You are on page 1of 22

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH


KHOA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

TRẦN HOÀNG BẢO, ĐẶNG CHẤN KHÔI


MSSV: 31181024375, 31181023080
Lớp: PM001

Môn: Quản lý tài chính các tổ chức công


Chủ đề:
Thực trạng và giải pháp hoàn thiện cơ chế tài chính
tại đơn vị công

TIỂU LUẬN MÔN QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÁC TỔ


CHỨC CÔNG
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2020

1
Mục lục
MỞ ĐẦU....................................................................................................................3

NỘI DUNG:..................................................................................................................

1. Khái quát về cơ chế tài chính..................................................................................5

2. Thực trạng về cơ chế tài chính tại đơn vị công:


a/ Thực trạng của nước ta............................................................................................6

b/ Cơ chế tài chính ở đơn vị sự nghiệp công của một số quốc gia khác và bài học
rút ra đối với Việt Nam..............................................................................................10

3. Giải pháp hoàn thiện cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập............18

KẾT LUẬN................................................................................................................21

TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................22

2
MỞ ĐẦU
Hơn mười năm qua, công cuộc cải cách và đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế ở Việt Nam đã diễn ra sôi động, toàn diện, tạo thế và lực cho
đất nước phát triển đi lên. Cùng với quá trình đổi mới kinh tế, công
cuộc cải cách hành chính cũng đã được triển khai, vai trò quản lý
nhà nước về chính trị, kinh tế, xã hội đã được khẳng định và được
tăng cường trong khuôn khổ pháp lý... Tuy nhiên, cho đến nay, nhìn
chung bộ máy quản lý vẫn cồng kềnh, trùng lắp, chồng chéo về chức
năng, nhiệm vụ và thẩm quyền giữa các cơ quan. Thực trạng biên
chế ở các cơ quan có tình hình vừa thừa, vừa thiếu, cơ cấu các loại
công chức còn bất hợp lý, vừa gây lãng phí lao động, tiền của vừa
hạn chế hiệu quả công tác. Về tiền lương, sau hơn 7 năm thực hiện
Nghị định 25-CP ngày 23/5/1993, trong thực tiễn đã và đang phát
sinh một số diễn biến phức tạp, nhiều yếu tố bất hợp lý nảy sinh đòi
hỏi phải được giải quyết kịp thời. Chế độ tiền lương đối với cán bộ,
công chức hiện nay đã và đang gây khó khăn cho việc thu hút người
có năng lực vào làm việc ở các cơ quan nhà nước. Tiền lương và thu
nhập không còn là động lực để phát huy tính tích cực, sáng tạo của
cán bộ, công chức. Phương thức cấp phát kinh phí hành chính, sự
nghiệp dựa trên cơ sở dự toán chi tiết theo mục lục NSNN, trong khi
chất lượng dự toán của nhiều đơn vị chưa cao, chưa kịp thời, nhiều
khoản chi được dự toán và cấp phát trên cơ sở biên chế hoặc quỹ

3
lương đã làm giảm động lực tiết kiệm, không khuyến khích tinh giản
biên chế...

Thực tế bức xúc trên đây đặt ra đòi hỏi phải tìm và lựa chọn các giải
pháp để nâng cao hiệu lực của Bộ máy quản lý nhà nước, nâng cao
chất lượng các dịch vụ công. Đồng thời, cải thiện đời sống cho cán
bộ, công chức trên cơ sở sử dụng kinh phí ngân sách một cách tiết
kiệm, hiệu quả. Trong lĩnh vực tài chính, Nhà nước hiện nay đã và
đang tiến hành hàng loạt biện pháp để góp phần lành mạnh hoá nền
tài chính quốc gia, nâng cao chất lượng quản lý, sử dụng tiết kiệm và
có hiệu quả nguồn lực của đất nước kể cả việc khẩn trương xúc tiến
cải tiến chế độ tiền lương và thực thi các biện pháp đảm bảo xã hội,
trong đó thực hiện khoán chi hành chính và cơ chế tự trang trải là
giải pháp cần thiết, có hiệu quả để tạo bước đột phá mới. Tài chính
công và quản lý tài chính công là vấn đề còn tương đối mới cả về
nhận thức lý luận lẫn hoạt động thực tiễn ở nước ta, nên việc tìm
hiểu về vấn đề này sẽ có những khó khăn nhất định đòi hỏi phải tìm
hiểu thật kỹ trước khi bắt tay vào viết nó. Do sự hạn chế về trình độ
nên bài viết của nhóm em không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong
được thầy chỉ bảo và sửa chữa giúp.

Chúng em xin chân thành cám ơn ạ !

4
NỘI DUNG
1.Khái quát về cơ chế tài chính:

Cơ chế tài chính chỉ phương thức tồn tại và hoạt động tài chính của
tổng thể các hoạt động tài chính và tương tác giữa chúng trong quá
trình hoạt động ở một tổ chức, đơn vị, lĩnh vực kinh tế xã hội nào đó
hoặc của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.Cơ chế tài chính chỉ phương
thức tồn tại và hoạt động tài chính của tổng thể các hoạt động tài
chính và tương tác giữa chúng trong quá trình hoạt động ở một tổ
chức, đơn vị, lĩnh vực kinh tế xã hội nào đó hoặc của toàn bộ nền
kinh tế quốc dân. Có hai nội dung cơ bản trong cơ chế tài chính đối
với các đơn vị hành chính sự nghiệp đó là hình thức quản lý của Nhà
nước và xác định các nguồn tài chính, nội dung chi. Về hình thức
quản lý của Nhà nước: Có hai hình thức quản lý, đó là theo chế độ,
tiêu chuẩn, định mức và quản lý theo dự toán. Quản lý theo chế độ,
tiêu chuẩn, định mức nghĩa là nguồn tài chính được xác định cho các
đơn vị căn cứ vào chỉ tiêu chủ yếu là định mức phân bổ do Nhà nước
quy định; việc sử dụng đúng chế độ chính sách của Nhà nước. Quản
lý theo dự toán nghĩa là Nhà nước mở rộng quyền tự chủ tài chính,
quản lý biên chế, lao động cho các đơn vị trong quyết định mức thu
chi và bố trí linh hoạt các khoản chi, sử dụng nhiều biện pháp
khuyến khích các đơn vị sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn
lực, khuyến khích các đơn vị sự nghiệp tăng thu bù đắp chi, giảm
5
dần phần kinh phí NSNN cấp. Trong phạm vi nguồn kinh phí được
giao ổn định trong một giai đoạn nhất định. Đối với các cơ quan
hành chính thì nguồn kinh phí hoạt động thờng xuyên do NSNN
đảm bảo. Đối với các đơn vị sự nghiệp thì nguồn kinh phí hoạt động
thường xuyên gồm: Nguồn NSNN cấp; nguồn thu từ các hoạt động
sự nghiệp, phí, lệ phí; nguồn thu viện trợ; nguồn thu từ hoạt động
sản xuất, cung ứng dịch vụ và các nguồn thu khác theo quy định của
pháp luật.

2. Thực trạng về cơ chế tài chính ở đơn vị công


hiện nay:

a) Cơ chế tài chính ở đơn vị công của nước ta:

Thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi
mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp
công lập thời gian qua, Bộ Tài chính cùng các bộ, ngành đã tham
mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ từng bước hoàn thiện cơ
chế, chính sách, pháp luật về đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tự
chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.

Theo đó, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ của
đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị định số 54/2016/NĐ-CP quy định
cơ chế tự chủ của tổ chức khoa học và công nghệ công lập; Nghị
định số 141/2016/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự

6
nghiệp công lập trong lĩnh vực sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp
khác… lần lượt được Chính phủ ban hành trong năm 2015 và 2016.

Các bộ cũng đã trình Chính phủ Nghị định quy định về cơ chế tự
chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong 5 lĩnh vực còn lại (y tế; văn
hóa, thể thao và du lịch; giáo dục nghề nghiệp; thông tin truyền
thông và báo chí; giáo dục đào tạo).

Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 07 quyết định về
danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước của
các bộ, cơ quan Trung ương; Ban hành 06 quyết định quy hoạch
mạng lưới đơn vị sự nghiệp công lập của Bộ Khoa học và Công
nghệ, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội,
Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Ở địa phương, UBND 07 tỉnh đã ban hành quyết định quy hoạch
mạng lưới đơn vị sự nghiệp công lập của tỉnh; Một số tỉnh, thành
phố khác như: Tiền Giang, Sơn La, Hải Phòng, Đồng Nai, Đà
Nẵng... cũng xây dựng và ban hành danh mục dịch vụ sự nghiệp
công. Việc triển khai thực hiện các quy định trên đến nay cơ bản ghi
nhận những kết quả tích cực. Thống kê cho thấy, số lượng đơn vị sự
nghiệp công lập được giao quyền tự chủ tài chính chiếm tỷ lệ khá
cao, khoảng 90% số đơn vị sự nghiệp công lập đang hoạt động với
trên 50 nghìn đơn vị.Số thu sự nghiệp của các đơn vị sự nghiệp công
lập tăng năm sau cao hơn năm trước, chủ yếu nhờ tăng quy mô, mở

7
rộng hoạt động sự nghiệp và đa dạng hóa việc cung cấp dịch vụ cho
xã hội, qua đó thu hút thêm số người tham gia thụ hưởng các hoạt
động dịch vụ sự nghiệp công.

Theo báo cáo chưa đầy đủ của các bộ, ngành, địa phương, đến cuối
năm 2016, tổng nguồn thu sự nghiệp của các đơn vị sự nghiệp công
lập (bao gồm cả nguồn thu phí được để lại) đạt trên 70 nghìn tỷ
đồng. Nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp cùng với nguồn kinh phí
tiết kiệm 10% chi hoạt động thường xuyên ngân sách nhà nước giao
đã góp phần bảo đảm bù đắp một phần nhu cầu tiền lương tăng thêm
theo quy định của Chính phủ.

Cùng với việc khai thác nguồn thu, các đơn vị sự nghiệp công lập đã
xây dựng các giải pháp quản lý nội bộ để tiết kiệm chi phí. Theo báo
cáo của các bộ, cơ quan trung ương và địa phương, nhiều đơn vị sự
nghiệp tiết kiệm chi thường xuyên góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động sự nghiệp.

Trong đó, 143 đơn vị thuộc các bộ, cơ quan trung ương đã thực hiện
tiết kiệm chi thường xuyên khoảng 1.020 tỷ đồng; 1.486 đơn vị
thuộc các địa phương đã thực hiện tiết kiệm chi thường xuyên
khoảng 650 tỷ đồng.

Nhờ tăng cường khai thác nguồn thu, tiết kiệm chi và thực hiện chế
độ tự chủ, thu nhập và đời sống của người lao động trong các đơn vị
sự nghiệp công lập đã từng bước được nâng lên, trong đó thu nhập

8
tăng thêm của cán bộ, viên chức bình quân khoảng từ 0,5 đến 1,5 lần
tiền lương cấp bậc của đơn vị.

Ngoài ra, cơ chế tự chủ đã giúp các đơn vị sự nghiệp công lập huy
động nguồn vốn phát triển hoạt động sự nghiệp. Nhờ đó, cơ sở vật
chất của các đơn vị sự nghiệp công lập đã được tăng cường, tạo điều
kiện mở rộng các hoạt động sự nghiệp phong phú, đa dạng, phù hợp
với chức năng nhiệm vụ được giao.

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc tổ chức và hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp công lập hiện nay vẫn còn nhiều tồn tại, yếu kém
và còn không ít những khó khăn, thách thức phải vượt qua. Nhiều
văn bản pháp luật về đơn vị sự nghiệp công lập chậm được ban hành
hoặc chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung. Công tác đổi mới hệ thống tổ
chức các đơn vị sự nghiệp công lập còn chậm. Quy hoạch mạng lưới
chủ yếu còn theo đơn vị hành chính, chưa chú trọng quy hoạch theo
ngành, lĩnh vực, đặc điểm vùng miền và nhu cầu thực tế. Hệ thống
tổ chức các đơn vị sự nghiệp còn cồng kềnh, manh mún, phân tán,
chồng chéo; quản trị nội bộ yếu kém, chất lượng, hiệu quả dịch vụ
thấp. Chi tiêu ngân sách nhà nước cho các đơn vị sự nghiệp công lập
còn lớn, một số đơn vị thua lỗ, tiêu cực, lãng phí. Thực hiện cơ chế
tự chủ tài chính còn hình thức, có phần thiếu minh bạch; việc
chuyển đổi từ phí sang giá và lộ trình điều chỉnh giá dịch vụ sự
nghiệp công chưa kịp thời.

9
Việc thực hiện xã hội hoá lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công còn
chậm. Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát và xử lý sai
phạm trong hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập còn nhiều bất
cập…

b) Cơ chế tài chính ở đơn vị sự nghiệp công của một số


quốc gia khác và bài học rút ra đối với Việt Nam:

- Ở Trung Quốc:
+ Lập dự toán thu: Dự toán thu của đơn vị sự nghiệp công lập tại
Trung Quốc bao gồm: Thu từ ngân sách nhà nước (NSNN) cấp, thu
từ nguồn sự nghiệp, thu từ hoạt động kinh doanh, thu nhập khác.
Trung Quốc đã từng bước xây dựng chế độ thu từ các khoản thu
nhập phi thuế (các khoản thu không phải là thuế, phí) theo hình thức
“đơn vị kê khai, ngân hàng thu hộ, ngân sách quản lý thống nhất”.
Theo đó, các đơn vị mở tài khoản tài chính ngoài ngân sách, thực
hiện quản lý tài khoản có số dư cuối ngày được kết chuyển về 0. Bãi
bỏ chính sách cho phép một số khoản tiền ngoài ngân sách được giữ
lại theo tỷ lệ nhất định như trước đây, theo đó, tất cả các khoản thu -
chi của đơn vị sự nghiệp phải được phản ánh trong tài khoản tài
chính. Việc lập dự toán phải đảm bảo hợp pháp, đúng quy định, nội
dung rõ ràng, con số chính xác, chân thực.

+ Quản lý chi hoạt động thường xuyên: Trong giai đoạn 3, chi hoạt
động thường xuyên được áp dụng phương pháp gia tăng để tính

10
toán. Kinh phí hoạt động thường xuyên năm trước là cơ sở để xác
định cho dự toán năm sau; đồng thời, xem xét tình hình thu và các
nhân tố ảnh hưởng đến nhiệm vụ chi, xác định tỷ lệ và quy mô tăng
trưởng các khoản chi thường xuyên. Hiện nay, Trung Quốc tăng
cường hoàn thiện hệ thống chế độ và quy định các mức chi thường
xuyên, thực hiện quản lý theo định mức và biên chế.

+ Quản lý chi ngân sách dự án: Tại Trung Quốc, ngân sách dự án
bao gồm các khoản chi xây dựng cơ bản, dự án phát triển đặc thù,
chi sự nghiệp, sửa chữa lớn, mua sắm lớn… Đặc điểm của chi ngân
sách dự án là có tính đặc thù, tính độc lập và tính hoàn chỉnh. Vì
vậy, quản lý ngân sách dự án phải đáp ứng các quy tắc xây dựng dự
án và phải kết nối với quy hoạch ngân sách trung hạn.

+ Quản lý sử dụng ngân sách: Trung Quốc đang quản lý ngân sách
theo hiệu quả đầu ra. Theo đó, phạm vi quản lý hiệu quả ngân sách
từng bước được mở rộng, chất lượng quản lý đã được nâng cao, biện
pháp quản lý được tăng cường hơn. Đồng thời, Trung Quốc đã tăng
cường ý thức, trách nhiệm của các ban, ngành, đơn vị, nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn ngân sách; tăng cường tính khoa học trong việc ra
quyết định xây dựng chính sách tài chính; thúc đẩy việc xây dựng
Chính phủ hiệu quả, minh bạch và trách nhiệm.

+ Thẩm định dự toán NSNN: Khi thẩm định dự toán NSNN, các cơ
quan có thẩm quyền phải tập trung thẩm tra tính hợp pháp, chân thực

11
và hợp lý của dự toán. Trọng tâm của việc thẩm tra là xem xét tính
phù hợp của dự toán so với quy định của pháp luật, tính hoàn chỉnh,
hợp lý của dự toán, xem xét quy mô của dự toán và việc cân đối dự
toán ngân sách. Căn cứ vào báo cáo của đơn vị sự nghiệp công lập,
cơ quan quản lý trực tiếp chỉ có trách nhiệm tổng hợp dự toán,
quyền quyết định thuộc cơ quan tài chính cùng cấp (ở địa phương là
Sở Tài chính và ở Trung ương là Bộ Tài chính).

+ Về thực hiện công khai tài chính: Các vấn đề của đơn vị sự nghiệp
công lập như: Lập dự toán, quyết toán kinh phí hoạt động; kết quả
công tác hàng năm; kế hoạch tuyển dụng, bổ nhiệm nhân sự lãnh
đạo… đều phải kê khai theo quy định để phục vụ công tác giám sát.

+ Về cơ chế tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp công lập: Quá trình đổi
mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính và mức độ tự chủ của các đơn
vị sự nghiệp công lập của Trung Quốc được tiến hành bài bản, thận
trọng, bảo đảm tính khả thi, trong đó, đối với giáo dục đại học đã
được tăng cường tự chủ, NSNN hỗ trợ thông qua chất lượng, số
lượng sinh viên. Hiện nay, Trung Quốc đang nghiên cứu Luật Tự
chủ để đẩy mạnh, trao thẩm quyền cho các cơ sở giáo dục đại học.

- Ở Hàn Quốc:
+ Về cải cách tài chính công: Từ năm 1998, Chính phủ Hàn Quốc đã
đẩy mạnh tiến trình cải cách đơn vị công lập, thiết lập các thể chế
mang tính thị trường nhiều hơn và các chiến lược quản lý, nhằm

12
nâng cao hiệu quả và tính minh bạch. Vấn đề cốt lõi là triển khai
thực thi cơ chế quản lý chi tiêu ngân sách theo kết quả. Mục đích
của cơ chế này không phải nhằm vào quản lý chi phí đầu vào mà
nhằm quản lý kết quả đầu ra của chi tiêu ngân sách. Điểm nổi bật
nhất là xây dựng bộ máy và cơ chế đánh giá hiệu quả chi tiêu ngân
sách, tình hình và hiệu quả hoạt động của các cơ quan Chính phủ.

+ Về kế hoạch hoạt động: Các cơ quan nhà nước phải cụ thể hóa các
nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan mình, trên cơ sở đó xác lập các
mục tiêu chiến lược trung hạn; phải cụ thể hoá các mục tiêu chiến
lược thành các kết quả hoạt động cụ thể từng năm nhằm đạt được
các mục tiêu chiến lược; kèm theo đó là các chỉ số để đánh giá các
kết quả và thước đo cũng như phương thức đo lường kết quả thu
được.Về đánh giá hoạt động: Hệ thống giám sát, phân tích và đánh
giá tình hình chi tiêu, tình hình và kết quả hoạt động của các cơ quan
Chính phủ được củng cố.
+ Ủy ban Kiểm toán và thanh tra nhà nước được củng cố và nâng
cao trách nhiệm không chỉ bảo đảm tính minh bạch và trung thực đối
với các báo cáo tài chính mà còn tham gia tích cực hơn vào việc
đánh giá quá trình hoạt động, quá trình chi tiêu và nhất là đánh giá
các kết quả đạt được của các cơ quan Chính phủ trước, trong và sau
khi kết thúc mỗi hoạt động.

- Ở Pháp:

13
+ Chuyển từ phương thức quản lý ngân sách theo đầu vào sang
quản lý dựa trên kết quả; quy định trách nhiệm đồng thời đảm bảo
sự chủ động trong các hoạt động của các cơ quan nhà nước các
cấp.

+ Đảm bảo tính minh bạch về thông tin ngân sách thông qua việc
tăng cường, chuẩn hóa quyền kiểm tra giám sát và đánh giá của
Nghị viện cũng như nâng cao chất lượng thông tin của Tòa Kiểm
toán (Thẩm kế viện); giao quyền thẩm tra và xác nhận báo cáo
quyết toán ngân sách cho Tòa Kiểm toán.

+ Cải tiến các công cụ quản lý, cung cấp thông tin thông qua việc
sửa đổi mục lục sự nghiệp; cải cách kế toán, ban hành chuẩn mực
kế toán công.

+ Về cơ cấu chi ngân sách: Kinh phí không còn được phân bổ theo
tính chất các khoản chi (theo mục chi) mà theo theo mục đích của
các khoản chi và được cấp phát trọn gói - ngân sách theo chương
trình.

+ Về xây dựng ngân sách: Thay vì chỉ tập trung vào liệt kê, mô tả
các khoản chi tiêu sự nghiệp theo tính chất trong cơ chế quản lý
ngân sách theo đầu vào; xây dựng dự toán ngân sách theo kết quả
đầu ra cần phải ưu tiên tập trung vào xem xét các chiến lược, mục
tiêu, các kết quả đầu ra của việc sử dụng ngân sách cùng những
chỉ số phục vụ cho việc đo lường, đánh giá kết quả  sẽ được xác

14
định cho từng chương trình và được trình bày trong Bản cam kết
hiệu quả chương trình ngân sách, được xây dựng cho từng chương
trình, bao gồm các nội dung: (i) Mô tả chiến lược thực hiện của
chương trình; (ii) Giới thiệu các mục tiêu hướng tới; (iii) Giới
thiệu các chỉ số nhằm đo lường, đánh giá kết quả; (iv) Giải trình
căn cứ, mục đích sử dụng từng đồng ngân sách được cấp. Bản cam
kết là tài liệu giải trình bắt buộc đính kèm dự toán ngân sách hàng
năm. Đồng thời, việc xác định đúng các mục tiêu ưu tiên được
xem là một bước quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
ngân sách; vì nếu không xác định được các mục tiêu ưu tiên, ngân
sách sẽ được sử dụng một cách giàn trải, thiếu tính thống nhất,
thiếu rõ ràng và khó đạt được kết quả mong đợi.

-Bài học rút ra đối với Việt Nam:

+ Qua kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới về đổi mới, hoàn
thiện cơ chế quản lý tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập, có
thể rút ra một số bài học đối với Việt Nam như sau:

Một là, để thúc đẩy nhanh tiến trình thực hiện giao quyền tự chủ cho
các đơn vị sự nghiệp công lập trước hết cần phân định rõ dịch vụ sự
nghiệp công do các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện, dịch vụ sự
nghiệp công do các đơn vị ngoài công lập thực hiện và dịch vụ công
do các đơn vị cùng thực hiện, từ đó, phân loại đơn vị sự nghiệp công

15
phù hợp theo tính chất chuyên môn và loại hình cung cấp dịch vụ
công, gồm: Đơn vị sự nghiệp có tính chất cung cấp dịch vụ hành
chính; Đơn vị sự nghiệp công ích (là đơn vị cung cấp dịch vụ cho xã
hội), gồm: Nhóm có thu phí và nhóm không thu phí; Đơn vị sự
nghiệp có tính chất kinh doanh (hoạt động như doanh nghiệp).

Hai là, tiếp tục xác định vai trò quan trọng của Nhà nước trong đầu
tư/hỗ trợ phát triển các dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu nói
chung và các đơn vị sự nghiệp công nói riêng cả về cơ chế và nguồn
lực tài chính, nhưng cần sớm thay đổi căn bản/thực chất phương
thức đầu tư/hỗ trợ từ NSNN trong cung cấp dịch vụ sự nghiệp công,
trước hết cần xây dựng, ban hành đồng bộ hệ thống định mức kinh tế
- kỹ thuật đối với từng lĩnh vực/hoạt động sự nghiệp công. Đây là cơ
sở tiền đề quan trọng để thay đổi căn bản/thực chất phương thức hỗ
trợ từ NSNN trong cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, chuyển từ việc
giao dự toán ngân sách cho các đơn vị cung cấp dịch vụ sự nghiệp
công lập như hiện nay sang thực hiện phương thức đặt hàng, mua
hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công trên cơ sở hệ
thống định mức kinh tế - kỹ thuật và tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng
của từng loại hình dịch vụ đơn vị sự nghiệp cung cấp, gắn với chế
độ tiền lương phù hợp; qua đó, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, tạo
môi trường thuận lợi, bảo đảm cho các đơn vị sự nghiệp công lập và
ngoài công lập phát triển bình đẳng.

16
Ba là, xác định tiêu chí đánh giá rõ ràng, minh bạch gắn với kết quả
thực hiện nhiệm vụ để đánh giá được hiệu quả chi ngân sách theo
kết quả đầu ra, trong đó vấn đề quan trọng nhất là phải xây dựng các
chỉ tiêu, chỉ số để đo lường, đánh giá được kết quả.

Bốn là, không ngừng hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát và đánh
giá hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập đồng thời
ở cả hai cấp độ:

Từ bên trong, sẽ do các bộ, ngành, địa phương và các đơn vị sự


nghiệp tự thực hiện, các kết quả đầu ra của đơn vị sẽ được đo lường
cụ thể bằng các chỉ số do đơn vị xây dựng.

Từ bên ngoài, theo cơ cấu phân cấp quản lý sẽ do các cơ quan quản
lý (cấp trên) thực hiện kiểm tra, giám sát và đánh giá đối với cơ
quan, đơn vị cấp dưới; các cơ quan chức năng (như: cơ quan tài
chính; Kiểm toán Nhà nước; cơ quan thanh tra; các tổ chức đánh giá
chuyên nghiệp…) và đối tượng được cung cấp, sử dụng dịch vụ
công sẽ thực hiện kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả hoạt động của
cơ quan, đơn vị. Các chỉ số đánh giá này sẽ do các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền (hoặc các tổ chức được uỷ quyền) ban hành phù hợp
theo đặc điểm hoạt động của các ngành, lĩnh vực, các địa phương.

Năm là, việc cải cách các đơn vị sự nghiệp công cần thực hiện thận
trọng, có lộ trình và gắn với cải cách hành chính, đặc điểm tình hình
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

17
Sáu là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin trong công tác quản trị, quản lý tài chính đối với
đơn vị sự nghiệp công lập.   

3.    Giải pháp hoàn thiện cơ chế tài chính của các
đơn vị sự nghiệp công lập:

- Hoàn thiện pháp luật về cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp
công lập thuộc các ngành, lĩnh vực trên cơ sở mức độ tự chủ về tài
chính, tăng cường phân cấp và tăng tính chủ động cho các đơn vị sự
nghiệp công lập.

- Có cơ chế tài chính phù hợp để huy động mọi nguồn lực xã hội đầu
tư cho lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công, nhất là cho y tế và giáo dục,
kể cả hình thức hợp tác công - tư, liên doanh, liên kết.

- Phân định rõ hoạt động thực hiện nhiệm vụ chính trị do Nhà nước
giao với hoạt động kinh doanh dịch vụ của các đơn vị sự nghiệp
công lập.

- Đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi từ phí sang thực hiện giá dịch vụ sự
nghiệp công theo hướng Nhà nước quy định khung giá dịch vụ, từng
bước tính đủ các chi phí đối với các loại dịch vụ cơ bản, thiết yếu,
đồng thời cần gắn với chính sách hỗ trợ phù hợp cho người nghèo,
đối tượng chính sách.
- Đổi mới cơ chế phân bổ nguồn lực, quản lý, cấp phát ngân sách

18
nhà nước. Ngân sách nhà nước bảo đảm đầu tư cho các dịch vụ công
cơ bản, thiết yếu (giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông; y tế dự
phòng, y tế cơ sở khám, chữa các bệnh phong, lao, tâm thần; nghiên
cứu khoa học cơ bản; văn hóa, nghệ thuật dân gian truyền thống, đào
tạo huấn luyện vận động viên, huấn luyện viên thể thao quốc gia;
bảo trợ xã hội và chăm sóc người có công,...) và đối với các đơn vị
sự nghiệp công lập ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
dân tộc ít người.

- Ngân sách nhà nước chuyển từ hỗ trợ cho các đơn vị sự nghiệp
công lập sang hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng người nghèo, đối tượng
chính sách khi sử dụng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu;
chuyển từ hỗ trợ theo cơ chế cấp phát bình quân sang cơ chế Nhà
nước đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công căn
cứ vào chất lượng đầu ra hoặc đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp
công. Thực hiện cơ chế giao vốn, tài sản cho đơn vị sự nghiệp công
lập; xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu về tài chính và tài sản công
của đơn vị sự nghiệp công lập trong toàn quốc.

- Phân loại các đơn vị sự nghiệp công lập theo mức độ tự chủ khác
nhau về tài chính. Đối với đơn vị đã tự chủ về tài chính, được trả
lương theo kết quả hoạt động. Đối với đơn vị tự bảo đảm một phần
chi thường xuyên, thực hiện trả lương theo ngạch, bậc, chức vụ và
các khoản phụ cấp theo quy định hiện hành; đối với phần tăng thu,
tiết kiệm chi, được trích lập các quỹ bổ sung thu nhập và phát triển
19
hoạt động sự nghiệp. Các đơn vị được giao tự chủ tài chính ổn định
từ 3 đến 5 năm theo phương án thu, chi tài chính được cấp có thẩm
quyền phê duyệt. Đối với các đơn vị được Nhà nước bảo đảm toàn
bộ kinh phí hoạt động, cần đẩy mạnh thực hiện cơ chế khoán chi.
- Rà soát các quy định về thuế nhằm khuyến khích tự chủ tài chính
và có tích lũy cho đầu tư. Đối với đơn vị đã tự chủ về tài chính,
được tính chi phí tiền lương theo doanh thu hoặc quỹ lương khoán
trong chi phí hợp lệ để tính thuế thu nhập.

- Có cơ chế, chính sách đủ mạnh để tạo điều kiện thuận lợi, khuyến
khích việc tinh giản biên chế, bổ sung vào diện tinh giản biên chế
một số đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Bảo đảm
nguồn kinh phí để giải quyết chính sách đối với những người dôi dư
do sắp xếp, tổ chức lại đơn vị sự nghiệp công lập và thực hiện tinh
giản biên chế.

20
KẾT LUẬN
Như vậy qua phân tích ở trên cho thấy vấn đề tài chính công gắn liền
với hoạt động của nhà nước. Nó vừa là nguồn lực để nhà nước thực
hiện tốt chức năng của mình , vừa là công cụ để thực hiện các dịch
vụ công, chi phối , điều chỉnh các mặt hoạt động khác của đất nước.
Trong tiến trình đổi mới, thực hiện cải cách nền hành chính quốc
gia, Đảng và nhà nước ta coi đổi mới quản lý tài chính công là một
trong những nội dung quan trọng hàng đầu. Nhận thức một cách đầy
đủ, có hệ thống về tài chính công là đòi hỏi bức thiết trong công tác
nghiên cứu, học tập cũng như hoạt động thực tiễn cho cán bộ ở mọi
nghành, mọi cấp, đặc biệt là trong thời kỳ đẩy mạnh cải cách hành
chính hiện nay ở nước ta. Đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, là những
người làm chủ đất nước trong tương lai cần phải hiểu một cách cụ
thể về vấn đề tài chính công. Hơn nữa với sinh viên kinh tế thì lại
càng phải coi trọng vần đề này hơn nữa.

    

21
TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ về quy định
cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập;

2. Quyết định số 695/2015/QĐ-TTg, ngày 21/5/2015 của Chính phủ ban hành
kế hoạch triển khai thực hiện Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015
của chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập;

3. Quyết định số 22/2015/QĐ-TTg ngày 22/6/2015 của Thủ tướng Chính phủ
về việc chuyển đơn vị sự nghiệp thành công ty cổ phần;

4. Quyết định số 31/2017/QĐ-TTg ngày 17/07/2017 của Thủ tướng Chính phủ
về tiêu chí danh mục ngành, lĩnh vực thực hiện chuyển đơn vị sự nghiệp công
lập thành công ty cổ phần;

5. Đổi mới cơ chế tài chính đơn vị sự nghiệp công theo tinh thần Nghị quyết
Trung ương 6 khóa XII, Nguyễn Trường Giang, Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng
12/2017.

6. Vụ Tài chính Hành chính sự nghiệp, Bộ Tài chính (2010), Đề án Đổi mới
cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một
số loại hình dịch vụ sự nghiệp công;

7. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2011), Báo cáo tổng hợp Quy hoạch phát triển
nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020;

8. Học viện Tài chính (2013), Đổi mới chính sách tài chính đơn vị sự nghiệp
công và dịch vụ công, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ 2012, Hà Nội

22

You might also like