You are on page 1of 38

ĐỀ CƯƠNG LỊCH SỬ NGOẠI GIAO

1. Anh (chị) hãy trình bày và đánh giá các hoạt động ngoại giao của nhà Lý trong
kháng chiến chống quân xâm lược Tống. (5 điểm)
2.Anh (chị) hãy trình bày quá trình đấu tranh ngoại giao của nhà Trần với quân
Mông Cổ và quân Mông Nguyên trong các cuộc kháng chiến thế kỷ XIII. (5 điểm)
3. Anh (chị) hãy phân tích các hoạt động đấu tranh ngoại giao của Lê Lợi – Nguyễn
Trãi trong các giai đoạn của khởi nghĩa Lam Sơn (5 điểm).
4. Đánh giá về chính sách ngoại giao của vương triều Mạc với Trung Quốc. (5 điểm)
5. Anh (chị) hãy trình bày về đấu tranh ngoại giao của nhà Tây Sơn chống nhà Thanh
trước và sau năm 1789. (5 điểm)
6. Phân tích, đánh giá chính sách ngoại giao của Việt Nam – Xiêm nửa đầu thế kỷ
XIX. (5 điểm)
7. Phân tích, đánh giá về chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn với Vạn Tượng. (5
điểm)
8. Phân tích và đánh giá vấn đề Chân Lạp trong quan hệ ngoại giao Việt Nam - Xiêm
đầu thế kỷ XIX. (5 điểm)
9. Phân tích vấn đề nước Vạn Tượng trong quan hệ ngoại giao Việt Nam – Xiêm đầu
thế kỷ XIX. (5 điểm)
10. Trình bày quan hệ ngoại giao Việt Nam – Pháp từ năm 1802-1858. (5 điểm)
11. Quan điểm của anh/chị về nhận xét: Ngoại giao của nhà Nguyễn với các nước Âu
– Mỹ là ngoại giao bị động, sai lầm. (5 điểm)
12. Trình bày hoạt động quốc tế của cụ Phan Bội Châu và cụ Phan Chu Trinh. (5
điểm)
13. Trình bày hoạt động quốc tế của người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc từ
năm 1911-1930. (5 điểm)
14. Anh (chị) hãy trình bày về đối sách quốc tế của Đảng Cộng Sản Đông Dương giai
đoạn 1939 -1945. (5 điểm)
15. Phân tích những đặc điểm của đấu tranh ngoại giao của tổ tiên ta. (5 điểm)

1
Câu 1: trình bày và đánh giá hoạt động ngoại giao của nhà Lý trong thời kì chống Tống

1. Quan hệ hai nước trước chiến tranh


- Năm 1009, nhà Lý thiết lập. Nửa đầu thế kỉ XI, hai bên Việt –Tống vẫn có mối quan hệ giao bang
bình thường:
o Trong 63 năm đầu triều Lý, nước ta đã cử nhiều sứ bộ sang TQ và được đón tiếp nồng
hậu.
o Chỉ khi nước ta có quốc tang hoặc vua mới lên ngôi thì nhà Tống mới cử sứ sang
- Tuy vậy, nhà Tống vẫn ngầm tiến hành các hành động gây hấn, lần chiếm cướp đất, giết người
cướp của ở biên giới hai nước:
- Để trừng trị quân Tống, nhà Lý không những kiên quyết đánh trả mà còn cho quân tiến sang
đất Tống để uy hiếp địch và đã buộc nhà Tống phải xin thương lượng với ta, tướng Dư Tĩnh phải chủ
động nhận lỗi và đề nghị ta cử người cùng phía Tống hòa đàm. Nhà Lý chấp nhận lời đề nghị.
- Trong cuộc thương lượng, nhà Tống đề nghị ta trả lại tướng và quân lính bị bắt, chúng dùng
tiền để mua chuộc Phí Gia Hữu nhưng phía ta đã bác bỏ yêu cầu trả lại tướng mà chỉ nhận lời sẻ
không cho quân tiến vào đất Tống nữa nếu Nhà Tống từ bỏ các hành động khiêu khích, lấn chiếm
biên giới.
 Với hành động quân sự kiên quyết, chủ động và đường lối đối ngoại cứng rắn của nhà Lý, vấn
đề xung đột được giải quyết, nhà Tống phải nhượng bộ.
2. Đập tan các căn cứ quân sự chuẩn bị chiến tranh của địch bằng một cuộc tiến công quân sự
kết hợp với hoạt động chính trị và ngoại giao
- Sau những xung đột ở biên giới được giải quyết, quan hệ giữa ta và Tống tạm yên được hơn 10
năm, nhưng sau đó, Tống mưu cướp nước ta một lần nữa, hòng giải quyết những khó khăn trong nước.
- Với kế sách “Trước Nam, sau bắc” của Vương An Thạch,Từ năm 1075, triều đình nhà Tống
dồn tiền của , công sức, binh lính, quân trang, quân dụng cho vùng Quảng Tây nhằm chuẩn bị cho
cuộc chiến xâm lược nước ta.
- Trước tình hình đó, nhà Lý đã tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết các dân tộc,
đoàn kết nội bộ triều đình.
- Cuối năm 1075, khi tình hình trở nên nghiêm trọng, Thái úy Lý Thường Kiệt quyết định tấn
công trước, chủ động “tiến phát chế nhân” ra quân trước để chặn giặc.
o Thực hiện chiến lược đó, cuối năm 1075, Lý Thường Kiệt cho 10 vạn quân thủy, bộ tiến
công địch
o Khi tiến vào đất Tống, quân ta đã tiến hành vận động chính trị đối với nhân dân TQ:
 trên cơ sở nắm vững tình hình xã hội với sự bất mãn, oán hờn sâu sắc của nhân
dân Tống với việc triều đình Tống thi hành cải cách “Tân pháp”, Lý Thường Kiệt
đã khoét sâu mâu thuẫn giữa nhân dân TQ với triều đình Tống
 Dọc đường hành quân, Lý thường Kiệt cho truyền những bản hịch, gọi là “lộ bố”,
kể tội triều đình nhà Tống, giải thích mục đích chính nghĩa và sự cần thiết mà
quân ta phải tiến sang đất Tống để nhân dân Trung Quốc yên tâm và đồng tình với
hành động quân sự của ta
 Lý Thường kiệt đã nắm rất vững tình hình xã hội Tống: các tầng lớp đều oán hờn với việc thi
hành Tân Pháp:

2
o Tân pháp: tể tướng Vương An Thạch đề ra, với mục đích làm cho nước giàu quân mạnh,
nhưng trên thực tế, nó không đem lại lợi ích cho nhân dân mà còn vơ vét thêm của nhân
dân để xây dựng quân đội và tiến hành chiến tranh xâm lược
 Hầu hết nhân dân đều bất bình, chống đối tân pháp, nên họ hoan nghênh lộ bố. Vì vậy, mặc dù
quân Lý Thường Kiệt hành quân trên đất Tống, vấn được dân Tống đồng tình.
 công tác vận động chính trị đó có tác động đối ngoại rất lớn, nó tranh thủ được sự đồng tình
ủng hộ của nhân dân nước địch trong khi cuộc hành quân của ta diễn ran gay trên chính lãnh thổ của
họ.
 đòn tấn công chính trị mang tính chất đối ngoại đó đã góp phần quan trọng đem lại thắng lợi
cho mục tiêu chiến lược của Lý Thường Kiệt. Quân ta đánh đâu thắng đấy, lại không bị nhân dân địa
phương phản đối nhưng thắng rất nhanh
 Như vậy, những hành động quân sự kiên quyết , chủ động và đường lối đối ngoại cứng rắn, đã
tạo điều kiện để các vấn đề từng bước được giải quyết ổn thỏa.
- Nhà Tống thất bại liên tiếp, lại vấp phải sự phản đối của nhân dân chính quốc nên đã bị quân ta
chặn đánh và tiêu diệt.
- Chúng không dám cho thêm quân xuống tiếp ứng, giải vây cho Ung Châu mà mưu tính một
mưu kế rất xảo quyệt và thâm độc. Chúng dự tính phái một đạo quân đánh thẳng xuống miền Bắc
nước ta khiến đại quân của Lý Thường Kiệt phải rút về cứu nguy.
- Tuy nhiên, Lý Thường Kiệt đã dự đoán trước kế hoạch nham hiểm của địch, lãnh đạo quân ta
đốc toàn lực chuyển sang công thành, tiêu diệt hết lực lượng và triệt phá tất cả các kho lương thực, khí
giới trong thành Ung Châu. Kế hoạch “trước Nam, sau Bắc” của Vương An Thạch bị thất bại.
3. Đánh bại quân đich trên chiến trường và dùng đấu tranh ngoại giao để kết thúc chiến
tranh
- Kế hoạch “Trước Nam, sau Bắc” của nhà Tống hoàn toàn thất bại, tuy vậy nhà Tống vẫn quyết
tổ chức thêm một đạo quân khác hòng đánh chiếm nước ta.
- Sau gần một năm chuẩn bị, đạo quân viễn chinh Tống bắt đầu xuất phát. 11 /1076, 10 vạn quân
gồm quân kỵ quân bộ, quân thủy và 20 vạn binh phu của Tống tiến sang nước ta.
- Để đối phó với địch, Lý Thường Kiệt dựng một phòng tuyến vững chắc ở sông Như Nguyệt,
quyết định chặn đứng quân địch tại đây
- Bị chặn đứng tại sông Như Nguyệt, và thủy quân đồng thời bị đánh bại tại Đông Kênh, nên
Qúach Qùy phải ngừng tấn công và hạ lệnh “Ai bàn đánh sẽ bị chém”.
- Những lần thất bại liên tiếp, Địch vướng vào vòng luẩn quẩn chiu thiệt hại rất nặng: 10 vạn
chết 8 vạn không thể tiếp tuc chiến tranh được nữa.
- Biết rõ địch đang bị khốn quẫn, lung túng, Lý Thường Kiệt liền chủ động đưa ra một giải pháp
giảng hòa.
 Chủ trương dùng biện sĩ để bàn hòa của LTK đưa ra rất đúng lúc, tạo ra cơ hội kết thúc chiến
tranh có lợi cho ta và mở lối thoát cho dịch. Do đó, quân Tống như vớ được chiếc phao cứu rỗi,
việc thương lượng diễn ra nhanh chóng.
 Có thể thấy, Việc “dùng biện sĩ bàn hòa” được đề ra trong lúc quân Tống lúng túng và bị tổn thất
nặng là một hành động tiến công ngoại giao phối hợp tuyệt đẹp với hoạt động quân sự, một sáng
tạo về phương lược đấu tranh của tổ tiên ta.
- Quân tống rút đến đâu, LTK cho quân tiến theo, chiếm lại đất đến đó. Riêng châu Quảng
Nguyên, QUân tống vấn ngoan cố chốt lại, âm mưu chiếm đóng lâu dài. Ta lại kiên trì đấu tranh ngoại
giao nhằm thu hồi toàn bộ lãnh thổ:
3
o Quảng nguyên có vị trí kinh tế đặc biệt, có mỏ vàng và là cuống họng của nước ta
o Để hỗ trợ cho thương lượng, LTK tiến hành các hoạt động quân sự nhằm gây sức ép với
địch: ông cho đóng quân phía ngoài quảng nguyên, phao tin sẽ tiến đánh
o Cuối năm 1077, sứ bộ đầu tiên của ta sang Tống, nhưng tới quảng tây phải dừng lại
o Đầu năm 1078, nhà Lý lại cử sứ sang Tống để thương lượng. Sứ bộ mang 5 con voi nhà
tặng vua Tống.
o 10/1078, sứ tới kinh đô, gặp vua tống. Vua tống nhận tra lại quảng nguyên khi nào ta trả lại
tất cả tù bình. MỤc đích đòi đất đã đạt được, sứ ta nhận trả tù binh
o 10/1079, ta trả số ít tù binh, vua Tống hạ lệnh cho Quảng Tây bỏ Quảng Nguyên
 Bằng hòa đàm thương lượng, ta đã thu hồi được châu Quảng Nguyên giàu có
- Cuộc chiến tranh Lý- Tống chấm dứt. Lần đầu tiên lịch sử chống xâm lược của dân tộc ta được
kết thúc bằng thắng lợi của hòa đàm.
- Trong suốt hai trăm năm sau, quan hệ ngoại giao giữa 2 nước diễn ra bình thường, không có
thêm bất kì một cuộc xâm lược nào cho đến khi triều tống mất nước
4. Bài học kinh nghiệm
- Những thắng lợi to lớn của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Tống ở thời Lý
cho thấy tổ tiên ta đã vân dụng sáng tạo đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh ngoại giao để đánh
thắng giặc và bảo vệ nền độc lập và chủ quyền lãnh thổ toàn vẹn của tổ quốc
- Dù trong quân sự hay ngoại giao, nhà Lý đều chủ động tiến công địch. Chuyển sang đấu tranh
ngoại giao đúng lúc địch lâm vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan, nhà lý đã buộc địch phải lui quân.
- Thắng lợi đó tạo điều kiện thuận lơi jcho việc giải phóng đất nước và tiếp tục đấu tranh ngoại
giao để thu hồi toàn vẹn lãnh thổ. Đó là kinh nghiệm quý báu góp vào truyền thống đấu tranh ngoại
giao của ta
- Bên cạnh đấu tranh quân sự, đấu tranh ngoại giao có ý nghĩa rất quan trọng góp phần bảo vệ
dân tộc

Câu 2: Anh (chị) hãy trình bày quá trình đấu tranh ngoại giao của nhà Trần với quân Mông Cổ
và quân Mông Nguyên trong các cuộc kháng chiến thế kỷ XIII. (5 điểm)
1. Khái quát
- Từ khoảng giữa thế kỉ XII, nhà Lý bắt đầu suy vong và đầu năm 1226 phải nhường chỗ cho
nhà Trần
- Với sự thành lập của triều trần:
o kỷ cương trong nước được khôi phục, thế nước lại hưng thinh.
o Chính quyền từ trung ương đến địa phương được củng cố
o Kinh tế phát triển: nông nghiệp, công nghiệp, giao thông, thủ công, buôn bán
o Lực lượng vũ trang được chú trọng xây dựng hùng mạnh
- ở phương Bắc:
o nhà Tống đang trên đà suy sụp, bắc nam đều có chiến tranh
o Do đó, chúng phải xử nhũn trong quan hệ với nước ta để cố giữ yên phương Nam để
đấu với kẻ thù phương bắc.
2. Ngoại giao trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ năm 1258
- Năm 1257, sau khi đánh chiếm vùng Vân Nam – giáp với biên giới Tây Bắc của ta, quân
Mông Cổ lập tức lấy biện pháp đe dọa ngoại giao để mở đường xâm lược nước ta.

4
- 9/1257, sứ của Mông Cổ đã tới trước cửa ải nước Đại Việt. Chúng nghĩ rằng vua Trần sẽ phải
khuất phục và có thể thôn tính được nước ta một cách dễ dàng.
- Trước các yêu sách láo xược của địch và dựa vào sức mạnh của dân tộcVua Trần Thái Tông
kiên quyết bác bỏ, thậm chí còn tống giam bọn sứ giả. Các biện pháp dụ dỗ, đe dọa của chúa Mông
Cổ đều vô hiệu
- Thấy thất bại về ngoại giao, mông cổ quyết định tấn công quân sự đại việt. Nhưng khi đưa
quân tới biên giới, chúng lại cho sứ sang ta. Hy vọng với quân đội tập trung ở biên giới, sẽ làm áp lực
đe dọa ngoại giao, khiến cho dân tộc ta phải khiếp sợ mà đầu hàng. Tuy nhiên kế hoạch của bọn
chúng thất bại
- đầu năm 1258, quân Mông Cổ dưới sự chỉ huy của Ngột-lương-hợp-thai tiến sang nước ta.
Cuộc kháng chiến cứu nước của dân ta chống quân Mông Cổ bắt đầu.
- Để tránh thế mạnh ban đầu của địch, triều đình nhà Trần tạm rút khỏi Thăng Long, theo dòng
sông Hồng về đóng giữ vùng Thiên Mạc.
- Ngày 29/1/1258, quân ta dưới sự chỉ huy của Trần Thái Tông đã phản công địch, đánh một
đòn quyết liệt tại Đông Bộ Đầu và giành thắng lợi, mở đầu cho giai đoạn quét sạch quân Mông Cổ ra
khỏi đất nước. Quân xâm lược phải bỏ kinh thành Thăng Long, tìm đường tháo chạy về Trung Quốc
nhưng đều bị dân binh tập kích.
 Cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ nhất của quân dân ta giành thắng lợi, có ý
nghĩa lịch sử vô cùng quan trọng.
o Nó không chỉ là thắng lợi về mặt quân sự làm thất bại mưu đồ của địch dùng nước ta để
làm bàn đạp tiêu diệt Nam Tống và bành trướng xuống phía Nam
o mà còn là thắng lợi về đường lối ngoại giao kiên quyết và cứng rắn bảo vệ độc lập và
chủ quyền dân tộc.

3. Ngoại giao trong hai cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên (Tổng: 3 điểm)
1.3.1. Năm 1285 (1 điểm), trong đó:
 Đấu tranh ngoại giao nhằm tranh thủ thời kỳ tạm hòa hoãn 25 năm giữa cuộc kháng chiến lần 1
và 2. (0,5 điểm)
- Sau chiến thắng, tuy căm phẫn kinh thành bị tàn phá, lại nhận thấy quân Mông Cổ chưa từ bỏ
âm mưu xâm lược nước ta, nhưng xét thấy cần phải có thời gian khắc phục hậu quả chiến tranh và tiếp
tục chuẩn bị lực lượng để đối phó với cuộc xâm lược của địch. DO đó, một mặt, nhà Trần vẫn tiếp
tục đường lối ngoại giao kiên quyết, mặt khác, vận dụng một sách lược khôn khéo, vừa cương, vừa
nhu, rất linh hoạt
o Ngay sau chiến thắng, nhà trần cử sứ bộ sang mông cô nhằm tìm cách hòa giải với địch,
tìm hiểu tình hình quân sự và chính trị của Mông cổ để có chủ trương đối phó thích hợp
o Sứ thần giành được thắng lợi ngoại giao bước đầu, một thời kì tạm hòa hoãn với mông
cổ đã trở thành hiện thực và được duy trì trong khoảng 25 năm
- Trong thời kì này, đấu tranh ngoại giao chủ yếu của ta là chống lại yêu sách của Mông
Cổ như:
o Vua trần phải sang chầu, cho con em sang làm con tin
o Kê khai số dân, chịu quân dịch, cống nạp…..
- Trong 25 năm đó, đấu tranh ngoại giao của nhà Trần rất gay go, phức tạp, quan hệ bang giao
có lúc rất căng thẳng

5
 Mặc dù đối mặt với kẻ địch hùng mạnh nhất quả thời đai, nhà Trần khoong hề nhân nhượng
trước các yêu sách của địch xâm phạm đến chủ quyền, quốc thể và lòng tự hào dân tộc
 Những nhương bộ của nhà Trần, như nộp cống… là sự nhân hượng không đáng kể, cốt duy trì
quan hệ bình thường.
- Đầu năm 1285, thời kì hòa hoãn kéo dài 25 năm chấm dứt, chiến tranh Đại Việt- Nguyên
Mông lần thứ hai lại bùng nổ
- Đấu tranh trong cuộc kháng chiến lần 2:
+ Hịch Tướng sĩ và sự cổ vũ về tinh thần cho binh sĩ (0,25)
- Để lãnh ddaoj cuộc kháng chiến, triều đình cử Trần Quốc Tuấn làm Quốc công tiết chế. Ông
viết bài Hịch tướng sĩ động viên toàn quân quyết tâm chống giặc cứu nước
- Bài hịch của Trần Quốc tuấn
o Khơi gợi tinh thần dân tộc của quân và dân ta, nung thêm chí căm hơn sâu sắc đối với
quân giặc cướp nước
o Vạch tội ác của giặc, nêu cao chính nghĩa của dân ta trong cuộc chiến tranh tự vệ
=> dân ta phủ định uy quyền thiên triều mà phong kiến phương bắc tự dành cho mình.
 Khi quân Mông cổ tiến sát biên giới thì nhân dân ta đã ở vào tư thế sẵn sàng. Trên các hướng
tiến quân của địch đều được phòng bị chu đáo và do các tướng giỏi trấn giữ. Ban đầu thế gặc còn
mạnh, ta có tổn thất nhưng đại quân vẫn được bảo toàn và sĩ khí không giảm sút
- Năm 1285, để tìm hiểu tình hình bó trí và lực lượng quân đich, vua trần sai đỗ Khắc chung
sang doanh trại quân Nguyên vờ cầu hòa. Chuyến đi thành công, Đỗ Khắc chung trở về doanh trại
một cách an toàn sau khi nắm dược tình hình binh lực địch và đã tác động vào bọn tướng giặc mông
cổ
- Sau hai tháng tập kích, phản công, quân nguyên bị quét sạch ra khỏi đất nước. Kinh thành
thăng long được khooi phục, cả nước hoàn toàn giải phóng
- Sau chiến thắng, để giữ thể diện cho Hốt Tất Liệt và xoa dịu ý chí phục thù của nhà Nguyên,
triều đình Trần đã cử các sứ bộ mang phương vật sang cống và chủ động thả tù binh. => nhân
nhượng của nhà trần lúc này cũng chỉ nhằm xoa dịu ý chí phục thù của nhà nguyên
- Đáp lại thiện chí và nhân nhương của ta, bọn mông cổ càng lấn tới. các sứ sang cống phương
vật đều bị giữ lại
- Hốt tất liệt hủy bỏ tấn công nhật bản, ráo riết chuẩn bị đánh đại việt. Song, bề ngoài, chúng tỏa
vẻ hòa bảo bằng cách cử nhiều sứ bộ sang đại việt
1.3.2. Năm 1288 (1 điểm)
Từ năm 1285-1288, nhiệm vụ chủ yếu của nhân dân Đại Việt là đánh đuổi xâm lược. Công tác ngoại
giao đã rất được chú ý tới để hỗ trợ cho việc giành thắng lợi chính thức trên mặt trận quân sự. Ngoại
giao thời kỳ này được dùng để tố cáo địch, vạch rõ trách nhiệm của chúng, nêu cao tính chính nghĩa
của cuộc đấu tranh của nhân dân Đại Việt.
- Việc ráo riết chuẩn bị cho một cuộc xâm lược mới không phải tiến hành được dễ dàng. Nội bộ
Mông cổ nổi lên chống lại sự thống trị hà khắc của bọn phong kiến ngoại tộc, phản đối kế hoạch đánh
đại việt
- Tuy nhiên, tháng 10/1287, quân nghiên lại bắt đầu xuất phát, mở màn cuộc chiến tranh xâm
lược đại việt lần thứ ba
- Về phía ta, nắm chắc ý đồ phục thù của địch, nên sau chuộc chiến tranh lần 2, nhà trần không
hề xao nhãng củng cố lực lượng, phòng bị đất nước

6
- Trước sự tiến coong của địch, ta chỉ phái một số đơn vị nhỏ làm nhiệm vụ cản giặc, còn đại
quân rút lui để bảo toàn lực lượng
- Chiến thắng tại vân đồn đã giáng cho địch một đòn hiểm, quân ta thu được nhiều quân lương,
khí giới
- Để làm địch mất cảnh giác, ta tìm cách liên lạc với gặc giả vờ xin hàng, vừa dò xét tình hình
địch phục vụ cho kế hoạch phản công sắp tới của ta. ĐỊch ngày càng bị hãm vào thế bị động, lung
túng. => thoát hoan quyết định rút quân
- Ta bày một thế trận hiểm ác, giương bẫy đón chúng, quyết tâm đánh địch làm chúng phải kinh
hoàng, không còn dám nghĩa đến trở lại xâm lược nước ta
 Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên- mông kết thúc thắng lợi
1.3.3. Ngoại giao sau đại thắng – tiếp tục làm tan rã ý chí xâm lược của địch, bảo vệ nền độc
lập. (1 điểm)
- Hậu quả của thất bại ở Đại Việt mở đầu thời kỳ suy vong của đế quốc Mông Cổ và kế hoạch
bành trướng xuống các nước Đông Nam Á không thể thực hiện được
- Nhà trần tuy đã đánh bại được kẻ xâm lược hung hãn nhưng thấy đế quốc Nguyên-Mông là
một kẻ địch rất ngoan cố chưa chịu từ bỏ ý đồ thôn tính nước ta, nên vận dụng sách lược mềm dẻo
trong đấu tranh ngoại giao
- Phát huy chiến thắng hai lần liên tiếp đánh tan địch, ngoại giao của nhà Trần có nheiemj vụ
làm tan rã hoàn toàn ý đồ xâm lược của nhà Nguyên, kết thúc tình trang chiến tranh và khôi phục hòa
hiếu giữa hai nước
- Ngay sau khi chiến thắng, vua cử 2 sứ giả mang tờ biểu(không nhằm thẳng vào Hốt Tất liệt mà
đổ lỗi cho bọn quan lại cấp dưới, đề cập vấn đề tù bình…)
o Một mặt tỏ vẻ tôn trọng vua hốt tất liệt
o Mặt khác, mua chuột người chống hốt tất liệt
- 7/1290, trần thánh tông băng hà, trần nhân tong sai sứ sang báo tang. Năm sau lại sai người
sang cống => nhân cơ hội này, Hốt Tất Liệt muốn trở lại xâm lược báo thù, nhưng triều thần can ngăn,
nội bộ nhân dân trung quốc đang phản đối chế ddoooj phong kiến ngoại tộc
- 4 bức thư của sứ nguyên và vua trần đã tỏ rõ thái độ không chịu nhượng bộ trước những yêu
sách của sứ nguyên
o Thư đòi vua ra đón- thư giải thích vì sao cử quan ra đón
o Thư đòi vua sang chầu- thư từ chối
o Đòi con trưởng sang trầu- thư từ chối
o Thư trả lại lễ cống- thư yêu cầu xác nhận
- Ta cử sứ đào duy từ sang, Hốt tất liệt bắt giam, nhưng sứ ta không hề nao núng, ngoại giao
uyển chuyển, linh hoạt
4. Bài học kinh nghiệm (1 điểm)
- Đường lối ngoại giao của nhà trần là kiên quyết bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia, quốc thể.
- Lợi dụng lúc địch gặp khó khăn, lung túng, vận dụng sách lược ngoại giao uyển chuyển,
linh hoạt, vì thế địch phải chấp nhận hòa hoãn, thậm chí đã phải cam kết bằng văn bản không
xâm phạm đến lãnh thổ và danh dự dân tộc ta
- Ngoại giao dựa vào sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc, và thế chính nghĩa của ta

7
- Nhà trần cũng rất coi trọng việc tìm hiểu kỹ về địch không những về mặt quân sự mà cả
những âm mưu, thủ đoạn của chúng để định ra cách đối phó thích hợp, khi cứng, khi mềm, nên
đã thắng địch trong đấu tranh ngoại giao
- Sau chiến tranh, ngoại giao rất linh hoạt. tùy tình hình và mức độ suy yếu của địch,
cách giải tquyeets mỗi lần một khác, làm cho ý chí xâm lược của địch vốn đã lung lay đi đến
chỗ hoàn toàn tan rã
 Sự phối hợp giữa đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao thời trần rất nhịp nhàng và
có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau, nên cuối cùng đã 3 lần đánh tan được giặc mạnh

Câu 3: Anh (chị) hãy phân tích các hoạt động đấu tranh ngoại giao của Lê Lợi – Nguyễn Trãi
trong các giai đoạn của khởi nghĩa Lam Sơn (5 điểm).

-Khởi nghĩa Lam Sơn là cuộc chiến tranh giải phóng đạt tới trình độ một cuộc chiến tranh nhân
dân. Trong cuộc chiến tranh này, đấu tranh ngoại giao được Lê Lợi, Nguyễn Trãi sử dụng như một vũ
khí tiến công mạnh mẽ kết hợp với đấu tranh quân sự để chiến thắng kẻ thù, khôi phục nền độc lập.
1. Ba giai đoạn chính của khởi nghĩa Lam Sơn
- Từ năm 1418- 1423, cuộc khởi nghĩa Lam sơn đã tồn tại được 5 năm, lực lượng quân lúc đầu
không đông, song với lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm đã gây cho quân xâm lược nhiều tổn thất.
Tuy nhiên, phong trào vẫn hạn chế trong địa bàn nhỏ, dễ bị uy hiếp. qua kinh nghiệm 5 năm chiến đấu,
lãnh tụ nghĩa quân thấy phải vận dụng nhiều phương châm đánh địch
- Trong các giai đoạn sau, cùng với đấu tranh quân sự, các lãnh tụ Lam Sơn đã vận dụng các
mặt đấu tranh chính trị, binh vận và đấu tranh ngoại giao trong cuộc giải phóng dân tộc. Nhờ vậy,
phong trào ngày càng phát triển và trở thành mối đe dọa lớn đối với chính quyền đô hộ và triều đình
nhà Minh
1.4.1. Giai đoạn 1 (từ 5/1423 -10/1424): Thời kỳ hòa hoãn, hòa đàm của nghĩa quân Lam
Sơn (tổng: 1 điểm)
- Tình hình quân ta:
o Đất ta hẹp, dân ta ít, nước ta nghèo => cần có sự chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị
toàn dân
o Lực lượng ta còn nhỏ lẻ, cần phát triển mạnh hơn nữa để lđánh lâu dài, đưa sự nghiệp
giải phóng đến toàn thắng
 Cần tạm hòa hoãn với địch mới có cơ hội rảnh tay để dốc sức xây dựng lực lượng
- Tình thế của địch
o ở nước ta:
 trong 5 năm chiến tranh đàn áp, không thể tiêu diệt được quân khởi nghĩa, trái
lại còn gặp nhiều thất bại
 Lại phải căng mỏng, dàn kéo khắp nơi để đối phó với phong trào nổi dậy
o ở trung quốc, nhà minh đang phải lo chống giữ với người Ngõa THích ở biên giới phía
tây, lại đang có chiến tranh ở biên giới phía bắc. Các cuộc chiến tranh khiến TQ hao
tổn rất nhiều nhân tài, vật, lực
 Trên cơ sở đánh giá đúng tình hình chủ quan và khách quan, những khó khăn của nghĩa quân
và cả quân Minh, Nguyễn Trãi chủ động dâng kế trá hàng
o Nguyễn Trãi viết thư cho tổng binh địch, cử hai tướng thân cận mang thư và lễ vật đi
tiếp xúc và đàm phán với địch

8
o Cuộc đàm phán tiến hành vào đầu năm 1423, đã thành công nhanh chóng, Một thời kì
tạm hòa hoãn với địch bắt đầu
- Thời kỳ tạm hoà hoãn với địch của nghĩa quân Lam Sơn bắt đầu từ đầu 1423 đến mùa xuân
1424. Sau 2 năm xây dựnh lực lượng, “lo rèn chiến cụ”, “quyên tiền mộ lính”, lực lượng nghĩa quân
ngày càng lớn mạnh, lương thực tích trữ dồi dào, nghĩa quân Lam Sơn đã chuẩn bị tất cả các điều kiện
để có thể đánh lâu dài với địch,
 Sau khi khôi phục lực lượng, khởi nghĩa Lam Sơn có bước ngoặt quan trọng.
1.4.2. Giai đoạn 2 (từ 1424-1425):Là giai đoạn địa bàn khởi nghĩa chuyển vào Nghệ An, mở
rộng ra vùng Tân Bình, Thuận Hóa( tổng: 1 điểm)
- Kinh nghiệm hạ thành Trà Long (0,25 điểm)
o Mục đích thời kì tạm hòa hoãn đã đạt, nghĩa quân chủ động tiến công địch
o Thời cơ: lúc địch lâm vào tình trạng bối rối, hoang mang và gặp nhiều khó khắn cả ở chính
quốc và trên chiến trường Đại Việt
o Nghĩa quân hạ thành Trà Long để tiến quân bằng cách vừa bao vây vừa dụ hàng.
o Ngay lúc đó quân Minh đem chỉ thị sang cầu hòa và dụ hàng sắc phong Lê Lợi làm tri phủ.
Tuy nhiên ta đã không mắc mưu, mà tương kế tựu kế, nhân cơ hội giả vờ chấp nhận hàng
để địch mở cửa thành sau đó hạ thành.
 Thành trà long bị hạ mà không tốn một mũi tên, hòn đạn
 Chiến thắng hạ thành trà long bằng sức ép về quân sự kết hợp với dụ hàng và thương lượng đã
trở thành kinh nghiệm quý báu của nghĩa quân
 Từ đó, trong quá trình kháng chiến, nghĩa quân đã phát triển một cách sáng tạo các ách đánh
địch thích hợp với từng nhiệm vụ và tương quan lực lượng trong mỗi giai đoan => “càng đánh càng
được”
- Những hoạt động ngoại giao nhằm đánh bại âm mưu giảng hoà của giặc, giải phóng nửa
nước về phía Nam (0,75 điểm).
- Sau khi chiếm được thành Trà Long, thanh thế nghĩa quân càng lớn mạnh. Vùng rừng nút nghệ
an trở thành căn cứ của nghĩa quân
- Về phía địch, dù biết âm mưu giảng hòa đã thất bại, nhưng chúng không chịu rút về thanh hóa,
mà vẫn có tìm cách dụ hàng, tiếp tục duy trì quan hệ với nghĩa quân.Chúng khuyên lê lợi trở về thanh
hóa nhận chức tri phủ, vẫn cho người giao hảo với nghĩa quân
- Lê Lợi hiểu âm mưu dụ hàng của Địch, sai người đi lại với giặc để xem chỗ mạnh yếu của
chúng để dùng mưu đánh uos thành nghệ an => tù chối khéo, yêu cầu được đổi làm tri châu Trà Long
- Bọn tướng minh biết kế không thành nên cắt đứt hòa giải, lại nhận được lệnh của triều đinh,
nên mở một cuộc hành quân lớn đến Trà Long để đàn áp nghĩa quân
- Nghĩa quân thấy địch cắt đứt tiếp xúc=> chủ động tiến công địch, vây thành nghệ an
- Chỉ trong ít ngày, nghĩa quân đã thu phục toàn bộ đất đai thuộc phủ nghệ an, trừ thành nghệ an
bị bao vây.Một vùng đất đai lớn và liên hoàn được hoàn toàn giải phóng, trở thành nguồn dự trữ và bổ
sung về nhân lực, vật lực, tài lực cho nghĩa quân để tiến lên hoàn thành sự nghiệp diệt giặc cứu nước
 Từ tháng 10/1424 đến tháng 8/1425, nghĩa quân đã giải phóng một vùng nông thôn rộng lớn,
từ thanh hóa vào đến tận thuận hóa. Từ đó, thế và lực của nghĩa quân rất mạn, có thêm nhiều điều
kiện thuận lợi để đẩy sự nghiệp giải phóng mau đến thắng lợi hoàn toàn

1.4.3. Giai đoạn 3 (1426-1427):Tích cực phát huy những thắng lợi của đấu tranh quân sự thông
qua đấu tranh ngoại giao, kết thúc thắng lợi vẻ vang cuộc kháng chiến (Tổng: 2 điểm)
9
Nguyễn Trãi lợi dụng việc Vương Thông nghị hoà để gửi thư dụ hàng các thành địch nhằm làm tan rã
địch, tạo thêm một sức ép mới đối với cấp trên địch (0,5 điểm)
- Trước tình hình nguy cập, nhà Minh đưa viện binh sang
- Biết quân địch ở ngoài Bắc đang lung túng và được tin viện binh sắp sang, ta quyết định phái
quân tiến ra bắc
- Vừa mới ra bắc, nhận được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, nghĩa quân đã liên tiếp chiến
thắng, giải phóng một vùng rộng lớn ở châu thổ sông Hồng, bao vây Đông Quan, bẻ gẫy một đạo viện
binh của địch
- Chiến thắng tốt động- chúc động đã làm thay đổi cục diện chiến tranh. Vương thông phải bó
tay trong thành ĐÔng Quan, rơi vào thế trí cùng lực kiệt: cố thủ không đến, đánh không được, viện
binh không có =) chỉ còn cách cầu hòa
- Sau một thời gian thương thuyết, hai bên thỏa thuận điều kiện giảng hòa:
o Vương thông phải rút quân về nước, trao trả thành trì cho ta
o Nghĩa quân: khi thành nộp cho ta, ta sẽ nới vây cho đông quan, hỗ trợ quân minh về
nước, nối lại quan hệ giao hảo với nhà Minh
 Vương thông cử người truyền lệnh cho các thành đình chiến, rút quân về đông đô
 Lợi dụng điều đó, nguyễn trãi gửi thư dụ hàng các thành địch, nhằm làm tan rã hàng ngũ địch
và tạo thêm sức ép đối với bọn chỉ huy bên trên
 Kế hoạch thành công, chỉ huy nhiều thành vội mở cửa ra hàng, trao lại thành trì cho nghĩa
quân, lên đường ra đông đô theo hướng dẫn của nghĩa quân
 Thắng lợi này là kinh nghiệm quý báu về kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao
và binh vận trong cuộc đấu tranh giải phóng. Ta không mất một người lính, chẳng mất một mũi tên
mà hạ được hàng loạt thành kiên cố của địch

Giặc phản bội nghị hoà và các hoạt động đấu tranh ngoại giao của nghĩa quân. (0,5 điểm)
- Theo thỏa thuận nghị hòa thì sau khi sứ ta lên đường sang nhà Minh, Vương THông cũng bắt
đầu rút quân về nước. Nhưng hắn cố tình trì hoãn, ngấm ngầm phản bội nghị hòa
- Cùng lúc đó, nhà minh đưa một đạo viện binh lớn do liễu thăng chỉ huy sang VIệt Nam
 nghĩa quân khép chặt vòng vvaay ở đông quan và các thành lũy khác, đồng thời đẩy mạnh tiến
công ngoại giao, tiếp tục dụ hàng địch ở các thành còn lại
- Nhận thức rõ vị trí và vai trò của Vương Thông, nguyễn trãi coi y là đối tượng chính trong đấu
tranh ngoại giao và áp dụng sách lược linh hoạt
o Nguyễn Trãi đã viết thư cho Vương Thông,vừa đề cao vừa phê phán thái độ bội tín của
y, cùng với việc tăng cường uy hiếp địch bằng quân sự thì tiến công ngoại giao vẫn tiếp
tục
o Song song với đó, quân Lam sơn còn tiến hành bao vây, dụ hàng các thành khác nhằm
triệt để cô lập thành Đông Quan => phần lớn các thành đều ra hàng, bọn vẫn ngoan cố
đều bị tiêu diệt bằng quân sự
o Sau khi được tin phía Bắc rơi vào tay nghĩa quân, Vương Thông tỏ ra lo sợ nhưng vẫn
tổ chức những cuộc phản kích bất ngờ. Nguyễn Trãi liền gửi thư vạch mặt những âm
mưu của hắn, khẳng định sự thất bại của hắn là không thể tránh khỏi
 Đến cuối năm 1427, thành Đông quan bị bao vây và tiến công cả về quân sự lẫn ngoại giao.
Vấn đề tiêu diệt hai đạo viện binh sắp sang trở thành nhiệm vụ then chốt của nghĩa quân để kết thúc
chiến tranh

10
Đập tan ý chí xâm lược của giặc, chấm dứt chiến tranh bằng đấu tranh ngoại giao (1 điểm). Trong đó:
- Hội thề Đông Quan (0,5 điểm)
- Nhà minh cho quân tiếp viện do Liễu Thăng và Mộc Thạnh sang nước ta
- Sau khi cân nhắc tinh hình, nghĩa quân quyết định vấn đề diệt viện là nhiệm vụ chủ yếu nhất
đặt ra trước mắt
- Trong khi tích cực và khẩn trương chuẩn bị kế hoạch diện viện bằng quân sự, Nguyễn Trãi vấn
tiến hành đấu tranh ngoại giao:
o Đối với Mộc Thạnh- tên tướng già đã nếm nhiều thất bại ở chiến trường VN, nguyễn trãi
viết thư nhắc lại thực tế tất bại của quân Minh ở VIệt Nam, phân tích sự sụp đổ tất yếu của
mưu đồ xâm lược => mộc thạnh chần chừ, không dám tiến sang nước ta
o Liễu thăng: viết thư dùng lời lẽ nhún nhường, khiến hắn chủ quan, khinh địch => bị ta tiêu
diệt hoàn toàn
- Sau khi đánh bại đạo viện binh chính, Nguyễn trãi lại tiếp tục tấn công ngoại giao:
o Nguyễn trãi vạch cho vươn thông thấy không thể trông đợi vào viện binh nữa
o Gửi thư cho mộc thạnh, kèm theo sắc ấn của bọn tướng lĩnh bị giết => mộc thạnh vội
vã tháo chạy, bị quân ta truy kích, thiệt hại năng nề
- Trước cảnh thế cùng lực kiệt, không còn trông chờ vào viện binh được nữa, Vương Thông xin
hàng, xong ngoan cố không rút quân về
- Nghĩa quân tăng cường sức ép quân sự, kết hợp với tiến công ngoại giao, buộc quân địch chấp
nhận mọi điều kiện của nghĩa quân
- Trước khi rút quân, toàn bộ quan chức địch phải dự hội thề, sau đó mới ấn định thời gian, kế
hoạch cụ thể để rút quân.
- Tại hội thề, đã ấn định 2 việc
o Bọn vương thông có 20 ngày sửa soạn, đến ngày 29/12/1427 phải rút quân về nước
o Lê lợi sẽ cử người mang biểu cầu phong sang triều đình nhà Minh
 Hội thề có ý nghĩa rất lớn. đó là một hình thức buộc địch công khai thừa nhận thất bại trước
đối phương. Là văn kiện đầu hàng của kẻ chiến bại cam kết thực hiện những điều do bên thắng trận đề
ra

Nghệ thuật kết thúc chiến tranh sáng tạo của Lê Lợi, Nguyễn Trãi. (0,5 điểm)
- Sau hội thề, Lê Lợi cử phái bộ sang cầu phong. Ngoài biểu cầu phong và phẩm ật làm quà tặng,
sứ bộ còn đem trả cho nhà minh những vật phẩm, danh sách quân, người, ngựa…thu được trong chiến
tranh
 Việc phái bộ ta mang biểu cầu phong và phẩm vật cùng với các hiện vật thu được của địch,
danh sách tù binh, chứng tỏ thái độ vừa mềm mỏng, vừa biểu lộ tư thế của người chiến thắng, kiên
quyết bảo vệ nền độc lập tự chủ của mình. ĐÓ cũng là một cách cảnh cáo nhà Minh, nếu lại tiến hành
xâm lược sẽ không tránh khói thất bại, hao binh tổ tướng như trước

1.4.4. Bài học kinh nghiệm (1 điểm)

- Đấu tranh ngoại giao là một trong các phương châm đánh địch:
o Đấu tranh ngoại giao là mũi tiến công sắc bén và có hiệu quả.
o Hai mặt quân sự và ngoại giao luôn luôn kết hợp với nhau.

11
o Đối nội, ngoại giao có tác dụng tập hợp các lực lượng yêu nước, khơi động tinh thần dân
tộc.
o Đối ngoại, nó tố cáo tội ác của địch, góp phần phân hóa hàng ngũ địch, tranh thủ dụ hàng
tướng địch, hoặc mở cho địch một lối thoát trong danh dự, kết thúc chiến tranh.
o Bằng đấu tranh ngoại giao khắc phục sự thua kém về lực, tạo cơ hội để xây dựng và phát
triển lực lượng.
o Hoạt động ngoại giao đó phù hợp với dân tộc nhỏ, đất không rộng, người không đông,
chống lại kẻ địch mạnh hơn mình, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh.
- Luôn luôn chủ động và tiến công: Khi tiến công ngoại giao cần phải liên tục và giành thế chủ
động, tranh thủ thời gian hòa hoãn để củng cố lực lượng, tiến công ngoại giao trong bất kỳ hoàn cảnh
nào, không phụ thuộc vào tương quan lực lượng, nhằm những mục đích khác nhau của từng thời kỳ.
- Việc vận dụng sách lược:
o Đấu tranh ngoại giao thành công nhờ vào việc vận dụng các sách lược.
o Dùng ngòi bút như một vũ khí ngoại giao, hay các sách lược khi cương khi nhu, lúc
mềm mỏng, lúc nhún nhường, khi lại phê phán, đả kích.
o Sách lược vừa tiến công quân sự vừa tiến hành hòa đàm, hai mặt này luôn kết hợp với
nhau. Có khi đánh để thương lượng, cũng có lúc vừa đánh vừa hòa đàm, hoặc dùng sức
ép quân sự buộc địch phải thương lượng nhằm mục địch cụ thể.
o Ngoài ra còn phải chọn đúng thời cơ để tiến công ngoại giao có hiệu quả, đồng thời
không bao giờ được ảo tưởng đối với việc thương lượng.
- Trong chiến tranh giải phóng đầu thế kỷ XV, việc vận dụng linh hoạt các sách lược, kết hợp
chặt chẽ giữa đấu tranh ngoại giao và đấu tranh quân sự đã góp phần bắt quân địch phải rút khỏi nước
ta ,giúp đất nước ta được toàn vẹn lãnh thổ.

Câu 4: Đánh giá về chính sách ngoại giao của vương triều Mạc với Trung Quốc. (5 điểm)
1. Cơ sở hoạch định chính sách ngoại giao của nhà Mạc với Trung Quốc
1.1. Bối cảnh trong nước: những khó khăn về chính trị, kinh tế… (0,5 điểm)
- Ngay từ những năm cuối thế kỷ XV, mô hình tổ chức nhà nước cũng như chính sách của triều
Lê Sơ đã bộc lộ những hạn chế và mâu thuânx. Hệ thống quan lại hoàn bị, vốn là công cụ quản lý nhà
nước sắc bén dần biến thành 1 bộ máy quan liêu cồng kềnh. Nạn tham nhũng ngày càng trở nên phổ
biến
- Sang đầu thế kỷ XVI, nhất là từ sau khi Lê uy mục lên ngôi 1505,
o kinh tế, văn hoá, xã hội. chính trị, quân sự ngày càng suy thoái, biểu hiện ra thành
“khủng hoảng xã hội”
o triều đình mất hết vai trò tích cực, vua quan lao vào con đường ăn chơi sa đoạ, áp bức
bóc lột nhân dân.
12
o Chính sự trong triều rối loạn, các thế lực chống đối nổ lên khắp nơi
 Sự nổi lên của các thế lực cát cứ: Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn…đã xảy ra trong tình hình như vây
- 1521 vua Chiêu Tông trốn lên vùng Sơn Tây dựa vào quân lính các trấn chống lại Mạc Đăng
Dung 1525 Chiêu tông bị Đăng Dung bắt và giết, 2 năm sau thì Đăng Dung chính thức lập ra nhà Mạc.
- Nhà Mạc tuy đã thành lập, nhưng cuộc tranh chấp giữa các phe phái tiếp diễn gay gắt các quan
lịa và tướng tá cũ của nhà Lê nổi dậy ở nhiều nơi
 cuộc tranh giành giữa các phe phái đã dẫn đến sự thiết lập 2 chính quyền thù địch: chính quyền
họ Mạc ở Bắc Bộ, đóng đô ở Thăng Long và chính quyền nhà Lê ở vùng Thanh Hóa trở vào, sử gọi là
Bắc Triều và Nam Triều.
1.2. Tình hình nhà Minh thế kỷ XVI và ý định nam chinh (xâm lược Đại Việt) của
Minh Thế Tông. (0,5 điểm)
- Sự kiện lên ngôi của Mạc Đăng Dung đã tạo ra một cái cớ để nhà Minh áp đặt thế lực của
mình: một cuộc viễn chinh trừng phạt hoặc áp đặt thể chế ràng buộc chặt chẽ với triều đình phương
bắc
- Sau năm 1527, nhà Mạc đã rơi vào tình thế đứng trước một cuộc chiến tranh thảo phạt của đế
chế trung hoa
 Tình hình trên không cho phép họ mạc dám chấp nhận chiến tranh với nahf Minh, một cuộc
chiến tranh hao người, tốn của và không thể chiến thắng
 Mạc đăng dung phải tìm lối thoát ở con đường ngoại giao
1.3. Tư tưởng ngoại giao truyền thống với Trung Quốc. (0,5 điểm)
- Chủ trương mềm dẻo, chịu thuần phục, trên danh nghĩa thông qua “sách phong, triều cống”,
nhưng các vương triều nước ta vẫn luôn tỏ ra cứng rắn, không nhân nhượng khi tq núp dưới danh
nghĩa điếu phạt đưa quân xâm lược hoặc can thiệp vào nội bộ nước ta
2. Chính sách ngoại giao
- Để bảo vệ độc lập chủ quyền lãnh thổ, nhà Mạc chỉ chấp nhận sự thần phục có tính nghia thức,
cốt để giặc ngoài không kéo quân vào. Mục đích là tránh cho dân tộc khỏi một cuộc chiến tranh khốc
liệt đang có nguy cơ xảy ra bằng giải pháp hòa bình
a. Giai đoạn 1528-1541
- Ngay sau khi thành lập. nhà Mạc đã chủ động tìm giải pháp thương lượng với nahf Minh.
Tháng 2 năm 1528, nhà mạc sai sứ ang nhà Minh xun được tạm coi việc nước vì con cháu họ lê không
còn ai thừa tự
- Ngoài việc đi sứ, mạc thái tổ còn sai người đút lót, tranh thủ sự đồng tình của các quan vùng
biên giới của nhà Minh

13
- Năm 1529, an hem Trịnh Ngung, trinhgj Ngang sang tố cáo nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê và cầu
viện nhà Minh nhưng bị sự ngăn cản của các quan trấn thủ vùng biên của nhà Minh, do đó ý định của
hai an hem họ trịnh không thực hiện được
- Năm 1537, Minh Thế Tông giao quân cho mao bá ôn chuẩn bị tiến xuống phía nam, Nhà Mạc
ở vào tình thế lưỡng đầu thọ địch. Vua Minh theo chủ trương phô trương thanh thế bên ngoài, kích
động của nội chiến giữa nahf Hậu Lê và nhà mạc, và ép nhà Mjac hàng phục
- Ý định chống cự quân minh của nhà Mạc sớm tiêu tan. Năm 1939, nhà Mjac dâng biểu sang
nhà Minh xin hàng
- Năm 1540, Mạc Đăng Dung cùng các bầy tôi lên cửa ải, tự trói mình đến dâng biểu xin hàng
quân minh với nội dung
o Thoái thác việc họ mạc sang Yên Kinh
o Giao nộp đất gồm 2 đô và 4 động
o Xin ấn tín để được thừa nhận sự cai tị ở An Nam
b. Giai đoạn 1542-1592
- Năm 1542 bắt đầu đánh dấu mốc bình thường hóa trong quan hệ Mạc- Minh. ĐỒ tiến cống từ
giữa thời mạc đổi ra lư hương, bình hoa bằng vàng bạc,
- Năm 1548, đoàn sứ do Lê Quang Bí dẫn đầu sang cầu phong cho vua mới là Mạc Tuyên TÔng
bị nghi ngờ giả mạo đã bị giữ lại
- Thời Mạc Mậu hợp, nhà mạc đã suy yếu, thường thất thế trước quân Nam triều nhà Lê. Nhà
mạc dùng chính sách tăng cường ngoại giao, cống nạp cho nhà Minh để tranh thủ sự ủng hộ khi bị
thất thế, duy trì lệ tiến cống 6 năm 1 lần
2.1. Đánh giá
- Trước đây bị các sử gia phong kiến và nhiều tầng lớp nhân dân phản đối, lên án. (1 điểm)
o Dưới ngòi bút của các sử gia phong kiến thì nhà Mạc bị coi là nhuận triều các các vua
nhà mạc bị coi là kẻ nghịch thần, hoặc những kẻ thoán đoạt
o Hành động tự trói mình, tạ tội, đầu hàng nhà minh của mạc đăng dung ở biên giới năm
1540 bị coi là làm mất thể diện của nước đại việt và hành động giao nộp đất chính là
bán nước
- Hiện nay, các nhà sử học đã có đánh giá khách quan hơn. Cần xem xét chính sách ngoại giao
mà nhà Mạc đã tiến hành với Trung Quốc trong những hoàn cảnh cụ thể. Điều quan trọng là
nhìn vào mục tiêu và kết quả thu được từ chính sách đó. (1 điểm)
o Trong bối cảnh lúc đó, việc này là bắt buộc không còn lựa chọn khác. Ở Thanh Hoa, nhà
Lê đánh ra, tại Tuyên quang, chúa Bầu họ Vũ chưa dẹp được.Phía Bắc, nhà Minh uy hiếp.
Kẻ thù nguy hiểm nhất chính là người phương Bắc. Có lẽ, mạc đăng dung không muốn lặp
14
lại thảm kịch của nhà Hồ sau khi thay ngôi nhà Trần nên buộc phải hành động như vậy, vì
nếu đối đầu, nhà mạc chắc chắn thất bại
o Các nhà nghiên cứu ủng hộ quan điểm này con cho rằng, chính vì hổ thẹn và suy sụp sau
hành động này mà mạc đăng dung, vốn đã ốm và cao tuổi, đã mất không lâu sau đó
o Sự nhẫn nhục của mạc đăng dung không những trực tiếp cứu nhà mạc mà còn giám tiếp
cứu nhà Lê trung hưng, bởi nếu nhà Mạc bị nhà Minh diệt nhà Hồ thì nhà lê cũng sẽ bị nhà
Minh diệt như hậu trần
 Trên mặt trận ngoại giao, nhà Mạc đã phát huy tiềm năng tối đa của tri thức đương thời trong
các hoạt động ngoại giao với các sứ thần với phương bắc, góp phần lớn trong việc giành lại vị thế
quốc gai, quốc thể trước thái độ ngoại giao áp đặt nước lớn
 Tuy còn nhiều điều chưa làm được, song trong bối cảnh chính trị phức tạp, đất nước bị chia cắt
thì việc nối lại quan hệ ngoại giao tránh xung đột và ngoại giao thông thường theo thông lệ với nahf
Minh là những cố gắng đáng kể của triều mạc. Đặc biệt trong đó là hoạt động để tránh xảy ra chiến
tranh
 Bài học được rút ra từ các hoạt động bang giao thành công đó là: hòa hiếu, mềm dẻo để đảm
bảo nền độc lập dân tộc. ĐỒng thời đảm bảo nguyên tắc giữ vững chủ quyền quốc gai, quốc thổ, luôn
sẵn sàng ứng chiến để giữ vững vùng biên cương

Câu 5: Anh (chị) hãy trình bày về đấu tranh ngoại giao của nhà Tây Sơn chống nhà Thanh
trước và sau năm 1789. (5 điểm)
1. Trước năm 1789(tổng:2 điểm)
 Hoàn cả Thế kỉ XVIII, chế độ phong kiến bước vào giai đoạn khủng hoảng sâu sắc và toàn
diện, phong trào đấu tranh nông dân trở thành cao trào, mà đỉnh cao là ohong trào Tây sơn
- Từ căn cứ núi rừng quy nhơn, cuộc khởi nghĩa phát triển thành phong trào nông dân rộng lớn,
mạnh mẽ, không thế lực nào cản nổi
o 1783, nghĩa quân tây sơn tiêu diệt Lực lượng chúa nguyễn, giải phóng đàng trong
o 1786, nghĩa quân lạt đổ nhà Trịnh, đưa nhà Lê nên ngôi vua
 11/1788, 29 vạn quân Thanh kéo vào xâm lược Việt Nam (0,25 điểm)
- Năm 1788, Lê Chiêu Thống cho người sang cầu cứu quân Thanh
- Nhân bọn vua tôi nhà Lê sang cầu viện, nhà Thanh liền chộp lấy cơ hội để thực hiện mưu đồ
thôn tính nước ta
 25/11/1788, đội quân xâm lược THanh gồm 20 vạn tên, chia làm ba mũi nhằm hướng Thăng
Long kéo vào xâm lược Việt Nam
- Cùng lúc xuất quân,
o Tôn Sĩ Nghị nêu danh nghĩa phù lê diệt tây sơn nhằm che đậy hành vi xâm lược,
o lôi kéo những sĩ phu, quan lại còn trung thành với nhà Lê
o làm hịch trao cho quan lại nhà Lê trong nước, xui giục nhân dân chống lại tây sơn

15
 nhà thanh đã chuẩn bị kế hoạch khá chu đáo và nham hiểm để xâm lược ndước ta
 Quân Tây Sơn một mặt tích cực chuẩn bị lực lượng, một mặt đẩy mạnh công tác chính trị,
ngoại giao nhằm biến ưu thế chính trị kết hợp với sức mạnh quân sự tạo thành sức mạnh tổng hợp
đánh tan quân Thanh. (0,25 điểm)
- Được tin quân Thanh tiến đến biên giới,
o các tướng lĩnh Tây Sơn họp bàn kế hoach đối phó với địch: dựa vào phân tích tình hình
giữa ta và địch, nghĩa quân đã quyết định rút lui để xây dựng lực lượng
o mặt khác, để làm kế hoãn binh, ho9j đã cử đoàn sứ bộ gồm một số quan lại cũ của nhà
Lê tới biên ải trao cho Tôn Sĩ Nghị
o gửi thư đại ý Bắc Hà vẫn do nhà Lê cai trị
 đó là hành động ngoại giao nhằm bác bỏ chiêu bài phù Lê của quân Thanh và xác định chủ
quyền lãnh thổ nước ta
- phản ứng của ta
o Cùng với rút lui chiến lược về Tam Điệp, Biện Sơn, các tướng lĩnh Tây Sơn dụ địch đi
sâu vào đất liền để bộc lộ bộ mặt xâm lược. (0,25 điểm).
o Xin nghị hòa để làm kế hoãn binh và làm tăng sự kiêu căng của các tướng Thanh
o Ta còn cho người chặm địch ở mạn sông Cầu nhằm kìm bước tiến của quân Thanh vào
Thăng Long
- 25/11/1788, để làm sáng tỏ danh nghĩa đối với cả nước, sáng tỏ trách nhiệm của mình đối với
toàn dân, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, hiệu Quang Trung

Phân tích Chiếu lên ngôi (0,5 điểm)


- Trong chiếu lên ngôi, Nguyễn Huệ
o Nói rõ ý nguyện dấy binh khởi nghĩa trừ loạn, đem lại cuộc sống thanh bình
o Vạch trần sự thối nát của nhà Lê và nói rõ trách nhiệm của ông với dân, với nước
o Khẳng định quyền tự chủ của dân tộc ta
 Việc lên ngôi của Nguyễn Huệ là ứng mệnh trời, thuận lòng người. Xác định chủ quyền của
nước ta, cuộc đấu tranh là nhằm bảo vệ nền độc lập, tự do dân tộc.
 Nó phủ định hoàn toàn ngôi vua của Lê Chiêu Thống và chỉ rõ chiêu bài Phù lê diệt Tây sơn
chỉ là che đậy hành động xâm lược của quân Thanh
 25/1/1789 Quang Trung mở tiệc khao quân. Sáng 30/1/1789 tiến vào giải phóng Thăng
Long.Thắng lợi của Tây Sơn chống xâm lược Thanh là thắng lợi về sự kết hợp giữa sức mạnh quân sự
và chính trị, ngoại giao; dựa vào sức mạnh quân sự để giáng cho địch những đòn quyết định, đồng
thời đẩy mạnh cộng tác vận động chính trị và ngoại giao để giành ngọn cờ chính nghĩa, đoàn kết toàn
dân, vạch trần âm mưu xâm lược của giặc. (0,5 điểm).
2. Sau năm 1789: Đấu tranh ngoại giao nhằm ngăn chặn ý đồ phục thù của nhà Thanh
(tổng: 2 điểm)
a. Phát huy thắng lợi quân sự, tiếp tục tiến công ngoại giao (0,5 điểm)
- Sau khi đánh đuổi quân Thanh, ta tung tin quân đội Tây Sơn sẽ vượt biên giới đi sâu vào nội
địa Trung Quốc truy nã bọn bán nước Lê Chiêu THống, tạo sự bất ổn, sợ hãi tại vùng biên giới
- Tiếp đó, ta ngăn chặn âm mưu phục thù của 50 vạn quân thanh, mong muốn gây lại tình hòa
hiếu giữa hai nước, lựa chọn thời cơ giao thiệp giữa hai nước

16
 Hành động để ngỏ cửa cho nhà Thanh hòa giải với ta mà không mất thể diện của nước lớn, còn
ta có cái thế của kẻ chiến thắng nên đấu tranh ngoại giao có chỗ dựa vững chắc
+ Trong đấu tranh ngoại giao với nhà Thanh, vua Quang Trung đã giành được thắng lợi bước đầu.
Nhà Thanh buộc phải bãi binh và hứa phong vương cho Quang Trung, tức là thừa nhận về mặt pháp
lý triều vua Quang Trung là chính thống ở Việt Nam.Quan hệ giữa hai nước Việt- Trung bước đầu
được cải thiện
b. Những hoạt động ngoại giao nhằm tỏ rõ uy thế là 1 vương triều độc lập và đánh bại
hoàn toàn âm mưu phục thù của nhà Thanh
- Sự kiện Ngô Thì Nhậm cho người giả làm Nguyễn Huệ đứng ra nhận chiếu phong vương ở
Thăng Long (11/17890
o Sứ thanh đến Thăng Long yêu cầu QUang trung từ Phú Xuân ra Thăng Long nhận chiếu.
o Vua Quang Trung không chịu ra, thác rằng Thăng Long là kinh đô cũ của triêu Lê, vương khí
đã hết, trong khi đó sứ Thanh không chịu vào Nghệ An làm lễ
o Do đó Ngô Thì Nhậm bàn với sứ Thanh cho người đóng giả vua, sứ Thanh buộc phải chấp
nhận
 Việc Quang Trung được phong vương cho thấy triều Lê không còn cơ sở pháp lý để tồn tại,
nhà Thanh không còn chỗ dựa để tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược mới
- Sự kiện phái bộ Quang Trung giả sang sự lễ mừng sinh nhật 80 tuổi của Càn Long.
o Đoàn được tiếp đón rất long trọng, ban chiếu, tặng thơ, tặng phẩm quý
 Hoạt động của phái đoàn Quang Trung giả đã có ảnh hưởng lớn tới thái độ chính trị và tinh
thần hoà hảo của triều đình nhà Thanh.Âm mưu phục thù của triều đình nhà Thanh chính thức
từ sự kiện này đã bị loại bỏ hoàn toàn. (0,5 điểm)
Tiếp tục đấu tranh ngoại giao nhằm thu hồi toàn bộ lãnh thổ (0,5 điểm)
- Chủ trương
o tiếp tục tiến công ngoại giao với nhà Thanh,
o mặt khác khuyến khích, dung nạp các lực lượng chống Thanh để họ trở về quấy rối nội
địa trung quốc,
o liên kết với toán nghĩa quân Tề Ngôi, phô trương thanh thế, uy hiếp các miền duyên hải
Trung Quốc
 Nhà thanh
o lúng túng không thể lợi dụng đục nước béo cò, k can thiệp vào nội tình nước ta
o tìm cách dàn xếp với Việt Nam, khôi phục quan hệ láng giềng
- Một mặt, ta trấn áp, tiêu diệt bọn phản động còn lén lút hoạt động trong nước
- Vua QUang Trung còn cử sứ sang đòi hai tỉnh quảng tây và quảng đông và cầu hôn công chúa
nhà thanh. TUy nhiên việc chưa thành vì vua Quang Trung mất
3. Bài học kinh nghiệm (1 điểm)
- Kết hợp đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao là phương châm nhất quán và nét độc đáo
của thời Tây Sơn.
o Những hành động quân sự của vua Quang Trung sau chiến dịch Thăng Long là sự
chuyển tiếp từ phương thức tiến công quân sự sang phương thức tiến công ngoại giao.

17
o Nội dung thư văn giao thiệp với bọn quan lại nhà Thanh cũng như các loại biểu gửi Càn
Long đều thể hiện tinh thần tiến công và biểu thị thái độ cứng rắn của ngoại giao thời
Quang Trung
- Ngoại giao cứng rắn, liên tục tiến công địch. QUang trung không mảy may nhượng bộ, chỉ có
tiến công, yêu sách sau cao hơn yêu sách trước, địch chỉ có lùi và chấp nhận mọi yêu sách từ
nhỏ đến lớn của ta
- Ngoại giao không những gạt được mọi âm mưu của địch, mà buộc chúng phải nhân nhượng,
cuối cùng từ bỏ ý đồ phục thù, xâm lược lại nước ta. Đó là những thắng lợi rực rỡ mà không
triều đại nào sánh được với thời vua Quang Trung

Câu 6: Phân tích, đánh giá chính sách ngoại giao của Việt Nam – Xiêm nửa đầu thế kỷ XIX. (5
điểm)
1. Cơ sở hoạch định chính sách (1,5 điểm)
Thực tiễn trong nước. (0,5 điểm)
- Sau khi tập đoàn Nguyễn Ánh đánh bại vương triều Tây Sơn, VIệt Nam bắt đầu trở thành đất
nước thống nhất và hòa bình sau 300 năm phân tranh và nội chiến
- Nguyễn Ánh lên ngôi, bắt đầu vương triều nhà Nguyễn, dùng hệ thống chuyên chính để khẳng
định vương triều mà thống nhất quốc gia
- Các vua thời nhà Nguyễn liên tiếp kế vị nhau xây dựng và củng cố nền thống trị, bảo vệ chế độ
phong kiến trong bối cảnh khủng hoảng và suy vong
- Tuy nhiên, thời kỳ này việt nam không đi lên theo xu hướng của thời địa, mâu thuẫn xã hội sâu
sắc làm bùng lên hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nông dân
Tình hình khu vực. (0,5 điểm)
- Xiêm la nửa đầu thế kỉ 19 phát triển mãnh mẽ về kinh tế, mở rộng ngoại thương, tăng cường
sức mạnh quân sự, nâng cao vị thế của đất nước với các nước trong cùng khu vực
- Khu vực Đông nam á thời kỳ này cũng có nhiều bất ổn:quan hệ giữa Xiêm với Vạn tượng,
Chân Lạp, Miến điện chứa đừng nhiều mâu thuẫn, có nguy cơ dẫn đến chiến tranh
Quan hệ Việt – Xiêm nửa đầu thế kỷ XIX là quan hệ giữa hai nước có tương quan thực lực
quân bình. (0,5 điểm)
- Việt nam và Xiêm la trở thành 2 cức quyền lực chi phối tình hình chính trị ở Đông Dương: lào
và Campuchia vốn là chư hầu của xiêm cũng đã xin thần phục và triều cống VN
- Thời kỳ này, có thể đánh giá cả Việt Nam và Xiêm La đều là hai quốc gia phát triển hơn hẳn
so với các nước khác trong khu vực => quan hệ giữa Việt Nam và Xiêm là mối quan hệ giữa hai nước
có tương quan lực lượng quân bình
5. Hoạt động ngoại giao chủ yếu (1,5 điểm)
- Trước khi lên ngôi vua, Nguyễn Ánh đã nhiều năm sống lưu vong ở Xiêm, được Xiêm giúp đỡ
về nhiều mặt để chống lại phong trào Tây Sơn. Do vậy, quan hệ hai nước trong thời gian đầu là thân
thiện
- nhưng sau đó, do cả hai nước đều muốn nắm lấy Xao Miên làm “đất phên đậu” của mình, thậm
chí nếu có cơ hội thuận lợi thì sáp nhập vào lãnh thổ, nên cả hai phía đều trong thế kìm giữ lẫn nhau
- mối quan hệ giữa Việt Nam và Xiêm trong suốt thời kỳ này khá phát triển, nhưng chủ yếu trên
lĩnh vực hcinhs trị, ngoại giao, còn trên bình diện kinh tế, văn hóa chưa nhiều
18
a. Giao lưu kinh tế - văn hóa. (0,5 điểm)
- Giao lưu kinh tế- văn hóa chưa nhiều, do Việt Nam thi hành chính sách bế quan tỏa cảng. Đây
cũng là một trong những lí do khiến VIệt Nam trở thành thuộc địa của Pháp
- 1876: vua sai sứ sang Xiêm, có một số thanh niên trẻ tuổi đi theo để học chữ và tiếng nói. Vua
xiêm đã nhân cơ hội để giao hiếu
b. bàn bạc những vấn đề liên quan đến 2 nước (chính trị, an ninh…). (0,5 điểm)
- 1802,Gia long lên ngôi hoàng đế, nước Xiêm cho sứ giả đem quốc thư sang mừng. Đáp lại, ta
cũng sai sứ ang xiêm thông hiếu và tặng qua cho an hem vua xiêm
- 1811: xiêm tấn công Chân Lạp, vua gia long đã sai sứ sang trách xiêm về việc này, nhưng nhìn
chung quan hệ hai nước vẫn suôn sẻ
- Năm 1817, vua Xiêm thứ hai chế t, vua Gia Long la ̣i sai sứ sang tă ̣ng quà vua thứ nhấ t và
phúng vua thứ hai rấ t chu đáo
- Năm 1824, Xiêm cho sứ sang triề u đình Huế báo tin vua Xiêm mấ t, vua
Minḥ Mê ̣nh đã baĩ triề u ba ngày, mô ̣t điề u chưa từng có tro ̣ng lich
̣ sử ngoa ̣i giao giữa hai quố c giam
- Tuy nhiên, do những tác động khách quan và chủ quan, trong thời gian này, quan hệ giwuax
hai nước ngày càng căng thẳng và dẫn đến xung đột vũ trang, nhưng vẫn chưa hoàn toàn cắt đứt ngoại
giao:
o Năm 1827, Xiêm xâm lươ ̣c Bắ c Lào.
o Vua Lào cha ̣y sang Viê ̣t Nam cầ u viê ̣n.
o Minh Mê ̣nh cho quân sang giúp Lào.
o Cuô ̣c xung đô ̣t vũ trang Viê ̣t – Xiêm bắ t đầ u và xảy ra trên đấ t Lào.
o Năm 1832, Xiêm cho sứ sang Viê ̣t Nam báo tang, Minh Mê ̣nh đã cho sứ sang Xiêm
phúng viế ng
- 1833, Lê văn khôi dấy binh chống lại triều đình nhà Nguyễn ở Gia Định, đã sang cầu viện
Xiêm, nhân cơ hội đó, vua XIêm đã cửa 5 vạn quân sang đãnh VIệt Nam. Triều đình nhà Nguyễn phải
điều một lực lượng lớn quân đội để chống đỡ và giành chiến thắng. QUan hệ ngoại giao VIệt- XIêm
từ đây chấm dứt
- Vấn đề cao mien
o 1840-1841: Xiêm tấn công Cao Miên, giữa XIêm và VIệt lại xung đột quân sự tại cao
miên do cả hai đều muốn giành quyền bảo hộ nước này
o Năm 1845, đại diện hai nước thỏa ước rút quân
o Cao miên triều cống 3 năm 1 lần cho cả 2 nước
c. Vấn đề cứu giúp người bị nạn, mốc son trong quan hệ giữa hai nước. (0,5 điểm)
- Sau khi vấn đề tranh chấp nửa đầu thế kỉ XIX được giải quyết, chính quyền hai nước cùng
nhau tìm mọi cơ hội để giao hiếu
- 1857, có 20 người kinh xiêu dạt đế xiêm đề được cấp lương thực rồi đưa về
- Trước hành động đó, ta cũng đã trả các thứ khí giới và súng mà trước đây đã lấy được của
xiêm
 Đây là mốc son trong mối quan hệ giữa hai nước. Nhờ cứu người bị nạn mà mối quan hệ mâu
thuẫn trong thời gian dài của hai nước được nối lại, trở nên gắn bó hơn
- 1876: vua Tự Đức sai sứ sang Xiêm, có một số thanh niên trẻ tuổi đi theo học chữ, tiếng nói.
Vua xiêm đã nhân cơ hội để giao hiếu, tỏ rõ ý muốn từ nay về sau hai nước giao hảo với nhau lâu dài

19
6. Đánh giá (2 điểm)
- Gia Long: thực thi đường lối ngoại giao hợp lý, tỏ thiện chí với Xiêm. Đặc trưng của đường lối
ngoại giao với Xiêm là tinh thần đối ngoại thận trọng nhưng linh hoạt, mềm dẻo (có điều kiện và
nguyên tắc). (0,5 điểm)
- Minh Mạng: Tiếp nối phương sách của vua cha nhưng vì những thay đổi của tình hình: mâu
thuẫn và xung đột trong quan hệ với vạn ượng và Chân Lạp nên việc thực hiện đường lối ngoại giao
với Xiêm ít mềm dẻo hơn. (0,5 điểm)
- Kể từ 1847 trở về sau, quan hệ Việt – Xiêm bình thường cho đến khi thực dân Pháp chiếm
Việt Nam thì quan hệ 2 nước chuyển sang một thời kỳ lích sử khác. (0,5 điểm)
- Về cơ bản, quan hệ ngoại giao Việt – Xiêm nửa đầu thế kỷ XIX được các vua Nguyễn cố gắng
giữ gìn và phát triển truyền thống hòa hiếu vốn có từ trong lịch sử 2 nước. Những vấn đề bất đồng về
vấn đề Vạn Tượng và Chân Lạp là trở ngại cho quan hệ Việt – Xiêm. (0,5 điểm)

Câu 7: Phân tích, đánh giá về chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn với Vạn Tượng. (5 điểm)
1. Cơ sở hoạch định chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn với Vạn Tượng (1 điểm)
Thực tiễn đất nước
- 1802: Ngueyenx Ánh lên ngôi vua, đặt niên hiệu là gia long, đóng đo ở huế- mở đầu thời kỳ
nhà Nguyễn với 13 đời vua, kéo dài 143 năm => đây là thời kỳ đầy biến động vafp hân hóa sâu sắc
trong lịch sử
- Việt Nam lúc dó có cương vực lãnh thổ rộng lớn: giáp Thanh, vạn tượng, chân lạp, Xiêm =>
cần môi trường ổnđịnh để xây dựng đất nước, bảo vệ biên cương và chủ quyền
Thực tiễn khu vực
- Chính sách nước lớn bá quyền của XIêm- “chủ nghĩa đại thái” => xiêm muốn bành trướng
lãnh thổ và đe dọa đến chủ quyền các nước láng giềng
- Vạn tượng đang trong thời kỳ suy yếu, khủng hoàng trầm trọng: không làm chủ được mình,
không còn khả năng thi hành một đường lối ngoại giao độc lập
 Trở thành đối tượng của giai cấp phong kiến xiêm đầy tham vọng
 Buộc phải dựa vào thế lực bên ngoài để chống lại sự bành trướng của Xiêm
2. Chính sách (2 điểm)
Đầu thế kỷ XIX, khi Gia Long giành thắng lợi, Vạn Tượng tìm cách thiết lập quan hệ ngoại giao với
nhà Nguyễn dưới hình thức “xưng thần”, tranh thủ mối quan hệ này để xây dựng, phát triển lực
lượng nhằm thoát khỏi ảnh hưởng và sức ép của Xiêm.
- Đầu thế kỉ XIX, lào vẫn bị chia cắt và nằm dưới sự thống trị của XIêm. Các mường Lào
thường có xu hướng dựa vào việt nam để chống lại XIêm nên thường xuyên cử sứ giả đển VIệt Nam
o 1802, khi vua gia long lên ngôi hoàng đê,s các tiểu quốc Vạn tượng, Nam chưởng,
lương mang, và các mường phía nam lào đều sai sứ đến chúc mừng
o 1805: quốc trưởng Vạn tượng vừa lên ngôi đã sai sứ sang cống
o 1809: nước Vạn tượng sai sứ dâng thư xin cho dân Lào ở Trấn Ninh trước theo Chiêu
Nội sang VIệt Nam lánh nạn ở đất Trà lân được trở về, nhưng không được chấp nhận
20
o 1802- 1924: để chuẩn bị luwjcl ượng chống XIêm và cũng muốn dựa vào triều Nguyễn,
Quốc trưởng vạn tượng đã 8 lần sai sứ sang việt nam
- Triều Ngueyenx cũng muốn tạo ảnh hướng lớn đối với vạn tượng trong việc chống tham vọng
đông tiến của xiêm, nên thường hậu đãi sứ giả và tặng nhiều quà quý cho vua vạn tượng. Vua gia
long: “vạn tượng là nước phên đậu miền thượng đạo của nước ta”
Sự kiện năm 1827, Vạn Tượng thất bại trong cuộc chiến tranh với Xiêm, chạy sang Việt Nam cầu
viện. Minh Mạng chọn giải pháp trung lập.
- 1827,
o XIêm đánh chiếm Nam Chưởng và Trấn Ninh, Chiêu nội xin đem đất này nội thuộc vào
việt nam. => Vua minh mệnh phong cho Chiêu Nội chức phòng ngự sứ đất Trấn Ninh
cai quản 7 huyện
o Vua vạn tượng chạy sang VN cầu cứu triều nguyễn, vua minh mệnh cho quân sang cứu
- 1828, vua Vạn Tượng lại sang xin cầu viện, vua minh mệnh tuy đồng ý nhưng tỏ ra thận trọng
hơn: không cho quân sang cứu viện mà chỉ lệnh cho các trấn và hạt ở Vạn tượng phòng bị cẩn thận,
đề phòng xâm lược => giải pháp trung lập
- 1829: nhân cơ hội Vạn Tượng cầu cứ, vua Minh Mệnh sáp nhật luôn vào bản đồ Việt nam cả
một vùng trấn định, trấn biên, traanhs tĩnh, lạc biê
- 1831, Vạn Tượng bị Xiêm trực tiếp thống trị-> quan hệ VN- Vạn Tượng bị gián đoạn.
- Sauk hi pháp xâm lược Việt Nam và Lào, một phong trào chống pháp bùng lên sôi nổi ở cả hai
nước. Liên minh chiến dấu Việt- Lào được xây dựng và thể hiện khá rõ trong phong trào cần vương
3. Đánh giá chính sách (2 điểm)
- Gia Long: thực hiện đường lối đối ngoại thật sự “nhu viễn” với Vạn Tượng.
- Minh Mạng:
o đã lung túng trong việc xử lý mối quan hệ tay ba kể từ khi chiến tranh Vạn Tượng-
Xiêm bùng nổ. Chọn giải pháp “nhẫn nại hòa dịu => bị lên án, song phải nhìn vào hoàn
cảnh
o Mục tiêu: “không muốn dùng việc binh đao, cứ dùng lời nói ngọt mà trang trải mọi việc”
o Minh mạng giúp đỡ vạn tượng, một mặt cũng cư xử khéo léo nhưng kiên quyết với
XIêm La: một mặt cho quân giúp sức vạn tượng, một mặt gửi thư cho xiêm la, khẳng
định vạn tượng là tôi hai nước
 Minh Mạng đã giữ được hòa hiếu với láng giếng Xiêm La, cũng không thể hiện sự kẻ cả với
nước mình thần phục là Vạn Tượng
- Hạn chế: phương cách thực thi chính sách

Câu 10: Trình bày quan hệ ngoại giao Việt Nam – Pháp từ năm 1802-1858. (5 điểm)
Trước làn sóng xâm nhập ồ ạt của tư bản Âu- Mỹ vào phương Đông, VN nửa đầu thế kỷ XIX thực
hiện đường lối ngoại giao “không phương Tây”(0,5 điểm)
- Các đời vua đều từ chối thông thương với các thuyền buôn phương Tây,:
o 1844: vưa Thiệu Trị không tiếp hai tàu chiến của Anh
o 1855: vua Tự Đức lấy cớ bất đồng văn hóa không thông thương với tàu buôn anh

21
1. Dưới triều Gia Long, đường lối trên được thực thi một cách ôn hoà, khéo léo, ông trở nên dè
chừng quan hệ chính thức với Pháp nhưng không làm mất lòng người Pháp. (0,5 điểm)
- Sauk hi lên ngôi hoàng đế, Gia Long đã trả ơn cho những người pháp đã giúp đỡ ông bằng
cách giữ lại vài người làm quan trong triều , ban cho các chức quan cao cấp, được ban cho nhiều đặc
quyền
- 1817,1819 hai tàu buôn của Pháp tới Đà nẵng, được vua gia long đối xử tốt: miễn hoàn toàn
thuế nhập cảng, ký kết mua hàng, , khi về còn chở nhiều hàng quý của ta như trà, bạc nén….
- Cũng năm 1817, Chiến hạm Cybele được đặc phái sang Việt nam, khi cập bến Đà Nẵng, nhờ 2
quan pháp vận động để Gia Long tiếp phái bộ ở Huế, triều đình viện cớ phái viên Pháp không có quốc
thư đã không nhận tặng phẩm và không cho phép chỉ huy tầu đến gặp gia long
 Lúc này, triều đình Huế đã có phần lo ngại những cuộc viếng thăm của các phái viên, các tàu
buôn và chiến hạm pháp
2. Minh Mạng:
- trong những năm đầu ông vẫn giữ quan hệ bình thường với người Pháp, trung thành với đường
lối ngoại giao ôn hòa mà vua cha đã hoạch định. Cho đến trước 1825 việc buôn bán và truyền đạo
chưa bị ông ngăn cấm.
- Tuy nhiên ông từ chối ký kết những văn bản chính thức với Pháp trên tất cả các lĩnh vực kinh
tế, ngoại giao.
o 1821, nhận được quốc thu điều đình thông thương từ lãnh sự pháp, vua minh mãng đã trả khéo
léo từ chối => có phần nghi ngại đối với pháp và có thái độ cương quyết hơn Gia Long trong việc tiếp
xúc với người Pháp
- Người Pháp liên tục cử người sang VN mong đạt được thoả thuận trên lĩnh vực kinh tế với
triều đình Huế. Nhưng đến 1832 trở đi thì Pháp không tìm được cơ hội giao thương và tiếp xúc chính
trị với VN nữa. (0,5 điểm)
o 1822, tàu chiến pháp tới đà nẵng, muốn được yết kiến minh mệnh, bị từ chối
o 1825, hai tàu chiến khác cập cảng đà nẵng, đem vật phẩm và quốc thư của vua Pháp,
xin yết kiến, vua Minh Mệnh từ chối không tiếp, không nhận quà tặng
o 1826,1832: chính phủ pháp cử người sang làm lãnh sự của Việt Nam, nhưng không
được vua minh mệnh chấp nhận
- Đối với việc truyền đạo, vào 1825,1833,1836, Minh Mạng ra chỉ dụ cấm đạo và đối xử tàn
nhẫn với các giáo sĩ Pháp vì càng ngày ông càng nhận ra những hành động “do thám ngoại quốc” của
các giáo sĩ. (0,5 điểm)
o 1825: tàu pháp để lại giáo sĩ truyền đạo trái phép.liền sau đó DỤ cấm đạo lần thứ nhất
được ban hành, kèm theo đó là chỉ thị với quan lại địa phương phải tăng cường vùng
duyên hải, rừng núi
o 1833: trước tình hình giáo sĩ phương Tây ngày càng đẩy mạnh việc truyền đạo, vua
minh mệnh ban hành dụ cấm đạo lần thứ 2, nghiêm khắc trừng phạt những người dân
theo đạo, khủng bố, giam cầm, giết hại các giáo sĩ ngoại quốc
o 1838: vua Minh mệnh cử một đoàn sứ bộ sang pháp và anh để điều đình về vấn đề
truyền giáo nhưng không được tiếp

22
- Nguyên nhân chính: thời kỳ trị vì của Minh Mạng (1820-1840) hoàn cảnh lịch sử trong và
ngoài nước có nhiều thay đổi. Áp lực từ các nước phương Tây gia tăng. Chính vì thế đường lối ngoại
giao ôn hoà không còn phù hợp. Thay vào đó là chính sách ngoại giao phòng thủ.(0,5 điểm)
- Từ cuối 1839 trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình, Minh Mạng bắt đầu tiến hành các
bước thăm dò để đi đến một chính sách hợp tác với phương Tây. (0,5 điểm)
3. Thiệu Trị
- 1841, thiệu trị lên ngôi, tình hình trong nước và khu vực có nhiều biến động. Quan hệ ngoại
giao hoà bình trước đó không còn nữa. Nhiều trường hợp xung đột vũ trang xảy ra.
o Ngay sau khi thiệu trị lên ngôi, đã có một tàu pháp vào đà năng dò la thái độ chính tị
của vua mới
o 1843, Pháp cử chiến hạm đòi triều đình Huế thả 5 giáo sĩ đang bị giam giữ và được
nhượng bộ, nhưng họ lại bí mật quay vào đất liền, lén lút hoạt động truyền đạo
o 1844: giám mục Lefebre cùng một nhóm giáo sĩ ở gia định âm mưu lật đổ triều đình
thiệu trị nhưng bị lộ, bị bắt và kết tột tử hình
o 1845: chiến hạm pháp vào đà nẵng, triều đình huế phải thả người, nhưng lefebre vẫn
lén lút ở việt nam hoạt động và bị bắt vào năm 1846
- Thiệu trị biết rõ dã tâm của Pháp muốn xâm lược Việt Nam, cũng biết rõ thế yếu của mình nên
không muốn pháp có cớ sinh sự.
- Dù vậy, pháp vẫn cho 2 chiến hạm đòi triều đình huế bỏ cấm đạo. Khi không nhận được sự
đồng tình của nhà Nguyễn, chúng đã nổ súng bắn chìm 5 tàu của triều đình
 Trước hành động đó, vua Thiệu Trị một mặt cấm người ngoại quốc vào giảng đạo, trị tội người
theo đạo, một mặt gấp rút xây dựng thành lũy và tăng cường phòng thủ nơi hiểm yếu
4. Dưới thời Tự Đức,
- Trước hoạt động của giáo sĩ ngày càng mạnh, tự đức ban hành hai dụ cấm đao với nhiều quy
định khắc nghiệt
- tham vọng xâm lược VN của đế quốc Pháp trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ.
o Từ 1852, pháp cho chiến hạm tới thăm dò các vùng biển của Việt Nam
o 1856, pháp cho tàu chiến mang quốc thư sang việt nam, triều đình huế lo ngại nên
không tiếp => tàu pháp nổ súng bắn phá đồn lũy
- 1857: đại sứ pháp đưa quốc thư xin tự do thông thường và truyền giáo, vua tự đức không chấp
nhận, và ban hành dụ cấm đạo, mở đầu cho thời kỳ tàn sát mới, tạo thêm lý do cho tư bản nước ngoài
có cớ phát động chiến tranh xâm lược việt nam
- Từ 1857. Napoleon lập Hội đồng nam kì, chuẩn bị dánh chiếm miền nam việt nam, bắt đầu
đem quân đánh chiếm đà nẵng
- 1858 Pháp nổ súng xâm lược VN, quan hệ VN- Pháp chuyển sang một giai đoạn khác, quan hệ
2 nước thành quan hệ đối kháng giữa nước đi xâm lược và nước bị xâm lược. (0,5 điểm)
 Kết luận: quan hệ Việt Nam- Pháp nửa đầu thế kỷ XIXphản ánh trung thực và tiêu biểu quan
hệ giữa một nước phongkiến Châu Á với một nước tư bản phương Tây. Triều Nguyễn cũng giống như
một số nước khác trong khu vực như Trung Quốcthực hiện đường lối ngoại giao “đóng cửa”. (0,5
điểm)

23
Câu 11: Quan điểm của anh/chị về nhận xét: Ngoại giao của nhà Nguyễn với các nước Âu – Mỹ
là ngoại giao bị động, sai lầm. (5 điểm)
1. Trước làn sóng xâm nhập ồ ạt của tư bản Âu- Mỹ vào phương Đông, VN nửa đầu thế kỷ XIX
thực hiện đường lối ngoại giao “không phương Tây”(1 điểm)
a. Với phái bộ Anh
- 1803, vua Anh cử sứ thần sang Việt Nam thông hiếu, đưa quà tặng và xin được mở cửa hiệu
buôn bán ở trà sơn nhưng không được chấp nhận
- 1804: vua Anh lại cử sứ đưa thư, quà tặng sang và xin mở hiệu buôn tại đà nẵng, bị từ chối
- 1822, tàu buôn anh đến cảng đà nẵng xin thông thương, bị minh mạng từ chối
- 1844, hai tàu chiến ánh tới cửa Hàn và muốn đến huế trình quốc thưa, đề nghị được đóng đồn
trền bờ với điều kiện treo cờ cả hai nước, cùng nhau lập thương ước liên minh quân sự. Vua thiệu trị
ko tiếp
- 1955, tùa Anh đến xin thông thương nhưng Tự đức từ chối vì bất hòa văn hóa
b. Với phái bộ của mĩ
- 1819,1832, tàu mỹ đến xin trình quốc thư để xin thông thương. Vua Minh Mạng cử người vào
phú yên để bàn bạc với quan lại địa phương, dò xét thái độ của phái đoàn Mỹ
- 1835, minh mạng ra lệnh cho các tỉnh ven biển, khi thấy tàu ngoại quốc đến ghé đậu thì phải
đem thông ngôn tới xét hỏi. Chỉ cho phép tàu buôn phương tây vào đậu và buôn bán ở đà nắng, cấm
không cho buôn bán ở nơi khác
- 1850, vàu mỹ đến đà nẵng xin thông thương nhưng bị vua TỰ Đức từ chối vì bất đồng vh
c. Với Pháp
- Nhiều lần ko tiếp (như câu 10)
- 1862, triều đình huế đã thỏa hiệp với pháp, theo đó, dâng trọn 3 tỉnh Nam kỳ cho pháp, cho
pháp tự do buôn bán và truyền đạo => mở ra thời kỳ mới
1. Hậu quả: Mất nước. (1 điểm)
2. So sánh đường lối ngoại giao với phương Tây của một số quốc gia trong khu vực cùng
thời điểm. (1 điểm)
- Khác với các nước trong khu vực, trong quan hệ với các nước phương Tây thời cận đại, vương
quốc Xiêm là nước duy nhất thực hiện chính sách mở cửa rộng rãi. Chính sách mở cửa cho phép các
thương nhân phương Tây đến giao lưu buôn bán và các giáo sĩ đến truyền đạo được coi là trục chính
trong chính sách đối ngoại của triều đình phong kiến xiêm thời cận đại => các nước phương tây lần
lượt đến xiêm để thiết lập mối quan hệ giao lưu buôn bán và truyền đạo
- Những năm đầu thế kỉ XIX, lợi dụng cacsn ước châu âu đang phải đương đầu với các cuộc
chiến tranh, Xiêm dấy lên phong trào tẩy chay hàng hóa nước ngoài và chống lại sự lũng đoạn của các
nước tư bản Hà Lan, Anh và phpas
- Nhân lúc anh, pháp bận chiến tranh ở châu âu, xiêm phát động chiến tranh xâm chiếm lãnh thổ
của Cam và Lào, mở rộng lãnh thổ đến 2 lần, tạo ra tiềm lực, sức mạnh, đem đến tình thế chủ động
trong việc kí kết các hiệp ước với phương tây, đặc biệt là ANh
 Rõ ràng, trong những năm đầu thế kỉ XX, Xiêm đã tận dụng được tối đa lợi thế so sánh trong
quan hệ với các nước phương Tây để một mặt mở rộng phạm vi ảnh hưởng, một mặt hạn chế tầm ảnh
hướng của phương tây
- Xiêm kí một loạt các hiệp ước với Anh, Pháp, Mĩ về thương mại, hàng hải….

24
 Bằng việc ký các hiệp ước trên, XIêm hy vọng một mặt sẽ duy trì được nền độc lập của mình,
một mặt khác tạo điều kiện thuận lợi cho xiêm tham gia vào phân chia phạm vi ảnh hưởng ở khu vực
đông dương
5. Nguyên nhân thực hiện chính sách “không phương Tây” của nhà Nguyễn. (2 điểm)
Nguyên nhân từ lý luận: gốc Nho giáo
- Tren khu vực thời kỳ đó, nhiều quốc gia thực hiện chính sách đóng cửa như trung quốc, triềut
iên, nhật bản
- Việt nam cũng giống như các quốc gia khác trong khu vực, Nho giáo được đề cao. QUan niệm,
lễ giáo nho giáo ăn sâu vào người việt khiến sự tiếp nhận bất kì đạo nào từ bên ngoài cũng trở nên khó
khăn
Nguyên nhân từ thực tiễn: hoạt động chiếm đất, chiếm thuộc địa của phương Tây thế kỷ XIX
- Châu Á trở thành miến đất màu mỡ mà phương tây nhắm tới
Việc các nước phương tây chiếm đất, thuộc địa ở việt nam, miến điện…đã khiến triều nguyễn chủ
trương đóng cửa để tránh bị lệ thuộc

Câu 8: Phân tích và đánh giá vấn đề Chân Lạp trong quan hệ ngoại giao Việt Nam - Xiêm đầu
thế kỷ XIX. (5 điểm)
1. Khái quát
- Chân lạp là nước nằm giữa Đại Việt và XIêm la, có mối quan hệ ngoại giao với Việt Nam từ
rất sớm, từ thế kỉ VIII
- Đầu thế kỷ XIX, nội bộ nước này lục đục, mâu thuẫn và tranh chấp quyền lực bùng nổ giữa
các phe nhóm chính trị ở Chân Lạp đã lôi kéo Việt Nam – Xiêm vào chiến sự. Vì vậy trong quan hệ
Việt Nam – Xiêm, vấn đề Chân Lạp được đặt ra và là trở ngại trong lịch sử ngoại giao giữa 2 nước
- Mối quan hệ giữa Việt Nam và Xiêm trong vấn đề chân lạp:
o Xiêm thực hiện mở rộng lãnh thổ, đe dọa toàn vẹn lãnh thổ của Chân Lạp,
o Chân lạp muốn dựa vào nhà Nguyễn để chống lại Xiêm,
o và nhà Nguyễn muốn dùng Chân Lạp như một phên đậu để ngăn chặn tham vọng đông
tiến của xiêm
=> Việt nam và Xiêm trở thành đối trọng, kìm hãm lẫn nhau
3. Chân lạp trong quan hệ giữa việt nam- xiêm la
a. Dưới thời vua Gia Long
- 1802, ngay sau khi Gia Long lên ngôi, chân lạp đã sai sứ đem quốc thư sang mừng
- 1807, Chân Lạp xin thuần phục cả Việt – Xiêm (0,25 điểm), chính sách “Chư hầu kép” của
chân lạp đã làm triều đình Xiêm tức giận, quan hệ giữa xiêm và chân lạo ngày càng xấu đi
- Trong những năm sau đó, tình hình Chân Lạp không ổn định. Xiêm lấy cớ nhiều lần can thiệp
vào nội bộ Chân Lạp

25
- 1812, Xiêm đưa quân vào chân lạp, song e ngại quân Nguyễn ở gia định nên không dám tấn
công mà phải hòa hoãn
- Sau đó, vua gia long cho đóng quân để bảo hộ Chân Lạp, đồng thời tạo thế đối phó với Xiêm,
(gia long còn sai quân sang Chân Lạp đắp đường dịch lộ, đặt nahf trạm để chuyển công văn giấy tờ để
nắm bắ tích hình chân lạp). Phần còn lại, xiêm cai quản 4 vùng đất trên chân lạp => 2 nước muốn có
ảnh hưởng trên chân lạp
- Cho đến thời điểm đó, triều Nguyễn cơ bản đã thiết lập được ảnh hưởng của mình ở chân lạp,
chia rẽ quyền đô hộ với xiêm, thậm chí còn tỏ ra có thế lực hơn khi sau đó chân lạo quyết định cắt đứt
mối quan hệ thần phục đối với xiêm
- Năm 1814, vua Gia Long không muốn căng thẳng đã thực hiện đường lối ngoại giao mềm
mỏng, mong muốn ôn hòa. Tuy nhiên, gia long đã xác định rằng thực chất vấn đề nước chân lạo trong
quan hệ với Xiêm là mối lo về phía nam của triều đình huế
- Vào những năm 20 của thế kỉ XIX, miến điện thất bại trong cuộc chiến tranh với anh, từ đó
miến điện không còn khả năng đe dọa xiêm. Đây là cơ hội thuận lợi để xiêm tập trung lực lượng sang
phía đông giành giật ảnh hưởng ở chân lạp với Việt Nam => quan hệ 3 nước đã có những thay đổi
quan trọng
b. Dưới thời Minh Mạng Quan hệ Việt- Xiêm nổi sóng vì vấn đề chân lạp
- 12/1833, vua xiêm huy động 5 đạo quân đồng thời tấn công vào chân lạo và việt nam chiếm
Hà Tiên, quân xiêm thất bại, nhà Nguyễn kịp thời chỉnh đốn các tướng lĩnh và tập trung một lực
lượng quân đội, vũ khí lớn để phản công, đẩy lùi quân xiêm => quân xiêm buộc phải rút lui
 Hai nước chính thức cắt đứt quan hệ bang giao, bắt đầu thời kỳ căng thẳng xung đột chiến
tranh giữa hai nước kéo dài
- 1835, vua Ang Chan mất, việt nam đã khôn khéo cân nhắc đưa Ang Mey lên làm vua- chính
phủ bù nhìn được lập ra ở Chân Lạp => trở thành một thuộc quốc của nhà Nguyễn
- Dưới sự bảo hộ của Việt Nam, Chân Lạp được đổi tên thành Tây trấn =) xiêm tìm mọi cách để
gây ảnh hưởng với chân lạp
c. Dưới thời vua thiệu trị
- Mối quan hệ giữa Việt Xiêm vẫn không được cải thiện, thiệu trị không muốn có chiến tranh,
đề nghị tiết lập lại hòa bình để cùng cai quản chân lạp, song xiêm ngoan cố muốn gây chiến.
Vì vậy, từ 1834 đến 1847, xiêm và Việt nam liên tục tiến hành hàng loạt cuộc chiến tranh
- Tuy nhiên, sau hàng chụp năm, cả hai nước đều rơi vào tình trạng suy yếu, cùng với sự xâm
nhập của chủ nghĩa thực dân vào các nước đông nam á đang là nguy cơ lớn

26
 1847, hiệp ước giữa bang cốc và huế được kí kết, theo đó, chân lạp triều cống cho cả Việt Nam
và xiêm, quân xiêm đồng ý rút lui khỏi hầu hết chân lạp, việt nam rút về phía nam, trao trả tù
binh cho chân lạp
4. Đánh giá, nhận xét
- Vấn đề tranh giành ảnh hưởng trên đất chân lạo giữa VN- Xiêm về quyền lực và quyền lợi làm
cho hào bình khu vực không được giữ gìn ổn định
- Cuộc chiến tranh Việt- xiêm qua vấn đề chân lạp là do yêu cầu bảo vệ, phòng thủ vùng biên
cương của nhà Nguyễn vthời điểm đó

Câu 9: Phân tích vấn đề nước Vạn Tượng trong quan hệ ngoại giao Việt Nam – Xiêm đầu thế
kỷ XIX. (5 điểm)
1. Cuối thế kỷ XVIII, Vạn Tượng thần phục Xiêm. (0,5 điểm)
2. 1801, quốc vương Vạn Tượng cử sứ sang Việt Nam triều cống. (0,5 điểm)
3. Dưới sự khống chế chặt chẽ của Xiêm, Vạn Tượng tìm cách chống lại (Sự kiện năm 1824) song
thất bại, Sự kiện năm 1827, Vạn Tượng thất bại trong cuộc chiến tranh với Xiêm, chạy sang Việt
Nam cầu viện. Minh Mạng chọn giải pháp trung lập. Cách giải quyết và phản ứng của Xiêm. (1,5
điểm)
4. Từ 1833, Xiêm đem quân sang vi phạm lãnh thổ Việt Nam. Quan hệ 2 nước căng thẳng. 1834
cắt đứt quan hệ. Quan hệ ngoại giao thay bằng chiến tranh và quân sự (0,5 điểm)
5. Đánh giá (2 điểm)
- Vấn đề tranh giành quyền lực và quyền lợi trên lãnh thổ Vạn Tượng giữa Việt – Xiêm làm cho
hòa bình khu vực không được giữ gìn. (1 điểm)
- Thực chất cuộc chiến Việt – Xiêm qua vấn đề nước Vạn Tượng là do yêu cầu bảo vệ, phòng
thủ vùng biên cương của nhà Nguyễn vào thời điểm đó. (1 điểm)

Câu 12: Trình bày hoạt động quốc tế của cụ Phan Bội Châu và cụ Phan Chu Trinh. (5 điểm)
 Đường lối vũ trang bạo động và hoạt động quốc tế của cụ Phan Bội Châu
6. 1904 lập ra Hội Duy Tân với cương lĩnh 3 điểm (0,5 điểm)
- Ngày 8/4/1904, sau khi từ Nam Kỳ về, phan bội châu cùng hơn 20 đồng chí họp tại nhà riêng,
lập ra một tổ chức bí mật gọi là duy tân hội
- Kỳ Ngoại hầu Cường Để được mời làm hội chủ để thu phục nhân tâm, tập hợp sĩ phu yêu nước,
tranh thủ sự đồng tình và giúp đỡ của nhiều người trong nước. CÒn phan bội châu và một số thành
viên khác là hội viên trọng yếu, đảm nhận mọi hoạt động của hội
- Phan bội châu và một số đồng chí thân cận đã lập ra cương lĩnh 3 điểm
27
o Liên kết với dư đảng cần vương và trai tráng ở chốn sơn lâm, sớm khởi nghĩa binh
đánh pháp với phương thức bạo động
o Tìm người dòng hoj vua nhà Nguyễn lập làm minh chủ, rồi ngầm liên kết với những
người có thế lực, tập hợp những người trung nghĩa để cùng nhau khởi sự
o Khi cần thiết sẽ phái người xuất hiện cầu ngoại viện
 Mục đích là cốt sao khôi phục được Việt Nam, lập ra một chính phủ độc lập, ngoài ra chưa có
chủ nghĩa gì khác cả
 1906, mục đích của hội mới được đề cập một cách tương đối rõ ràng là khôi phục nước việt
nam, lập thành nước quân chủ lập hiến
7. 1905 theo cương lĩnh vạch ra, PBC dẫn đầu 1 phái đoàn đi Nhật tìm viện trợ. Cuộc gặp gỡ
với Lương Khải Siêu. (0,5 điểm)
- vào những năm đầu thế kỉ XX, lịch sử đặt lên vai hội duy tân và phan bội châu một trọng trách,
một nhiệm vụ mới- tìm một con đường, một hướng đi mới cho sự nghiệp giảiphongs dân tộc.
- phan bội châu đại diện cho đất nước Việt nam, nhân dân việt nam sang Nhật bản cầu viện binh
lực đánh pháp, giải phóng dân tộc
- đến Nhật, người đầu tiên phan bội châu tìm gặp là lương khải siêu- một chính khách yêu nước
thời trung quốc, đề nghị lương khải siêu giới thiệu mình với các nhà chính trị Nhật Bản
- t6/1905, phan bội châu cùng lương khải siêu tới Tokyo. Ông đã được chính khách nhật tiếp
dón như người địa biểu cho một dân tộc mất độc lập, nói lên tiếng nói và nguyện vọng của nhân dân
việt nam
- nhưng do nhật vừa chiến tranh với nga, lại xét thấy nếu giúp đỡ vn sẽ có quan hệ đến quốc tế
nên nhật không thể viện trợ binh lực để đánh pháp trên đất việt nam
- tuy nhiên, phan bội châu lại nghe hai nhân vật quan trọng của đáng tiến bộ đang cầm quyền ở
nhật nên cổ động thanh niên ra nước ngoài học tập để sau này về giúp nước
- 8/1905, PBC và đồng chí nòng cốt trong duy tân hội bàn bạc rồi đưa ra kế hoạch hành động
o Nhanh chóng đưa kỳ ngoại hầu cường để ra nước ngoài
o Lập các hội nông, hội buôn, hội học để tập hợp quần chúng và có tài chính cho hội
o Chọn một số thanh niên thông minh hiếu học, chịu được gian khổ, đưa đi học wor nước
ngoài
8. Phong trào Đông Du (0,5 điểm)
- Bối cảnh:
o 1868, thời Minh tị ở nhật bắt đầu, tái thiết thể chế hoàng đế và cách tân đất
nước nhằm chống lại sự đe dọa từ các thế lực bên ngoài

28
o Việt nam đang ở trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân pháp, đất nước
chia cắt, lệ thuộc, một xã hội nửa thuộc địa nưa phong kiến, các phong trào khởi
nghĩa trong nước nhiều nhưng bị thất bại liên tiếp, khủng hoảng trong đường lối
giải phóng dân tộc, dân ta sống trong cảnh nô lệ lầm than
- Phan bội châu với niềm tin sẽ dựa vào nhật bản để kháng chiến chống pháp đã lập ra phong
trào đông du.
- Với mục đích học tập nhật bản, 1905, lần đầu tiên một số sĩ phu việt nam do phan bội châu
đứng đầu sang nhật, gặp một số nhà yêu nước, ủng hộ việt nam
- Những hoạt động yêu nước của phong trào đầy sôi nổi và khí thế từ năm 1905 đến 1908, lực
lương chủ yếu là thanh niên miền nam
- Chương trình học tập khá đa dạng: sáng và trưa dạy tiếng nhật, học tri thức phổ thông, buổi
chiều học tri thức quân sự, đặc biệt là tập luyện thao tác quân sự, nhằm đào tạo những người có trình
độ văn hóa và quân sự cần thiết chuẩn bị cho công cuộc bạo động cách mạng pháp giành lại độc lập
9. Cuộc yết kiến với Tôn Trung Sơn tại Quảng Châu và sự ra đời của Việt Nam Quang Phục
hội năm 1912. (0,5 điểm)
- Hoàn cảnh: sau khi cuộc cách mạng tân hợi thành công ở trung hoa thì triều đình nhà thanh cáo
chung và tư tưởng dân chủ đã thuyết phục được phan bội châu noi theo con đường mới thay vì đường
lối quân chủ lập hiến trước kia
- Tuy vận ông vẫn suy tôn Kỳ Ngoại Hầu Cường Để làm hội chủ, chức bộ trưởng tổng vụ của
một hội hoàn toàn mới mang tên VIệt Nam Quang Phục hội
- Sau đó, việt nam quang phục hội cử một số hội viên về nước để trừ khử một vài viên chức
Pháp và cộng sự đắc lực của họ, nhằm đánh thức đồng bào, kêu gọi hồn nước
- Các cuộc bạo động bằng tạc đạn tuy xảy ra lẻ tẻ, nhưng vẫn khuấy ddooongj được dư luận
trong và ngoài nước, làm nhà cầm quyền pháp tăng cường khủng bố, khiến nhiều người bị bắt và bị
giết
- Bị kết tội chủ mưu, phan bội châu và cường để bị thực dân pháp cùng am triều kết án tử hình
vắng mặt
- 1911, cách mạng tân hợi trung quốc diễn ra thành công, phan bội châu rời xiêm và trung quốc,
yết kiến tôn trung sơn và đưa ra quyết định, giải tán duy tân hội và thành lập việt nam quang phục hội
- Đưa nhận thức đồng chủng đồng văn, đồng châu không bằng đồng bệnh, mà đồng bệnh là đều
bị chính quyền phong kiến đô hộ, thực dân áp bức
10. Hai cuộc khởi nghĩa ảnh hưởng của tư tưởng vũ trang bạo động và các hoạt động quốc tế
của cụ Phan Bội Châu. (0,5 điểm)

29
- Việt nam quang phục hội với hai vụ gây tiếng vang: ám sát tuần vũ nguyễn duy hàn tình hái
bình, ném bom vào khách sạn
- 1913: phan bội châu bị bắt nhưng ảnh hưởng của vũ trang bạo động vẫn tiếp tục diễn ra sau khi
việt nam quang phục hội tan rã, điển hình là
o Khởi nghĩa duy tân diễn ra ở huế 1916
o Khởi nghĩa thái nguyên
 Phong trào yêu nước chịu ảnh hưởng của tư tưởng cải lương và hoạt động quốc tế
của cụ Phan Chu Trinh
- Tư tưởng lớn nhất của ông: Bất bạo động bạo động tắc tử, bất vọng ngoại vọng
ngoại giả ngu. Giải thích, đánh giá. (0,5 điểm)
- Phan chu trinh phản đối chủ trương bạo động và tư tưởng bảo hoàng của phan bội châu
- Ôn rất thân và ủng hộ phong trào duy tân hội, song quan niệm phải dựa vào chính mình, dựa
vào nguồn lực của đất nước để giải phóng dân tộc chứ không thể một nước ngoài nào
- Chủ trương: không nên trông người ngoài, trông người ngoài là ngu, không nên bạo động, bạo
động là chết….chỉ nên đề xướng dân quyền, dân đã biết có quyền thì việc khác có thể làm
- Từ tư tưởng lớn trên, ông có 3 chủ trương lớn: Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu
dân sinh. Từ chủ trương biến thành hành động thiết thực: Mở trường học; tuyên
truyền; tổ chức lại công ăn việc làm cho nhân dân. (0,5 điểm)
- Khai dân trí bằng cách mở trường học, dạy kiến thức mới, hướng tới kiến thức KHKT, bỏ lối
học nhồi sọ chỉ chăm khoa cử, bài trừ hủ tục, chống mê tín dị đoan, giáo dục lòng yêu nước, nghĩa
hiệp và đạo đức công dân
- Từ 1906-1908, nhiều nơi mọc lên hàng loạt trường Đông kinh nghĩa thục, đẩy mạnh hoạt động
trên các lĩnh vực vh, gd, tư tưởng, ktees, nhà trường không chỉ bó hẹp trong dạy văn hóa mà còn tạo
dựng phong trào, góp phần quan trọng thúc đẩy phong trào igair phóng dân tộc đầu thế kỉ XX
- pCT khác với các nhà nho đương thời là ông dám mạnh dạn phê phán, đả kích những giá trị
của nho học cũ
- chấn dân khí là làm cho mọi người thức tỉnh tinh thần tự lực, tự cường, giác ngộ quyền lợi của
mình, tự giải thoát khỏi sự kìm kẹp của chế độ quân chủ chuyên chế
- hậu dân sinh là làm cho dân giàu có, mở mang công thương nghiệp và cổ động dùng hàng nội
hóa. PCT cho rằng ai nắm được thương mại thì nắm được thế giới, do đó ông chủ trương phát triển
kinh doanh, lập cacfs hiệu buôn, mở mang thương nghiệp, dạy cho dân có nghề nghiệp sinh nhai, lập
các hội khai hoang, mở mang đồn điền cho hết địa lợi
- Mở trường học: Sau khi tham quan Nhật Bản về Hà Nội lập Đông Kinh Nghĩa
Thục (0,5 điểm)
30
- Đông kinh nghĩa thục được lập ra từ tháng 3/1907 là phong trào nhằm thực hiện cách mạng xã
hội việt nam vào đầu thế kỉ 20 trong thời pháp thuộc
- Mục đích : khai trí cho dân, bằng việc mở những lớp học không lấy tiền và tổ chức các cuộc
diễn thuyết để trao đổi tư tưởng cùng cổ động trong dân chúng
- Dịch các bài viết của Phan Bội Châu từ Nhật gửi về sang tiếng quốc ngữ, dạy trong
Đông Kinh Nghĩa Thục nhằm thức tỉnh tinh thần yêu nước trong nhân dân. Phát động
phong trào lập nghiệp đầu thế kỷ. (0,5 điểm)
- Chuyến đi Pháp năm 1911 và những hoạt động tại Pháp. (0,5 điểm)
- Tại pháp, phan bội châu viết trung kỳ dân biết thì mạt kí, nói về cuộc dân biến ở trung kỳ năm
1908, đông dướng chính trị lauanj phê phán chính sách cai trị của pháp ở đông dương.
- Năm 1912, cùng với phan văn trường thành lập hội đồng bào thân ái
- Khâm sứ Mahe luốn đào lăng vua tự đích tìm vàng, cụ viết báo phản đối việc làm thiếu đạo
đức, đi diễn thuyết trong tập thể kiều bào, kêu gọi lòng yêu nước hướng về quê hương và thường tiếp
xúc với người pháp có lòng nhân daaoj, bác ái, bày tỏ nỗi lòng và chỉ trích chính sách cai trị tàn ác
của pháp ở đông dương
- Năm 1920, phan châu trinh, phan văn trường, nguyễn ái quốc và nguyeenx an ninh hình thành
nhóm những người việt nam yêu nước tại pháp

13. Trình bày hoạt động quốc tế của người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc từ năm 1911-
1930. (5 điểm)
• 1911-1922: Bác ra nước ngoài, đi tìm đường cứu nước.
- 1911, Người xin làm đầu bếp tại 1 tàu buôn Pháp để sang phương Tây. Sau đó, Người tới rất nhiều
nước lớn khác như Pháp, Anh,…
- Tại Pari, Người tham gia “Hội những người Việt Nam yêu nước” gồm nhiều tri thức Việt Nam yêu
nước, tham gia Đảng Xã Hội Pháp (Đảng của giai cấp công nhân Pháp)
- 1919, Người thảo ra yêu sách 8 điểm ký tên Nguyễn Ái Quốc, gửi đến Hội nghị Véc-xai. Bản yêu
sách đòi chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do dân chủ và tự quyết sơ đẳng của dân tộc Việt Nam.Sau
đó, bản yêu sách được đăng trên các báo tiến bộ của Pháp, in thành truyền đơn và phân phát trong các
cuộc họp ở Pháp, được trình bày lại với hình thức diễn ca để phổ biến trong Việt kiều ở Pháp và nhân dân
trong nước. Đối với phong trào giải phóng dân tộc đây là một sự kiện lớn, là hành động ngoại giao đầu
tiên của cách mạng Việt Nam.
- 1920, tại Đại hội Đảng Xã Hội Pháp ở Tua, Người phát biểu đứng về Quốc tế III và tham gia Đảng
Cộng sản Pháp. Người tìm được con đường cứu nước.
- 1921, Người cùng các bạn quốc tế ở Pari thành lập “Hội liên hiệp thuộc địa”, ra báo “Người cùng
khổ”.

31
• 1923 – 1930
- 1923, Người sang Liên Xô, được bầu vào đoàn chủ tịch của Quốc tế nông dân, học lớp bồi dưỡng tại
Đại học Phương Đông.
- 1924, Người dự Đại hội V của Quốc tế Cộng sản, đại hội Quốc tế thanh niên, Quốc tế cứu tế Đỏ,
Quốc tế công hội Đỏ.
Khi tham gia các hoạt động của Quốc tế Cộng sản, Người đã thẳng thắn phê phán Đảng Cộng sản
Pháp và Đảng Cộng sản ở các nước đế quốc có thuộc địa chưa quan tâm tới cách mạng thuộc địa.
Thời gian này, Người được nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin một cách hệ thống, được tiếp xúc với
nhiều nhân vật lỗi lạc thuộc nhiều dân tộc trong phong trào cách mạng thế giới, học hỏi kinh nghiệm từ họ.
- Cuối 1924, Người về Quảng Châu, Trung Quốc, bắt liên lạc với các lực lượng cách mạng Việt Nam,
Trung Quốc và các nước Đông Nam Á.
- Người thành lập tổ chức “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội”, ra tờ báo “Thanh niên”
(1925), mở lớp huấn luyện để đào tạo lớp thanh niên cách mạng đầu tiên của Việt Nam, xuất bản “Bản án
chế độ thực dân Pháp” (1925), “Đường Kách mệnh” (1927).
Như vậy:
• Nguyễn Ái Quốc đã có một cuộc hành trình quốc tế rộng lớn, nhận thức thế giới rộng mở.
• Đặc biệt, thời gian ở Liên Xô, Người được nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin một cách hệ thống,
được bồi dưỡng thêm kiến thức và phương pháp cách mạng, được làm quen và cộng tác với nhiều nhân vật
lỗi lạc.
• Những hoạt động quốc tế của Người thể hiện tư tưởng đoàn kết các dân tộc để giải phóng, gắn cách
mạng thuộc địa với cách mạng vô sản thế giới.
• Người xác định rõ Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của Cách mạng thế giới, độc lập dân tộc
phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

14. Anh (chị) hãy trình bày về đối sách quốc tế của Đảng Cộng Sản Đông Dương giai đoạn 1939
-1945. (5 điểm)
Cuộc chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ ngày 1/9/1939 khi Phát Xít Đức
tấn công Ba Lan. Hai ngày sau Anh và Pháp tuyên chiến với Đức.

Ngày 23/8/1939 Liên Xô ký với Đức hiệp ước không xâm lược lẫn nhau.
Tháng 4/1940 Đức đánh chiếm Đan Mạch , Na Uy. Tháng 5/1939 Đức tiến công Ba lan, Bỉ, và
Lúc Xăm Bua. Ngày 15/5/1940 quân Đức chọc thủng trận tuyến Xê- Đăng của quân Pháp , đưa các
binh đoàn cơ giới uy hiếp Pa-ri và bao vây Doong-kéc.

Chiếm xong Pháp , Đức tiếp tục chiếm đóng Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, Ru-ma-ni. Tiếp đó Đức
cùng I-ta-lia, Nhật Bản ký hiệp ước tay ba, theo thỏa thuận Đức – Ý giữ phần lãnh thổ châu Âu ,
Nhật Bản giữ phần lãnh thổ châu Á.

Ngày 22/4/1941 Đức tiến công Liên Xô với ý đồ trong vài ba tháng phải tiêu diệt được Liên
Xô- nước XHCN đầu tiên trên thế giới. Tính chất chiến tranh chuyển từ chiến tranh giữa lực lượng
32
Phát Xít với Tư bản Đế quốc thành cuộc chiến tranh giữa lực lượng Phát Xít và lực lượng dân chủ
chống Phát Xít . Thời gian đầu Liên Xô bị tổn thất nặng nề , nhưng từ tháng 11/1942 Hồng quân
Liên Xô chuyển xang thế tấn công đẩy lùi kẻ thù , giải phóng đất nước và nhiều nước Đông Nam
Âu hướng tới cuộc tiến công về Đức quốc xã. Tháng 2/1944 Anh , pháp mở mặt trận thứ 2 đổ bộ
vào Pháp. Ngày 16/4/1945 Liên Xô mở chiến dịch giải phóng Béc-Lin. Ngày 7/5/1945 Đức Phát
Xít tuyên bố đầu hàng.

Ở châu Á – Thái Bình Dương , Nhật không theo ý đồ của Đức đánh Liên Xô trước, ý đồ của
Nhật là lợi dụng quân quân Đức đánh bại Anh , Pháp , Hà Lan ở châu Âu để cướp thuộc địa của
chúng ở châu Á. Ngày 7/12/1941 Nhật tiến công Trân Châu Cảng , chiến tranh thế giới thứ hai
bùng nổ. Liền sau đó Nhật đánh chiếm Xingapo, Mã Lai , Hồng Kông, Nam Thái lan, Philippin,
Miến Điện và từng bước mở rộng sự khống chế Trung Quốc, Đông Dương, In-đô-nê-xi-a và một
số vùng khác thuộc Thái Bình Dương. Mỹ , Anh buộc phải tuyên chiến với Nhật.

Ngày 6 và 9/8/1945 Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Nhật. Ngày 8/8/1945 Liên Xô đánh
tan 1 triệu quân Nhật đóng ở Đông Bắc Trung Quốc. Ngày 14/8/1945 Nhật đầu hàng Đồng Minh
vô điều kiện.

Chiến tranh thế giới thứ 2 diễn biến quyết liệt , phức tạp. Nó làm thay đổi một cách cơ bản cơ
bản quan hệ quốc tế. Xu thế dân chủ hòa bình và cách mạng chống phát xít chiến tranh ngày càng
thắng thế. Liên minh dân chủ chống phát xít dần được hình thành từ các nước lớn Anh, Pháp, Liên
Xô, Mỹ. Ngày 1/1/1942 tại Oa-sinh-tơn 26 quốc gia đã ký bản hiến chương Đại Tây Dương. Liên
minh dân chủ chống phát xít đóng vai trò quan trọng tạo tiền đề về một trật tự thế giới cân bằng
hơn sau chiến tranh.

Nhật rất quan tâm Đông Dương vì đây có nguồn tài nguyên phong phú và vị trí chiến lược.
Ngày 18/6/1940 , hai ngày sau khi Pháp đề nghị đình chiến với Đức, Nhật gửi tối hậu thư cho
Pêtan đòi đưa phái đoàn quân sự vào Việt Nam.1/8/1940 Pháp đầu hàng Đức. Ngày 22/9/1940
Nhật đánh chiếm Lạng Sơn. Ngày 26/9 đổ bộ lên Hải Phòng. Pháp buộc phải kí hiệp định với Nhật
ngày 23/9 . Sang năm 1941 Nhật tiến bước xa hơn trong kế hoạch chinh phục Đông Dương. Ngày
6/5/1941 Nhật đòi Pháp kí hiệp định Tôkyô đòi đươc hưởng đặc quyền kinh tế với Đông Dương.
Ngày 29/7/1941 Nhật đòi chính phủ Pê-tan kí hiệp định đòi quyền sử dụng tất cả các sân bay hải
cảng ở Đông Dương. Ngày 8/12/1941 Nhật buộc Pháp kí hiệp ước trong đó cam kết hợp tác với
Nhật trong việc phòng thủ Đông Dương. Từ khi Nhật vào Đông Dương nhân dân ta bị một cổ hai
tròng , bị bóc lột nặng nề, các cuộc khởi nghĩa nổ ra như Bắc Sơn, Đô lương, Nam kỳ. Sự chuyển
biến mau lẹ của chiến tranh thế giới thứ II ngày càng bất lợi cho Nhật ở Đông Dương. Ngày
9/3/1945 Nhật làm cuộc đảo chính Pháp .Hành động này chỉ nhằm hợp thức hóa ách thống trị của
Nhật ở Đông Dương.

 Chính sách của Mỹ với Đông Dương:

+ Tại hội nghị Tê-hê-ra (11/1943) giữa những người đứng đầu 3 nước: Liên Xô, Mỹ, Anh. Tổng
thống Mỹ Ru-dơ-ven đã hoàn thành ý kiến của Xta-lin không để Pháp trở lại thống trị Đông Dương,
ngoài ra ông còn nêu ý kiến phải có nước bảo trợ Đông Dương, thiết lập một hội đồng thác quản
cho Đông Dương (tại hội nghị Ianta tháng 2/1945)... Tuy nhiên hội nghị cũng không đi đến một
quyết định nào cả do Anh- Mỹ bất đồng về thuộc địa nói chung và Đông Dương nói riêng.

33
+ Trong những năm 1944- 1945, Mỹ luôn tìm cách hạn chế ảnh hưởng của Pháp tại Đông
Dương, đồng thời Mỹ kiên quyết bác bỏ đề nghị của Anh, đòi được mở cổng khu vực hành quân
chống Nhật của lực lượng Anh đến Đông Dương nhằm hạn chế tối đa sự can thiệp cũng như ảnh
hưởng của các quốc gia này vào Đông Dương.

+ Năm 1945, sau khi tổng thống Mỹ Ru-dơ-ven qua đời, tổng thống mới là Truman lên thay đã
quyết định chuyển từ chủ trương thác quản quốc tế ở Đông Dương sang thỏa hiệp với lập trường
của Anh và thỏa thuận về Đông Dương được thông qua ở Hội nghị Pốt-xđam (17/7- 2/8/1945)

 Chính sách của Pháp ở Đông Dương:


+ Từ mùa thu 1940, Đông Dương đã thực sự là thuộc địa của Nhật, song Pháp luôn tìm cách để
“trở lại” Đông Dương
+ Năm 1944, Anh đã đồng ý để Pháp tham gia “ cuộc chiến tranh chống lại Nhật Bản” và “giải
phóng Đông Dương”.
+ Tháng 3/1945, chính phủ Pháp tuyên bố cụ thể chính sách tương lai của Pháp với Đông
Dương: Liên bang Đông Dương nằm trong Liên hiệp Pháp , quyền lợi ở nước ngoài do Pháp đại
diện...Pháp muốn giữ một chế độ cai trị ở Đông Dương gần như nguyên vẹn như trước với một vài
cải cách nhỏ.
+ 24/8/1945, Anh Pháp kí hiệp định về các nguyên tắc và thể thức của việc khôi phục quyền lực
của Pháp tại Đông Dương và sau đó đội quân viễn chinh Pháp cũng lên đường sang Đông Dương

15. Phân tích những đặc điểm của đấu tranh ngoại giao của tổ tiên ta. (5 điểm)
1. Vị trí của ngoại giao trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước (0,5 điểm)
- Ngoại giao việt nam đóng một vị trí quan trọng trong sự nghiệp dựng và giữ nước. cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước đã đi vào lịch sử như một bản trường ca bất tử về ý
chí kiên cường của Đảng và dân tộc ta vì độc lập, tự do của đất nước
- Cuộc đấu tranh trường kỳ và gian khổ ấy đã kết thúc thắng lợi, nhưng ý nghĩa và những bài
học của nó sẽ còn sống mãi với thời gian
- Thành công to lớn được tạo nên bởi sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, của mọi binh
chủng, trong đó mặt trận ngoại giao có những đóng góp xứng đáng
- Ngoại giao việt nam luôn là một mái chèo góp phần đưa con thuyền đất nước vượt thác
gaanhf và các vùn nước xoáy của lịch sử, luôn là một sức đẩy góp phần vào cuộc trường chinh vĩ đại
của dân tộc đi hết thắng lợi này đến thắng lợi khác
- Những đóng góp của ngành ngoại giao vào sự nghiệp chung của dân tộc rất to lớn và quan
trọng
2. Tác dụng của ngoại giao trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước (0,5 điểm)
- Ngoại giao đã được cha ông ta thực hiện hàng ngàn năm nay. Nước ta là một nước nhỏ, nằm ở
vị trí địa- chính tị dặc biệt nên muốn quốc thái dân an thì cốt ở bang giao. Ngoại giao luôn xuất phát

34
tự thực trạng thế và lực của đất nước để xử lý các mối quan hệ với ngoại bang nhằm đảm bảo lợi ích
tốt nhất cho đất nước
- Ngoại giao là vũ khí mà ông cha ta đã khôn khéo tận dụng để tạo dựng môi trường chung sống
hòa bình với ngoại bang, duy trì và cứu vãn hòa bình trước mọi cuộc giao tranh và giữ gìn hòa bình
sau đó
- Vì thế, ngoại giao việt nam đã có bề dày và chiều sâu lịch sử có truyền thống rất đáng để tự
hào và trân trọng
- Nền ngoại giao hiện đại đã có những đóng góp tao lớn vào thắng lợi của cuộc đấu tranh của
nhân dân ta vì độc lập, tự do và thống nhất đất nước
- Duwois sự lãnh đọa trực tiếp của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh, ngoại giao đã luôn sát cánh
cùng các ngành quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa… có mặt ở tuyến đầu của đấu tranh cách mạng
- Ngoại giao đã thấm nhuần chủ nghĩa mác, đường lối cách mạng của đảng và tư tưởng HCM về
một nền ngoại giao nhân đạo, hòa hiếu, thêm bạn bớt thù, phát huy sức mạnh dân tộc, kết hợp sức
mạnh thời đại ; tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ và igups đỡ của hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong
trào cộng sản và công nhân quố tế, các lực lượng dân chủ tiến bộ và nhân dân thế giwosi đối với sự
ngheiepj giải phóng miền nam, thống nhất nước nhà
- Hoạt động ngoại giao đã góp phanaf tạo nên hình ảnh tốt đẹp về dất nước Việt Nam trên
trường quốc tế
3. Một số bài học từ thực tiễn đấu tranh ngoại giao của tổ tiên ta
a. Không khoang nhượng và kiên trì đấu tranh cho các mục tiêu cơ bản của dân tộc
(0,5 điểm)
- Mục tiêu cao nhất của dân tộc ta trong đấu tranh chống xâm lăng là độc lập quóc gia, chủ
quyền lãnh thổ, danh dự dân tộc
- Nếu bị xâm hại thì dù là kẻ ddihcj mạnh hơn mình nhiều lần, dân tộc ta cũng kiên quyết chống
lại
- Để đạt được mục tiêu đó, ngoại giao trở thành một mặt trận, tinh thần, ý chí quật cường của
dân tộc thể hiện trong đấu tranh ngoại giao
- Nguyên tắc nhất quan về ngoại giao của tổ tiên ta là tự chủ, cứng rắn thể hiện rõ nét ngay từ
khi ngô quyền giành được độc lập dân tộc, xây dựng một vương triều riêng, độc lập với thiên triều
- Việc đặt tên nước là Đại Cồ Việt của Đinh Tiên Hoàng xuất phát từ thế nước vững vàng, ý
thưc độc lập, tự tôn của dân tộc đượcn êu cao
o Lý thường kiệt chủ động tấn công vào căn cứ của quân tống
o Nhà trần không lùi trước sứ giả của đế quốc nguyên- mông hùng mạnh. Các yêu
sách ngang ngược của chúng đều bị nhà Trần bác bỏ
35
- Nguyễn tắc trong ngoại giao thể hiện ở thái độ của Quang trung đối với nahf Thanh, nhưng kẻ
thù của chúng ta luôn là các thế lực hùng amnhj và hung hãn nên trong đấu tranh không chỉ có cương
mà đôi khi phải nhu. Việc trong xưng đế, ngoài xưng vương, chịu thần phục, cống nộp đều là kế sách
tránh tạo cớ xâm lăng cho ngoại bang, nhất là sau khi ta thắng trận
d. Gương cao ngọn cờ chính nghĩa (0,5 điểm)
- Là nước nhỏ bị nước lớn xâm lược nên cuộc đấu trnah của ta luôn là chính nghĩa .chúng ta
vạch trần âm mưu xâm lược và bộ mặt thật của kẻ thù dù che đậy dưới bất cứ hình thức nào, để khơi
dậy tinh thần yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc, tạo ra sức mạnh tổng hợp. Tính chính nghĩa luôn là sức
mạnh của dân tộc ta
- Veef đối nội, chính nghĩa quy tụ các lực lương yêu nước. Về đối ngoại, chính nghĩa vạch rõ
thế yếu, thế bị cô lập, làm hoang mang tinh thần binh sĩ địch, cô lập những kẻ cầm đầu hiếu chiến.
Tây sơn đã lấy nhwungx hành động tàn bạo của quân thanh khi tiến vào thăng long để bóc trần, thức
tỉnh sĩ phu bắc hà oán ghét và cô lập chúng
e. Giành từng bước trong đấu tranh ngoại giao (0,5 điểm)
- Năm 905, họ khúc mới giành được quyền tự chủ, tự xưng là tiết độ sứ
- Đến năm 1775, thời lý anh tong, phong kiến trung quốc mới công nhận nước ta là một quốc
gia có chủ quyền, từ đó an nam quốc, an nam quốc vương mới được ghi vào sử sách việt nam và trung
quốc . đây là kết quả của một quá trình đấu tranh lâu dài của nhân dân ta, phải từng bước giành thắng
lợi
- Chúng ta còn phải đấu tranh giành thắng lợi từng bước trên các vấn đề khác vì nước ta nhỏ, đất
không rộng, người ko đông, phải chống lại kẻ thù lớn hơn gấp nhiều lân. Sau mỗi lần thắng lựi, kẻ thù
chưa chịu từ bỏ xâm lược trở lại, chiếm một số vùng đất biên giới
f. Nắm vững tình hình địch, triệt để lợi dụng và khai thác sự bất đồng và những khó
khăn trong nội bộ kẻ thù (0,5 điểm)
- Khó khăn lớn nhất trong nội bộ kẻ đi xâm lược là khó có thể giữ sự nhất trí tỏng nội bộ và
buộc phải vơ vét, bóc lột nhân dân để phục vụ chiến tranh. Do vậy, kẻ đi xâm lược thường bị áp bức
từ hai phía
o Sự chống trả của đối phương
o Sự bất đồng nội bộ
- Tổ tiên ta đã triệt để khai thác yếu tố này
o Lý thường kiệt rải lộ bố trên đất tống để tố cáo kẻ thù khi biết rõ nội tình nhà tống. Khi kẻ
địch tiến thoái lưỡng nan, ta đã dùng biện pháp bàn hòa để dỡ thể diện cho kẻ đich j

36
o Nguyễn trãi đã vạch cho vương thông 6 điêu phải thua khi biết rõ nội tình địch cũng như
nước đi xâm lược. Ông đã khoét sâu những điểm yếu của dihcj, tìm cách phân hóa cô lập
chúng, biết rõ kẻ hiếu chiến, kẻ do dự nên buộc địch không đánh mà phải khuất
o Vua quang trung đã tiên đoán được thắng lợi trước khi ra quân đại phá quân. Sau thắng lơi
jlaij nhìn nhận được : người thanh nhịn thì thẹn, báo thù thì khó, do vậy đã thu được thắng
lợi to lớn trong ngoại giao
f. Sự kết hợp với tấn công quân sự với hòa đàm thương lượng (0,5 điểm)
- Hòa đàm nhằm che đậy lực lượng, khó khăn tạm thời của ta, khi có điều kiện có lợi kết hợp
với tấn công quân sự để giải phóng dân tộc
- Hòa đàm được tiến hành trong lúc kẻ địch gặp khó khăn, lung túng, ta đang giành được thắng
lợi về quân sự
- Kết quả hòa đàm thương lượng tùy thuộc vào tương quan lực lượng và vận dụng khéo léo của
các nhà ngoại giao, thắng lợi trên bàn ngoại giao phụ thuộc vào thắng lợi quân sự trên chiến trường
- Hòa đàm còn là sự đấu trí, đấu lí giữa hai bên : khi vương thông bị thua trên chiến trường,
ngoan cố đợi viện binh, trì hoãn việc thục hiện cam kết, nguyễn trãi một mặt ép về quân sự, kết hợp
với tiến công ngoại giao liên tục, khiến cho vương thông phải thi hành thỏa thuận trong hào đàm
- Hòa đàm kết hợp với tiến coogn quân sự là phương pháp ít tốn xương máu nhất: như trận hạ
thành trà long của nghĩa quân lam sơn. Đối với nước ta phương thức này rất cần thiết vì kẻ thù của
chúng ta luôn mạnh hơn nhiều lần
- Hòa đàm thương lượng còn tránh cho kẻ thù đỡ mất thể diện để dập tắt chiến tranh cho muôn
đời
g. Tính chủ động và tiến công trong đấu tranh ngoại giao (0,5 điểm)
- Trong các cuộc chiến tranh, kẻ cả lúc ta thất thế về quân sự như ba lần quân lam sơn phải rút
lui về chí linh để bảo toàn lực lượng, khi nahf trần ba lần phải tạm thời rút khỏi thăng long, tổ tiên ta
vẫn chủ động tấn công địch bằng ngoại giao
- Bức thư tố oan của nguyễn trãi trong những ngày đầu khởi nghĩa lam sơn nhằm vạch rõ tội các
của kẻ thù và nêu cao chính nghĩa của nghĩa quân.
- Lúc bị vây trong rừng sâu, ngueyenx trãi gửi thư thách thức phương chính đem quân đánh
nhau nơi bằng phẳng, phương chính sợ hãi không dám đem quân ra
 Hai buwcvs thư ra đời trong hai bối cảnh khác nhau, nhưng nguyễn trãi đều đạt được kết quả
mong muốn

37
h. Vấn đề tổ chức và cán bộ ngoại giao (0,5 điểm)
- Chủ tịch HCM đã chỉ ra rằng: cán bộ là cái gốc của mọi công việc, vì đội ngũ cán bộ đối ngoại
cần phải được từng bước tiêu chuẩn hóa, phải có phẩm chất chính trị tốt, nắm vững và vận dụng
nhuần nhuyễn đường lối đối ngoại của Đảng; có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và ngoại ngữ giỏi,
góp phgaanf xứng đáng vào đấu tranh ngoại giao
4. Kết luận (0,5 điểm)
- Đấu tranh ngoại giao trong giai đoạn kháng chiến cứu nước dem lại những tiền đề to lớn,
những bài học bổ ích và quý báu về tư duy, lý luận cũng như về hoạt động thực tiễn cho hoạt động
ngoại giao phục vụ khôi phục và phát triển đất nước, kinh tế, bảo vệ tổ quốc sau này
- Hiện nay, ngoại giao việt nam cần phải thấm nhuần và vận dụng thật nhuần nhuyễn những bài
học của giai đoạn trước, nắm vững mục tiêu, kiên trì nguyên tắc để đối phó cơ động và linh hoạt với
muôn vàn thay đổi, tạo ra thời cơ và tranh thủ để giành thắng lợi

38

You might also like