You are on page 1of 32

THỰC TRẠNG CƠ CẤU KINH TẾ VÀ MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG

KINH TẾ BÌNH ĐỊNH GIAI ĐOẠN 2011-2016


1. THỰC TRẠNG CƠ CẤU KINH TẾ BÌNH ĐỊNH GIAI ĐOẠN
2011-2016
1.1. Cơ cấu theo ngành kinh tế
1.1.1. Cơ cấu theo ngành
a. Theo ngành Nông lâm thủy sản – Công nghiệp – Dịch vụ
Tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và bền vững là mục tiêu phấn đấu của
hầu hết các địa phương. Để thực hiện được mục tiêu đó cần thiết phải xây dựng
một cơ cấu kinh tế hợp lý. Cơ cấu kinh tế của địa phương thay đổi qua từng thời
kỳ nhất định, nhằm khai thác tốt nhất những nguồn lực có hạn của địa phương đó.
Cơ cấu kinh tế tỉnh Bình Định trong 6 năm qua chưa có nhiều chuyển biến rõ nét.
Bảng 1: Cơ cấu kinh tế Bình Định giai đoạn 2011-2016
ĐVT: %
Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Nông - lâm - thủy sản 31,5 30,1 27,5 27,8 29,0 28,4
Công nghiệp - Xây dựng 24,9 26,8 28,6 28,6 29,1 29,8
Dịch vụ 38,6 38,2 38,7 37,9 37,3 37,4
Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản
5 4,9 5,2 5,7 4,6 4,4
phẩm
Nguồn: Niên giám Thống kê Bình Định năm 2016
Cơ cấu nền kinh tế của tỉnh chuyển dịch theo hướng tích cực, song quá
trình chuyển dịch diễn biến khá chậm. Tỷ trọng khu vực nông - lâm - thủy sản
năm 2011 chiếm 31,5%, đến năm 2016 giảm xuống 28,4%. Tỷ trọng ngành
công nghiệp - xây dựng và dịch vụ không ngừng tăng lên qua mỗi năm. Ngành
công nghiệp - xây dựng tăng từ 24,9% năm 2011 lên 29,8% năm 2016. Ngành
dịch vụ giữ ổn định và có giảm nhẹ vào năm 2015, 2016. Trong cả giai đoạn
ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu kinh tế, với tỷ trọng năm
2011, 2016 lần lượt là 38,6% và 37,4%. Thuế sản phẩm chiếm tỷ trọng không
đáng kể và không có nhiều biến động.
Sau 6 năm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tỷ trọng khu vực nông – lâm –
thủy sản giảm 3,1%, như vậy bình quân mỗi năm chỉ giảm 0,2%; Tỷ trọng công
nghiệp - xây dựng tăng khá chậm, chỉ 4,9%; ngành dịch vụ giảm 1,2%, thuế sản
phẩm giảm 0,6%.
b. Đánh giá chung
Bảng 2: Đánh giá kết quả về chuyển dịch cơ cấu kinh tế so với mục tiêu
trong Quy hoạch KT – XH năm 2009
2016
Cơ cấu (%)
Thực hiện Mục tiêu
Nông-lâm-thủy sản 28,4 22
Công nghiệp- xây dựng 29,8 40
Dịch vụ 37,4 38
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu Niên giám Thống kê Bình Định năm 2016
Cơ cấu kinh tế của tỉnh giai đoạn 2011-2016 chuyển dịch đúng hướng,
theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp -
xây dựng và dịch vụ nhưng sự chuyển dịch còn chậm và không đạt mục tiêu đặt
ra, chất lượng chuyển dịch cơ cấu chưa cao.
1.1.2. Cơ cấu trong nội bộ từng nhóm ngành
a. Ngành nông – lâm – thủy sản
Bảng 3: Cơ cấu và tốc độ tăng trưởng GRDP ngành nông – lâm – thủy sản
Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Cơ cấu (%) 100 100 100 100 100 100
Nông nghiệp 71,3 69,1 66,4 68,6 65,4 66,2
Lâm nghiệp 2,9 5,6 6,1 4,3 4,9 5,2
Thủy sản 25,8 25,3 27,5 27,1 29,7 28,6
Tăng trưởng (%) 6,6 6,7 -0,3 4,3 7,6 4,3
Nông nghiệp 5,4 1,6 -2,5 2,9 2,5 3,9
Lâm nghiệp 16,3 32,6 3,9 -20,6 15,8 8,6
Thủy sản 8,6 18,5 5,0 13,6 18,5 4,5
Nguồn: Niên giám Thống kê Bình Định năm 2016
Cơ cấu kinh tế trong nội bộ nhóm ngành này có sự chuyển dịch theo hướng
sản xuất hàng hóa, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi nhằm nâng cao hiệu
quả kinh tế và tăng thu nhập cho người lao động. Cụ thể, cơ cấu sản xuất nông
nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản chuyển dịch đúng hướng theo quy hoạch của tỉnh,
tăng dần tỷ trọng lâm nghiệp, thủy sản, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. Tốc độ
tăng trưởng ngành lâm nghiệp và thủy sản đạt khá cao, tương ứng 9,2% và 9,3%
giai đoạn 2011-2016.
Như vậy, có thể thấy nhóm ngành nông – lâm – thủy sản Bình Định bên
cạnh việc duy trì tốc độ tăng trưởng khá trong hầu hết lĩnh vực nông nghiệp, cơ
cấu nông nghiệp đã chuyển dịch theo hướng hiện đại, tăng chăn nuôi, giảm
trồng trọt. Trong nội bộ các phân ngành đều chuyển dịch theo hướng tăng
cường áp dụng khoa học kỹ thuật, giống mới, kỹ thuật mới để nâng cao năng
suất, chất lượng và giá trị sản phẩm, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của sản
phẩm nông – lâm – thủy sản; công tác quy hoạch vùng sản xuất được chú trọng
để khai thác lợi thế của từng vùng.
Tuy nhiên, cơ cấu ngành có sự chuyển dịch chưa rõ nét, không ổn định và
nhiều khi mang tính tự phát, không theo quy hoạch, kế hoạch. Cơ cấu nông –
lâm – thủy sản vẫn chưa hiện đại hóa, sản xuất và sản phẩm nông – ngư nghiệp
có chất lượng chưa ổn định, chưa đáp ứng các yêu cầu về môi trường, vệ sinh
phòng dịch, chất lượng sản phẩm
Khó khăn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế xuất phát từ một số nguyên
nhân sau: Thứ nhất, do hạn chế về nguồn lực vốn, đất đai, kiến thức của người
dân, làm ảnh hưởng đến khả năng phát triển, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, phòng
chống dịch bệnh. Sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ, cơ giới hóa dù có tiến bộ
những vẫn còn nhiều công đoạn thủ công. Thứ hai, do những khó khăn khách
quan trong sản xuất như giá đầu vào sản xuất bấp bênh và tăng cao, giá cả đầu
ra bấp bênh, không ổn định, dễ bị ép giá, rủi ro dịch bệnh lớn khiến nông dân e
ngại đầu tư sản xuất. Thứ ba, công tác khuyến nông, khuyến công, khuyến ngư
hiệu quả còn hạn chế, công tác nhân rộng các mô hình, điển hình sản xuất còn
yếu. Đội ngũ cán bộ kỹ thuật còn yếu và thiếu. Thứ tư, việc triển khai các chủ
trương, chính sách đi vào thực tiễn còn chậm, công tác thông tin không đảm bảo
yêu cầu về thời gian.
b. Nhóm ngành Công nghiệp – Xây dựng
Nhóm ngành CN-XD là nhóm ngành chủ lực của kinh tế Bình Định,
chiếm tỷ trọng lớn thứ hai trong các nhóm ngành. Vì vậy, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong nhóm ngành này, đặc biệt là trong nội bộ ngành công nghiệp có
vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của Bình Định, đảm bảo cho kinh
tế của tỉnh tiếp tục tăng trưởng nhanh và bền vững.
Bảng 4: GTSX và cơ cấu ngành công nghiệp giai đoạn 2011-2016
Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016
GTSX (tỷ đồng) 22.676,0 27.116,6 33.551,5 38.183,3 43.030,6 47.674,5
Khai khoáng 1.296,60 2.431,50 2.597,30 1.235,70 719,1 637,1
Công nghiệp chế biến, chế tạo 19.479,4 22.504,9 29.985,1 35.702,5 40.937,2 45.571,3
SX và PP điện, khí đốt, nước
nóng, hơi nước và điều hòa 1.773,50 2.031,40 795,20 1.046,60 1.137,9 1.199,3
không khí
Cung cấp nước; hoạt động quản
126,5 148,8 173,9 198,5 236,4 266,8
lý và xử lý nước thải, rác thải
Cơ cấu (%) 100 100 100 100 100 100
Khai khoáng 5,7 9,0 7,7 3,2 1,7 1,3
Công nghiệp chế biến, chế tạo 85,9 83,0 89,4 93,5 95,1 95,6
SX và PP điện, khí đốt, nước
nóng, hơi nước và điều hòa 7,8 7,5 2,4 2,7 2,6 2,5
không khí
Cung cấp nước, hoạt động quản
0,6 0,5 0,5 0,5 0,5 0,6
lý xử lý nước thải, rác thải
Nguồn: Tính toán theo Niên giám Thống kê Bình Định năm 2016
Trong các ngành công nghiệp tại Bình Định, nhóm ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng áp đảo, từ 85,9% năm 2011 lên 95,6% năm
2016. Sự gia tăng tỷ trọng của nhóm ngành này song hành với sự giảm sút tỷ
trọng nhóm ngành công nghiệp khai khoáng, từ 5,7% xuống 1,3%. Ngành SX,
PP điện nước và cung cấp nước, hoạt động quản lý xử lý nước thải, rác thải hầu
như không có thay đổi nhiều. Như vậy, nếu xét trên các nhóm ngành lớn, cơ cấu
ngành công nghiệp Bình Định không có nhiều thay đổi đáng kể trong giai đoạn
2011-2016.
Nhìn chung cả giai đoạn, cơ cấu ngành công nghiệp tăng nhưng cơ cấu
qua từng năm tăng giảm thất thường, yếu tố hiện đại trong toàn ngành chưa
được quan tâm đúng mức, trình độ kỹ thuật công nghệ vẫn ở mức trung bình.
Công nghiệp chế biến, đặc biệt là những ngành công nghệ cao chưa phát triển
mạnh, chủ yếu là những ngành gia công, thâm dụng nhiều lao động như dệt
may, chế biến gỗ, khai thác khoáng sản…
c. Nhóm ngành dịch vụ
Bảng 5: Cơ cấu GRDP một số phân ngành dịch vụ Bình Định
Cơ cấu 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Thương mại 19,9 29,6 30,2 30,9 25,3 25,7
Vận tải, kho bãi 14,3 11,0 11,2 11,2 10,7 10,1
Dịch vụ lưu trú và ăn uống 9,0 8,2 8,2 8,2 9,2 9,2
Thông tin và truyền thông 2,4 2,2 2,1 2,1 5,5 5,5
Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm 7,4 11,4 10,5 9,9 9,4 9,2
Kinh doanh bất động sản 19,6 14,5 14,9 14,8 15,4 15,0
Hoạt động chuyên môn, khoa học và
1,3 1,0 1,0 1,0 0,9 0,9
công nghệ
Giáo dục và đào tạo 0,9 8,6 8,4 8,6 9,2 9,2
Các dịch vụ khác 25,2 13,6 13,5 13,4 14,4 15,1
Nguồn: Tính toán theo Niên giám Thống kê Bình Định năm 2016
Nhóm ngành dịch vụ là lĩnh vực được tỉnh quan tâm chỉ đạo nhằm tạo sự
chuyển biến trong cơ cấu GRDP và lao động. Trong cả giai đoạn, ngành dịch vụ
luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu GRDP. Tuy nhiên, phân tích trong
nội bộ nhóm ngành dịch vụ cho thấy nhiều nét đáng lưu ý.
Bảng 1.5 trình bày cơ cấu một số phân ngành dịch vụ tại Bình Định giai
đoạn 2011-2016. Có thể thấy rõ rằng, phân ngành thương mại tăng tỷ trọng
nhanh nhất, từ 19,9% năm 2011 lên 25,7% năm 2016. Ngành thứ hai có xu
hướng tăng tỷ trọng là hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm, tăng nhẹ từ
7,4% năm 2011 lên 9,2% năm 2016. Dịch vụ lưu trú và ăn uống chỉ tăng nhẹ từ
9,0% lên 9,2% năm 2016. Hầu hết các ngành dịch vụ còn lại đều giảm tỷ trọng,
trong đó có cả những ngành dịch vụ mà tiềm năng phát triển của Bình Định rất
lớn như vận tải, kho bãi; hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ.
Nhìn chung, trong cả giai đoạn, cơ cấu ngành dịch vụ qua từng năm tăng
giảm thất thường. Một số lĩnh vực dịch vụ quan trọng, có hàm lượng chất xám
và giá trị gia tăng cao, đảm bảo cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững như
dịch vụ tài chính - tín dụng, dịch vụ tư vấn chậm phát triển, chưa có bước đột
phá đáng kể. Một số ngành có tính chất động lực như giáo dục - đào tạo, khoa
học - công nghệ, tính chất xã hội hoá còn thấp, chủ yếu dựa vào nguồn vốn của
Nhà nước.
1.2. Cơ cấu theo thành phần kinh tế
1.2.1. Cơ cấu chung
Bảng 6: Cơ cấu kinh tế Bình Định theo thành phần kinh tế (%)
Năm 2010 2012 2013 2014 2015 2016
1. Kinh tế nhà nước 17,6 18 15,2 14,9 14,4 14,3
2. Kinh tế ngoài nhà nước 76,2 76,4 78,8 78,4 77,6 77,8
- Tập thể 14,0 10,6 10,3 9,6 7,3 6,8
- Tư nhân 20,2 23 23,7 23,8 25,4 25,8
- Cá thể 42,0 42,8 44,8 45,0 44,9 45,4
3. Kinh tế có vốn đầu tư
0,7 0,7 0,8 1,0 3,4 3,5
nước ngoài
4. Thuế nhập khẩu hàng hóa
5,5 4,9 5,2 5,7 4,6 4,4
và dịch vụ
Nguồn: Niên giám Thống kê Bình Định năm 2016
Cơ cấu GRDP theo thành phần kinh tế của tỉnh chuyển dịch đúng hướng,
giảm dần tỷ trọng GRDP khu vực kinh tế nhà nước, tăng tỷ trọng GRDP khu
vực kinh tế ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Các nguồn
lực được giải phóng, huy động và phát huy, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế
của tỉnh. Các thành phần kinh tế đều có những đóng góp nhất định cho tăng
trưởng kinh tế Bình Định.
Nhìn chung, sự chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế đã góp phần
huy động các nguồn lực như lao động, vốn đầu tư... từ nhiều thành phần, góp
phần đưa tăng trưởng kinh tế của Bình Định đạt mức khá, góp phần xoá đói
giảm nghèo. Tuy nhiên, khu vực kinh tế Nhà nước còn chiếm tỷ trọng khá lớn,
trong khi hiệu quả đầu tư của khu vực này chưa cao. Khu vực cá thể còn rộng
lớn, phân tán, làm cho năng lực sản xuất, năng suất lao động vẫn thấp. Đây là
một trong những nguyên nhân làm chất lượng tăng trưởng kinh tế Bình Định
dưới góc độ hiệu quả và năng lực cạnh tranh chưa cao.
2. MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ BÌNH ĐỊNH GIAI ĐOẠN
2011-2016
2.1. Cấu trúc tăng trưởng
2.1.1. Cấu trúc tăng trưởng theo đầu vào
a. Kết quả ước lượng tốc độ tăng TFP
Trong các yếu tố đóng góp vào tăng trưởng GRDP bao gồm yếu tố vốn,
yếu tố lao động, yếu tố TFP thì yếu tố vốn có tốc độ tăng cao nhất, yếu tố lao
động có tốc độ tăng chậm và có xu hướng giảm dần trong giai đoạn 2011 –
2016. Tốc độ tăng của TFP đạt 1,87% vào năm 2016. Trong giai đoạn này, tốc
độ tăng TFP bình quân đạt 2,03%, xu hướng tăng trưởng dương qua các năm.
Bảng 7: Tốc độ tăng TFP của tỉnh Bình Định giai đoạn 2011-2016
Hệ số đóng góp của Tốc độ tăng GRDP do (%)
Tốc độ tăng
Tăng Tăng Lao TFP
Năm Vốn Lao động (%)
Vốn động
2011 0,142 0,858 4,63 3,08 2,55
2012 0,206 0,794 5,48 -0,17 3,06
2013 0,246 0,754 6,33 1,44 0,79
2014 0,284 0,716 6,89 1,15 1,30
2015 0,302 0,698 6,28 0,06 2,60
2016 0,249 0,751 4,56 0,16 1,87
Bình quân
0,238 0,762 5,70 0,95 2,03
2011-2016
Nguồn: Tính toán của tác giả
Có thể thấy rằng mặc dù tăng trưởng GRDP của tỉnh Bình Định luôn duy
trì mức ổn định, nhưng phần lớn là do đóng góp của vốn đầu tư qua các năm.
Bên cạnh đó, tốc độ tăng lao động có xu hướng chậm lại. Điều này có nghĩa là
tăng trưởng kinh tế Bình Định chủ yếu là từ tăng vốn và có khuynh hướng ít cải
thiện về năng suất.
Số liệu Bảng 1.8 cho thấy đóng góp vào tốc độ tăng trưởng GRDP chủ
yếu là do tăng vốn đầu tư. Ngược lại, phần đóng góp tăng trưởng của lao động
vào GRDP thấp hơn nhiều và có xu hướng giảm rõ rệt. Phần đóng góp của tăng
TFP vào tăng trưởng GRDP đã vươn lên vị trí thứ 2 sau đóng góp của của vốn
đầu tư và có xu hướng tăng lên trong những năm tiếp theo. Bình quân giai đoạn
2011 – 2016, vốn và lao động đóng góp 76,61% vào tăng trưởng GRDP, đóng
góp của TFP là 23,39%.
Bảng 8: Tỷ trọng đóng góp của các yếu tố tới tăng trưởng GRDP
giai đoạn 2011 - 2016
Đóng góp của các yếu tố vào tăng GRDP (%)
Năm Trong đó do
Tổng số
Tăng vốn Tăng LĐ Tăng TFP
1 =2+3+4 2 3 4
2011 100,00 45,14 30,01 24,85
2012 100,00 65,46 -2,05 36,59
2013 100,00 73,79 16,80 9,23
2014 100,00 73,76 12,28 13,96
2015 100,00 66,05 6,64 27,32
2016 100,00 69,12 2,49 28,39
Bình quân
100,00 65,55 11,06 23,39
(2011-2016)
Nguồn: Tính toán của tác giả
Kết quả trên cho thấy một số đặc điểm trong mô hình tăng trưởng Bình
Định giai đoạn 2011-2016 như sau: (1) Đóng góp của các yếu tố nguồn lực vật
chất (vốn và lao động) mặc dù còn cao nhưng đã bắt đầu giảm dần xuống trong
cấu trúc tăng trưởng theo đầu vào, nhờ đó đóng góp của yếu tố TFP tăng lên
tương đối (năm 2016 có mức đóng góp 28,39% so với 24,85 % năm 2011); (2)
Mặc dù có sự gia tăng đóng góp của TFP, song xét theo cấu trúc tăng trưởng
theo đầu vào, động lực tăng trưởng kinh tế của tỉnh Bình Định vẫn dựa trên yếu
tố tăng trưởng theo chiều rộng (trên 60%), trong đó yếu tố vốn vẫn đóng vai trò
là động lực quan trọng nhất; (3) Đóng góp của yếu tố lao động thấp và ngày
càng giảm trong tăng trưởng kinh tế cho thấy tỉnh vẫn chưa phát huy được lợi
thế sẵn có của một địa phương với nguồn lao động dồi dào.
2.1.2. Cấu trúc tăng trưởng theo ngành
Cấu trúc tăng trưởng theo ngành được xem xét thông qua tăng trưởng và
đóng góp của 3 khu vực kinh tế (Nông – lâm – thủy sản, Công nghiệp – xây
dựng, Dịch vụ) vào kết quả tăng trưởng kinh tế.
Bảng 9: Cấu trúc tăng trưởng kinh tế theo ngành
Đvt: %
Tăng trưởng theo ngành
Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Tổng 4,8 8 5,2 7 5,2 6,6
Nông - lâm - thủy sản 5,3 6,7 -0,3 4,3 7,6 4,3
Công nghiệp - Xây dựng 4,5 16,3 10,1 9,3 8,3 9,2
Dịch vụ 6,2 3,7 5 6,1 4,2 6,8
Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm -5,7 7,7 11,4 15,9 -14,8 1,0
Điểm phần trăm đóng góp
Tổng 4,8 8 5,2 7 5,2 6,6
Nông - lâm - thủy sản 1,5 2,0 -0,1 1,2 2,0 1,2
Công nghiệp - Xây dựng 1,1 4,1 2,8 2,6 2,4 2,8
Dịch vụ 2,5 1,5 2,0 2,4 1,6 2,6
Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm -0,3 0,4 0,6 0,8 -0,8 0,0
Phần trăm đóng góp
Tổng 100 100 100 100 100 100
Nông - lâm - thủy sản 31,9 24,5 -1,7 16,6 38,6 17,7
Công nghiệp - Xây dựng 23,4 51,6 53,1 37,7 46,6 41,9
Dịch vụ 51,2 19,1 37,6 33,8 30,9 39,7
Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm -6,5 4,8 10,9 11,9 -16,1 0,7
Nguồn: Tính toán theo số liệu Niên giám thống kê Bình Định 2016

Kết quả tính toán cho thấy cấu trúc tăng trưởng theo ngành có sự thay đổi
rõ nét qua các năm.
a. Tăng trưởng từ ngành CN-XD
Mặc dù ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất trong GRDP suốt giai
đoạn 5 năm, tuy nhiên từ năm 2012-2016, ngành có đóng góp lớn nhất vào tăng
trưởng kinh tế là ngành CN-XD, với phần trăm đóng góp cao nhất là năm 2013,
đạt 53,1%. Những năm tiếp theo, ngành CN-XD vẫn giữ vững vị trí là ngành
kinh tế chủ lực của tỉnh với mức đóng góp vào tăng trưởng kinh tế chung lần
lượt là 37,7% , 46,6% và 41,9%.
b. Tăng trưởng từ ngành dịch vụ
Giai đoạn 2012-2015, ngành dịch vụ có tốc độ tăng trưởng đều thấp hơn
tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế nhưng đến năm 2016 đã được cải
thiện. Mặc dù, ngành dịch vụ có cơ cấu lớn nhất trong GRDP nhưng phần trăm
đóng góp vào tăng trưởng kinh tế chung lại thấp hơn ngành CN-XD. Động lực
tăng trưởng của ngành dịch vụ vẫn dựa vào những ngành dịch vụ truyền thống –
gắn chặt với sản xuất và phục vụ nhu cầu của người dân.
Các hoạt động của khu vực dịch vụ chủ yếu là doanh thu từ thương mại,
thông tin liên lạc và du lịch – những ngành dịch vụ truyền thống. Tuy nhiên, các
chính sách ưu đãi đầu tư đã thu hút nhiều dự án du lịch phát triển thêm nhiều
ngành dịch vụ đa dạng. Từ đó, tốc độ phát triển ngành dịch vụ được cải thiện.
Năm 2016 tốc độ tăng trưởng đạt 6,8% cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của
nền kinh tế.
c. Tăng trưởng từ ngành nông – lâm – thủy sản
Đóng góp của ngành nông – lâm – thủy sản vào tăng trưởng kinh tế biến
động liên tục qua các năm, từ 31,9% năm 2011 xuống 24,5% năm 2012 và thấp
nhất vào năm 2013 (-1,7%), năm 2016 tăng lên 17,7%. Sự giảm sút trong đóng
góp của ngành nông – lâm – thủy sản vào tăng trưởng kinh tế là do ngành nông
– lâm – thủy sản có tốc độ tăng trưởng rất thất thường và có xu hướng giảm
mạnh, kết hợp với tỷ trọng ngành nông – lâm – thủy sản thấp nhất trong cơ cấu
GRDP.
Ngành sản xuất nông nghiệp của cả nước nói chung và Bình Định nói
riêng khá bấp bênh do chưa áp dụng nhiều tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào sản
xuất, còn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. Trong khi đó, Bình Định là một trong
những tỉnh bị ảnh hưởng khá nặng nề bởi biến đổi khí hậu. Những năm gần đây,
địa bàn tỉnh hứng chịu nhiều diễn biến cực đoan của thời tiết (hạn hán gay gắt
xảy ra trên diện rộng, mưa lũ lớn bất thường…). Thị trường tiêu thụ nông sản
tiếp tục gặp khó khăn. Thu hút vốn đầu tư xã hội đầu tư vào nông nghiệp, nông
thôn còn hạn chế. Điều này giải thích nguyên nhân vì sao đóng góp của ngành
nông nghiệp vào tăng trưởng kinh tế chung khá khiêm tốn.
Đóng góp của khu vực nông – lâm – thủy sản thấp, trong khi ngành này
đang sử dụng hơn 50% lao động của toàn nền kinh tế tỉnh (năm 2016 là 50,2%).
Điều này cho thấy cần phải có sự tác động tới khu vực này để làm tăng năng
suất lao động, đồng thời đảm bảo an ninh lương thực, nhất là trong bối cảnh
chịu ảnh hưởng lớn từ biến đổi khí hậu như hiện nay.
2.3. Hiệu quả tăng trưởng
2.3.1. Năng suất lao động (NSLĐ)
a. Năng suất lao động được cải thiện qua các năm

70.00 8.22 9.00


63.83
58.99 8.00
60.00 56.07
50.53 7.00
50.00 46.48 5.88
5.37 6.00
41.00
40.00 4.68 Năng suất lao động (triệu
5.00
đồng/người)
30.00 3.21 4.00
Tốc độ tăng NSLĐ (%)
3.00
20.00
1.20 2.00
10.00
1.00
0.00 0.00
2011 2012 2013 2014 2015 2016

Hình 1: NSLĐ và tốc độ tăng NSLĐ (*)


(*) NSLĐ theo giá hiện hành, tốc độ tăng NSLĐ theo giá so sánh 2010
NSLĐ (theo giá hiện hành) năm 2016 là 63,83 triệu đồng/người, tăng gần
1,6 lần so với năm 2011 (41 triệu đồng/người). Tốc độ tăng NSLĐ bình quân
giai đoạn 2011-2016 là 4,8%/năm. Tốc độ tăng NSLĐ không đáng kể, lần lượt
các năm 2014-2016 là 5,37%, 4,68% và 5,88%.
b. Tốc độ tăng NSLĐ thấp hơn tốc độ tăng GRDP
9.0 8.0
8.0 7.0
8.2 6.6
7.0
6.0 5.2 5.2
4.8
5.0 5.9
5.4
4.0 4.7
3.0
2.0 3.2
1.0
0.0 1.2
2011 2012 2013 2014 2015 2016

Tốc độ tăng năng suất lao động (%) Tốc độ tăng GRDP (%)

Hình 2: Tốc độ tăng năng suất lao động và GRDP


Xem xét mối quan hệ giữa tốc độ tăng GRDP và tốc độ tăng năng suất lao
động cho thấy hai chỉ tiêu này biến thiên cùng chiều với nhau. Tuy nhiên, ngoại
trừ năm 2012, tốc độ tăng GRDP luôn cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động.
Bình quân giai đoạn 2011-2016, GRDP tăng 6,1%/năm trong khi năng suất lao
động chỉ tăng 4,8%/năm.
c. Năng suất lao động giữa các khu vực kinh tế
Bảng 10: Năng suất lao động theo khu vực kinh tế
Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016
1. Năng suất lao động (theo giá hiện hành - triệu đồng/người)
Toàn nền kinh tế 41,00 46,48 50,53 56,07 58,99 63,83
- Nông - lâm - thủy sản 23,83 26,80 26,74 31,05 34,07 36,06
- Công nghiệp - Xây dựng 49,73 59,36 69,22 73,27 78,39 86,93
- Dịch vụ 62,83 66,17 71,82 76,21 78,86 85,65
2. Năng suất lao động (theo giá so sánh 2010 - triệu đồng/người)
Toàn nền kinh tế 34,44 37,27 38,46 40,53 42,42 44,92
- Nông - lâm - thủy sản 18,46 20,54 20,21 21,45 22,96 23,79
- Công nghiệp - Xây dựng 42,45 48,30 52,44 53,84 58,04 62,97
- Dịch vụ 55,52 54,29 55,12 56,12 58,16 61,73
3. Tốc độ tăng NSLĐ (%)
Toàn nền kinh tế 1,20 8,22 3,21 5,37 4,68 5,88
- Nông - lâm - thủy sản 8,69 11,25 -1,61 6,15 7,03 3,59
- Công nghiệp - Xây dựng -3,73 13,77 8,57 2,68 7,81 8,49
- Dịch vụ -8,96 -2,22 1,52 1,82 3,63 6,15
Nguồn: Tính toán theo Niên giám thống kê Bình Định năm 2016
Nông – lâm – thủy sản là ngành có lao động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
tổng số lao động với 50,2% năm 2016; tuy nhiên năng suất lao động của ngành
này lại ở mức thấp nhất, đến năm 2016 chỉ đạt 36,06 triệu đồng/người. Năng
suất lao động ngành nông nghiệp chỉ hơn 1/2 năng suất ngành công nghiệp và
ngành dịch vụ. Năng suất thấp cho thấy hiệu quả của việc sử dụng lao động còn
thấp, chưa có nhiều áp dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp. Tuy có
năng suất lao động thấp nhất, tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai
đoạn 2011-2016) của ngành nông- lâm- thủy sản khá tốt là 5,8%/năm.
Công nghiệp - xây dựng là nhóm ngành có tỷ trọng lao động thấp nhất
trong 3 nhóm ngành, chiếm 21,9% tổng lao động năm 2016. Trong cả giai đoạn
2011-2016, năng suất lao động nhóm ngành này có tốc độ tăng 6,3%/năm. Đây
là nhóm ngành tỉnh tập trung đầu tư phát triển trong thời gian vừa qua, tuy
nhiên năng suất lao động chỉ ở mức trung bình chứng tỏ tính hiệu quả trong sản
xuất chưa cao, chủ yếu vẫn là gia công. Năm 2016 năng suất lao động ngành
công nghiệp – xây dựng đạt 86,93 triệu đồng/người.
Dịch vụ là nhóm ngành có năng suất lao động cao nhất trong 3 nhóm
ngành. Năng suất lao động nhóm ngành dịch vụ năm 2016 (theo giá hiện hành)
đạt 85,65 triệu đồng/người. Tuy nhiên, tốc độ tăng năng suất của nhóm này lại ở
mức thấp nhất, trung bình giai đoạn 2001-2016 giảm 0,3%, trong đó giảm sâu
nhất là năm 2011 (-8,86%). Tốc độ tăng NSLĐ ngành dịch vụ được cải thiện
đáng kể ở những năm sau giúp cho bình quân cả giai đoạn đạt ở ngưỡng dương.
Nguyên nhân là do ngành dịch vụ có lực lượng lao động tăng cao nhất trong các
ngành, bình quân là 6,2%, trong khi tốc độ tăng GRDP ngành dịch vụ chỉ tăng
5,33%.
Kết quả này cho thấy hai khu vực CN-XD và dịch vụ chưa có sự phát
triển tương xứng với tiềm năng và những nổ lực nâng cao NSLĐ nội ngành của
khu vực nông – lâm – thủy sản. Thông qua cải thiện NSLĐ, lao động trong khu
vực nông – lâm – thủy sản được giải phóng và có thể chuyển dịch sang khu vực
CN – XD và dịch vụ.
2.3.2. Hiệu quả sử dụng vốn
a. Quan hệ giữa tăng trưởng vốn đầu tư và tăng GRDP
18.0 16.6
16.0 14.7
13.8
14.0
12.0 10.6 10.1 9.8
Tốc độ tăng GRDP (%)
10.0 8.0
8.0 7.0 6.6
5.2 5.2 Tốc độ tăng vốn đầu tư
6.0 4.8
%)
4.0
2.0
0.0
2011 2012 2013 2014 2015 2016

Hình 3: Quan hệ giữa tốc độ tăng GRDP và tốc độ tăng vốn đầu tư
giai đoạn 2011-2016
Nguồn: Niên giám thống kê Bình Định 2016
Trong những năm qua, nguồn vốn đầu tư vào địa bàn tỉnh Bình Định tăng
trưởng khá. Đây là cơ sở để thúc đẩy phát triển kinh tế tỉnh Bình Định. Năm
2010 tổng vốn đầu tư tại tỉnh là 10.194 tỷ đồng, năm 2016 là 20.743 tỷ đồng,
gấp hơn 2 lần năm 2010. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011-2016 là
12,6%. Tuy nhiên, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế làm cho tốc độ
tăng không ổn định. Tốc độ tăng vốn đầu tư năm 2014 và những năm tiếp theo
có xu hướng giảm nhẹ.
Vấn đề chính cần quan tâm khi nói đến vốn đầu tư chính là hiệu quả. Hiệu
quả này trước hết đo bằng tốc độ tăng GRDP. Có những năm vốn đầu tư tăng
nhanh nhưng kết quả tăng GRDP chưa tương xứng. Điều này cho thấy nền kinh
tế vẫn chưa thực sự thoát khỏi tăng trưởng theo chiều rộng để chuyển sang hình
thái tăng trưởng theo chiều sâu. Hình 1.3 mô tả quan hệ biến động theo thời
gian của hai chỉ tiêu quan trọng này.
b. Hệ số ICOR
Hệ số ICOR là một trong những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của việc sử
dụng vốn đầu tư vào phát triển kinh tế xã hội của vùng hay địa phương, hệ số
ICOR càng cao chứng tỏ đầu tư càng kém hiệu quả. Hệ số ICOR cho biết muốn
có thêm một đơn vị sản lượng trong một thời kỳ nhất định cần phải bỏ ra thêm
bao nhiêu đơn vị vốn đầu tư trong kỳ đó.
12.00

10.00 9.86
9.19
8.40 8.22
8.00
6.76 6.67 7.12
6.41 ICOR Bình Định
6.00 5.72
6.29 5.80 ICOR Cả nước
5.52
4.00

2.00

0.00
2011 2012 2013 2014 2015 2016

Hình 4: ICOR Bình Định và cả nước giai đoạn 2011-2016


Hệ số ICOR Bình Định thay đổi qua các năm, trung bình giai đoạn 2011-
2016 là 8,05. Ngoại trừ năm 2012, ICOR Bình Định luôn cao hơn ICOR cả
nước rất nhiều. Năm 2016, để tạo ra một đồng GRDP cần đến hơn 8 đồng vốn
đầu tư. Điều này chứng tỏ hiệu quả đầu tư của tỉnh chưa được cải thiện trong
những năm vừa qua.
c. Tỷ lệ đầu tư/GRDP
Đầu tư vừa là nhân tố cung, vừa là nhân tố cầu, vừa là nhân tố chính tạo
ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao tại tỉnh Bình Định trong một thời kỳ dài nhờ tỷ
lệ đầu tư/GRDP liên tục ở mức cao.
60.0

46.1 47.9
50.0 45.1 48.7
41.5
38.5
40.0
33.0
30.0 Cả nước
33.3 32.6
31.1 30.5 31.0
Bình Định
20.0

10.0

0.0
2011 2012 2013 2014 2015 2016

Hình 5: Tỷ lệ đầu tư/GRDP Bình Định và cả nước giai đoạn 2011-2016


Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu Niên giám thống kê Bình Định 2016 và Niên
giám thống kê Việt Nam 2016.
Cũng giống như nhiều địa phương khác trên cả nước, tăng trưởng của
Bình Định diễn tiến theo chiều rộng, tận dụng yếu tố mở rộng quy mô vốn và
lao động giá rẻ. Đặc biệt đối với tỉnh ta, yếu tố vốn ngày một quan trọng, tỷ lệ
đầu tư/GRDP cả tỉnh liên tục tăng, từ 38,5% năm 2011 lên 48,7% năm 2016.
Điều này cho thấy rằng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội bỏ ra ngày một nhiều hơn
để duy trì tốc độ tăng trưởng. Tuy nhiên, điều nghịch lý là vốn đầu tư toàn xã
hội ngày một tăng nhưng mức tăng trưởng kinh tế lại giảm sút.
2.4. Tác động của tăng trưởng đến các vấn đề xã hội
2.4.1. Tác động của tăng trưởng đến phát triển con người
sử dụng số liệu HDI tính riêng cho tỉnh Bình Định do Viện Nghiên cứu
phát triển kinh tế - xã hội tính toán và công bố năm 2017 cho thấy giá trị GHR
luôn nhận giá trị dương, điều này chứng minh tăng trưởng kinh tế có tác động
lan tỏa tích cực đến phát triển con người. Tuy nhiên, hiệu ứng lan tỏa tích cực
đang có xu hướng giảm (0,197 năm 2015 so với 0,223 năm 2014). Mặc dù Bình
Định vẫn duy trì được sự gia tăng của chỉ số HDI khi GRDP/người tăng, nhưng
chỉ số HDI tăng chậm hơn nhiều so với sự gia tăng của GRDP/người, tức là sự
lan tỏa của tăng trưởng đến phát triển con người ngày càng yếu đi.
Bảng 11: GHR Bình Định giai đoạn 2011-2015
Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
HDI 0,617 0,623 0,629 0,651 0,652 0,654

Tốc độ tăng HDI(%) - 0,97 0,96 3,50 0,15 0,30


GRDP/người (nghìn đồng) 19.321 20.171 21.721 22.741 24.254 26.054 27.014
Tốc độ tăng GRDP/người (%) - 4,4 7,68 4,7 6,65 7,42 3,68
GHR - - 0,126 0,204 0,526 0,020 0,081
Nguồn: Tính toán theo số liệu HDI thuộc Đề tài “Giải pháp nâng cao Chỉ
số phát triển con người (HDI) tỉnh Bình Định”– Viện Nghiên cứu phát triển KT-
XH (2017)
2.4.2. Tác động của tăng trưởng đến phân phối thu nhập
Sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập thể hiện trên cả 3 khía cạnh đánh
giá bất công bằng trong phân phối thu nhập mà các tổ chức quốc tế đang sử dụng.
a. Khoảng cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo có xu hướng
tăng lên
Bảng 12: Chênh lệch thu nhập bình quân đầu người giữa nhóm hộ thu
nhập cao nhất và nhóm hộ thu nhập thấp nhất
ĐVT: 1000 đồng
Năm 2006 2008 2010 2012 2014 2016
Chung 553,0 827,4 1.149,6 1.719,0 2.346,0 2.595,7
Nhóm 1 197,5 301,3 402,0 549,3 781,8 872,2
Nhóm 2 320,1 495,5 658,6 1.051,7 1.423,0 1.488,6
Nhóm 3 439,5 626,5 887,7 1.431,4 1.885,4 2.086,5
Nhóm 4 599,3 868,5 1.223,2 1.979,8 2.531,9 2.863,4
Nhóm 5 1.210,0 1.843,1 2.573,5 3.578,4 5.098,5 5.686,8
Chênh lệch 5/1
Bình Định (lần) 6,13 6,12 6,40 6,51 6,52 6,52
Chênh lệch 5/1
cả nước (lần) - - 9,2 9,4 9,7 9,8
Nguồn: Niên giám thống kê Bình Định 2016
Khoảng cách thu nhập đo bằng hệ số chênh lệch về thu nhập bình quân
đầu người giữa nhóm hộ thu nhập cao nhất (20%) và nhóm hộ thu nhập thấp
nhất (20%) ngày càng gia tăng.
Hệ số chênh lệch về thu nhập giữa nhóm hộ thu nhập cao nhất và nhóm
hộ thu nhập thấp nhất ở Bình Định thấp hơn trung bình cả nước, tuy nhiên cũng
có xu hướng tăng nhẹ trong những năm gần đây. Năm 2006 sự cách biệt này là
6,13 lần thì đến năm 2016 con số này tăng lên là 6,52 lần.
b. Sự bất bình đẳng chung có xu hướng gia tăng
Đo lường bất bình đẳng theo hệ số GINI cho thấy xu hướng của hệ số này
tại Bình Định tăng lên. Hệ số GINI Bình Định tăng từ 0,315 năm 2002 lên 0,334
năm 2014 và 0,34 năm 2016.
Bảng 1.12 chỉ ra giai đoạn 2002 – 2016, hệ số GINI của Bình Định nhỏ
hơn cả nước, điều này cho thấy sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập của
Bình Định ít hơn so với cả nước. Tuy nhiên một điểm cần lưu ý là xu hướng
tăng của hệ số GINI. Điều này chứng tỏ tăng trưởng kinh tế đang có xu hướng
có lợi hơn cho người giàu.
Bảng 13: Hệ số GINI của Bình Định và Cả nước
Năm 2002 2004 2006 2008 2010 2012 2014 2016

Bình Định 0,315 0,333 0,336 0,337 0,344 0,326 0,334 0,340

Cả nước 0,42 0,42 0,424 0,434 0,433 0,424 0,43 0,44


Nguồn: Tính toán của tác giả theo số liệu Niên giám thống kê Bình Định và
Tổng Cục thống kê Việt Nam 2015
2.5. Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
Để đánh giá khả năng cạnh tranh của tỉnh Bình Định trong những năm
qua, báo cáo tổng hợp số liệu về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) từ năm
2011 đến 2017. PCI là chỉ số về chất lượng điều hành (governance index), đánh
giá các lĩnh vực điều hành kinh tế thuộc thẩm quyền của chính quyền tỉnh,
thành phố ở Việt Nam. Hiệu quả quản lý nhà nước đóng vai trò then chốt để
đảm bảo tăng trưởng nhanh, bền vững và có chất lượng cao. Trong phạm vi nội
dung nghiên cứu này, báo cáo lấy kết quả của VCCI để phản ánh chỉ số năng
lực cạnh tranh tỉnh Bình Định, qua đó đánh giá khả năng cạnh tranh của mô
hình tăng trưởng kinh tế Bình Định.
Bảng 14: Tổng hợp các chỉ số PCI của Bình Định qua các năm 2011-2015
CHỈ SỐ 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Gia nhập thị trường 8,83 9,6 7,57 8,79 9,0 8,65 7,75
Tiếp cận đất đai 6,27 7,12 7,51 6,18 6,05 6,03 6,79
Tính minh bạch 5,78 5,79 6,23 6,53 6,17 6,61 6,67
Chi phí thời gian 6,76 6,89 6,7 6,82 7,47 6,56 6,48
Chi phí không chính thức 6,13 7,07 6,83 4,68 5,34 5,44 6,46
Tính năng động 3,75 6,17 5,21 4,2 4,87 4,82 5,63
Hỗ trợ doanh nghiệp 3,46 4,29 4,94 5,79 5,23 5,45 6,30
Đào tạo lao động 4,83 5,4 5,46 6,0 6,1 5,16 5,82
Thiết chế pháp lý 6,15 3,61 5,31 5,66 5,56 6,19 6,51
Cạnh tranh bình đẳng N/A N/A 6,25 5,16 4,85 6,23 6,31
PCI 58,14 63,06 59,37 59,72 59,23 60,24 64,08
Xếp hạng 38 4 18 17 20 18 18

Nguồn: Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh – VCCI (2017)
70 63.06 64.08
59.37 59.72 59.23 60.24
58.14
60

50
38
40
PCI
30 Xếp hạng
20
18 17 18 18
20

10 4

0
2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017

Hình 6: Điểm PCI và xếp hạng PCI Bình Định giai đoạn 2011-2017
Bảng số liệu cho thấy, các chỉ số thành phần thay đổi qua từng năm, nhìn
chung PCI Bình Định có xu hướng được cải thiện qua thời gian. Đáng lưu ý
nhất là năm 2011 PCI Bình Định chỉ đạt 58,14, xếp vị trí 38, thấp nhất trong cả
giai đoạn nhưng đến năm 2012 Bình Định lại đạt chỉ số năng lực cạnh tranh là
63,06 xếp vị trí thứ 4, đây là năm có chỉ số năng lực cạnh tranh tốt nhất và xếp
hạng cao nhất cả giai đoạn. Từ năm 2013 đến năm 2017, PCI bổ sung thêm chỉ
số thành phần “cạnh tranh bình đẳng”, chỉ số năng lực cạnh tranh Bình Định có
xu hướng cải thiện, lần lượt đạt 59,37 (vị trí thứ 18 năm 2013) và 64,08 (vị trí
thứ 18). Về điểm PCI có sự thay đổi theo hướng tích cực ở năm 2016, 2017 tuy
nhiên vị trị xếp hạng không có sự thay đổi. Điều này cho thấy sự nổ lực cải
thiện năng lực cạnh tranh của các địa phương khác là hết sức quyết liệt và gay
gắt.
Thêm một điểm đáng lưu ý khác là Bình Định thường bị mất điểm ở chỉ
số “cạnh tranh bình đẳng” và “tính năng động tiên phong” của lãnh đạo tỉnh.
Chỉ số “cạnh tranh bình đẳng” là một chỉ số mới, chỉ số này tại Bình Định lại
sụt giảm trong 3 năm liên tục từ 2013-2015 (từ 6,25 xuống 4,85) tuy nhiên được
cải thiện rõ rệt ở năm 2017 (6,31 điểm). Tình hình tương tự đối với chỉ số “tính
năng động tiên phong” của lãnh đạo tỉnh và dần dần được cải thiện năm 2017
chỉ số này có số điểm 5,63. Những chỉ tiêu thành phần vốn là điểm yếu của tỉnh
như “thiết chế pháp lý” và “chi phí không chính thức” dần dần được cải thiện ở
2 năm trở lại đây.
Kết quả này cho thấy năng lực điều hành, quản lý của tỉnh gắn với tăng
trưởng còn nhiều vấn đề cần đáng lưu ý và cải thiện nhiều hơn.
3. CÁC CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA TỈNH VỀ TÁI CƠ
CẤU VÀ CHUYỆN ĐỔI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ GIAI
ĐOẠN 2011-2016
3.1. Các chủ trương, chính sách liên quan đến Tái cơ cấu và chuyển
đổi mô hình tăng trưởng kinh tế nói chung
Giai đoạn 2011-2016, mặc dù Đảng bộ và chính quyền tỉnh Bình Định
chưa ban hành các chính sách trực tiếp chỉ đạo về vấn đề tái cơ cấu kinh tế và
chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên nhiều chính sách dài hạn và
ngắn hạn khác đã phần nào cụ thể hóa chủ trương theo tinh thần Quyết định số
339/QĐ-TTg ngày 19 tháng 2 năm 2013 phê duyệt Đề án tổng thể “Tái cơ cấu
kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất
lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020”.
Theo đó, Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XVIII Đảng bộ tỉnh Bình
Định (2010) đã xác định phương hướng, mục tiêu cho giai đoạn này là “tập
trung phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao, hiệu quả và bền vững”.
Nhằm đạt được phương hướng, mục tiêu nói trên, Nghị quyết vạch ra các nhiệm
vụ cơ bản phát triển các ngành kinh tế như: Phát triển công nghiệp theo hướng
hiện đại, tiếp tục tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững của tỉnh; Phát triển
nông nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với giải
quyết tốt vấn đề nông thôn, nông dân; Đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao hiệu quả
các hoạt động thương mại, dịch vụ.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đại
biểu lần thứ XVIII Đảng bộ tỉnh Bình Định, Tỉnh ủy đã đề ra 6 Chương trình
hành động, trong đó có các Chương trình hành động liên quan đến các vấn đề về
tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế như: Chương trình hành
động số 06-CTr/TU ngày 24/8/2011 về Cải cách hành chính, trọng tâm là cải
cách thủ tục hành chính; Chương trình hành động số 07-CTr/TU ngày
30/8/2011 về Phát triển KKT Nhơn Hội và các KCN trên địa bàn tỉnh giai đoạn
2011-2015; Chương trình hành động số 08-CTr/TU ngày 30/8/2011 về Đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2011-2015; Chương trình hành động số 11-
CTr/TU ngày 24/10/2011 về Đầu tư phát triển du lịch giai đoạn 2011-2015.
Như vậy, có thể nhận thấy, mặc dù các Chương trình hành động giai đoạn 2011-
2015 của Tỉnh ủy đề ra không trực tiếp chỉ đạo về vấn đề tái cơ cấu và chuyển
đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, nhưng nó đã phần nào giải quyết các yêu cầu
của quá trình tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế của tỉnh, tạo
tiền đề cho chuyển đổi mô hình tăng trưởng thành công trong giai đoạn sau. Đó
là: tập trung cải cách hành chính để tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi,
thu hút thêm nhiều nguồn lực cho đầu tư phát triển; tập trung phát triển công
nghiệp mà trọng tâm là phát triển KKT Nhơn Hội và các KCN và tập trung phát
triển du lịch – những ngành kinh tế chủ chốt của tỉnh; tập trung phát triển nguồn
nhân lực, tạo tiền đề để tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả tăng trưởng
kinh tế.
Như vậy, cho đến năm 2016, mặc dù vẫn chưa có văn bản chỉ đạo cụ thể
về vấn đề tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, song các Chương trình
hành động của Tỉnh ủy đã cụ thể hóa nhiều công việc. Đó là: tiếp tục đẩy mạnh
cải cách thủ tục hành chính tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư; phát triển du
lịch là một trong những ngành dịch vụ chủ lực của tỉnh; phát triển khoa học và
công nghệ, phát triển nguồn nhân lực tạo tiền đề cho chuyển đổi mô hình tăng
trưởng kinh tế theo chiều sâu; phát triển nông nghiệp – nông thôn, công nghiệp
– tiểu thủ công nghiệp và làng nghề theo hướng hiện đại – là tiền đề cho quá
trình tái cơ cấu các ngành kinh tế.
3.2. Chủ trương, chính sách thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu các khu vực
kinh tế
3.2.1. Chủ trương, chính sách chuyển dịch cơ cấu khu vực công nghiệp
Trong lĩnh vực công nghiệp, Đảng và chính quyền tỉnh Bình Định đã đưa
ra và nhất quán chủ trương về ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp có thiết
bị công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, tạo bước chuyển dịch mạnh cơ
cấu sản xuất công nghiệp. Phát triển mạnh công nghiệp có hàm lượng khoa học
công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn kết hợp công nghiệp sử dụng nhiều lao động
ở các vùng nông thôn, góp phần chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động.
Nhiều chương trình triển khai trong lĩnh vực công nghiệp như: Đề án
khuyến công hàng năm sử dụng từ nguồn kinh phí địa phương; Đề án Phát triển
công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn; Đề án phát triển hàng xuất khẩu
tỉnh Bình Định đến năm 2020; Chương trình hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề cho
các doanh nghiệp trong KCN, KKT; ban hành Quy chế về trách nhiệm và quan
hệ phối hợp hoạt động giữa các cơ quan, đơn vị trong công tác đấu tranh phòng,
chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trên địa bàn tỉnh Bình Định;
ban hành Quy định chính sách hỗ trợ phát triển công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn
tỉnh Bình Định; Đề án Phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn
tỉnh Bình Định đến năm 2020; Dự án "Năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng
hóa chủ lực của tỉnh Bình Định giai đoạn 2011 - 2020";
3.2.2. Chủ trương, chính sách chuyển dịch cơ cấu khu vực dịch vụ
Trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ, Tỉnh đã đưa ra chủ trương phát triển
các nhóm ngành dịch vụ trọng điểm, có nhiều tiềm năng như: tài chính, ngân
hàng, vận tải, bưu chính viễn thông, tư vấn, khoa học – công nghệ, bảo hiểm.
Trong đó, nổi bật là các chủ trương phát triển ngành thương mại như: Thành lập
Ban Chỉ đạo phát triển hàng xuất khẩu tỉnh Bình Định đến năm 2015, định
hướng đến năm 2020; Xây dựng Dự án Năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng
hóa chủ lực của tỉnh Bình Định giai đoạn 2011 – 2020; Đề án nâng cao năng lực
cạnh tranh các sản phẩm chủ yếu chế biến từ nông, lâm, thủy sản và các ngành
dịch vụ xuất khẩu tỉnh Bình Định đến năm 2020; Dự án khoa học và công nghệ
hỗ trợ phát triển các sản phẩm đặc trưng tỉnh Bình Định năm 2015. Tỉnh đã chỉ
đạo tập trung đầu tư phát triển các nhóm mặt hang xuất khẩu có lợi thế như thủy
hải sản, lâm sản, nông sản thực phẩm, khoáng sản, thủ công mỹ nghệ… đi đôi
với áp dụng công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao giá trị gia tang và sức cạnh
tranh của sản phẩm
Đồng thời, Tỉnh đã xác định phát triển du lịch thành ngành kinh tế quan
trọng của tỉnh. Tích cực thu hút đầu tư, triển khai các dự án du lịch. Trên cơ sở
đó, Tỉnh ủy đã đề ra Chương trình hành động số 11-CTr/TU ngày 24/10/2011
về Đầu tư phát triển du lịch giai đoạn 2011-2015. Chương trình hành động này
đề xuất phải xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích, ưu đãi về đất đai, tài
chính, tín dụng đối với các thành phần kinh tế, nhà đầu tư tham gia phát triển du
lịch. Tỉnh cũng đã cho thành lập Ban Chỉ đạo Phát triển Du lịch tỉnh Bình Định.
Đồng thời, Tỉnh đã kiên quyết thu hồi giấy phép những dự án đầu tư chậm tiến
độ, nhà đầu tư thiếu năng lực, không thể hiện quyết tâm đầu tư. Thực hiện cơ
chế xã hội hóa; có cơ chế phối hợp, chia sẻ lợi ích và trách nhiệm hợp lý cùng
doanh nghiệp trong hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch Bình Định.
3.2.3. Chủ trương, chính sách chuyển dịch cơ cấu khu vực nông
nghiệp
Giai đoạn 2011-2015, Tỉnh đã đưa ra rất nhiều chính sách đối với phát
triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Kết quả của việc tổ chức thực
hiện các chính sách trên đã có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, giảm diện tích trồng lúa
kém hiệu quả để chuyển sang những cây trồng, vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao
với mục tiêu hướng đến xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại. Có thể nêu
một số chương trình, mục tiêu trọng điểm, tiêu biểu dẫn đến sự thành công của
tỉnh như sau:
Chương trình giống cây, con chất lượng cao: tập trung ứng dụng công
nghệ sinh học, sưu tập, tuyển chọn, lai tạo và sản xuất các loại giống cây trồng,
vật nuôi sạch bệnh, có năng suất, chất lượng cao. Chương trình phát triển rau an
toàn: ứng dụng công nghệ sinh học, tiến bộ kỹ thuật, giống mới, quy trình GAP
để nâng cao chất lượng, năng suất, bảo đảm an toàn. Chương trình phát triển
chăn nuôi: tập trung nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm bò thịt, đàn heo
và một số vật nuôi có giá trị, bảo đảm an toàn dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực
phẩm, môi sinh, môi trường. Chương trình phát triển thủy sản: Thực hiện quy
trình GAP, phát triển đánh bắt xa bờ. Chương trình chuyển dịch cơ cấu lao động
nông nghiệp: đào tạo nghề giúp người dân sản xuất nông nghiệp nắm vững và
ứng dụng quy trình kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất và chuyển đổi ngành nghề
theo nhu cầu phát triển kinh tế của từng địa phương. Chương trình nâng cao
chất lượng công tác quản lý vệ sinh, an toàn thực phẩm trong sản xuất nông
nghiệp. Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2010-2020.
3.3. Hiệu quả của các chính sách
3.3.1. Thành công
Các cơ chế, chính sách của tỉnh đã có hiệu quả bước đầu trong việc thúc
đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu các khu vực kinh tế. Các ưu điểm về cơ chế,
chính sách của tỉnh có thể tóm tắt những điểm sau:
Trước tình hình kinh tế thế giới diễn biến phức tạp và kinh tế trong nước
gặp nhiều khó khăn, Tỉnh đã kịp thời nắm bắt tình hình, chủ động tổ chức nhiều
cuộc họp để chỉ đạo giải quyết các khó khăn, vướng mắc, tổng hợp các vấn đề
phát sinh để kiến nghị, đề xuất biện pháp xử lý. Các chủ trương, chính sách của
Tỉnh nhận được sự đồng thuận cao trong mọi tầng lớp nhân dân, thể hiện quyết
tâm vượt qua khó khăn, các chỉ tiêu kinh tế - xã hội tiếp tục tăng trưởng theo
đúng định hướng đề ra.
Tỉnh luôn quan tâm, tập trung chỉ đạo quyết liệt, sâu sát và cụ thể từng
ngành, lĩnh vực nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng định hướng.
Bên cạnh đó, Tỉnh luôn kiểm tra chặt chẽ quá trình triển khai của từng Sở,
ngành, huyện/thị xã để kịp thời hướng dẫn, điều chỉnh theo đúng định hướng đã
đề ra.
Kịp thời ban hành cơ chế, chính sách phát triển các ngành, các lĩnh vực,
tạo môi trường thuận lợi để tổ chức và cá nhân trong và ngoài tỉnh yên tâm đầu
tư sản xuất kinh doanh; quan tâm chỉ đạo sát sao tiến độ triển khai công việc của
các Sở, ngành và giải quyết kịp thời những kiến nghị, vướng mắc trong quá
trình triển khai thực hiện các nội dung của chương trình.
Luôn đồng hành cùng doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua thử
thách, ổn định sản xuất; hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ nhằm nâng cao
công suất, nâng cao chất lượng, tăng tính cạnh tranh. Công tác nghiên cứu, đề
xuất các chính sách hỗ trợ phát triển ngày càng gắn với thực tiễn.
Tỉnh đã tập trung đẩy nhanh tiến độ đầu tư KKT, các khu, CCN; tập trung
quy hoạch và triển khai nhiều dự án giao thông quan trọng, tạo sự kết nối giữa
Bình Định và các tỉnh Tây Nguyên, các địa phương lân cận, giữa các địa
phương trong tỉnh; kêu gọi xã hội hóa nhằm đào tạo nguồn nhân lực có trình độ,
tay nghề đáp ứng cho nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tỉnh tiếp tục triển khai và chuẩn hóa việc thực hiện cơ chế một cửa, một
cửa liên thông nhằm tăng cường trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà
nước, nâng cao chất lượng và hiệu quả phục vụ nhân dân; đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin – truyền thông trong quy trình xử lý công việc của từng cơ
quan hành chính nhà nước, giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau và
trong giao dịch với tổ chức, cá nhân nhằm giải quyết các công việc và phục vụ
nhân dân, doanh nghiệp; giúp các cơ quan nhà nước xử lý công việc nhanh, chính
xác; giúp lãnh đạo nắm thông tin kịp thời, kiểm tra công việc đã chỉ đạo. Môi
trường đầu tư kinh doanh tại tỉnh Bình Định ngày càng thuận lợi, thông thoáng,
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển, tham gia tích cực vào các chương
trình phát triển các ngành dịch vụ, công nghiệp và nông nghiệp trên địa bàn.
3.3.2. Tồn tại
Bên cạnh những kết quả trên, tỉnh Bình Định đang đứng trước không ít
những tồn tại và khó khăn. Đó là, hiện vẫn chưa có một văn bản tổng hợp chỉ
đạo thực hiện Quyết định 339/QĐ-TTg trên địa bàn tỉnh Bình Định. Quá trình
tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế tại Bình Định được
thực hiện khá rời rạc và chưa được đánh giá tổng kết một cách toàn diện. Các
chính sách, giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hiện vẫn chưa đủ mạnh, chưa
tạo được sự đột phá.
Các cấp chính quyền tỉnh còn lúng túng trong thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về kinh tế trên địa bàn, trong đó có những hạn chế do chính sách
kinh tế vĩ mô thời gian qua chưa có tác động tích cực thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng cạnh tranh, nhất là chưa có chính sách định hướng cho
doanh nghiệp chuyển từ gia công sang sản xuất hàng có giá trị gia tăng cao.
Công tác quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền được đánh giá là
chưa thực sự năng động, chưa theo kịp sự phát triển và chưa đáp ứng được yêu
cầu trong giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay (Theo công bố PCI hàng
năm của VCCI, chỉ số tính năng động tiên phong của lãnh đạo tỉnh Bình Định
liên tục sụt giảm, từ 7,22 năm 2007 giảm còn 4,2 năm 2014 và 4,87 năm 2015).
Các chính sách tỉnh đưa ra nhiều, song chưa thật đồng bộ, nhất là chưa có
các chính sách chỉ đạo trực tiếp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mô hình tăng
trưởng kinh tế tỉnh Bình Định từ chiều rộng sang chiều sâu. Do đó, đến nay,
kinh tế tỉnh Bình Định vẫn dựa vào tăng trưởng theo quy mô chiều rộng, thông
qua thâm dụng vốn nhưng hiệu quả chưa cao.
Chưa có chính sách thúc đẩy những ngành dịch vụ có hàm lượng chất
xám và giá trị gia tăng cao như dịch vụ tư vấn nên tỷ trọng ngành dịch vụ chưa
cao. Các chính sách chưa có tác động mạnh mẽ trong việc khai thác tối ưu yếu
tố tài nguyên của địa phương như đất đai, lao động, thị trường, khoáng sản.
Chính sách tác động đến nâng cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp Bình
Định chưa đạt hiệu quả như mong muốn, trình độ công nghệ của các doanh
nghiệp vẫn còn thấp; chưa đổi mới mạnh mẽ, nhất là ứng dụng công nghệ mới.
Chính sách tổ chức lại các KCN, CCN chưa hiệu quả. Các KCN, CCN chủ yếu
mang tính tổng hợp, nhiều ngành nghề quy tụ, ít khu chuyên ngành nên chưa
hình thành các cụm liên kết, hỗ trợ sản xuất, do đó tăng trưởng công nghiệp
chưa thật sự mang lại hiệu quả cao. Chính sách phát trển nguồn nhân lực, nhất
là nhân lực có trình độ cao chưa hiệu quả.
4. ĐÁNH GIÁ CHUNG
4.1. Kết quả đạt được
Thứ nhất, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng. Cơ cấu kinh tế tỉnh
Bình Định chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp - xây
dựng và ngành dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông – lâm – thủy sản. Mặc dù
tốc độ chuyển dịch chậm, tuy nhiên sự thay đổi cơ cấu này đúng hướng với mục
tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà tỉnh đã đặt ra. Cơ cấu NN-CN-DV năm 2011
là 31,5%-24,9%-38,6%; năm 2015 là 29,0%-29,1%-37,3%.
Trong nội bộ các nhóm ngành cũng có sự chuyển dịch tích cực. Trong
nhóm ngành nông – lâm – thủy sản, cơ cấu chuyển dịch theo hướng tăng tỷ
trọng ngành thủy sản, giảm nông nghiệp. Trong nông nghiệp, tăng tỷ trọng chăn
nuôi, giảm tỷ trọng trồng trọt. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi cũng được cải thiện
theo hướng hiện đại hơn, thường xuyên đưa giống mới, kỹ thuật mới vào sản
xuất để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của
ngành.
Cơ cấu thành phần kinh tế chuyển dịch theo hướng khuyến khích tất cả
các thành phần kinh tế đều tham gia sản xuất. Tỷ trọng thành phần kinh tế nhà
nước giảm dần, tăng dần tỷ trọng kinh tế ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài.
Dịch vụ phát triển đa dạng, có chuyển biến tích cực cả về quy mô, cơ cấu
và chất lượng. Trong đó, hoạt động xuất nhập khẩu là một điểm sáng trong tổng
quan nền kinh tế của tỉnh. Xét tổng quan kim ngạch xuất nhập khẩu của cả
nước, đến năm 2012 Việt Nam mới bắt đầu có thặng dư thương mại. Tuy nhiên,
Bình Định lại là một tỉnh xuất siêu với tỷ trọng cao nhiều năm liền. Giai đoạn
2006-2015 cả tỉnh xuất siêu 2.957 tỷ USD.
Thứ hai, cấu trúc tăng trưởng đã có dấu hiệu chuyển đổi tích cực theo
đúng định hướng: (i) Đóng góp của TFP vào tăng trưởng ngày càng được cải
thiện cho thấy mô hình tăng trưởng đã có xu hướng chuyển sang kết hợp chiều
rộng với chiều sâu; (ii) Đóng góp của ngành khai thác khoáng sản giảm mạnh
phản ánh tăng trưởng đã dần thoát khỏi mô hình tăng trưởng nhờ vào khai thác
tài nguyên và chuyển dần sang mô hình tăng trưởng dựa vào công nghiệp chế
biến chế tạo.
Thứ ba, tăng trưởng kinh tế vẫn có tác động lan tỏa tích cực đến tiến bộ
xã hội cho con người. Cùng với tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân thực
của người dân tăng, góp phần nâng cao mức sống dân cư, nghèo đói giảm, chỉ
số phát triển con người tiếp tục được nâng lên.
Để đạt được những thành tựu nói trên là những nỗ lực không ngừng của
chính quyền và nhân dân toàn tỉnh:
Thứ nhất, tỉnh đã triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước; các ngành, các cấp trong tỉnh đã tập trung, xây dựng và
triển khai thực hiện các chính sách, giải pháp được đề ra tại các quy hoạch,
chiến lược, đề án như: Đề án phát triển sản phẩm nông nghiệp của tỉnh theo
hướng hình thành vùng sản xuất hàng hóa lớn, tập trung, phục vụ công nghiệp
chế biến; các quy hoạch phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề,
Đề án phát triển hàng xuất khẩu tỉnh Bình Định đến năm 2015, định hướng đến
năm 2020…
Thứ hai, Trung ương và tỉnh đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách
phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với nền kinh tế nhỏ nhiều thành phần, tạo
điều kiện cho các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Riêng tỉnh Bình Định còn triển khai xây dựng kịp thời các cơ chế, chính
sách khuyến khích đầu tư phù hợp với tình hình mới, tạo môi trường thuận lợi
cho phát triển kinh tế và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biệt những năm
gần đây đã huy động vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng các khu, CCN, phát
triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp; đẩy mạnh công tác khuyến công, khuyến
khích phát triển công nghiệp nông thôn, thu hút nguồn nhân lực… phục vụ phát
triển kinh tế, xã hội.
Chính quyền các cấp đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư phát
triển sản xuất kinh doanh. Năng lực của đội ngũ cán bộ, chất lượng của lực
lượng lao động đã được nâng lên một bước đáng kể đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
Thứ ba, vai trò đóng góp to lớn của các doanh nghiệp trong tỉnh. Các
doanh nghiệp đã có những động thái tích cực để ứng phó với những thay đổi
của thị trường, kịp thời nắm bắt nhu cầu mới để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của
người tiêu dùng, nâng cao chất lượng sản xuất.
4.2. Hạn chế
Thứ nhất, mô hình tăng trưởng vẫn mang đặc trưng thâm dụng vốn, yếu
tố TFP mặc dù tăng nhưng có biểu hiện thiếu bền vững trong đóng góp vào tăng
trưởng, chưa khai thác tốt được yếu tố lao động.
Vốn vẫn là yếu tố đóng góp trên 60% vào điểm phần trăm tăng trưởng từ
năm 2012-2015. Đóng góp của vốn cao, trong khi đó hiệu quả sử dụng vốn theo
phân tích ở trên là rất thấp là một yếu tố gây cản trở tăng trưởng GRDP của
tỉnh. Yếu tố vốn ngày một quan trọng đối với tăng trưởng, tỷ lệ đầu tư/GRDP
của Bình Định tăng 35,4% năm 2011 lên 47,9% năm 2015. Điều này cho thấy
rằng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội bỏ ra ngày một nhiều hơn để duy trì tốc độ
tăng trưởng. Số liệu tính toán cho thấy đến năm 2015, để tạo ra một đồng GRDP
cần cần đến gần 10 đồng vốn đầu tư. Điều này chứng tỏ hiệu quả đầu tư của tỉnh
đang có xu hướng giảm. Tính chất thiếu bền vững của yếu tố TFP trong đóng
góp vào tăng trưởng liên quan đến hoạt động đổi mới sáng tạo, đầu tư cho
KHCN. Kinh tế tỉnh về cơ bản vẫn là nền kinh tế gia công với trình độ công
nghệ thấp. Đóng góp của yếu tố lao động vào tăng trưởng kinh tế liên tục sụt
giảm trong cả giai đoạn 2011-2015 là điều đáng quan tâm.
Thứ hai, cấu trúc tăng trưởng chủ yếu từ các ngành công nghiệp chế biến
chế tạo nhưng thực chất vẫn mang tính chất của mô hình tăng trưởng nhờ vào
gia công lắp ráp.
Thực trạng cấu trúc mô hình tăng trưởng theo ngành đã chỉ ra động lực
tăng trưởng kinh tế bắt đầu chuyển sang các ngành công nghiệp chế biến chế
tạo. Tuy nhiên, đây chỉ là kết quả của quá trình thực hiện gia công lắp ráp sản
phẩm. Những ngành công nghiệp chủ lực của tỉnh như chế biến gỗ, dệt may...
đều là những ngành mang nặng tính gia công, lắp ráp, tận dụng lợi thế giá nhân
công rẻ. Không chỉ trong ngành công nghiệp mà xu hướng gia công càng rõ nét
hơn trong ngành nông nghiệp. Nền kinh tế dựa vào gia công thể hiện tính kém
hiệu quả của sản xuất và phản ánh sự phụ thuộc của nền kinh tế đối với các yếu
tố bên ngoài.
Thứ ba, nền kinh tế có tăng trưởng nhưng chưa tác động mạnh đến cơ
cấu ngành.
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế của tỉnh là thực hiện chuyển dịch cơ cấu
ngành theo hướng hiện đại, phù hợp với xu thế vận động của xã hội. Đó là tăng
dần tỷ trọng của ngành công nghiệp - dịch vụ, giảm dần tỷ trọng của ngành
nông nghiệp. Về cơ bản, cơ cấu kinh tế của tỉnh đã dần chuyển biến theo đúng
định hướng đã vạch ra. Tuy nhiên, khi so sánh với mức độ chuyển dịch cơ cấu
bình quân trên cả nước, thì có thể nhận thấy rằng mức độ thay đổi cơ cấu của
tỉnh còn chậm so với mặt bằng chung và chưa đạt mục tiêu đề ra.
Thứ tư, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước còn gặp nhiều khó
khăn, đặc biệt vốn đầu tư nước ngoài còn chiếm tỷ trọng quá nhỏ, chưa có
những dự án lớn làm cú huých cho nền kinh tế phát triển mạnh.
Ngành công nghiệp - xây dựng trên địa bàn thiếu vắng các doanh nghiệp
có quy mô lớn, đầu tàu, có chiều sâu về công nghệ thay vì tập trung tận dụng,
khai thác nguồn tài nguyên và xuất thô nguyên vật liệu, hoặc sơ chế như hiện
nay.
Với hiện trạng ngành dịch vụ chưa xây dựng được sản phẩm nổi trội, chủ
yếu phụ thuộc vào cầu địa phương thì trong ngắn hạn có thể tiếp tục tăng trưởng
nhưng xét về dài hạn sẽ phải đối diện với khả năng cung vượt cầu, mức độ cạnh
tranh giữa các đơn vị cùng ngành gia tăng, lợi nhuận của ngành sụt giảm.
Sản xuất nông nghiệp tuy có chuyển biến theo hướng sản xuất hàng hóa
nhưng chưa thật sự bền vững; giá trị sản xuất bình quân trên ha đất chưa cao; tỷ
trọng dịch vụ trong ngành nông nghiệp còn thấp; việc thực hiện các biện pháp
hỗ trợ nông dân chuyển dịch cơ cấu cây trồng, ứng dụng công nghệ sinh học
trong sản xuất nông nghiệp còn hạn chế.
Thứ năm, hiệu ứng của mô hình tăng trưởng vì con người đang có hướng
giảm do tác động tích cực của tăng trưởng đến các khía cạnh tiến bộ xã hội
giảm dần.
Đến năm 2015, tăng trưởng kinh tế vẫn có tác động tích cực đến các khía
cạnh xã hội, thu nhập bình quân đầu người tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm đi, phát
triển con người được cải thiện. Tuy nhiên, có thể thấy, tác động tích cực của
tăng trưởng đến phát triển con người, đến giảm nghèo có biểu hiện giảm đi, bất
công bằng trong phân phối thu nhập tăng lên.
Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân, tập trung ở một số nội dung
sau:
Thứ nhất, chưa có chỉ đạo thống nhất, xuyên suốt về thực hiện tái cơ cấu
và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế tỉnh. Do vậy, quá trình tổ chức thực
hiện tái cơ cấu kinh tế còn thiếu hiệu lực, phân tán, chưa có sự điều phối và
giám sát. Một số lĩnh vực chưa có các mục tiêu lượng hóa cụ thể để thực hiện và
giám sát.
Thứ hai, nhận thức về mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng, chiều
sâu, nhất là các yếu tố và tiêu chí đánh giá chúng chưa chưa thật sự đầy đủ, kịp
thời, vì vậy ảnh hưởng đến các chương trình hoạt động thực tế.
Thứ ba, trình độ chuyên môn, năng lực điều hành của đội ngũ cán bộ cơ
sở vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của việc đẩy nhanh hội nhập sâu, rộng vào
kinh tế thế giới, chưa dự báo sát sự thay đổi nhanh chóng của những yếu tố tác
động đến mô hình tăng trưởng kinh tế tỉnh Bình Định.
Thứ tư, chính sách của tỉnh đưa ra chưa kịp thời, chưa sát thực tế, chưa
đồng bộ, nhất là việc tổ chức thực hiện và kiểm soát, điều chỉnh chúng cho thích
hợp với tăng trưởng kinh tế từng thời kỳ.

You might also like