Professional Documents
Culture Documents
Thực Trạng Cơ Cấu Kinh Tế Và Mô Hình Tăng Trưởng Kinh Tế Bình Định Giai Đoạn 2011-2016
Thực Trạng Cơ Cấu Kinh Tế Và Mô Hình Tăng Trưởng Kinh Tế Bình Định Giai Đoạn 2011-2016
Kết quả tính toán cho thấy cấu trúc tăng trưởng theo ngành có sự thay đổi
rõ nét qua các năm.
a. Tăng trưởng từ ngành CN-XD
Mặc dù ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất trong GRDP suốt giai
đoạn 5 năm, tuy nhiên từ năm 2012-2016, ngành có đóng góp lớn nhất vào tăng
trưởng kinh tế là ngành CN-XD, với phần trăm đóng góp cao nhất là năm 2013,
đạt 53,1%. Những năm tiếp theo, ngành CN-XD vẫn giữ vững vị trí là ngành
kinh tế chủ lực của tỉnh với mức đóng góp vào tăng trưởng kinh tế chung lần
lượt là 37,7% , 46,6% và 41,9%.
b. Tăng trưởng từ ngành dịch vụ
Giai đoạn 2012-2015, ngành dịch vụ có tốc độ tăng trưởng đều thấp hơn
tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế nhưng đến năm 2016 đã được cải
thiện. Mặc dù, ngành dịch vụ có cơ cấu lớn nhất trong GRDP nhưng phần trăm
đóng góp vào tăng trưởng kinh tế chung lại thấp hơn ngành CN-XD. Động lực
tăng trưởng của ngành dịch vụ vẫn dựa vào những ngành dịch vụ truyền thống –
gắn chặt với sản xuất và phục vụ nhu cầu của người dân.
Các hoạt động của khu vực dịch vụ chủ yếu là doanh thu từ thương mại,
thông tin liên lạc và du lịch – những ngành dịch vụ truyền thống. Tuy nhiên, các
chính sách ưu đãi đầu tư đã thu hút nhiều dự án du lịch phát triển thêm nhiều
ngành dịch vụ đa dạng. Từ đó, tốc độ phát triển ngành dịch vụ được cải thiện.
Năm 2016 tốc độ tăng trưởng đạt 6,8% cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của
nền kinh tế.
c. Tăng trưởng từ ngành nông – lâm – thủy sản
Đóng góp của ngành nông – lâm – thủy sản vào tăng trưởng kinh tế biến
động liên tục qua các năm, từ 31,9% năm 2011 xuống 24,5% năm 2012 và thấp
nhất vào năm 2013 (-1,7%), năm 2016 tăng lên 17,7%. Sự giảm sút trong đóng
góp của ngành nông – lâm – thủy sản vào tăng trưởng kinh tế là do ngành nông
– lâm – thủy sản có tốc độ tăng trưởng rất thất thường và có xu hướng giảm
mạnh, kết hợp với tỷ trọng ngành nông – lâm – thủy sản thấp nhất trong cơ cấu
GRDP.
Ngành sản xuất nông nghiệp của cả nước nói chung và Bình Định nói
riêng khá bấp bênh do chưa áp dụng nhiều tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào sản
xuất, còn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. Trong khi đó, Bình Định là một trong
những tỉnh bị ảnh hưởng khá nặng nề bởi biến đổi khí hậu. Những năm gần đây,
địa bàn tỉnh hứng chịu nhiều diễn biến cực đoan của thời tiết (hạn hán gay gắt
xảy ra trên diện rộng, mưa lũ lớn bất thường…). Thị trường tiêu thụ nông sản
tiếp tục gặp khó khăn. Thu hút vốn đầu tư xã hội đầu tư vào nông nghiệp, nông
thôn còn hạn chế. Điều này giải thích nguyên nhân vì sao đóng góp của ngành
nông nghiệp vào tăng trưởng kinh tế chung khá khiêm tốn.
Đóng góp của khu vực nông – lâm – thủy sản thấp, trong khi ngành này
đang sử dụng hơn 50% lao động của toàn nền kinh tế tỉnh (năm 2016 là 50,2%).
Điều này cho thấy cần phải có sự tác động tới khu vực này để làm tăng năng
suất lao động, đồng thời đảm bảo an ninh lương thực, nhất là trong bối cảnh
chịu ảnh hưởng lớn từ biến đổi khí hậu như hiện nay.
2.3. Hiệu quả tăng trưởng
2.3.1. Năng suất lao động (NSLĐ)
a. Năng suất lao động được cải thiện qua các năm
Tốc độ tăng năng suất lao động (%) Tốc độ tăng GRDP (%)
Hình 3: Quan hệ giữa tốc độ tăng GRDP và tốc độ tăng vốn đầu tư
giai đoạn 2011-2016
Nguồn: Niên giám thống kê Bình Định 2016
Trong những năm qua, nguồn vốn đầu tư vào địa bàn tỉnh Bình Định tăng
trưởng khá. Đây là cơ sở để thúc đẩy phát triển kinh tế tỉnh Bình Định. Năm
2010 tổng vốn đầu tư tại tỉnh là 10.194 tỷ đồng, năm 2016 là 20.743 tỷ đồng,
gấp hơn 2 lần năm 2010. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011-2016 là
12,6%. Tuy nhiên, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế làm cho tốc độ
tăng không ổn định. Tốc độ tăng vốn đầu tư năm 2014 và những năm tiếp theo
có xu hướng giảm nhẹ.
Vấn đề chính cần quan tâm khi nói đến vốn đầu tư chính là hiệu quả. Hiệu
quả này trước hết đo bằng tốc độ tăng GRDP. Có những năm vốn đầu tư tăng
nhanh nhưng kết quả tăng GRDP chưa tương xứng. Điều này cho thấy nền kinh
tế vẫn chưa thực sự thoát khỏi tăng trưởng theo chiều rộng để chuyển sang hình
thái tăng trưởng theo chiều sâu. Hình 1.3 mô tả quan hệ biến động theo thời
gian của hai chỉ tiêu quan trọng này.
b. Hệ số ICOR
Hệ số ICOR là một trong những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của việc sử
dụng vốn đầu tư vào phát triển kinh tế xã hội của vùng hay địa phương, hệ số
ICOR càng cao chứng tỏ đầu tư càng kém hiệu quả. Hệ số ICOR cho biết muốn
có thêm một đơn vị sản lượng trong một thời kỳ nhất định cần phải bỏ ra thêm
bao nhiêu đơn vị vốn đầu tư trong kỳ đó.
12.00
10.00 9.86
9.19
8.40 8.22
8.00
6.76 6.67 7.12
6.41 ICOR Bình Định
6.00 5.72
6.29 5.80 ICOR Cả nước
5.52
4.00
2.00
0.00
2011 2012 2013 2014 2015 2016
46.1 47.9
50.0 45.1 48.7
41.5
38.5
40.0
33.0
30.0 Cả nước
33.3 32.6
31.1 30.5 31.0
Bình Định
20.0
10.0
0.0
2011 2012 2013 2014 2015 2016
Bình Định 0,315 0,333 0,336 0,337 0,344 0,326 0,334 0,340
Nguồn: Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh – VCCI (2017)
70 63.06 64.08
59.37 59.72 59.23 60.24
58.14
60
50
38
40
PCI
30 Xếp hạng
20
18 17 18 18
20
10 4
0
2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Hình 6: Điểm PCI và xếp hạng PCI Bình Định giai đoạn 2011-2017
Bảng số liệu cho thấy, các chỉ số thành phần thay đổi qua từng năm, nhìn
chung PCI Bình Định có xu hướng được cải thiện qua thời gian. Đáng lưu ý
nhất là năm 2011 PCI Bình Định chỉ đạt 58,14, xếp vị trí 38, thấp nhất trong cả
giai đoạn nhưng đến năm 2012 Bình Định lại đạt chỉ số năng lực cạnh tranh là
63,06 xếp vị trí thứ 4, đây là năm có chỉ số năng lực cạnh tranh tốt nhất và xếp
hạng cao nhất cả giai đoạn. Từ năm 2013 đến năm 2017, PCI bổ sung thêm chỉ
số thành phần “cạnh tranh bình đẳng”, chỉ số năng lực cạnh tranh Bình Định có
xu hướng cải thiện, lần lượt đạt 59,37 (vị trí thứ 18 năm 2013) và 64,08 (vị trí
thứ 18). Về điểm PCI có sự thay đổi theo hướng tích cực ở năm 2016, 2017 tuy
nhiên vị trị xếp hạng không có sự thay đổi. Điều này cho thấy sự nổ lực cải
thiện năng lực cạnh tranh của các địa phương khác là hết sức quyết liệt và gay
gắt.
Thêm một điểm đáng lưu ý khác là Bình Định thường bị mất điểm ở chỉ
số “cạnh tranh bình đẳng” và “tính năng động tiên phong” của lãnh đạo tỉnh.
Chỉ số “cạnh tranh bình đẳng” là một chỉ số mới, chỉ số này tại Bình Định lại
sụt giảm trong 3 năm liên tục từ 2013-2015 (từ 6,25 xuống 4,85) tuy nhiên được
cải thiện rõ rệt ở năm 2017 (6,31 điểm). Tình hình tương tự đối với chỉ số “tính
năng động tiên phong” của lãnh đạo tỉnh và dần dần được cải thiện năm 2017
chỉ số này có số điểm 5,63. Những chỉ tiêu thành phần vốn là điểm yếu của tỉnh
như “thiết chế pháp lý” và “chi phí không chính thức” dần dần được cải thiện ở
2 năm trở lại đây.
Kết quả này cho thấy năng lực điều hành, quản lý của tỉnh gắn với tăng
trưởng còn nhiều vấn đề cần đáng lưu ý và cải thiện nhiều hơn.
3. CÁC CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA TỈNH VỀ TÁI CƠ
CẤU VÀ CHUYỆN ĐỔI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ GIAI
ĐOẠN 2011-2016
3.1. Các chủ trương, chính sách liên quan đến Tái cơ cấu và chuyển
đổi mô hình tăng trưởng kinh tế nói chung
Giai đoạn 2011-2016, mặc dù Đảng bộ và chính quyền tỉnh Bình Định
chưa ban hành các chính sách trực tiếp chỉ đạo về vấn đề tái cơ cấu kinh tế và
chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên nhiều chính sách dài hạn và
ngắn hạn khác đã phần nào cụ thể hóa chủ trương theo tinh thần Quyết định số
339/QĐ-TTg ngày 19 tháng 2 năm 2013 phê duyệt Đề án tổng thể “Tái cơ cấu
kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất
lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020”.
Theo đó, Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XVIII Đảng bộ tỉnh Bình
Định (2010) đã xác định phương hướng, mục tiêu cho giai đoạn này là “tập
trung phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao, hiệu quả và bền vững”.
Nhằm đạt được phương hướng, mục tiêu nói trên, Nghị quyết vạch ra các nhiệm
vụ cơ bản phát triển các ngành kinh tế như: Phát triển công nghiệp theo hướng
hiện đại, tiếp tục tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững của tỉnh; Phát triển
nông nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với giải
quyết tốt vấn đề nông thôn, nông dân; Đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao hiệu quả
các hoạt động thương mại, dịch vụ.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đại
biểu lần thứ XVIII Đảng bộ tỉnh Bình Định, Tỉnh ủy đã đề ra 6 Chương trình
hành động, trong đó có các Chương trình hành động liên quan đến các vấn đề về
tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế như: Chương trình hành
động số 06-CTr/TU ngày 24/8/2011 về Cải cách hành chính, trọng tâm là cải
cách thủ tục hành chính; Chương trình hành động số 07-CTr/TU ngày
30/8/2011 về Phát triển KKT Nhơn Hội và các KCN trên địa bàn tỉnh giai đoạn
2011-2015; Chương trình hành động số 08-CTr/TU ngày 30/8/2011 về Đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2011-2015; Chương trình hành động số 11-
CTr/TU ngày 24/10/2011 về Đầu tư phát triển du lịch giai đoạn 2011-2015.
Như vậy, có thể nhận thấy, mặc dù các Chương trình hành động giai đoạn 2011-
2015 của Tỉnh ủy đề ra không trực tiếp chỉ đạo về vấn đề tái cơ cấu và chuyển
đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, nhưng nó đã phần nào giải quyết các yêu cầu
của quá trình tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế của tỉnh, tạo
tiền đề cho chuyển đổi mô hình tăng trưởng thành công trong giai đoạn sau. Đó
là: tập trung cải cách hành chính để tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi,
thu hút thêm nhiều nguồn lực cho đầu tư phát triển; tập trung phát triển công
nghiệp mà trọng tâm là phát triển KKT Nhơn Hội và các KCN và tập trung phát
triển du lịch – những ngành kinh tế chủ chốt của tỉnh; tập trung phát triển nguồn
nhân lực, tạo tiền đề để tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả tăng trưởng
kinh tế.
Như vậy, cho đến năm 2016, mặc dù vẫn chưa có văn bản chỉ đạo cụ thể
về vấn đề tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, song các Chương trình
hành động của Tỉnh ủy đã cụ thể hóa nhiều công việc. Đó là: tiếp tục đẩy mạnh
cải cách thủ tục hành chính tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư; phát triển du
lịch là một trong những ngành dịch vụ chủ lực của tỉnh; phát triển khoa học và
công nghệ, phát triển nguồn nhân lực tạo tiền đề cho chuyển đổi mô hình tăng
trưởng kinh tế theo chiều sâu; phát triển nông nghiệp – nông thôn, công nghiệp
– tiểu thủ công nghiệp và làng nghề theo hướng hiện đại – là tiền đề cho quá
trình tái cơ cấu các ngành kinh tế.
3.2. Chủ trương, chính sách thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu các khu vực
kinh tế
3.2.1. Chủ trương, chính sách chuyển dịch cơ cấu khu vực công nghiệp
Trong lĩnh vực công nghiệp, Đảng và chính quyền tỉnh Bình Định đã đưa
ra và nhất quán chủ trương về ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp có thiết
bị công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, tạo bước chuyển dịch mạnh cơ
cấu sản xuất công nghiệp. Phát triển mạnh công nghiệp có hàm lượng khoa học
công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn kết hợp công nghiệp sử dụng nhiều lao động
ở các vùng nông thôn, góp phần chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động.
Nhiều chương trình triển khai trong lĩnh vực công nghiệp như: Đề án
khuyến công hàng năm sử dụng từ nguồn kinh phí địa phương; Đề án Phát triển
công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn; Đề án phát triển hàng xuất khẩu
tỉnh Bình Định đến năm 2020; Chương trình hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề cho
các doanh nghiệp trong KCN, KKT; ban hành Quy chế về trách nhiệm và quan
hệ phối hợp hoạt động giữa các cơ quan, đơn vị trong công tác đấu tranh phòng,
chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trên địa bàn tỉnh Bình Định;
ban hành Quy định chính sách hỗ trợ phát triển công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn
tỉnh Bình Định; Đề án Phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn
tỉnh Bình Định đến năm 2020; Dự án "Năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng
hóa chủ lực của tỉnh Bình Định giai đoạn 2011 - 2020";
3.2.2. Chủ trương, chính sách chuyển dịch cơ cấu khu vực dịch vụ
Trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ, Tỉnh đã đưa ra chủ trương phát triển
các nhóm ngành dịch vụ trọng điểm, có nhiều tiềm năng như: tài chính, ngân
hàng, vận tải, bưu chính viễn thông, tư vấn, khoa học – công nghệ, bảo hiểm.
Trong đó, nổi bật là các chủ trương phát triển ngành thương mại như: Thành lập
Ban Chỉ đạo phát triển hàng xuất khẩu tỉnh Bình Định đến năm 2015, định
hướng đến năm 2020; Xây dựng Dự án Năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng
hóa chủ lực của tỉnh Bình Định giai đoạn 2011 – 2020; Đề án nâng cao năng lực
cạnh tranh các sản phẩm chủ yếu chế biến từ nông, lâm, thủy sản và các ngành
dịch vụ xuất khẩu tỉnh Bình Định đến năm 2020; Dự án khoa học và công nghệ
hỗ trợ phát triển các sản phẩm đặc trưng tỉnh Bình Định năm 2015. Tỉnh đã chỉ
đạo tập trung đầu tư phát triển các nhóm mặt hang xuất khẩu có lợi thế như thủy
hải sản, lâm sản, nông sản thực phẩm, khoáng sản, thủ công mỹ nghệ… đi đôi
với áp dụng công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao giá trị gia tang và sức cạnh
tranh của sản phẩm
Đồng thời, Tỉnh đã xác định phát triển du lịch thành ngành kinh tế quan
trọng của tỉnh. Tích cực thu hút đầu tư, triển khai các dự án du lịch. Trên cơ sở
đó, Tỉnh ủy đã đề ra Chương trình hành động số 11-CTr/TU ngày 24/10/2011
về Đầu tư phát triển du lịch giai đoạn 2011-2015. Chương trình hành động này
đề xuất phải xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích, ưu đãi về đất đai, tài
chính, tín dụng đối với các thành phần kinh tế, nhà đầu tư tham gia phát triển du
lịch. Tỉnh cũng đã cho thành lập Ban Chỉ đạo Phát triển Du lịch tỉnh Bình Định.
Đồng thời, Tỉnh đã kiên quyết thu hồi giấy phép những dự án đầu tư chậm tiến
độ, nhà đầu tư thiếu năng lực, không thể hiện quyết tâm đầu tư. Thực hiện cơ
chế xã hội hóa; có cơ chế phối hợp, chia sẻ lợi ích và trách nhiệm hợp lý cùng
doanh nghiệp trong hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch Bình Định.
3.2.3. Chủ trương, chính sách chuyển dịch cơ cấu khu vực nông
nghiệp
Giai đoạn 2011-2015, Tỉnh đã đưa ra rất nhiều chính sách đối với phát
triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Kết quả của việc tổ chức thực
hiện các chính sách trên đã có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, giảm diện tích trồng lúa
kém hiệu quả để chuyển sang những cây trồng, vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao
với mục tiêu hướng đến xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại. Có thể nêu
một số chương trình, mục tiêu trọng điểm, tiêu biểu dẫn đến sự thành công của
tỉnh như sau:
Chương trình giống cây, con chất lượng cao: tập trung ứng dụng công
nghệ sinh học, sưu tập, tuyển chọn, lai tạo và sản xuất các loại giống cây trồng,
vật nuôi sạch bệnh, có năng suất, chất lượng cao. Chương trình phát triển rau an
toàn: ứng dụng công nghệ sinh học, tiến bộ kỹ thuật, giống mới, quy trình GAP
để nâng cao chất lượng, năng suất, bảo đảm an toàn. Chương trình phát triển
chăn nuôi: tập trung nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm bò thịt, đàn heo
và một số vật nuôi có giá trị, bảo đảm an toàn dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực
phẩm, môi sinh, môi trường. Chương trình phát triển thủy sản: Thực hiện quy
trình GAP, phát triển đánh bắt xa bờ. Chương trình chuyển dịch cơ cấu lao động
nông nghiệp: đào tạo nghề giúp người dân sản xuất nông nghiệp nắm vững và
ứng dụng quy trình kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất và chuyển đổi ngành nghề
theo nhu cầu phát triển kinh tế của từng địa phương. Chương trình nâng cao
chất lượng công tác quản lý vệ sinh, an toàn thực phẩm trong sản xuất nông
nghiệp. Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2010-2020.
3.3. Hiệu quả của các chính sách
3.3.1. Thành công
Các cơ chế, chính sách của tỉnh đã có hiệu quả bước đầu trong việc thúc
đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu các khu vực kinh tế. Các ưu điểm về cơ chế,
chính sách của tỉnh có thể tóm tắt những điểm sau:
Trước tình hình kinh tế thế giới diễn biến phức tạp và kinh tế trong nước
gặp nhiều khó khăn, Tỉnh đã kịp thời nắm bắt tình hình, chủ động tổ chức nhiều
cuộc họp để chỉ đạo giải quyết các khó khăn, vướng mắc, tổng hợp các vấn đề
phát sinh để kiến nghị, đề xuất biện pháp xử lý. Các chủ trương, chính sách của
Tỉnh nhận được sự đồng thuận cao trong mọi tầng lớp nhân dân, thể hiện quyết
tâm vượt qua khó khăn, các chỉ tiêu kinh tế - xã hội tiếp tục tăng trưởng theo
đúng định hướng đề ra.
Tỉnh luôn quan tâm, tập trung chỉ đạo quyết liệt, sâu sát và cụ thể từng
ngành, lĩnh vực nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng định hướng.
Bên cạnh đó, Tỉnh luôn kiểm tra chặt chẽ quá trình triển khai của từng Sở,
ngành, huyện/thị xã để kịp thời hướng dẫn, điều chỉnh theo đúng định hướng đã
đề ra.
Kịp thời ban hành cơ chế, chính sách phát triển các ngành, các lĩnh vực,
tạo môi trường thuận lợi để tổ chức và cá nhân trong và ngoài tỉnh yên tâm đầu
tư sản xuất kinh doanh; quan tâm chỉ đạo sát sao tiến độ triển khai công việc của
các Sở, ngành và giải quyết kịp thời những kiến nghị, vướng mắc trong quá
trình triển khai thực hiện các nội dung của chương trình.
Luôn đồng hành cùng doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua thử
thách, ổn định sản xuất; hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ nhằm nâng cao
công suất, nâng cao chất lượng, tăng tính cạnh tranh. Công tác nghiên cứu, đề
xuất các chính sách hỗ trợ phát triển ngày càng gắn với thực tiễn.
Tỉnh đã tập trung đẩy nhanh tiến độ đầu tư KKT, các khu, CCN; tập trung
quy hoạch và triển khai nhiều dự án giao thông quan trọng, tạo sự kết nối giữa
Bình Định và các tỉnh Tây Nguyên, các địa phương lân cận, giữa các địa
phương trong tỉnh; kêu gọi xã hội hóa nhằm đào tạo nguồn nhân lực có trình độ,
tay nghề đáp ứng cho nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tỉnh tiếp tục triển khai và chuẩn hóa việc thực hiện cơ chế một cửa, một
cửa liên thông nhằm tăng cường trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà
nước, nâng cao chất lượng và hiệu quả phục vụ nhân dân; đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin – truyền thông trong quy trình xử lý công việc của từng cơ
quan hành chính nhà nước, giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau và
trong giao dịch với tổ chức, cá nhân nhằm giải quyết các công việc và phục vụ
nhân dân, doanh nghiệp; giúp các cơ quan nhà nước xử lý công việc nhanh, chính
xác; giúp lãnh đạo nắm thông tin kịp thời, kiểm tra công việc đã chỉ đạo. Môi
trường đầu tư kinh doanh tại tỉnh Bình Định ngày càng thuận lợi, thông thoáng,
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển, tham gia tích cực vào các chương
trình phát triển các ngành dịch vụ, công nghiệp và nông nghiệp trên địa bàn.
3.3.2. Tồn tại
Bên cạnh những kết quả trên, tỉnh Bình Định đang đứng trước không ít
những tồn tại và khó khăn. Đó là, hiện vẫn chưa có một văn bản tổng hợp chỉ
đạo thực hiện Quyết định 339/QĐ-TTg trên địa bàn tỉnh Bình Định. Quá trình
tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế tại Bình Định được
thực hiện khá rời rạc và chưa được đánh giá tổng kết một cách toàn diện. Các
chính sách, giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hiện vẫn chưa đủ mạnh, chưa
tạo được sự đột phá.
Các cấp chính quyền tỉnh còn lúng túng trong thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về kinh tế trên địa bàn, trong đó có những hạn chế do chính sách
kinh tế vĩ mô thời gian qua chưa có tác động tích cực thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng cạnh tranh, nhất là chưa có chính sách định hướng cho
doanh nghiệp chuyển từ gia công sang sản xuất hàng có giá trị gia tăng cao.
Công tác quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền được đánh giá là
chưa thực sự năng động, chưa theo kịp sự phát triển và chưa đáp ứng được yêu
cầu trong giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay (Theo công bố PCI hàng
năm của VCCI, chỉ số tính năng động tiên phong của lãnh đạo tỉnh Bình Định
liên tục sụt giảm, từ 7,22 năm 2007 giảm còn 4,2 năm 2014 và 4,87 năm 2015).
Các chính sách tỉnh đưa ra nhiều, song chưa thật đồng bộ, nhất là chưa có
các chính sách chỉ đạo trực tiếp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mô hình tăng
trưởng kinh tế tỉnh Bình Định từ chiều rộng sang chiều sâu. Do đó, đến nay,
kinh tế tỉnh Bình Định vẫn dựa vào tăng trưởng theo quy mô chiều rộng, thông
qua thâm dụng vốn nhưng hiệu quả chưa cao.
Chưa có chính sách thúc đẩy những ngành dịch vụ có hàm lượng chất
xám và giá trị gia tăng cao như dịch vụ tư vấn nên tỷ trọng ngành dịch vụ chưa
cao. Các chính sách chưa có tác động mạnh mẽ trong việc khai thác tối ưu yếu
tố tài nguyên của địa phương như đất đai, lao động, thị trường, khoáng sản.
Chính sách tác động đến nâng cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp Bình
Định chưa đạt hiệu quả như mong muốn, trình độ công nghệ của các doanh
nghiệp vẫn còn thấp; chưa đổi mới mạnh mẽ, nhất là ứng dụng công nghệ mới.
Chính sách tổ chức lại các KCN, CCN chưa hiệu quả. Các KCN, CCN chủ yếu
mang tính tổng hợp, nhiều ngành nghề quy tụ, ít khu chuyên ngành nên chưa
hình thành các cụm liên kết, hỗ trợ sản xuất, do đó tăng trưởng công nghiệp
chưa thật sự mang lại hiệu quả cao. Chính sách phát trển nguồn nhân lực, nhất
là nhân lực có trình độ cao chưa hiệu quả.
4. ĐÁNH GIÁ CHUNG
4.1. Kết quả đạt được
Thứ nhất, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng. Cơ cấu kinh tế tỉnh
Bình Định chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp - xây
dựng và ngành dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông – lâm – thủy sản. Mặc dù
tốc độ chuyển dịch chậm, tuy nhiên sự thay đổi cơ cấu này đúng hướng với mục
tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà tỉnh đã đặt ra. Cơ cấu NN-CN-DV năm 2011
là 31,5%-24,9%-38,6%; năm 2015 là 29,0%-29,1%-37,3%.
Trong nội bộ các nhóm ngành cũng có sự chuyển dịch tích cực. Trong
nhóm ngành nông – lâm – thủy sản, cơ cấu chuyển dịch theo hướng tăng tỷ
trọng ngành thủy sản, giảm nông nghiệp. Trong nông nghiệp, tăng tỷ trọng chăn
nuôi, giảm tỷ trọng trồng trọt. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi cũng được cải thiện
theo hướng hiện đại hơn, thường xuyên đưa giống mới, kỹ thuật mới vào sản
xuất để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của
ngành.
Cơ cấu thành phần kinh tế chuyển dịch theo hướng khuyến khích tất cả
các thành phần kinh tế đều tham gia sản xuất. Tỷ trọng thành phần kinh tế nhà
nước giảm dần, tăng dần tỷ trọng kinh tế ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài.
Dịch vụ phát triển đa dạng, có chuyển biến tích cực cả về quy mô, cơ cấu
và chất lượng. Trong đó, hoạt động xuất nhập khẩu là một điểm sáng trong tổng
quan nền kinh tế của tỉnh. Xét tổng quan kim ngạch xuất nhập khẩu của cả
nước, đến năm 2012 Việt Nam mới bắt đầu có thặng dư thương mại. Tuy nhiên,
Bình Định lại là một tỉnh xuất siêu với tỷ trọng cao nhiều năm liền. Giai đoạn
2006-2015 cả tỉnh xuất siêu 2.957 tỷ USD.
Thứ hai, cấu trúc tăng trưởng đã có dấu hiệu chuyển đổi tích cực theo
đúng định hướng: (i) Đóng góp của TFP vào tăng trưởng ngày càng được cải
thiện cho thấy mô hình tăng trưởng đã có xu hướng chuyển sang kết hợp chiều
rộng với chiều sâu; (ii) Đóng góp của ngành khai thác khoáng sản giảm mạnh
phản ánh tăng trưởng đã dần thoát khỏi mô hình tăng trưởng nhờ vào khai thác
tài nguyên và chuyển dần sang mô hình tăng trưởng dựa vào công nghiệp chế
biến chế tạo.
Thứ ba, tăng trưởng kinh tế vẫn có tác động lan tỏa tích cực đến tiến bộ
xã hội cho con người. Cùng với tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân thực
của người dân tăng, góp phần nâng cao mức sống dân cư, nghèo đói giảm, chỉ
số phát triển con người tiếp tục được nâng lên.
Để đạt được những thành tựu nói trên là những nỗ lực không ngừng của
chính quyền và nhân dân toàn tỉnh:
Thứ nhất, tỉnh đã triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước; các ngành, các cấp trong tỉnh đã tập trung, xây dựng và
triển khai thực hiện các chính sách, giải pháp được đề ra tại các quy hoạch,
chiến lược, đề án như: Đề án phát triển sản phẩm nông nghiệp của tỉnh theo
hướng hình thành vùng sản xuất hàng hóa lớn, tập trung, phục vụ công nghiệp
chế biến; các quy hoạch phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề,
Đề án phát triển hàng xuất khẩu tỉnh Bình Định đến năm 2015, định hướng đến
năm 2020…
Thứ hai, Trung ương và tỉnh đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách
phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với nền kinh tế nhỏ nhiều thành phần, tạo
điều kiện cho các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Riêng tỉnh Bình Định còn triển khai xây dựng kịp thời các cơ chế, chính
sách khuyến khích đầu tư phù hợp với tình hình mới, tạo môi trường thuận lợi
cho phát triển kinh tế và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biệt những năm
gần đây đã huy động vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng các khu, CCN, phát
triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp; đẩy mạnh công tác khuyến công, khuyến
khích phát triển công nghiệp nông thôn, thu hút nguồn nhân lực… phục vụ phát
triển kinh tế, xã hội.
Chính quyền các cấp đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư phát
triển sản xuất kinh doanh. Năng lực của đội ngũ cán bộ, chất lượng của lực
lượng lao động đã được nâng lên một bước đáng kể đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
Thứ ba, vai trò đóng góp to lớn của các doanh nghiệp trong tỉnh. Các
doanh nghiệp đã có những động thái tích cực để ứng phó với những thay đổi
của thị trường, kịp thời nắm bắt nhu cầu mới để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của
người tiêu dùng, nâng cao chất lượng sản xuất.
4.2. Hạn chế
Thứ nhất, mô hình tăng trưởng vẫn mang đặc trưng thâm dụng vốn, yếu
tố TFP mặc dù tăng nhưng có biểu hiện thiếu bền vững trong đóng góp vào tăng
trưởng, chưa khai thác tốt được yếu tố lao động.
Vốn vẫn là yếu tố đóng góp trên 60% vào điểm phần trăm tăng trưởng từ
năm 2012-2015. Đóng góp của vốn cao, trong khi đó hiệu quả sử dụng vốn theo
phân tích ở trên là rất thấp là một yếu tố gây cản trở tăng trưởng GRDP của
tỉnh. Yếu tố vốn ngày một quan trọng đối với tăng trưởng, tỷ lệ đầu tư/GRDP
của Bình Định tăng 35,4% năm 2011 lên 47,9% năm 2015. Điều này cho thấy
rằng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội bỏ ra ngày một nhiều hơn để duy trì tốc độ
tăng trưởng. Số liệu tính toán cho thấy đến năm 2015, để tạo ra một đồng GRDP
cần cần đến gần 10 đồng vốn đầu tư. Điều này chứng tỏ hiệu quả đầu tư của tỉnh
đang có xu hướng giảm. Tính chất thiếu bền vững của yếu tố TFP trong đóng
góp vào tăng trưởng liên quan đến hoạt động đổi mới sáng tạo, đầu tư cho
KHCN. Kinh tế tỉnh về cơ bản vẫn là nền kinh tế gia công với trình độ công
nghệ thấp. Đóng góp của yếu tố lao động vào tăng trưởng kinh tế liên tục sụt
giảm trong cả giai đoạn 2011-2015 là điều đáng quan tâm.
Thứ hai, cấu trúc tăng trưởng chủ yếu từ các ngành công nghiệp chế biến
chế tạo nhưng thực chất vẫn mang tính chất của mô hình tăng trưởng nhờ vào
gia công lắp ráp.
Thực trạng cấu trúc mô hình tăng trưởng theo ngành đã chỉ ra động lực
tăng trưởng kinh tế bắt đầu chuyển sang các ngành công nghiệp chế biến chế
tạo. Tuy nhiên, đây chỉ là kết quả của quá trình thực hiện gia công lắp ráp sản
phẩm. Những ngành công nghiệp chủ lực của tỉnh như chế biến gỗ, dệt may...
đều là những ngành mang nặng tính gia công, lắp ráp, tận dụng lợi thế giá nhân
công rẻ. Không chỉ trong ngành công nghiệp mà xu hướng gia công càng rõ nét
hơn trong ngành nông nghiệp. Nền kinh tế dựa vào gia công thể hiện tính kém
hiệu quả của sản xuất và phản ánh sự phụ thuộc của nền kinh tế đối với các yếu
tố bên ngoài.
Thứ ba, nền kinh tế có tăng trưởng nhưng chưa tác động mạnh đến cơ
cấu ngành.
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế của tỉnh là thực hiện chuyển dịch cơ cấu
ngành theo hướng hiện đại, phù hợp với xu thế vận động của xã hội. Đó là tăng
dần tỷ trọng của ngành công nghiệp - dịch vụ, giảm dần tỷ trọng của ngành
nông nghiệp. Về cơ bản, cơ cấu kinh tế của tỉnh đã dần chuyển biến theo đúng
định hướng đã vạch ra. Tuy nhiên, khi so sánh với mức độ chuyển dịch cơ cấu
bình quân trên cả nước, thì có thể nhận thấy rằng mức độ thay đổi cơ cấu của
tỉnh còn chậm so với mặt bằng chung và chưa đạt mục tiêu đề ra.
Thứ tư, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước còn gặp nhiều khó
khăn, đặc biệt vốn đầu tư nước ngoài còn chiếm tỷ trọng quá nhỏ, chưa có
những dự án lớn làm cú huých cho nền kinh tế phát triển mạnh.
Ngành công nghiệp - xây dựng trên địa bàn thiếu vắng các doanh nghiệp
có quy mô lớn, đầu tàu, có chiều sâu về công nghệ thay vì tập trung tận dụng,
khai thác nguồn tài nguyên và xuất thô nguyên vật liệu, hoặc sơ chế như hiện
nay.
Với hiện trạng ngành dịch vụ chưa xây dựng được sản phẩm nổi trội, chủ
yếu phụ thuộc vào cầu địa phương thì trong ngắn hạn có thể tiếp tục tăng trưởng
nhưng xét về dài hạn sẽ phải đối diện với khả năng cung vượt cầu, mức độ cạnh
tranh giữa các đơn vị cùng ngành gia tăng, lợi nhuận của ngành sụt giảm.
Sản xuất nông nghiệp tuy có chuyển biến theo hướng sản xuất hàng hóa
nhưng chưa thật sự bền vững; giá trị sản xuất bình quân trên ha đất chưa cao; tỷ
trọng dịch vụ trong ngành nông nghiệp còn thấp; việc thực hiện các biện pháp
hỗ trợ nông dân chuyển dịch cơ cấu cây trồng, ứng dụng công nghệ sinh học
trong sản xuất nông nghiệp còn hạn chế.
Thứ năm, hiệu ứng của mô hình tăng trưởng vì con người đang có hướng
giảm do tác động tích cực của tăng trưởng đến các khía cạnh tiến bộ xã hội
giảm dần.
Đến năm 2015, tăng trưởng kinh tế vẫn có tác động tích cực đến các khía
cạnh xã hội, thu nhập bình quân đầu người tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm đi, phát
triển con người được cải thiện. Tuy nhiên, có thể thấy, tác động tích cực của
tăng trưởng đến phát triển con người, đến giảm nghèo có biểu hiện giảm đi, bất
công bằng trong phân phối thu nhập tăng lên.
Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân, tập trung ở một số nội dung
sau:
Thứ nhất, chưa có chỉ đạo thống nhất, xuyên suốt về thực hiện tái cơ cấu
và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế tỉnh. Do vậy, quá trình tổ chức thực
hiện tái cơ cấu kinh tế còn thiếu hiệu lực, phân tán, chưa có sự điều phối và
giám sát. Một số lĩnh vực chưa có các mục tiêu lượng hóa cụ thể để thực hiện và
giám sát.
Thứ hai, nhận thức về mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng, chiều
sâu, nhất là các yếu tố và tiêu chí đánh giá chúng chưa chưa thật sự đầy đủ, kịp
thời, vì vậy ảnh hưởng đến các chương trình hoạt động thực tế.
Thứ ba, trình độ chuyên môn, năng lực điều hành của đội ngũ cán bộ cơ
sở vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của việc đẩy nhanh hội nhập sâu, rộng vào
kinh tế thế giới, chưa dự báo sát sự thay đổi nhanh chóng của những yếu tố tác
động đến mô hình tăng trưởng kinh tế tỉnh Bình Định.
Thứ tư, chính sách của tỉnh đưa ra chưa kịp thời, chưa sát thực tế, chưa
đồng bộ, nhất là việc tổ chức thực hiện và kiểm soát, điều chỉnh chúng cho thích
hợp với tăng trưởng kinh tế từng thời kỳ.