You are on page 1of 21

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Học phần: Kinh tế Chính trị Mác Lênin

ĐỀ TÀI: Phân tích vai trò của các chủ thể chính tham gia thị trường. Nêu giải
pháp để phát huy vai trò của các chủ thể này nhằm khôi phục và phát triển ngành
du lịch Việt Nam sau khủng hoảng đại dịch Covid 19.

Giảng viên hướng dẫn : Nguyễn Thị Giang

Sinh viên thực hiện : Nguyễn Phương Nhi

Lớp : K23CLC TCA

Mã sinh viên : 23A4010482

Hà Nội, ngày 15 tháng 6 năm 2021

1
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 3

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT LÝ LUẬN ............................................................. 5

CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG ..................................................... 9

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ............................................................................... 14

a. Người sản xuất ............................................................................................ 14

b. Các chủ thể trung gian trong thị trường ...................................................... 16

c. Nhà nước .................................................................................................... 17

d. Người tiêu dùng ......................................................................................... 19

PHẦN KẾT LUẬN ......................................................................................... 20

2
PHẦN MỞ ĐẦU

a. Tính cấp thiết của đề tài

Các chủ thể tham gia thị trường là các quan hệ liên quan đến trao đổi, mua bán
hàng hóa trong xã hội, được hình thành do những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội
nhất định. Khi một cuộc khủng hoảng xảy ra thì các chủ thể này là những người
chịu ảnh hưởng đầu tiên.

Trong hơn một năm vừa qua, dịch bệnh Covid 19 đã hoành hành gây ra tác
động tiêu cực rất lớn đến nền kinh tế toàn cầu và được ví như một cuộc Đại Suy
Thoái lần 2. Ngành du lịch cũng không nằm ngoài tầm ảnh hưởng này khi hàng loạt
các kế hoạch du lịch, kỳ nghỉ dưỡng, hoạt động đi lại đều bị gián đoạn do Chính
phủ các nước ban hành quy định về hạn chế sự lây lan của dịch bệnh. Điều này
khiến các hãng hàng không, khu nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, địa điểm du lịch mất
hàng tỷ USD và hàng triệu người trong ngành dịch vụ du lịch phải đối mặt với tình
trạng thất nghiệp kéo dài. Theo thống kê từ Tổ chức du lịch thế giới, tính đến ngày
20/4/2020, có đến 97 điểm đến du lịch ( chiếm 45% trên tổng số các địa điểm du
lịch trên toàn cầu) đã thực hiện biện pháp đóng cửa hoặc một phần biên giới,
khoảng 65 quốc gia và vùng lãnh thổ ( khoảng 30%) đưa ra các biện pháp hạn chế
hoặc cấm các chuyến bay nội địa, nước ngoài, khoảng 39 quốc gia ( chiếm 18% )
đóng cửa biên giới đối với nhóm khách du lịch đến từ những vùng có diễn biến
dịch chuyển biến xấu và khoảng 7% các khu vực còn lại thực hiện một số biện
pháp phòng dịch.

Tính đến thời điểm hiện tại, nhiều quốc gia đã kiểm soát tốt được dịch bệnh
nhiều lệnh cấm đã được gỡ bỏ hoặc nới lỏng, tuy nhiên điều này vẫn chưa thể giúp
ngành du lịch toàn cầu phục hổi. Chính vì vậy, ngành du lịch có trở lại và phát triển
được như trước hoàn toàn phụ thuộc vào sự phát huy tối đa vai trò của các chủ thể
chính tham gia thị trường du lịch như các doanh nghiệp, bộ ngành địa phương,
khách du lịch và Nhà nước. Nếu như các chủ thể không cùng chung tay đóng góp

3
thì khôi phục lại thị trường du lịch tại Việt Nam như trước sẽ là một điều khó
khăn.Việc phân tích các chủ thể chính tham gia thị trường, thực trạng khó khăn của
ngành du lịch tại nước ta qua 4 đợt dịch và tìm ra giải pháp, hướng đi của các chủ
thể trong ngành du lịch sau khi tình hình dịch bệnh khả quan là thiết yếu để ngành
du lịch – ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta có thể quay trở lại guồng quay bình
thường mới, sau giai đoạn chững lại hiện nay. Với mong muốn tìm hiểu rõ bản chất
vai trò của các chủ thể tham gia thị trường và những đóng góp mà những chủ thể có
thể làm để khôi phục lại ngành Du lịch sau khủng hoảng, em quyết định chọn đề tài
tiểu luận: “ Phân tích vai trò của các chủ thể chính tham gia thị trường. Giải pháp
để phát huy vai trò của các chủ thể này nhằm khôi phục và phát triển ngành du lịch
Việt Nam sau khủng hoảng đại dịch Covid 19”.

b. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận là vai trò của các chủ thể chính tham gia thị
trường trong quá trình khôi phục lại ngành Du lịch sau thời kì dịch bệnh khó khăn
được kiểm soát.

c. Phương pháp nghiên cứu:

Các phương pháp chính được sử dụng trong quá trình thực hiện tiểu luận gồm:
Phương pháp phân tích tổng hợp, nghiên cứu tài liệu, phương pháp logic kết hợp
với lịch sử, phương pháp thu thập số liệu, tài liệu, phương pháp thống kê so sánh.

d. Kết cấu đề tài: Tiểu luận chia nội dung thành 3 chương:

Chương 1: Khái quát lý luận về thị trường, các chủ thể tham gia thị trường và vai
trò của các chủ thể.

Chương 2: Phân tích thực trạng, tình hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh ảnh
hưởng đến ngành du lịch.

Chương 3: Giải pháp phát huy tối đa vai trò của các chủ thể chính tham gia thị
trường nhằm khôi phục lại ngành du lịch nước ta.

4
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT LÝ LUẬN

1. Khái niệm Thị trường:


Thị trường ra đời, phát triển gắn liền với sự phát triển của sản xuất hàng
hóa. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của sản xuất và trao đổi, khái niệm
thị trường cũng có những cách quan niệm khác nhau.
Theo nghĩa hẹp, thị trường là nơi diễn ra hành vi trao đổi, mua bán hàng
hóa giữa các chủ thể kinh tế với nhau. Tại đó, người có nhu cầu về hàng hóa,
dịch vụ sẽ nhận được thứ mà mình cần và ngược lại, người có hàng hóa, dịch
vụ sẽ nhận được một số tiền tương ứng. Thị trường có biểu hiện dưới hình thái
thể là chợ, cửa hàng, quầy hàng lưu động, văn phòng giao dịch hay siêu thị…
Theo nghĩa rộng, thị trường là tổng hòa các mối quan hệ liên quan đến trao
đổi, mua bán hóa trong xã hội, được hình thành do những điều kiện lịch sử,
kinh tế, xã hội nhất định. Theo nghĩa này, thị trường là tổng thể các mối quan
hệ kinh tế gồm cung, cầu, giá cả; quan hệ hàng – tiền; quan hệ giá trị, giá trị sử
dụng; quan hệ hợp tác, cạnh tranh; quan hệ trong nước, ngoài nước… Cùng
với đó là các yếu tố kinh tế như nhu cầu ( người mua hàng ); người bán; tiền –
hàng; dịch vụ mua bán… Tất cả các quan hệ và yếu tố kinh tế này được vận
động theo quy luật của thị trường.
2. Vai trò của một số chủ thể chính tham gia thị trường:

Với tư cách là môi trường cho các quan hệ sản xuất và trao đổi phát huy
tác dụng dưới tác động của các quy luật thị trường, có rất nhiều chủ thể khác
nhau tham gia thị trường, mỗi chủ thể có những vai trò quan trọng riêng. Sau
đây sẽ xem xét vai trò của một số chủ thể chính, đó là: người sản xuất, người
tiêu dùng, các chủ thể trung gian trong thị trường và nhà nước. Cụ thể:

a. Người sản xuất

5
Người sản xuất hàng hóa là những người sản xuất và cung cấp hàng hóa,
dịch vụ ra thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Người sản
xuất bao gồm các nhà sản xuất, đầu tư, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ… Họ là
những người trực tiếp tạo ra của cải vật chất, sản phẩm cho xã hội để phục vụ
tiêu dùng.
Người sản xuất là những người sử dụng các yếu tố đầu vào để sản xuất,
kinh doanh và thu lợi nhuận. Nhiệm vụ của họ không chỉ làm thỏa mãn nhu
cầu hiện tại của xã hội, mà còn tạo ra và phục vụ cho những nhu cầu trong
tương lai với mục tiêu đạt lợi nhuận tối đa trong điều kiện nguồn lực có hạn.
Vì vậy, người sản xuất luôn phải quan tâm đến việc lựa chọn sản xuất hàng
hóa nào, số lượng bao nhiêu, sản xuất với các yếu tố nào sao cho có lợi nhất.
Ngoài mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, người sản xuất cần phải có trách nhiệm
đối với con người, trách nhiệm cung cấp những hàng hóa dịch vụ không làm
tổn hại tới sức khỏe và lợi ích của con người trong xã hội.
b. Người tiêu dùng

Người tiêu dùng là những người mua hàng hóa, dịch vụ trên thị trường để
thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng. Sức mua của người tiêu dùng là yếu tố quyết định
sự thành bại của người sản xuất. Sự phát triển đa dạng về nhu cầu của người
tiêu dùng là động lực quan trọng của sự phát triển sản xuất, ảnh hưởng trực
tiếp tới sản xuất.

Người tiêu dùng có vai trò rất quan trọng trong định hướng sản xuất. Do
đó, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng ngoài việc thỏa mãn
nhu cầu của mình, cần phải có trách nhiệm đối với sự phát triển bền vững của
xã hội.

Lưu ý, việc phân chia người sản xuất, người tiêu dùng chỉ có tính chất
tương đối để thấy được chức năng chính của các chủ thể này khi tham gia thị

6
trường. Trên thực tế, doanh nghiệp luôn đóng vai trò vừa là người mua cũng
vừa là người bán.

c. Các chủ thể trung gian trong thị trường

Do sự phát triển của sản xuất và trao đổi dưới tác động của phân công lao
động xã hội, làm cho sự tách biệt tương đối giữa sản xuất và trao đổi ngày
càng sâu sắc. Trên cơ sở đó xuất hiện những chủ thể trung gian trong thị
trường. Những chủ thể này có vai trò ngày càng quan trọng để kết nối, thông
tin trong các quan hệ mua, bán.

Nhờ vai trò của các trung gian này mà nền kinh tế thị trường trở nên sống
động, linh hoạt hơn. Hoạt động của các trung gian trong thị trường làm tăng cơ
hội thực hiện giá trị của hàng hóa cũng như thỏa mãn nhu cầu của người tiêu
dùng. Các chủ thể trung gian làm tăng sự kết nối giữa sản xuất và tiêu dùng.
Các chủ thể trung gian làm tăng sự kết nối giữa sản xuất và tiêu dùng, làm cho
sản xuất và tiêu dùng trở nên ăn khớp với nhau.

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay, các chủ thể trung
gian thị trường không phải chỉ có các trung gian thương nhân mà còn rất nhiều
các chủ thể trung gian phong phú trên tất cả các quan hệ kinh tế như: trung
gian môi giới chứng khoán, trung gian môi giới nhà đất, trung gian môi giới
khoa học công nghệ… Các trung gian trong thị trường không những hoạt động
trên phạm vi thị trường trong nước mà còn trên phạm vi quốc tế. Bên cạnh đó
cũng có nhiều loại hình trung gian không phù hợp với các chuẩn mực đạo đức
( lừa đảo, môi giới bất hợp pháp…). Những trung gian này cần được loại trừ.

d. Nhà nước

Trong nền kinh tế thị trường, xét về vai trò kinh tế, nhà nước thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về kinh tế đồng thời thực hiện những biện pháp để
khắc phục những khuyết tật của thị trường.

7
Với trách nhiệm như vậy, một mặt, nhà nước thực hiện quản trị phát triển
nền kinh tế thông qua việc tạo lập môi trường kinh tế tốt nhất cho các chủ thể
kinh tế phát huy sức sáng tạo của họ. Việc tạo ra các rào cản đối với hoạt động
sản xuất kinh doanh từ phía nhà nước sẽ làm kìm hãm động lực sáng tạo của
các chủ thể sản xuất kinh doanh. Các rào cản như vậy phải được loại bỏ. Việc
này đòi hỏi mỗi cá nhân có trách nhiệm trong bộ máy quản lý nhà nước cần
phải nhận thức được trách nhiệm của mình là thúc đẩy phát triển, không gây
cản trở sự phát triển của nền kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả.

Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường, mọi quan hệ sản xuất và trao đổi, các
hoạt động của các chủ thể đều chịu sự tác động của các quy luật kinh tế khách
quan của thị trường; đồng thời chịu sự điều tiết, can thiệp của nhà nước qua
việc thực hiện hệ thống pháp luật và các chính sách kinh tế. Mô hình kinh tế
thị trường có sự điều tiết của nhà nước ở từng nước, từng giai đoạn có thể khác
nhau tùy thuộc vào mức độ can thiệp của chính phủ đối với thị trường, song tất
cả các mô hình đều có điểm chung là không thể thiếu vai trò kinh tế của nhà
nước.

8
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG
Trong những thập kỷ qua, ngành du lịch liên tục tăng trưởng và trở thành một
trong những ngành kinh tế mũi nhọn phát triển nhanh nhất trên toàn cầu. Lĩnh vực
này đã chứng kiến mức tăng trưởng 59% trong vòng một thập kỷ qua về lượng
khách du lịch quốc tế khi so sánh lượng khách du lịch trong năm 2009 - 880 triệu
lượt khách với khoảng 1,5 tỷ lượt ghi nhận năm 2019. Ngành du lịch cũng được
xem là động lực chính phát triển kinh tế - xã hội với những sự phát triển của ngành
du lịch trong việc gia tăng các số lượng điểm đến tại các quốc gia. Theo số liệu
thống kê, ngành du lịch đã đóng góp 8.9 nghìn tỷ USD vào GDP toàn cầu năm
2019, tương đương với 10,3%.

Tuy nhiên, sự tăng trưởng mạnh mẽ đã bị ngưng lại vào năm 2020 trong bối
cảnh đại dịch COVID 19 toàn cầu bùng phát. Với việc hoạt động thương mại hàng
không đóng băng, các khách sạn đóng cửa và các quy định hạn chế đi lại, giãn cách
xã hội được thực hiện, ngành du lịch và lữ hành đã trở thành một trong những lĩnh
vực bị ảnh hưởng nhiều nhất kể từ khi virus lây lan. Thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng đang ở trong thời điểm căng thẳng nhất của dịch bệnh Covid 19,
điều này đã và đang gây tác động rất lớn đến ngành. Các doanh nghiệp trong ngành
phải gồng mình vừa phòng chống dịch, vừa phục vụ, giải quyết các tình huống
không mong muốn nổi bật là Vinpearl đóng cửa 7 khách sạn, trong đó có 2 khách
sạn ở Nha Trang, 5 cơ sở tại Đà Nẵng, Hội An, Phú Quốc tạm đóng cửa trong giai
đoạn dịch năm 2020.

Không chỉ các quốc gia trên thế giới áp đặt lệnh hạn chế nhập cảnh đối với
công dân các nước đến từ vùng dịch mà Việt Nam cũng vậy. Chính phủ đã đưa ra
chỉ thị tạm dừng nhập cảnh hành khách quốc tế nhằm đảm bảo an toàn sức khỏe
cao nhất cho hành khách và người lao động. Chính vì vậy mà lượng khách quốc tế
đến Việt Nam trong tháng 3/2020 ước tính chỉ đạt được 449,9 nghìn lượt người -
giảm 63,8% so với tháng 2 và giảm 68,1% so với cùng kỳ năm trước. Đặc biệt, 2

9
thị trường quốc tế lớn nhất của du lịch Việt Nam đó là Trung Quốc và Hàn Quốc
đều giảm lần lượt là 91,5% và 91,4%. Tổng lượt khách du lịch của cả quý I/2020
chỉ đạt 3,7 triệu lượt khách, giảm 813.335 lượt khách và chỉ bằng 81,93% mức
cùng kỳ năm 2019. Kết quả quý II/2020 thậm chí còn tệ hơn khi toàn ngành du lịch
gần như đóng băng do tình trạng cách ly xã hội để ngừa dịch bệnh lây lan diện
rộng.

Trong 3 tháng đầu năm 2020, khách du lịch đến từ châu Á chiếm 72,54% với
2.674.367 lượt khách nhưng lại giảm hơn 21% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó,
khách đến từ hầu hết các thị trường chính, chiếm hơn 51% lượng khách du lịch
năm 2019, đều giảm mạnh cụ thể là: Trung Quốc đạt 871,8 nghìn lượt người - giảm
31,9% so với cùng kỳ năm trước; Hàn Quốc: 819,1 nghìn lượt người - giảm 26,1%;
Nhật Bản: 200,3 nghìn lượt người - giảm 14,1%... Bên cạnh đó, một số quốc gia và
vùng lãnh thổ vẫn có số khách đến Việt Nam tăng trong quý I như Thái Lan ( tăng
0,9% so với cùng kỳ năm trước), Campuchia ( tăng 254,3%) và Lào ( tăng 38,5%).

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tại châu Âu phần lớn các thị trường đều
giảm. Khách đến từ châu Âu trong quý I ước tính đạt 664,3 nghìn lượt người ( giảm
3,1% so với cùng kỳ năm trước) trong đó khách đến từ Vương quốc Anh chỉ đạt
81,4 nghìn lượt người - giảm 9,4%; Pháp 74,5 nghìn lượt người - giảm 14,7%; Đức

10
61,5 nghìn lượt người - giảm 14,9%. Tuy nhiên khách du lịch đến từ Nga lại tăng
hơn 13,6% so với cùng kỳ với hơn 245.000 lượt khách. Tại châu Mỹ, Mỹ chiếm
hơn 73% lượng khách của khu vực với 172.700 lượt trên tổng số lượt khách ghi
nhận lại châu lục này là 234.050 lượt, giảm 21,4% so với cùng kỳ năm 2019. Châu
Úc cũng giảm 14,37% với 102.181 lượt khách. Trong khi đó khách đến từ châu Phi
đạt 11.930 lượt, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước tuy nhiên tỷ trọng góp không
đáng kể. Lượng khách sụt giảm do tác động của dịch bệnh đã ảnh hưởng không nhỏ
tới sự phát triển của một trong những ngành kinh tế mũi nhọn tại Việt Nam.

Các cơ sở lưu trú phải đóng cửa, phần lớn nhân sự trong ngành du lịch đối mặt
với tình trạng thất nghiệp kéo dài tại Việt Nam. Do diễn biến phức tạp, ảnh hưởng
nặng nề của dịch Covid 19 qua các đợt khác nhau không chỉ tác động trực tiếp lên
số lượng khách đi du lịch mà còn tác động đến các cơ sở lưu trú, khách sạn. Trong
những giai đoạn dịch bùng phát, công suất hoạt động các cơ sở lưu trú chỉ đạt được
20 - 30% so với cùng kỳ năm 2019. Tại Hà Nội, số lượng khách hủy phòng lên tới
hơn 80.613 lượt, số ngày hủy phòng khoảng 57.652 ngày.

Việc dịch Covid 19 diễn biến phức tạp tại Việt Nam đã khiến không ít khách
sạn trên các tỉnh thành cả nước lần lượt tuyên bố đóng cửa tạm thời đến khi dịch
lắng xuống. Chính điều này khiến nhân lực ngành du lịch bị mất việc làm, các công
ty, khách sạn, nhà hàng lần lượt phải cắt giảm biên chế đến 60%. Còn đối với các
công ty đa quốc gia, ⅘ số lượng nhân viên bị cắt giảm vì đang trong thời kỳ khó
khăn. Ít nhất đến tháng 6/2020, đã có tới hơn 80% nhân sự đang đối mặt với tình
trạng thất nghiệp. Trải qua 4 đợt dịch kéo dài tại Việt Nam đã khiến không ít khách
sạn phá sản, nhượng lại và hàng triệu lao động trong ngành du lịch bị giảm thu
nhập, thậm chí bị cắt giảm do thiếu việc làm.

Có thể thấy tại Việt Nam cũng như một số quốc gia lớn trên thế giới, để ngăn
chặn được đại dịch lây lan thì các quy định giãn cách, hạn chế đi lại cũng như giờ
giới nghiêm đã tác động không nhỏ tới ngành du lịch - một lĩnh vực kinh tế tổng

11
hợp, liên quan tới nhiều nhóm ngành khác như: vận chuyển, lưu trú, dịch vụ ăn
uống,... và khiến doanh thu tất cả những nhóm ngành này đồng thời sụt giảm.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước tính đạt 126,2 nghìn tỷ đồng, chiếm
10,1% tổng mức doanh thu hoạt động thương mại, dịch vụ của cả nước và giảm
9,6% so với quý I/2019 ( cùng kỳ năm 2019 tăng 11,3%). Do ảnh hưởng của dịch
Covid 19 nên nhiều cơ sở kinh doanh nhà hàng, khách sạn phải ngừng hoạt động
một thời gian, điều này đã dẫn đến sự sụt giảm doanh thu ở nhiều địa phương điển
hình là ở các thành phố lớn hoặc các thành phố có địa điểm du lịch nổi tiếng trong
đó giảm mạnh nhất là Khánh Hòa giảm 38,2%; Đà Nẵng giảm 23,7%: Quảng Ninh
giảm 12,4%; Thành phố Hồ Chí Minh giảm 30,3% và Hà Nội giảm 20,2%.

Doanh thu du lịch lữ hành quý I ước tính chỉ đạt được 7,8 nghìn tỷ đồng, chỉ
chiếm 0,6% tổng mức và giảm tới 27,8% so với cùng kỳ năm trước ( cùng kỳ năm
2019 doanh thu ngành này tăng 13,2%). Lý do là bởi nhiều địa điểm du lịch tham
quan phải ngừng hoạt động đón khách du lịch bởi sự lây lan của dịch và cũng do
một lượng lớn khách du lịch nội địa và quốc tế đã phải hủy tour du lịch do lo ngại
dịch bệnh lây lan trên diện rộng. Một số địa phương có doanh thu du lịch lữ hành
quý I năm 2020 giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước phải kể đến như: Thanh Hóa
giảm 49,9%; Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 48,3%; Quảng Ninh giảm 47,1%; trong khi
Thành phố Hồ Chí Minh giảm 39,9% còn Hà Nội chỉ giảm 18,7%. Tổng cục Du
lịch Việt Nam ước tính thiệt hại cho ngành du lịch Việt Nam trong giai đoạn từ
tháng 2 đến tháng 4/2020 có thể dao động từ 5,9 đến 7,7 tỷ USD.

Xét về vận chuyển hành khách, tất cả các ngành đường đều bị tác động do nhu
cầu đi lại của người dân giảm mạnh trong những ngày dịch bệnh diễn biến phức tạp
trên thế giới và tại Việt Nam. Theo số liệu thống kê, vận tải hành khách đường bộ
quý I đạt 1.128,3 triệu lượt khách - giảm 6,3% so với cùng kỳ năm ngoái; đường
nội địa thủy đạt 47,7 triệu lượt khách - giảm 1,3%; đường sắt đạt 1,5 triệu lượt
khách - giảm 27,8% còn theo đường biển thì chỉ đạt được 1,3 triệu lượt khách -

12
giảm 23,2%. Tuy đường bộ, đường biển, đường sắt,... đều ghi nhận những con số
giảm đáng kể nhưng hàng không mới là ngành chịu ảnh hưởng rõ rệt nhất bởi dịch
Covid 19 khi tất cả các hãng phải tạm dừng khai thác các đường bay quốc tế và
giảm các chuyến bay nội địa trong nước. Vận tải hàng không quý I năm 2020 chỉ
đạt 11,9 triệu lượt khách - giảm 8% và 15,6 tỷ lượt khách.km - giảm 9,5% ( riêng
tháng 3/2020 vận chuyển giảm 28,8% còn luân chuyển giảm tới 35,9%). Chỉ riêng
Vietnam Airlines, doanh thu của hãng này lỗ hơn 12.000 tỷ đồng trong năm 2020.

Có thể thấy, dịch Covid 19 đã ảnh hưởng rất lớn tới ngành Du lịch Việt Nam và
được thể hiện qua các khía cạnh như doanh thu, lượng khách quốc tế và nội địa sụt
giảm, tình trạng thất nghiệp kéo dài… Tuy nhiên, những tác động của dịch đã cho
thấy ngành du lịch Việt Nam đang gặp phải 2 vấn đề chính: đầu tiên là sự phụ
thuộc vào thị trường khách du lịch đến từ Trung Quốc và những chính sách hỗ trợ
của Chính phủ đối với những doanh nghiệp hoạt động trong ngành khi có khủng
hoảng xảy ra. Do vậy, để hạn chế tác động tiêu cực của dịch bệnh và khôi phục lại
thị trường du lịch khách nội địa và quốc tế.

13
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP

Những tác động tiêu cực của dịch bệnh đến ngành Du lịch Việt Nam năm 2020,
2021 tuy nặng nề nhưng cũng gợi mở ra nhiều cơ hội để ngành du lịch tự nhìn lại,
thay đổi cải thiện và vượt qua khó khăn. Có thể thấy, trong tương lai sau khi trải
qua 4 đợt dịch bệnh Covid 19, nhu cầu của khách du lịch sẽ thay đổi và hướng tới
các yếu tố như sức khỏe, vệ sinh, bảo hiểm du lịch …Do vậy, các doanh nghiệp kết
hợp cùng địa phương, bộ ngành và nhà nước cần có những giải pháp linh hoạt để
đáp ứng được xu hướng du lịch trong những năm tới sau khi dịch chấm dứt

a. Người sản xuất

Đầu tiên phải kể đến vai trò của người sản xuất - các doanh nghiệp luôn giữ vai
trò quyết định nền kinh tế. Ngoài việc chờ đợi những gói hỗ trợ, kích cầu du lịch từ
Chính phủ và cơ quan ban ngành, nhiều doanh nghiệp trong ngành du lịch cần tự
tìm ra những hướng đi riêng để phát triển trở lại như trước bằng cách tái cơ cấu bộ
máy nhân sự doanh nghiệp, sắp xếp , bố trí lại công việc của tổ chức sao cho phù
hợp đồng thời cần có kế hoạch giữ gìn lực lượng nhân sự của doanh nghiệp trong
giai đoạn khủng hoảng vì dịch bệnh lây lan qua các hoạt động đào tạo nhân sự, bồi
dưỡng thêm kiến thức và kỹ năng chuyên môn để cải thiện, nâng cao chất lượng
dịch vụ, tập trung xây dựng thương hiệu và quảng bá, đảm bảo doanh nghiệp dịch
vụ có đủ năng lực cung cấp dịch vụ của họ trong môi trường phát triển sau này.

Không chỉ bộ máy nhân sự cần được cơ cấu lại mà cơ sở vật chất kỹ thuật cũng
cần được nâng cấp, công tác quản lý cần được đổi mới, kinh doanh trên cơ sở áp
dụng công nghệ 4.0 đặc biệt là trong bối cảnh trên 40% doanh nghiệp du lịch đóng
cửa, doanh nghiệp cắt giảm nhân sự và chuyển đổi số được xem là giải pháp tốt
nhất có thể giúp doanh nghiệp tiếp tục vận hành với số ít nhân lực còn lại, chi phí
con người giảm xuống nhưng hiệu quả lại tăng lên. Một ngành chịu nhiều tổn
thương do dịch bệnh như ngành du lịch thì đòi hỏi sự năng động, linh hoạt và sự
đổi mới trong kinh doanh ở các doanh nghiệp là điều cần thiết nhất trong lúc này để

14
có thể khôi phục lại ngành. Các sự kiện và số liệu của virus corona là cơ hội cho
các doanh nghiệp nghĩ về du lịch thông minh bền vững. Kế hoạch trải nghiệm
thông minh cho khách du lịch bằng công nghệ, đưa khách du lịch ra khỏi nhà để tận
hưởng giá trị cuộc sống sau đại dịch cũng là một thách thức không nhỏ đối với các
doanh nghiệp. Khi khách hàng đã quen với các hoạt động online thì những công
nghệ số giúp con người tham gia du lịch ảo cũng cần được các doanh nghiệp quan
tâm phát triển. Việc doanh nghiệp có hệ thống thông tin về khách, về dịch vụ sản
phẩm, việc đề xuất các giải pháp, tính toán chi phí, điều hành dựa trên cơ sở phân
tích các dữ liệu một cách khoa học mới có thể đáp ứng nhu cầu của khách qua đó
tạo giá trị gia tăng cho sản phẩm và dịch vụ ngành. Như vậy, triển khai chuyển đổi
số ở các doanh nghiệp ngành du lịch chính là giải pháp sớm khắc phục những hậu
quả nặng nề mà Covid 19 gây ra nhanh nhất trong thời điểm hiện tại và cũng được
xem là giải pháp lâu dài nhằm vực lại những thiệt hại và tiếp tục đưa ngành du lịch
trở lại là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam.

Đây cũng là thời gian cho các doanh nghiệp thay đổi hướng đi của mình để phù
hợp với nhu cầu của con người. Trong xã hội hiện đại ngày nay, nhiều người không
còn lựa chọn nghỉ dưỡng đơn thuần nữa mà thay thế bằng hình thức du lịch kết hợp
cùng các hoạt động chăm sóc sức khỏe nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của họ
đặc biệt là sau cơn ác mộng dài của các mối đe dọa từ virus corona. Theo đó, ngành
Du lịch, doanh nghiệp dịch vụ du lịch lữ hành cần chuẩn bị để cung cấp những dịch
vụ chăm sóc sức khỏe cho du khách phục vụ tại cơ sở lưu trú, giúp du khách trải
nghiệm chăm sóc sức khỏe. Hoặc đầu tư vào mô hình hệ sinh thái du lịch liên kết
hàng không - điểm đến – khu nghỉ dưỡng với các dịch vụ khép kín khác cũng là
một cách để thu hút thêm khách du lịch khi doanh nghiệp vừa giúp tăng thời gian
lưu trú và chi tiêu của du khách, vừa giúp nâng tầm hình ảnh du lịch Việt Nam.
Việc đầu tư mang lại nhiều sản phẩm du lịch trọn gói và đa dạng cho khách hàng,
đem lại nhiều trải nghiệm cho các gia đình đi nghỉ dưỡng. Đây sẽ là sự lựa chọn
của nhiều đối tượng khách hàng sau mùa dịch này.
15
Đồng thời các doanh nghiệp cần đa dạng hóa thị trường khách du lịch thay vì
phụ thuộc quá nhiều vào thị trường khách Trung Quốc, tiếp đến là Hàn Quốc, Nhật
Bản bởi khi dịch bệnh bùng phát và lây lan, lượng khách quốc tế đến nước ta giảm
mạnh, kéo theo các nguồn doanh thu của các nhóm ngành nhỏ sụt giảm, kinh doanh
khó khăn. Chính vì vậy, các hoạt động xúc tiến tại các thị trường không bị ảnh
hưởng bởi dịch, các thị trường có khả năng tăng trưởng cao và có kết nối đường
bay trực tiếp cần được đẩy mạnh. Các doanh nghiệp nên tập trung hoạt động xúc
tiến vào nhiều thị trường tiềm năng như New Zealand, Úc, Canada, Thụy Sỹ,…
Tây Âu, Bắc Mỹ sẽ là những thị trường quan trọng cần tập trung xúc tiến quảng bá,
đẩy mạnh các hoạt động quảng bá qua website, mạng xã hội,.. nhất là sau khi dịch
bệnh tại nước ta đã được kiểm soát. Bắt đầu dần các chiến dịch marketing nhẹ
nhàng, sử dụng truyền thông mạng xã hội và quảng cáo nhắm đến khách du lịch
tiềm năng hay khách du lịch có khả năng quay trở lại Việt Nam nhưng chưa thể đến
trong thời gian này do yêu cầu hạn chế nhập cảnh và tập trung chủ yếu vào đối
tượng khách du lịch trẻ nội địa đã đi làm, ít bị tác động bởi tâm lý và đang bị kìm
nén nhu cầu do thời gian giãn cách xã hội.

Bên cạnh các chương trình kích cầu du lịch thì các biện pháp bảo đảm an toàn
phòng chống dịch vẫn cần được các địa phương, doanh nghiệp lữ hành, du lịch,
khách sạn, các hãng hàng không thực hiện nghiêm túc, triệt để để trấn an tâm lý du
khách.

b. Các chủ thể trung gian trong thị trường

Đây cũng là thời điểm để các đơn vị kinh doanh có sự liên kết và phối hợp,
chia sẻ khó khăn với các chủ thể trung gian như các đại lý và nhà cung cấp tour du
lịch, hoạt động tại các địa phương, triển khai các tour để có thể duy trì hoạt động
kinh doanh và tăng cường đón khách du lịch trong nước. Việc các cơ quan quản lý
điểm đến và các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch phối hợp và triển khai các
chương trình kích cầu du lịch, xúc tiến quảng bá thu hút khách về các điểm đến có

16
thể giúp đẩy mạnh hoạt động du lịch nội địa - một phân khúc thị trường được các
chuyên gia du lịch quốc tế và nhiều nước đang hướng đến trong thời kỳ dịch bệnh.
Thêm vào đó, việc phối hợp công tác quảng bá cần đẩy mạnh đi kèm với chính
sách giảm giá, giảm chiết khấu hoa hồng từ các đối tác kinh doanh, nhất là các
website đặt phòng qua mạng cần được các đơn vị doanh nghiệp có liên quan chung
tay hợp tác. Ví dụ như tại New Zealand, các nhà hàng, khách sạn đã có nhiều sáng
kiến kết hợp với nhau để khách du lịch có thể đến một cơ sở kinh doanh mà vẫn
được thưởng thức đồ ăn, thức uống từ các cơ sở khác với một mức giá ưu đãi, hợp
lý. Điều này giúp gia tăng chất lượng dịch vụ cũng như sự hài lòng của khách hàng
và khả năng chi tiêu mà lại giúp giảm thiểu việc tiếp xúc gây nguy cơ lây lan dịch
bệnh. Các bên cũng cần nghiên cứu và triển khai để có được những chương trình
khuyến mãi hấp dẫn du khách trong nước cũng như du khách nước ngoài sau khi
tình hình dịch bệnh được kiểm soát. Việt Nam đang bước vào mùa du lịch nội địa
và nếu có thể kiểm soát được dịch Covid 19 thì chính quyền, cơ quan chuyên môn
phòng chống dịch bệnh cùng doanh nghiệp du lịch có thể thống nhất để triển khai
chương trình kích cầu du lịch nội địa, góp phần hạn chế khó khăn cho các doanh
nghiệp du lịch và vực dậy ngành du lịch địa phương.

c. Nhà nước

Theo số liệu thống kê, dịch Covid 19 đã khiến 137 doanh nghiệp lữ hành quốc
tế xin thu hồi giấy phép, tăng gần ba lần so với cùng kỳ năm trước tức năm 2019.
Nhiều lao động trong ngành du lịch rơi vào cảnh bị mất việc làm. Những nhà
hàng, khách sạn chưa kịp mở cửa trở lại sẽ tiếp tục đóng hoặc có thể phải bán.
Trong tình hình hiện nay, các doanh nghiệp là doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch
vụ không đủ sức để tự kích hoạt cơ chế bảo vệ mình mà cần có sự hỗ trợ, đồng
hành từ Nhà nước chính phủ để có thể nhanh chóng vực dậy thị trường khi tình
hình dịch bệnh khả quan hơn. Chính phủ cần kích hoạt các gói cứu trợ, hỗ trợ lãi
suất và quan trọng nhất là doanh nghiệp phải tiếp cận được, cũng như triển khai

17
giải pháp phòng chống dịch hiệu quả, quản lý chặt chẽ để tránh được nguồn lây từ
bên ngoài. Với các gói bảo hiểm, các doanh nghiệp cần được trực tiếp thụ hưởng,
tránh đưa về các địa phương, sẽ gây khó khăn đến tay người lao động của doanh
nghiệp. Nhà nước nên tiếp tục xem xét phương án trợ giúp doanh nghiệp trong
việc miễn thuế trong năm 2021 và hỗ trợ bổ sung gói tài chính cho người bị thất
nghiệp trong ngành nghề này bao gồm: nhân viên lữ hành, hướng dẫn viên…
những người vẫn mong muốn gắn bó với ngành. Cụ thể, miễn thuế giá trị gia tăng
(VAT) cho tiêu dùng du lịch và các doanh nghiệp trong vòng một năm, giảm 50%
thuế VAT cho tiêu dùng du lịch và các doanh nghiệp du lịch trong giai đoạn phục
hồi sau khi dịch bệnh được kiểm soát; giảm chi phí môi trường cho các doanh
nghiệp du lịch, giảm thuế khoán đối với các hộ kinh doanh du lịch các thể trong
năm 2021. Việc miễn phí cấp thị thực nhập cảnh cho khách du lịch quốc tế đến
Việt Nam cần được Chính phủ nghiên cứu và áp dụng 12 tháng từ ngày Việt Nam
công bố hết dịch đồng thời nghiên cứu pháp lý hóa danh mục 80 nước, vùng lãnh
thổ có tiềm năng gửi khách du lịch đến Việt Nam được xét cấp thị thực điện tử;
xem xét miễn thị thực đơn phương có thời hạn 12 tháng cho các nước New
Zealand, EU, Mỹ, Canada khi được xác định không phải là vùng dịch và triển
khai thí điểm “ hộ chiếu vaccine” ở một số địa phương, mở cửa thị trường du lịch
quốc tế nhưng vẫn phải đảm bảo các biện pháp phòng dịch.

Nhà nước cần thành lập tổ chức công tác liên ngành do Thủ tướng hoặc Phó
Thủ Tướng cùng các lãnh đạo địa phương để lập tức thúc đẩy du lịch phát triển
trở lại. Trong thời gian sắp tới, các chính sách kích cầu du lịch cần được xây
dựng, đảm bảo sự tham gia hiệu quả của toàn ngành du lịch cũng như các bộ,
nhóm ngành liên quan khác. Các bộ, ngành, địa phương xây dựng chính sách kịp
thời và đồng bộ hỗ trợ doanh nghiệp du lịch giảm thiểu các khó khăn, giúp doanh
nghiệp phục hồi và hoạt động trở lại bình thường. Bên cạnh đó, các kiến nghị áp
dụng mức giá điện theo đơn giá điện sản xuất cho các cơ sở kinh doanh nhà hàng,
dịch vụ lưu trú du lịch thay vì áp dụng mức giá dịch vụ trong một năm nên được
18
Nhà nước xem xét và cho thử nghiệm, đồng thời giảm tiền thuế đất, tiền thuê sử
dụng đất và cho phép doanh nghiệp du lịch nộp chậm tiền thuế đất cho đến khi
tình hình dịch bệnh ổn định nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp khôi phục.

Cùng với đó, nhà nước cần sử dụng các công cụ kinh tế để khắc phục các
khuyết tật của ngành du lịch trong giai đoạn khó khăn như hiện giờ. Ví dụ như
ngân hàng nhà nước nên giảm các loại phí, lãi suất thị trường mở, lãi suất tái cấp
vốn cho các ngân hàng thương mại, xem xét cho ngân hàng thương mại gia tăng
nợ xấu quá hạn và triển khai gói hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp đầu tư,
kinh doanh dịch vụ du lịch lữ hành, nhà hàng khách sạn…

d. Người tiêu dùng

Khách du lịch chính là chìa khóa, là yếu tố quyết định sự thành bại của các
doanh nghiệp và Nhà nước trong việc phát triển Du lịch sau khi dịch bệnh được
kiểm soát tại Việt Nam. Trước khi dịch Covid 19 bùng phát, hầu như nước ta chỉ
tập trung nhiều đến các chương trình thu hút khách quốc tế mà lơ là du lịch nội
địa, tuy nhiên trong thời điểm hiện tại, thị trường nội địa lại là bệ đỡ cho ngành du
lịch Việt Nam. Không chỉ có doanh nghiệp, Nhà nước, các địa phương cố gắng
khôi phục lại ngành mà khách du lịch nội địa ( người tiêu dùng ) ngoài việc thỏa
mãn nhu cầu của mình, cũng cần phải có trách nhiệm đối với sự phát triển bền
vững của ngành Du lịch và điều này đã được thể hiện qua các số liệu cụ thể trong
ngày lễ 30/4 – 1/5 vừa qua: Tại Phú Yên ghi nhận lượng khách tăng đột biến. Chỉ
tính riêng hai khu vực có thu phí là Gành Đá Đĩa và Bãi Môn - Mũi Điện, tổng số
khách ngày đầu nghỉ lễ đã là 5.000 lượt. Các bãi biển cũng chật kín người ngay từ
những ngày đầu của kỳ nghỉ. Tại Hà Nội, các điểm di tích, khu vui chơi, giải trí lại
chật kín khách. Trong sáng 1-5, đông đảo người dân đã xếp hàng từ phố Ông Ích
Khiêm, cách Lăng Bác tới gần 3km. Bên cạnh đó, các khu vui chơi, giải trí như
Times City, Royal City, Công viên nước Hồ Tây… lượng khách lên tới hàng nghìn
người. Có thể nói, nhờ vào lượng khách nội địa mà ngành Du lịch Việt Nam năm

19
2021 có thể phát triển trong thời điểm khủng hoảng trên toàn thế giới hiện nay. Mỗi
công dân Việt Nam đều phải phát huy vai trò của mình và đóng góp cho ngành du
lịch nước nhà.

PHẦN KẾT LUẬN

Trên cơ sở phân tích vai trò của các chủ thể chính tham gia thị trường, chúng ta có
thể thấy được vai trò và phạm vị ảnh hưởng của các chủ thể này trong việc định
hướng lối đi của nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành du lịch nói riêng. Qua
đây, chúng ta cũng có thể thấy việc phát huy tối đa vai trò của mỗi chủ thể vào quá
trình vực dậy nền kinh tế, đặc biệt là ngành du lịch Việt Nam sau thời kỳ khủng
hoảng do dịch bệnh gây nên là rất quan trọng. Tiểu luận đã đưa ra một số giải pháp,
hướng đi có mỗi chủ thể có thể cải thiện những lỗ hổng, khiếm khuyết của mình
khi dịch bùng phát để nâng cao và phát huy tốt nhất vai trò của mình và đóng góp
vào ngành du lịch Việt Nam trong giai đoạn tới.

Trên đây là phần trình bày tiểu luận về vấn đề: “ Vai trò của các chủ thể chính
tham gia thị trường và giải pháp để phát huy vai trò của các chủ thể này nhằm khôi
phục và phát triển ngành du lịch Việt Nam sau đại dịch Covid 19” Mặc dù đã cố
gắng tìm hiểu và phân tích nhưng sẽ vẫn còn nhiều thiếu xót. Em mong cô có thể

xem xét và chỉnh sửa để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn. Em xin

chân thành cảm ơn!

20
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác – Lênin ( dành cho bậc Đại học – không
chuyên lý luận chính trị ) – Hà Nội 2021
2. Cơ hội phục hồi ngành du lịch sau đại dịch Covid 19 – Bảo Anh
3. Ảnh hưởng của dịch Covid 19 tới ngành Du lịch Việt Nam – Thạc sĩ Lê Kim
Anh.
4. Tổng cục Thống kê (2020), Báo cáo tình hình kinh tế quý I/2020.

21

You might also like