của nhân dân ta về các hiện tượng mưa, nắng, bão lụt..
- Nghĩa đen và nghĩa bóng của tục ngữ quan hệ hữu cơ với nhau.
- Nghĩa bóng được thể hiện thông qua nghĩa đen, trên cơ sở của nghĩa đen.
- “Một câu tục ngữ còn ngắn hơn cả mũi con chim” Trong mỗi câu tục ngữ, một kinh nghiệm, tư tưởng lớn biểu hiện trong một mệnh đề.
- trí tuệ, tình cảm của chủ thể kinh nghiệm dân gian được chắt lọc, cô đúc lại.
- Có một điều rất lí thú là quá trình hình thành dị bản của tục ngữ nhiều khi là quá trình diễn ra sự rút gọn các ngôn từ vốn đã cô đọng..
- Cũng nhờ hình ảnh chính xác mà sinh động, cụ thể mà khái quát, kinh nghiệm mà chân lí của tục ngữ trở nên có sức thuyết phục hơn.
- Tục ngữ không đơn thuần chỉ là những hình thức nhận thức duy lí mà còn là những hình thành đánh giá thẩm mĩ về các hiện tượng tự nhiên, xã hội.