Bước Qua Thế Kỷ
Ngu Yên
0
Cuối Thế Kỷ 20
Và
Ý Nghĩ Kết Thúc.
Nếu triết gia Heraclitus đã nói: “Không thể tắm hai
lần trong cùng một dòng sông.” Hậu Hiện Đại sẽ đặt
lại vấn đề: “Một lần cũng không được, vì sông không
có CÙNG một dòng.” Nghi ngờ và tái xét giá trị
truyền thống của những thời đại là ưu điểm của
HHĐ, cũng là lý do HHĐ bị khai tử.
Sau HHĐ là một khoảng trống chuyển tiếp hỗn loạn,
bao gồm tư tưởng, lý thuyết, phong trào văn hóa,
văn học… Những khám phá từ thập niên 1990 cho
đến nay, gần 30 năm, vẫn còn mới lạ, vẫn còn mâu
thuẫn, tranh cãi, chưa rõ căn cước, vì vậy chưa có
thể định danh một tên gọi với đa số thỏa thuận.
Trong lãnh vực văn chương, bất kỳ là thời đại nào,
phong trào, chủ nghĩa hoặc trường phái văn học
nào, phải có tác phẩm giá trị để chứng minh, và phải
có tác giả tên tuổi để thuyết phục niềm tin. Cho dù lý
thuyết và lập luận hay cách mấy, “đúng” cách mấy,
không có tác phẩm và tác giả đóng dấu ký tên, cũng
chỉ là những lời tranh luận của tư tưởng, thông
thường sẽ bị lãng quên một cách mau chóng.
Ngay cả một thuật ngữ dùng làm tên gọi cho một
thời kỳ văn hóa, văn chương, xã hội… cũng phải có
số đông danh gia đáng tin cậy công nhận, dù luôn
luôn có những cá nhân không vừa ý.
1
Khi một phong trào hoặc chủ nghĩa được thế giới
công nhận. Có sán phẩm, tác phẩm giá trị. Có chất
xám đáng tin cậy thỏa thuận. Có văn tài lớn hỗ trợ.
Phong trào hoặc chủ nghĩa đó phải có giá trị. Cũng
như một người thực sự trở thành bác học, có thể
không giỏi bằng Albert Einstein, nhưng chắc chắn là
một bác học có giá trị trong lãnh vực của ông.
Trong lập luận trên, Hậu Hiện Đại là một phong trào
có giá trị văn hóa, văn chương, xã hội, tâm lý, tư
tưởng, đời sống… không thể chối cãi, cho dù thích
hay không thích. Nếu không, bao nhiêu tác phẩm và
tác giả của phong trào HHĐ trong 30, 40 năm qua
nên loại bỏ? Chính vì giá trị này mà chủ nghĩa
Metamodernism (1997) dù không hoàn toàn thỏa
thuận, cũng phải cưu mang tinh túy của Hậu Hiện
Đại, bước vào thế kỷ 21.
Nhưng quan trọng hơn, chính là giá trị của đời sống
trong thời gian đó và không gian đặc thù nào đó.
Đời sống văn minh, khoa học ở Âu Châu thay đổi
gia tốc sau thế chiến thứ hai, đời sống tại Việt Nam
không thay đổi mấy. Giá trị nhịp sống tại Âu Châu
khác hẳn giá trị nhịp sống tại Việt Nam. Hậu Hiện
Đại ở Âu Châu khác với Hậu Hiện Đại ở Việt Nam.
Không chia sẻ được nhịp sống của thời đại, khó mà
thật sự hiểu tư tưởng, tâm tư, và thực hành tinh
thần trong căn cước thời đại. Quan điểm này áp
dụng cho bất kỳ ai, kể cả những người tuy sống tại
Âu Châu, nhưng mang nhịp sống của thời đại trước.
Trong luận văn Postmodernism and Globalization,
Omar Lizardo và Michael Strand phân tích và nhận
xét những khác biệt của HHĐ tại Pháp, Đức, Anh,
và Hoa Kỳ, dẫn đến khái niệm, HHĐ không có một
công thức chung, nhưng có bản thể đặc thù. Sự
biến hóa của HHĐ đặt trên căn bản: nẩy nở theo
từng bản sắc của địa phương. Giá trị của sự nẩy nở
2
như thế nào, tùy thuộc vào sức cập nhật của địa
phương đối với bản sắc của HHĐ. Điều này ảnh
hưởng trực tiếp đến sáng tác. Ví dụ như trong
Century, Summer 2013 Coursebook. viết: Trong
vùng Châu Mỹ Latin sử dụng ngôn ngữ Tây Ban
Nha, Modernismo (chủ nghĩa Hiện Đại) và
Postmodenismo (chủ nghĩa Hậu Hiện Đại) hai
phong trào văn chương từ đầu thế kỷ 20 mang
khuynh hướng riêng, không liên quan đến
Modernism và Postmodernism ở Anh quốc...
Như vậy, sáng tác HHĐ ở Việt Nam khác với sáng
tác HHĐ ở Mỹ, khác với ở Nam Phi, khác với ở Irag
… không chỉ vì trình độ hiểu biết về HHĐ khác nhau,
mà vì môi trường nuôi dưỡng hoặc phát tác sắc thái
của HHĐ khác nhau. Sáng tác của thời đại đến từ
vô thức của thời đại. Vô thức của thời đại thành
hình từ ý thức và cảm thụ của nhà văn về thời đại
đó. Nói một cách kỹ thuật, thời nào sáng tác đó. Có
còn ai muốn viết tuyệt tác Odyssey, Cung Oán
Ngâm Khúc, The Divine Comedy, Đoạn Trường Tân
Thanh, vào năm 2017? Dù có, chắc cũng không còn
hay nữa.
Ngay tên gọi Postmodern và Postmodernism cũng
khó bác bỏ, thay thế một tên khác. Khi đa số chất
xám văn hóa và văn minh trên thế giới đồng thuận
từ “post” dùng cho postmodern và postmodernism,
tất đã có lý do rõ ràng, tiêu biểu cho bản sắc của
thời kỳ, bao gồm bản thể, đặc điểm, nội dung và
hình thái của thời đó. Những tên gọi khác cho thời
kỳ này thuộc về sở thích và lập luận riêng của từng
nhóm. Ví dụ như “After modernism”. Hầu hết trong
mọi trường hợp, after và post đồng nghĩa. Có thể
dùng thay thế nhau, nhưng có một số trường hợp
sẽ dễ bị hiểu lầm. After Christmas, nghĩa là sau lễ
3
Giáng Sinh. Post-Christmas, là những lễ Giáng Sinh
về sau.
Ngày 14-16 tháng 11 năm 1997, một hội nghị do đại
học Chicago (unversity of Chicago) tổ chức. lấy tên
là Conference on After Postmodernism. Từ “After” ở
đây chỉ thời gian sau khi Hậu Hiện Đại được cáo
phó và những di sản của nó, trong khi chờ tương
lai.
Sở dĩ cho đến nay, sau khi đa số lập luận cho rằng
Hậu Hiện Đại đã cáo chung, vẫn chưa có tên gọi
nào “hướng dẫn” cho thời kỳ tiếp theo, vì: 1- Căn
bản để đặt tên cho thời kỳ dựa trên bản thể học của
phong thái sống, văn hoá, xã hội, và tư tưởng hỗ
trợ, chưa được rõ ràng từ khi bước vào thế kỷ 21.
2- Những khuynh hướng, phong trào văn hóa văn
học mới còn đang dọ dẫm. Nhiều thuật ngữ dùng
định danh chưa đủ chứng minh bằng sản phẩm, tác
phẩm, những tác giả cũ, lúng túng, những tác giả
mới, chưa thuyết phục. Do đó, nhiều tên gọi còn
đang “ứng tuyển”:
- Hậu Hậu Hiện Đại (HHHĐ) (Post-postmodernism.)
- Chuyển Đổi Hậu Hiện Đại (CĐHHĐ) (Transpostmodernism.) - Sau Hậu Hiện Đại (SHHĐ) (Afterposmodernism.) - Chủ nghĩa Kết Hợp Hiện Đại
(KHHĐ) (Metamodernism.) - Chủ nghĩa Hậu Thiên
Kỷ (HTK) (Post-millennialism, Hậu Hoàng Kim.
Millenia cũng có nghĩa thời đại hoàng kim.) - Chủ
nghĩa Điện Tử Hiện Đại (ĐTHĐ) (Digimodernism.) Chủ nghĩa Giả Mạo Hiện Đại (GMHĐ) (Pseudomodernism.) - Chủ nghĩa Hậu Nhân Bản (HNB)
(Posthumanism.) - Chủ nghĩa Thế Giới Hài Hòa
(TGHH) (Cosmospolitanism.) - Chủ nghĩa Tái Hiện
Đại (THĐ) (Remodernism.) - Chủ nghĩa Siêu Hiện
Đại (SHĐ) (Hypermodernism.) - Chủ nghĩa Tự Trị
4
Hiện Đại (TTHĐ) (Automodernism.) - Chủ nghĩa
Phục Hồi Hiện Đại (PHHĐ) (Renewalism.) v… v…
Một số định danh cho thời đương đại nổi bật trong
những lý thuyết và phong trào hiện hành, được ủng
hộ bởi những nhà tư tưởng, những nhà văn hóa,
những học giả, những nhà văn, đáng tin cậy, như:
1- Chủ nghĩa ĐiệnTử Hiện Đại (Digimodernism)
2- Chủ nghĩa Giả Mạo Hiện Đại (Pseudomodernism.)
3- Chủ nghĩa Kết Hợp Hiện Đại (Metamodernism.)
4- chủ nghĩa Hậu Nhân Bản (Poshumanism.)
Trong khi chủ nghĩa Kết Hợp Hiện Đại gần gũi với
cả hai phong trào Hậu Hiện Đại và chủ nghĩa Hiện
Đại. Giả Mạo Hiện Đại đến từ tư tưởng của triết gia
Baudrillard và Lyotard. Cả hai ông đều liên quan
đến nền tảng thành lập Hậu Hiện Đại. Chủ nghĩa
Hậu Nhân Bản rẽ sang con đường mới. Thuật ngữ
Posthumanism không liên quan gì đến "modern", nói
lên sự từ bỏ vương triều của “Hiện Đại”, dẫn đến
một quan niệm hoàn toàn khác, “Hậu Nhân Loại”
(Posthumanity,) với những suy đoán từ những dữ
liệu khoa học, sinh học, điện tử học, kỹ thuật học,
đã được chứng minh trong thực tế.
Nhìn lui một cách chết.
Alan Kirby tuyên bố, chủ nghĩa Hậu Hiện Đại đã
chết và bị chôn vùi. Thay vào đó một mô hình mới
về quyền lực và kiến thức, thành hình dưới áp lực
của công kỹ nghệ tân kỳ và các động lực xã hội
đương đại.
5
Trong phiên bản thứ hai của The Politics of
Postmodernism, (2002), học giả Linda Hutcheon
tuyên bố “it’s over”, HHĐ quá vãng.
Một số phê bình gia cho rằng hai tác phẩm: White
Noise, 1985, của Don DeLillo và The Satanic Verse,
1988, của Salman Rushdie là hai tác phẩm lớn cuối
cùng của HHĐ.
HHĐ phát xuất từ học thuyết của triết gia Jean
Francois Lyotard nhưng ít thịnh hành ở Pháp. Cũng
như đạo Thiên Chúa phát xuất từ Do Thái nhưng
không thịnh ở Do Thái. Đạo Phật phát xuất từ Ấn Độ
nhưng không thịnh ở Ấn Độ. Phải chăng vì lòng
người còn say mê cái cũ, khước từ cái mới. Hoặc vì
sách có câu, Bụt nhà không thiêng? Người Pháp
thường tự hào truyền thống cầm giữ chiếc nôi văn
hóa, văn học. Nhưng đứa trẻ đó đã lớn lên, đã bước
ra khỏi nôi và đi xa. Ngay cả học thuyết Hiện Sinh
cũng không được yêu chuộng ở Pháp như ở Hoa
Kỳ.
HHĐ cũng vậy, Hoa Kỳ là nơi HHĐ lớn mạnh và
phát triển, vì tinh thần phù hợp với sự phóng
khoáng, yêu chuộng mới lạ, chấp nhận hậu quả của
phiêu lưu, có kinh nghiệm về động lực phản kháng
mang lại sáng tạo… Cá tính bảo thủ, yêu chuộng
nguyên tắc, cực đoan về đạo lý khó tiếp cận với bản
thể của HHĐ. Thực tế cho thấy, giữa hai cực bảo
thủ và cách tân có một khoảng cách dành cho
những người trung bình hoặc tương đối. Họ bị ảnh
hưởng cả hai tinh thần chủ nghĩa HĐ và phong trào
HHĐ.
Về diện nghệ thuật, HHĐ đến với âm nhạc John
Adam, vui nghịch và giải cấu trúc. Với văn chương,
có Michael Nyman, Takashi Murakami, Tracy Emin,
6
Jonathan Safran Foer… với tư tưởng, có Ihab
Hassan, Lyotard, Beaudrillard…Ngay cả kiến trúc,
tòa lầu AT&T tại New York, 1984, là một ví dụ phản
ngược lại tất cả mọi thứ tích cực và tiến bộ đã đạt
được từ khi sau thế chiến. Phong trào kiến trúc
Memphis-Milano xây dựng nhiều công trình tiêu biểu
cho HHĐ. Trong nghệ thuật đồ gốm, có Betty
Woodman. Trong nghệ thuật vũ, có Karole Armitage
với tác phẩm Drastic Classicism, 1981. Trong âm
nhạc trình diễn có Neneh Cherry trong ca khúc
Buffalo Stance, 1988. Rồi tiêu biểu là Madona, Lady
Gaga … (Edward Docx. Tạp chí Prospect, số Tháng
Tám, 2011.)
Hai quan điểm xung kích chính của HHĐ.
1. HHĐ không chỉ tấn công vào những lãnh vực văn
chương và nghệ thuật, nhưng quan trọng hơn là
xung kích vào xã hội. Tạo ra khẩu hiệu: Tất cả nghệ
thuật là triết học. Tất cả triết học là chính trị. Ảnh
hưởng của HHĐ giúp cho Tây Phương nhận rõ sự
khác biệt trong con người và xã hội, vượt qua một
số bất công khốn khổ mà trước đây đã không được
quan tâm, nhất là giới tính và chủng tộc.
2- Sâu sắc hơn, chủ nghĩa HHĐ không đơn giản
kêu gọi sự đánh giá lại cơ cấu thẩm quyền. HHĐ
tuyên bố chúng ta là tất cả những gì trong bản thân.
Không có gì nhiều hơn bộ phận hô hấp và các cấu
trúc. (Khái niệm này quan trọng để xác nhận
“human” của HHĐ, khác với định nghĩa “human”
theo truyền thống. Rồi bước sang thế kỷ 21, khái
niệm posthuman (con người mới tương lai) sẽ tạo ra
nhiều tranh luận thú vị.)
“Chúng ta hoàn toàn được xây dựng. Không có gì
khác hơn”. Thách thức khái niệm con người trong
7
định nghĩa của Aristote, là động vật có lý trí. Tiếp tục
thách thức qua tư tưởng của nhiều thời đại, kể cả
con người Hiện Sinh của J.P. Sartre.
HHĐ cho rằng chúng ta không thể đứng ra ngoài
các tiêu chuẩn và căn cước mà cấu trúc và diễn văn
đã xác định về một đối tượng. Nói một cách khác,
con chó chỉ có thể là con chó với những gì nó sở
hữu. Nếu có đôi sừng, thì không phải. Xác định
được những gì chính trị sở hữu, sẽ xác định được
chính trị là gì và mục đích của nó.
Ngoài ra, vì HHĐ phê phán, xung kích hầu hết mọi
lãnh vực, tạo ra tâm trạng bối rối và không có gì
chắc chắn. Tạo ra sự nghịch lý, HHĐ không thể an
toàn dựa trên những thứ không an toàn.
Một điểm quan trọng khác, ngoại trừ chất vấn về
thành quả của văn minh, HHĐ ít quan tâm đến khoa
học, bao gồm các bô môn như sinh học, kỹ thuật
học, y khoa... mà đặt trọng tâm nơi xã hội và chính
trị, vì vậy khi con người và xã hội chuyển hướng
theo khoa học, HHĐ mất hẳn uy thế và không còn
bắt kịp thời đại.
Nhưng thất thế lớn nhất là có những niềm tin về tôn
giáo, về đạo lý, về những nguyên tắc chính thống đã
được thành hình lâu đời, HHĐ không thể đả phá vì
sự thay đổi của lòng người cần thời gian và cần can
đảm. Điều mà con người dư thừa là lòng sợ hãi.
Không đả phá được những lực lượng lớn, HHĐ trở
thành đối thủ và trở thành nạn nhân trước sức
mạnh của đối phương.
Từ cuối thế kỷ 20 sang đầu thế kỷ 21, khoa học
thực nghiệm và nhân văn đều phát triển hùng hỗ,
nhanh chóng. Xã hội thay đổi liên tục. Phương tiện
vật chất tản mát nhiều khuynh hướng, khiến tư
8
tưởng không theo kịp, tạo ra đời sống có nền tảng
lỏng lẻo. HHĐ cũng không theo kịp. Không đủ khả
năng tái xét những khám phá mới lạ. Nội dung trở
thành lỗi thời. Không còn sức thu hút. Đời sống
ngoảnh mặt, tìm kiếm hướng đi khác. Hiện trạng
của lực cải thiện đã chấm dứt.
Internet là sản phẩm của thời HHĐ, mang tác dụng
kỳ tích, không thể chối cãi trên hành tinh này. Khi
những tư tưởng và giải pháp triết học cũng như
chính trị của HHĐ không còn hợp thời. Con người
và xã hội tiến bộ, bỏ HHĐ lại bên đường. Chính
internet là phương tiện phát tán nhanh nhất, rộng
lớn nhất, giúp HHĐ mau an nghỉ.
Gần 20 năm sau, “Lễ tưởng niệm” HHĐ có thể xem
như được thực hiện bởi Viện Bảo tàng Victoria và
Albert tại London, Anh Quốc. Từ 24 tháng 9 năm
2011 đến 15 tháng 01 năm 2012, họ chưng bày
những “kỷ niệm” dưới chủ đề: “Cuộc Hồi Tưởng
Toàn Diện Đầu Tiên” trên thế giới: Hậu Hiện Đại –
Phong Cách và Tan Vỡ 1970-1990. (The First
Comprehensive retrospective: Postmodernism _
Style and Subversion.)
9
Đầu Thế Kỷ 21
Và
Ý Nghĩ Khai Cuộc.
Thế kỷ 21 tự nó là một thời đại nghịch lý. Ví dụ, sự
toàn cầu hóa do mạng lưới và những thiết bị điện
tử, những chương trình thông tin, liên kết đa tầng,
đưa thế giới vào lòng bàn tay của mỗi cá nhân. Một
người vừa có thể liên kết cả ngàn người khác trên
sóng, vừa cô độc một mình trong phòng vắng.
Chúng ta có thể vừa chảy nước mắt, vừa gửi những
"mặt cười" hân hoan đến nhiều người. Sự nghịch lý
thể hiện khắp nơi trong nhiều lãnh vực, mang tính
phức tạp và ý đồ. Tác dụng nghịch lý làm thực tế
luôn luôn tương tranh lưỡng diện. Con người không
nhất thiết phải chọn một trong hai như thời đại cũ.
Họ có thể thực hiện cả hai cùng một lúc. Ví như,
phục vụ quốc gia và lợi ích cá nhân cùng một lúc,
không cần phải hy sinh một trong hai. Hiệu quả
nghịch lý làm con người thâm nhập sự giả vờ. Lâu
ngày sự giả vờ trở thành giả dối một cách chân thật.
Sự giả dối chân thật không chỉ thể hiện nơi ý đồ
xấu, còn bao trùm cả lãnh vực tốt. Ngày nay, con
người nhập vai kịch sĩ, diễn tuồng, bất kỳ thể loại
tuồng gì, từ bi kịch đến hài kịch, họ nhập tâm trở
thành người thường, trở thành đạo diễn, trở thành
khán giả, cùng nhau phê phán kịch sĩ. Có thể nhận
định, sự phê phán ngày nay không có mấy hiệu quả,
ví dụ người đạo đức giả phê phán người đạo đức
giả, cả hai cùng biết bản thân mình đang giả.
10
Nhận định lịch sử và xã hội đang thay đổi theo sự
phát triển gia tốc của khoa học, hứa hẹn một tương
lai vừa hấp dẫn vừa lo âu. Hiện trạng này có xảy ra
cho văn học không? Nhất là văn học thế giới? Hiệu
quả không hoàn hảo của dịch thuật chuyên chở
được bao nhiêu sự khác biệt giữa văn hóa và ngôn
ngữ? Nhà văn có nhận thức được vai trò kịch sĩ
đang giả dạng? hoặc tưởng mình là kẻ xem tuồng
để phê phán?
Trong khi những học thuyết mới xử lý "chứng
nghịch lý" bằng cách nâng cao và cổ động những
khu vực, những quan điểm tương đồng, và để sự
bất đồng tự giảm thiểu. Văn chương giải quyết thế
nào về sự bất đồng giữa chủ nghĩa HĐ và phong
trào HHĐ? và những bất đồng giữa các học thuyết
mới trong đầu thế kỷ 21? Quan trọng hơn là giải
quyết cách nào khi có sự bất đồng giữa hai nhà văn
hoặc nhiều nhà văn trong lãnh vực văn học và trong
tinh thần văn chương?
Sự giả mạo trở thành tự nhiên.
Tư tưởng trong giả thuyết "Simulacrum", khi thực tế
không nguồn gốc chứng minh, thực tế giả mạo trở
thành sự thật, của triết gia Jean Baudrillard, giải
thích một cách đơn giản, một người, một vật, một
sự kiện khi nguồn gốc chứng minh sự hiện hữu đã
thất lạc, sự thật vắng mặt, chỉ còn sự hiện diện. Sự
có mặt sẽ trở thành sự thật, sự thật giả mạo đó
chân thành, vì không còn ai biết sự thật là gì.
Lý thuyết "Falsificationism" của Karl Popper, thuộc
về triết học khoa học, cho con người một cảm thức
thực tế, luôn luôn có điều gì không thật về một thực
tế được xác định.
11
Cả hai học thuyết dẫn đến một sự kiện: khi không
còn cách nào truy lùng, chứng minh nguồn gốc,
chứng nhận căn cước, trí tuệ sẽ phải chấp nhận sự
giả mạo là sự thật. Cho dù từ chối, cũng không khác
được. (Jean Baudrillard, The Rhetoric of Symbolic
Exchange của Brian Cogan, 2017, Southern Illinois
University Press.)
Hai học thuyết về "giả mạo" không hoàn toàn tiêu
cực như nhiều phê bình diễn giải. Sự "giả mạo chân
thành" có nhiều khía cạnh tích cực, tùy vào con
người muốn sử dụng chức năng và hiệu quả nào. Ví
dụ, "Thượng Đế" là một siêu nhân vật không thể
chứng minh, không có căn cước thật sự, ngoại trừ
những truyền thuyết thiếu khoa học. Cho đến hôm
nay "Thượng Đế" đã là “sự thật giả mạo chân
thành.” Thượng Đế có hay không? Không quan
trọng. Tin vào Thượng Đế được bình an. Nhưng vì
nhận biết tính "giả mạo chân thành," con người
không nhất thiết tin tưởng một cách cuồng tín, một
cách đui mù và cực đoan. Nhưng tin Thượng Đế
như một mục đích hướng thiện và niềm tin vào
những gì tốt đẹp cho con người.
Sự nhạy bén của trí tuệ là nhận ra những ẩn núp
bên dưới chất xám và sự khôn ngoan của trí tuệ là
tìm cách chối từ, không giải thích. Trong Statesman
của Plato, để lại:
Người xa lạ: Chúng ta phải luôn luôn tạo sự khác
biệt của chúng ta để họ có thể cắt giữa những khúc
xương.
Người trẻ tuổi: Thưa người xa lạ, nhưng làm thế nào
chúng ta có thể biết được, họ có cắt giữa xương hay
không?
12
Người xa lạ: Câu hỏi này chúng ta sẽ bàn thảo vào
một dịp khác.
Khi sự chối từ bị truy đuổi, trí tuệ sẽ tìm cách giả
mạo. Rồi tư tưởng giả mạo sự thật bước vào thế kỷ
21 bị truy lùng gắt gao. Trí tuệ đưa ra sự suy
đoán… Đó là hành trình chung của trí tuệ đối phó
với tất cả những gì nhân loại khám phá từ triết học
đến khoa học, từ nội tâm con người đến tương
quan xã hội.
Nhận thức
Nghi ngờ
Giả mạo
Suy đoán
Giả mạo là giai đoạn mất gốc sự thật, đi vào thế kỷ
mới. Suy đoán là giai đoạn hư cấu sự thật, đi đến
tương lai. Giả mạo và suy đoán là mấu chốt những
khuynh hướng, học thuyết, phong trào, chủ nghĩa…
bắt đầu một khai cuộc trở lại chiều hướng chính của
lực phát triển, sau khi lực cải thiện Hậu Hiện Đại đã
chấm dứt.
Nhận Xét Về Văn Học 21.
Những phê bình văn học về các tác phẩm đương
đại từ 2000 đến 2015, cho người đọc một tầm nhìn
khái quát: Tác giả thường rút ra những cảm hứng,
ý tưởng của các nhà văn đi trước và thể hiện theo
phong cách đương đại. Hiểu như quá khứ hồi sinh.
Mặt khác, những tác giả viết về tương lai trong ảnh
hưởng của khoa học văn minh, thường lập luận từ
hiện tại để tưởng tượng suy đoán chuyện mai sau.
Ráp hai nhóm nhà văn lại, chúng ta thấy ngay sự
tổng hợp và dự phóng cho con người tiến về một
thế giới mới, với tầm nhìn lạc quan thay vì bi quan,
tang tóc như Hậu Hiện Đại đã dự tưởng. Tuy nhiên
lập luận của HHĐ cũng không thể xóa bỏ vì ước
muốn lạc quan có thể chỉ là tự kỷ ám thị. Lịch sử
13
nhân loại luôn luôn mở ra những điều hoàn toàn
kinh ngạc.
1- Nhận Diện.
Văn chương 21 thảo luận về những giao điểm văn
hóa đang dở dang ở cuối thế kỷ 20, như quyền phụ
nữ, nhất là quyền đồng tính luyến ái. Trong một thế
giới mà "truyền thông tích tắc" "tin tức tốc độ" con
người trao đổi và rút tỉa ý nghĩa, kinh nghiệm, sự
kiện xảy ra toàn cầu, từ những văn hóa khác biệt và
những luật pháp xã hội đặc thù, một cách tự do và
dễ dàng. Họ có thể đặt ngay câu hỏi về bản thân
qua sự việc của người khác. Họ có thể lên tiếng
ngay lập tức một cách đơn độc về các vấn đề không
vừa ý. Họ có thể quen thuộc với nhiều điều dị biệt
và khác lạ, trước đây từng làm cho họ sợ hãi tránh
xa ... Những yếu tố đặc sắc này sẽ cho nhà văn một
diễn trường rộng rãi, những đề tài chưa từng được
đề cập hoặc mổ xẻ chi tiết trong những thế kỷ trước.
Ví dụ như Những Chuyến Phiêu Lưu Kỳ Diệu của
Kavalier và Clay, (2000) tác giả Michael Chabon,
trong đó nhân vật chính Sam Clay phải đấu tranh
kiệt sức để thể hiện tình yêu đồng tính. Năm 2008,
tác phẩm Infidel đã đưa Ayaan Hirsl Ali trở thành
tiếng nói bênh vực các quyền của phụ nữ hồi giáo
đang bị lạm dụng.
2- Lịch sử và Bộ Nhớ.
Ngày này, hàng ngàn trang lịch sử, hàng triệu bí
mật trong quá khứ, sẽ phóc lên màn ảnh liền sau
ngón tay bấm con chuột hoặc lời nói truyền mệnh
lệnh. Lịch sử hiện hình từ nhiều góc nhìn khác
nhau, có khi mâu thuẫn, với những diễn giảng,
khám phá theo thời gian. Một lịch sử tiếp cận minh
bạch và thố lộ thêm bí ẩn. Đây là việc vượt qua khả
14
năng hồi tưởng và hiểu biết của con người, phải cậy
nhờ "bộ nhớ" trong trí não computer. Với điều kiện
"bao la" trong tầm tay, nhà văn truy lùng, thu thập,
phân giải nhiều tài liệu và ý kiến khác biệt một cách
đơn phương và nhanh chóng. Từ đó, đưa ra quan
điểm cá nhân theo "chiều cao và chiều sâu" sở học
của bản thân.
Ví dụ như truyện "The March" của E.L. Doctorow
mô tả cuộc nổi loạn của tướng Sherman trong thời
Nội Chiến Hoa Kỳ một cách thực tế về sự sát hại
những người miền nam nhưng đưa ra quan điểm
khác với lời tường thuật của miền bắc.
3- Công kỹ nghệ.
Đời sống 21 là kiểu sống quấn quít gắn liền với
công kỹ nghệ nói chung, bao gồm tất cả khoa học
thực dụng và nhân văn trong mọi ngành, nhất là
những lãnh vực như y khoa, sinh học, sinh thái, điện
tử, vi tính, kỹ thuật ... Ước mơ và lo sợ đồng xuất
hiện theo diễn tiến khoa học, thể hiện trong văn
chương 21.
Nhà văn có trước mặt một thế giới rộng mở cho
tưởng tượng, chưa hề có trước đây. Khả năng hư
cấu có môi trường chọn lựa từ thực tế giả mạo lên
đến phi thực tế. Cốt truyện với những cảnh truyện
vượt không gian quen thuộc và thời gian trở thành
vô hạn. Quan điểm hoàn toàn có thể hoang tưởng.
Đây cũng là khuyết điểm của truyện tương lai. Khi
hư cấu vượt quá xa niềm tin thực hiện, hư cấu đó
trở thành ảo thuật hoặc huyền thoại. Nhưng lợi ích
của hoang tưởng cho con người nhìn thấy những
đều mà trí tưởng tượng bình thường của họ chưa
chạm đến. Ví dụ như "Machine Man" (Người Máy)
của Ernest Cline, mô tả một thế giới tương lai, nơi
15
mọi người có thể thoát ra đời sống thực tế không
hài lòng, bằng cách cắm dây vào giấc mơ ảo, hạnh
phúc trong thế giới hoang đường.
Hơn cả thế kỷ trước, văn chương 21 cưu mang
nhiều liên văn bản. Những tham khảo, vay mượn,
trích dẫn hoặc xuất hiện theo mô hình "không văn
chương" như Hậu Hiện Đại đã tái dụng hoặc thể
hiện hòa nhập trong văn bản với thẩm mỹ văn
chương để làm sáng tỏ vấn đề hoặc quan điểm của
tác giả. Tác phẩm The Brief Wondrous Life of Oscar
Wao của Junot Diaz tham khảo nhiều truyện tranh
và phim ảnh để mô tả cảnh truyện.
Một khái niệm về căn cước của văn chương 21 là
tốc độ sống và tốc độ sử dụng kỹ thuật. Hỏa tốc và
nhảy vọt (cách không, viễn liên, siêu nhận thức) là
hai yếu tố mà sáng tác cần nắm vững.
Trong thực tế, để nhìn tương lai văn học từ đầu thế
kỷ, nhất là sau khi một phong trào văn học lớn vừa
chấm dứt, là công việc "bói toán văn học" dù trung
thực. Ở lằn mức này, phán đoán nào cũng có thể
xảy ra. Bất kỳ phán đoán của ai, từ trung tâm hoặc
từ ngoại ô văn học, đều có thể thuyết phục, nếu có
những lập luận vững chắc cho một tiền đề. Kết quả
không ai biết, nhưng có thể tin, vì con người luôn
luôn cần niềm tin, dù là niềm tin "không có niềm tin",
như họ đã từng tin các huyền thoại trên cung trăng.
Truyện chú Cuội vẫn lãng mạn, cảm động. Cô Hằng
Nga vẫn đẹp và gần gũi hơn tứ đại mỹ nhân Trung
Quốc. Còn mặt trăng thật, rất lạnh lẽo, vừa xấu xí và
không có sự sống.
16
17
18