« Home « Kết quả tìm kiếm

Những vấn đề lý luận cơ bản về dịch vụ Logistics của các DN


Tóm tắt Xem thử

- Những vấn đề lý luận cơ bản về dịch vụ Logistics của các DN1.Một số khái niệm và định nghĩa về logisticsThuật ngữ ''Logistics'' nguyên bản được sử dụng trong quân đội với ý nghĩalà quá trình cung cấp các phương tiện, trang thiết bị phục vụ cho quân đội.Trên thế giới, dịch vụ logistics rất phát triển và đóng một vai trò quan trọngtrong ngành dịch vụ, thu hút một lượng lớn lực lượng lao động, gia tăng lợinhuận cho các nhà cung cấp và thúc đẩy các ngành khác phát triển.
- Trên thếgiới, khái niệm logistics được đề cập bởi nhiều tổ chức khác nhau với cáckhía cạnh khác nhau gồm:Liên Hợp Quốc: Logistics là hoạt động quản lý quá trình lưu chuyển nguyênvật liệu qua các khâu lưu kho, sản xuất ra sản phẩm cho tới tay người tiêudùng theo yêu cầu của khách hàng.Ủy ban Quản lý Logistics của Hoa Kỳ: Logistics là quá trình lập kế hoạch,chọn phương án tối ưu để thực hiện việc quản lý, kiểm soát việc di chuyển vàbảo quản có hiệu quả về chi phí và ngắn nhất về thời gian đối với nguyên vậtliệu, bán thành phẩm và thành phẩm, cũng như các thông tin tương ứng từgiai đoạn tiền sản xuất cho đến khi hàng hóa đến tay người tiêu dùng cuốicùng để đáp ứng yêu cầu của khách hàng.Hội đồng quản trị logistics Hoa Kỳ 1988: Logistics là quá trình liên kế hoạch,thực hiện và kiểm soát hiệu quả, tiết kiệm chi phí của dòng lưu chuyển và lưutrữ nguyên vật liệu, hàng tồn, thành phẩm và các thông tin liên quan từ điểmxuất xứ đến điểm tiêu thụ, nhằm mục đích thỏa mãn những yêu cầu củakhách hàng.Trong lĩnh vực quân sự, logistics được định nghĩa là khoa học của việc lập kếhoạch và tiến hành di chuyển và tập trung các lực lượng, các mặt trong chiếndịch quân sự liên quan tới việc thiết kế và phát triển, mua lại, lưu kho, dichuyển, phân phối, tập trung, sắp đặt và di chuyển khí tài, trang thiết bị.Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 (Điều 233): Trong Luật Thương mại2005, lần đầu tiên khái niệm về dịch vụ logistics được pháp điển hóa.
- Luậtquy định ''Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổchức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm nhận hàng, vận chuyển,lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn kháchhàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác cóliên quan tới hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao''.Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau nhưng các khái niệm về dịch vụlogistics có thể chia làm hai nhóm:- Nhóm định nghĩa hẹp mà tiêu biểu là định nghĩa của Luật Thương mại 2005có nghĩa hẹp, coi logistics gần như tương tự với hoạt động giao nhận hànghóa.
- Tuy nhiên cũng cần chú ý là định nghĩa trong Luật Thương mại có tínhmở, thể hiện trong đoạn in nghiêng ''hoặc các dịch vụ khác có liên quan tớihàng hóa.
- Theo trường phái này,bản chất của dịch vụ logistics là việc tập hợp các yếu tố hỗ trợ cho quá trìnhvận chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất tới nơi tiêu thụ.
- Theo họ, dịch vụlogistics mang nhiều yếu tố vận tải, người cung cấp dịch vụ logistics theo kháiniệm này không có nhiều khác biệt so với người cung cấp dịch vụ vận tải đaphương thức (MTO.
- Nhóm định nghĩa thứ 2 về dịch vụ logistics có phạm vi rộng, có tác động từgiai đoạn tiền sản xuất cho tới khi hàng hóa tới tay của người tiêu dùng cuốicùng.
- Theo nhóm định nghĩa này, dịch vụ logistics gắn liền cả quá trình nhậpnguyên, nhiên vật liệu làm đầu vào cho quá trình sản xuất, sản xuất ra hànghóa và đưa vào các kênh lưu thông, phân phối để đến tay người tiêu dùngcuối cùng.
- Nhóm định nghĩa này của dịch vụ logistics góp phần phân định rõràng giữa các nhà cung cấp từng dịch vụ đơn lẻ như dịch vụ vận tải, giaonhận, khai thuê hải quan, phân phối, dịch vụ hỗ trợ sản xuất, tư vấn quản lývới một nhà cung cấp dịch vụ logisitcs chuyên nghiệp, người sẽ đảm nhậntoàn bộ các khâu trong quá trình hình thành và đưa hàng hóa tới tay ngườitiêu dùng cuối cùng.
- Như vậy, nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệpđòi hỏi phải có chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng để cung cấp dịch vụ mangtính ''trọn gói'' cho các nhà sản xuất.
- Đây là một công việc mang tính chuyênmôn hóa cao.2.Cơ sở của logisticsLogistics có thể được hiểu như là việc có được đúng số lượng cần thiết ởđúng thời điểm và với chi phí phù hợp.
- Nó là nghệ thuật, là một quá trìnhkhoa học.
- Nó phối hợp tất cả các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, quản lý vòngđời dự án, chuỗi cung cấp và hiệu quả.Logistic có khái niệm bắt nguồn từ nhu cầu quân sự trong việc cung cấp chochính họ trong quá trình di chuyển của các đoàn quân từ căn cứ ra tiền tuyến.Trong thời ký Hy Lạp cổ đại, đế chế Roman và Byzantine, đã có những sỹquan với mác “logistikas” là người chịu trách nhiệm đến các vấn đề về tàichính cũng như cung cấp phân phối.
- Còn ta cũng thấy đó là những tướngquân làm về quân nhu như ta đọc trong Tam quốc diễn nghĩa.Theo định nghĩa của Oxford thì logistics được hiểu là một nhánh của khoahọc quân sự liên quan đến việc tiến hành, duy trì và vận chuyển phương tiệnthiết bị và nhân sự.Logistics có khái niệm liên quan đến kinh doanh bắt nguồn từ những năm1950.
- Điều này chủ yếu là do sự gia tăng trong việc cung cấp, vận chuyểntrong một thế giới toàn cầu hóa đòi hỏi phải có những nhà chuyên gia tronglĩnh vực này.*Logistics trong Kinh doanhTrong kinh doanh, logistics có thể hiểu như việc tập trung cả nội lực lẫn ngoạilực bao hàm cả quá trình chu chuyển từ nhà ‘sản xuất gốc’ đến ‘người tiêudùng cuối cùng’.
- Chức năng chính của logistics bao gồm việc quản lý việcmua bán, vận chuyển, lưu kho cùng với các hoạt động về tổ chức cũng nhưlập kế hoạch cho các hoạt động đó.
- Người quản lý logistics kết hợp kiến thứctổng hợp của mỗi chức năng từ đó phối hợp các nguồn lực trong tổ chức đểvận hành.
- Một thì coi đó là một sự kết hợp các nguồnlực (nhân lực, vật lực.
- để tiến hành quá trình.*Logistic trong quân sựTrong quân sự, logistics được các chuyên gia quản lý để làm thế nào và khinào di chuyển các nguồn lực đến các địa điểm mà họ cần.
- Trong khoa họcquân sự thì việc duy trì cung cấp trong khi làm gián đoạn sự cung cấp của kẻđịch là một nhân tố tối quan trọng trong chiến lược quân sự.
- Nếu làm đượcnhư vậy thì kẻ địch chẳng có gì đáng sợ.*Logistics trong quá trình sản xuấtThuật ngữ này ám chỉ quá trình logistics trong các ngành công nghiệp.
- Mụcđích của nó là đảm bảo mỗi một máy móc thiết bị hay trạm làm việc được‘nạp’ đủ sản phẩm với đúng số lượng, chất lượng và đúng lúc.Vấn đề như vậy không phải là chỉ liên quan đến việc vận chuyển, mà còn làphâm luồng và điều chỉnh các kênh xuyên suốt quá trình gia tăng giá trị vàxoá bỏ những giá trị không gia tăng.
- Logistics trong quá trình sản xuất đượcápdụng cho cả những nhà máy đang tồn tại hoặc mới được thành lập.
- Sảnxuất chế tạo là một nhà máy với quá trình thay đổi ổn định ( có thể hiểu là mộtnhà máy thì luôn phải hoạt động nhưng với một công suất ổn định).
- Máy mócđược thay đổi vày thay mới.Theo đó sẽ là cơ hội cải thiện hệ thống logisticstrong sản xuất.
- Ngược lại, logistics sẽ cung cấp các ‘phương tiện’ cho việcđạt được hiệu quả mong muốn của khách hàng và hiệu quả sử dụng vốn.*Tại Việt nam, trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới thì nhu cầulogistics ngày càng lớn và là một bộ phận cấu thành nên giá thành sản phẩm.Vì thế lựa chọn công ty cung cấp dịch vụ logistics là vô cùng quan trọng.
- Cáccông ty cung cấp logistics thì phải luôn chú trọng đến các yếu tố quan trọngcủa logistics là: số lượng, chất lượng, thời gian và cuối cùng là giá cả dịch vụ.Tuy nhiên trong những trường hợp cụ thể thì có những thứ tự ưu tiên khácnhau.3.Các giai đoạn phát triển của LogisticsBan đầu logistics được sử dụng như một từ chuyên môn trong quân đội,đượchiểu với nghĩa là công tác hậu cần.
- Đến cuối thế kỷ 20, Logisticsđược ghinhận như là một chức năng kinh tế chủ yếu, mang lại thành côngcho cácdoanh nghiệp cả trong khu vực sản xuất lẫn trong khu vực dịchvụ.Uỷ ban Kinh tế và Xã hội châu Á-Thái Bình Dương (Economic andSocialCommission for Asia and the Pacific) đánh giá Logistics đã pháttriểnqua 3 giai đoạn:1- Phân phối vật chất (Distribution)2- Hệ thống Logistics3- Quản trị dây chuyển cung ứng (Supply Change Management)Giai đoạn 1: Phân phối vật chấtQuản lý một cách có hệ thống các hoạt động liên quan đến nhau để đảmbảocung cấp sản phẩm, hàng hoá cho khách hàng một cách có hiệu quả.Bao gồm các hoạt động nghiệp vụ sau:- Vận tải- Phân phối- Bảo quản hàng hoá- Quản lý kho bãi- Bao bì, nhãn mác, đóng góiGiai đoạn 2: Hệ thống LogisticsKết hợp quản lý 2 mặt trên một hệ thống: Cung ứng vật tư và Phân phối sảnphẩmGiai đoạn 3: Quản trị dây chuyển cung ứng (SCM)Đây là khái niệm mang tính chiến lược về quản trị chuỗi quan hệ từngườicung cấp nguyên liệu – đến người sản xuất – đến người tiêu dùng.Khái niệmnày coi trọng việc phát triển các quan hệ với đối tác, kếthợp chặt chẽ giữangười sản xuất với người cung cấp, người tiêu dùng vàcác bên liên quan: cáccông ty vận tải, kho bãi, giao nhận và các côngty công nghệ thông tin.Đối vớicác doanh nghiệp, Logistics có vai trò rất to lớn.
- Logisticsgiải quyết cả đầu ralẫn đầu vào của doanh nghiệp một cách hiệu quả.Nhờ có thể thay đổi cácnguồn tài nguyên đầu vào hoặc tối ưu hoá quátrình chu chuyển nguyên vậtliệu, hàng hoá, dịch vụ,… logistics giúpgiảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranhcho doanh nghiệp.Có nhiều doanh nghiệp thành công lớn nhờ có được chiến lược và hoạtđộnglogistics đúng đắn, ngược lại có không ít doanh nghiệp gặp khókhăn, thất bạido có các quyết định sai lầm như: chọn nguồn cung cấptài nguyên sai, chọnsai vị trí, dự trữ không phù hợp, tổ chức vậnchuyển không hiệu quả.Ngoài ra, logistics còn hỗ trợ đắc lực cho hoạt động marketing, đặcbiệt làmarketing hỗn hợp (4P: Right Product, Right Price, ProperPromotion, RightPlace).
- Chính logistics đóng vai trò then chốt trongviệc đưa sản phẩm đếnđúng nơi cần đến, đúng thời điểm thích hợp.Mục tiêu của logistics là cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng với tổngchi phí nhỏ nhất4.Tình hình dịch vụ Logistics hiện nay ở Việt NamTại Việt Nam thị trường logisitics là một mảng thị trường khá là mới mẻ mặcdù nó đã rất phổ biến trên thế giới.
- Nếu theo tính toán thì chi tiêu hàng nămcủa một quốc gia cho mảng logisitics là rất lớn, bản thân như các nước ChâuÂu và Mỹ là những quốc gia có nhiều kinh nghiệm về quản lý chuỗi logisiticsthì chi tiêu cho logisitics cũng chiếm tới khảong 10% GDP, còn với các nướcđang phát triển thì chi phí này còn cao hơn như Trung Quốc chẳng hạn chitiêu cho logisitics đã chiếm tới 19%GDP.Trong bảng xếp hạng thế giới, Việt Nam xếp ở vị trí thứ 53 về hiệu quả hoạt động logistics.So với vị trí thứ 1 của Singapore, thì Việt Nam vẫn còn ở tương đối xa.
- Ở vị trí này, hệ thống logistics của Việt Nam được đánhgiá trung bình so với mức tốt nhất của Singapore.Hiện tại chưa có một thống kê nào có số liệu tin cậy về số doanh nghiệp kinhdoanh dịch vụ logistics trung tâm hậu cần vận tải ở VN.
- Con số 800 - 900doanh nghiệp là con số tương đối căn cứ vào xu thế phát triển dịch vụlogistics hiện nay trên cả nước.Trong số doanh nghiệp này có 101 doanh nghiệp là hội viên của Hiệp hộiGiao nhận Kho vận VN (VIFFAS).
- Thời gian hoạt động của các doanh nghiệpkinh doanh dịch vụ logistics bình quân 5 năm.
- Như vậy, có thể đánh giá chung là, các doanh nghiệp kinh doanh dịchvụ logistics ở VN còn trẻ và quy mô doanh nghiệp thuộc loại nhỏ.Thực trạng…Sau 20 năm thực hiện chính sách đổi mới nền kinh tế thị trường đã đượchình thành ở VN và đang có tốc độ tăng trưởng cao so với khu vực.
- Việc gianhập khu vực Mậu dịch tự do với các nước ASEAN (1995), ASEM (1996),APEC (1997), bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ, gia nhập WTO (2006),đầu tư nước ngoài vào VN đã mở ra một thời kỳ mới, tạo nhiều cơ hội pháttriển cho nền kinh tế nước ta, trong đó có dịch vụ logistics.Nước ta có bờ biển dài, có biên giới với Trung Quốc, Lào, Campuchia.
- với hệthống sông ngòi chằng chịt và hệ thống đường bộ dọc theo đất nước rấtthuận lợi cho việc kết hợp nhiều phương thức vận tải, vận tải quá cảnh.
- Trongđó vận tải đa phương thức là một phương thức vận tải rất quan trọng để thiếtlập nên chuỗi cung ứng dịch vụ logistics.Về cơ cấu thành phần kinh tế, các doanh nghiệp tư nhân chiếm khoảng 80%trong tổng số các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics hiện nay ở VN.Các doanh nghiệp này có số vốn rất nhỏ, thậm chí có doanh nghiệp chỉ đăngký 300 - 500 triệu đồng (tương đương 18.750 USD - 31.250 USD).Trong khi đó để ký vận đơn vận tải đa phương thức theo quy định tại Nghịđịnh 125/2003/NĐ-CP ngày 29/3/2003 thì doanh nghiệp phải có tài sản thếchấp hay bảo lãnh của ngân hàng tương đương 120.000 USD.
- đồng thời khiphát hành vận đơn này vào Hoa Kỳ thì phải ký quỹ tiếp 150.000 USD theoLuật vận tải biển Hoa Kỳ (Surety bond - US Carriage of Goods by Sea Act -COGSA 1984, Revised 1998).Nhiều doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hoá từng bộ phận đã hìnhthành các công ty cổ phần với vốn điều lệ 5 tỷ đồng (312.500 USD).
- Quy mô doanh nghiệp còn thể hiện ở số nhân viên của từng công ty.Nhiều doanh nghiệp chỉ có 3-5 nhân viên đáp ứng được một công việc đơngiản của khách hàng.
- khi khách hàng hết việc, doanh nghiệp cũng hết việclàm và phải đóng cửa là điều tất yếu.Về tổ chức bộ máy, do vốn và nhân lực ít nên việc tổ chức bộ máy của cácdoanh nghiệp này rất đơn giản, tính chuyên sâu của các doanh nghiệp tronglogistics không có.
- Hầu hết các doanh nghiệp VN hiện nay chưa có vănphòng đại diện của chính công ty mình đặt tại nước ngoài.
- Các thông tin từnước ngoài, công việc phải giải quyết ở nước ngoài của một số công ty lớnhơn đều do hệ thống đại lý thực hiện, cung cấp.Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế nhận định, nước ta hiện chưa cómột trường lớp nào chuyên đào tạo về logistics, kiến thức mà cán bộ nhânviên tại các doanh nghiệp hiện có được là do học từ nước ngoài, đọc từ sáchvở hoặc một phần kiến thức tại các trường Đại học GTVT, ĐH Hàng hải, ĐHNgoại thương, Cao đẳng Hải quan, một số chương trình đào tạo ngắn hạn dotổ chức kinh tế xã hội Châu Á -Thái Bình Dương (UNESCAP).
- Trong các dựán này đối tượng đào tạo chủ yếu dành cho các công chức nhà nước (PublicSector), số ít còn lại mới dành cho các doanh nghiệp (Private Sector).
- Nhiềudoanh nhân kinh doanh dịch vụ logistics ở VN đã phải gửi cán bộ đi đào tạotại Australia, Hoa Kỳ hay những nước có ngành công nghệ logistics cao.Chưa nói đến chi phí, chỉ tính đến chuyện học chuyên ngành logistics ở nhiềunguồn tại nước ngoài, khi về VN số cán bộ này phải trang bị thêm thực tiễnkinh doanh, pháp luật VN liên quan và nhất là cách kinh doanh logistics tạiVN.Hoạt động kinh doanh logistics của các doanh nghiệp còn rời rạc, doanhnghiệp nào chỉ biết lợi ích doanh nghiệp đó, thiếu sự hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau;nhiều khi, nhiều dịch vụ còn cạnh tranh với nhau một cách không lành mạnh.Vì vậy đã làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp VN với các đối tácnước ngoài ngay trên thị trường trong nước.Nguyên nhân của tình trạng trên:*Thứ nhất, các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn là các doanh nghiệp sinhsau đẻ muộn so với rất nhiều công ty nước ngoài vốn có lịch sử phát triểnkinh doanh vận tải từ rất lâu đời như APL thì có kinh nghiệm trên 100 năm,Maersk gần 100 năm….*Thứ hai, tầm phủ của các công ty Việt Nam chỉ trong phạm vị nội địa hoặcmột vài nước trong khu vực.
- Trong khu tầm phủ của các công ty nước ngoàichẳng hạn như APL Logisitics là gần 100 quốc gia, Maersk Logisitics là 60quốc gia, Exel cũng vậy.
- Điều này là một trong những cản trở khi các doanhnghiệp offer các dịch vụ trọn gói cho khách hàng.
- Chúng tacũng có thể tính đến vai trò của các đại lý mà các công ty Việt Nam thiết lập ởcác quốc gia khác nhưng quan hệ này thường khá lỏng lẻo và không đồngnhất.*Thứ ba, Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam chỉ tập chung vào khai thácnhững mảng nhỏ trong toàn bộ chuỗi cung ứng.
- Mà chúng ta thấy rất phổbiến là hình thức giao nhận vận tải ( freight forwarding.
- Đây là hình thứckhá đơn giản, các công ty giao nhận đóng vai trò là người buôn cước sỉ sauđó bán lại cho người mua lẻ.
- Tại đó các đại lý mà các công ty Việt Nam có quan hệ đối tác sẽlàm thủ tục hải quan nhận và dỡ hàng và giao lại cho người mua hàng tạikho.
- Như vậy hình thức này chỉ là một phần nhỏ trong toàn bộ chuỗi giá trị giatăng logisitics.
- Trong chuỗi logisitics hiện đại mà các công ty logisitics lớnđang cung cấp cho khách hàng của mình như Maersk logisitics, APLLogisitics , P&O Nedlloyd Logisitics… thì nó bao gồm rất nhiều dịch vụ đadạng với giá trị gia tăng cao mà chúng ta có thể liệt kê ở đây: -Air Freight Fowarding ( D2D.
- Giao nhận hàng hải (từ cửa tới cửa) -Freight/ Carrier Management- Quản lý hàng hoá/nhà vận tải -Consolidation/Cross Docking- Gom hàng nhanh tại kho - PO Management- Quản lý đơn hàng -Vendor management/Compliance- Quản lý và theo dõi cam kết của nhàcung cấp -Value-added Warehousing- Dịch vụ kho bãi giá trị gia tăng- Multi-Country Consolidation- gom hàng từ nhiều quốc gia đến một cảngtrung chuyển thường là Singapore.
- Kaoshiung,Hong Kong.- QA and QI programs-Dịch vụ kiểm soát chất lượng hàng hoá- Production Compliance- Dịch vụ kiểm soát quá trình sản xuất kịp thời hạn- Data Management/EDI clearing house- Quản lý dữ liệu và cung cấp dữ liệuđầu cuối cho khách hàng- Barcode scanning and Label Production- dịch vụ quét và in mã vạch- Documentation- Dịch vụ thu kiểm và chuyển chứng từ- Global Logistics Procedures- Dịch vu xây dựng bộ tiêu chuẩn cho hoạt độnglogisitics- GOH and HangerPack Service- Dịch vụ container treo (dành cho hàng maymặc)- Deconsolidation-Dịch vụ phân phối hàng- NVOCC Operations -dịch vụ NVOCC- Systemwide Track and Trace / Web-base Visibility- Dịch vụ theo dõi kiểm trahàng thông qua mạng internet.- Custom Brokerage and Licensing- Import/Export/AMS/C-TPAT- Dịch vụ môigiới hải quan, uỷ thác xuất nhập khẩu, khai báo AMS, hỗ trợ áp dụng C-TPAT( Custom- Trade Partner Against Terrorism – đây là chương trình của hải quanMỹ nhằm áp dụng cho các đối tác kinh doanh trong chống khủng bố)- 4PLs service – Nhà cung cấp dịch vụ logisitics thứ 4, đây là mô hình dịch vụlogisitics rất mới giúp cho các hãng logisitics gia tăng dịch vu giá trị gia tăngcho mình.Rõ ràng doanh nghiệp ViệtNam đang bỏ ngỏ rất nhiều lĩnh vực màchúng ta nên và cần khai thác để nâng cao vị thế của mình.*Thứ tư, chúng ta có thể nhìn thấy rất rõ là trong quan hệ thương mại quốctế, phần lớn các nhà xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là xuất khẩu hàng theođiều kiện FOB, FCA trong incoterms(nghĩa là người bán chỉ cần giao hàngqua lan can tàu tại cảng bốc hàng theo qui định là hết trách nhiệm).
- Như vậyquyền định đoạt về vận tải đều do người mua chỉ định và dĩ nhiên người muasẽ chỉ định một công ty nước họ để thực hiện điều này.
- Và các công tylogisitics của Việt Nam sẽ là người ngoài cuộc.
- Bất cập này không phải dễdàng giải quyết vì phần lớn các nhà xuất khẩu của Việt Nam đều gia cônghoặc xuất hàng cho những khách hàng lớn - người mà đã có những hợpđồng dài hạn và toàn cầu với các công ty logisitics .
- Đơn cử như hàng giàyNike –đây là công ty có rất nhiều hợp đồng làm ăn với các doanh nghiệp ViệtNam nhưng riêng về khâu vận tải và logisitics thì các doanh nghiệp ViệtNamkhông thể tham gia vào trong quá trình thương thảo.
- Rõ ràng một ông lớnnhư Nike thì viêc ký được hợp đồng gia công với họ đã là quá tốt với cácdoanh nghiệp gia dày của Việt Nam rồi chứ đừng nói đến việc đàm phán vềvận tải và logisitics.
- Trên thực tế Nike đang sử dụng hai công ty là MaerskLogisitics và APL Logisitics cung cấp dịch vụ logisitics cho mình.Nhưng đối các nhà nhập khẩu của Việt Nam thì sao? nếu nhìn vào cán cânthương mại quốc tế của Việt Nam thì chúng ta thấy rõ là Việt Nam luôn nhậpsiêu.
- Và đây chính là thị trường khá tốt cho các công ty logisitics củaViệtNam.
- Trên thực tế thì mảng nhập khẩu cũng là thế mạnh của các công tyViệt Nam.
- Nếu như trước đây các nhà nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu muahàng theo điều kiện CIF , CIP ( nghĩa là người bán quyết định người chuyênchở) thì này các doanh nghiệp nhập khẩu của Việt Nam đang chuyển dầnsang hình thức mua FOB.
- Điều này tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệplogisitics Việt Nam khai thác.Tuy nhiên một phần khá lớn trong miếng bánh này vẫn nằm trong tay cáchãng logisitics nước ngoài do có nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư trựctiếp tại Việt Nam mà họ cũng chính là người nhập khẩu hàng nhiều nhất.Hơn thế nữa phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn chưa có nhiều ýthức trong việc đầu tư vào quản lý hiệu quả chuỗi cung ứng.
- điều này thấy rõở chỗ các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết không có phòng quản lý logisiticshoặc chuỗi cung ứng.
- Điều này tạo ra rào cản đối với các doanh nghiệp logisiticsViệt Nam trong việc chào các dịch vụ logisitics giá trị gia tăng.*Thứ năm, chúng ta đang đối mặt hệ thống hạ tầng giao thông vận tải còn rấtthiếu và yếu.Điều này làm cho các chi phí logisitics của Việt Nam sẽ cao hơn hẳn cácnước khác.
- Bản thân các công ty logisitics sẽ tốn nhiều chi phí đầu tư , làmgiảm lợi nhuận của họ cũng như khả năng mở rộng dịch vụ.*Thứ sáu, về hạ tầng thông tin, đây chính là điểm yếu các doanh nghiệplogisitics Việt Nam.
- Mặc dù các doanh nghiệp logisitics đã có nhiều ý thứctrong việc áp dụng CNTT vào hoạt động kinh doanh của mình những điều nàyvẫn còn kém xa so với các công ty logisitics nước ngoài.
- Nếu chỉ xét về khíacạnh xây dựng website thì phần lớn website của doanh nghiệp Việt Nam chỉđơn thuần giới thiệu về mình, về dịch vụ của mình nhưng thiếu hẳn các tiệních mà khách hàng cần như công cụ track and trace ( theo dõi đơn hàng ) ,lịch tàu, e-booking, theo dõi chứng từ…Chúng ta nên biết visibility ( khả năngnhìn thấy và kiểm soát đơn hàng ) là một yếu tố được các chủ hàng đánh giárất cao khi họ lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logisitics cho mình.
- Bản thâncác công ty như APL Logisitics , Maersk Logisitics được Nike chọn là nhàcung cấp dịch vụ cho mình là họ có thể cung cấp cho Nike công cụ visibility –trong bất kỳ thời điểm nào, tại bất kỳ nơi nào nhân viên của Nike cũng có thểnắm bắt và có thể kéo ra bất kỳ các loại báo cáo liên quan đến các đơn hàngcủa mình đã, đang và sẽ được thực hiện bới các công ty trên.
- Điều này sẽgiúp Nike tính toán tốt những dự báo, kiểm soát hàng tồn, đáp ứng kịp thờiyêu cầu của khách hàng ở chi phí tối ưu nhất.Để làm được điều này đòi hỏi phải có giải pháp đầu tư tổng thể và chi tiết, cóđịnh hướng dài hạn.
- Hơn thế nữa việc đầu tư xây dựng hệ thống IT cũng giúpchính các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả và năng suất .
- Cụ thể trong lĩnhvực logisitics các doanh nghiệp cần đầu tư xây dựng hệ thống phần mềmTMS ( Transport Management System ) hoặc WMS ( WarehouseManagement System ) với những hệ thống này sẽ giúp doanh nghiệp giảmchi phí , nâng cao năng suất hơn rất nhiều.*Thứ bảy, Tính liên kết.
- Cho tới nay các doanh nghiệp logisitics của ViệtNam hoạt động còn rất độc lập thiếu hẳn sự liên kết cần thiết.
- Trong xuhướng outsourcing , mỗi doanh nghiệp cần tập trung vào thế mạnh của mìnhvà sẽ thuê ngoài các dich vụ không phải là thế mạnh.
- Đã đến lúc chúng ta , các doanh nghiệp logisitics ViệtNam cần ngồi lại và hợp tác để có thể đưa ra thị trường một chuỗi các dịchvụ logisitics tổng thể cho khách hàng.
- Một công ty giao nhận có thể liên kêtvới một công ty về kho bãi, về vận tải, về môi giới , về hàng không tạo thànhmột chuỗi liên kết chặt chẽ.
- Như chúng tôi đã nói ở trên, mô hình dịch vụ tổngthể hay còn được gọi dưới cái tên One-stop Shop ( chỉ dừng một lần có thểmua được tất cả những gì mình cần ) là một xu thế phổ biến.*Thứ tám, vai trò của nhà nước.
- Nếu nhìn sang Singapore chúng ta có thể thấy sứcmạnh của nhà nước tác động đến một ngành hay lĩnh vực nào đó như thếnào.
- Singapore đã xây dựng hệ thống cảng biển, công ty vận tải biển, hãnghàng không, công ty logisitics thành một chuỗi dịch vụ theo đúng mô hìnhOne-Stop Shop.
- Tới nay chúng ta mới chỉ có Hiêp hội giao nhận kho vânViêtNam.
- rõ ràng nhận thức là điều rất quan trọng trong việc thúcđẩy sự phát triển của các thành viên.*Thứ chín, Xây dựng thương hiệu trong ngành logisitics .Việt nam vẫn chưa có được những thương hiệu mạnh tầm cỡ khu vực haythế giới trong lĩnh vực logisitics mà bản thân điều nay cần có sự hỗ trợ từphía nhà nước.
- Chúng ta cần có những thương hiệu dẫn đầu làm đầu kéocho ngành logisitics phát triển đúng hướng.*Thứ mười, Nhân lực.
- Chúng ta cần xây dựng chiến lược nhânlực cho logisitics.
- Hiện trạng dịch vụ logistics tại TP.HCM đến 20081.Cơ sở hạ tầngHệ thống cơ sở hạ tầng giao thông vận tải TP.HCM với tổng chiều dài các loạiđường là 2.321km.
- Hệ thống bến bãi cho vận tải hàng hóa ở TP.HCMgồm có:- 4 bến xe ô tô liên tỉnh chính: Bến xe Miền Đông, bến xe Miền Tây, bến xe AnSương và bến xe Ký Thủ Ôn với tổng diện tích khoảng 14,4 ha, công suấtphục vụ 27,9 triệu hành khách/năm.- 4 bến xe buýt chính bố trí ở khu vực chợ Bến Thành, Chợ Lớn, Thủ Đức,Hóc Môn với tổng diện tích khoảng 0,42ha.
- Các bến xe liên tỉnh do tập trung ở trong nội đô, có vị trí không phùhợp, bị hạn chế về mặt bằng nên làm phức tạp thêm cho giao thông đô thị.Hệ thống bến bãi chuyên nghiệp chưa hình thành.TP.HCM có khoảng 948 km sông kênh được sử dụng để vận tải gồm:+ 553 km cho phép tàu thuyền lớn qua lại.+ 95 km kênh rạch cho các phương tiện nhỏ đi lại và kết hợp làm kênh thoátnước.+ 200 km kênh rạch phục vụ vận tải bằng phương tiện vừa và nhỏ.Các cảng biển khu vực TP.HCM nằm quá sâu trong đô thị như Tân Cảng,cảng Sài Gòn, cảng Bến Nghé, cảng Tân Thuận.
- Côngsuất của các cảng đạt hơn 30 triệu tấn, chiếm trên 30% tổng lượng hàng hóaxuất khẩu của Vùng.
- Do không có đường bộ, đường sắt chuyên dụng nối vớicảng mà trực tiếp sử dụng chung mạng đường nội đô nên gây ùn tắc giaothông đô thị, làm giảm công suất của các cảng do khó khăn khi rút hàng khỏicảng.Thành phố hiện có một sân bay là sân bay Tân Sơn Nhất do Tổng cục Hàngkhông dân dụng quản lý.
- Cảng hàng không sẽ gồmhệ thống 4 đường hạ cất cánh kích thước 4.000 m x 60 m, đường lăn, sân đỗtàu bay, khu nhà ga hành khách, hàng hóa, hệ thống đường giao thông, khubảo dưỡng, sửa chữa máy bay, kho nhiên liệu hàng không, khu quản lý điềuhành cảng và các công trình phụ trợ...Đường sắt khu vực TP.HCM và vùng phụ cận từ ga Trảng Bom về ga Sài Gòndài 56km.
- Ngoài ra còn có một số đoạn đường nhánh khác có tínhchất chuyên dùng nhưng qua hai cuộc chiến tranh đến nay hầu như đãngưng khai thác và loại bỏ dần.2.Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logisticsTại TP.HCM, lĩnh vực kinh doanh dịch vụ giao nhận vận tải đã có sự tham giacủa hơn 800 doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Ngoài ra, tại thịtrường TP.HCM đã có sự tham gia của 25 tập đoàn logistics nước ngoài cókhả năng cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức trình độ cao.
- Sự ra đờicủa hàng loạt các công ty giao nhận vận tải như vậy đã tạo ra nguồn cungcấp dịch vụ giao nhận vận tải phong phú.Tỉ trọng ước tính của dịch vụ logistics trong GDP và hệ số co giãnNăm Tỉ trọng dịch vụ logistics và GDPHệ số co giãn giữa dịch vụ logistics và GDPNguồn: Tính toán từ số liệu Niên giám thống kê TP.HCMBảng trên cho thấy trong những năm gần đây, tỉ trọng dịch vụ logistics trongGDP giảm dần.
- tuy nhiên, xem xét từ một góc độ khác thông qua chỉ số hệ sốco giãn giữa dịch vụ logistics và GDP thì hiệu quả của lĩnh vực dịch vụlogistics đang có xu hướng tăng lên.

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt