Professional Documents
Culture Documents
Phân Loại Biểu Tượng Nghê
Phân Loại Biểu Tượng Nghê
Chuyên mục
14/08/20160
Với những biểu hiện vô cùng phong phú của “Con Nghê” trong nghệ thuật tạo hình của
người Việt thì việc phân loại biểu tượng Nghê là một công việc không hề dễ dàng. Do con
Nghê không có các huyền thoại đi kèm như Rồng hay Kỳ lân nên việc phân loại Nghê theo
nguồn gốc (tên gọi, huyền thoại) là bất khả thi.
Vì vậy, chúng ta chỉ có thể phân loại linh vật biểu tượng này dựa trên các tiêu chí phân loại sau:
Phân loại theo hình thức biểu hiện; phân loại theo vị trí đặt; phân loại theo chức năng sử dụng;
phân loại theo giai đoạn lịch sử; phân loại theo khu vực địa lý.Từ việc phân loại, chúng ta mới có
thể xác định được các giá trị của biểu tượng Nghê trong văn hóa Việt Nam.
Đây là biện pháp phân loại đơn giản nhất vì chúng ta có thể dựa vào
trực giác quan sát và xếp loại các biểu tượng Nghê cho phù hợp với hình thức biểu hiện của chúng.
Chẳng hạn, Nghê có sừng hay không có sừng; Nghê có bờm và không có bờm; Nghê có vảy với
Nghê có lông xoắn; Nghê có móng guốc và Nghê có vuốt;… Thậm chí, chúng ta có thể phân loại
Nghê theo hình dáng tổng thể như Nghê dáng chó hay Nghê dáng sư tử. Mặc dù cách phân loại
đơn giản và tiện lợi này có thể áp dụng được cho nhiều người (cho dù họ có ít hiểu biết về Nghê)
nhưng với hình thức biểu hiện đa dạng như con Nghê, chúng ta không thể phân làm quá nhiều loại
khác nhau dựa vào những biểu hiện bên ngoài của chúng. Chính vì vậy mà một phương pháp phân
loại theo vị trí sẽ giúp chúng ta dễ xác định được đâu là Nghê còn đâu là những linh vật khác.
Dựa vào các đặc tính dân gian đã được định hình trong
văn hóa Việt Nam như “Phượng múa Nghê chầu” chúng ta có thể xác định được vị trí của con
Nghê là ở những nơi canh cổng, canh cửa, hầu hạ. Theo Từ điển tiếng Việt1 thì “chầu” là động từ
có nghĩa “hầu trong cung đình để chờ nghe lệnh vua, chúa”. Như vậy, vị trí “ngồi chầu” của con
Nghê đã xác định rõ vị trí “kẻ hầu người hạ” của nó trong văn hóa truyền thống Việt Nam. Khi
văn hóa Trung Hoa có tác động mạnh mẽ vào văn hóa dân gian của người Việt thì vị trí này có
biến đổi chút ít nhưng vẫn chủ yếu là “chầu” Con Nghê có thể chầu ở hai bên trụ cổng, chầu ở tả
vu hữu vu của các ngôi đình, ở dưới cánh cửa trong vai trò của “con cộ” – cộ cửa,… Nhưng đôi
khi chúng ta cũng có thể thấy Nghê ngồi trên mái, trên bệ uy nghi như…sư tử nhưng ngôn ngữ tạo
hình lại cho thấy rõ đó là Con Nghê. Để phân biệt được Nghê hay sư tử khi chúng “ngồi nhầm vị
trí” chúng ta cần xét đến chức năng của các linh vật này.
Giá trị của biểu tượng Nghê trong văn hóa Việt Nam
Năm 2003, khi Giải vô địch bóng đá các quốc gia Đông Nam Á lần thứ 22 (SEAGAME 22) lần
đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam, các quan chức cao cấp ngành thể thao đã phải “mất ăn mất
ngủ” vì mất nhiều tháng không tìm được “linh vật biểu tượng” của Việt Nam dành cho sự kiện
này. Cuối cùng, Ban tổ chức đã chọn con Trâu vàng với những hình “đầu trâu” làm linh vật biểu
tượng cho SEAGAME 22. Sự kiện đó qua đi, nhưng nhiều người vẫn không hài lòng với việc chọn
“đầu trâu” làm logo in trên các sản phẩm đại diện cho quốc gia, vì trong văn hóa Việt Nam, thành
ngữ “đầu trâu mặt ngựa” chỉ những kẻ vô lại, đầu trộm, đuôi cướp,… Thiết nghĩ, nếu Ban tổ chức
lập một hội đồng tư vấn có các nhà chuyên môn, các chuyên gia nghiên cứu về lịch sử, văn hóa,
xã hội và nghệ thuật thì việc chọn lựa sẽ dễ dàng hơn và không xảy ra những vấn đề đáng tiếc.
Theo chúng tôi, nếu một sự kiện tương tự trong tương lai được tổ chức ở Việt Nam và chúng ta
cần chọn một linh vật biểu tượng của Việt Nam thì con Nghê hoàn toàn có thể là một ứng viên phù
hợp với các tiêu chí đặt ra bên cạnh gà trống Gaulois của Pháp, sư tử Anh hay tê tê Fuelco của
Brazil,… Các tiêu chí quan trọng nhất cần đặt ra như lịch sử, văn hóa, nghệ thuật gắn với những
giá trị đặc sắc nhất của linh vật đều có thể tìm thấy qua biểu tượng con Nghê trong văn hóa Việt
Nam.
Con Nghê được coi như một linh vật tiêu biểu cho tính
thuần Việt và mang bản sắc văn hóa Việt Nam, nhưng trong tư liệu thành văn của Đại Việt – Việt
Nam hầu như không có tài liệu nào đề cập đến linh vật này. Trong khi đó, biểu tượng Xi vẫn – một
linh vật thuộc “chín con của rồng” có nguồn gốc Trung Hoa – lại được đưa vào những áng thơ văn
kinh điển, chẳng hạn:
Xi vẫn đảo miên phương kính lãnh
Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn
(Hình xi vẫn ngủ ngược trên gương nước lạnh
Đôi bóng tháp thon vút như ngón tay ngọc giá băng)(7)
Điều đó cho thấy quan điểm “nhất bên trọng, nhất bên khinh” của quan lại và các bậc trí giả Nho
học xưa đối với các biểu tượng cung đình và bình dân. Nhưng dường như sự “thiếu quan tâm” đó
lại giúp cho biểu tượng con Nghê của Đại Việt phát triển một cách tự do trong vô vàn sự ràng buộc
khắt khe của thể chế phong kiến Khổng – Nho suốt hàng nghìn năm qua. Biểu tượng Nghê có mặt
hầu khắp mọi nơi, từ thành thị đến nông thôn, từ người sang đến kẻ hèn, từ các bậc thức giả đến
người không biết chữ,… con Nghê với vai trò “người hầu kẻ hạ” hiện diện ở mọi tầng lớp trong
xã hội và đi vào đời sống của dân gian một cách hết sức tự nhiên như chính tâm hồn của người
Việt và văn hóa của người Việt.
Sự “thấm nhuần” đặc tính dân gian của con Nghê khiến cho nó trở nên một “con vật” gần gũi, thân
thương hơn là một linh vật đáng sợ hãi, nể trọng và tôn thờ. Đặc tính này đi thẳng vào lòng người
dân thuộc mọi tầng lớp trong xã hội như tình cảm đối với mái đình – cây đa – bến nước hay “canh
rau muống, cà dầm tương” đã bao đời ăn sâu vào trong tâm trí của người Việt. Có lẽ đặc tính văn
hóa này của người Việt qua biểu tượng con Nghê đã “ngấm” vào trong dòng suy nghĩ của các nghệ
nhân dân gian – những người nghệ sĩ sáng tạo nên biểu tượng Nghê – để rồi chúng lại được tái
hiện ở mọi lúc mọi nơi thông qua đôi bàn tay tài hoa của họ bằng những kiệt tác của nghệ thuật
tạo hình dân gian trong suốt hàng nghìn năm qua.
Kết luận
Qua nghiên cứu biểu tượng Nghê trong văn hóa Việt Nam, chúng tôi tạm đi đến một số kết luận
bước đầu như sau:
– Nghê là một linh vật thuần Việt nhưng có sự tiếp thu một số thành tố văn hóa bên ngoài từ Ấn
Độ, Trung Hoa,…
– Nghê là một linh vật hư cấu được kết hợp bởi chó, Kỳ lân, sư tử cùng nhiều linh vật khác hiện
có hoặc từng có sự hiện diện trong văn hóa Việt Nam.
– Biểu tượng Nghê không chỉ là một tập hợp của các giá trị lịch sử và văn hóa mà còn là nơi bảo
lưu các giá trị nghệ thuật trong truyền thống của người Việt.
– Để phân biệt các biểu tượng Nghê trong văn hóa Việt Nam, chúng ta có thể sử dụng các biện
pháp phân loại như:
Mặc dù là một linh vật mang trong mình những giá trị hết sức đặc sắc của văn hóa truyền thống
Việt Nam nhưng việc nhìn nhận, đánh giá về con Nghê Việt Nam hiện nay vẫn chưa được chú ý
đúng mức. Chính sự thiếu quan tâm của chúng ta đã khiến cho biểu tượng con Nghê đang bị “thất
thế” trước một biểu tượng ngoại nhập, lai căng, đó là sư tử Trung Hoa. Vì vậy, sự tăng cường hiểu
biết của chúng ta đối với các giá trị, đặc biệt là các giá trị nghệ thuật, của con Nghê là hết sức cần
thiết. Mong rằng, các cơ quan, ban ngành chức năng, các bậc thức giả, các nhà quản lý đặt mối
quan tâm đặc biệt đối với biểu tượng này, coi đó như là một cách giải Hán hay thoát Trung đang
được bàn luận sôi nổi trong thời gian gần đây.
(Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (NAFOSTED)
trong đề tài mã số VIII1.3-2012.01)
Chú thích
1. Hoàng Phê chủ biên, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học xuất bản năm 1998.
2. Trần Hậu Yên Thế, “Vị thế của hình tượng sư tử trong Mỹ thuật Đại Việt.” Tạp chí Mỹ thuật
Nhiếp ảnh số tháng 5/2014
3. Mỹ Trà, “Kiên quyết loại bỏ yếu tố ngoại lai ra khỏi di tích Việt,” trong VOV online ngày
9/12/2013. http://vov.vn/van-hoa/kien-quyet-loai-bo-yeu-to-ngoai-lai-ra-khoi-di-tich-viet-
296001.vov
4. Về tên gọi chim lạc cũng có nhiều vấn đề đang tranh cãi, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong
một chuyên khảo dành riêng cho Hạc trong văn hóa Việt Nam.
5. Các cuốn sánh trong bộ sách viết về mỹ thuật từ thời Lý đến thời Nguyễn hầu như không đề cập
đến con Nghê, trong khi con rồng được phân tích, mô tả hết sức kỹ lưỡng.
6. Trích trong Diên Hựu Tự. của Trúc Lâm đệ tam tổ- Thiền sư Huyền Quang Lý Đạo Tái (1254 -
1334), xem: Trần Trọng Dương, “Xi vẫn – Xi vỹ: những xu hướng biến đổi hình tượng trong văn
hóa Việt Nam và Đông Á,” bản thảo thuộc đề tài: Biểu tượng rồng Việt Nam trên cơ tầng văn hóa
châu Á. Mã số: VIII.1.3-2012.01. Do Quỹ phát triển khoa học công nghệ quốc gia (NAFOSTED)
tài trợ năm 2014.
7. Một trong những sản phẩm hiếm hoi là chiếc bình Hoa lam của Gốm Chu Đậu thế kỷ 16 được
một nghệ nhân họ Bùi ghi lại, hiện đang trưng bày tại Thổ Nhĩ Kỳ, đã nâng tầm giá trị của chiếc
bình lên hàng triệu đô-la.
8. Xem thêm bài: “Tính biểu tượng trong nghệ thuật” của tác giả trong tạp chí Mỹ thuật ứng dụng
số 1, tháng 6/2014.
9. Sắc chỉ bí mật, ban bố 10 điều cho quân lính tuân theo, đề ngày 8 tháng Bảy năm Vĩnh Lạc thứ
4 (21 – 8 – 1406) –theo bản Thư viện KHXH: 1731/I. Trong bảnViệt kiệu thư do Tề Lỗ thư xã
xuất bản thì không đề ngày, nhưng xếp thứ tự ở giữa hai đạo sắc ban bố ngày 4 – 7 – 1406 và ngày
29 – 7 – 1406). Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 26a – b.Nguyên văn (Binh nhập, trừ Thích, Đạo kinh
bản kinh văn bất hủy. Ngoại nhất thiết thư bản văn tự dĩ chí lý tụcđồng mông sở tập, như “Thượng
đại nhân Khưu ất dĩ” chi loại, phiến chỉ chích tự tất giai hủy chi. Kỳ cảnh nội Trung Quốc sở lập
bi khắc tắc tồn chi. Đãn thị An Nam sở lập giả tất hoại chi, nhất tự bất tồn). Dẫn theo Nguyễn Huệ
Chi trong Tạp chí văn hóa Nghệ An. Xem bản đầy đủ trong:
http://www.vanhoanghean.com.vn/goc-nhin-van-hoa3/goc-van-hoa-viet-nam-thu-doan-cua-
minh-thanh-to-trong-cuoc-chien-tranh-xam-luoc-1406-1407
Nguyễn Huệ Chi (2013), “Tiêu diệt tận gốc văn hóa Việt Nam: Thủ đoạn của Minh Thành Tổ
trong cuộc chiến xâm lược 1406-1407,” Văn hóa Nghệ An số tháng 9
Trần Trọng Dương (2014), “Xi vẫn – Xi vỹ: những xu hướng biến đổi hình tượng trong văn hóa
Việt Nam và Đông Á,” bản thảo thuộc đề tài: Biểu tượng rồng Việt Nam trên cơ tầng văn hóa châu
Á. Mã số: VIII.1.3-2012.01
Đinh Hồng Hải (2012), Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa truyền thống Việt Nam – tập
1, Nxb. Tri Thức
Đinh Hồng Hải (2014), “Tính biểu tượng trong nghệ thuật”, Tạp chí Mỹ thuật ứng dụng số 1, tháng
6
Đinh Hồng Hải, Bùi Huy Vọng (2014), “Biểu tượng người có sừng ở hang Đồng Nội qua tiếp cận
khảo cổ học nhân văn,” bản thảo Thông tin khoa học số 2, Trung tâm nghiên cứu Hoàng thành
Thăng Long
Hoàng Phê, Cb. (1998), Từ điển tiếng Việt. Nxb. Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học xuất bản
Trần Hậu Yên Thế (2011), “Nhận thức tính phổ quát liên văn hóa trong mỹ thuật cổ truyền qua ví
dụ hình tượng con nghê ở đề miếu,” Nghiên cứu mỹ thuật số 4 (40), tháng 12
Trần Hậu Yên Thế (2014), “Vị thế của hình tượng sư tử trong Mỹ thuật Đại Việt.” Tạp chí Mỹ
thuật Nhiếp ảnh số tháng 5
Mỹ Trà (2013), “Kiên quyết loại bỏ yếu tố ngoại lai ra khỏi di tích Việt,” trong VOV online ngày
9/12/2013. http://vov.vn/van-hoa/kien-quyet-loai-bo-yeu-to-ngoai-lai-ra-khoi-di-tich-viet-
296001.vov
Bùi Ngọc Tuấn (2013), “Con Nghê một biểu tượng tạo hình thuần Việt,” trong trang:
http://hcmufa.edu.vn/tap-chi/thong-tin-my-thuat-so-15-16/con-nghe-mot-bieu-tuong-tao-hinh-
thuan-viet/