Ebook miễn phí tại :
www.Sachvui.Com
Mục lục
Không ngừng đặt câu hỏi
Hai mươi câu hỏi dành cho TS. Alan
Phan
Đừng hoang tưởng về một thế giới
phẳng
Không có bữa ăn nào miễn phí
Sau mỗi thời kỳ vàng son
Tư bản và Dân chủ
Con voi Trung Quốc
Chuyện con ve và con kiến
Chó Việt Nam hạnh phúc nhất thế giới
Khi các lãnh tụ biết cười mình…
Một người làm quan cả họ được nhờ
Bỏ cuộc trước khi tới đích là thất bại
Các cuộc chiến sắp xảy ra…
Thiếu can đảm nhiều người bỏ cuộc
quá sớm
Một cách nhìn khác về con người Alan
Phan
Kẻ cắp gặp bà già
Đầu tư ngoại tệ nào?
Giải mã nền kinh tế ngầm
Việt Nam và Trung Quốc
Những can thiệp vô ích
Nói về đạo đức kinh doanh
Hai chuyện làm ăn bên Mỹ
Thánh địa của tư bản
Paris, Gisele và huyền thoại
Cho những người vừa nằm xuống
Ebook miễn phí tại :
www.Sachvui.Com
Không ngừng đặt
câu hỏi
Tất cả bài viết của tôi bắt đầu từ câu nói
nằm lòng của Robert Kennedy,” Những
nghiên cứu gia nhìn vào sự kiện đang xẩy
ra và hỏi tại sao. Tôi nhìn vào những sự
kiện đã không xẩy đến và hỏi tại sao
không?” (There are those who look at
things the way they are, and ask why… I
dream of things that never were, and ask
why not?) . Đó là tiền đề của cuốn sách
“Tư duy khác về kinh tế và xã hội Việt
Nam” tôi vừa hoàn tất.
Tôi luôn nói với các bạn trẻ là thế giới
kinh doanh không thiếu tiền mà chỉ thiếu
ý tưởng. Những ý tưởng sáng tạo, làm
thay đổi thói quen và hành xử, cải thiện
hiệu năng vượt bực là những ý tưởng đã
đem lại tài sản hay danh vọng khổng lồ
cho nhiều doanh nhân. Người Mỹ gọi
chúng là những game-changers hay là
những bước tiến đã thay đổi cuộc chơi.
Gần đây nhất, Facebook đã khiến một
anh sinh viên 24 tuổi Zuckerberg trở
thành tỷ phú. Trước đó là các doanh
nhân đã sáng lập ra Google, Apple,
Microsoft, Intel, IBM, Bell, RCA,
Carnegie…tất cả đều là những thanh niên
khởi nghiệp với trí tuệ, nghèo và kiên
nhẫn. Họ chỉ có ý tưởng, không có tiền
và tất cả đều đã thành công trong việc
thay đổi phần lớn đời sống nhân loại.
Muốn vậy, họ đã biết đặt câu hỏi chính
xác là “tại sao không.?” Họ đã dám đi
vào lề trái của 99% đám đông. Họ dám
có những tư duy khác lạ so với những
suy tưởng bình thường của xã hội.
Dĩ nhiên, rất nhiều ngừơi, dù thành công
hay thất bại, trong bọn họ đã phải trả giá
đắt. Từ những mất mát về tiền bạc (thực
ra không nhiều vì đa số là nghiên cứu
sinh nghèo) đến những mất mát về danh
tiếng, thị phi vì xã hội không ưa những
người khác biệt. Thậm chí nhiều nguời
còn mất mạng vì ý tưởng hay khám phá
lạ đời, như Galieo với giả thuyết trái đất
tròn, như Socrates với biện giải logic,
như rất nhiều văn nghệ sĩ tư tưởng gia
trong các triều đại phong kiến.
Lấy lịch sử làm thí dụ. Ai cũng biết lịch
sử luôn luôn được ghi lại bởi những kẻ
chiến thắng. Trong những triều đại mà sự
phản biện không được phép thực thi thì
những câu chuyện ghi trong lịch sử có thể
chỉ là những huyền thoại được thêu dệt
vẽ vời để tăng uy tín và quyền lực cùa kẻ
thắng. Tuy nhiên, phần lớn người dân, kể
cả những bậc trí thức có chút đầu óc
cũng nuốt gọn mọi dối trá trộn lẫn trong
sự thật và bán sự thật (half-truths).
Trong một xã hội mà đến 95% dân số
sống đời khổ sở và thiếu thốn về những
vật chất tối thiểu, thì tư duy của ta phải
đi ngược lại suy nghĩ đại chúng và hành
xử trái hẳn với những điều mà người dân
cho là sự khôn ngoan thường nhật. Muốn
thóat ra khỏi giới hạn chật chội của
nghèo đói, chúng ta phải có tư duy
“ngoài cái hộp” (think out of the box).
Dĩ nhiên, ta phải đối phó thường trực với
những ù lì rồi phá phách của những thành
phần không muốn đổi thay hay tiến bộ
của xã hội vì lợi ích cá nhân, gia đình
hay phe nhóm. Không có một tinh thần
bất khuất và kiên trì, chúng ta sẽ bỏ cuộc
không chóng thì chày, vì sức đề kháng
của phe bảo thủ rất mạnh. Cuối cùng,
những thay đổi rồi cũng đến, vì cốt lõi
của cuộc sống là thay đổi (change is
inevitable). Nhưng có thể ta không còn
hiện diện để nhìn những đổi thay này.
Chả thế mà chính Einstein cũng phải mỉa
mai về đám đông chung quanh mình,”
Hai thứ là vô tận trên đời: vũ trụ và sự
ngu xuẩn của con người. Thực ra, tôi
không chắc về vũ trụ” (Two things are
infinite: the universe and human
stupidity. And I’m not sure about the
universe.”
Tư duy mới sẽ bắt đầu bằng những câu
hỏi là tình trạng hiện tại do ai duy trì và
họ có những ích lợi gì vào sự ù lì của
tình thế? Kế tiếp là những thay đổi sẽ
đem đến những cơ hội và rủi ro gì?
Ngoài thay đổi, chúng ta có thể tìm được
những phương hướng gì khác hơn cả sự
thay đổi? Sự suy nghĩ của đám đông là
thế này; nếu ta làm ngược lại, thì kết quả
gì sẽ xẩy đến? Thói quen bắt đầu từ tư
duy, liệu ta có thể thay đổi tư duy của
người tiêu thụ hay đối tác?
Trong tình trạng cạnh tranh của toàn cầu
hóa và thế giới “phẳng”, một tư duy sáng
tạo là một vũ khí vô cùng quan trọng cho
sự tiến bộ của một cá nhân, một doanh
nghiệp hay một quốc gia. Chất xám và
phần mềm sẽ là yếu tố quyết định trên
thương trường tự do. Giáo dục, đạo đức
và môi trường văn hóa là thành phần
dinh dưỡng cho nền kinh tế mới. Cuốn
sách “Một tư duy mới cho kinh tế và xã
hội Việt Nam” của tôi là một đóng góp
nhỏ trong tiến trình tăng trưởng của lớp
người trẻ hiện nay.
Mời bạn lên đường và đừng quên là
Einstein đã nhắc nhở ta,” Điều quan
trọng là không ngừng đặt câu hỏi” (The
important thing is not to stop
questioning).
T/S Alan Phan, Chủ Tịch Quỹ Đầu Tư
Viasa
(Bài đã đăng trên Doanh nhân Saigon
Online ngày 20 tháng 10 năm 2011)
Hai mươi câu hỏi
dành cho TS. Alan
Phan Ebook miễn phí
tại
:
www.Sachvui.Com
Gặp gỡ và Đối thoại thứ Năm tuần,
này, Tuần Việt Nam giới thiệu cuộc
phỏng vấn chớp nhoáng của tờ Young
Entrepreneur, đại học Pennsylvania
với TS. Alan Phan.
LTS: Tiến sĩ Alan Phan- cựu sinh viên
của Penn State (Hoa Kỳ), là một doanh
nhân kiêm quản lý quĩ đầu tư. Trong số
các thành tựu của ông là tập đoàn
Hartcourt, công ty Internet hàng đầu
tại Trung Quốc có trị giá 700 triệu
USD vào năm 2001 và quĩ Viasa tại
Hồng Kông, với tỷ số lợi nhuận ròng
trên vốn cổ phần (ROE) ấn tượng –
42% vào năm 2006.
Young Entrepreneur: Lời khuyên ông
muốn chia sẻ với các doanh nhân
mới?
Tiến sĩ Alan Phan: Kiểm tra sức khỏe:
cả thể chất và tâm thần.
Điều gì mỗi doanh nhân cần phải luôn
nhớ?
Không bao giờ để cho cạn tiền.
Kẻ thù tồi tệ nhất của doanh nhân?
Bản thân anh ta. Không ai có thể phá
hoại chuyện làm ăn nhanh hơn chính bản
thân mình.
Một kinh nghiệm mà mỗi doanh nhân
cần phải biết?
Thất bại.
Lời khuyên dành cho những người
mới giàu?
Mọi thứ đều thay đổi.
Còn lời khuyên dành cho những
người đã giàu?
Cảm tạ thượng đế.
Làm thế nào để giữ được bầu nhiệt
huyết?
Thay đổi suy nghĩ. Hành động.
Chiến lược tốt nhất trong cạnh tranh?
Luôn tạo sự bất ngờ.
Lời cuối cho một doanh nhân đang
gặp khó khăn?
Giữ niềm tin. Đã đi ắt sẽ đến.
Trở ngại lớn nhất đối với nền kinh tế
toàn cầu?
Các Chính phủ.
Những cá tính dẫn tới thành công cho
ông?
Tính kiên trì.
Thần tượng của ông là ai, và tại sao?
Hugh Hefner, người theo đuổi triết lý
sống của bản thân và cho dù đã cực kì
giàu có thì ông vẫn là chính mình.
(Hefner là sáng lập viên tạp chí
Playboy vào 1960 và được coi là ông tổ
của cuộc cách mạng sex tại Mỹ và Âu
châu)
Điều ngu ngốc nhất mà ông đã làm?
Mua một đồn điền cà phê ở Costa Rica
vì tôi thích cà phê và Costa Rica? À,
không, có lẽ là việc kết hôn.
Điểm không lường trước được của sự
thành công?
Chịu trách nhiệm cho rất nhiều người.
Lúc này ông đầu tư tiền ở đâu?
Vàng.
Tài sản quý giá nhất của ông?
Những đứa con trai.
Cách trả thù hay nhất?
Sống khỏe mạnh và giàu có hơn đối thủ.
Điều gì khiến ông dị ứng nhất?
Sự ngu xuẩn.
Và ông muốn ghi gì trên bia mộ?
Tên “khốn khiếp” này tồn tại lâu hơn hết.
Đừng hoang tưởng
về một thế giới
phẳng
Thế giới cũng sẽ KHÔNG phẳng sau
sự lan tỏa toàn cầu của mạng lưới
Internet. Thế giới sẽ vẫn là thế giới ta
đã quen biết suốt 5,000 năm lịch sử:
rất nhiều cách biệt giữa các tầng lớp
xã hội: giàu và nghèo, học thức và vô
học, đạo đức và bất lương, thôn quê và
thành thị, quốc gia phát triển và quốc
gia nghèo đói. Nhưng công nghệ thông
tin lại có khả năng làm gia tăng sự
cách biệt này:…
Các chính trị gia và các chuyên gia
thường thích dùng các danh từ thời
thượng để phô trương tri thức về thế giới
và tạo ấn tượngtrong cộng đồng. Gần
đây, họ hay nói đến các ngôn từ nhưkinh
tế sáng tạo, mạng xã hội, hội nhập toàn
cầu, công nghệ xanh, kỹ thuật số, chỉ số
hạnh phúc… Nhưng một chữ bị lạm dụng
nhiều nhất có lẽ là “thế giới phẳng”.
Danh từ này được Thomas Friedman
dùng làm đề tài cho một tựa sách vào
2005 để diễn tả một hiện tượng mới về
xã hội và kinh tế do cuộc cách mạng
Internet và công nghệ thông tin (IT) mang
lại. Giả thuyết của ông là sự lan tỏa cùng
khắp những thông tin và kiến thức nhanh
chóng qua Internet đã san bằng mọi cách
biệt về lợi thế kinh tế giữa các quốc gia,
giữa các thể chế chính trị, và giữa các
tầng lớp nhân dân. Kết quả là một thế
giới phẵng lì, không còn rào cản vả bất
cứ ai cũng có thể nắm bắt những cơ hội
mới do công nghệ mới tạo dựng.
Tôi đã theo dõi nhiều bài viết của
Friedman trên New York Times, tờ báo
của giới mệnh danh là “tiến bộ” (liberal)
của các trí thức khoa bảng Mỹ. Ông này
có tật xấu là đơn giản hóa mọi vấn đề,
rồi dựa trên một vài sự kiện đặc thù mà
đặt ra các giả thuyết khá phi lý, phù hợp
với quan điểm cá nhân của mình. Ông
luôn quên đi sự phức tạp của mọi vấn đề
bàn luận, dù là xã hội, kinh tế hay chính
trị, dù là địa phương hay toàn cầu. Thế
giới phẳng và một xã hội đại đồng bình
đẳng là một hoang tưởng rất thời thượng
của ông.
Máy tính, Internet, điện thoại di động và
các dụng cụ công nghệ thông tin quả đã
tạo nên một cách mạng vĩ đại về kiến
thức và thông tin với tốc độ, tầm cỡ và
chức năng. Nhưng thế giới sẽ vẫn là thế
giới ta đã quen biết suốt 5,000 năm lịch
sử: rất nhiều cách biệt giữa các tầng lớp
xã hội: giàu và nghèo, học thức và vô
học, đạo đức và bất lương, thôn quê và
thành thị, quốc gia phát triển và quốc gia
nghèo đói. Thực sự, công nghệ thông tin
lại có khả năng làm gia tăng sự cách biệt
này: người biết sử dụng IT sẽ khôn khéo
dùng lợi thế cạnh tranh này của mình để
kiếm tiền, kiếm quyền và đặc lợi nhiều
hơn so với đám đông còn bỡ ngỡ.Vào
khoảng 1885, Karl Benz sáng chế ra
chiếc xe hơi hiện đại thay thế cho cỗ xe
ngựa và cùng thời điểm, James Maxwell
đưa ra lý thuyết để thế giới có được máy
phát thanh (radio). Nếu ông sinh ra ở
thời này, Friedman cũng sẽ dễ dàng đưa
ra lập luận về một “thế giới phẳng” vì
hai phát minh này cũng đã đem nhân loại
đến gần nhau hơn. Thế nhưng, sau đó, ai
cũng biết thế giới đã KHÔNG phẳng với
những sáng chế diệu kỳ về xe hơi, về
radio, về TV, về máy in… Tôi cũng xin
báo cho các bạn trẻ là thế giới cũng sẽ
KHÔNG phẳng sau sự lan tỏa toàn cầu
của mạng lưới Internet.
Sự yêu thích hình tượng và viễn ảnh của
một thế giới phẳng có lẽ bắt nguồn từ sự
ao ước của rất nhiều nhà trí thức trẻ
(trong đó có người viết bài này) với một
con tim tha thiết về một xã hội công
bằng, không có khác biệt giữa giàu
nghèo, giai cấp hay phân khúc. Một thế
giới đại đồng của những người bình đẳng
về mọi khả năng và quyền lợi. Cuộc thí
nghiệm vĩ đại nhất lịch sử đã diễn ra ở
Liên xô và Trung Quốc hơn 70 năm.
Ngày nay, tại hai xã hội này, sự cách biệt
về giàu nghèo (theo chỉ số Gini) thuộc
loại cao nhất trong 10 hạng đầu của thế
giới (Top Ten).
Rất nhiều văn nghệ sĩ, trí thức và các bậc
khoa bảng luôn luôn ta thán về hiện
tượng bất công của xã hội, thường kết
luận trong vội vã “đời không công bằng
chút nào” khi so sánh sự thua kém của
mình với những nhân vật mà họ nghĩ là
không xứng đáng. Chính tôi cũng hay rơi
vào trường hợp tự ti này khi không để lý
trí suy xét.
Vào thời điểm 1968 sau khi tốt nghiệp
Đại học ở Mỹ, tôi và một người bạn
người Mã Lai tên là Michael cùng quay
trở về nước. Trong khi tôi chật vật với
lương giảng viên ở Đại Học Bách Khoa
Phú Thọ, Michael được ông bố, vốn là
một đại gia tăm tiếng ở Mã Lai, mua cho
một ngân hàng rồi bổ nhiệm hắn làm Chủ
Tịch TGĐ một ngân hàng đứng hàng thứ
8 ở Mã Lai vào thời đó. Ngay cả suốt
cuộc đời 2 đứa trong 42 năm qua, trong
khi tôi phải lên voi xuống ngựa, đi từ
đỉnh cao của thịnh vượng đến vực thẳm
của nghèo khó, Michael vẫn ung dung tự
tại sống đời thượng lưu, thành công từ
việc làm ngân hàng đến tạo dựng một đế
quốc về địa ốc. Sau này, mỗi lần qua
chơi, tôi vẫn rất ghen tỵ, chép miệng,
“đời thật bất công”.
Một người bạn khác ở VN cùng tôi mài
ghế suốt 4 năm trung học. Anh ta tên Duy
và là thần tượng của tôi hồi đó. Học giỏi,
đẹp trai, con nhà giàu, nhưng trên hết, có
một hạnh kiểm hoàn toàn, luôn luôn được
bầu là trưởng lớp bởi các học trò và thầy
cô. Ai cũng ngưỡng mộ. Anh thường ái
ngại nhìn tôi bỏ lớp trốn học, đi tán gái,
chọc phá làng xóm, và nói nếu không
thay đổi tính nết, tương lai của tôi sẽ
chìm sâu trong đống bùn. Tôi luôn luôn
đồng ý, nhưng đã không bỏ được những
thói quen xấu. Xong Tú Tài, anh thi đậu
vào Đại Học Sư Phạm dễ dàng và trở
thành một bậc thầy khả kính sau những
năm học hành. Còn tôi, may mắn được
học bổng Mỹ, bay đi tận nữa vòng trái
đất, loay hoay làm lại đời mình. Một lần
về thăm nhà năm 1992, Viện Đại học
Cần Thơ mời tôi giảng dạy một buổi về
Kinh Tế Mở Cửa của TQ cho các học
sinh cũng như nhiều vị giáo chức tu
nghiệp. Tôi ngỡ ngàng gặp lại Duy, thay
đổi thứ bậc trong liên hệ thầy-trò. Anh
ngượng ngùng, bỏ ngang lớp học sau tiết
đầu và không trả lời điện thoại khi tôi
kêu. Bạn bè cho biết hôn nhân của anh
trắc trở, anh buồn đời làm một con sâu
rượu giải sầu, và bị cấp trên “đầy đọa”
vì nhiều lần say rượu trong lớp học. Tôi
chắc Duy cũng đang nghĩ thầm, “đời thật
bất công”.
Cách nay ba tháng, một đại gia trẻ tuyên
bố trong một buổi hội thảo là tương lai
IT của VN sáng ngời, vì chỉ sau 10 năm,
dân số VN có điện thoại di động bây giờ
đã lên đến hơn 53 triệu người. Anh ta
đồng hóa việc sỡ hữu một cái phone với
trình độ kiến thức và hiệu năng của nền
kinh tế sáng tạo, biểu hiện qua một công
cụ IT phổ thông. Tôi có 2 người giúp
việc nhà. Họ đều sở hữu điện thoại riêng
cho cá nhân và nhờ những chương trình
khuyến mãi, nói chuyện qua phone đến 4,
5 giờ mỗi ngày. Họ trao đổi liên tục với
bạn bè, láng giềng, gia đình dưới quê về
mọi chuyện lặt vặt, còn hơn Twitter của
các siêu sao ở Hollywood. Thậm chí họ
còn dùng điện thoại để chửi nhau, để
khuyến nghị về số đề, về mua hụi, về
chương trình kịch trên TV. Thậm chí,
một bà đã gần 50 tuổi, có chồng và 4 đứa
con ở quê, vẫn trả lời tất cả những cú
phone từ người lạ, đóng vai trò một cô
gái mới 20, đóng góp và giải tỏa các lời
yêu thương ảo (như một loại phone sex
rẻ tiền) cho rất nhiều bạn trai Việt.
Những bất công hay hố cách biệt vừa kể
cũng có thể là do sự lựa chọn và sở thích
của cá nhân. Năm trăm năm trước, ngài
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ca tụng chữ
“nhàn” và lối sống điền viên, “Ta dại ta
tìm nơi vắng vẻ. Người khôn người đến
chốn lao xao”. Nếu ta bắt ông phải sống
trong một Net café, cạnh Ngã Sáu Chợ
Lớn, nhìn khói bụi, dòng xe và biển
người qua lại, chắc ông phải khóc tủi
thân mỗi ngày. Còn nếu ai buộc tôi phải
xa rời các trung tâm tài chính thế giới
như New York, Luân Đôn hay Hồng
Kông… để về sống ở xứ Cà Mau với
những cánh đồng bất tận của chị Nguyễn
Ngọc Tư chắc tôi cũng hóa điên. Dù tôi
biết chỗ đậu xe ở Cà Mau không thể tốn
40 dollars mỗi ngày như New York.
Trong chuỗi hội thảo về đầu tư cho các
doanh nhân và sinh viên Việt Nam vào
tháng 3 vừa qua, tôi nói nhiều về
Zuckerberg của Facebook. Anh chàng
sinh viên 24 tuổi này đã bắt đầu với một
ý tưởng và 1 ngàn dollars của bạn cùng
phòng; và chỉ trong 4 năm tạo nên một tài
sản mà Goldman Sachs đánh giá là 60 tỷ
dollars; tương đương với 60% GDP của
Việt Nam. Trong số 80 triệu dân hiện tại,
có người Việt nào sẽ đứng lên đáp lời
sông núi để chứng minh là thế giới đã
phẳng như Friedman nói; hay chúng ta sẽ
lại có thêm vài khẩu hiệu rẻ tiền về sáng
tạo?
TS. ALAN PHAN (CHỦ TỊCH QUỸ
ĐẦU TƯ VIASA)
Không có bữa ăn
nào miễn phí
Người Mỹ có câu, trong một sòng bài
phé (poker) bịp bợm luôn có một nạn
nhân. Nếu bạn không biết ai là nạn
nhân, thì người đó chính là bạn.
Chuyện ngày xưa kể rằng có một vị vua
Hi Lạp được tiếng là thông minh đức độ
cai quản một xứ sở thanh bình an khang.
Ông có một thư viện thu thập cả chục
ngàn cuốn sách suốt lịch sử văn minh
loài người và có ước muốn là chia sẻ
những kiến thức khôn ngoan này cho trăm
họ.
Ông triệu 500 nhà thông thái nhất của
quốc gia và yêu cầu họ cùng nhau ngồi
xuống tóm lược mọi “tinh túy văn hóa”
nhất của nhân loại vào một vài lời dễ
hiểu (thay vì một thư viện sách) để mọi
người dân cùng thấm thía đạo của trời và
của người. Sau hơn một tháng, 500 nhà
thông thái đưa lên một văn bản 5 trang là
công trình tóm lược. Vị vua thấy vẫn còn
quá phức tạp, dân thường không ai có thể
thấm nhuần được tư tưởng kiểu này. Sau
đó là một tóm lược còn 3 trang, rồi 1
trang rồi 1 phân đoạn. Nhưng vị vua vẫn
không vừa ý. Cuối cùng ông cười hả hê
khi vị đại diện trao cho ông cái túi khôn
ngoan của nhân loại trong một câu văn
độc nhất, “Không có bữa ăn nào miễn
phí cả” (there is no free meal).
Đây là một thực tế hiển nhiên mà con
người thời đồ đá cách đây 10 ngàn năm
hiểu rất rõ. Ngày nào mà không săn được
con mồi nào đem về hang động, là ngày
đó gia đình phải đói. Rồi loài người tiến
hóa thành cộng đồng văn minh hơn, tổ
chức những xã hội có tầng lớp và phân
chia công tác theo khả năng của từng
người. Xã hội mới đẻ ra một tầng lớp
lãnh đạo có đầu óc và tham vọng.
Từ đế chế Trung Quốc đến Ai cập và sau
đó La Mã, Anh, Mỹ… giới quý tộc và
chính trị gia giàu có luôn luôn bận rộn
suy nghĩ tìm những thủ thuật và phù phép
để có “những bữa ăn miễn phí” dâng lên
từ tầng lớp nghèo hèn. Nếu nhìn vào cốt
lõi, đây là một hình thái “ăn cắp”, nhưng
được che đậy bằng những mỹ từ cao đẹp
và văn hoa, giống như một bộ quần áo
thời trang đắt tiền của Louis Vuitton sẽ
che đậy những mục nát của thân thể béo
phì, làm mờ mắt người qua lại.
Xã hội ngày nay dù có tiến bộ cũng
không dễ gạt bỏ nổi lòng tham “ăn free”
vốn đã mọc rễ trong lòng người 10 ngàn
năm qua. Chuyện kiếm tiền, càng nhanh
càng nhiều càng tốt, là một đề tài thời
thượng, hấp dẫn và lan tràn khắp mọi
mạng truyền thông từ tin thời sự trên báo
đến những câu chuyện ở quán cà phê,
những bài giảng trong lớp học.
Trong dư luận, không thiếu những chuyện
thích bắt chước lẫn nhau không đóng góp
một công sức gì cho xã hội nhưng tìm đủ
mọi cách để bòn rút ăn cắp. Hiện tượng
phổ biến đến nỗi không ai còn cảm giác
ngạc nhiên hay phẫn nộ khi bị lộ diện.
Năm 2008, các chính phủ Âu Mỹ (và sau
đó toàn thế giới) phát động chương trình
kích cầu chống suy thoái, nhưng thực sự
đây chỉ là một hình thức ăn cắp tiền của
dân để cứu các ngân hàng và các nhà đầu
tư lớn, có thế lực chính trị. Khi khó lấy
tiền thuế trực tiếp của dân, các chính phủ
đã tìm những mánh khóe ly kỳ hơn… như
đi vay bừa bãi để thế hệ sau phải gánh
nợ chồng chất, hay in thêm tiền để gây
lạm phát (anh có 10 đồng, tôi muốn lấy
2, tôi chỉ việc làm cho tiền mất giá 20%
là anh đã bị mất tiền mà không hề hay
biết).
Chính phủ Trung Quốc còn hay hơn nữa,
họ giữ lãi suất ngân hàng dưới 2% trong
suốt 30 năm để lấy tiền tiết kiệm của dân
cho các tập đoàn nhà nước vay kinh
doanh (thực sự các quan làm ăn theo lối
OPM (tiền người khác- other peoples
money; nên mất rất nhiều trong các lỗ lãi,
thất thoát và nợ xấu mà không ai phải
chịu trách nhiệm). Trò phù phép khác là
giữ tỷ giá Yuan (nhân dân tệ) thật thấp để
được xuất khẩu cao (nhằm lấy thuế,
ngoại tệ và tài sản nhờ giá lao động rẻ
mạt của nhân công và không cho họ
hưởng thành quả đáng lẽ phải đến từ giá
trị cao của đồng tiền).
Các tầng lớp tư nhân giàu có thì lợi dụng
những khe hở của pháp luật (ở Mỹ) hay
lạm dụng mối quan hệ với các quan chức
(ở Trung Quốc) để tìm những dự án “ăn
free” như trưng dụng đất đai của nông
dân nghèo, lấy hỗ trợ tài chính của chính
phủ (tiền dân), chia chác các hợp đồng
béo bở về xây dựng hạ tầng hay quân sự
(không bị giám sát nhiều). Những vụ đầu
cơ, làm giá hay lướt sóng trên các thị
trường tiêu thụ hay tài chính chỉ là các
hình thức thác của thủ thuật ăn cắp.
Trong khi đó, nhóm bị lợi dụng (những
con kiến làm việc chăm chỉ, âm thầm
đóng góp cho kinh tế) thì hoa mắt với
những đánh bóng hư ảo của các “nhân
vật” xã hội, chỉ ước ao bắt chước mọi
hành vi lố lăng của họ. Hình ảnh được
truyền bá khắp nơi, như một trò ru ngủ
khiến mọi người quên đi cái túi tiền của
mình.
Người Mỹ có câu, “trong một sòng bài
“phé” (poker) bịp bợm luôn có một nạn
nhân. Nếu bạn không biết ai là nạn nhân,
thì người đó chính là bạn”. Ngay cả
những sinh viên với một đầu óc tương
đối trong sạch, tiến bộ, cũng quan tâm
đến chuyện “kiếm tiền” hơn là kiếm kiến
thức (năm 2008, một thống kê 3.600 sinh
viên năm thứ tư cho thấy 71% sinh viên
Mỹ và 84% sinh viên Trung Quốc coi
chuyện kiếm tiền sau khi tốt nghiệp là
mục tiêu quan trọng nhất).
Người bình dân Việt Nam có câu nói
“coi dzậy mà không phải dzậy”. Chỉ tiếc
là dù nhiều người cũng cảm thấy bị lừa
dối, nhưng việc bận rộn mưu sinh và sự
đam mê các màn xiếc và trò giác đấu
(thời La Mã) hay các giải bóng đá và
những cuộc thi hoa hậu, lễ hội (thời nay)
… đã làm phần lớn dân chúng quên đi
cái giá sẽ phải trả này.
Chuyện ngày xưa kết thúc bằng sự thất
bại của vị vua khi truyền bá học thuyết
“không có bữa ăn nào miễn phí”. Người
vi phạm luật đầu tiên là bà hoàng hậu rồi
sau đó là các hoàng tử, công chúa, và
quần thần. Ông vua thất vọng, bỏ đi tu
trên núi xa. Có lẽ để nghiền ngẫm lời
đức Phật về “tham, sân, si”, ba vấn nạn
lớn nhất cho sự giải thoát của tâm hồn.
Còn bây giờ, chúng ta đang sống trong
một thời đại mà phần lớn các dân tộc của
chủ nghĩa toàn cầu đều chia sẽ quan điểm
là… cái gì cũng có thể free cả, cứ việc
dùng mọi thủ đoạn để gom góp, và việc
duy nhất cần để ý là tránh đừng để bị tố
giác. Danh từ thời thượng gọi là “hạ cánh
an toàn”.
Tôi vừa coi xong cuốn phim mới nhất,
Wall Street 2: Money never sleeps. Vai
chính Gordon Gekko có một câu nói thú
vị, “Ngày xưa, tham lam là một tật xấu
cần thiết để tạo động lực cho kinh tế.
Bây giờ, tham lam là một hành xử hợp
pháp và hợp thời trang”.
Sau mỗi thời kỳ
vàng son
Trong suốt lịch sử thế giới, cái tệ hại
của mỗi thời kỳ vàng son là một kết
cuộc thảm thương cho mọi người dân.
Bong bóng bao giờ cũng vỡ. Nợ quá tải
bao giờ cũng đáo hạn sớm hơn dự định.
Người giàu thì phá sản vì lối kinh
doanh đòn bẩy phiêu lưu không còn
thích hợp, người trung lưu thì trắng
tay vì giá trị tài sản biến mất, lây lắt
bám víu vào một nền kinh tế khập
khiễng. Các quan chức chính phủ thì
luôn luôn bó tay vì không hiểu chữ
sáng tạo hay tiết kiệm là gì?
Đọc lịch sử thế giới, tôi luôn say mê về
những góc nhìn tiêu biểu cho thời vàng
son của mỗi quốc gia. Từ đế chế La Mã,
Hy Lạp ngày xưa đến Anh, Mỹ, Nhật thời
cận đại, chúng mang nhiều nét đặc thù,
những tựu trưng, vẫn có rất nhiều tương
đồng. Xã hội và con người trong những
thời kỳ huy hoàng này, nhất là giới cầm
quyền thượng lưu, luôn luôn mang đậm
những cá tính hồ hởi lạc quan, phô
trương quyền lực và sự giàu có, đắm
mình trong lễ hội và tiệc tùng, sống
không lo âu đến ngày mai vì nghĩ rằng …
những ngày hè nắng đẹp sẽ kéo dài bất
tận. Người Mỹ có bài hát mô tả tình
huống này, “Let the good times roll” mà
người Pháp tán đồng nồng nhiệt ” Laisser
les bon temps rouler.” Thời vàng son ơi,
hãy tiếp tục trôi…
Nước Mỹ trong thập kỹ 1920s được biết
đến bằng tên “The Roaring Twenties”
(Những năm hoan lạc của 1920s). Thế
chiến Thứ Nhất vừa chấm dứt và Mỹ
hưởng lợi rất nhiều vì đã cho các nước
thắng trận (Anh, Pháp) vay những khoản
tiền rất lớn cho chiến tranh, cũng như đã
cung cấp vũ khí cho cả hai bên với giá
tốt. Nước Mỹ đang sửa soạn thay thế đế
chế Anh trên khắp thế giới vì sức mạnh
tài chính của mình. Những công nghệ mũi
nhọn mới đem thế lực kinh tế và văn hóa
Mỹ phủ khắp toàn cầu (xe hơi, phim ảnh,
radio, kỹ nghệ hóa học, nhạc jazz…)
trong khi châu Âu vẫn còn là đống tro
hoang tàn vì chiến tranh và châu Á vẫn là
các thuộc địa chậm tiến. Thị trường
chứng khoán và địa ốc tăng trưởng đột
biến, người dân Mỹ ngoài thu nhập cao
còn hưởng những khoản lời này nên cảm
thấy giàu có nhất thế giới, và tương lai
chưa bao giờ có một hứa hẹn rực rỡ như
vậy. Dân quê ào ạt đổ về thành phố tìm
sự giàu có, “đô thị hóa” ở Mỹ thực sự
bộc phát.
Cùng với nhân dân, chính phủ Mỹ nới
rộng tín dụng, giữ lãi suất thật thấp và
bắt đầu những công trình xây dựng hạ
tầng khắp quốc gia. Xa lộ, đường sắt, xe
điện ngầm, nhà máy điện nước, cảng
biển… mọc lên như nấm sau cơn mưa
dài. Giá cả mọi tài sản trở thành… bong
bóng, xa rời thực tế. Nợ công ngày càng
chồng chất và lạm phát bắt đầu quậy phá.
Ngày 29/10/1929 thực tế của thị trường
ghé thăm. Wall Street sụp đổ với 13%
giảm sút trong chỉ số Dow Jones (lên
đến 58% trong nhiều tuần sau đó và 89%
vào 1931). Nước Mỹ kéo toàn thế giới
vào cuộc Đại Suy Thoái suốt thập niên
1930s cho đến khi Thế Chiến Thứ Hai
bắt đầu.
Trong suốt lịch sử thế giới, cái tệ hại của
mỗi thời kỳ vàng son là một kết cuộc
thảm thương cho mọi người dân. Bong
bóng bao giờ cũng vở. Nợ quá tải bao
giờ cũng đáo hạn sớm hơn dự định.
Người giàu thì phá sản vì lối kinh doanh
đòn bẩy phiêu lưu không còn thích hợp,
người trung lưu thì trắng tay vì giá trị tài
sản biến mất, lây lắt bám víu vào một
nền kinh tế khập khiễng. Các quan chức
chính phủ thì luôn luôn bó tay vì không
hiểu chữ sáng tạo hay tiết kiệm là gì?
Trong những thời vàng son đó, tôi thích
tìm hiểu về những nhân vật đầy quyền
lực, giàu có của xã hội, đã được hoàn
cảnh đưa đẩy lên đỉnh cao của quốc gia,
và đời sống họ là những bức tranh trung
thực nhất của môi trường chung quanh.
Không ai mà không ấn tượng với những
câu chuyện về Du Yue Sheng, thủ lãnh
của băng đảng Green Gang, đã đem
Thượng Hải thời 30s lên bao nhiêu là
phim ảnh của Tàu và Mỹ. Anh chàng xã
hội đen này, xuất thân là một nông dân
nghèo của Pudong, đã leo lên ngai thị
trưởng (không chính thức ) của Thượng
Hải, qua những quan hệ làm ăn với
Tưởng Giới Thạch và các quan chức địa
phương. Thậm chí, ông còn tài trợ cho
phần lớn các chiến dịch càn quét của họ
Tưởng trong chiến tranh.
70 năm sau, Trung Quốc lại cống hiến
cho lịch sử một nhân vật đầy màu sắc, là
Lai Chang Xing, cũng là một nông dân
nghèo của tỉnh Hạ Môn. Khởi nghiệp
bằng con số không, Lai đã thu góp được
một tài sản khổng lồ hơn 16 tỷ USD (theo
cáo trạng của chánh phủ) trong thời gian
ngắn ngủi chưa đầy 5 năm. Lai đã khống
chế hoàn toàn các cơ quan công lực của
Hạ Môn rồi Trung Ương, từ cảnh sát đến
hải quan, để tổ chức được một mạng lưới
buôn lậu xe hơi, dầu khí và thuốc lá khắp
nước. Sự sụp đổ của Lai là do Tổng Bí
Thư Giang Trạch Dân và Thủ Tướng
Chu Dung Cơ muốn dùng con bài của Lai
để lật đổ thế lực hùng mạnh của nhóm
Bắc Kinh. Lai bị án tử hình, trốn được
qua Canada; còn ở nhà, Thị Trường Bắc
Kinh và 4 nhân vật cao cấp phải tự tử
chết. Gần 400 quan chức bị đưa ra Tòa
về vụ việc này gồm 2 Bộ Trưởng, 26 tỉnh
ủy, 86 huyện ủy và kết quả có 14 án tử
hình.
Nhân vật đình đám nhất của The Roaring
Twenties bên Mỹ là William Randolph
Hearst. Ông tạo lập một gia tài khổng lồ
qua sự thiết lập và thu tóm hơn 30 tờ báo
chính tại các thành phố lớn (New York,
San Francisco, Chicago, Los Angeles..),
8 tạp chí (Cosmopolitan, Good
Housekeeping…) vài đài phát thanh và
một phim trường ở Hollywood. Ông
cũng từng là dân biểu, nghị sĩ, nhưng thất
bại trong việc ứng cử vào chức Thị
Trưởng New York, bàn đạp cho Tòa
Bạch Ốc. Ông là king-maker (kẻ tạo vua
chúa) trong rất nhiều cuộc bầu cử vì ảnh
hưởng khủng khiếp của mạng truyền
thông trong xã hội Mỹ. Ông lại có một
cuộc sống xa hoa với tiệc tùng và
scandal, gây ra không biết bao nhiêu câu
chuyện hấp dẫn cho đám đông luôn thờ
phụng những nhân vật nổi tiếng
(celebreties). Khu lâu đài của ông ở San
Simeon California vẫn là một trung tâm
thu hút bao du khách ngày nay. Trên hết,
Orson Welles dùng ông như là một cảm
hứng để tạo nên cuốn phim Citizen Kane,
mà nhiều nhà phê bình cho là phim hay
nhất qua mọi thời đại của lịch sử điện
ảnh.
Một trong những scandal tiêu biểu trong
năm 1924 là chuyện ông bắn chết một
người bạn trên du thuyền tại một bữa tiệc
sinh nhật vì ghen tuông và vì lầm tưởng
anh ta là Charlie Chaplin, danh hề của
những phim Charlot. Chaplin đang ái ân
vụng trộm với cô đào nổi danh
Hollywood, Marion Davies, hiện là nhân
tình số một của ông. Nhưng ông không bị
điều tra hay kết tội gì về vụ giết người
này: dù sao, ông cũng là W.R. Hearst,
người vừa giúp Tổng Thống Mỹ Calvin
Coolidge đắc cử hai tuần trước đó.
Tôi chắc rằng những nhân vật xã hội của
mọi thời vàng son đều có những trải
nghiệm và tình huống tương tự. Khi tôi
về lại Việt Nam vào 2006, người dân
giàu có của xã hội thượng lưu ở đây cũng
đầy những mẩu chuyện thú vị hào hứng,
pha lẫn giữa sự thực và các tin đồn.
Những huyền thoại về Phạm Nhật Vượng,
Đoàn Nguyên Đức, Cường Đô La, Đào
Hồng Tuyển… chiếm đầy các tít lớn của
các tờ báo, tạp chí. Thời vàng son của
một chu kỳ mới trong kinh tế vừa nổi của
Việt Nam cùng bắt đầu vào thời điểm
này.
Trở lại với câu chuyện của Hearst và
The Roaring Twenties, lịch sử cho thấy
một kết cuộc đáng buồn. Hearst gần như
bị phá sản trong cuộc Đại Suy Thoái
thập niên 30s và The Roaring Twenties
chỉ còn vang vọng trong tiểu thuyết. Một
tác giả là bạn thân của Hearst đã viết hồi
ký về thời vàng son của Hearst và bạn
bè,” Chúng tôi đã ăn chơi, nhảy múa
không ngừng nghĩ trong những tiệc tùng
thâu đêm. Rượu, ma túy, sex và những thị
phi làm chúng tôi say sưa không biết
mệt. Nhiều người vẫn cảm nhận sự điên
cuồng và ngu xuẩn của những vũ điệu
Charleston mỗi đêm, nhưng chúng tôi
biết rằng, nếu giàn nhạc ngừng chơi, vũ
điệu ngừng quay, thì chúng tôi sẽ không
có gì… ngoài một trống vắng toàn diện.”
Thế cho nên, let the good times roll, thời
vàng son ơi, hãy tiếp tục trôi.
Hôm nọ, trong đêm giá rét của Hà Nội,
tôi ghé vào quán cà phê ở Sheraton
Westlake, chợt loáng thoáng nghe lại bài
nhạc “Let the good times roll”. Nó nhắc
tôi về W.R. Hearst và The Roaring
Twenties của xứ Mỹ xa xôi. Nó làm tôi
tự hỏi chúng ta đã học được gì khi lịch
sử tái diễn?
http://tuanvietnam.vietnamnet.vn
ALAN PHAN
Tư bản và Dân chủ
Sau vụ sụp đổ bức tường Bá Linh năm
1989, nhiều học giả về chính trị thế
giới đã lạc quan tiên đoán là “chủ
nghĩa dân chủ” theo định hướng tư bản
sẽ là một mục tiêu căn bản cho mọi
quốc gia trên toàn cầu.
Cho đến năm 2008, khủng hoảng tài
chính bùng nổ ở Âu Mỹ, gây khó khăn
cho các nền Tây Phương, trong khi mức
tăng trưởng GDP của Trung Quốc không
suy chuyển, thì nhiều kinh tế gia lại tiên
đoán một thời hoàng kim cho mô hình
kinh tế chỉ huy .
Thực sự, nếu nền kinh tế thị trường của
các nước xã hội là một mâu thuẫn, thì
chủ nghĩa tư bản theo định hướng dân
chủ cũng là một nghịch lý .Theo nhận
định chủ quan của tôi, thể chế dân chủ là
lý do chính đã khiến nền kinh tế vốn dựa
trên tư bản của Âu Mỹ lâm vào tình trạng
suy thoái như hiện nay
Thống kê mới nhất của Cơ Quan Thế Vụ
Mỹ (IRS) năm 2009 cho thấy số công
dân không đóng thuế cho Chính phủ liên
bang đã lên đến 47%. Hai năm trước,
vào năm 2007, tỷ lệ này chỉ là 38%. Nói
vắn tất là hiện nay, một người Mỹ phải đi
làm để nuôi một người khác. Các phúc
lộc từ ngân sách liên bang của các công
dân không đóng thuế này, vì thất nghiệp,
vì nghèo hay đã về hưu, bao gồm an sinh
xã hội, bảo hiểm y tế (medicare), phiếu
thực phẩm miễn phí (food stamps), trợ
cấp nhà cửa (housing subsidies), giáo
dục, hạ tầng cơ sở, an ninh, môi
trường… Dân số của các công dân
hưởng lợi ích so với các công dân phải
đóng thuế đã gia tăng liên tục trong vài
thập niên vừa qua. Năm 2010 này, số
người không đóng thuế sẽ nhiều hơn số
người đóng thuế.
Với nguyên tắc “một công dân, một phiếu
bầu”, thì số phiếu của thành phần hưởng
phúc lộc sẽ tiếp tục lấn át thành phần trả
thuế. Cử tri thì luôn luôn bỏ phiếu cho
những chính trị gia nào biết giá tăng phúc
lợi cho cá nhân họ. Đó là lý do đơn giản
tại sao các chính trị gia Mỹ phải liên kết
với thành phần hưởng phúc lợi và thành
phần trả thuế sẽ mất dần ảnh hưởng trong
quyết định chi tiêu của quốc gia. Hiện
nay, không chính trị gia nào dám đụng
đến ngân sách của hệ thống an sinh xã
hội, dù việc bội chi ở khoản này có thể
làm tài chính công của Mỹ khánh tận
trong 30 năm tới. Vì không ai muốn tạo
ra tài sản để cho người khác hưởng, các
công dân trả thuế sẽ mất dần động lực
kiếm tiền, và cũng sẽ áp dụng chiến thuật
bòn rút tiền công trên mỗi quyết định về
công việc hay kinh doanh. Đây là hình
thức tự sát chậm rãi của kinh tế Mỹ, quy
trình đã bắt đầu ở Âu Châu suốt nhiều
năm qua.
Để đơn giản hóa vấn đề, tôi xin đơn cử
một thí dụ. Một công ty thường bao gồm
hai thành phần: cổ đông (shareholders)
và các người liên quan tới quyền lợi
công ty, gọi là nhà liên đới
(stakeholders). Cổ đông là những người
góp vốn cho công ty và nhà liên đới là
những nhân viên, nhà cung cấp, khách
hàng, cơ quan chính phủ trong vòng trách
nhiệm, ngay cả những cư dân mà hoạt
động của công ty có thể ảnh hưởng đến
(như hàng xóm của một nhà máy hay cơ
quan xã hội địa phương). Nếu những nhà
liên đới này có quyền bỏ phiếu trong các
Đại Hội Thường Niên (một người một
phiếu) như các cổ đông, thì mục tiêu và
chiến thuật của công ty sẽ thay đổi hoàn
toàn. Lợi nhuận có thể trở thành thứ yếu;
và các phúc lợi dành cho các nhà liên
đới sẽ được ưu tiên phát triển. Nếu đây
là mô hình kinh doanh, tôi đoan chắc là
các thị trường chứng khoán sẽ đóng cửa
vì không nhà đầu tư nào muốn đem tiền
riêng của mình ra cho các nhà liên đới
chơi trò kinh doanh dùm họ. Đây cũng là
lý do tại sao phần lớn các công ty Liên
Xô, Đông Âu ngày xưa cũng như các
công ty quốc doanh bây giờ ở mỗi quốc
gia trên thế giới đã thua lỗ liên tục. Cha
chung không ai khóc, tiền không phải do
mồ hôi nước mắt mình kiếm được thì sự
tiêu xài lãng phí là hậu quả hiển nhiên.
Nền kinh tế tài chính của một quốc gia
cũng phải tuân theo những quy luật này.
Dĩ nhiên, tôi chỉ nhìn chủ nghĩa dân chủ
trên khía cạnh kinh tế và ảnh hưởng của
nó trên lĩnh vực tài chính công. Dân chủ
đã đem lại rất nhiều lợi ích khác trên các
vấn đề xã hội tự do, công bằng và pháp
trị cho các xã hội Tây Phương. Nhưng
nếu hỏi tại sao tư bản và dân chủ có
nhiều nghịch lý, thì đây là nguyên nhân
căn bản.
Tác nhân chính của sự tăng trưởng ngoạn
mục cho nền kinh tế toàn cầu trong 2 thập
niên rồi là lưu lượng tiền khổng lồ của tư
nhân được tự do vượt biên giới quốc gia
và do các biện pháp thả lõng lãi suất rất
thấp của các ngân hàng trung ương. Tư
bản là huyết mạch của kinh tế, dù là cho
hoạt động của một công ty hay một quốc
gia. Khi người bỏ vốn thấy tiền của họ bị
lãng phí vào mục tiêu chính trị để bảo vệ
quyền lực phe nhóm, thì không ai còn
muốn tiếp tục trò chơi vớ vẩn này. Các
quốc gia như Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha …đang gặp rất nhiều khó khăn
để vay nợ vì các nhà đầu tư vào trái
phiếu của họ đang siết chặt hầu bao.
Trong khi đó, chương trình tiết kiệm cắt
giảm ngân sách của chính phủ bị các
nhóm lợi ích phản kháng thường trực với
những cuộc biểu tình và đình công.
Chứng khoán thế giới sắp phải chịu nhiều
suy thoái vì các lợi nhuận của các công
ty sẽ bị giảm sút trong các khủng hoảng
kinh tế tài chánh sắp tới. Chính phủ Mỹ
đang chơi với lửa khi tiếp tục chính sách
tiền tệ gây thâm hụt lớn cho ngân sách.
Cũng trên khía cạnh kinh tế, ta có thể
thấy là sự tăng trưởng thành công của
kinh tế Trung Quốc là nhờ chính sách tư
bản hóa hoạt động của các mảng kinh tế
tư nhân và mảng đầu tư từ nước ngoài.
Hai mảng kinh tế này chiếm đến 67%
GDP (có thể còn cao hơn nữa nếu cộng
vào nền kinh tế ngoài luồng) và là hai
nhân tố tạo nên những thành quả phi
thường, trong khi lĩnh vực quốc doanh
vẫn trì trệ. Jim Rogers, nhà tỷ phú Mỹ
hăng say nhất với thị trường Trung Quốc,
đã nhận định Trung Quốc là một quốc gia
tư bản trẻ nhất thế giới. Theo tôi, cái
khác biệt căn bản về cách vận hành mọi
hoạt động xã hội và kinh tế giữa Mỹ và
Trung Quốc là ở Trung Quốc, bạn có thể
làm bất cứ đều gì bạn muốn nếu có tiền
(tư bản) và đừng bao giờ phê bình chính
phủ; trong khi ở Mỹ, bạn tha hồ chỉ trích
chính phủ, nhưng mọi hoạt động kinh
doanh sẽ bị áp lực nặng nề của luật pháp,
điều lệ, công đoàn, thuế vụ, môi trường,
nhóm lợi ích xã hội, các cơ sở truyền
thông, giáo dục, tôn giáo …(xã hội).
Cái sức mạnh của nền kinh tế tư bản thực
sự dựa trên lòng tham lam của con
người. Có thể đây là một vấn nạn về đạo
đức trên nhiều khía cạnh, nhưng thiếu sự
tham lam cơ hữu đã tồn tại hơn 5 ngàn
năm qua, sự tăng trưởng kinh tế sẽ trì trệ
và mệt mỏi. Ngay cả văn hóa nghệ thuật
cũng cần rất nhiều tư bản để phát triển và
phồn thịnh; vì giàu sang không hẳn chỉ
sinh lễ nghĩa mà còn cho con người
những thời gian rãnh rỗi để hưởng thụ
các thú vui tinh thần.
Nguyên tắc “một người dân, một lá
phiếu” chỉ mới được ứng dụng hơn 100
năm qua. Trong lịch sử, đã có thời gian
dành chỉ những nhà quý tộc mới được đi
bầu; hay các cử tri đã phải trả một khoản
thuế để có quyền lợi này. Trước năm
1920, các phụ nữ ở Mỹ đã không được
quyền ứng cử hay bầu cử. Bằng nhiều thủ
thuật chính trị, truyền thông và luật pháp,
các nhóm cầm quyền Âu Mỹ đã làm
chậm lại quy trình dân chủ hóa trong
nhiều thế kỷ .Với sự đắc cử của tổng
thống Obama và sự chiếm lĩnh đa số của
các nhóm hưởng phúc lợi, bánh xe tiến
hóa đã đè bẹp quyền hành của các nhà tư
bản. Trò chơi dân chủ mà họ đã sáng tạo
khi lật đổ các vương quốc phong kiến khi
xưa đang trở thành vũ khí làm thương tổn
trầm trọng các định chế cột mốc của nền
kinh tế tư bản.
Bánh xe tiến hóa của lịch sử cũng đã bắt
buộc Trung Quốc phải “dân chủ hóa” các
hoạt động kinh doanh và gần đây các
thay đổi về xã hội. Những cuộc đình
công biểu tình của nhân công Trung Quốc
đòi tăng lương là một khởi đầu. Khi
Trung Quốc bắt kịp Âu Mỹ về các phúc
lộc xã hội cho công dân của mình, thì nền
kinh tế tài chính của họ cũng bắt đầu
thoái hóa. Có thể đây là một điều đáng
mong ước của nhiều người, nhất là những
công dân Trung Quốc, nhưng đây cũng là
một triệu chứng về cái chết của tư bản.
Nếu không có sự đột phá kỳ diệu về khoa
học hay công nghệ, phong cách sống
trong thế giới của con cháu chúng ta sẽ
trì trệ và nghèo khó như thời bao cấp.
Một chu kỳ mới của lịch sử chăng?
Alan Phan
Con voi
Quốc
Trung
(Bài viết từ 2010 nhưng vẫn ứng dụng
ngày nay, nhất là trường hợp Việt Nam.)
Tôi đến Trung Quốc lần đầu vào năm
1976 khi đi công tác cho tập đoàn
Eisenberg của Do Thái. Họ là những
nhà đầu tư đầu tiên của Phương Tây
vào Trung Quốc và khởi xướng một
loạt liên doanh với các công ty quốc
doanh của Trung Quốc
Tôi đến Trung Quốc lần đầu vào năm
1976 khi đi công tác cho tập đoàn
Eisenberg của Do Thái. Họ là những nhà
đầu tư đầu tiên của Phương Tây vào
Trung Quốc và khởi xướng một loạt liên
doanh với các công ty quốc doanh của
Trung Quốc. Sau đó, tôi tiếp tục công tác
ở Trung Quốc nhiều năm cho đến khi tự
thiết lập những chi nhánh ở Trung Quốc
của Hartcourt, công ty riêng của tôi tại
Mỹ, vào đầu năm 1996. Tôi sống và làm
việc ở Hồng Kong và Shanghai liên tục
từ năm 1999. Câu hỏi thường xuyên phải
đối diện từ các doanh nhân nước ngoài
là “Ông đánh giá thế nào về kinh tế của
Trung Quốc cũng như tình hình kinh
doanh”?
Những lúc đó, tôi luôn nghĩ đến câu
chuyện những anh thầy bói mù, sờ voi,
để tìm một thực tại chính xác mô tả hình
thù của con voi. Dĩ nhiên, mọi người đều
biết rằng anh mù sờ cái vòi voi thì có
cảm nhận khác hẳn với anh mù rờ cái
chân. Đối với tôi, sự đánh giá chính xác
nền kinh tế của Trung Quốc cũng là một
bài học tương tự; mặc cho rất nhiều tài
liệu tham khảo, sách vở hồi ký và cả tiểu
thuyết viết về đề tài này .
SỐ LIỆU THỐNG KÊ
Một thủ tướng Anh, ngài Benjamin
Disraeli, đã phê bình về những tranh
luận chính trị, “Có 3 loại nói láo: nói
láo, nói láo khốn kiếp và … số liệu
thống kê” (lies, damned lies, and…
statistics). Sự thật và nửa sự thật (halftruth) có thể tương phản nhau như đêm và
ngày. Mà các chính trị gia thì là những
sư phụ về “nửa sự thật”; trong khi đó, để
bẻ quanh sự thật thì việc sử dụng các con
số thống kê để phù hợp với mục đích
tranh luận của mình đã trở thành một thói
quen đáng ngại trên khắp thế giới.
Tôi có một anh bạn Tàu khá thân vào
năm 2003 và hai đứa hay giao du ở
Shanghai để tản mạn chuyện đời. Anh ta
là Trưởng Sở Thống kê của vùng Tây
Dương Tử, thu nhặt các báo cáo từ khắp
làng, xã, huyện, tỉnh của khu vực này để
nộp lên cho Trung ương ở Bắc Kinh.
Khu vực này, gồm Shanghai, Triết
Giang, An Hui, Hàng Châu, Nam Kinh…
là một trong những vùng kinh tế trọng đại
của Trung Quốc. Anh ta tâm sự là những
giờ phút căng thẳng nhất của đời anh và
các nhân viên thuộc hạ là những ngày
phải nộp báo cáo lên Thống kê Trung
ương sau khi thu nhận và đúc kết các con
số từ các địa phương. Anh nói “Các con
số từ các cơ quan chính phủ, các công ty
quốc doanh, các ngân hàng, các văn
phòng thuế vụ…đều có những mâu thuẫn
nghịch lý ngược đời. 80% các con số
rập khuôn theo chỉ tiêu của chính phủ, vì
đây là mức đánh giá về khả năng và hiệu
quả của các lãnh đạo hành chánh. Nếu
chính phủ trung ương nói năm nay mục
tiêu của GDP sẽ trên 11%, thì các đơn vị
thi nhau vượt trên chỉ tiêu để lấy điểm.
Không ai rõ sự thật như thế nào. Vì lý do
các con số “chửi nhau” thậm tệ, chúng
tôi phải nhào nặn xoa bóp lại cho các dữ
liệu và thống kê được hài hòa và các con
số phải nằm ở mức độ hợp lý tối thiểu.
Sự chính xác của các thống kê này là
điều chúng tôi quan tâm rất ít”.
Anh bạn nói thêm, “Cả thế giới đều lấy
con số 1.32 tỷ làm dân số chính thức của
Trung Quốc. Nhưng Sở Thống kê chỉ
điều nhân viên thực hiện công tác này
mỗi 10 năm ở các tỉnh và huyện. Con số
từ các xã, làng mạc đều tùy thuộc vào
báo cáo của các đơn vị địa phương .Với
một số lượng di dân khổng lồ từ nông
thôn ra thành thị (không ai nắm chắc vì
họ không có hộ khẩu và chỗ ở nhất định),
cộng với thói quen phải báo cáo nhận hộ
khẩu nhiều hơn của các đơn vị nông thôn
(để gia tăng ngân sách và chi tiêu), con
số thực sự về dân số chỉ là một phỏng
đoán rất ngờ vực”.
Anh ta kết luận bằng câu tục ngữ thường
vẫn nghe ở Mỹ “Garbage in, garbage
out” (rác vào thì rác ra). Không một máy
tính hiện đại nào trên thế giới có thể thay
đổi nguyên lý này .
NỀN KINH TẾ NGẦM
Một yếu tố quan trọng nữa của kinh tế
Trung Quốc mà mọi người chỉ phỏng
đoán là nền kinh tế ngoài luồng. Cho đến
thời điểm này, người dân Trung Quốc
vẫn chuộng giữ tiền tiết kệm lâu dài bằng
vàng hay dollars hay địa ốc … thay vì
những trương mục trả lãi suất rất ít trong
các ngân hàng. Các giao dịch thương mại
không hóa đơn là một hiện tượng rất phổ
thông. Khi bạn mua hàng bằng tiền mặt ở
một cửa hàng hay ngay cả một cơ xưởng
lớn của một công ty quốc doanh, bạn có
thể được trừ đến 5% khi trả bằng tiền
mặt. Chỉ có khoảng 62% doanh nhân báo
cáo về lợi tức thu nhập với Sở thuế (và
có lẽ 90% trong số này là những báo cáo
lệch lạc). Thêm vào đó, nạn tham nhũng
trên toàn quốc tạo ra những luồng tiền
khổng lồ cần chùi rửa ngoài luồng cũng
sẽ không nằm trong các dữ liệu thống kê
chính thức. Một nghiên cứu độc lập của
một quỹ tiền tệ quốc tế ước tính là đến
27% FDI của Trung Quốc là do tiền nội
địa tái hồi (recyling domesticequity).
Hiện tượng này mô tả những dòng tiền
lớn của Trung Quốc lọt ra nước ngoài và
được đầu tư trở lại tại Trung Quốc trên
danh nghĩa vốn đầu tư nước ngoài.
Tôi còn nhớ cách đây 4 năm, tôi đi ngang
môt văn phòng đồ sộ trong môt cao ốc
văn phòng ở đường Huai hai Zhong Lo.
Đây là một khu thương mại rất sầm uất
và nổi danh của Shanghai. Văn phòng
không có tên tuổi hay biển quảng cáo
nào, mà người thăm viếng lại tấp nập
như một cửa hàng bách hóa. Hỏi thăm
bạn bè mới biết đây là một “ngân hàng
đen” nơi các doanh gia va các nhà giàu
đến bỏ tiền và vay tiền, dĩ nhiên là với
lãi suất gấp 3 lần các ngân hàng chính
thống. Sự hiện diện công khai giữa thanh
thiên bạch nhật cho thấy mối liên hệ của
các “doanh nghiệp ngầm” và chính phủ
sâu rộng đến mức độ nào.
Ước lượng về nền kinh tế ngầm này
Trung Quốc thay đổi từ 15% đến 40%
GDP. Dù thấp hay cao, ẩn số này đã thay
đổi mọi số liệu thống kê về GDP, về tăng
trưởng kinh tế, cũng như các thực tại về
thu nhập và tài sản.
QUYỀN TỰ TRỊ CỦA CÁC ĐỊA
PHƯƠNG
Giáo sư Victor Hsih của Đại Học
Northwestern vừa làm một bảng ước tính
về số nợ của các đơn vị chính phủ địa
phương trên toàn Trung Quốc lên đến 1.3
ngàn tỷ US dollars (11.4 ngàn tỷ RMB).
Tiêu sản này bao gồm nợ trực tiếp, các
bão lãnh tài chánh và các hợp đồng giao
dịch với các đối tác trong và ngoài
nước. Con số này được chôn vùi bóp
méo trong những cân đối tài chánh chính
thức của Trung Ương và GS Hsih đã
phải góp nhặt tìm tòi qua các dữ liệu tư
và các báo cáo địa phương của các ngân
hàng cũng như các công ty quốc doanh.
Nhiều học giả về Trung Quốc thường cho
rằng chính quyền trung ương ở Beijing
kiểm soát rất chặt chẽ mọi hoạt động của
địa phương qua đảng viên Cộng Sản và
quan chức bổ nhiệm. Khi làm việc với
các địa phương, doanh nhân nước ngoài
mới nhận thức thực tế là “phép vua thua
lệ làng”. Beijing gần như để mặc các
đơn vị địa phương tự túc và tự xử vẽ
trong rất nhiều lĩnh vực, kể cả tài chánh,
miễn là địa phương đóng góp đầy đủ số
chỉ tiêu về thuế, báo cáo thường xuyên
theo chỉ tiêu đề ra và đừng làm gì để
“mất mặt” Trung Ương. Nhưng vấn đề
nhạy cảm là những cuộc biểu tình, những
tố cáo lạm dụng về đất đai, những
scandals trên báo chí …Vì phần lớn phải
tự túc về ngân sách, nên các chính quyền
địa phương hay có khuynh hướng thổi
phồng giá đất để bán hay cho thuê lại với
giá cao (một phần rất lớn của nhiều ngân
sách), hay thích làm những dự án vĩ đại
dù không hiệu quả (để tăng GDP, để có
sĩ diện và tăm tiếng ,và để hưởng lợi cá
nhân) và sẵn sàng bảo đảm mọi số nợ để
tiến hành các mục tiêu trên.
Vào năm 1995, công ty Hartourt của tôi
có liên doanh để thiết lập một nhà máy
làm viết và dụng cụ văn phòng khá quy
mô ở Quảng Đông. Số tiền nợ 4 triệu US
dollars của công ty liên doanh do Bank
of China cho vay là do chính quyền đảm
bảo. Chúng tôi gần như không phải gặp
gỡ hay liên hệ gì với Bank of China ở
Quảng Đông hay Beijing; và chỉ gặp
Gám Đốc chi nhánh huyện một lần duy
nhất trong một bữa ăn hoành tráng (không
hề bàn thảo gì đến dự án hay kế hoạch
kinh doanh). Nhiều bạn bè doanh nhân
tại Trung Quốc khác đều có những kinh
nghiệm tương tự, cho thấy quyền lực của
chính quyền địa phương vượt xa các thủ
tục hành chánh
CÁC CÔNG TY TRUNG QUỐC
Năm 1978, tôi được tập đoàn Eisenberg
gọi đến Xian (Tây An) để tống duyệt tình
hình kinh doanh và số liệu kế toán của
Xian Aircraft Technology, một công ty
con của PLA (Quân đội nhân dân Trung
Quốc). Thời điểm đó, công ty này chỉ
chuyên sản xuất các phụ kiện cho máy
bay, nhưng gần đây đã lớn mạnh và lập
dự án liên doanh với Boeing và Airbus
để lắp ráp nguyên chiếc máy bay. Sau
khi tôi bị từ chối không cho coi các hồ
sơ báo cáo tài chánh vì lý do “bí mật
quốc gia”, Eisenberg đã phản đối mạnh
mẽ và sau cùng, Xian Aircaraft nhượng
bộ, đem toàn bộ sổ sách để tôi xem xét.
Viên kế toán trưởng mang một chồng hồ
sơ dày hơn 1 mét và nói đây là hồ sơ số
1. Tôi thắc mắc là sao chỉ có 9 tháng
hoạt động mà chi phí và doanh thu lại
nhiều con số như vậy. Ông ta trả lời là 3
bộ hồ sơ đều bao gồm khoảng thời gian
hoạt động như nhau. “Vậy hồ sơ nào là
chính xác?” Ông ta chậm rãi, “Cả 3 đều
chính xác. Nhưng các số liệu khác nhau
vì Sở Thuế cần những con số khác với
Ban quản lý ở Beijing và chúng tôi, Ban
quản lý địa phương lại có nhu cầu khác
hẳn”.
Hai mươi bốn năm sau, vào 2002, khi
làm việc với một công ty quốc doanh
khác, tôi được biết là thói quen giữ vài
bộ hồ sơ kế toán khác nhau vẫn tồn tại ở
rất nhiều nơi. Do đó, nếu phải định giá
tài sản hay lợi nhuận của một công ty
quốc doanh, thì sự định chuẩn phương
thức kế toán tài chánh sẽ là vấn đề đầu
tiên không biết phải giải quyết theo định
hướng nào? Các tập đoàn ngân hàng lớn
như Golman Sachs hay Citicorp thường
bị lên án về những thủ thuật kế toán để
thổi phồng lợi nhuận hầu tăng giá trị cổ
phiếu và đem phúc lợi lớn cho ban quản
lý, dù họ đã theo đúng đòi hỏi của
GAAP (chuẩn kế toán của Mỹ) và sử
dụng những thiết bị điện tử cứng và mềm
hiện đại nhất. Một công ty quốc doanh
lớn và đa dạng như Petro China hay
Agricultural Bank hay China Mobile…
chắc chắn phải có nhiều vấn đề với hồ
sơ và kết quả tài chánh kế toán.
Những số liệu chính xác về tình trạng tài
chánh của các công ty tư nhân thì cũng
không khác hơn nhiều. Ngoài mục tiêu
tránh thuế, các doanh nghiệp tư nhân bên
Trung Quốc còn rất nhiều lý do để cố
tình thay đổi các kết quả tài chánh: họ
cần tài trợ thường trực từ ngân hàng hay
quỹ đầu tư, họ không muốn các đối thủ
cạnh tranh biết về tình trạng tài chánh
của mình, họ thường dính líu đến những
hoạt động ngoài luồng, họ thường làm rất
nhiều ngành nghề mà sự tích hợp các
hoạt động theo chuẩn mực về kế toán sẽ
vô cùng tốn kém….Tóm lại, mỗi khi tôi
nhận một báo cáo tài chánh của một
doanh nghiệp, công hay tư, câu hỏi đầu
tiên là tôi phải khấu trừ hay cộng thêm
bao nhiêu phần trăm cho mỗi con số, để
có một dự đoán gần nhất với sự thực.Tôi
chắc chắn rằng các cơ quan thống kê của
chính phủ cũng như các nhà phân tích tư,
dù có thiện chí đến đâu, cũng không thể
phỏng đoán được phân khúc này.
Các nhà đầu tư trên thị trường chứng
khoán đều phải dựa vào báo cáo tài
chánh đã được kiểm nhận bởi các công
ty kiểm toán quốc tế, tin cậy nhất là
Big4. Nhưng họ không đọc kỹ disclaimer
của các công ty kiểm toán này: Tất cả
các số liệu kèm theo là do sự trình bày
và cung cấp của Ban Quản lý, họ không
có trách nhiệm nếu Ban Quản Lý cố tình
dối trá
CƠ CẤU VÀ CHUẨN MỰC CỦA
BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Như đã nói ở trên, các tập đoàn lớn nhất
của Âu Mỹ vẫn sử dụng thường xuyên
các thủ thuật về kế toán để thay đổi bức
tranh tài chính thực sự của họ, từ hình
thức hợp pháp như Goldman Sachs,
Citicorp….đến phi pháp như Enron,
Worlscom. Nhưng phương thức phổ
thông là việc lập ra những công ty con ở
nước ngoài để bỏ vào những khoản nợ
ngoài luồng, chuyển hoàn doanh thu và
lợi nhuận qua các công thứ ba, che dấu
các tài sản đã mất nhiều giá trị, dùng thị
giá để gia tốc doanh thu (mark-to-market
rule)…
Chính phủ Mỹ cũng bóp méo các số liệu
thống kê để đạt mục tiêu chính trị của
mình bằng cách cấu trúc thành phần của
các chỉ số như tỷ lệ thất nghiệp, lạm
phát….sao cho có lợi cho hình ảnh trưng
bày cùng công chúng và các nhà đầu tư.
Tôi không ngạc nhiên khi thấy chính phủ
Trung Quốc dùng giá trị sản xuất cho
lượng hàng tồn kho thay vì giá trị thị
trường (nhiều mặt hàng không bán được,
chất đầy kho cả 2, 3 năm, vẫn được tính
theo giá trị sản xuất). Nguyên tắc này
cũng được áp dụng cho các tài sản không
còn thị giá vì không hoạt động (rất nhiều
dự án địa ốc khổng lồ bỏ trống không
bán hay cho thuê được tại rất nhiều địa
phương). Thống kê của Trung Quốc thậm
chí không dùng chiết khấu cho rất nhiều
tài sản cố định.
Tóm lại, khi thay đổi thành phần cấu trúc
của một báo cáo tài chánh, chính phủ và
các công ty Trung Quốc có thể đưa ra
một bức tranh rất khác xa thực tế.
TRỰC GIÁC VÀ KINH NGHIỆM
ĐẦU TƯ
Tóm lại, nếu phân tích tình hình kinh tế
Trung Quốc theo các dữ liệu và số thống
kê và dựa trên những mô hình và phương
thức đã học từ các ĐH Âu Mỹ, thì xác
suất sai lệch rất đáng kể. Những nhà học
giả Trung Quốc thường chính xác hơn về
các dự đoán của mình khi họ dựa vào
trực giác và cảm nhận chủ quan.
Cảm nhận chủ quan của cá nhân tôi thì
Trung Quốc là một thị trường có sức tăng
trưởng GDP hay FDI lớn hơn những con
số tăng trưởng chính thức nhiều. Lý do là
dù chính phủ Trung Quốc, trung ương và
địa phương, có thổi phồng thành quả của
họ qua các con số, thì con số phỏng đoán
của nền kinh tế ngầm của Trung Quốc lại
lớn hơn mọi sự thổi phồng này. Trong
khi đó, với bản tính che đậy cố hữu của
các nhà cầm quyền, những vấn nạn và đe
dọa cho sự bền vững của nền kinh tế
Trung Quốc cũng lớn lao hơn rất nhiều
so với những tài liệu được thông báo.
Trong tương lai gần, bong bóng tài sản
về địa ốc và chứng khoán sẽ vỡ và chưa
ai có thể biết những hậu quả của nó tại
Trung Quốc và toàn cầu.
Do đó, khi Quỹ Viasa của chúng tôi đầu
tư vào thị trường chứng khoán của Trung
Quốc, chúng tôi phải quên đi định lý đầu
tư thành công vượt bực của Warren
Buffet: quan trọng nhất là giá trị cơ bản
lâu dài của các công ty. Chúng tôi hiểu
rằng trực giác và chủ quan trong những
phân tích nhận định về các đơn vị này
không đủ chính xác để làm căn cứ cho
những đầu tư lâu dài. Chúng tôi đã đầu
tư vào nhiều chứng khoán và công ty ở
Trung Quốc, nhung hoàn toàn ngắn hạn
và dùng kỹ thuật lướt sóng cùng các
nguồn tin ngoài luồng để quyết định.
Bạn không cần biết hình thù của con voi,
nhưng bạn có thể nghe tiếng chân nó chạy
và đoán hướng đi. Nếu bạn đúng, bạn
cũng vẫn có thể kiếm được tiền với con
voi Trung Quốc. Nếu bạn sai, con voi sẽ
dẫm nát bạn.
Alan Phan
4 July 2010
Chuyện con ve và
con kiến
Những ngày ở tiểu học, thập niên 50,
mỗi học sinh đều phải thuộc lòng câu
chuyện ngụ ngôn của Lafontaine về
“Con Ve và Đàn Kiến”.
Những ngày ở tiểu học, thập niên 50, mỗi
học sinh đều phải thuộc lòng câu chuyện
ngụ ngôn của Lafontaine về “Con Ve và
Đàn Kiến”. Chuyện kể là con ve chỉ
thích ca hát suốt các ngày hè tươi đẹp
còn đàn kiến cần cù lo chuyển chỗ dự trữ
lương thực và xây tổ đề phòng cho những
ngày đông lạnh giá. Con ve thật sự tỉnh
ngộ và cay đắng khi phải đến tổ kiến sau
đó để xin ăn và chỗ ở. Chuyện là một mô
hình luân lý của tính khôn ngoan, ham
làm việc và biết lo xa của đàn kiến so
với những thói hư tật xấu của loài ve
ham chơi.
Gần đây, kinh tế gia Martin Wolf nhắc
lại câu chuyện ve kiến này và lái đến chủ
đề về các nền kinh tế toàn cầu. Theo ông,
“kinh tế con kiến” được thể hiện bởi các
quốc gia chăm chỉ sản xuất và biết tiết
kiệm như Đức, Nhật, Trung Quốc; trong
khi “kinh tế con ve” tượng trưng cho sự
tiêu thụ, nợ nần và hoang phí của các
quốc gia như Mỹ, Anh và Hy Lạp. Nhưng
liên quan giữa kiến và ve có một hệ số
mới của thời hiện đại: để tiếp tục tăng
trưởng và tạo công ăn việc làm cho đàn
kiến, các kinh tế “kiến” đã phải cho các
quốc gia “ve” vay nợ rất nhiếu để ve tiếp
tục tiêu thụ hàng hóa của kiến. Đến lúc
này, ve không còn nhiều khả năng trả nợ
và đàn kiến lại thực sự có vấn đề. Tiếp
tục cho vay thì tờ giấy nợ sau này sẽ bị
mất giá trầm trọng; mà không cho vay, thì
nền kinh tế của mình bị suy sụp thảm hại
vì không xuất khẩu được. Khổ nhất là
con kiến Trung Quốc, đàn kiến quá đông,
không có việc làm cho chúng mà để cho
chúng ăn không ngồi rồi thì sẽ mời gọi
nhiều bất ổn xã hội trầm trọng.
Dĩ nhiên đây là nguyên tắc mà các doanh
nhân đều biết rõ: nếu bạn nợ ngân hàng
vài trăm triệu đồng thì đây là vấn nạn
của bạn; nhưng nếu bạn nợ ngân hàng vài
ngàn tỉ đồng, thì đây là vấn nạn của ngân
hàng.
Chuyện con ve và đàn kiến không những
chỉ biểu hiện qua các nền kinh tế thế giới
mà còn hiện diện ở khắp các tương quan
trong các tầng lớp của từng nền kinh tế
hay ngay cả trong nhiều gia đình và xã
hội. Trong một bài viết trước đây về Tư
Bản và Dân Chủ (…) tôi đã phân tích về
những con kiến tư bản cần cù làm việc
đầu tắt mặt tối ở Mỹ để đóng thuế. Sau
đó, chính phủ lại phân phối các khoản
tiền thuế này cho các thành phần nghèo
kém. Mức thuế ở Mỹ cao đến nỗi một
người đi làm phải đóng thuế chỉ để nuôi
một người Mỹ khác không đóng góp gì
cho ngân sách quốc gia. Tôi không bàn
về khía cạnh đạo đức, nhưng việc lạm
dụng các phúc lộc xã hội của các thành
phần ăn không ngồi rồi quả là một hiện
tượng về ký sinh trùng của kinh tế Mỹ.
Số lượng các con ve hay ký sinh trùng
này, kể cả các quan chức nhà nước và
các chính trị gia, tăng trưởng rất nhanh
chóng (vì ai cũng tham lam) và số lượng
cũng như tinh thần năng động của đàn
kiến Mỹ càng ngày càng suy sụp. Thu
thuế không đủ để tiêu xài, chánh phủ Mỹ
còn đi vay mượn khắp nơi, nhất là Nhật
và Trung Quốc, để sự thâm hụt ngân sách
và cán cân thương mại trở nên tồi tệ hơn
bao giờ hết.
Trong khi nền kinh tế tư bản Mỹ bị các
thành phần nghèo kém, hưởng phúc lộc
xã hội, không sản xuất lợi dụng tạo nên
suy thoái dựa trên chủ nghĩa dân chủ; thì
tại Trung Quốc, cơ chế chính trị đã tạo
nên một tầng lớp ve giàu có, đầy quyền
lực và rất tham lam trong việc rút tỉa
mòn cạn các của cải tài nguyên đã do
sức lao động của đàn kiến nghèo, thua
kém từ các vùng quê tạo nên. Không
những sử dụng nhân công giá rẻ từ các
huyện xã nghèo, các con ve Trung Quốc
còn lợi dung bô máy hành chính để trưng
dụng đất đai thôn quê, tàn phá môi
trường sinh sống của người dân khắp
nơi, cũng như mượn trọn số tiền tiết kiệm
của đàn kiến bằng cách giữ lãi suất huy
động của mỗi ngân hàng dưới 2% trong
suốt 30 năm qua. Và trong tất cả các
thiên tai, khủng hoảng nhân tạo hay biến
động xã hội, đàn kiến Trung Quốc là
những người phải hứng chịu mọi thua lỗ.
Các con ve Trung Quốc luôn luôn được
bao bọc và nhiều khi hưởng thêm phúc
lộc của chính phủ.
Năm 1978, tôi đi công tác nhiều lần tại
Bắc Kinh và có quen anh Liu Shan Dong,
một viên chức trẻ tại Bộ Ngoại Thương
Trung Quốc. Một hôm, anh mời tôi về
nhà dùng cơm. Gia đình anh có 4 người
(vợ, con và mẹ già), được cấp 1 căn hộ
rộng khoảng 20m2 sau 10 năm làm việc
cho chính phủ. Anh đạp xe đi về hơn 28
km mỗi ngày vì phải về nhà ăn cơm trưa
để tiết kiệm tiền. Anh há hốc miệng khi
nghe tôi nói tiền gởi xe hàng ngày của tôi
ở Manhattan (NYC) mất khoảng 30USD,
tương đương với số lương hàng tháng
của anh. Anh là một con kiến chăm chỉ
hiền lành gương mẫu như cả tỷ con kiến
khác ở Trung Quốc. Mười hai năm sau,
tôi quay lại Bắc Kinh, tìm anh và cuộc
đời anh đã thay đổi nhiều. Nhờ một dự
án khu công nghiệp có sự hỗ trợ mạnh mẽ
của chính quyền địa phương ở Tianjin
(cách Bắc Kinh khoảng 70km về phía
Nam), anh đã trở thành một con ve ấn
tượng của Bắc Kinh. Gia đình anh bây
giờ đã ở một biệt thự rộng hơn 600m2
ngay gần khu Đại Học Thanh Hoa, anh
và vợ đều có tài xế riêng cho hai chiếc
Mercedes và BMW đời mới nhất, và
nhân công phục vụ tại nhà riêng của anh
đã lên đến 6 người (2 người osin, 1
người làm vườn, 2 người tài xế và 1
người nấu bếp). Nhưng cái thay đổi lớn
nhất là con ve này, kể cả bà vợ và bà mẹ,
đã quên hẳn cái quá khứ làm kiến của
mình và theo nhận xét của tôi, đối xử khá
tàn tệ với người làm trong nhà. Hiện
tượng con ve Liu Shan Dong thực ra rất
phổ biến ở mọi tỉnh thành Trung Quốc.
Thời đại mới, suy tư mới và chuẩn mực
đạo đức văn hóa cũng thay đổi nhiều.
Một thống kê của Đại Học Boston về
những tập quán của thế hệ 2014 tại Mỹ
(mới vào đại học năm nay) cho thấy các
bạn trẻ bây giờ gần như không bao giờ
đeo đồng hồ ở cổ tay nữa. Ngày xưa, tôi
say mê sưu tầm những chiếc đồng hồ
Thụy Sĩ cổ điển và bỏ cả ngày nhìn thời
gian đóng băng trong những tác phẩm
nghệ thuật này. Tôi đã từng mơ đến ngày
giao lại bộ sưu tập quý báu này cho con
cháu. Tuy nhiên, sự thừa thải của chiếc
đồng hồ đeo tay trong bối cảnh hiện tại
cũng không khác gì sự thừa thải của câu
chuyện ngụ ngôn về con ve và đàn kiến.
Những nguyên lý đạo đức đã thay đổi và
đây có lẻ là thời đại của con các ve. Một
ngày gần đây, không ai còn muốn làm
kiến nữa. Tính kiên nhẫn để cuối đầu
chấp nhận một số phận thiệt thòi sẽ chấm
dứt và biến thái thành một hiện tượng xã
hội nào mới? Vì có ai nghĩ rằng mùa
đông sẽ không bao giờ đến và cả thế giới
sẽ tiếp tục ca hát trong một mùa hè bất
tận?
Alan Phan
Chó Việt Nam hạnh
phúc nhất thế giới
Chó Việt Nam hạnh phúc nhất thế giới
Tác Giả : Quyên Quyên
Một đất nước hạnh phúc là không chỉ
có con người hạnh phúc mà những con
vật được chúng ta nuôi nấng cũng
được tôn trọng, yêu thương không
khác gì con người.
Ngày 21/6 hàng năm tại thành phố Ngọc
Lâm (Quảng Tây – Trung Quốc) thường
diễn ra lễ hội mừng ngày hạ chí. Điều
đặc biệt trong lễ hội này, hàng nghìn con
chó sẽ bị điện giật, chọc tiết và chế biến
thành nhiều món ăn để dùng chung với
rượu chưng cất từ ngũ cốc. Chính vì thế,
người ta còn gọi đây là lễ hội thịt chó
của người dân Ngọc Lâm.
Người Trung Quốc coi lễ hội thịt chó
này là một dịp để “giữ gìn văn hóa ăn
thịt chó của thành phố”, những người
tham gia sẽ tiêu thụ một lượng lớn lẩu
chó ăn kèm với quả vải và rượu gạo.
Trong lễ hội, người ta đem cả chục nghìn
con chó ra giết thịt, thậm chí chích điện,
lột da khi còn sống.
Chính vì vậy, các nhà bảo vệ động vật
cho rằng lễ hội này quá dã man, họ đã
tìm cách vận động chính phủ Trung Quốc
hủy bỏ lễ hội này. Một số cư dân mạng
Trung Quốc cũng chỉ trích mạnh mẽ lễ
hội này trên các trang mạng xã hội. Năm
2011, hai lễ hội thịt chó tương tự ở Hàn
Quốc và tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc
đã bị hủy bỏ khi bị các nhà bảo vệ động
vật phản đối dữ dội.
Thế nhưng bất chấp làn sóng phản đối
đó, lễ hội thịt chó ở thành phố Ngọc Lâm
vẫn được tổ chức hàng năm, và lễ hội
thịt chó 2013 cũng không phải là ngoại
lệ.
Nếu nhìn vào cái thực tế chỉ trong vòng
một ngày, hàng nghìn con chó bị giết hại
một cách dã man ở nước bạn có lẽ không
ít người sẽ cho rằng chó Việt Nam hạnh
phúc hơn chó Trung Quốc rất nhiều. Biết
đâu đấy có người còn thầm ước kiếp sau
nếu không may đầu thai kiếp chó chỉ hy
vọng không phải làm chó ở Ngọc Lâm,
Trung Quốc.
Vậy tại sao cùng là một trong những đất
nước tiêu thụ chó hàng đầu thế giới, Việt
Nam có hơn gì Trung Quốc mà lại có thể
cho rằng chó Việt sướng hơn? Câu trả
lời rất đơn giản vì người Việt chỉ ăn chứ
đâu có tổ chức hẳn một lễ hội tôn vinh
thịt chó.
Khi một sự vật, sự việc đã có mặt trong
lễ hội và trở thành biểu tượng được đông
đảo người dân hưởng ứng thì sự việc đã
ở một tầm khác. Nói cụ thể hơn là thịt
chó với người Ngọc Lâm không còn là
món ăn thông thường mà đã phát triển
thành biểu tượng tinh thần, một thứ không
thể thiếu. Và điều này xảy ra chỉ mang lại
niềm vui cho những người bán chó,
những người thích ăn thịt chó. Còn với
những chú chó trong vùng cũng như các
vùng lân cận thì đây quả là một bi kịch.
Đã sinh ra làm kiếp chó, con nào chẳng
muốn mình may mắn rơi vào nhà chủ tốt,
được cho ăn uống đầy đủ, yêu thương
chăm sóc, khi chết được chôn cất tưởng
nhớ. Hoặc có không may bị giết thịt thì
chí ít cũng vào nhà hàng thịt chó, một
ngày chỉ giết đôi ba con, để người giết
thịt còn có thể nhớ mặt, đặt tên. Còn cái
chết lãng xẹt trong lễ hội cùng hàng nghìn
con khác thì có lẽ không còn gì thê thảm
hơn.
Trong khi đó, chuyện chó ở Việt Nam lại
có rất nhiều sự khác biệt. Trong khoảng
một tháng trở lại đây, những thông tin về
chó được dư luận quan tâm, bàn luận hơn
bao giờ hết đặc biệt là nạn trộm chó và
đặc biệt là chuyện giữ mạng chó, bỏ
mạng người.
Sự việc vây bắt và tấn công cẩu tặc đến
chết ở Nghệ An hay Thanh Hóa mới đây
khiến nhiều người cứ bị ám ảnh bởi suy
nghĩ dường như người ta đã xem mạng
chó hơn cả mạng người, để bảo vệ mạng
sống của những chú chó, người ta sẵn
sành ra tay đánh đập đến chết con người.
Dù còn rất nhiều ý kiến đánh giá trái
ngược nhau xung quanh vấn đề này,
nhưng có một điều không thể phủ nhận là
người Việt đã thể hiện tình yêu chó hết
mực và điều này rõ ràng là mang lại hạnh
phúc, cũng như sự an ủi cho những chú
chó rất nhiều.
Người viết bài này đã từng chứng kiến
một người chuyên làm nghề giết thịt chó
cho nhà hàng mỗi lần bắt tay làm việc
ông thường nói với con chó: “Hóa kiếp
cho mày, sang kiếp sau tốt hơn kiếp
trước!”. Chỉ một câu nói đơn giản ấy thôi
người ta cũng có thể thấy được tấm lòng
của người đàn ông ấy, phải giết chó vì
công việc bắt buộc nhưng ông luôn hy
vọng mỗi chú chó qua tay ông có thể đến
với kiếp sau tốt đẹp hơn.
Ở Việt Nam còn có khách sạn, nghĩa
trang cho chó. Hàng năm người ta vẫn tổ
chức lễ cầu siêu cho những con chó đã
mất để tưởng nhớ đến chúng cũng như
mong chúng có thể được siêu thoát.
Những hành động như vậy còn có nguyên
nhân nào ngoài việc xuất phát từ tình yêu
chó tận đáy lòng?
Người ta có thể luôn miệng kêu gọi
không ăn thịt chó, thậm chí tẩy chay thịt
chó, nhưng với những hành động không
xuất phát từ tình cảm chân thành thì mọi
việc sẽ chỉ được tiến hành theo phong
trào, bề nổi và không thật sự mang lại
hạnh phúc cho những con chó.
Thế nên nói chó Việt Nam hạnh phúc là
rất đúng bởi nó đã được yêu thương chân
thành và thậm chí tình yêu thương ấy còn
được cụ thể hóa thành những hành động
được cả xã hội quan tâm.
Nhiều người cứ thắc mắc không biết tại
sao đất nước nghèo như Việt Nam lại có
mặt ở vị trí cao trong bảng xếp hạng hạnh
phúc và rồi đi tìm đủ những nguyên nhân
xa xôi để lý giải. Nhưng có lẽ nếu mọi
người để ý sẽ thấy những điều rất bình dị
có thể lý giải cho chỉ số hạnh phúc cao
của nước ta như việc không chỉ con
người hạnh phúc khi sống ở Việt Nam
mà cả chó cũng tìm được rất nhiều niềm
hạnh phúc cho mình tại đây.
Khi các lãnh tụ biết
cười mình…
“Tôi nghĩ mình khôn ngoan quá nên
đôi khi tôi không hiểu một lời nào
mình nói ra”
(I am so clever that sometimes I don’t
understand a single word of what I am
saying.)
Oscar Wilde
Khi đứa con trai thứ hai của tôi ra đời
tại California vào giữa thập niên 70s,
các bạn bè chia mừng đây là đứa đầu
tiên của gia đình có điều kiện ứng cử vào
chức vụ Tổng thống Mỹ. Hiến pháp đòi
hỏi ứng viên Tổng Thống Mỹ phải là một
công dân Hoa Kỳ thực thụ ngay khi sinh
ra. Thực tình, tôi luôn luôn nghĩ làm
Tổng Thống Mỹ là một “cực hình” như
bị một lời nguyền đen tối; hơn là một
hãnh diện may mắn.
Nhìn tất cả những ông Tổng Thống Mỹ
tương đối trẻ và sung sức gần đây của
Hoa Kỳ, như Obama, Bush, Clinton,
Carter… người ta thấy rõ ràng là những
áp lực lớn lao không ngừng nghĩ từ mọi
phía đã làm các ông này “già rất sớm”.
Sau vài năm đầu của nhiệm kỳ, dù chỉ ở
lứa tuổi trên dưới 50s, mái tóc các ông
bạc phơ, vết nhăn đầy trên khuôn mặt
nhiều phần đã teo tóp… mặc dù những
con người nhiều quyền lực nhất thế giới
đang được những vị bác sĩ giỏi chăm sóc
thật chu đáo, 24 giờ một ngày.
Đây chắc chắn không phải là dấu hiệu
của một đời sống hạnh phúc, sung mãn
và hài hòa.
Có lẽ vì những âu lo, dằn vặt, suy tư…
từng giây phút, đã khiến các Tổng Thống
Mỹ phải tìm cách ứng phó để sống sót,
nên họ đều chia sẽ một thói quen rất đáng
yêu: họ biết tự “diễu” mình, đem cá nhân
mình ra cười đùa trước công chúng, cho
thấy một khía cạnh rất “con người” của
họ. Nhiều bài diễn vẫn ở những bữa tiệc
cho cổ động viên, bạn bè, thân hữu, đồng
nghiệp… luôn luôn bắt đầu bằng những
câu chuyện khôi hài (jokes) về chính bản
thân mình hay những chuyện đã được các
chuyên gia “cười” của các mạng truyền
thông rỉ tai.
Obama thích cười về nguồn gốc da đen
của mình, có lần ông hỏi người nghe là
bây giờ người ta có sử dụng đúng từ ngữ
khi gọi Tòa Bạch Ốc là White House?
Một lần khác, ông nói về một cái joke
đang thịnh hành trên mạng… Trong một
buổi sáng chạy bộ ở Alabama, ông
Obama chẳng may bị rớt xuống con sông
sâu, đang cuồn cuộn chảy. May sao, có
ba đứa trẻ đang câu cá dưới giòng, nhanh
trí dùng cành cây vớt ông lên được.
Obama hỏi tôi làm được gì cho các ân
nhân đã cứu mạng tôi đây? Đứa trẻ đầu
mong được thăm Tòa Bạch Ốc và ngủ
đêm tại đó. Đứa thứ nhì mong ông
Obama đến lớp học mình, bắt tay các
bạn đồng lớp. Obama nói quá dễ dàng,
ông sẽ làm như vậy. Còn đứa thứ ba thì
lại xin ông 1 chiếc xe lăn, có gắn IPod,
IPad và TV 3-D để cậu ta giải trí.
Obama nói ông không hiểu, em đang
khỏe mạnh thế này, sao lại muốn ngồi xe
lăn? Cậu ta đáp, “Bây giờ thì khỏe,
nhưng sau khi cha tôi biết tôi là người đã
cứu sống ông, thì chắc chắn ông ta sẽ bẻ
gãy giò của tôi.”
Ông Bush thì luôn bị chế giễu về trí tuệ
cũng như kiến thức của mình về thế giới.
Sự kiện ông bị ghét bỏ vì các chính sách
tại Iraq, Afghanistan… cũng là một đề
tài thường trực cho các jokes về cá nhân
mình. Nhưng thú vị nhất là câu chuyện
khi ông đi thăm một lớp tiểu học và cô
giáo hỏi các học trò, “Mình đang học về
thảm kịch (tragedy). Em nào cho tôi một
thí dụ.” Một em nhanh nhảu ”Em chạy ra
đường chơi và bị xe đụng?” “Không, đó
là một tai nạn, không phải thảm kịch”
Một em khác” Xe buýt của trường rơi
xuống hố và nhiều học sinh bị tử nạn?”
Đó là một mất mát lớn lao (great loss)
nhưng chưa là thảm kịch”. Đứa thứ ba
giơ tay ” Khi Tống Thống Bush rớt máy
bay chết?” “Đúng rồi, nhưng đâu là lý do
sao em nghĩ đây là thảm kịch?” ” Vì chắc
chắn nó không phải là một tai nạn, hay là
một mất mát lớn lao.”
Ông Clinton thì mỗi đêm bị các danh hài
trên TV đem ra chế giễu về tật xấu thích
lăng nhăng với các phụ nữ ngoài luồng,
như cô trợ tá Lewinsky. Trước mặt ông,
nhà phỏng vấn Jay Leno kể lại một khảo
sát của viện thống kể Gallup, về câu hỏi
đặt ra cho các phụ nữ, “Cô có chịu ngủ
với Tổng Thống Clinton?” Kết quả là
1% nói “yes”, 2% nói “no” và 97% nói
“không thể có lần khác (never again)”.
Một chuyện khác là khi bà Clinton đi
khám sức khỏe, bác sĩ báo cho biết là bà
vừa có bầu. Bà giận quá, vì tuổi đã lớn,
còn đang làm vợ Tổng Thống mà có bầu
không kế hoạch, chắc thiên hạ nhạo bang
thường trực. Bà bốc phone kêu Clinton,
“Quỷ râu xanh, ông có biết là vừa làm
cho bà có bầu hay không?” Điện thoại im
bặt một lúc lâu, mới nghe Tổng Thống
nhỏ nhẹ hỏi ,”Bà là ai vậy?”.
Tổng Thống thích cười và kể chuyện
cười nhiều nhất là ông Reagan. Vốn là
một diễn viên điện ảnh, nên ông rất
thuyết phục trong các bài diễn văn, tranh
luận. Nhưng điều làm dân chúng ái mộ
ông nhất là khả năng tự cười rất duyên
dáng trong mọi trường hợp. Sau khi tỉnh
dậy trong một cuộc mưu sát, người ta hỏi
ông cảm thấy thế nào? Ông nói, “ít nhất
là tôi không phải sống ở Cleveland.” Sau
ông phải xin lỗi người dân Cleveland về
lời diễu này.
Một lần khác, khi hỏi về nạn lạm phát
vừa thừa hưởng từ Tổng Thống Carter,
ông ví von về câu chuyện một Trung Sĩ
đang làm trắc nghiệm về khả năng ứng
phó của các tân binh. Anh Trung Sĩ hỏi
người lính,” Anh đang điều khiển hệ
thống xe hỏa ở nhà ga Arlington. Một
con tàu từ phía Bắc khoảng 15 km đang
chạy đến nhà ga với tốc độ 60 km một
giờ. Trên cùng một đường sắt, một con
tàu từ phía Nam chỉ cách ga có 10km,
đang chạy ngược đường trên cùng đường
ray, với tốc độ 50km một giờ. Anh se
phải làm gì?” “Tôi phone về nhà kêu
thằng em trai Billy chạy ra nhà ga gấp.”
“Tại sao? Billy là một thần đồng về toán
học và quản lý tình thế?””Không, hắn chỉ
mới 14 tuổi, nhưng hắn chưa bao giờ
thấy hai xe lửa đụng nhau cả.”
Ông Kennedy xuất thân từ một gia đình
giàu có, quyền lực nên ông luôn phải đối
phó với lời phê bình là gia đình ông
đang cố gắng mua cho ông chiếc ghế
Tổng Thống. Trong cuộc tranh cử ở West
Virginia, ông bắt đầu bài diễn văn bằng
cách móc trong túi ra một điện tin ông
nói vừa nhận được từ ông cha,” Con chỉ
nên mua vừa đủ phiếu để thắng thôi. Cha
sẽ rất bực nếu phải trả tiền cho một
landslide (một kết quả mà ứng viên thắng
đối thủ quá đậm).”
Trong suốt lịch sử chỉ 200 năm của Mỹ,
những chuyện cười về Tổng Thống hay
chuyện cười do các ông kể có thể chứa
đầy cả ngàn trang sách. Tôi cho đây là
nét đặc thù quý báu nhất của nền dân chủ
Mỹ. Ngay cả một khai quốc công thần
như Washington cũng đầy những chuyện
vui buồn về lỗi lầm, hối tiếc hay ngu
xuẩn của cá nhân cũng như của chánh phủ
do ông lãnh đạo. Đây mới thực sự là
những công bộc của dân, vì dân và cho
dân (of the people, by the people, for the
people). Không ai có một ảo tưởng mình
là thần thánh phải được tôn vinh và thờ
phụng. Mọi thành tựu cũng như thất bại,
lầm lẫn… đều được mổ xẻ chi tiết bởi
nhiều học giả, bây giờ và tương lai, ngay
cả trong những chuyện riêng tư của đời
sống cá nhân. Khả năng biết tự diễu mình
được đánh giá cao vì nó tạo sự gần gủi
giữa nhà lãnh đạo và các người dân
thường.
Tôi rất sợ những người lãnh tụ nghiêm
nghị, khắc khổ và không biết cười. Như
một đứa bé sợ những ác thần trong các
truyện cổ tích. Trong các câu chuyện lịch
sử, tôi để ý là những nhân vật như Tần
Thủy Hoàng, Hitler, Kim Il Sung, Pol
Pot… không bao giờ biết cười. Có lẽ vì
họ quá bận rộn với sứ mạng thiêng liêng
là phải biến cả dân tộc thành những cỗ
người máy (robots) để phục vụ cho lý
tưởng cao vời vợi của họ (cao quá nên ít
người thấy hay hiểu).
Cho nên, mỗi khi đi vào phòng phiếu bầu
cử ở Mỹ, nếu không biết rõ về các ứng
cử viên, tôi sẽ chọn một khuôn mặt tươi
cười, dễ chịu, thư giãn và thú vị. Những
khuôn mặt táo bón, làm dáng quan trọng
và ăn mặc đúng thời trang… là những lá
phiếu thấy nhiều trong sọt rác, vì các cử
tri khác cũng thường có đồng quan điểm
như tôi.
Tôi nghĩ nếu có một học giả nào tìm sự
liên quan giữa chỉ số hạnh phúc của
người dân và khả năng biết “cười” của
các lãnh tụ xứ họ, kết quả sẽ là một tỷ lệ
thuận minh chứng qua suốt bao thời đại.
Và ngược lại.
Một người làm
quan cả họ được
nhờ
Hiện tượng một người làm quan, cả họ
được nhờ đã tồn tại suốt 10 ngàn năm
trong lịch sử nhân loại, qua mỗi thời
đại và không gian. Từ vị vua chúa ở
đỉnh cao đến ông trưởng thôn ở một
quận hẻo lánh, lợi dụng quyền lực của
mình để gia đình cùng hưởng lợi, nhất
là vợ con, đã trở thành một thói quen
như ăn uống hay giải trí.
Hơn 40 năm trước, khi tôi tốt nghiệp đại
học ở Mỹ, do nhu cầu về nhân viên cấp
cao vượt qua nguồn cung, nên các công
ty Mỹ lớn có thói quen gởi người đến
các đại học để tuyển mộ “nhân tài”.
Những sinh viên ở Top Ten (10% đứng
đầu sổ) tha hồ lựa chọn công việc và chỗ
làm theo sở thích. Vào thời điểm đó, các
cơ quan chánh phủ cũng cho người đến
các trường để tìm nhân viên. Nhưng họ
chỉ vớ được những sinh viên học dở,
nằm ở cuối sổ, vì làm việc cho chánh
phủ được coi là nhàm chán, lương thấp,
không có cơ hội để tỏa sáng và dành cho
những anh sinh viên “hơi ngu dốt”, “kém
may mắn”.
Tôi lớn lên trong bối cảnh Việt Nam, nơi
mà các nhà xã hội học thường quan sát là
“mỗi người Việt Nam là một ông quan
nhỏ (each Vietnamese is a little
mandarin). Cho nên, đây là một nghịch lý
tôi phải thay đổi tư duy để làm quen: ở
nước mình, con đường hoạn lộ là con
đường duy nhất để vươn lên trên xã hội.
Ở những xã hội dân chủ Âu Mỹ thời đó,
làm quan đã bị coi là mạt vận; còn nếu
lêu lỏng, không lo học hành, đào tạo cho
mình kỹ năng bài bản hay trí thức thâm
sâu, thì con đường duy nhất đi đến tương
lai chỉ có thể là đi… làm lính (quân đội
hoăc cảnh sát).
Có lẽ đây là tư duy của cha mẹ ông
Hosni Mubarak khi ông không được học
làm bác sĩ kỹ sư, mà phải vào quân đội.
Tuy nhiên, trái với mọi tiên đoán, khi
phải buộc từ chức và giao quyền Tổng
Thống Ai Cập lại cho người khác, sau 65
năm, ông Mubarak bây giờ có thể về hưu
với 1 tài sản lớn hơn Bill Gates (ước
tính khoảng 70 tỷ US dollars) và cả gia
đình ông, kể cả hai người con, đều là
những tỷ phú dựa trên tài sản riêng của
họ. Trong khi đó, 40% dân nghèo Ai Cập
phải lo lắng từng bữa ăn với một lợi tức
trung bình chừng 2 dollars một ngày cho
mỗi đầu người.
Trường hợp ông Mubarak không phải là
đơn lẽ. Hiện tượng “một người làm quan,
cả họ được nhờ” đã tồn tại suốt 10 ngàn
năm trong lịch sử nhân loại, qua mỗi thời
đại và không gian. Khởi đầu là các chế
độ phong kiến với tập tục “cha truyền
con nối”, “trung thành với vua quan”, rồi
biến thành “chiến sĩ của các đại lãnh tụ”.
Dù mọi lý thuyết và thực tế đã chứng
minh sự lỗi thời lạc hậu của định kiến
này, nó vẫn được tiếp tục trấn đặt trên
người dân khắp nơi để bảo vệ quyền
hành của các chánh trị gia. Từ vị vua
chúa ở đỉnh cao đến ông trưởng thôn ở 1
quận hẻo lánh, lợi dụng quyền lực của
mình để gia đình cùng hưởng lợi, nhất là
vợ con, đã trở thành một thói quen như
ăn uống hay giải trí. Ngay cả những quốc
gia dân chủ văn minh ở Âu Mỹ, các quan
chức và gia đình quyền lực vẫn tìm đủ
mọi khe hở của pháp luật để phát huy
quyền hành và đặc lợi. Sự tham lam
không bao giờ chịu ngưng ở một thế hệ.
Mubarak không phải là vị lãnh tụ Ả Rập
đầu tiên muốn đưa con trai mình lên nối
ngôi Tổng Thống. Trước đó, Tổng Thống
Assad ở Syria đã thành công đưa con là
Bashar al-Assad lên vị trí “number one”.
Saddam Hussein chuẩn bị đầy đủ cho
con trai Qusay lên kế vị trước khi ổng bị
giết. Các ông lãnh tụ từ Muammar
Gadafy của Lybia, Ali Abdullah Salih
của Yemen, đến các vị vua ở Kuwait,
Bahrain, UAE, Saudi Arabia. luôn tìm
đủ cách để con cái được nối ngôi, dù
phải trả giá cao đến bao nhiêu, từ giá
hạnh phúc cho gia đình mình đến giá xã
hội cho nhân dân đang đói nghèo ngoài
dinh thự.
Qua đến Á Châu, tập tục cha truyền con
nối còn phổ thông hơn các nơi khác vì
triết lý Khổng Mạnh (quân sư phụ) đi
theo các chế độ phong kiến vẫn còn tồn
tại mạnh mẽ trong xã hội. Gần nhất thì có
ngài Chủ Tịch Kim Jong Il của Bắc Triều
Tiên vừa phong chức Đại Tướng cho con
trai 25 tuổi của mình (Kim Jong Un) để
chuẩn bị cho ông con lên nối ngôi khi
ngài nằm xuồng. Ngài cũng đã thừa
hưởng chức vụ lãnh tụ này suốt 30 năm
qua sau khi nhận lại quyền hành từ thân
phụ, ngài Kim Il Sung. Ở Đài Loan, khi
Tưởng Giới Thạch qua đời, con trai ông
là Tưởng Kinh Quốc thay thế nắm quyền
lãnh đạo đến năm 1988. Tại Trung Quốc,
thống kê của chánh phủ khi loan báo đã
làm sôi nỗi mạng lưới Net là sự kiện
90% các tỷ phú (US dollars) mới của
Trung Quốc theo danh sách Forbes 2009
là “con ông cháu cha” của các cựu lãnh
tụ trung ương hay còn gọi là các hoàng tử
đỏ (princelings) (a). Tuy vậy, các lãnh tụ
Trung Quốc khôn ngoan hơn các xứ
khác: họ cho con cái thay đổi tên họ để
tránh sự nhận biết quá rõ ràng về những
liên hệ gia đình.
Ngay cả một xứ dân chủ tự do như Mỹ,
ông George W Bush đã dùng bộ máy
tranh cử và cố vấn của cha để tranh cử
và đắc cử Tổng Thống vào năm 2000 và
2004. Trong lịch sử Mỹ, dù không kế vị
trực tiếp, nhưng Tổng Thống John
Quincy Adams là con của cựu Tổng
Thống John Adams. Những gia đình khác
có sự tập trung quyền lực chánh trị nỗi
tiếng của Mỹ là gia đình Kennedy ở
Massachusetts, gia đình Daley ở
Chicago, gia đình Brown ở California…
Nhưng phải công bằng mà nhận định là
các người con chính trị gia ở Mỹ phải
trải qua những kỳ vận động tranh cử rất
mệt nhọc để kiếm phiếu từ người dân,
chứ không được trao vương miện bằng
một sắc lệnh như tại các xứ khác.
Dĩ nhiên, người dân thường không ngu
dốt đến độ không nhận ra nhũng áp đặt
bất công và phi lý này. Tuy nhiên, cả
mấy chục năm nay, những người dân ở
Ai Cập, Tunisia hay Algeria quá nghèo,
lây lắt với miếng cơm manh áo, để lưu
tâm đến những trò bịp bợm. Nghịch lý là
chỉ khi Ai Cập, Tuniasia và Algeria đạt
được một mức thu nhập GDP trên đầu
người cao hơn và có thì giờ tiền bạc tiêu
xài cho những phương tiện truyền thông
hiện đại hơn, thì làn sóng phản kháng
mới lan rộng trong nhiều tầng lớp trung
lưu. Nhiều giả thuyết cho rằng, nếu GDP
của Ai Cập đừng tăng trưởng trung bình
7% mỗi năm như trong 10 năm qua, thì
dân Ai Cập vẫn còn ngoan ngoãn như
một đàn cừu, lo mưu sinh, nhịn nhục
trong gộng kềm sắt đá của các cơ quan
công an mật vụ.
Nếu các lãnh tụ độc tài ngày nay quay
ngược thời gian và có cơ hội tư vấn từ
Machiavelli (quân sự chính trị lỗi lạc
nhất thời Trung Cổ), họ sẽ nhận lời
khuyên như sau, “Đừng để dân giàu
nhanh, đừng để dân khôn biết hơn và
đừng để dân có thì giờ nhàn rỗi. Quyền
lực của các ngài sẽ lâm nguy đó.” Tôi
không biết có nhà chính trị nào ở Trung
Quốc khuyên chánh phủ là phải giữ mức
độ tăng trưởng GDP dưới 1% trong 20
năm tới, để tránh mọi rắc rối, như bài
học Ai Cập, Tunisia đã dạy?
Tối qua, khi coi BBC về một phân tích
các nguyên nhân của cuộc cách mạng ở
Ai Cập, một người bạn gởi cho tôi một
đoản văn về Zen (Thiền).
“Một anh mù đến từ giã bạn mình. Người
bạn cho anh một cây đèn lồng. Anh mù
cười hỏi:
- Tôi đâu cần đèn lồng. Với tôi, sáng hay
tối có gì khác nhau?
- Tôi biết. Nhưng nếu không mang nó
theo, trong bóng tối người khác có thể
đụng vào anh
- Ồ, vậy thì được.
Đi được một đoạn, bất ngờ anh mù bị
một người đâm sầm vào. Bực mình, anh
ta quát:
- Bộ không thấy đèn hả?
- Đèn của ông đã tắt từ lâu rồi mà.”
Suy nghĩ cho cùng, Bắc Triều Tiền sẽ là
một nước ở chế độ chính trị ổn định nhất
thế giới.
Alan Phan (*)
Chú thích: (a) Collard, Tim, 2009,
Chinese princelings: the cover-up gets
more difficult, The Telegraph, UK,
10/08/2009.
Bỏ cuộc trước khi
tới đích là thất bại
Thượng Tùng thực hiện
Alan Phan, Chủ tịch Quỹ đầu tư Viasa
Fund, là một doanh nhân giàu kinh
nghiệm với hơn 40 năm lăn lộn trên
thương trường quốc tế. Năm 1987, ông
là Việt kiều đầu tiên đưa công ty của
mình là Hartcourt niêm yết trên sàn
chứng khoán Mỹ. Năm 1999, thời điểm
thị giá của Hartcourt là 670 triệu
USD, cũng là lúc ông quyết định rời
công ty, tập trung lấy hai bằng tiến sĩ
tại Mỹ và Anh, rồi thành lập quỹ đầu
tư gia đình Viasa năm 2001, đặt trụ sở
tại Hồng Kông. Hiện tổng danh mục
đầu tư của quỹ này là 62 triệu USD.
Giờ đây, dù đã sang tuổi 65, nhưng
người đàn ông này vẫn xuôi ngược, mê
mải với công việc làm ăn.
Sau bảy năm du học tại Hoa Kỳ theo
chương trình học bổng của UNSAID,
Alan Phan trở lại Sài Gòn năm 1970.
Ngoài công việc giảng dạy tại Trường
Kỹ thuật Phú Thọ, ông còn tham gia
thành lập một số công ty liên doanh với
nước ngoài, như Dona Foods, Foremost
Dairies (nay là Vinamilk), Mekong Can,
… với hơn 18 ngàn nhân viên. Sau ngày
đất nước thống nhất, các cơ sở kinh
doanh của ông đều bị sung công. Bỏ lại
tất cả, ông qua Mỹ với vỏn vẹn 400 USD
trong túi. Cuộc trò chuyện giữa chúng tôi
cũng bắt đầu từ cột mốc này. Ông nói:
Lần thứ hai qua Mỹ, tôi làm việc cho
Công ty đa quốc gia Eisenberg, rồi
chuyển qua Polaris Leasing – một công
ty con của GE Capital, chuyên cung cấp
dịch vụ cho thuê máy bay. Đặc thù công
việc đòi hỏi tôi phải di chuyển liên tục,
bởi trung bình mỗi quốc gia chỉ có một
đến hai hãng máy bay. Năm 1983, tức là
sau tám năm đi làm thuê, tôi quyết định
ra riêng, thành lập Hartcourt, phần vì quá
mệt mỏi, phần khác vì cũng muốn thử sức
mình.
Lần thử sức đó như thế nào?
Chúng tôi liên doanh với Magic Marker,
xây dựng một nhà máy sản xuất bút ở
Trung Quốc. Tuy nhiên, dự án này không
thành công. Đến năm 1987, chúng tôi
đưa Hartcourt lên sàn chứng khoán Mỹ,
để gây vốn. Nhờ vậy, chúng tôi mua lại
một công ty ở Mexico, chuyên cung cấp
hộp cáp tivi cho General Instrument,
công ty con của Motorola. Sản phẩm của
chúng tôi chiếm 70% thị phần Hoa Kỳ,
doanh thu rất cao, nhưng phần lời không
đáng kể, nếu không muốn nói là rất thấp.
Làm gia công ở đâu cũng vậy thôi, người
ta chỉ trả cho mình một khoản tiền đủ
giúp mình tồn tại, để tiếp tục nai lưng ra
làm.
Có vẻ như câu chuyện gia công đang
được tái hiện tại Việt Nam. Gần đây, một
số nghiên cứu đã chỉ ra rằng khối doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI)
đạt hiệu quả thấp nhất về hai phương
diện: sử dụng lao động và công nghệ?
Tôi nghĩ tình trạng dòng FDI đổ vào Việt
Nam hiện nay cũng tương tự như Trung
Quốc cách nay 15 năm. Đó là một tiến
trình mà mình phải chấp nhận. Mối quan
tâm duy nhất của các nhà đầu tư là hiệu
quả của đồng vốn. Khi công nghệ lạc
hậu, nhân công giá rẻ không còn là lợi
thế cạnh tranh thì doanh nghiệp sẽ tự
khắc phải điều chỉnh, tăng cường đầu tư
vào công nghệ và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực. Vốn nước ngoài cần
thiết cho nền kinh tế. Việc kiểm soát
FDI, theo tôi, chỉ nên căn cứ trên hậu quả
từ hoạt động của doanh nghiệp đối với
môi trường. Đây cũng chính là cái giá
Trung Quốc phải trả cho quá trình tăng
trưởng kinh tế của mình.
Ông có thể nói rõ hơn…
Tôi nghĩ nên tiếp cận những con số
Trung Quốc công bố từ nhiều phương
diện. Thế giới rất ấn tượng với con số
2.000 tỉ USD dự trữ ngoại hối của Trung
Quốc. Nhưng theo một bài báo mà tôi
đọc cách nay ít bữa, thì để khôi phục lại
môi trường, quốc gia đông dân nhất hành
tinh này cần khoảng 2.500 tỉ USD. Do
đó, tiên lượng được cái giá phải trả là
vô cùng quan trọng đối với chính phủ
trước khi đưa ra những quyết sách.
Nói tiếp dự án của chúng tôi tại Mexico.
Năm 1994, nhận thấy hiệu quả kinh tế
thấp từ việc gia công cho General
Instrument, chúng tôi bán nhà máy, quay
lại thị trường Trung Quốc, đầu tư vào
ngành công nghệ thông tin do sự xuất
hiện của Internet.
Tại sao không phải là Mỹ, một thị trường
có hạ tầng tốt hơn?
Nhận diện lợi thế cạnh tranh của mình là
một yếu tố rất quan trọng đối với tôi khi
kinh doanh. Thị trường công nghệ thông
tin ở Mỹ cạnh tranh rất khắc nghiệt. Còn
Internet ở Trung Quốc lúc đó còn đang
trong giai đoạn phôi thai, mới có khoảng
10 triệu người sử dụng Internet. Đến năm
1999, dưới Hartcourt đã thành lập được
mười mấy công ty nhỏ, kinh doanh nhiều
lĩnh vực, từ giáo dục cho đến mua bán
qua mạng…
Tuy nhiên, thất bại của tôi là không kết
hợp được các công ty con lại với nhau,
tạo thành sự cộng hưởng, nên không cạnh
tranh được với một số công ty nội địa.
Họa vô đơn chí, đúng lúc đó “bong bóng
Dot-com” (bong bóng cổ phiếu của các
công ty công nghệ cao – PV) vỡ, tài
chính khó khăn, còn Hartcourt vướng vào
vụ kiện tụng với Sở Giao dịch Chứng
khoán New York… buộc tôi tái cấu trúc
Hartcourt thành năm công ty nhỏ, tiếp tục
niêm yết trên sàn Mỹ trước khi thoái vốn.
Năm 2001, tôi thành lập Viasa Fund, đặt
trụ sở tại Hồng Kông.
Có vẻ như ông rất ưu ái thị trường Trung
Quốc?
Tôi đầu tư vào Trung Quốc vì thời gian
còn làm việc cho Eisenberg, tôi đã lăn
lộn ở thị trường này và gầy dựng được
một số mối quan hệ. Tôi cũng biết người
Trung Quốc rất giỏi làm ăn, đặc biệt là
tinh thần doanh nhân của họ, rất ghê gớm.
Tôi đã chứng nghiệm được điều này khi
bán nhà máy ở Mexico, đầu tư vào Trung
Quốc năm 1983. Dù bị chính quyền kiểm
soát gắt gao nhưng họ vẫn vượt khó để
làm ăn thành công.
Tinh thần doanh nhân mạnh mẽ là một
yếu tố quan trọng. Nhưng kinh tế thị
trường cũng là một xu hướng không thể
kiềm hãm?
Không có kinh tế thị trường thì không có
sự phát triển. Nói cho cùng, con người là
sinh vật tham lam. Sự tham lam đó hình
thành trong lịch sử phát triển của loài
người, trở thành bản chất cố hữu, không
thay đổi. Một nền kinh tế không phải thị
trường, dù có hiệu quả, thì cũng chỉ là
tạm thời, sớm hay muộn cũng bị chôn
vùi. Cũng chính sự tham lam đó là lý do
khiến kinh tế thị trường phát triển mạnh.
Thế nên, nếu tạo điều kiện để sinh vật
này tự làm giàu cho mình thì nó sẽ có rất
nhiều sáng tạo. Còn nếu kiềm hãm, định
hướng, lao động cho người khác hưởng
thì người ta chỉ làm chiếu lệ mà thôi.
Tôi nói giỡn với mấy người bạn Mỹ rằng
đáng ra người Mỹ phải dựng tượng ông
Mao Trạch Đông. Nhờ ông ấy kiềm hãm
kinh tế Trung Quốc hơn 40 năm nên Mỹ
mới có điều kiện để phát triển. Chứ nếu
thả ra cho tự do kinh doanh như Hồng
Kông thì bây giờ Trung Quốc đã là bá
chủ thế giới.
Một số ý kiến cho rằng việc Trung Quốc
trở thành bá chủ thế giới chỉ còn là vấn
đề thời gian…
Tôi tin rằng chừng nào còn duy trì một
nền kinh tế chỉ huy thì Trung Quốc không
thể trở thành siêu cường như mong muốn
của họ. Cũng giống như xe hơi, một
người nhấn ga, một người đạp thắng thì
chiếc xe chắc chắn sẽ vận hành một cách
xộc xệch.
Trong lời đề tựa cuốn sách Niêm yết sàn
Mỹ, ông viết: “Thực sự, niêm yết sàn Mỹ
dễ hơn sàn Việt từ phí tổn đến thời giờ”.
Hai yếu tố này là lý do khiến sàn Mỹ thu
hút được nhiều công ty niêm yết?
Lý do khiến sàn Mỹ hấp dẫn các công ty
niêm yết là bởi tính thanh khoản cao.
Còn thủ tục đơn giản là do cách tư duy
của Chính phủ Mỹ. Họ chỉ quan tâm
chuyện duy nhất là các công ty niêm yết
phải trung thực và minh bạch, đồng thời
tạo môi trường khuyến khích sự minh
bạch sinh sôi nảy nở. Mọi doanh nghiệp
niêm yết nếu bị phát hiện có hành vi gian
dối, bớt xén hoặc cung cấp thông tin sai
lệch đều bị trừng phạt rất nặng, thậm chí
truy tố. Việc phát hiện hành vi gian dối
khá dễ dàng. Bởi ngoài hàng trăm, hàng
ngàn cổ đông, việc giám sát doanh
nghiệp niêm yết còn có sự góp mặt của
các chuyên gia phân tích với sự tiếp tay
nhiệt tình của báo chí… Nói nôm na là
trong một căn phòng đèn đuốc sáng
choang, mọi người dòm ngó lẫn nhau, thì
việc che giấu những hành vi gian lận là
rất khó. Mọi người cùng hướng tới sự
minh bạch vì sự minh bạch mang lại lợi
ích cho tất cả mọi người.
Sau hơn ba thập niên bươn chải ở nước
ngoài, ông quay lại Việt Nam thành lập
Công ty Thông tin Tài chính Vi Phi
(Vifinfo). Ông nhìn thấy cơ hội gì từ thị
trường này?
Nhiều năm qua, tôi vẫn thường xuyên về
thăm quê hương. Ở đây, tôi còn nhiều bà
con, bạn bè. Thỉnh thoảng, tôi cũng có
những khoản đầu tư nho nhỏ theo lời
khuyên của một vài người, nhưng phần
lớn đều không thành công. Tôi muốn
nghiên cứu thị trường chứng khoán Việt
Nam. Nhưng thay vì mua lại thông tin thì
chúng tôi thành lập Vifinfo để tự nghiên
cứu và đánh giá. Chúng tôi xây dựng một
website về chứng khoán, bán terminals,
phần mềm có thông tin nghiên cứu cho
các nhà đầu tư cần, và tham gia sản xuất
tạp chí Thị trường Chứng khoán mỗi
tháng một số. Vifinfo hiện vẫn đang lỗ.
Lỗ nhiều không, thưa ông?
Chúng tôi đã đầu tư khoảng 1,2 triệu
USD và đến thời điểm này, vẫn chưa thu
được một đồng lời. Chừng nào chịu hết
nổi thì tôi buông. Nhìn chung, khoản đầu
tư này khá khiêm tốn trong tổng danh mục
đầu tư của quỹ Viasa Fund và cũng
không phải là vấn đề sinh tử. Thực ra,
hoạt động kinh doanh của tôi chủ yếu vẫn
là thị trường Mỹ và Trung Quốc. Về
phần mình, tôi cũng không đặt nhiều kỳ
vọng vào thị trường này.
Tức là ông đã chuẩn bị sẵn sàng cho
mình tình huống thất bại?
Trong hơn 40 năm đi làm, tôi chưa thấy
một trường hợp nào thành công một cách
êm thắm. Ông Eisenberg, Chủ tịch Tập
đoàn Eisenberg, có nói một câu mà tôi
nhớ hoài: “Khi anh bị té thì cố gắng ngửa
mặt lên. Chừng nào anh còn ngẩng mặt
lên thì anh còn có thể trỗi dậy”. Thực tế
là tôi cũng đã một vài lần trắng tay,
nhưng không xem đó là thất bại.
Vậy thì, với ông, như thế nào mới là thất
bại?
Với tôi, bỏ cuộc trước khi tới đích là
thất bại. Tôi chưa bỏ cuộc nghĩa là tôi
chưa thất bại.
Còn sự thành công?
Tôi quan niệm một người thành công
trong cuộc sống phải hội đủ sáu yếu tố.
Thứ nhất là có sức khỏe. Thứ hai, trí tuệ
đầy đủ. Thứ ba, tinh thần mạnh mẽ, sáng
suốt. Thứ tư, tâm linh mình được thanh
nhàn, êm ả, hòa hợp với vũ trụ, với đấng
tối cao nào đó. Thứ năm, trả ơn xã hội
bằng những đóng góp thiết thực. Sau
cùng, có tài sản vật chất đầy đủ. Thiếu
bất kỳ yếu tố nào trong sáu yếu tố này thì
chưa phải toàn vẹn.
Có cầu toàn quá không?
Đúng là khó ai có thể đạt được sáu yếu
tố này một cách trọn vẹn. Một ngày thành
công và hạnh phúc là ngày mình cải thiện
được một vài yếu tố trong đó. Còn ngày
nào không có sự cải thiện thì là một ngày
vô dụng. Tức là so sánh mình ngày hôm
nay với ngày hôm qua.
Từ giác độ của một nhà đầu tư, ông đánh
giá thế nào về môi trường làm ăn ở Việt
Nam hiện nay?
Việt Nam khá giống với Trung Quốc
cách nay 15 năm, vẫn đang dùng dằng
giữa thể chế kinh tế thị trường và kinh tế
chỉ huy của Nhà nước. Sự không rõ ràng
này khiến các nhà đầu tư nước ngoài
không tiên liệu hết được rủi ro khi cần ra
những quyết định quan trọng, khiến việc
kinh doanh bị chi phối quá nhiều bởi yếu
tố may rủi. Đó là vấn đề khiến các nhà
đầu tư e ngại nhất. Còn Trung Quốc thì
rõ ràng hơn. Viễn thông, xuất bản, quốc
phòng hay những lĩnh vực liên quan đến
an sinh xã hội như điện, nước… vẫn do
Nhà nước độc quyền kiểm soát. Nhưng
các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, hàng
xuất khẩu, công nghệ cao, ngân hàng…
thì được phép hoạt động theo quy luật
của kinh tế thị trường. Việt Nam chưa
được như vậy.
Nếu cần một khuyến nghị để thu hút FDI,
ông sẽ nói…
Trung bình mỗi năm các nhà đầu tư nước
ngoài giải ngân khoảng 70 – 100 tỉ USD
vào các dự án tại Trung Quốc. Trong khi
đó, những công ty Trung Quốc niêm yết
trên sàn Mỹ hiện nay đã thu hút được
khoảng 1.000 tỉ USD. Chính phủ Trung
Quốc đã nhận ra được điều này nên họ
có nhiều động thái khuyến khích các
doanh nghiệp niêm yết trên sàn giao dịch
nước ngoài. Xét cho cùng thì đây cũng là
một hình thức thu hút đầu tư nước ngoài.
Dù Chính phủ Việt Nam đã có nhiều cố
gắng trong cải cách hành chính, tạo nhiều
thuận lợi cho những nhà đầu tư nhưng để
mang vốn đầu tư vào Việt Nam, họ vẫn
phải vượt qua rất nhiều rào cản, chờ dự
án được phê duyệt, rào cản pháp lý…,
khiến tốn kém về thời gian và chi phí.
Trong khi đó, nếu công ty Việt Nam niêm
yết trên sàn giao dịch quốc tế, nhà đầu tư
có thể dễ dàng đầu tư vào trong năm giây
đồng hồ, bằng cách mua cổ phiếu của
công ty. Vấn đề thứ hai, cũng rất quan
trọng đối với các nhà đầu tư, là tốc độ
thoái vốn. Khi cần rút vốn, nhà đầu tư
cũng chỉ cần một thao tác là đặt lệnh bán
cổ phiếu của doanh nghiệp mà họ đang
nắm giữ. Thêm nữa, một công ty đã niêm
yết, thí dụ như sàn Nasdaq, thì bản thân
doanh nghiệp cũng không cần phải mất
thì giờ tìm kiếm, trình bày, thuyết phục…
các nhà đầu tư.
Một vấn đề khiến nhiều nhà đầu tư nước
ngoài quan tâm là liệu Chính phủ Việt
Nam có thể kiểm soát lạm phát ở mức
7% như chỉ tiêu Quốc hội đề ra. Ông
thấy sao?
Tôi luôn hoài nghi về những con số, chỉ
số mà các chính phủ công bố, không
riêng gì Việt Nam. Cũng giống như việc
chi tiêu của một gia đình, kiếm được năm
đồng mà xài mười đồng thì chắc chắn
phải mang nợ, không gặp rắc rối hôm nay
thì ngày mai sẽ gặp rắc rối, mặc dù trong
ngắn hạn có thể vay nợ chỗ này chỗ khác.
Mỹ là một trường hợp điển hình. Chính
quyền của Tổng thống Barack Obama
đang xài quá nguồn thu của mình. Việc
này là một lối tự sát từ từ.
Ngoài công việc kinh doanh, được biết
ông còn tham gia giảng dạy tại hai trường
đại học Fudan và Tongji ở Trung Quốc.
Đi dạy học với ông là…
Giờ dạy của tôi rơi vào ngày cuối tuần
nên cũng không ảnh hưởng nhiều đến
công việc. Thực ra, lý do khiến tôi đi
dạy là để học.
Học gì?
Đi dạy là dịp để tôi phải hệ thống lại
kiến thức cũ, đồng thời mình phải nghiên
cứu, phát triển thêm. Sau khi tham gia
vài ba khóa, hiện tôi đã chấm dứt công
việc này.
Vì hết cái để học?
Thành thực, tôi không thích sinh viên
châu Á vì họ thường rất thụ động. Vào
lớp là nghe thầy giảng từ đầu đến cuối,
trong khi tôi đòi hỏi sinh viên phải đọc
sách trước khi tới lớp. Thông thường, tôi
chỉ dành khoảng 20 phút để giải thích
những vấn đề mà họ không hiểu, thời
gian còn lại để dành cho sự tranh biện.
Sách chưa chắc đã đúng, những gì tôi
hiểu chưa chắc đã đúng. Muốn học có
hiệu quả thì phải có sự tranh biện. Chính
sự thụ động của sinh viên khiến tôi hết
hứng thú.
Cách nay hơn 40 năm, ông cũng là sinh
viên Á Đông?
Hoài nghi là một phẩm chất cần thiết để
tiến xa trên con đường học vấn. Tôi thích
sự tranh biện vì nó tạo ra sự kích thích
về trí tuệ, chứ không phải vì tôi ương
bướng. Vì vậy nên thời đi học, tôi được
một số thầy rất thích, nhưng cũng có một
số thầy không thích.
Gác lại chuyện công việc. Người ta nói
biết làm thì cũng phải biết chơi. Còn ông
thì sao?
Tôi cũng ham chơi. Những thú chơi của
tôi khá đơn giản. Một buổi chiều thư thả
ngồi nghe những bản nhạc cổ điển mình
yêu thích, đọc một cuốn sách, đi bơi,
lang thang vô rừng hoặc đi ăn với bạn bè
là đủ vui. Những thú chơi không tốn kém,
làm tôi tự tin hơn, bởi ngay cả những khi
túng quẫn nhất, tôi vẫn có thể chơi hoài.
Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện này.
Những cách mất
tiền khi ra biển lớn
Nhiều doanh nhân VN rất hồ hởi khi
chi tiêu ăn nhậu hay bỏ tiền mua quà
cáp, nhưng lại rất keo kiệt khi phải trả
tiền phí tư vấn. Phần lớn xem các
chuyên gia tư vấn là những người bán
nước bọt, không xứng đáng với những
phí đòi hỏi, và cố gắng tìm mọi cách để
nhận các khuyến nghị gần như miễn
phí.
Tôi còn nhớ một trải nghiệm kinh hoàng
về biển lớn. Tôi được một đại gia mời ra
khơi đi Bermuda trên 1 du thuyền khá
lớn, một ngày đẹp trời vào năm 2002,
khởi hành từ Key West, Florida. Giữa
đường, một con sóng kỳ dị (freak wave),
cao 20m, đánh vào thuyền, gây nhiều
thiệt hại, suýt lật và đưa thuyền chúng tôi
đi lạc hướng đến gần bờ biển Cuba. Sau
cùng, chúng tôi được trực thăng của US
Coast Guard (Bảo vệ Hải Phận Mỹ) cứu
và đưa về lại Miami. Tất cả xảy ra trong
một ngày nắng đẹp, không bảo tố, không
gió lớn, thật bất ngờ.
Tôi liên tưởng đến những tai nạn có thể
xảy đến khi một doanh nghiệp VN tìm ra
biển lớn (thị trường quốc tế). Chúng tôi
thoát hiểm nhờ du thuyền thuộc loại lớn
(Azimuth 102) và có 1 thuyền trưởng
kinh nghiệm quen thuôc với khu vực
Caribbean này. Nếu tôi ngồi trên một
chiếc thuyền nhỏ, mong manh, tay lái
không vững, thì có lẽ đã làm mồi cho đủ
mọi loại cá mập. Hay nếu đi vào những
cơn bão với sóng to gió lớn, liệu thuyền
mình có chống chọi nỗi?
Do đó, tôi không ngạc nhiên khi đọc các
bài báo gần đây về những “tai nạn” khiến
rất nhiều doanh nghiệp VN mất tiền khi
ra biển lớn. Những thưa kiện với những
thủ tục và luật lệ quốc tế phức tạp đã làm
điên đầu các tập đoàn đa quốc gia nhiều
kinh nghiệm, quản lý bài bản; thì dĩ
nhiên, sẽ dễ dàng nhận chìm một vài
doanh nghiệp cỡ lớn của VN, nhất là khi
ban quản lý lại cẩu thả, coi thường những
rắc rối pháp lý. Chuyện có thể đơn giản
khi ngồi nhậu ở quê hương với đàn em,
ra chỉ thị cho chúng phải đi gặp “anh lớn
đỡ đầu” để giải quyết những vướng mắc
tranh tụng. Khi ra biển lớn, không hiểu
luật lệ, tự tin vào những phán đoán chủ
quan của mình, là sẽ đối diện, không sớm
thì muộn, với những hiểm họa sống còn.
Gần đây nhất, có lẽ không ai quên là sự
tùy thuộc vào một nhà thầu phụ
(Transocean) trong giàn khoan dầu ngoài
khơi vịnh Mexico đã làm tập đoàn dầu
khí BP tốn hơn 34 tỷ USD và suýt làm
khánh tận một công ty lâu đời (102 năm)
trong 3 tháng ngắn ngủi.
Có 1001 cách mất tiền ở biển lớn, từ bị
lừa đảo đến bị thua kiện. Nhiều vụ việc
không thể tránh được, nhưng nếu doanh
nhân biết thay đổi tư duy và phương thức
quản lý của mình thì sẽ giảm thiểu tối đa
những rắc rối về pháp lý hay những tình
huống “ngậm đắng nuốt cay”.
Phải sẵn sàng bỏ tiền thuê tư vấn
Nhiều doanh nhân VN rất hồ hởi khi chi
tiêu ăn nhậu hay bỏ tiền mua quà cáp,
nhưng lại rất keo kiệt khi phải trả tiền
phí tư vấn. Phần lớn xem các chuyên gia
tư vấn là những người bán nước bọt,
không xứng đáng với những phí đòi hỏi,
và cố gắng tìm mọi cách để nhận các
khuyến nghị gần như miễn phí. Tư duy
này sẽ thu hẹp sự hiểu biết và các quan
hệ cần có khi giao tiếp với đối tác hay
khách hàng nước ngoài. Thêm vào đó,
chi phí tư vấn, nhất là về pháp lý, là một
khoản chi tiêu thường không đem lại một
lợi nhuận nào, nên phần lớn ban quản lý
các doanh nghiệp rất lơ là. Thay vì lên
kế hoạch phòng ngừa những rắc rối pháp
lý có thể xảy đến, họ có khuynh hướng
đợi đến khi bị kiện rồi mới phản ứng.
Việc này khiến tình huống trở nên tồi tệ
hơn.
Mỹ là một quốc gia có nhiều luật sư nhất
trên tỷ lệ mỗi đầu người (1 trong số 200
người lớn là luật sư) cho thấy sự phức
tạp của luật lệ và tính “hở ra là kiện” của
người Mỹ. Ở TQ và các quốc gia đang
mở mang khác, rắc rối về pháp lý mang
hình thức nhiêu khê hơn. Ở những nơi
này, luật lệ mơ hồ, các quan chức tha hồ
diễn giải, và bạn sẽ chắc chắn thua kiện
nếu họ muốn gây khó khăn cho công ty
của bạn, để kiếm tiền riêng hoặc theo
đơn đặt hàng của các đối thủ của bạn. Do
đó, bạn cần những tư vấn về pháp lý rất
chuyên biệt mỗi khi ký một hợp đồng, ra
một quyết định có ảnh hưởng đến đối tác
hay khách hàng và nói chung, khi làm bất
cứ một chuyện gì hơi quan trọng. Tại
TQ, bạn có thể phải dùng đến ‘cò” pháp
lý (những quan chức đã về hưu nhưng
vẫn còn quan hệ) để giải quyết vấn đề.
Dù những công ty đa quốc gia luôn luôn
đầy những luật sư tư vấn bên cạnh, nhưng
vẫn không bao giờ đủ. Tập đoàn tài
chánh Goldman Sachs vừa phải trả 550
triệu USD tiền phạt về tội lừa đảo. Bằng
chứng để thua kiện chỉ là 1 cái Email của
1 nhân viên (Fabrice Tourre) khoe vẻ tài
năng bịp bợm khách hàng.
Không chịu chi cho phí tư vấn và làm
mọi chuyện theo suy nghĩ chủ quan của
mình là mời gọi những tranh tụng không
cần thiết.
Phải nhìn theo khía cạnh của quản lý
dịa phương
Mỗi một quốc gia tuân thủ những thủ tục
pháp lý và luật lệ khác nhau nên không
thể có 1 quy tắc đồng nhất nào cho mỗi
thị trường trên biển lớn. Tôi hay khuyên
các giám đốc điều hành của tôi là phải
quan sát và học hỏi thật nghiêm túc các
vị quản lý địa phương đã đầy kinh
nghiệm trong mọi vấn đề pháp lý. Dù họ
là đối tác, đối thủ hay nhân viên dưới
quyền, sự hiểu biết của họ về những rắc
rối trong môi trường kinh doanh vẫn cao
hơn chúng ta rất nhiều. Đây là trường
hợp mà sự tránh né những quyết định khó
khăn, phức tạp là phương thức quản trị
khả thi hơn. Sau khi nhắc nhở nhân viên
dưới quyền về quan điểm tuân thủ luật
pháp hay lối giải quyết cổ truyền của địa
phương, hãy bước qua một bên và để các
quản lý địa phương sắp xếp giải quyết
vấn đề.
Một lần ở TQ, vị giám đốc điều hành của
chúng tôi bị bắt giữ vì tội làm ô nhiễm
môi trường tại An Hui. Nhà máy sản xuất
đồ nhựa của chúng tôi ở tỉnh kế bên, có
hệ thống xử lý nước thải, được cả bằng
ban khen của Tỉnh Ủy, nhưng vẫn không
ngăn ngừa một quan chức tại An Hui
thưa chúng tôi ra tòa. Khi viên giám đốc
công ty đến dự theo trát đòi, anh ta bị
công an bắt tại khách sạn vào đêm trước
đó. Tòa xử chúng tôi thua, vì tội coi
thường pháp luật, không hầu tòa. Chúng
tôi phải nhờ một “cò” pháp luật địa
phương (nguyên là thẩm phán về hưu) để
thương lượng. Chúng tôi trả 400 ngàn
thay vì 600 ngàn USD như tòa phán
quyết và mọi chuyện xếp lại trong êm
thắm. Nếu tôi ra mặt và đi xuống tận An
Hui để phản đối hay kiện cáo gì về “luật
rừng” này theo tinh thần dân chủ Mỹ, có
lẽ tình huống sẽ tệ hại hơn nhiều
Đừng coi mặt mà bắt hình dong
Quốc gia, dân tộc nào cũng có kẻ xấu
người tốt, dân làm ăn lương thiện và phi
pháp, người quản lý bài bản bền vững và
dân chụp giựt vô tâm. Đừng để những
hấp dẫn bề ngoài mà xao lãng đi việc
điều tra sâu kỹ về bất cứ một đối tác, tư
vấn hay nhân viên quan trọng. Tại Mỹ
những công ty trinh thám tư, chuyên về
doanh nghiệp như Kroll, Rehmann…
chứa đầy vài trang niên bạ của điện
thoại. Tốn vài nghìn USD để hiểu rõ mọi
đối tác là cái giá bảo hiểm rẻ, so với
những hậu quả tệ hại có thể xảy đến.
Trong những giao tiếp sơ khởi, thì
Google, Bing, Yahoo Search là điều
phải làm
Một trong những thành kiến của người Á,
Phi..là sự tôn trọng các nhân vật từ Tây
Phương (Âu, Mỹ, Úc…), có lẽ bắt nguồn
từ những thói quen lịch sử làm dân thuôc
địa. Tôi vẫn cừơi đùa với bạn bè là 2
rào cản lớn nhất trong sự nghiệp của tôi
là tên Phan (nghe rất Tàu) và dáng mạo
không có mắt xanh mũi lõ như các anh
bạn da trắng. Bị kỳ thị tại Âu Mỹ là
chuyện bình thường, nhưng nghịch lý là
tôi bị ngược đãi nhiều hơn ở các quốc
gia Á Châu. Khi làm cho Wall Street, tôi
có một anh trợ lý trẻ, người da trắng với
mái tóc vàng hoe. Trong nhiều buổi họp
với các quan chức hay đại gia của TQ,
Mã Lai, Indonesia…, họ luôn luôn nghĩ
anh ta là “”boss” của tôi trước khi được
giới thiệu. Vì định kiến này, nhiều doanh
nhân Á Châu tin tưởng vào tất cả những
gì mà nhân viên da trắng trình bày, không
cần biết đến thực tế và khả năng của diễn
giả hay giá trị của lời phát biểu
Tôi còn nhớ ông hàng xóm của tôi ở
California là LloydBridge, diễn viên khá
nổi tiếng của Hollywood. Khi về già,
ông thường đóng vai Tổng Thống hay
Thượng Nghị Sỹ Mỹ, nhờ diện mạo và
phong cách rất “hợp” với hình ảnh trên
chính trường (phim Hot Shots, The
Man…). Một lần, ông theo tôi qua Bắc
Kinh để tham quan du lịch. Trong một dạ
tiệc đông quan khách, đầy các đại gia và
chính trị gia, trước khi phát biểu bài nói
chuyện, tôi long trọng tuyên bố, “Hôm
nay, tôi được hân hạnh giới thiệu một vị
khách mời thật đặc biệt. Xin mời quý vị
đứng dậy để chào đón Vị Tổng Thống
của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ”. Cả hội
trường đứng dậy, vỗ tay cả 10 phút, khi
Lloyd bước lên diễn đàn. Nếu tôi không
nói lại tôi chỉ đùa chơi, chắc chắn là
80% người tham dự đã nghĩ là mình đã
gặp Tổng Thống Mỹ.
Nghiên cứu và biết rõ những thủ thuật
lường gạt
Người VN rất bén nhạy và thông minh.
Những mánh mung và thủ thuật để lường
gạt các người có tiền hay tài sản ở VN
cũng rất sáng tạo và đa dạng không kém
gì quốc tế. Tuy vậy, với một nền kinh tế
tài chánh đã toàn cầu hóa, sự gia nhập và
phối hợp của các phần tử tội ác từ khắp
thế giới đã thành một vấn nạn lớn, không
những cho các cơ quan cảnh sát, mà còn
ảnh hưởng đến mọi doanh nhân khắp nơi.
Người Nigeria đã làm nổi danh quốc gia
họ theo nghĩa xấu khi danh từ “Nigerian
scam” (trò lường gạt Nigeria) được ghi
vào từ điển bách khoa của Oxford. Cho
đến năm 2005, trò lường gạt này đã đem
về một khoãn thu nhập hơn 2 tỷ USD từ
các nạn nhân ở Âu Mỹ đến cho các tội
phạm ở Phi Châu. Họ thường gởi cả triệu
Emails rác mỗi tuần đến các địa chỉ Âu
Mỹ Úc. Thơ thường kêu gọi sự giúp đỡ
của người nhận thơ để giải ngân một số
tiền lớn đang bị kẹt trong một tài khoản
ngân hàng (50 triệu USD từ tài sản bị
phong tỏa của nhà độc tài Idi Amin hay
100 triệu USD từ môt mỏ vàng ở South
Africa.. hay một vài hình thức dễ tin
khác). Họ xin địa chỉ, tài khoản… và yêu
cầu người nhận ứng trước một số tiến vài
ngàn USD để làm thủ tục hay bày tỏ thiện
chí. Chỉ cần một số nhỏ nhẹ dạ ngây thơ
là mối lợi thu về đã lên đến cả trăm triệu
USD mỗi năm
Một biến thái của trò lường gạt này là
những vị chuyên gia khả kính hứa hẹn sẽ
đem về cả chục triệu USD tiền vay hay
tiền góp vốn cho các doanh nghiệp từ
nhà đầu tư nước ngoài. Họ sẽ đòi một
phí trả trước khoảng vài chục ngàn USD
rồi biến mất hay không làm gì. Vì phải
qua nhiều thủ tục pháp lý khác nhau liên
quan đến nhiều quốc gia nên việc kiện
cáo sẽ tốn kém và không hiệu quả
Một thủ thuật cũng khá phổ thông là “lấy
tiền của nạn nhân sau để trả vốn và lời
cho nạn nhân trước”, gọi là Ponzi’s
scheme. Nhà quản lý quỹ đầu tư Madoff
đã nổi danh khắp thế giới khi dùng thủ
thuật này để thu một số tiền lường gạt
đến 60 tỷ USD. Những nạn nhân của các
Ponzi’s scheme nhỏ hơn từ 1 triệu USD
đến 50 triệu USD thì nhiều vô số kể. Khi
làm ăn tại nước ngoài, đừng ham những
lợi nhuận cao ngất trời (chứng tỏ sự
hoang tưởng) mà mắc bẫy những trò
lường gạt này. Thực ra, chánh phủ Mỹ bị
kết tội là 1 nhóm tội phạm điều hành một
Ponzi’s scheme lớn nhất thế giới: quỹ an
sinh xã hội (US Social Security). Chánh
phủ Mỹ đã lấy tiền đóng góp của thế hệ
nhân viên hiện nay để trả cho quyền lợi
của thế hệ trước, vì tiền đóng góp của họ
trước đó đã bị chánh phủ xài hết vào
những chương trình không liên quan gì
đến an sinh xã hội.
Kính trọng tất cả dối tác, khách hàng
và đối thủ
Trên hết, để tránh mất tiền vì những tranh
tụng thì nguyên tắc hữu hiệu nhất là hãy
giao tiếp trong tôn kính và coi trọng
những quyền lợi của đối tác, khách hàng
và ngay cả đối thủ. Luôn luôn bắt đầu
bằng cách coi các than phiền và khiếu
nại là “đúng”; rồi nghiên cứu kỹ lại vấn
đề, với sự tham dự của các tư vấn, đề
nhìn rõ về việc phải làm và việc không
thể làm. Nếu có bị thiệt hại đôi chút, hay
mất chút sĩ diện; sẵn sàng chấp nhận để
vụ việc trôi qua. Về lâu về dài, đây vẫn
là những lối mất tiền ít nhất.
Khi còn trẻ, tôi đã ngang ngạnh chống lại
một cơ quan chánh phủ đầy quyền lực là
Sở Chứng Khoán Mỹ (SEC). Dù tôi
được thỏa mãn tự ái là mình “đúng” khi
thắng kiện, nhưng hậu quả là công ty
Hartcourt của tôi bị mất gần 500 triệu
USD thị giá, chưa kể những phí tổn pháp
lý đến hơn 5 triệu USD và 7 năm kiện
cáo. Tôi đã làm kiệt quệ công ty vì cái
“tôi” quá lớn của mình. Trong khi đó,
nếu tôi chịu nhận lỗi (dù vô lý) và trả
tiền phạt, công ty chỉ mất 500 ngàn USD
và giải quyết vấn đề trong 3 tháng. Một
bài học vô cùng quý báu về rắc rối pháp
lý.
Như đã trình bày, có 1001 cách để mất
tiền khi doanh nghiệp đem chuông đi
đánh xứ người. Cơ hội tràn đầy cũng
đồng nghĩa với rủi ro cùng khắp. Ra đấu
trưởng quốc tế, chúng ta sẽ học hỏi được
rất nhiều kỹ năng bài bản từ những doanh
nhân siêu việt, sáng tạo và năng động;
cùng lúc với những siêu sao lường gạt
rất tinh vi. Điều duy nhất phải nhớ là
“cảnh giác cao độ” và đừng để lòng tham
làm mờ mắt những vụ việc đáng nghi
ngờ. Ngừơi Mỹ có câu “Nếu 1 đề nghị
quá tốt như mơ ước, thì đó chỉ là mơ
ước” (If it’s too good to be true, then it
is). Ai cũng mất một ít tiền vì bị gạt trên
bước đường kinh doanh, nhưng người
khôn ngoan là đừng để những trãi nghiệm
cay đắng này biến thành thói quen.
Tôi có một câu nói trên bàn viết để nhắc
nhở mình,” a fool and his money are
soon parted”. (Một thằng ngu và tiền của
hắn sẽ chia tay nhau rất sớm).
T/S Alan Phan là Chủ Tịch Quỹ Đầu Tư
Viasa tại Hong Kong và Shanghai. Du
học Mỹ từ năm 1963, ông đã làm việc tại
nhiều công ty đa quốc gia ở Wall Street
và phát triển công ty Hartcourt của mình
thành một tập đoàn niêm yết trên sàn Mỹ
với thị giá hơn 700 triệu dollars. Ông
sống và làm việc tại Trung Quốc từ
1999. T/S Phan tốt nghiệp BS tại Penn
State (Mỹ), MBA tại American
Intercontinental (Mỹ), Ph.D tại Sussex
(Anh) và DBA tại Southern Cross (Úc).
Web site cá nhân của ông là
www.gocnhinalan.com, và Email là
aphan@asiamail.com
T/S Alan Phan, Chủ Tịch Quỹ Đầu Tư
Viasa
Các cuộc chiến sắp
xảy ra…
Trước mắt, nhìn chung sẽ không có sự
thay đổi ghê gớm quy mô nào. Tuy
nhiên, các nền kinh tế sẽ nghỉ ngơi và
tận dụng thời gian để chỉnh sửa và
sáng tạo. Quá trình này có thể mất 510 năm.
Sau nhiều năm gây sức ép buộc Trung
Quốc phải tăng tỷ giá đồng nhân dân tệ,
Chính phủ Mỹ quyết định bỏ cuộc và
thay vào đó bằng chính sách tự mình hạ
giá đồng USD. Giải pháp nới lỏng định
lượng (QE2 – in tiền mua trái phiếu) trị
giá 600 tỷ USD mới chỉ là bước đầu; các
nước khác sẽ tiếp tục nối đuôi. Các nhà
mua bán tiền tệ dự báo USD sẽ giảm ít
nhất 12% giá trị từ nay đến tháng
6/2011.
Tuy nhiên, đừng nghĩ rằng Trung Quốc
và các nền kinh tế dựa vào xuất khẩu
khác sẽ vì để yên chuyện này. Các biện
pháp đối phó hoặc trả đũa thẳng thừng sẽ
được áp dụng và sự bắt đầu của một loạt
các cuộc chiến thương mại và chiến
tranh tiền tệ sẽ không còn xa.
Tổng thống Obama không có nhiều lựa
chọn. Ông đang cố gắng bắt chước mô
hình kinh doanh thành công của Trung
Quốc, Nhật Bản và Đức bằng việc tăng
tính cạnh tranh cho các doanh nghiệp Mỹ
trên thị trường toàn cầu. Ông hy vọng
xuất khẩu của Mỹ sẽ giúp giải quyết
được phần nào vấn đề thất nghiệp; ông
nghĩ rằng đồng tiền giảm giá sẽ giúp
giảm thâm hụt cánh cân thương mại và
ngân sách; cũng như sẽ giảm gánh nặng
nợ ngoài của Mỹ.
Điều này có thể khả thi nếu ông thực hiện
trong một phòng thí nghiệm, nhưng trên
thực tế, sẽ có nhiều hành động và phản
ứng, và sự phức tạp của chính trị và kinh
tế ở từng nước cho thấy không ai có thể
đoán trước kết quả.
Có một điều chắc chắn là với việc liên
tục tìm cách phá lợi thế cạnh tranh của
nhau bởi các nền kinh tế lớn, trong đó có
Trung Quốc, thì những ngày hưng phấn
của chủ nghĩa thương mại tự do toàn cầu
với các thỏa thuận của WTO sẽ không
còn nữa. Các nước, dù lớn hay nhỏ,
mạnh hay yếu, sẽ bắt đầu bảo vệ thị phần
của mình và tung ra mọi dạng cơ chế
phòng thủ nhằm hạ gục đối thủ cạnh
tranh.
Các cuộc tranh cãi, những vụ kiện cáo,
những rào cản không chính thức, những
thao túng tỷ giá tiền tệ sẽ trở thành một
điều bình thường mới. Thương mại tự do
không chết, nhưng nó sẽ đi giật lùi vài
bước. Phải có đột phá mạnh về công
nghệ mới giúp tránh hoặc giảm nhẹ thách
thức này.
Thực tế mới sẽ không giúp Mỹ hay châu
Âu giành lại chiếc vương miện siêu
cường kinh tế của mình. Các yếu kém cố
hữu trong cấu trúc xã hội của họ quá lớn
nên khó có thể giải quyết (sự phát triển
chín muồi của nền kinh tế, nhu cầu tiêu
dùng lãng phí, chi tiêu chính phủ quá
cao, các chương trình phúc lợi xã hội
quá nhiều…). Tuy nhiên, kết quả của các
cuộc chiến tranh trong tương lai cũng sẽ
làm chậm lại sự phát triển của nhóm các
nền kinh tế mới nổi Brazil, Nga, Ấn Độ
và Trung Quốc (BRICs), đặc biệt là
Trung Quốc và khiến họ phải quay lại
với giải pháp hướng nội.
Trong khi đó, có một dòng tiền cực lớn
được tích tụ trong thời gian thịnh vượng
đã qua đang tìm kiếm một lợi nhuận tốt.
Chúng sẽ đổ vào đâu? Vàng và kim loại
quý sẽ được lợi, vì truyền thống tích trữ
vàng trong những thời điểm bấp bệnh.
Giá bất động sản quá rẻ tại các nước đã
phát triển ổn định sẽ là một đầu tư hấp
dẫn.
Trong khi thị trường chứng khoán và trái
phiếu sẽ trì trệ, các công ty có công nghệ
triển vọng hay năng lực marketing cao sẽ
là những viên ngọc hiếm. Nguyên liệu
(commodities) và nông hải sản sẽ ổn
định: lượng cầu chậm lại nhưng tăng
trưởng về thu nhập và dân số thế giới sẽ
tiếp tục. Các cổ phiếu của thị trường mới
nổi sẽ sinh lời tốt trong ngắn hạn, nhưng
về lâu dài sẽ kết thúc bằng sự nổ tung
của bong bóng.
Trước mắt, nhìn chung sẽ không có sự
thay đổi ghê gớm quy mô nào. Tuy nhiên,
các nền kinh tế sẽ nghỉ ngơi và tận dụng
thời gian để chỉnh sửa và sáng tạo. Quá
trình này có thể mất 5-10 năm. Trong khi
đó, với sự sụt giảm tăng trưởng và những
thay đổi toàn cầu, mọi người sẽ có nhiều
thời gian cho mình hơn, cho người khác,
để làm những điều tốt cần đến lòng kiên
nhẫn và sự tận tụy.
Sau bữa tiệc và cuộc vui, chúng ta sẽ
đều cần ở một mình vào một buổi sáng
chủ nhật yên tĩnh để tận hưởng niềm vui
và thưởng thức một tách cà phê; hoặc
nghe tiếng cười con trẻ hay tiếng chim
hót. Cuộc sống chẳng phải tuyệt vời đó
sao?
Bài viết bằng Anh ngữ của TS Alan
Phan đăng trên The Daily Reckoning
và Financial Armageddon hôm
11/11/2010.
Alan Phan
Thiếu can đảm
nhiều người bỏ cuộc
quá sớm
Tôi khám phá ra rằng sức chịu đựng
và tinh thần sáng tạo của doanh nhân
khi đối diện với khó khăn và vực thẳm
của phá sản trở nên sắc bén kỳ diệu
hơn là mọi hình dung. Vì thiếu can đảm
và kiên trì, nhiều người đã bỏ cuộc quá
sớm.
Xin chào TS. Alan Phan, từ những trải
nghiệm trong suốt 42 năm làm ăn tại
khắp thế giới, ông cho bài học nào là
quý giá nhất mà ông đã thâu nhặt
được?
Tôi khám phá ra rằng sức chịu đựng và
tinh thần sáng tạo của doanh nhân khi đối
diện với khó khăn và vực thẳm của phá
sản trở nên sắc bén kỳ diệu hơn là mọi
hình dung. Vì thiếu can đảm và kiên trì,
nhiều người đã bỏ cuộc quá sớm.
Bước thêm bước nữa là công thức đã
phân biệt rất nhiều kẻ thắng người thua
trên thương trường. Phải biết giữ vững
niềm tin. Chân cứng thì đá sẽ mềm.
Một doanh nhân muốn thành đạt, cần
phải có những cá tính như thế nào?
Trong cuốn sách mới nhất, tôi có nêu lên
5 yếu tố căn bản cùa sự thành công trên
thương trường: (a) động lực hay ngọn
lửa bên trong (b) thời gian và nỗ lực (c)
sức khỏe để chịu đựng (d) hành động,
chấp nhận rủi ro và (e) kinh nghiệm và
quan hệ. Tôi còn nhắc đến yếu tố may
mắn mà chúng ta không định lượng được.
Tuy nhiên, để có sự thành công bền vững
về lâu dài, doanh nhân và doanh nghiệp
cần một nhân cách đạo đức văn hóa làm
nền tảng cho mọi phát triển. Phần lớn các
doanh nhân cho là mình làm kinh tế,
không liên quan gì đến đạo đức, văn hóa,
hay tôn giáo triết lý.
Một bản nghiên cứu của đại học Harvard
năm 1998 cho thấy 78% các công ty bền
vững và phát triển nhanh nhất trong 50
năm vừa qua là những doanh nghiệp đặt
nặng vấn đề đạo đức và kỷ cươngquản trị
lên hàng đầu theo thứ tự ưu tiên.
Bản nghiên cứu cho thấy đạo đức và kỷ
cương đóng góp về lâu dài một niềm tin
tốt đẹp từ khách hàng, từ nhân viên, từ
đối tác, từ nhà đầu tư, từ cộng đồng đoàn
thể… Đây là cách xây dựngthương hiệu
hoàn hảo nhất của bất cứ doanh nghiệp
nào.
Với một thương hiệu tiếng tăm và bền
vững, công ty có thể tìm một tỷ lệ lợi
nhuận cao hơn các đối thủ cạnh tranh,
một thị phần cao hơn của khách hàng
trung thành và kết quả là một thành tựu
khả quan hơn về tài chính.
Thiếu đạo đức và kỷ cương quản trị,
doanh nghiệp biến thành một công ty của
cơ hội, của chụp giật, của đầu cơ… Mọi
thành công sẽ tạm bợ, bạo phát bạo tàn.
Ông kinh doanh suốt 42 năm tại 2 thị
trường lớn và năng động nhất: Mỹ và
Trung Quốc. So sánh với 2 nước này,
ông thấy doanh nhân Việt Nam có ưu
và khuyết điểm gì?
Doanh nhân Việt chia sẻ nhiều đặc thù
với doanh nhân TQ vì những điều kiện
tương tự về văn hóa, xã hội, chánh trị và
kinh tế. TQ mở cửa thị trường trước ta
15 năm nên doanh nhân của họ tích tụ
nhiều kinh nghiệm hơn. Tôi chỉ hơi tiếc
là có rất nhiều bài học hay dở của họ mà
chúng ta không nghiên cứu để tìm một lối
đi riêng của mình.
Như TQ, doanh nhân Việt rất năng động,
tham vọng, giỏi ứng biến, liều lĩnh, lạc
quan và cầu tiến. Về khuyết điểm, họ
giống doanh nhân TQ ở các điểm như
thiếu kỹ năng quản trị ở bình diện quốc
tế, thích đầu tư dàn trải, không chuyên
sâu, trọng sĩ diện và hình thức, có tầm
nhìn khá ngắn hạn. Họ cũng thiếu quan hệ
với các đối tác nước ngòai: rất cần thiết
trong nền kinh tế tòan cầu.
Nhưng quan trọng hơn hết, với tôi, họ
chưa tạo dựng được một văn hóa đạo
đức kỹ cương, cho cá nhân mình và
doanh nhiệp cùa mình. Dù đang thành
công, họ sẽ không đủ “phần mềm” để đi
xa.
Ông nghĩ thế nào về việc doanh nhân
Việt luôn xếp đầu bảng trên thế giới về
tinh thần lạc quan?
Dù tinh thần lạc quan có thể ảnh hưởng
đến những kết quả kinh doanh, đây không
phải là một đơn vị đo lường dễ dàng và
nó tùy thuộc rất nhiều vào những nhận
thức chủ quan nhiều thiên kiến. Nó có thể
gây ra nhiều tác động tiêu cực cũng như
tích cực.
Tôi nghĩ mọi doanh nhân nên chú tâm
đến việc đào tạo kỹ năng, kinh nghiệm và
kế họach của mình hơn là tùy thuộc vào
những yếu tố ngòai tầm kiểm sóat.
Cùng đối diện với một tình thế, nhận
thức của mỗi người cũng rất khác biệt,
thể hiện qua câu chuyện khôi hài sau:
Bà mẹ tố cáo nàng dâu,” Trong khi mày
đi làm xa, con vợ mày ở nhà quá sức
lăng loàn. Nó ngủ với hơn nửa đàn ông
của thị trấn này.” Sau khi trầm ngâm suy
nghĩ, ông con trả lời, ” Nghĩ cho cùng,
thị trấn này cũng không lớn lắm.”
Trở lại chuyện lạc quan cho tương lai,
ông nghĩ thế nào về kinh tế Việt Nam
năm 2011 và về sau?
Không riêng gì ở Việt Nam, mà tất cả
kinh tế thế giới vẫn chưa giải quyết được
những vấn nạn lớn lao đã gây ra cuộc suy
thoái toàn cầu vào 2008.
Nợ xấu địa ốc, cán cân thương mại, nợ
công ở Mỹ; nợ công và suy thóai ở Âu
châu và Nhật; bong bong tài sản và đầu
tư bừa bãi tại Trung Quốc. Qua những
gói kích cầu, các chính phủ đã dồn rác
rưởi xuống thảm (swept under the rug)
hy vọng người dân sẽ quên đi chuyện khó
ngửi này. Biện pháp có đôi chút thành
công, tạo nên ảo tưởng hồi phục.
Nhưng một ngày đẹp trời nào đó, không
xa lắm, chúng ta đều phải đối diện với
thực tại, và tôi chắc chắn rằng mọi thứ sẽ
tệ hơn những gì đã xảy ra trong năm
2008 nhiều.
Việt Nam cũng sẽ bị ảnh hưởng ít nhiều,
nhưng với một nền kinh tế còn rất nhỏ và
nặng về nông nghiệp, tiểu thuơng, chúng
ta có thể vẫn còn giữ được tinh thần lạc
quan.
Trong bối cảnh khó khăn như vậy, liệu
giải pháp nào sẽ giúp ích nhiều cho
doanh nhân Việt Nam?
Trước hết, phải nhận rõ là các điều kiện
kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng nhưng không
là yếu tố chính trong việc kiếm tiền. Thu
nhập của một doanh nghiệp tùy thuộc
nhiều hơn khả năng nắm bắt cơ hội, sức
sáng tạo và tầm nhìn của ban quản lý.
Thị trường Âu Mỹ có suy thoái thì cũng
lớn rộng gấp ngàn lần thị trường nội địa,
đồng nghĩa là cơ hội cũng gấp ngàn lần.
Doanh nhân Việt phải có đủ can đảm và
bản lãnh để “hướng ngoại” và đi tìm cơ
hội.
Đây là một quy trình khó khăn, đòi hỏi
nhiều thời gian và kiên nhẫn. Khi ra
nước ngòai, các doanh nhân sẽ phải bỏ
lại một yếu tố quan trọng là các quan hệ
và thói quen đã tạo thành công cho mình
ở quê nhà. Tạo dựng làm ăn trong một
môi trường mới sẽ là thử thách lớn lao
mà chỉ những “nhà vô địch” mới vượt
qua đích.
Bù lại, sự thành công nơi nước ngòai, ở
một sân chơi bằng phẳng, sẽ là một minh
chứng hùng hồn cho kỹ năng quản trị của
mình và một tương lai bền vững hơn cho
doanh nghiệp, cũng như một bảo đảm
chắc chắn hơn về tài sản.
Còn thị trường Trung Quốc thì sao? Họ
ngay sát Việt Nam và có nhiều tương
đồng?
Tôi đã sống và làm việc tại TQ hơn 14
năm nên tôi hiểu rõ quan niệm kinh
doanh của người TQ. Không như Âu Mỹ,
đây là một xã hội khép kín trên nhiều lĩnh
vực, không riêng gì kinh tế hay chính trị.
Vào thập niên 70s, doanh nhân TQ còn
nghèo và thiếu hụt đủ mọi thứ, nên họ hồ
hởi mở rộng mọi cánh cửa đón chào
doanh nhân nước ngòai. Hiện nay, họ đã
có vốn, chỉ thiếu công nghệ mũi nhọn cao
và thương hiệu quốc tế, nên đây là 2 lĩnh
vực duy nhất họ mời chào. Không có 2
món này, các nhà đầu tư nước ngòai sẽ
hứng chịu rất nhiều rào cản xã hội và thủ
tục pháp lý, từ địa phương đến trung
ương, để bảo đảm họ sẽ thua các đối thủ
TQ.
Dù văn kiện WTO không cho phép những
cạnh tranh trái phép này trên giấy tờ,
nhưng ai cũng hiểu rõ thực tế về kinh
doanh ở TQ. Hiện tượng hàng giả, hàng
nhái, ăn cắp bản quyền trí tuệ, không đạo
đức kỹ cương và quyền lực tham nhũng
của các quan chức TQ là những câu
chuyện thần kỳ cho lịch sử phát triển của
TQ.
Dù là đồng minh và láng giềng hữu hảo
của TQ, tôi tin chắc doanh nhân Việt có
zero cơ hội để làm ăn tại TQ.
Ngoài đạo đức, ông nghĩ doanh nghiệp
phải có trách nhiệm với xã hội xung
quanh?
Dĩ nhiên. Sự hài hòa với môi trường và
con người chung quanh phải là một mục
tiêu quan trọng để có sự phát triển bền
vững. Doanh nhân cũng cần những cầu
nối mật thiết với xã hội để tìm thanh bình
cho nội tâm. Không ai là một ốc đảo
riêng biệt.
Tuy nhiên, phải ghi nhớ một điều: muốn
giúp người nghèo, thì đừng baogiờ trở
thành một người nghèo. Nếu yêu kẻ yếu
thế thất học thì đừng làm kẻ thất bại. Xã
hội quanh ta cần người giàu có thành đạt,
dù chỉ để làm một gương sáng, hơn là có
thêm một người nghèo và thất chí.
Quay về với cá nhân ông. Nghe nói
cách nay 36 năm, ông rời Việt Nam qua
Mỹ lần thứ nhì, trong túi vỏn vẹn chỉ có
500 USD. Ông đã gặp may hay phải rất
vất vả để trở thành con người Alan
Phan như hôm nay?
Nếu nghiên cứu nghiêm túc thì mọi thành
công hay thất bại đều có rất nhiều yếu tố
cấu thành. Người TQ thì tin vào thiên
thời, địa lợi, nhân hòa. Người Âu Mỹ tin
vào sức mạnh cá nhân cùng sự phò hộ
của Thượng Đế. Tôi đã mô tả ở trên 5
yếu tố căn bản của thành công.
Vì tính đam mê, tôi hay theo đuổi những
dự án kinh doanh bừa bãi khi còn trẻ
tuổi. Do đó, tôi đã hứng chịu nhiều thất
bại thảm thương khi khởi nghiệp. Nhưng
cũng vì tính lì lợm bướng bỉnh, tôi không
bỏ cuộc và tiếp tục cuộc chơi. Những
thất bại ban đầu trở nên những bài học
vô cùng quý giá cho sự thành công về
sau.
Tất cả các trải nghiệm đó đã hình thành
một Alan Phan ngày nay, một trộn lẫn
giữa may mắn và cá tính, cũng như ngu
dốt và liều lĩnh.
Dân gian có câu “lắm tài thì nhiều
tật”, ông có dám kể ra các “tật xấu”
của mình không?
Quả thực tôi có rất nhiều tật xấu, kể
không hết. Nhưng tôi luôn luôn coi chừng
là chúng không làm hại tôi hay bất cứ
một ai khác. Càng thành công thì càng
nhiều trách nhiệm. Đôi khi tôi chỉ muốn
làm anh học trò, tha hồ “vui hưởng”
những tật xấu của mình và rong chơi hạnh
phúc trong vô tư.
Một tật xấu tôi chưa bỏ được là đôi khi
tôi lại biến mất một vài ngày, không ai
biết mình ở đâu, mặc kệ công việc đang
thúc hối chờ đợi và những người thân lo
lắng. Tôi thường bay đi một nơi nào thật
xa lạ, không có một ý định hay kế họach
gì, và để dòng sự kiện hay môi trường
mới lôi kéo đi như một chiếc lá giữa
dòng sông. Sau vài ngày, tôi lại quay về
với nếp sống quen thuộc cũ, nhoẻn miệng
cười, xin mọi người tha lỗi.
Xin cám ơn ông.
Theo Doanh nhân
Một cách nhìn khác
về con người Alan
Phan
Với thành quả đạt được trong 20 năm
đầu tư ở Việt Nam (VN), TS. Alan
Phan bộc bạch, chưa bao giờ dám mở
miệng dạy ai điều gì về nghệ thuật
kiếm tiền và cảm thấy xấu hổ khi so
sánh với Bầu Đức, cũng bắt đầu vào
năm 1991 với chiếc xe ôm, bây giờ đã
thành tỷ phú dollars.
Tuần Việt Nam: Tư duy về kinh tế tài
chính của ông đã thể hiện qua các bài
viết trên www.gocnhinalan.com và
nhiều tờ báo có uy tín. Hôm nay, xin
được hỏi ông nhiều hơn về đời tư và
suy nghĩ cá nhân được không ạ?
Alan Phan: Rất sẵn sàng, tuy nhiên phải
cảnh báo trước cho anh là những gì hào
hứng nhất thì tôi sẽ giấu để còn viết hồi
ký sau này (cười).
Tài sản của ông hiện nay là bao nhiêu?
Tôi đồng ý với tập quán là không nên hỏi
tuổi người đàn bà và không nên hỏi tiền
người đàn ông. Không bao giờ nói ra
được. Nhưng có lần một người bạn thân
nhận xét, ” mày là thằng kiếm tiền nhiều
nhất cũng là thằng mất nhiều tiền nhất
trong cộng đồng Việt ở đây (Mỹ)”. Tôi
dốt toán nên chưa bao giờ ngồi cộng trừ
để hiểu rõ câu nói đó.
Những đầu tư lớn nhất của ông hiện
nay nằm trong lĩnh vực nào?
Quỹ Viasa của gia đình tôi và một số gia
đình khác chia đều 50% vào các tài sản
ngắn hạn, nhiều thanh khoản như tiền mặt,
chứng khoán, trái phiếu, hợp đồng
nguyên liệu (commodity contracts). Còn
50% thì đầu tư vào các công ty vừa và
nhỏ (SME) đang hoạt động tốt, với tư
cách cổ đông chiến lược, để giúp họ phát
triển và tăng giá trị, nhất là trong lãnh
vực tài chánh và thị trường quốc tế. Thời
gian đầu tư khoảng 2 đến 5 năm.
Tất cả đều ở Trung Quốc?
Không, các đầu tư ngắn hạn thường nằm
ở thị trường Âu Mỹ. Còn các đầu tư dài
hạn hơn thì thường nhắm vào các công ty
Trung Quốc; nhưng chúng tôi đang rút lui
khỏi thị trường này.
Tại sao?
Cách đây 15 năm, khi chúng tôi bắt đầu
vào Trung Quốc thì họ rất cần vốn, công
nghệ và quản lý quốc tế. Do đó, họ trải
thảm đỏ mời chào rất nồng nhiệt các nhà
đâu tư như chúng tôi. Nay họ đã có
những thứ đó, nên họ có chánh sách
“vắt” (squeeze) các nhà đầu tư nước
ngoài ra để dành các lợi lộc và thị
trường cho doanh nhân trong nước.
Chánh phủ tạo nên nhiều rào cản mới,
gây khó khăn trong việc điều hành qua
chính sách thuế má, lương bổng, giấy
phép …
Ông rút tiền khỏi Trung Quốc thì ông
sẽ đem chúng đầu tư vào đâu?
Quá trình thoái hết vốn khỏi Trung Quốc
cũng mất khoảng 2 năm nữa. Hiện chúng
tôi đang đánh giá những cơ hội mới ở
các nước khác, kể cả Âu Mỹ, để quyết
định. Cũng có thể là chúng tôi đã già và
không còn bén nhạy với trò chơi này nữa.
Trong trường hợp đó, có lẽ tôi sẽ đem
tiền cho con cái, gia đình, bạn bè, các tổ
chức từ thiện và phần còn lại, giữ vừa đủ
để sống đời hưu trí giản dị.
Ông chia gia tài như vậy có quá sớm
không?
Tôi có quan niệm là không nên đợi đến
chết mới chia gia tài. Bà con đánh đấm
tranh giành, nằm dưới mồ cũng không
yên. Chia khi mình còn sống và trí óc
còn minh mẫn thì tốt hơn. Một cuốn sách
nào đó khuyên là khi anh chết, anh nên
chết không còn một đồng xu nào trong
túi. Chỉ để lại một chi phiếu để bà con
làm đám tang. Mà nếu chi phiếu đó
không tiền bảo chứng thì cũng chẳng sao.
Nghe nói ông cũng đã đầu tư vào VN
rồi?
Tôi có đầu tư hơn 1 triệu US dollars vào
Vinabull, một công ty viết phần mềm và
tạo dữ liệu cho những nhà đầu tư chứng
khoán VN. Sau 4 năm, công ty vẫn lỗ
nặng. Cùng với các đầu tư nhỏ lẻ cho
bạn bè bà con từ 1991 (lần đầu khi tôi về
nước), tôi đã đầu tư vào VN hơn 2 triệu
US dollars. Và 2 năm qua, số tiền tôi thu
lại được là 12 triệu …(VN đồng, bút phí
trả cho các bài viết) (cười)
Do đó, VN là một kinh nghiệm xấu về
đầu tư?
Thực ra, số tiền nói trên quá nhỏ để rút
ra một kết luận gì. Trong thời gian đầu
tư, tôi không có thì giờ để quản lý, vì
bận rộn với những đầu tư quan trọng hơn
ở Trung Quốc và Âu Mỹ, nên dù thất bại,
tôi cũng không nghĩ đó là một kinh
nghiệm xấu. Tôi vẫn còn đang nghiên
cứu và phân tích về cơ hội đầu tư ở đây.
Người ta thường nói, nếu làm không
được thì đi dạy vậy?
(Cười lớn) Với thành quả đạt được trong
20 năm đầu tư ở VN, tôi chưa bao giờ
dám mở miệng “dạy” ai điều gì về nghệ
thuật kiếm tiền, nhất là ở xứ này. Thực
tình, tôi khá xấu hổ khi so sánh với ông
Bầu Đức, cũng bắt đầu vào năm 1991
với chiếc xe ôm, bây giờ đã thành tỷ phú
dollars. Cũng như ông Vượng của
Vincom, từ một sinh viên mới ra trường
khoảng thời gian đó, hay ông Tuyển Tuần
Châu, một công nhân của Sở Công Viên
thành phố, bây giờ đều là tỷ phú cả. Đây
là những thiên tài về kiếm tiền, tôi cũng
muốn đi học họ mà không ai chịu dạy.
Các doanh nhân thành đạt thích làm
chính trị vào thời điểm lên cao. Ông
nghĩ thế nào?
Tôi sẽ là một chính trị gia tồi tệ nhất vào
bất cứ thời điểm nào. Một kỹ năng quan
trọng của nghề này là phải biết “nói dối”,
mà tôi thì chưa học được. Vả lại, tôi
không tin vào bất cứ một giải pháp chính
trị nào cho vấn đề kinh tế. Sự can thiệp
của các chính trị gia chỉ làm mọi vận
hành kinh tế trì trệ và méo mó hơn, thay
vì để nó tự do.
Ông có thể giải thích thêm?
Tôi tin rằng không một doanh nghiệp nhà
nước nào trên thế giới đạt được thành
quả tốt về ROI (return on investment)
bằng một doanh nghiệp tư nhân cũng tầm
cỡ và cùng nghề. Lý do đơn giản là “cha
chung không ai khóc”. Tiền của người
khác (other peoples money) là tiền từ
các thằng ngu, mình cứ xài thoải mái.
Các chương trình, chính sách có thể bắt
đầu bằng một lý tưởng hay một ý định
tốt, nhưng tất cả cuối cùng rồi cũng sẽ bị
lạm dụng bởi những tên cơ hội, tham
lam… để rút tỉa tiền bạc hay quyền lực.
Ở Mỹ ông có đi bầu cử không?Và ông
thuộc đảng nào? Dân Chủ hay Cộng
Hòa?
Tôi hiểu rõ những thủ thuật bùa phép của
chính trị rất sớm, nên từ hồi sinh viên
đến giờ, tôi chưa hề gia nhập một đảng
phái hay phe nhóm chính trị nào. Tôi
luôn luôn đi bầu với tư cách độc lập,
không đảng phái. Tôi thường đánh giá
lựa chọn của mình trên căn bản là ứng cử
viên nào sẽ đem lại những yếu tố khả
quan hơn cho nền kinh tế quốc gia, vì
chắc chắn là dân có giàu thì nước mới
mạnh. Những ngôn từ hoa mỹ khác chỉ là
BS (vớ vẩn). Như Đặng Tiểu Bình ví
von, “Mèo trắng hay mèo đen gì cũng
được, miễn là nó bắt được chuột”.
Ông có hoạt động nhiều trong công tác
từ thiện và nhân đạo?
Tôi luôn luôn giữ kín mọi hoạt động của
mình trên lĩnh vực này; vì nói ra sẽ làm
mất đi ý nghĩa của hành động. Nhưng tôi
vẫn thường nói với các hậu sinh, “Chúng
ta làm việc để sinh tồn, và chúng ta trao
tặng để tạo dựng đời mình (We work to
make a living, and we give to make a
life)”.
Những lời khuyên cho các bạn trẻ muốn
khởi nghiệp kinh doanh?
Với những bạn kém may mắn đang tranh
đấu vất vả để tìm sự nghiệp hay cơ hội
kinh doanh, hãy tin vào con người thực
và định mệnh của mình. Phải kiên trì,
biết đứng dậy và tiếp tục đi tới khi vấp
ngã. Không ai có thể từ chối mãi một con
người có ý chí. Với những bạn nhiều may
mắn, có đầy đủ vật chất và phương tiện,
hay cố gắng hơn nữa với trí tuệ sáng tạo
và tinh thần thanh cao. Nghĩ đến những
người kém may mắn, tập cách chia sẻ; và
hành xử mọi chuyện với chuẩn mực đạo
đức và văn minh. Những kẻ xấu có thể
đang thắng, nhưng cuối cùng, thế giới sẽ
thuộc về những con người thiện tâm và
hài hòa.
Một câu nói để ghi trên bàn làm việc
hay giường ngủ?
Xin Ơn Trên phù hộ chúng ta.
Niêm yết sàn Mỹ:
Ra biển lớn trước
khi có bão
(VEF.VN) – Cửa sổ của cơ hội vẫn
đang còn mở với các doanh nghiệp VN
khi ra biển lớn để tìm vốn trên sàn Mỹ.
Trên hết, sàn Mỹ vẫn có một thanh
khoản rất cao vì dòng tiền đầu tư đang
quá dư thừa. Giá chứng khoán vẫn gia
tăng kỷ lục trong 2 năm qua, dù tình
trạng vĩ mô toàn cầu đang bị đe dọa
với rất nhiều rủi ro.
Gần đây mỗi lần về lại VN, tôi thường bị
bao vây bởi những doanh nghiệp đang
tìm đường hướng ngoại, nhất là trong vấn
đề tìm vốn. Với sự tê liệt của thị trường
chứng khoán địa phương và một lãi suất
vay ngân hàng hơn 20%, các doanh nhân
VN bám vào bất cứ phao gì trên mặt
nước, từ chiến thuật M&A (mua lại và
sát nhập) đến chuyện niêm yết ở các sàn
ngoại.
Cuốn sách “Niêm Yết Sàn Mỹ” của tôi
xuất bản vào năm 2008 đang nằm ế ẩm
như một cô đào già trên các kệ sách
thành phố bỗng bán chạy một cách bất
ngờ. Dù không ai thực sự muốn trả phí,
nhưng anh trợ lý của tôi vẫn được khá
nhiều doanh nghiệp hỏi và đề nghị hợp
đồng tư vấn để tìm cơ hội lên sàn Mỹ.
Thay vì quảng cáo cho một dịch vụ mà
tôi không còn liên quan, tôi lại phải mất
nhiều thì giờ để cảnh giác về những thách
thức và rào cản của việc Niêm-Yết-SànMỹ. Theo cảm nhận của tôi, phần lớn các
doanh nghiệp VN vẫn chưa sẵn sàng.
Những điều kiện để tìm vốn bằng cách
phát hành cổ phiếu hay trái phiếu nghe
qua thì khá dễ dàng, nhưng cho đến nay,
vẫn chưa một doanh nghiệp VN nào thực
hiện được mục tiêu này. Vài ba công ty
VN đã được niêm yết, nhưng không có
thanh khoản, thị giá thấp kém, rốt cuộc
chẳng làm được gì. Bốn lý do chính:
1. Tư duy của ban quản lý: Tôi lập đi
lập lại những nguyên tắc căn bản không
thể thiếu được khi lên sàn Mỹ: minh bạch
(transparency), trung thực và khai báo
đầy đủ (full disclosure), kỹ cương đạo
đức của công ty và cá nhân ban quản lý
(corporate governance); nhất là những
mâu thuẫn lợi ích (conflict of interest).
Mọi người đều nghe và gật đầu đồng ý;
nhưng có lẽ không ai tin vào việc thực
thi nghiêm túc các yếu tố này.
Do đó, giống như trải nghiệm của tôi với
các công ty bên Trung Quốc, sau một
thời gian niêm yết, nhiều công ty đã bị
SEC (Cơ Quan Chứng Khoán Mỹ) phạt
và loại trừ, một số không toại nguyện nên
tự ý rút lui và một số sống vất vưởng
chờ thời.
Trong 18 năm từ khi các công ty Trung
Quốc bắt đầu niêm yết sàn Mỹ, chỉ hơn
10% các doanh nghiệp là đạt được mục
tiêu mong muốn. Tôi nghĩ tỷ lệ thành
công của các doanh nghiệp VN cũng sẽ
không khá hơn gì. Không có một tư duy
điều hành công ty theo đúng đòi hỏi về
luật lệ và chuẩn mực của SEC, của cổ
đông, của nhà phân tích đầu tư, của thị
trường… thì sớm muộn gì, doanh nghiệp
cũng thất vọng với sàn Mỹ.
2. Chuyện Niêm Yết và chuyện Bán Cổ
Phiếu: Tôi cũng nói rất nhiều lần là
chuyện niêm yết trên sàn Mỹ thực sự khá
dễ dàng; bạn chỉ cần một bản Cáo Bạch
có luật sư chuyên về chứng khoán và một
kiểm toán gia có tên trong danh sách của
PCAOB ký nhận là SEC sẽ chấp nhận
đơn xin niêm yết. Không một đòi hỏi nào
khác về doanh thu, lợi nhuận. lịch sử của
doanh nghiệp, giấy phép đặc biệt hay
những gì khác.
Tuy nhiên, không như ở VN hay Trung
Quốc, chuyện bán được cổ phiếu cho các
nhà đầu tư lại là một chuyện vô cùng khó
khăn. Toàn thế giới, có khoảng 36,000
cổ phiếu đủ loại (sàn Mỹ có hơn 12,000)
để các nhà đầu tư lựa chọn. Bạn phải có
một lý do khá độc đáo để thuyết phục
nhà đầu tư mua cổ phiếu của công ty bạn
thay vì Google hay Apple.
Ngoài ra, với những công ty vừa và nhỏ
(SME), nếu thị giá của bạn không cao
hơn 1 tỷ USD, hay lớn hơn 3 USD/cổ
phiếu, phần lớn các quỹ đầu tư lớn
(mutual funds) sẽ không được phép mua,
dựa trên điều lệ thành lập của quỹ. Do
đó, bạn phải biết giới hạn chương trình
tiếp thị vào một số nhà đầu tư cá nhân và
các quỹ đặc biệt, với những tiêu chí lựa
chọn rất đặc thù. Vì vậy, vấn đề bán cổ
phiếu của công ty bạn phức tạp và gian
nan hơn mọi ước tính.
3. Phí tổn để được tiếp tục niêm yết:
Với một công ty nhỏ, giản dị (chỉ có một
hình thức kinh doanh độc nhất), phí tổn
hàng năm cho các luật sư và nhà kiểm
toán cũng phải hơn 150,000 USD; chưa
kể đến những chi phí về IR-PR (liên hệ
đầu tư, investor relations), tư vấn tài
chính, phí để lưu trữ hồ sơ đầu tư
(transfer agent), phí đăng ký với các cơ
quan chính phủ v.v… Một công ty có
chừng 10 công ty con, phải nhân lên gấp
5 lần số tiền nói trên. Do đó, nếu công ty
bạn không tìm được một dòng tiền để
thỏa mãn nhu cầu này, thì việc lên sàn là
một đầu tư không hiệu quả, và khó đạt
được mục tiêu ban đầu.
4. Vai trò các tư vấn : Vì không thể
mướn đủ nhân viên để lo đầy đủ cho mọi
đòi hỏi của việc niêm yết và bán cổ
phiếu (lương bên Mỹ rất đắt), nên bạn
phải sử dụng đến nhiều nhà tư vấn độc
lập. Sự chọn lựa và điều tra kỹ lưỡng về
khả năng và kinh nghiệm của các nhà tư
vấn này là một điều bắt buộc. Sau đó,
phải nhắc nhở Ban Quản Lý cộng tác
chặt chẽ với họ để đạt hiệu quả cho mục
tiêu. Ham tiết kiệm khoản chi phí này,
đôi khi sẽ dẫn đến hậu quả trái ngược.
Ngoài 4 yếu tố căn bản trên, đây là
những vấn đề khác phải suy nghĩ về việc
Niêm-Yết-Sàn-Mỹ:
- Công ty tư nhân lớn nhất của VN là
Ngân Hàng ACB có doanh thu khoảng
900 triệu USD và có thể đựơc xếp hạng
là công ty nhỏ (small cap). Còn lại các
công ty khác thường thuộc loại công ty
siêu nhỏ (mini hay micro cap), theo tiêu
chuẩn Mỹ. Khi đầu tư vào các công ty
nhỏ, các nhà đầu tư quốc tế thường chọn
những cổ phiếu có tính đột phá mạnh và
có lợi thế về công nghệ với khả năng phủ
hàng khắp thị trường toàn cầu. Các ngành
nghề được ưa thích là công nghệ IT, sinh
hóa học (biotech), năng lượng xanh,
dược phẩm, truyền thông trên mạng hay
các công ty có sức sáng tạo độc đáo. Các
ngành nghề không ai muốn đầu tư là xây
dựng hay địa ốc (các công ty Mỹ Âu
đang bị te tua về ngành này), sản phẩm
tiêu dùng (bị những công ty đa quốc lớn
độc chiếm thị trường), nhà máy sản xuất
hàng thông dụng (dư thừa nguồn cung
trên thế giới), hay các dịch vụ không thể
phát triển ngoài nội địa.
- Các nhà đầu tư vào các công ty SME
thường có tính phiêu lưu giống như các
quỹ mạo hiểm. Họ không có một chiến
lược lâu dài (hơn 3 năm) và không có
kiên nhẫn để chờ đợi kết quả (với giá cổ
phiếu). Do đó, khi chọn đây là khách
hàng mục tiêu, doanh nghiệp sẽ phải điều
chỉnh các hoạt động thiên về M&A để
phát triển nhanh chóng, tạo thanh khoản
(nhờ những PR ồn ào) và làm tăng giá cổ
phiếu. Các chiến lược bài bản về chất
lượng có thể bị hy sinh cho những mục
tiêu ngắn hạn theo đòi hỏi của các cổ
đông loại này. Vì vậy, đây sẽ là một vấn
nạn đạo đức về chiến lược khó giải
quyết.
- Gần đây, các cổ phiếu SME của Trung
Quốc bị khám phá là có nhiều vấn đề về
khai báo và đang tạo ra một tiếng xấu tệ
hại (tương tự với vấn đề an toàn thực
phẩm của Trung Quốc). Một phong trào
tẩy chay các cổ phiếu Trung Quốc đang
được cổ súy lan tràn trên mạng và trong
giới đầu tư ở Âu Mỹ. Những bùa phép
thủ thuật để lèo lái cổ phiếu cũng như
đạo đức cá nhân của các nhà quản lý
đang bị phơi trần hàng ngày, cùng với lời
kêu gọi SEC phải “mạnh tay” hơn trong
việc xử lý các vi phạm của doanh nghiệp
Trung Quốc. Vì sự thiếu hiểu biết, giới
tài chánh Âu Mỹ thường cho VN và
Trung Quốc là “cá mè một lứa”, nên ảnh
hưởng xấu này có thể làm hại đến cơ hội
lên sàn Mỹ của các công ty VN.
Nói tóm lại, cửa sổ của cơ hội vẫn đang
còn mở với các doanh nghiệp VN khi ra
biển lớn để tìm vốn trên sàn Mỹ. Trên
hết, sàn Mỹ vẫn có một thanh khoản rất
cao vì dòng tiền đầu tư đang quá dư
thừa. Giá chứng khoán vẫn gia tăng kỷ
lục trong 2 năm qua, dù tình trạng vĩ mô
toàn cầu đang bị đe dọa với rất nhiều rủi
ro.
Thực ra, nhiều chuyên gia phân tích đang
cảnh báo về một “thiên nga đen” (black
swan) có thể xảy đến vào 2012. Nếu
công ty bạn có thể vượt qua các thách
thức kể trên dễ dàng, tôi khuyên là nên
tạo kế hoạch ra biển lớn thật nhanh trước
khi bão đến. Trên mọi thị trường tài
chính, qua bao thăng trầm, nắm bắt thời
điểm vẫn là tất cả (timing is everything).
Kẻ cắp gặp bà già
Vấn nạn lớn nhất của anh trong thời
đại kim tiền và đám mây kiến thức
(cloud computing) này là anh chưa
định vị rõ ràng vai trò của mình trong
màn kịch của thế giới. Anh sẽ thủ vai
kẻ cắp hay bà già? Hay chỉ là một nạn
nhân lương thiện và ngu dốt? Bi kịch
sẽ xẩy ra khi người nham hiểm và mê
tiền lại không biết làm kẻ cắp hay bà
già.
Trong tiểu thuyết hay phim ảnh, những
câu chuyện về kẻ cắp đụng phải bà già
có những tình tiết luôn gây thú vị cho
người xem. Tuy vậy, những mẩu chuyện
kẻ cắp-bà già xẩy ra hàng ngày trong
thực tế của đời sống cũng không kém
phần hào hứng. Đây thực sự là những
liều thuốc cười cần cho tim mạch.
Ngân hàng Âu Mỹ và Hy Lạp
Trong những xứ sở đã phát triển có tình
trạng tiêu xài bê bối nhất từ chánh phủ
đến người dân phải kể đến Hy Lạp.
Trước khi gia nhập Liên Hiệp Âu Châu
(EU), các ngân hàng quốc tế thường né
tránh nợ công xứ này và không nhà đầu
tư nghiêm túc nào có thể tin tưởng vào
sự bền vững của đồng drachma. Chánh
phủ Hy Lạp luôn luôn thiếu hụt về ngân
sách và cử tri Hy Lạp luôn luôn thiên về
các ứng cử viên xã hội (thích quốc doanh
hóa các xi nghiệp thành công và tái phân
chia tài sản tư nhân bằng thuế vụ hay bội
chi cho các chương trình chánh phủ).
Kết qủa sau cùng là một nền kinh tế tụt
hậu so với các quốc gia khác ở Âu Châu
và những doanh nhân hay các tài năng về
mọi ngành thuờng có khuynh hướng rời
bỏ Hy Lạp để đi lập nghiệp ở các xứ
khác. Nhửng người còn lại thì tìm đủ mọi
cách để bòn rút tiền từ chánh phủ và có
một câu nói phổ thông ở đây là,”Nếu bạn
đóng thuế thì chắc bạn không phải là dân
Hy Lạp.” Tuy vậy, sự suy sụp của tài
chánh Hy Lạp không trầm trọng lắm vì
nợ vay của nước ngòai hiếm và tốn kém.
Mọi chuyện đều thay đổi vào năm 2001,
sau khi Hy Lạp gia nhập Liên Hiệp Âu
Châu (EU) và bắt đầu sử dụng đồng Euro
như bản vị chính. Các kẻ cắp đánh hơi
và nghĩ đây là một miếng mồi ngon. Kẻ
cắp số 1 là tập đòan Goldman Sachs và
các kẻ cắp nhỏ hơn như Credit Lyonnais,
BNP, Deutsche Bank, UBS…chạy theo
sau bước chân đại ca không cần suy nghĩ.
Trước hết, báo cáo tài chánh công của
Hy Lạp không đủ tiêu chuẩn để thỏa mãn
đòi hỏi pháp lý của EU, nên Goldman
Sachs phải tư vấn cho họ cách thức để
dấu nợ và thổi phồng số liệu tốt nhằm
mục đích vay tiền qua trái phiếu. Sau đó,
Goldman Sachs phân phối các trái phiếu
này cho đàn em là các ngân hàng Âu
Châu. Mọi người hạnh phúc. Chánh phủ
Hy Lạp có số tiền lớn để tiêu xài thỏai
mái, người dân và cò dự án hưởng bao
nhiêu là lợi ích từ những chương trình
tiêu xài ngắn và dài hạn, các ngân hàng
Âu Mỹ thu về bao nhiêu là phí tư vấn và
phí phát hành trái phiếu.
Nhưng giống như chuyện tiểu thuyết,
ngày vui lúc nào cũng chóng tàn. Mọi
người quên đi một chi tiết rất nhỏ nhặt:
nợ đáo hạn thì phải trả. Các kẻ cắp quên
nhắc nhở các quan chức chánh phủ điều
này; và đa số người dân cũng nghĩ rằng
họ không liên hệ gì đến việc trả nợ khi
họ bỏ phiếu chấp nhận những khỏan vay.
Nhưng bà già Hy Lạp cũng không vừa.
Họ nói với kẻ cắp là họ sẽ tuyên bố phá
sản và để mặc cho các ngài ăn cắp lo
liệu.
Các ngân hàng Âu Mỹ sợ tái người. Mất
đi hơn 400 tỷ dollars sẽ khiến vài ngân
hàng cỡ lớn đi theo Lehman Bros ra
nghĩa địa và các vị giám đốc ngân hàng
sẽ mất job, mất nhà, mất xe, mất vợ, mất
nhân tình. Họ thống nhất lại và lobby các
chánh phủ Âu Châu phải bỏ tiền ra cứu
trợ Hy Lạp. Gói tài trợ năm 2010 với
160 tỷ dollars không đi đến đâu, và gói
thứ nhì 170 tỷ dollars giữ tình hình tạm
yên lúc này. Tuy vậy, với số nợ lên đến
580 tỷ dollars hoặc hơn nữa (khỏang
150% của GDP) và lãi suất hơn 14%,
Hy Lạp sẽ chẳng bao giờ trả nổi hết nợ.
Vấn đề có phá sản hay không chẳng còn
là “câu hỏi” nữa, mà đề tài bây giờ là
“khi nào thì phá sản”.
Ít nhất, các kẻ cắp trong chuyện này,
cũng đã “đẩy cây” 330 tỷ dollars cho
người dân các nước Đức, Pháp…đóng
thuế trả dùm Hy Lạp.
Chánh phủ Mỹ và Trung Quốc
Trong câu chuyện này, thật khó mà biết
ai là kẻ cắp, ai là bà già? Kẻ nửa cân,
người tám lạng? Lịch sử bắt đầu khi Mao
Trạch Đông nắm quyền ở Hoa Lục vào
năm 1949. Người Mỹ hỏang sợ nghĩ là
con rồng Tàu đã trổi dậy. Tuy nhiên, Chủ
Tịch Mao lại trở thành người bạn tốt của
đế chế Mỹ bằng cách kềm hãm Trung
Quốc trong 30 năm dài với một chánh
sách kinh tế tập trung và thóai trào.
Trong khi những công dân Tàu ở các
nước nhỏ bé như Đài Loan, Hồng Kông,
Singapore…học cách làm ăn của Âu Mỹ
và tiến nhanh để bắt kịp người da trắng
về thu nhập, thì Hoa Lục lại thoi thóp với
lợi tức không quá 200 USD mỗi đầu
người mỗi năm (1975).
Năm 1972, kinh tế Mỹ gặp khó khăn khi
đà phát triển bị tắc tị với chính sách dầu
hỏa của OPEC, với chiến tranh Việt Nam
và với một thị trường nội địa đã bão hòa.
Kissinger, đại diện cho nhóm quyền lực
Do Thái, thúc đẩy Nixon bắt tay Hoa Lục
để các “kẻ cắp” có cơ hội tiến vào một
thị trường 1.2 tỷ dân. Muốn làm một nhân
vật lịch sử và cũng bắt đầu gặp rắc rối
với cử tri vì kinh tế, Nixon hăng hái “mở
cửa” Trung Quốc. Mao và các đồng chí
cũng hờ hởi vì đất nước đã quá tiêu điều
sau cuộc cách mạng văn hóa vĩ đại. Vả
lại, “bà già” cũng chẳng có gì để mất.
Bà già đón nhận rồi tìm đủ thủ thuật để
bòn rút và gặm nhắm tiền nong và công
nghệ của kẻ cắp. Bà trở thành kẻ cắp
chuyên nghiệp. Sau 30 năm, Trung Quốc
giữ giá lao công và tỷ giá hối suất rẻ mạt
để các nhà tư bản Âu Mỹ vui vẻ đầu tư
và mở cửa thị trường cho hàng hóa Tàu.
Các chính trị gia Âu Mỹ cũng hoan hỉ vì
cử tri họ có một đời sống sung túc hơn
nhờ giá quá rẻ của hàng hóa. Thêm vào
đó, tiền Trung Quốc kiếm được từ xuất
khẩu lại quay về Âu Mỹ qua việc mua
trái phiếu của các chánh phủ Âu Mỹ và
các khỏan tiền “rửa” của các đại gia
Trung Quốc.
Tuy nhiên, kẻ cắp và bà già luôn luôn
quên những chi tiết nhỏ nhặt rất bất tiện.
Một là nợ lúc nào cũng phải trả khi đáo
hạn. Hai là khi anh cho một “kẻ cắp”
vay, thì rủi ro mất tiền là điều không sao
tránh khỏi.
Trong 35 năm qua, chánh phủ Trung
Quốc đã lợi dụng sức lao động của hơn
tỷ người dân để kiếm được hơn 4 ngàn tỷ
dollars cho quỹ ngọai hối. Các đại gia
và quan chức Trung Quốc cũng thừa
nước đục để “câu” hơn 1.8 ngàn tỷ
dollars (ước lượng trên các mạng
Internet). Con số này đã bốc hơi hết 720
tỷ khi Mỹ áp dụng chính sách hạ giá
dollar (khỏang 12%) trong 3 năm qua để
kích cầu kinh tế nội địa (thực ra là để
cứu các ngân hàng Âu Mỹ). Hiện nay,
các công ty thẩm định tín dụng như
Moody, S&P, Fitch…dọa là sẽ hạ cấp
tín dụng của trái phiếu quốc gia Mỹ; và
đảng Cộng Hòa cũng như phong trào Tea
Party cũng đang áp lực để Obama không
thể vay thêm tiền cho chánh phủ. Đồng
dollar sẽ mất thêm khỏang 18% nữa nếu
1 trong 2 điều này xảy ra.
Dĩ nhiên, khi nền kinh tế quá tùy thuộc
vào thị trường xuất khẩu và túi tiền tiết
kiệm có thể bay hơi theo đồng dollar, thì
kẻ cắp Trung Quốc lại trúng kế của bà
già Mỹ. Thế gộng kềm tạo ra sự đổi ngôi
liên tục giữa hai siêu quái này.
Chuyện chúng mình
Một doanh nhân trẻ kể với tôi những
thành công và thất bại của anh ta trong 10
năm qua và xin ý kiến vì anh muốn tìm
một định hướng mới cho sự nghiệp. Tôi
khuyên anh nên đọc đi đọc lại binh pháp
của Tôn Tử và chiến thuật của
Machiavelli nếu muốn thắng trên thương
trường. Nếu anh chỉ muốn làm người tử
tế và văn minh, thì nên đọc sách Lão Tử
và Og Mandino. Vấn nạn lớn nhất của
anh trong thời đại kim tiền và đám mây
kiến thức (cloud computing) này là anh
chưa định vị rõ ràng vai trò của mình
trong màn kịch của thế giới. Anh sẽ thủ
vai kẻ cắp hay bà già? Hay chỉ là một
nạn nhân lương thiện và ngu dốt? Bi kịch
sẽ xẩy ra khi người nham hiểm và mê
tiền lại không biết làm kẻ cắp hay bà già.
T/S Alan Phan, Chủ Tịch Quỹ Đầu Tư
Viasa
Đầu tư ngoại tệ
nào?
Trong bối cảnh bất ổn của nhiều nền
kinh tế thế giới và lạm phát tăng cao
tại nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc
gia thuộc khu vực Đông Á, nhiều nhà
đầu tư đang băn khoăn không biết nên
đầu tư vào loại ngoại tệ nào để đảm
bảo được giá trị, chưa nói tới chuyện
nâng cao được giá trị của khoản đầu
tư đó. DOANH NHÂN xin giới thiệu
quan điểm của T/S Alan Phan, Chủ
tịch Quỹ Đầu tư Viasa về vấn đề này.
Trong rổ ngoại tệ của thị trường ngoại
hối hiện nay, có khá nhiều đồng tiền của
các quốc gia được nhà đầu tư và người
dân quan tâm nắm giữ. Tùy thuộc mục
đích sử dụng mà mỗi người có sự quan
tâm khác nhau. Tuy nhiên, dù với mục
đích nào thì việc lựa chọn, nắm giữ các
đồng tiền cũng sẽ dựa trên cơ sở giá trị
thực và giá trị thị trường của đồng tiền
đó.
Giá trị thực của một đồng tiền được xác
định bằng sức mạnh nội tại của nền kinh
tế. Còn sức mạnh của nền kinh tế lại
được thể hiện qua một số chỉ tiêu cơ bản,
bao gồm: GDP, bảng cân đối tổng sản
phẩm, thu nhập theo đầu người, tăng
trưởng kinh tế, dự trữ quốc gia (ngoại
hối, hàng hóa, vàng hay bạc), cán cân
thanh toán, thâm hụt thương mại, nhập
siêu, xuất siêu v.v…
Giá trị thị trường của một đồng tiền được
xác định bằng cung và cầu, như một loại
hàng hóa có thể đánh giá mức độ hấp dẫn
thông qua thanh khoản giao dịch của thị
trường.
Trên cơ sở xác định giá trị thực và giá
thị trường của một đồng tiền, nhà đầu tư
sẽ ra quyết định lựa chọn loại ngoại tệ
để đầu tư. Tuy nhiên, mức độ sai số về
sự chi phối, tác động ngoài dự kiến của
nền kinh tế tới đồng tiền đó trong nhất
thời lẫn dài hạnlà điều khó tránh.
Thị trường ngoại hối Việt Nam giao dịch
nhiều loại tiền mặt thông dụng với hầu
hết mọi quốc gia trên thế giới: đồng đô
la Mỹ (USD), đồng Nhân dân tệ Trung
Quốc (NDT), đồng Franc Thụy Sĩ
(CHF), đồng đô la Canada (CAD), đô la
Úc (AUD), đô la Singapore (SGD)…
USD: Là đồng tiền chính trong dự trữ
ngoại hối của Việt Nam, cũng là đồng
tiền thanh toán quốc tế. Do đó, USD
không chỉ quan trọng mà còn rất thanh
khoản tại Việt Nam cũng như trên toàn
thế giới. Trong tương lai gần hay 5 năm
tới, dự đoán giá trị của đồng USD vẫn sẽ
chịu sự chi phối của hai yếu tố cung cầu.
Nhu cầu sử dụng đồng USD: do là đồng
tiền của nền kinh tế lớn nhất thế giới, của
một chính phủ đã củng cố và xây dựng
được niềm tin về sự ổn định chính trị,
kinh tế, xã hội hàng đầu thế giới trong
một thời gian dài và không dễ có gì thay
đổi hay đánh đổi được niềm tin ấy, nên
nhu cầu nắm giữ USD vẫn sẽ khá cao,
đặc biệt trong tình trạng bất ổn của nhiều
nền kinh tế khác.
Khối lượng cung ứng USD: hiện đang
tăng lên sau những gói kích cầu kinh tế
(quantitative easing) của Chính phủ Mỹ
trong 3 năm qua nhằm cứu các ngân hàng
lớn. Đồng thời, Cục dự trữ Liên bang Mỹ
(Federal Reserve) đang thi hành chính
sách một đồng đô la yếu để giúp thúc
đẩy xuất khẩu và giảm giá trị nợ.
Khi cung tăng lên, cầu vẫn giữ mức cao,
vị thế cân bằng sẽ giúp USD không hạ
giá nhiều so với giá trị thực và vẫn giữ
được vị trí là đồng tiền thanh toán số 1
của thế giới. Theo đó, tỷ giá đồng đô la
Mỹ trên thị trường quốc tế là khá ổn định
và nếu có sụt giảm cũng sẽ chỉ giảm ở
mức khoảng 1-3% đến cuối năm 2012.
NDT: Ngược với các ngoại tệ khác,
NDT không do thị trường định giá mà do
Chính phủ Trung Quốc “uốn nắn” theo
mục đích chính trị. Không một chuyên
gia tài chính nào có thể tiên đoán được
chính xác sự lên xuống của NDT.
Dù nền kinh tế Trung Quốc hiện đã lớn
mạnh, GDP đang đứng thứ hai trên thế
giới, với dự trữ quốc gia đạt trên 3.200
tỷ USD, nhưng vài yếu kém nội tại có thể
ảnh hưởng không những đến nền kinh tế
mà cả sự ổn định xã hội của nước này.
Ba yếu tố tiêu cực nhất là lạm phát, bong
bóng tài sản và nợ xấu của hệ thống ngân
hàng.
Nhiều người nói về việc NDT trở thành
đồng tiền thanh toán chung của thế giới,
thay vị trí của USD. Tôi không tin
chuyện này sẽ xảy ra vì thể chế và cơ cấu
chính trị của Trung Quốc không cho phép
sự minh bạch và trung thực về tài chính.
Khi đồng NDT chưa được tự do chuyển
đổi, mua bán (ngoại trừ một vài giao
dịch đặc biệt của chính phủ), thì NDT
vẫn chỉ là một đồng bản tệ.
CHF: Là đồng tiền có giá trị thực khá
cao do sự điều hành về tài chính rất
thông minh của Chính phủ nước này.
Đồng CHF đang được thị trường đánh
giá cao và cầu sẽ vượt cung vào những
năm tới.
Vì cuộc khủng hoảng nợ công ở một vài
quốc gia châu Âu đang làm suy yếu đồng
Euro, người dân có tiền ở các quốc gia
thuộc khối EU và Đông Âu đang có xu
hướng tích lũy và cất trữ CHF. Kinh tế
toàn cầu càng bất ổn thì CHF sẽ càng là
đồng tiền bền vững và tăng giá đều đặn.
CAD và AUD: Đây là 2 đồng tiền có vị
thế và xu thế khá giống nhau vì dựa trên
nền kinh tế giàu kháng sản (và dầu mỏ ở
Canada). Tuy nhiên, các nguyên liệu thô
đã tăng giá khá cao trong mấy năm vừa
qua, và kinh tế toàn cầu đang suy thoái,
nên giá dầu và khoáng sản sẽ khó đạt
mức tăng cao hơn nữa. Giá thị trường
hay giá trị thực của CAD và AUD vì vậy
sẽ bão hòa ở mức hiện tại, không lên quá
cao, cũng không xuống quá thấp.
SGD: Trong những năm gần đây, GDP
của Singapore đã tăng trưởng cao, nhưng
đây không hẳn là một nền kinh tế dựa vào
tài nguyên, tiêu thụ nội địa hay sức sản
xuất hàng hóa.
Andy Xie, một chuyên gia cao cấp của
Morgan Stanley, đã bị cho thôi việc
dưới áp lực của Chính phủ Singapore chỉ
vì nhận định: “Singapore là trung tâm
rửa tiền của các nước Đông Nam Á”.
Nhờ vào các dòng tiền luân chuyển có lẽ
là lý do chính giải thích cho sự phồn
thịnh của Singapore. Khi các nền kinh tế
trong khu vực đang gặp vấn đề về an
toàn của hệ thống tài chính và phải thắt
lưng buộc bụng vì lạm phát tăng vọt thì
SGD cũng sẽ bị ảnh hưởng.
Với tổng quan trên về một số ngoại tệ
trên thị trường hối đoái, nhiều người sẽ
hỏi cá nhân tôi chọn đồng tiền nào cho
mục đích đầu tư, cất trữ? Xin thưa, nếu
cần giữ tiền mặt tôi sẽ chọn CHF. Tuy
nhiên, lựa chọn tối ưu của tôi từ trước
đến nay vẫn là vàng. Cá nhân tôi trung
thành với quan điểm dẫu là thanh khoản,
tiện lợi và được ưa chuộng đến đâu, mọi
đồng tiền giấy đều có thể bị chi phối,
làm giá và in thêm từ các tác nhân chính
trị, chưa kể còn cộng thêm nhiều yếu tố
khác. Tôi không bao giờ tin vào đồng
tiền giấy, mà tin vào giá trị của vàng về
mặt tài chính!
Báo Doanh Nhân xuất bản số 85 ngày
9/8/2011
T/S Alan Phan, Chủ tịch Quỹ Đầu tư
Viasa
Giải mã nền kinh tế
ngầm
Trong viễn ảnh bi quan, nhiều chuyên
gia níu lấy cái phao khó phản bác là
“nền kinh tế ngầm” của Việt Nam rất
mạnh, lượng dự trữ vàng và ngoại hối
rất cao, các họat động này sẽ cứu nguy
tình trạng vĩ mô, và chúng ta sẽ ổn
thôi.
Những ngày qua, tình hình kinh tế thế
giới biến đổi nhanh chóng. S&P hạ cấp
tín dụng nước Mỹ; vàng vượt 1,700
dollar một lượng; Dow Jones rớt hơn
1,300 điểm trong vài ngày; Trung Quốc
chửi Mỹ thậm tệ vì làm sụt giảm giá trị
dollar (coi bài Kẻ Cắp gặp Bà Già để
hiểu thêm mánh mung của hậu trường
chính trị). Cá nhân tôi có thể “gáy” to
với bạn bè: tôi đã khuyên là cứ ôm lấy
“vàng” 4 năm về trước; tôi đã đóan
trước một năm các cuộc khủng hỏang tài
chính 2007 và 2011 từ bong bóng BDS,
rồi nợ công vì kích cầu, và lạm phát vì in
tiền bừa bãi.
Nhưng thực sự, tôi phải thú nhận là
những kiến thức chính xác này tôi đã
“trộm” được sau khi lắng nghe những
mẫu chuyện bình thường của các anh chị
lao công, các người mua bán hàng lẻ
nhỏ, các nhân viên cấp thấp của văn
phòng… trong giao thiệp hàng ngày.
Không gì nguyên bản.
Các chuyên gia kinh tế thường chỉ nhìn
vào số liệu thống kê từ chánh phủ và đưa
ra kết luận dựa trên sách vở từ tháp ngà
nghiên cứu, nên đến 90% không biết
chuyện gì đang xẩy ra và chuyện gì sẽ
sắp đến. Như con ngựa bị bịt mắt hai
bên, chỉ biết cắm đầu trên con đường
trước mặt.
Trong viễn ảnh bi quan, nhiều chuyên gia
níu lấy cái phao khó phản bác là “nền
kinh tế ngầm” của Việt Nam rất mạnh,
lượng dự trữ vàng và ngoại hối rất cao,
các họat động này sẽ cứu nguy tình trạng
vĩ mô, và chúng ta sẽ ổn thôi. Theo ước
tính, nền kinh tế ngầm của Trung Quốc và
Việt Nam có thể chiếm 30 đến 45%
GDP, so với khỏang 8% bên Mỹ. Lý do
là tín dụng cá nhân ở đây không phổ biến
như bên Mỹ và các giao dịch tiền mặt lên
đến 65% tổng số thương vụ. Giả thuyết
này khá thuyết phục vì không ai rờ nắm
được hiện trạng thực hư của con số dự
phóng.
Tuy nhiên, một sự kiện nhỏ trong gia
đình làm tôi “vấn đáp” lại tiêu đề này.
Bà ô sin trong nhà có một bà chị buôn
bán tạp hóa tại một xã nhỏ ở Hậu Giang.
Thương vụ chừng 7 triệu một tháng; và
ước tính lạc quan nhất cho bà một lợi tức
khoảng 2 triệu một tháng hay 24 triệu một
năm. Bà vừa phải trốn khỏi xã sau khi
không trả nổi số nợ lên đến khỏang 350
triệu. Sự phá sản của bà tạo phản ứng
dây chuyền và sau đó có hơn 20 người
phải đi trốn nợ. Cho đến nay, mọi người
lên quan vẫn tìm cách giải quyết là đi
vay nợ thêm từ nhiều thành viên khác của
gia đình bạn bè. Hệ thống “hụi”, nợ trả
góp từ cá nhân, vay mượn từ bạn bè gia
đình… từ xưa đã thành một tập tục phổ
thông khắp xã hội, và hệ thống ngân hàng
không chánh thống này được nhiều
chuyên gia đánh giá cao về hiệu quả.
Tôi nhận thấy ngay khác biệt giữa tín
dụng “ta” và “tây”. Các mạng truyền
thông thường nêu ra khuyết điểm lớn nhất
của nền kinh tế Mỹ là tín dụng cho các
người tiêu dùng chiếm tỷ lệ quá cao trên
tổng số tín dụng của quốc gia (hơn 30%
của 40 ngàn tỷ dollar).
Khi tỷ lệ thất nghiệp vượt 10%, thu nhập
để trả tiền nhà, tiền xe, tiền thẻ (credit
cards) không đủ, tạo nên những thất thóat
lớn cho ngân hàng. Trong khi đó, một
chuyên gia nói với tôi là ở Việt Nam,
phần lớn tín dụng là dành cho các doanh
nghiệp, thay vì cá nhân, nên hiểm họa nợ
xấu do ăn tiêu quá mức khó xảy ra. Ông
quên rằng hơn 40% nợ vay ngân hàng là
để đầu tư vào bất động sản, chứng khóan
hay các họat động thương mại phiêu lưu
khác, dù mọi người vẫn hay lách luật
bằng những tên gọi khác nhau.
Dĩ nhiên, sự tiêu xài của người Mỹ là
một vấn nạn; thêm vào đó, các chánh phủ
Mỹ đã lợi dụng yếu điểm này của người
dân để làm lực đẩy cho GDP, lấy thuế
cho ngân sách, gia tăng quyền lực của
quan chức, chi tiêu cho những phiêu lưu
quân sự của đế chế và vay tiền bừa bãi.
Nhưng dù tiêu xài cao, phần lớn nợ tư
của các gia đình bị giới hạn vào chỉ tiêu
cho vay của ngân hàng, vì khó mà đi vay
từ cá nhân ở Mỹ. Thông thường, vay nợ
để mua nhà được tài trợ khỏang 25%
dựa trên khả năng trả nợ (thu nhập) và
ngân hàng cho thêm khoảng 15% cho các
nợ xe, nợ thẻ và các nợ khác. Tóm lại,
nếu bạn có 5 ngàn dollar lợi tức mỗi
tháng (trừ ra khỏang 800 dollar thuế) thì
số nợ tối đa theo giấy tờ là vào 1,680
dollar mổi tháng. Số nợ an tòan là
$300,000 cho một căn nhà trả 30 năm
với lãi suất 5.5% và nợ xe, nợ thẻ
khỏang $60,000 với lãi suất 10% trung
bình.
Quay lại chuyện Việt Nam, nếu gia đình
bà bán hàng nói trên chỉ có 2 triệu lợi
tức, bà chỉ được vay tối đa chừng 30
triệu với lãi suất 20%. Khi bà nợ đến 11
lần khả năng trả nợ thì sớm muộn gì bong
bóng cũng vỡ, dù ở Việt Nam hay Mỹ.
Sự thiếu minh bạch về hệ thống tín dụng
và khả năng thu nhập đã gia tăng rủi ro
rất cao. Tôi càng ngạc nhiên hơn khi một
báo cáo về “hụi” cho thấy họat động này
khá phổ biến vì tổng số được ước tính
đến 22% tổng số nợ của ngân hàng.
Ngòai bong bóng bất động sản đã bắt đầu
xì hơi, một bong bong nợ cá nhân khắp
xứ sẽ khiến nhiều ngân hàng chao đảo, vì
có rất nhiều người với khả năng vay ngân
hàng đã dùng tiền này để cho vay lại
ngòai tư nhân, tìm khoản lời sai biệt.
Nhiều người cũng so sánh Việt Nam với
Trung Quốc nơi nền kinh tế ngầm cũng
rất phát triển và hiện tượng hụi cũng rất
phổ thông. Sống ở Trung Quốc 15 năm
qua, tôi nhận xét một điều là nói chung,
dân Tàu thực sự cần kiệm (dù không
bằng Ấn Độ) hơn dân ta nhiều. Thống kê
của Visa International về mức độ tiêu xài
cá nhân xác định Việt Nam dẫn đầu bảng,
và nếu tính theo thu nhập đầu người,
chúng ta qua mặt cả dân Mỹ về mặt tiêu
xài. Ngay cả trong lãnh vực sản xuất, tôi
cũng nghe và biết khá nhiều khoản vay
mượn ngòai luồng của các doanh nghiệp
với lãi suất chóng mặt (5% một tháng) để
sống còn.
Nền kinh tế ngầm Việt Nam có thực sự
đủ mạnh để giúp mọi người vựơt qua
bão lớn? Tầm ảnh hưởng của nó như thế
nào với hệ thống ngân hàng, với bong
bong bất động sản, với mức tiêu dùng
của người dân? Nó tùy thuộc thế nào vào
lượng kiều hối, vào kênh đầu tư vàng,
vào sự trú ẩn an tòan của lượng tiền nhàn
rỗi?
Như đã nói từ đầu, tôi nghĩ là kinh tế
tòan cầu sẽ lâm vào cảnh suy phát
(stagflation) trong 4 đến 6 năm kể từ
2012. Bài viết này đặt ra vài câu hỏi để
chúng ta bàn luận vì kết quả thực sự sẽ
thay đổi những dự phóng về khả năng
vượt bão của Việt Nam trong những năm
tới. Hỏi thế thôi, chứ bất cứ kết luận nào,
dù tích cực hay tiêu cực cũng đều có sác
xuất đúng sai như nhau.
Nhưng khi quyết định kinh doanh hay đầu
tư, doanh nhân cũng nên suy nghĩ thêm về
yếu tố này.
TS Alan Phan là Chủ Tịch Quỹ Đầu Tư
Viasa tại Hong Kong và Shanghai. Du
học Mỹ từ năm 1963, ông đã làm việc tại
nhiều công ty đa quốc gia ở Wall Street
và phát triển công ty Hartcourt của mình
thành một tập đoàn niêm yết trên sàn Mỹ
với thị giá hơn 700 triệu dollars. Ông
sống và làm việc tại Trung Quốc từ
1999. T/S Phan tốt nghiệp BS tại Penn
State (Mỹ), MBA tại American
Intercontinental (Mỹ), Ph.D tại Sussex
(Anh) và DBA tại Southern Cross (Úc).
Ông đã xuất bản 7 cuốn sách bằng Anh
và Việt ngữ. Email của ông là
aphan@asiamail.com và Web site cá
nhân là www.gocnhinalan.com.
T/S Alan Phan, Chủ tịch Quỹ Đầu tư
Viasa
Việt Nam và Trung
Quốc
Tôn Tử nhắc chúng ta là “Kết quả của
trận chiến đã được quyết định trước
khi hai bên khai hỏa”. Những cân
nhắc, chuẩn bị và sáng tạo là vũ khí
lớn nhất khi bạn đi vào một vùng đất
lạ
Vì lịch sử và văn hóa giữa hai nước có
quá nhiều tương tác nên các doanh nhân
Việt thường nhìn vào thị trường và cơ
hội ở Trung Quốc không mấy khách
quan. Người thì ưa thích, hăng hái không
lý do, người thì chê bai không muốn liên
quan gì. Thậm chí, tôi thường bị cật vấn
là nếu Trung Quốc trở thành siêu cường,
qua mặt Mỹ thì ảnh hưởng gì sẽ đến với
chuyện làm ăn của chúng ta với họ?
Xin trả lời vắn tắt là Trung Quốc sẽ qua
mặt Mỹ về GDP khoảng 10 năm nữa vì
dân số hơn 1.3 tỷ người là quá lớn;
nhưng muốn qua mặt Mỹ về chất lượng
cuộc sống, về sức mạnh quân sự, về văn
minh văn hóa, về GDP mỗi đầu người,
thì Trung Quốc còn phải đợi ít nhất là 30
năm nữa. Còn ảnh hưởng gì sẽ đến với
các doanh nghiệp của chúng ta? Không gì
cả. Việc sống chết hay thăng trầm cùa
doanh nhân luôn nằm trong sức mạnh nội
tại và những lơi thế cạnh tranh, dù có
Trung Quốc hay không.
Hoàn toàn khách quan khi suy xét vấn đề,
chúng ta sẽ nhận rõ những thử thách và
cơ hội. Ngoài những định luật tổng quát
về kinh doanh và quản trị, các doanh
nghiệp làm ăn với Trung Quốc sẽ phải
đối diện thêm một số các vấn đề tốt và
xấu khá đặc thù.
Trước hết, cá tính căn bản của người
Trung Quốc trong kinh doanh là thủ
đoạn, tinh ranh và khôn khéo không kém
gì người Do Thái. Sau 70 năm bị kềm
kẹp và khổ sở, họ tạo thêm thói quen tàn
nhẫn, vô luân nhưng rất kiên cường, chịu
khó. Nhưng cũng vì yếu tố này, tư duy
của họ chật hẹp và ngắn hạn. Phải mất
thêm 20 năm nữa, con cái họ mới bắt kịp
các doanh nhân Hoa kiều ở Hồng Kông,
Singapore…Dù thế nào, đây là những
đối thủ cạnh tranh nặng ký trên mọi
phương diện.
Một yếu tố khác bất lợi cho doanh nhân
Việt là người Trung Quốc không ưa
người Việt. Cách đây 4 năm, tôi có đọc
một khảo sát của Sina.com hỏi về những
dân tộc mà người Trung Quốc yêu và
ghét. Người Nhật Bản đứng hàng đầu về
sự thù ghét vì những hành động xẩy ra
giữa Thế Chiến II khi Nhật xâm chiếm
Trung Quốc. Nhưng rất ngạc nhiên là
người Việt đứng hàng thứ hai sau Nhật.
Không những ghét, người Trung Quốc
thường cho mình là “thầy” của người
Việt, vì họ cho rằng tất cả văn hóa, lịch
sử của Việt Nam là một cóp nhặt sao bản
của Trung Quốc. Thái độ ghét và trịch
thượng này sẽ ảnh hưởng nhiều đến các
giao dịch thương mại.
Quan trọng hơn, mọi người phải nhìn
nhận hàng hóa Trung Quốc rất cạnh tranh
về giá cà nhờ một hệ thống sản xuất được
coi là “cơ xưởng của thế giới” và một tỷ
giá Nhân Dân Tệ ở mức thấp hơn giá trị
thực khoảng 18%. Thêm vào lợi thế là
một tổ chức ăn cắp công nghệ tinh vi và
sự cố không tôn trọng tài sản trí tuệ như
thương hiệu, bản quyền, hàng nhái, hàng
giả…, cho nên, ngay cả hàng chất lượng
Âu Mỹ cũng phải thua sút về khả năng
cạnh tranh.
Một bất lợi khác cho sự xâm nhập vào
thị trường Trung Quốc là cá thể của thị
trường rất phức tạp với nhiều phân khúc,
nhiều mâu thuẫn với quyền lợi của các
quan chức địa phương, cũng như thủ
đoạn của các đối thủ cạnh tranh và sự
khó tính của người tiêu thụ.
Trung Quốc không có một thị trường
đồng nhất như Âu Mỹ hay Úc Nhật. Một
kinh tế gia phân thị trường thành 4 phân
khúc, dựa trên thu nhập, vị trí địa lý, đặc
điểm của văn hóa bang hội và ảnh hưởng
của truyền thông, giáo dục. Đông nhất là
thị trường của 600 triệu người nghèo khổ
tại thôn quê với thu nhập dưới 8,000
Yuan mỗi đầu người một năm; nhưng
tiềm năng phát triển tốt nhất là thị trường
trung lưu với hơn 300 triệu dân.
Những khó khăn khác là sự thỏa hiệp
giữa quan chức và doanh nhân tại mỗi
địa phương; và thói quen dùng quyền lực
và thủ đoạn để dành thị trường cho các
doanh nhân có quan hệ. Cách đây vài
năm, ngay cả bia Heineken cũng bị ngăn
chặn bởi nhiều quận huyện không muốn
thấy bia địa phương bị thua lỗ vì cạnh
tranh.
Tuy nhiên, những thử thách nói trên
không phải là không thể giải quyết. Dù
người Nhật bị ghét hận, nhưng hàng hóa
Nhật lại được ưa chuộng nhất tại Trung
Quốc. Một thống kê về sản phẩm chất
lượng nhất năm 2005 cho thấy 5 trong 10
thương hiệu hàng đầu tại Trung Quốc là
của Nhật. Vả lại, với một nền kinh tế thứ
hai thế giới về GDP, thị trường Trung
Quốc là một miếng ăn béo bở cho ai biết
khai thác và phát triển.
Lợi điểm của doanh nghiệp Việt Nam so
với các đối thủ nước ngoài khác cũng
khá nhiều, ngoài việc vị trí nằm sát
Trung Quốc. Hai quốc gia chia sẻ nhiều
tương đồng về phương thức kinh doanh,
cơ chế chánh trị, phí tổn lao động, hệ
thống phân phối, và thói quen cổ truyền.
Hai nền kinh tế có thể hỗ trợ chặt chẽ
cho nhau vì Trung Quốc cần nông hải
sản, khoáng chất, thị trường tiêu dùng;
còn Việt Nam thì cần rất nhiều nguyên
liệu và máy móc cho sản phẩm công nghệ
xuất khẩu.
Tuy nhiên, để có hiệu quả hơn trong việc
xâm nhập bền vững vào thị trường Trung
Quốc, doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý
đến các thành tố sau đây:
1. Sản phẩm: Đừng bắt chước Trung
Quốc là lời nhắc nhở hàng ngày.
Trừ những hàng có đặc tính siêu
cấp và độc đáo, chúng ta không thể
cạnh tranh với hàng Trung Quốc tại
sân nhà của họ. Ngoài các nông hải
sản mà Trung Quốc thiếu hụt, như
cà phê, trái cây nhiệt đới, những
mặt hàng tiêu dùng Việt Nam như
dồ gỗ hay giầy dép phải có thiết kế
mỹ thuật cao cấp kiểu Ý, Pháp…
2. Đối tác: Kiên nhẫn tìm cho được
một đối tác lớn mạnh, tin cậy và
thân tình. Không mấy doanh nhân
nước ngoài có thể vận hành tốt hệ
thống tiếp thị và cung ứng trong một
thị trường phức tạp như Trung
Quốc. Chúng ta cũng cần tạo dựng
những quan hệ lâu dài với doanh
nhân và quan chức, từ trung ương
đến dịa phương.
3. Thị trường: Nhắm vào thị trường
trung lưu và trẻ trung. Ít doanh
nghiệp Việt có bề sâu về quản trị và
thương hiệu như Âu Mỹ để xâm
nhập hữu hiệu vào thị trường
thượng lưu. Còn thỉ trường rẻ tiền
thì nên chào thua trước vì doanh
nghiệp Trung Quốc đã làm bá chủ.
Ngành nghề tiềm năng là quán ăn
Việt, hàng hóa đặc thù Việt, công
nghệ cao kết hợp với giải pháp đặc
biệt cho Á Châu…
4. Chiến lược: Suy nghĩ dài hạn và
độc đáo. Có thể bạn phải vấp ngã
nhiều lần trước khi tìm được mô
hình kinh doanh hiệu quả. Sử dụng
tối đa nhân viên và tư vấn Trung
Quốc để hòa đồng vào môi trường
và phong cách. Tìm hiểu con người
và văn hóa Trung Quốc để biết thế
mạnh yếu của doanh nghiệp mình.
Tôn Tử nhắc chúng ta là “Kết quả của
trận chiến đã được quyết định trước khi
hai bên khai hỏa”. Những cân nhắc,
chuẩn bị và sáng tạo là vũ khí lớn nhất
khi bạn đi vào một vùng đất lạ. Qua
những cánh đồng sa mạc và khu rừng rậm
hoang dữ, bạn sẽ tìm thấy một dòng suối
ngọt ngào cạnh một khu vườn đầy hoa
thơm trái lạ. Đó là một chuyện ngụ ngôn
khá phổ thông ở Trung Quốc, nhưng cũng
có thể là bản đồ của con đường “đi vào
Trung Quốc” cho các doanh nghiệp Việt?
Mời bạn lên đường.
(Bài đã được Tạp Chí Doanh Nhân
đăng vào số 88 xuất bản ngày 19 tháng
9 năm 2011 )
Những can thiệp vô
ích
Sau khi đã hết vốn chánh trị để có thể
tung ra gói kích cầu nào khác (QE 3), hai
ông Obama và Bernanke dùng một tên
mới là “gói giúp việc làm” với 450 tỷ
dollars và “gói chuyển đổi trái phiếu”
(Operation Twist) với 400 tỷ dollars để
cố hồi sinh kinh tế Mỹ. Dĩ nhiên, hai ông
phải in thêm tiền hay vay mượn. Sang
năm, không những vốn chánh trị của hai
ông và đảng Dân Chủ sẽ hết, mà công nợ
và sự sụt giá của đồng dollar sẽ gây thêm
tác hại cho vận hành kinh tế của Mỹ và
toàn cầu qua lạm phát. Hai ông không thể
chấp nhận một cuộc suy thoái kinh tế
nào, cho dù đó là định luật của thiên
nhiên. Khi vay thì phải trả, khi tiêu xài
tưng bừng không sản xuất thì phải chấp
nhận một suy đồi về tăng trưởng để bắt
đầu lại. Tại sao thiên nhiên có bốn mùa,
tại sao mọi người vẫn vui với mùa thu lá
vàng, với mùa đông tuyết lạnh, vì họ biết
rằng tiếp theo là mùa xuân của lá xanh và
chồi lộc. Tôi tin rằng hai ông sẽ thất bại
như trong hai lẩn trước khi ban hành QE
1 và QE2. Kinh tế sẽ được tác động
trong vài ba tháng, rồi thị trường và luật
tự nhiên sẽ kéo dài thêm suy thoái, mổi
lần xấu hơn một chút.
Giống như những đứa trẻ vừa lớn, chính
trị gia luôn thích quậy phá, sửa đổi và
hiếu động. Chúng không bao giờ chấp
nhận ngồi yên cho tình thế tự biến đổi
hay cho người lớn chút yên nghĩ để lo
liệu công việc của riêng họ. Chúng phải
suy nghĩ để đẻ ra những trò chơi liên tục,
ngang ngược và nguy hiểm, cho chúng và
mọi người khác.
Vừa rồi một anh sinh viên Việt soạn luận
án Tiến Sĩ ở Úc xin gặp tôi vài giờ để
bàn thảo và phản biện cho đề tài nghiên
cứu. Anh đang cố gắng chứng minh là
mức thu nhập của người dân (GDP per
capita) có tỷ lệ nghịch với những can
thiệp của chánh phủ vào vận hành kinh tế
tài chánh. Số liệu cho thấy ở những nước
mà chánh phủ biết tiết kiệm tối đa về
ngân sách và ít dính líu đến các hoạt
động của thị trường, cũng như ít quyền
lực về mặt kiểm soát, điều hành; thì
người dân ở các quốc gia đó có mức
sống khả quan nhất. Hai nền kinh tế tiêu
biểu cho giả thuyết này là Thụy Sĩ và
Hồng Kông. Ngược lại, 2 quốc gia ma
người dân phải lãnh búa rìu nặng nề nhất
là Bắc Triều Tiên và Zimbabwe.
Ngay cả một ông Tổng Thống Mỹ
(Reagan) cũng phải công nhận, “ Chánh
sách của các chánh phủ với nền kinh tế
có thể tóm lược như sau: nếu chúng (các
doanh nghiệp) sống, thì bắt đóng thuế;
nếu chúng sống mạnh, thì phải kiểm soát;
mạnh quá thì phải cấm; và nếu chúng
không sống nỗi, thì hỗ trợ chúng”. Thử
tưởng tượng chúng ta đối xử với những
người thân yêu của chúng ta theo phương
thức vừa kể. Khi con cái khỏe mạnh thì
làm đủ chuyện để tạo gánh nặng làm cho
chúng yếu hơn. Còn với những người
bệnh hoạn kiệt lực thì cố gắng “không
cho phép” họ chết. Tóm lại, xã hội sẽ
đẩy những xác chết biết đi (zombies). Và
với một nền kinh tế đầy những ngân hàng
zombies, những công ty sản xuất
zombies, những quan chức zombies… thì
tương lai nào cho thế hệ trẻ hiện nay?
Tôi nhớ đến một hội thảo ở Ấn Độ khi
tôi đề nghị với ngài Thứ Trưởng Kế
Hoạch Ấn là nên sa thải 50% công chức
và tăng lương cho 50% nhân viên còn
lại. Họ sẽ bận rộn với công việc hơn, có
tiền nhiều hơn; do đó, họ sẽ không còn
thì giờ để nặn đẻ ra những quyết định,
văn kiện sách nhiễu người làm kinh tế tư
nhân. Đây sẽ là một gói kích cầu lớn nhất
của mọi thời đại trên thế giới. Tôi rất sợ
những quan chức rãnh rỗi thì giờ, ngồi
nghĩ ra đủ cách để “cứu” dân, nhất là sau
khi ngà ngà trên bàn nhậu.
Tệ hại hơn các giải pháp cứu dân là lời
kêu gọi để chính phủ tự kinh doanh để
kiếm tiền dùm cho dân. Đây là căn bản
của lý thuyết “quốc hữu hóa” các tài sản
của tư nhân thành xí nghiệp quốc doanh,
vì chánh phủ quản lý thì tiền không chạy
vào túi các tên tư bản ích kỷ. Thông điệp
này rất được cử tri Âu Mỹ ưa chuộng vì
phần lớn dân nghèo đều hoang tưởng
rằng đồng tiền này sẽ thực sự chạy vào
túi mình. Chắc chắn họ sẽ thất vọng khi
nhận ra là nó luôn luôn chạy vào túi
người khác.
Năm 1945, ông Attlee lên thay ông
Churchill làm Thủ tướng nước Anh sau
khi vận động thắng cử với tiêu đề hãy
“quốc hữu hóa” trên toàn diện nền kinh
tế, nhất các công ty lớn. Sau cuộc họp
phê chuẩn của quốc hội, ông Attlee tình
cờ gặp lại ông Churchill trong phòng vệ
sinh. Đang đi tiểu, ông Churchill bỗng
dời chổ ra xa khi ông Attlee vừa đến
đứng cạnh ông. “Tại sao, ông có điều gì
thù ghét tôi chăng?” Churchill nói, “
Hoàn toàn không. Tôi chỉ sợ ông thấy cái
kích thước của #### tôi, ông lại đòi
quốc hữu hóa thì phiền lắm”.
Lúc còn là sinh viên năm thứ 3 của đại
học, năm 1966, tôi và 2 người bạn Tàu
làm “ta ba lô” du lịch Bắc Âu. Ấn tượng
nhất trong chuyến lữ hành qua 4 nước là
một buổi sáng mùa hè, chúng tôi lấy
chiếc xe điện để đến Christiania ở
Copenhagen, Đan Mạch. Giờ đi làm, xe
khá đông, không còn chỗ ngồi và chúng
tôi phải đứng.
Cạnh tôi là một người đàn ông ăn mặc
chỉnh tề, xách cặp đội nón, phong cách
thường thấy ở những anh quản lý kế toán
chuyên nghiệp. Mặt đẹp trai, nụ cười đôn
hậu và có vẻ như quen biết nhiều người
trên xe vì những cái gật đầu chào hỏi
“godmorgen” liên tiếp. Ông ta cũng quay
nói “hello” với tôi và tôi cũng “hello”
lại dù không biết ông ta là ai. Sau khi rời
xe điện, tôi quay hỏi người bạn Đan
Mạch đi cùng. Anh ta nhún vai, “Ồ, đó là
Ông Otto, Thủ Tướng, đang trên đường
đi làm”. Tôi ngạc nhiên, tròn mắt và anh
ta hỏi lại tôi, tại sao, “Ông ta cũng phải
đi làm mỗi ngày như mọi người, có gì là
lạ?” Thì ra, đây là chuyện bình thường ở
xứ sở này. Một ông công chức, dù cao
cấp, vẫn leo lên chiếc xe điện, như
những cư dân Hà Nội leo lên chiếc xe
buýt để đến sở làm. Hết chỗ ngồi thì
cũng phải đứng như mọi người khác.
Dù còn trẻ và rất ngu dốt về chuyện
chính trị, tôi cũng mường tượng trong
cách hành xử của ông Thủ Tướng đó có
cái gì tương quan đến việc tại sao người
Đan Mạch có mức sống cao nhất thế giới
và một văn hóa sống thông minh đương
đại. Còn những quốc gia phải chi trả cả
chục triệu đô la mỗi năm chỉ để tạo sĩ
diện cho một vài ông lãnh đạo thường là
những quốc gia có những chính trị gia
thích xen vào kinh tế và hành dân. Điển
hình là nước Mỹ của tôi và các nuớc
nghèo khổ ở Phi Châu.
(Bài đã đăng trên Tạp Chí Doanh
Nhân số 89 ngày 3 tháng 10 năm
2011)
T/S Alan Phan, Chủ Tịch Quỹ Đầu Tư
Viasa
Nói về đạo đức kinh
doanh
Phần lớn những doanh gia thành công ở
các thị trường mới nổi cho rằng việc
kiếm tiền cho doanh nghiệp là một hoạt
động hoàn toàn về kinh tế, không liên
quan gì đến đạo đức xã hội hay tôn giáo
hay triết lý. Họ thường bào chữa cho các
hành xử sai trái trong công việc quản trị
hằng ngày bằng một lời phán, “ai cũng
làm như thế cả”.
Một bản nghiên cứu của Harvard năm
1998 cho thấy đạo đức và kỷ cương đóng
góp về lâu dài một niềm tin tốt đẹp từ
khách hàng, từ nhân viên, từ đối tác, từ
nhà đầu tư, từ cộng đồng đoàn thể… Đây
là cách xây dựng thương hiệu hoàn hảo
nhất của bất cứ doanh nghiệp nào. Với
một thương hiệu tiếng tăm và bền vững,
công ty có thể tìm một tỷ lệ lợi nhuận cao
hơn các đối thủ cạnh tranh, một thị phần
cao hơn của khách hàng trung thành và
kết quả là một thành tựu khả quan hơn về
tài chính.
Thiếu đạo đức và kỷ cương quản trị,
doanh nghiệp biến thành một công ty của
cơ hội, của chụp giật, của đầu cơ… Mọi
thành công sẽ tạm bợ, bạo phát bạo tàn.
Tuy nhiên chúng ta cũng phải thông cảm
cho những áp lực hàng ngày mà bất cứ
doanh nhân nào làm ăn tại Việt Nam phải
vượt qua. Ngoài tình trạng bấp bênh của
một nền kinh tế vĩ mô thôi thúc bởi cơn
sóng thần của lạm phát, lải suất và tỷ giá,
các doanh nghiệp Việt phải hoạt động
trong một môi trường khá đặc thù khác
hẳn thế giới bên ngoài.
Trước hết, sự thiếu vốn của các doanh
nghiệp khá phổ thong và thói quen phải
gối lưng cho khách hàng nợ hơn 100
ngày khi thanh toán hóa đơn làm kiệt quệ
nhiều hoạt động cần thiết. Cái khó khăn
khác là sự thiếu minh bạch trong thong
tin, kế toán, thuế vụ, chi phí khiến nhiều
doanh nghiệp hành xử như kẻ mù giữa
rừng gươm. Thử thách khác là những thủ
đoạn cạnh tranh bất chính của đồng
nghiệp từ cách làm hàng nhái, hàng giả…
đến những phá hoại ngầm khá hữu hiệu.
Sau cùng là những giây nhợ trói buộc từ
những thủ tục hành chánh phức tạp đến
những phí tổn bôi trơn cao ngất trời.
Người Mỹ có câu nói là khi con cá sấu
gần táp vào quần của bạn thì bạn khó mà
nhớ được mục đích ban đầu của bạn là
phải khai thông giòng suối. Đây cũng có
thể chỉ là một cách để thoái thác trách
nhiệm để tăng lợi nhuận cho cá nhân và
bảo vệ tiếng tăm cho phe nhóm.
Nhưng một doanh nghiệp muốn tăng
trưởng bền vững phải sẵn sang trả giá
cho hành vi đạo đức của mình.
T/S Alan Phan
Chủ Tịch Quỹ Đầu Tư Viasa
Hai chuyện làm ăn
bên Mỹ
Người Việt học giỏi và bắt chước rất
nhanh. Chỉ tiếc là chúng ta luôn luôn lựa
chọn sai lầm các bài học và nền kinh tế
đang phải trả giá khá đắt cho những sai
lầm này. Thêm vào những thói hư tật xấu
luôn tiềm tàng ở các thành phần lợi dụng
đặc quyền đặc lợi, thì suy nghĩ nông cạn
của tôi phải dừng lại ở câu “ Xin Ơn
Trên phù hộ chúng ta.”
Lần về lại Mỹ vào tháng 9 vừa qua, tôi
ngồi trên máy bay cạnh một đại gia Ấn
Độ thích trò chuyện. Bị ảnh hưởng nhiều
của các mạng truyền thông thích phóng
đại, anh ta nói về một xứ Mỹ tàn lụi như
một bài điếu văn. Thất nghiệp, bạo lực,
nợ nần, nghèo đói, mâu thuẫn chính trị…
tôi cứ nghĩ là anh đang mô tả xã hội Ấn
Độ của chính anh. Sau một tháng thăm
gia đình và tìm cơ hội đầu tư tại Mỹ, tôi
xin thưa là tình hình vẫn còn khả quan
hơn tại rất nhiều quốc gia khác. Dù thất
nghiệp có lên đến 10%, con số người
còn lại (90% của 300 triệu dân) vẫn có
một thu nhập rất cao và GDP vẫn gấp đôi
Trung Quốc với 1.35 tỷ dân.
Đế chế Mỹ đang bước vào hoàng hôn,
nhưng đêm dài vẩn còn xa, vài ba chục
năm trước mặt. Trong khi đó, tại những
cửa hàng ăn và hộp đêm sang trọng nổi
tiếng, khách vẫn phải xếp hàng chờ hơn
cả tiếng. Đêm vẫn còn dài và tiệc vẫn
tràn đầy champagne.
Nắm bắt thời cơ
Tôi chạy lên Pasadena một buổi trưa
thăm người bạn cũ nghe nói đang làm ăn
phát đạt. Anh tên Bruce Stuart là một luật
sư có văn phòng nhỏ chuyên về thương
nghiệp từ 30 năm qua khi tôi mới quen
anh. Hai năm trước, thấy tình hình bất
động sản (BDS) Mỹ lâm nguy, anh và vài
người bạn bỏ ra 5 triệu để kinh doanh
địa ốc. Có lẽ là chuyện hơi ngược đời.
Nhóm anh mua lại các BDS đã bị ngân
hàng tịch thu và sắp đưa ra phát mãi qua
đấu giá để khấu hồi nợ cho ngân hàng.
Với tổng số tài sản xấu lên đến gần 2
ngàn tỷ dollar khắp quốc gia, có thể nói
là thị trường phải mất 8 năm mới thanh
toán hết các BDS loại này.
Giá mua thường rẻ khoảng 20% hơn giá
tại các buổi đấu giá vì ngân hàng tiết
kiệm được thì giờ, phí tổn, thủ tục tòa án,
giấy tờ phát mãi…Sau đó, nhóm anh đem
bán lại ra thị trường cũng với giá rẻ hơn
giá thông thường chừng 20%. Thời gian
xoay vòng mất trung bình 3 tháng và
trong 2 năm vừa qua, Bruce và các bạn
anh thu về hơn 6 triệu dollars tiền lời,
cho họ mức hoàn trái khỏang 58% mỗi
năm. Bruce cho tôi coi tất cả hồ sơ của
216 vụ giao dịch đã hoàn tất với đầy đủ
chi tiết vì anh muốn quỹ tôi đầu tư thêm
10 triệu để gia tăng hoạt động.
Anh còn đưa tôi đi xem hai BDS anh vừa
mua bán xong. Một biệt thự ở
Victorville, một thành phố trung lưu cách
trung tâm Los Angeles 1 giờ lái xe, có
đất rộng 270 mét vuông, vừa xây xong 3
năm trước với diện tích xây dựng 170
mét vuông. Anh mua của Bank Of
America giá 38 ngàn dollars, sửa sang
lại tốn 4 ngàn dollars và phí tiếp thị giấy
tờ thêm 3 ngàn. Anh bán lại với giá 75
ngàn dollars, đem về cho nhóm anh một
lợi nhuận 30 ngàn dollars sau 3 tuần.
Giá cả BDS ở California tương đối cao
hơn các bang khác, nhưng tôi vẫn
“shocked” trong trường hợp này vì tôi
vừa đi coi và nghe giá một biệt thự gần
Phú Mỹ Hưng tháng trước. Giá BDS ở
Mỹ có lẽ rẻ khoảng 4 lần giá BDS ở
Saigon, trong khi thu nhập trung bình của
một người Mỹ gấp 40 lần người Việt.
BDS kia nằm ở Newport Beach, một
thành phố sang trọng đắt tiền cạnh biển ở
Quận Cam. Một nhạc sĩ nổi tiếng trả 7.2
triệu dollars cho tòa nhà 18-phòng này
cách đây 6 năm; Bruce mua lại của ngân
hàng với giá 3.5 triệu. Sau 8 tháng tiếp
thị, nhóm anh bán được cho một nghệ sĩ
khác với giá 4.8 triệu đem lại lợi nhuận
1.1 triệu sau khi trừ chi phí.
Một chuyện cũng làm tôi so sánh cách
làm ăn nơi đây với Á Châu là các anh
không cần một giấy phép kinh doanh nào,
hay phải chạy ngược xuôi trả tiền để
“bôi trơn” cho dịch vụ. Viên quan chức
độc nhất các anh phải đương đầu là ngài
thuế vụ, đang trình một hóa đơn cao hơn
các anh chịu trả. Hai bên đang thưa nhau
ra tòa, và Bruce tin mình sẽ thắng vì có
hơn 35 năm kinh nghiệm so với vài năm
của quan chức trẻ kia.
Khi có “thế lực chống lưng”
Một anh bạn khác tên Wilbur (Bill)
Stover ở San Francisco, tôi điện thoại
thăm khi thấy anh đang “nằm trên thớt”
của các mạng truyền thông. Tôi quen anh
cách đây 8 năm khi anh đang làm cho
Micron Tech và đứng ra thương lượng
để bán cho quỹ của tôi một công ty con
của Micron. Dịch vụ M&A không thành
nhưng chúng tôi có nhiều tưong đồng nên
quý nhau như bạn. Cách đây 3 năm, anh
về đầu quân cho một công ty sản xuất
panel năng lượng mặt trời tên Solyndra.
Solyndra thành lập năm 2006 và nộp đơn
xin chánh phủ tài trợ khi TT Obama đề
ra chánh sách năng lượng xanh nằm trong
gói kích cầu cứu kinh tế Mỹ. Công ty
được tỷ phú dầu hỏa George Kaiser đầu
tư 36%, khai trương hoành tráng với
1,100 nhân viên và được Obama đến
thăm viếng sau đó, với bài diễn văn ca
tụng thành quả. Qua sự vận động của
Kaiser, vốn là một ủng hộ viên lớn trong
bộ máy tranh cử của Obama, chánh phủ
Mỹ đồng ý bảo lãnh số tiền vay 535 triệu
dollars cho Solyndra.
Ngày 1 tháng 9 năm nay, sau 3 năm hoạt
động, Solyntra khai phá sản. Đảng Cộng
Hòa và Quốc Hội đòi mở cuộc điều trần
về những lạm dụng quyền lực của Tòa
Bạch Ốc trong việc mất 535 triệu dollar
cho công ty gà nhà. FBI đã tịch thu tất cả
hồ sơ của công ty để bắt đầu điều tra
thêm. Bill không trả lời diện thoại, vợ
anh ta nói là anh đang bị suy sụp thần
kinh vì sự cố. Tôi chia buồn và chỉ biết
nói “hang in there” (ráng bám trụ) và
đừng để các chánh trị gia biến mình
thành vật tế thần.
Dù lo cho bạn, nhưng tôi lại thỏa mãn vì
“cái đúng” của tư duy mình. Bất cứ nơi
nào, khi người ta lấy tiền dân để kinh
doanh với mục đích chánh trị, kết quả
đều chắc chắn là tiền mất tật mang. Đinh
luật này đã được minh chứng qua bao
nhiêu thời đại, dù các tên đạo diễn càng
ngày càng khôn ngoan, tinh vi hơn và biết
ngụy trang hành động mình dưới nhiều
hình thức.
Hai câu chuyện tượng trưng cho hai nền
kinh tế đang hiện diện song hành tại Mỹ.
Một là để mặc cho thi trường lo liệu và
điều chỉnh. Một là can thiệp với tiền thuế
của dân vì nghĩ mình thông minh và biết
cách lèo lái thị trường. Các chính trị gia
không chịu hiểu rằng lịch sử của nhân
loại đã chứng minh là thị trường luôn
luôn là kẻ chiến thắng sau cùng.
Người Việt học giỏi và bắt chước rất
nhanh. Chỉ tiếc là chúng ta luôn luôn lựa
chọn sai lầm các bài học và nền kinh tế
đang phải trả giá khá đắt cho những sai
lầm này. Thêm vào những thói hư tật xấu
luôn tiềm tàng ở các thành phần lợi dụng
đặc quyền đặc lợi, thì suy nghĩ nông cạn
của tôi phải dừng lại ở câu “ Xin Ơn
Trên phù hộ chúng ta.”T/S Alan Phan,
Chủ Tịch Quỹ Đầu Tư Viasa
Thánh địa của tư
bản
Sau một cuộc họp dài suốt ngày, tôi cáo
lỗi với đối tác, đi ăn một mình và thả bộ
trên đường phố. Tôi chợt nhận ra là mình
đang đứng giữa lòng Las Vegas, buổi tối
Thứ Bẩy, nhộn nhịp đám đông, xe cộ và
muôn ánh đèn mầu rực rỡ. Nhười ta nói
nhiều đến sinh thái năng động của các
thành phố Á Châu mới nổi, nhưng tôi
chắc chắn rằng không đâu có thể sánh
bằng Vegas. Đủ mọi sắc dân Âu Á Phi,
đủ mọi mầu da đen trắng vàng, đủ mọi
loại tuồi, mọi loại quần áo phong cách
và mọi loại thể hình mập ốm cao lùn.
Nhưng họ đều chia sẻ một mẫu số chung:
ngất ngây với mùi tiền, mùi tham và mùi
vội vã.
Tôn giáo nào cũng có những vị thánh và
những thánh địa để giáo dân hướng tâm
tư và làm những cuộc hành hương tỏ lòng
tôn kính. Người Thiên Chúa giáo tìm về
Jesuralem đi lại con đường Thập Tự Giá
của chúa Jesus, người Hồi giáo có
Mecca va giáo chủ Mohammed, người
Phật giáo quỳ dưới cây bồ đề của Phật
Thích ca ở Patna. Tôn giáo tư bản có
dollar và Las Vegas. Người ta nói nhiều
đến New York, nhưng đây chỉ là chỗ để
kiếm tiền, muồn hành hương để tìm biểu
tượng cho sức mạnh của đồng tiền và
những thú vui từ dollar, ta phải đến Las
Vegas.
Người ta cũng hay nói về Macau, đỉnh
mới của cờ bạc, nhưng vài ba sòng bài
lớn và những số tiền khổng lồ thu từ các
đại gia Trung Quốc (bao nhiêu là tiền
rửa?), không thể cho Macau một phong
cách của tư bản đại chúng, đa dạng mà
sang trọng như Vegas. Một buổi tối cuối
tuần ở Vegas sẽ phô bày tất cả xấu đẹp,
sẽ phản ảnh mọi đúng sai của triết thuyết
tư bản.
Tôi đến Vegas lần đầu vào năm 1964 khi
đi một vòng xứ Mỹ du lịch ba lô với vài
sinh viên cùng trường. Một con đường
lớn giữa sa mạc mênh mông, vài ba sòng
bài như ốc đảo, tôi vào Desert Inn,
Dunes, Hacienda…như một anh nông
dân Cà Mau bước vào Hyatt, Sheraton ở
Saigon. Ấn tượng và lạ, nhưng không có
gì để say mê hay cuốn hút (có lẽ tại tôi
rất dửng dưng với cờ bạc). Qua các thập
niên kế tiếp, tôi đến Vegas khá thường
xuyên, vì khi mời các đối tác làm ăn về
Los Angeles họp hành, họ không mặn mà
lắm. Nhưng ở Vegas, nơi họ có thể ăn
chơi cờ bạc, tiệc tùng trác tang và trừ
phí tổn thua lỗ vào thuế, ai nấy đều hăng
hái. Rồi đến các doanh nhân Trung Quốc
vào những năm đầu mở cửa, Vegas là
nơi phải dừng chân.
Đế chế Mỹ càng mạnh thì Vegas càng
phát triển. Tôi chứng kiến một cuộc đua
không mệt mỏi qua năm tháng của các
công ty cờ bạc. Wynn tạo danh tiếng với
Mirage, Treasure Island rồi cuối cùng là
màn khiêu vũ nước hàng đêm ở Bellagio.
Adelson trả lời với Venetian sau khi xây
Sands thành một trung tâm hôi nghị lớn
nhất nhì xứ Mỹ. Harrah nhập cuộc với
những thâu tóm ngọan muc dọc The Strip
(con đường chính của Vegas) như Bally,
Paris, Planet Hollywood, Imperial.
Nhiều tên tuổi hàng đầu ngày xưa như
Circus Circus, Stardust,… thua cuộc và
tụt hậu thảm hại. Nhiều tay chơi vừa
nhập cuộc tạo ấn tượng mới với
Cosmopolitan, Trump, Aria, City Center,
Mandarin, Madalay Bay. Một cuộc đua
thật hấp dẫn và sáng tạo để dành thị
trường và lợi nhuận, hoàn toàn tự phát
kiểu tư bản đại chúng. Dubai, Macau,
Shanghai, Singapore…cũng có những
cuộc đua, nhưng chỉ là một xếp đặt của
giới cầm quyền và cầm tiền, kết quả
thường được định đoạt qua “nghị quyết”
nên không gì ngạc nhiên, và do đó, không
gì đáng kể. Giống như một trận đá bóng,
không ai buồn tham dự hay đi coi nếu
nhà tổ chức đã xếp đặt sẵn người thua kẻ
thắng.
Một thực tế phải hiểu là trong lịch sử
loài người, luôn luôn có một đẳng cấp
thống trị nhỏ nhoi, cố gắng lợi dụng
quyền lực và tiền bạc của mình để áp đặt
“giải pháp” của mình trên đại đa số quần
chúng. Từ các bộ lạc xa xưa, qua các
triều đại phong kiến, thực dân, đến các
quốc gia Tây Phương hiện tại hay các xã
hội “bình đẳng” như Liên Sô, Trung
Quốc…giải pháp thường đem lại một
cuộc sống “ngon lành” hơn về đủ phương
diện cho giai cấp cầm quyền này. Chế độ
tư bản cũng không khác gì. Lợi dụng
công sức và tài sản của quần chúng “ngu
ngơ” để làm đầy túi tiền cá nhân và phe
nhóm mình là thủ thuật tinh vi mà các
chính trị gia và đại gia đều thông thạo.
Mục đích như nhau nhưng cách làm thì
giới tư bản đã đẩy lên hàng nghệ thuật.
Những chế độ dùng roi vọt gông cùm để
thúc đẩy ép buộc người dân đang đi dần
vào quá khứ. Indonesia của Suharto hay
Hàn Quốc của Park Chung Hee ngày nào
chỉ còn là dư âm. Tunisia, Lybia, Egypt,
Syria…đang được sắp xếp lại. Ở các xã
hội tư bản, người dân làm nô lệ với tinh
thần hoàn toàn “tự nguyện”. Hai lý do:
lòng tham cố hữu của con người và
những món nợ ngập đầu.
Triết thuyết tư bản vẽ ra một cuộc chơi
hào hứng là ai cũng có thể thắng và đem
về một phẩn thưởng đẹp như mơ. Đây là
tiền đề của Las Vegas, của tư bản. Dĩ
nhiên, ai cũng biết là xác xuất cho thấy
người thua bạc chiếm đến 95% người
tham dự. Ngoài xã hội, cũng không thiếu
những người nhận chân ra điều này. Tuy
nhiên, giới tư bản còn một tuyệt chiêu
khác: mua trước trả sau. Không nơi nào
mà một người tay trắng có thể mua nhà,
tậu xe, sắm sửa tiêu xài như ở xứ Mỹ. Có
thể bạn không muốn nợ, nhưng chắc chắn
là vợ con và đa số thành viên gia đình
bạn bè sẵn sàng “shop” dùm bạn. Đòi
hỏi duy nhất: bạn phải có job và phải nô
lệ nghiêm túc. Mất job là mất tất cả.
Vì lòng tham và vì cái giây xích nợ vô
hình này, cả trăm triệu nô lệ Mỹ đã đẩy
nền kinh tế và xã hội Mỹ lên đỉnh cao thế
giới dưới danh nghĩa “thị trường và tự
do”. Trong khi đó các xã hội “phong
kiến cổ hủ” phải trì trệ trong đống bùn vì
ngu xuẩn. Các lãnh đạo nơi đây không
hiểu rằng con ngựa sẽ chạy nhanh hơn
nếu bạn treo trước đầu nó một củ cà rốt
tươi ngon; chứ không thể dùng roi siết
cương suốt chặng dường dài.
Cuối cùng, Đặng Tiểu Bình và cận thần
hiểu được điều này. Họ đã dùng lòng
tham và miếng mồi tư bản giàu có để
kích thích cả tỷ nô lệ sửa đổi định mệnh
Trung Quốc và củng cố tài sản cũng như
quyền lực của đẳng cấp thống trị. Họ
thành công vượt mơ ước, nhưng vẫn phải
núp mình dưới nhiều tên gọi nghe trái tai.
Thực sự, Trung Quốc là một quốc gia tư
bản gấp nhiều lần so với Mỹ, nếu bạn
xem xét kỹ các chương trình phúc lợi xã
hội hay quyền lực của các nhóm lợi ích
của xứ này.
Nhất là trong thời điểm hiện tại khi xứ
Mỹ phải chi tiêu cả ngàn tỷ dollar mổi
năm cho các nô lệ nghèo và già (vì lá
phiếu của dân chủ); chưa nói đến cả ngàn
tỷ dollar khác để bảo vệ hình ảnh của đế
chế (Iraq, Afghanistan) và quyền lợi của
tư bản (các công ty đa quốc). Trung
Quốc không bị gánh nặng này. Cho nên,
tôi sẽ không ngạc nhiên nếu trong vòng
20 năm nữa, thánh địa của tư bản sẽ
được dời qua một địa điểm nào tại Trung
Quốc. Nhưng không phải loại tư bản đại
chúng, muôn màu và đa dạng như Vegas,
mà là loại tư bản của phe nhóm, ích kỷ,
tàn nhẫn và đơn điệu với chút quê mùa.
T/S Alan Phan, Chủ tịch Quỹ Đầu Tư
Viasa
Lại nói về vàng
Để hiểu vì sao giá vàng tăng nhiều và
nhanh như vậy, ta phải hiểu rõ lạm
phát. Ít chuyên gia tài chánh nào muốn
nói lên lý do thực sự gây lạm phát. Khi
tất cả các đồng tiền đều mất giá, nhất
là USD, thì vàng sẽ lên giá. Điều đó
không bao giờ thay đổi.
Bốn năm nay, vàng luôn chiếm tỷ trọng
lớn nhất trong danh mục đầu tư của tôi.
Nhiều người cho tôi một biệt danh mới,
“Goldfinger” (nhân vật xấu của phim
James Bond 007 có cùng tên). Các nhà
phân tích thì bài bác chiến thuật này, cho
rằng vàng không thể mang lại lợi nhuận
tốt hơn chứng khoán hay bất động sản khi
đầu tư lâu dài (hơn 2 năm). Họ giảng bài
thêm là trên mặt thuần kinh tế, vàng
không đóng góp gì vào GDP hay thu nhập
cá nhân. Tuy nhiên, trong trường đua thế
giới, con ngựa “vàng” của tôi đã qua mặt
mọi đối thủ nặng ký, từ chỉ số Dow
Jones đến các bản tệ và mọi lọai hàng
hóa. Sau bốn năm, kể từ lúc tôi mua vàng
ở giá 600 USD/ ounce, nay giá vàng đã
là 1.800 USD/một lượng oz. Tôi dự
phóng là giá vàng sẽ lên hơn $2,500 vào
cuối năm 2012.
Để hiểu vì sao giá vàng tăng nhiều và
nhanh như vậy, ta phải hiểu rõ lạm phát.
Trong lịch sử, lạm phát là một danh từ
chỉ sự lên giá của hàng hóa. Ít chuyên gia
tài chánh nào muốn nói lên lý do thực sự
gây lạm phát. Họ quanh co là lạm phát
tại Việt Nam xẩy ra vì lạm phát tòan cầu,
vì những nhà đầu cơ, vì khí hậu, vì niềm
tin của người tiêu thụ, vì sản xuất sụt
giảm vân vân và vân vân. Thậm chí, số
liệu thống kê còn được bẻ cong để họ có
thể tuyên bố là lạm phát chỉ vài ba phần
trăm mỗi tháng, không gì quan trọng. Họ
không muốn nghe một nguyên nhân ngắn
gọn: Lạm phát là do đồng tiền mất giá.
Và hai lý do gây ra tình trạng này cũng
rất đơn giản: một, sự vay mượn để tiêu
xài của ngân sách quá cao so với thu
nhập qua thuế và đầu tư; hai, việc in tiền
bừa bãi làm tổng cung tiền tăng lên.
Khi tiền mất giá, người ta đổ thừa do
người dân mất niềm tin vào đồng nội tệ
khi kinh tế vĩ mô bất ổn. Kỳ thực, người
dân rất khôn ngoan. Họ không tin vào
những chuyện không có thực. Hay, nếu
nói sự tăng giá hàng hóa là do đầu cơ, thì
tôi không nghĩ là ai có đủ tiền để kinh
doanh lâu dài theo chiến thuật này, trừ
khi họ biết chắc là đồng tiền càng ngày
càng mất giá.
Khi tất cả các đồng tiền đều mất giá, nhất
là USD, thì vàng sẽ lên giá. Điều đó
không bao giờ thay đổi. Nếu lấy vàng
làm bản tệ (kim bản vị) và nhìn lại mấy
chục năm qua, ta mới thấy trong thực tế,
hàng hóa đã xuống giá vì cung vượt qua
cầu, nhất là thời điểm Trung Quốc trở
thành “cơ xưởng của thế giới”.
Trong một bài viết ba năm trước, tôi có
so sánh giá cả hàng hóa và vàng. Lần đầu
tiên tôi qua Mỹ vào năm 1963, giá vàng
là $35 một lượng. Một chiếc xe Mustang
mới của hãng Ford tốn $3,300, tức
khỏang 100 lượng vàng; giá một nhà
trung bình là $14,000 hay khoảng 400
ounces vàng; giá 1 ổ bánh mì là 22 cents
(1 oz vàng mua được 150 ổ bánh mì).
Năm nay, giá vàng lên $1,800 một
ounce, tôi có thể dùng 100 ounces để
mua 6 chiếc xe Mustang, căn nhà trung
bình sẽ tốn khoảng $230,000, tương
đương 130 oz vàng thay vì 400 oz, và
với 1 oz vàng tôi sẽ mua được khoảng
1,300 ổ bánh mì. Có nghĩa là trong khi
tiền USD mất giá trầm trọng, mãi lực của
tôi lại gia tăng đáng kể so với số vàng
tôi giữ suốt 48 năm qua.
Trên thế giới, lượng vàng lại hữu hạn.
Năm 2007, theo National Geographic,
chỉ có khoảng 161,000 tấn vàng đã từng
được khai thác. Lượng vàng khai thác
qua từng năm tương đối bền vững, nếu
tính theo nhu cầu. Năm 2010, toàn thế
giới khai thác được 3.859 tấn vàng, nhu
cầu mua vàng là 3.754 tấn. Sự cân đối
cung cầu và giá trị gần như bền vững này
đã khiến giá vàng không nhiều biến động.
Mọi biến động về giá vàng thực sự phát
sinh từ sự biến động của USD và các bản
tệ khác.
Không như tiền giấy, cổ phiếu, trái
phiếu, hay như một công ty có thể mang
về lợi nhuận lớn, hoặc thua lỗ nhiều,
vàng là một ốc đảo thanh bình trong bão
tố. Bởi vì không ai “in” ra vàng được
hay dùng các thủ thuật chi phối của thế
giới “ảo”, nên vàng thực sự là một kênh
phòng thủ an toàn. Ai đọc lịch sử đều
nhớ chuyện lạm phát phi mã do tiền giấy
hạ giá, như đồng Mark thời Weimar của
Đức, như đồng yuan của Trung Quốc thời
Tưởng Giới Thạch, như đồng peso của
Argentina trong 50 năm qua, như đồng
dollar của Zimbabwe (mất giá kỷ lục khi
rớt 11 triệu phần trăm trong 1 năm). Suốt
5,000 năm lịch sử, vàng không bao giờ
mất giá. Tôi yêu vàng là vì vậy.
Một câu chuyện khá khôi hài trong lịch
sử tài chính thế giới là việc ông Gordon
Brown quyết định bán hơn nửa số vàng
dự trữ của Anh (415 tấn) vào năm 2000
với giá trung bình là $276 một lượng,
đem về cho Anh hơn 4 tỷ USD. Ý định
của ông là hạ giá vàng thế giới và giữ giá
trị tiền bảng Anh (English pound). Sau 4
tháng, đồng bảng Anh tiếp tục sụt giá,
còn giá vàng thế giới lại tăng lên 25%,
làm Anh mất hơn 3 tỷ USD trong giao
dịch này. Nếu là một nhà đầu tư tài
chính, ông Brown sẽ mất job ngay lập
tức. Nhưng vì ông là chính trị gia, nên
ông Brown không những không bị đuổi,
mà sau đó còn đắc cử Thủ tướng với biệt
danh “ Gold Brown (vàng)”.
Theo một báo cáo số liệu từ Thụy Sĩ,
trong vòng 3 năm qua, Việt Nam đã xuất
khẩu khoảng 200 tấn vàng, với giá trung
bình $1,200 một ounce, thu về được 8,4
tỷ USD. Trong khi đó, nếu vẫn giữ số
vàng này thì giá trị hiện nay là 12,7 tỷ
USD (với giá $1,800). Tính ra, mức thiệt
hại của Việt Nam từ việc mua cao, bán
thấp là 4,3 tỷ USD. Tôi không biết quyết
định này gây thiệt hại trực tiếp đến những
ai, nhưng đây là một sự thất thoát kỷ lục
so với con số GDP nhỏ nhoi, hơn 4%.
Vì vậy, nếu ai đó khuyên tôi nắm giữ tiền
giấy, thì tôi xin cám ơn. Mọi người cứ
việc giữ giấy, còn tôi sẽ cứ giữ vàng!
T/S Alan Phan
Paris, Gisele
huyền thoại
và
Thực ra, tất cả những gì chúng ta
đang cảm nhận có phải chỉ là giả
thuyết và cấu trúc trừu tượng trong
suy tưởng?… Vì sợ sệt những gì
“không biết” nên chúng ta khư khư
ôm lấy huyền thoại của quá khứ và
quên đi tương lai?… Tôi ghé thăm
Paris bất cứ khi nào có dịp. Tôi yêu
Paris đến độ không bao giờ nghĩ là sẽ
sống nơi đây vì sợ mình sẽ thất vọng
khi gần kề người yêu mỗi ngày…
Gần đây, tôi không có duyên với kinh tế
tài chánh. Mấy bài viết cứ bị tháo gỡ,
đục bỏ, lắc đầu vì quá nhậy cảm. Tôi
biện hộ là khi dính đến túi tiền của tôi và
người dân thì bắt buộc phải nhậy cảm
chứ? Một bà biên tập khác khuyên là anh
nên sửa đổi, viết theo thị hiếu của bạn
đọc, chuyên mục về “cướp, hiếp, giết”
thì tương lai viết lách của anh sẽ sáng
sủa hơn. Tôi nghĩ thầm, bà này mù rồi,
không thấy các bài viết của tôi chỉ toàn
là “cướp, hiếp, giết” hay sao? Bà tưởng
tôi viết về kinh tế đấy chắc?
Nhưng thôi, đành nghe bà ta vậy. Một đề
tài rất nhậy cảm với tôi là Paris, thành
phố mà tôi vẫn gọi là “người tình muôn
thuở”. Tôi yêu Paris như rừng yêu lá,
như núi yêu sông, như chim yêu nhạc.
Tôi ghé thăm Paris bất cứ khi nào có
dịp. Tôi yêu đến độ không bao giờ nghĩ
là sẽ sống nơi đây vì sợ mình sẽ thất
vọng khi gần kề người yêu mỗi ngày.
Paris của tôi là Montmartre những ngày
còn Hemingway, Fitzgerald, Faulkner; là
giòng sông Seine cùa Truffaut, Bardot,
Piaf; là những bức tranh của Monet,
Matisse, Lautrec trong những museé nhỏ
bé; là những kiến trúc thần kỳ thăng trầm
qua bao thế hệ; là những quán vỉa hè của
cô đơn lúc đêm về sáng; là khu vườn
Luxembourg của mùa thu lá vàng như
mái tóc người yêu ; là nhửng con đường
lạnh buốt dấu chân trên tuyết trắng. Nói
làm sao cho hết những kỷ niệm và hoài
tưởng về Paris thời mới lớn? Viết làm
sao cho đủ những phong cách và hình
tượng về Paris thời xế chiều?
Tôi đến Paris lần đầu khi còn là sinh
viên năm cuối của đại học. Trước đó,
như phần lớn người Việt, tôi luôn mang
tâm trạng “yêu-ghét” nước Pháp. Yêu vì
lớn lên với văn chương, nghệ thuật, và
triết học của các nhà văn hóa Pháp, nhồi
vào đầu sọ mỗi ngày như thói quen ca
bài La Marseillaise mỗi buổi sáng chào
cờ. Ghét vì tôi bị bọn bảo vệ Tây bắt
gặp và đánh thừa sống thừa chết ba bốn
lần khi trèo lên cây me nhìn trộm mấy bà
đầm tắm trần ở Cercle Sportif (bây giờ
là vườn Tao Đàn) lúc tuổi chưa đủ 11.
Paris thay đổi mọi cảm nhận xưa cũ.
Thành phố của lịch sử chào đón chú du
khàch trẻ non dại với những cảnh quan
thơ mộng, những bữa ăn tuyệt vời dù chỉ
chút bánh mì với fromage, những con
người Parisian biết hưởng thụ với class,
bao quanh trong những mẩu chuyện ngắn
đẹp hơn cổ tích. Như phần lớn các du
khách trẻ nhiều hormone, tôi phải dành
dụm tiền để vào Moulin Rouge, để đi coi
Crazy Horse; để ra Bois de Boulogne
thuê một cô gái điếm.
Tôi gặp Gisele ở đó. Con bé có mái tóc
vàng óng, khuôn mặt đẹp và cặp mắt
xanh như dòng sông Danube (dĩ nhiên,
khi hồi tưởng thì trí nhớ hay lầm lạc. Có
thể con bé xấu và mập, nhưng không một
anh sinh viên hứng tình nào có thể suy ra
điều này). Sau khi đã đồng ý giá cả,
Gisele đưa tôi về một căn hộ tồi tàn cạnh
Sorbonne. Tôi hồi hộp như Armstrong
lúc vừa bước xuống mặt trăng.
Con bé cởi đồ, lên giường rồi ôm tôi
hỏi,” sao mắt anh buồn quá vậy?” Tôi
ậm ừ, dù muốn trả lời rằng khi máu lên
đến đầu thì mắt thằng đàn ông nào chả
mù và buồn? Sau khi ôm tôi hơn 10 phút,
Gisele nói “tôi không thích làm việc đêm
nay, mình ngồi tâm sự đi.” Tôi nghĩ chắc
mình bị lừa rồi, nhưng Gisele trả lại tôi
đống tiền franc lúc nãy rồi bắt đầu độc
thoại.
Nàng kể về một xứ Nga của tuổi nhỏ, đẹp
và êm đềm. Cho đến ngày cha nàng bị
bắt đi Siberia chỉ vì tội là một trí thức
Do Thái, thích hỏi vớ vẩn. Mẹ nàng tự tử
vài năm sau đó. Mới 16 tuổi, Gisele phải
qua tay bao nhiêu người đàn ông lợi
dụng sự cô thế của nàng. Năm 20, Gisele
chạy thóat khỏi Nga, rồi làm đủ mọi nghề
ở Paris, kể cả làm điếm. Nhưng nàng vẩn
đi học và mơ một ngày không xa, nàng sẽ
đến California và mua một căn nhà cạnh
biển. Nàng hỏi tôi đủ mọi chuyện về xứ
Mỹ xa xôi, trong khi tôi chỉ có một ước
muốn duy nhất là làm chuyện đồi bại, hủ
hóa với đầu óc trống rỗng. Nhưng vì mệt
sau khi lê lết cả ngày trên metro, và cũng
vì Gisele có bộ ngực khá thoải mái, nên
tôi và nàng ôm nhau ngủ say như hai đứa
trẻ.
Sáu giờ sáng, nàng đánh thức tôi và hai
đứa ra một quán cà phê nhỏ gần đó làm 2
cái croissants. Không phấn son, giản dị
trong chiếc áo thun mầu trắng, Gisele
đẹp dịu hiền như một ma soeur. Hơi
sương còn lành lạnh, xe cộ còn thưa thớt,
tôi thanh bình trong ánh nắng đầu ngày,
quên đi mọi chuyện đêm qua, cũng như
mọi thứ chung quanh. Chỉ có Gisele và
ly espresso thơm ngọt.
Tôi không bao giờ gặp lại Gisele, nhưng
tôi yêu Paris kể từ đêm đó.
Nhưng như tôi đã nói, tôi không bao giờ
muốn sống ở Paris, người tình muôn
thuở. Vì Paris không cung ứng đầy đủ ý
thích đặc thù cho cá nhân tôi. Tôi thích
cái tiện nghi của những căn nhà hiện đại
ở Mỹ, những công việc kinh doanh tài
chánh đầy thử thách của Wall Street,
những trải nghiệm khắp năm châu với
nhiều văn hóa đa dạng, với những người
tình đủ mọi sắc mầu. Dù tuyệt vời, nhưng
với tôi, Paris vẫn chỉ là một huyền thoại,
dựng lên từ lịch sử, văn hóa và trí tưởng
tượng của những tâm hồn nghệ sĩ. Thực
ra, tất cả những gì chúng ta đang cảm
nhận có phải chỉ là giả thuyết và cấu trúc
trừu tượng trong suy tưởng? Đây có phải
là cái tháp ngà trí thức mà chúng ta chạy
vào ẩn náu khi gặp khó khăn?
Cái tháp ngà thường cho chúng ta những
cảm giác an toàn nên mọi người an phận
và không ai muốn quấy rối cho thuyền
xao động (Mỹ gọi là rock the boat). Vì
sợ sệt những gì “không biết” nên chúng
ta khư khư ôm lấy huyền thoại của quá
khứ và quên đi tương lai. Chúng ta
thường chỉ nghĩ đến bản thân và cố quên
rằng còn cả một xã hội ngoài kia với
những vấn đề không ai trăn trở và giải
quyết. Như những tín đồ tôn giáo, chúng
ta ôm lấy những cuốn kinh thánh đã viết
ra từ mấy ngàn năm để tìm câu trả lời
cho bài toán thời Internet.
Mùa thu vừa đến, đem chút nhung nhớ về
Paris của thơ nhạc. Nhưng thực tế luôn
can thiệp. Tôi chợt nhớ là các nhân viên
bên Trung Quốc đang chờ câu trả lời của
tôi về tài khỏan vàng và ngoại tệ, về
những bất ổn của cuộc đình công ở nhà
máy Triết Giang, về hồ sơ kế toán phải
nộp cho ngân hàng trước cuối tháng.
Paris và huyền thoại phải đợi vậy.
T/S Alan Phan, Chủ tịch Quỹ đầu tư
Viasa
(Bài đã đăng trên Vietnamnet/ Tuần
Việt Nam vào 20 tháng 10 năm 2011)
Cho những người
vừa nằm xuống
Tôi không phải là một sử gia hay môt
nhà bình luận chính trị để ca tụng hay
chửi bới có căn bản khoa học những vị
lãnh tụ, sống hay chết. Nhưng tôi biết
rằng họ là những người đã bay cao, đã
đi xa hơn đa số chúng tôi và đã sánh
vai với những lãnh tụ khác nổi tiếng
thế giới để làm nên lịch sử.
Một cuối tuần mùa hè thật thanh bình ở
Koh Samui (Thái) chợt nghe tin về cái
chết của Tướng Đặng Văn Quang và
Tướng Nguyễn Cao Kỳ của VNCH ngày
xưa. Bất cứ cái chết nào của một lãnh tụ,
dù xấu hay tốt, cũng khơi dậy những suy
tưởng về ý nghĩa của đời người trong
lịch sử. Những lãnh tụ mà tôi có chút
quen biết còn gợi lại thêm những hồi ức
của một thời oanh liệt và tàn phai.
Tôi không phải là một sử gia hay môt nhà
bình luận chính trị để ca tụng hay chửi
bới có căn bản khoa học những vị lãnh
tụ, sống hay chết. Nhưng tôi biết rằng họ
là những người đã bay cao, đã đi xa hơn
đa số chúng tôi và đã sánh vai với những
lãnh tụ khác nổi tiếng thế giới để làm nên
lịch sử. Với cảm nhận của cá nhân tôi, họ
là những biểu tượng cho lòng ngưỡng
mộ, cùng chút thương hại. Nhiều người
thường cho là “thời thế tạo anh hùng” để
làm nhẹ những thành tựu hay hậu quả
trong lịch sử. Có thể vậy, nhưng với tôi,
bất cứ lãnh tụ nào lèo lái môt quốc gia
cũng đều chia sẻ nhiều cá tính đặc biệt
xuất chúng giúp họ vượt lên cao khỏi
đám đông để nắm giữ quyền lực. Nói
rằng số tử vi tên này tốt không thể giải
thích trọn vẹn vai trò lịch sử của họ.
Tôi có quen biết giao lưu với hai Tướng
Kỳ và Quang vào trước thời 1975.
Những cuộc gặp thóang qua trong các
bữa tiệc công cộng nên không phải là
“bạn” và tôi không làm chính trị nên
cũng chẳng là “thù”. Sau 1975, tôi có
chơi tennis nhiều lần với ông Kỳ ở
California và ông ta cũng nhờ tôi tư vấn
vài chuyện làm ăn nhỏ. Thú vị nhất là lần
ông được đại tài tử John Wayne (bây giờ
là tên của phi trường ở Quận Cam) mở
tiệc chiêu đãi ở Newport Beach. Ông Kỳ
là thượng khách, kéo thêm tôi cho ếch ra
đáy giếng, và tôi đã hết sức ấn tượng chỉ
với danh sách khách mời, như Ron
Reagan, bấy giờ là Thống Đốc
California (sau lên làm Tổng Thống
Mỹ). Tôi tiếc cho ông lúc đấy (1975),
chưa biết dùng đòn bẫy là quan hệ thân
thiết với John Wayne và nhiều nhân vật
danh tiếng khác của Mỹ để đẩy sự nghiệp
đi về một hướng khác.
Nhưng dù sao ông đã bay rất cao, qua
những cuộc họp thượng đỉnh với các
Tổng Thống Johnson, Ford, Nixon, hay
những cuộc đàm phán với Kissinger,
McNamara, Bundy. Trong suốt thập niên
60s và 70s, có lẽ ông có mặt trên tin tức
TV, báo chí Mỹ và thế giới mỗi ngày.
Còn Tướng Đặng Văn Quang là nhân vật
số 2 của chế độ cũ, sau ông Thiệu. Tiếng
tăm và quyền lực của ông đi trước mọi
toan tính về chính trị thời này. Ảnh
hưởng của ông rất lớn, kể cả những ván
cờ với người Mỹ; nhưng ông ít xuất hiện
nơi đám đông và các mạng truyền thông,
nên không nổi tiếng như Tướng Kỳ. Ấn
tượng nhất với tôi là tiếng cười dòn tan,
biểu lộ một tâm tư tươi mát, khi trao đổi
những chuyện khôi hài về “gà tóc dài”.
Nhưng trên một khía cạnh khác tôi cũng
thấy “thương” cho bước đường quan lộ
của hai ông. Tôi lánh xa chính trị vì tôi
hiểu khi liên quan đến quyền lực và
quyền lợi, bản chất con người cho phép
họ làm bất cứ điều gì để đạt mục tiêu.
Thủ đọan, phù phép và dối trá là phương
tiện thông dụng hàng ngày hàng giờ.
Lấy các chính trị gia của Mỹ làm thí dụ.
Hai ông Kỳ, Quang là những con bài khá
ngoan ngõan và trung thành với chánh
sách Mỹ tại Việt Nam. Họ không hề có
một tham vọng gì để hành xử trong vị thế
độc lập với Mỹ như vị tiền nhiệm là
Tổng Thống Diệm. Tuy vậy, khi đã vắt
hết trái chanh Kỳ, Quang, họ đã cho đàn
em viết sách, viết báo tung tin là Tứơng
Kỳ, rồi sau này, Tướng Quang, là những
trùm buôn ma túy, với tài sản cả tỷ đô la.
Báo sách Mỹ viết theo kiểu báo cáo điều
tra (investigative report) nên cả thế giới
tin theo và vết nhơ trên người hai ông có
lẽ không bao giờ gột sạch.
Sau 1975, Tướng Kỳ có bàn thào xin tư
vấn của tôi về chuyện mưu sinh trên đất
mới đến. Chắc ông nghĩ tôi biết nhiều vì
đã qua đây từ 1963. Ông nói thực là tài
sản gia đình chỉ còn khỏang 900 ngàn đô
la và tôi rất ngạc nhiên với số tiền nhỏ
nhoi này. Một anh làm hải quan cấp trung
ở Thượng Hải cũng có một lần nhờ tôi tư
vấn về quản lý tài sản cá nhân và tôi đã
thấy tiền nhàn rỗi của viên chức này
trong ngân hàng Hồng Kông lên đến hơn
6 triệu đô la. Làm Thủ Tướng 3 năm và
Phó Tỏng Thống 4 năm dưới thời mà Mỹ
đổ cả trăm tỷ đô la vào Việt Nam, mà
ông bà Kỳ chỉ bòn rút được dưới 1 triệu
đô la, thì trong sách vở của tôi, đây là
con người sạch.
Còn Tướng Quang lại lận đận hơn nữa.
Sau 1975, vì những lời cáo buộc về ma
túy và tham nhũng, ông không được nhập
cảnh vào Mỹ. Lạnh lẽo bên xứ tuyết
Canada, ông sống nghèo khổ đời công
nhân trong một căn hộ chật hẹp. Sau cùng
được qua Mỹ vào giữa thập niên 80s,
ông tiếp tục làm lao động và vợ phải đi
bán bánh ở các chợ, cho đến ngày ra đi
với hai bàn tay trắng. Đồng minh Mỹ
hòan tòan quay mặt lạnh lùng.
Tôi không quan tâm đến những công, tội
của hai ông. Chiến tranh đã chấm dứt
hơn 36 năm. Thế hệ mới quanh tôi loay
hoay với những bài tóan khó khăn trước
mặt, không phải những câu chuyện vớ
vẩn của các ông già. Nếu hai ông có để
lại bài học gì cho hậu thế, tôi chắc là thế
này: trong chánh trị, đôi khi làm kẻ thù
còn hơn làm bạn. Bởi vì ta biết quá
nhiều về bạn, trong khi chỉ nghe đến
huyền thọai về kẻ thù.
Nhưng ngày tháng sẽ trôi qua và chôn
vùi tất cả. Lần chót tôi gặp ông Kỳ, vài
năm trước ở Phan Rang, chúng tôi cùng
đứng nhìn một Tháp Chàm bụi bặm gần
một khu du lịch ông đang muốn làm dự
án. Khi ông nói về triển vọng, tôi lại nhớ
đến bài hát cũ:
Người xưa đâu, mà tháp thiêng sao
đứng như buồn rầu
Lầu các đâu, nay thấy chăng rừng xanh
xanh một mầu…
Trịnh Công Sơn cũng có một bài hát cho
thời 70s, về những “hận thù đã lãng
quên, dấu chân người rồi cũng bụi mờ,
và đứa con xưa đã tìm về nhà, thôi thì
hãy xin cho người vừa nằm xuống tìm
thấy thiên đường nơi cuối trời mênh
mông”.
T/S Alan Phan
Table of Contents
Không ngừng đặt câu hỏi
Hai mươi câu hỏi dành cho TS. Alan
Phan
Đừng hoang tưởng về một thế giới phẳng
Không có bữa ăn nào miễn phí
Sau mỗi thời kỳ vàng son
Tư bản và Dân chủ
Con voi Trung Quốc
Chuyện con ve và con kiến
Chó Việt Nam hạnh phúc nhất thế giới
Khi các lãnh tụ biết cười mình…
Một người làm quan cả họ được nhờ
Bỏ cuộc trước khi tới đích là thất bại
Các cuộc chiến sắp xảy ra…
Thiếu can đảm nhiều người bỏ cuộc quá
sớm
Một cách nhìn khác về con người Alan
Phan
Kẻ cắp gặp bà già
Đầu tư ngoại tệ nào?
Giải mã nền kinh tế ngầm
Việt Nam và Trung Quốc
Những can thiệp vô ích
Nói về đạo đức kinh doanh
Hai chuyện làm ăn bên Mỹ
Thánh địa của tư bản
Paris, Gisele và huyền thoại
Cho những người vừa nằm xuống