You are on page 1of 27

ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

ĐỀ ÁN
MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP BẢO VỆ NGUỒN NƯỚC NGỌT
TẠI SÔNG ĐA ĐỘ, SÔNG GIÁ, SÔNG RẾ, SÔNG CHANH DƯƠNG;
KÊNH HÒN NGỌC; HỆ THỐNG THỦY NÔNG HUYỆN TIÊN LÃNG
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ GIAI ĐOẠN 2013-2020

Hải Phòng, tháng 11 năm 2013


UỶ BAN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số: /ĐA-UBND Hải Phòng, ngày tháng năm 2013

ĐỀ ÁN
Mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ nguồn nước ngọt
tại các sông: Rế, Giá, Đa Độ, Chanh Dương; kênh Hòn Ngọc;
hệ thống trung thuỷ nông Tiên Lãng trên địa bàn
thành phố Hải Phòng giai đoạn 2013-2020

MỞ ĐẦU
Thành phố Hải Phòng là thành phố cảng thuộc vùng đồng bằng sông Hồng và
vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, có diện tích tự nhiên là 1.523 km 2 với tổng dân số
khoảng 1,9 triệu người, mật độ dân số trung bình 1.223 người/km2. Phía bắc của Hải
Phòng giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Tây giáp tỉnh Hải Dương, phía nam giáp tỉnh Thái
Bình và phía Đông giáp biển Đông; có 15 đơn vị hành chính gồm 7 quận và 8 huyện, 223
phường, xã, thị trấn (có 10 thị trấn, 70 phường và 143 xã).
Vị trí địa lý thuận lợi và hội tụ đầy đủ các lợi thế về cảng biển, giao thông
đường biển, đường sông, đường sắt, đường bộ, hàng không cùng với tiềm năng
về tài nguyên thiên nhiên, văn hóa, xã hội đã tạo cho Hải Phòng đóng vai trò là
cầu nối quan trọng để giao lưu, liên kết, hội nhập, hợp tác kinh tế với thế giới,
đặc biệt với các nước trong khu vực kinh tế phát triển năng động Châu Á-Thái
Bình Dương. Đồng thời, những lợi thế này đã giúp Hải Phòng phát huy tác động
lan tỏa và ngày càng mở rộng vùng ảnh hưởng của mình tới các tỉnh ở miền Bắc
và khu vực vịnh Bắc Bộ của Việt Nam, là cực tăng trưởng quan trọng trong
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và vị trí hỗ trợ đắc lực cho thủ đô Hà Nội, xứng
đáng là cửa mở ra biển chủ yếu, đóng vai trò quan trọng trong thực hiện Chiến
lược “Hai hành lang, một vành đai kinh tế” trong quan hệ Việt Nam-Trung
Quốc.
Về điều kiện kinh tế xã hội, trong những năm qua, tăng trưởng kinh tế của
Hải Phòng đã đạt được nhiều kết quả đáng lưu ý, tốc độ tăng tổng sản phẩm nội
địa (GDP) bình quân của thành phố năm sau cao hơn năm trước và gấp 1,5 lần
mức tăng bình quân của cả nước. Trong những năm qua, Hải Phòng đã hoàn
thiện khá toàn diện các chỉ tiêu kinh tế đặt ra, cơ cấu kinh tế được chuyển dịch
một các rõ nét, đời sống của người dân ngày càng được nâng cao về nhiều mặt.
Về điều kiện địa lý thủy văn, tổng chiều dài của toàn bộ mạng lưới sông
ngòi chảy qua thành phố Hải Phòng khoảng gần 280 km với mật độ lưới sông
trung bình khoảng 0,18 km/km 2. Hướng chảy của các sông của thành phố Hải

2
Phòng chảy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam và đổ ra biển. Nằm trong vùng đồng
bằng ven biển, các sông chảy qua Hải Phòng có độ dốc nhỏ, dòng chảy quanh co,
uốn khúc, mực nước sông chịu ảnh hưởng của thủy triều, nước sông bị mặn hóa.
Nhìn chung, các sông ngòi chảy qua địa phận thành phố Hải Phòng đã phân chia
diện tích tự nhiên của thành phố thành 05 khu vực riêng biệt: khu vực Thủy
Nguyên; khu vực các quận: Hồng Bàng, Lê Chân, Ngô Quyền, Hải An và huyện
An Dương; khu vực huyện Vĩnh Bảo; khu vực huyện Tiên Lãng; khu vực các
quận: Kiến An, Dương Kinh, Đồ Sơn và các huyện: Kiến Thụy, An Lão (không
tính huyện đảo Cát Hải và Bạch Long Vĩ). Tài nguyên nước mặt của thành phố
Hải Phòng được các dòng sông vận chuyển từ thượng nguồn xuống, được tích
trữ, sử dụng thông qua hệ thống các công trình thủy lợi (cống, kênh mương, trạm
bơm). Việc sử dụng tài nguyên nước mặt không những phụ thuộc vào chế độ
dòng chảy thượng nguồn mà còn phụ thuộc mạnh mẽ vào chế độ thủy triều (nhật
triều) của biển Đông. Chế độ thủy động lực học phức tạp của vùng đồng bằng,
cửa sông ven biển của Hải Phòng gây ra những khó khăn không nhỏ trong quá
trình khai thác, sử dụng nguồn nước. Ví dụ, khi thủy triều lên, có sự xâm nhập
mặn theo các dòng sông, làm hạn chế khả năng lấy nước.
Tài nguyên nước có vai trò quan trọng, thiết yếu cho quá trình phát triển
kinh tế-xã hội của Hải Phòng trong thời gian qua, nhưng cũng chính quá trình
phát triển đó đã đặt tài nguyên nước trước những thách thức. Tại nhiều nơi trong
thành phố, nguồn nước ngọt ngày càng bị suy thoái cả về số lượng và chất lượng,
dẫn đến thiếu nước vào mùa kiệt và ô nhiễm nước nguồn nước thô trong phục vụ
sinh hoạt và sản xuất. Vì vậy, việc ngăn chặn suy thoái và nâng cao chất lượng
nguồn nước ngọt được Thành ủy, Hội đồng nhân dân thành phố, Ủy ban nhân
dân thành phố và các cấp uỷ đảng, chính quyền quan tâm. Việc xây dựng các giải
pháp nhằm quản lý chất lượng nguồn nước ngọt trên địa bàn thành phố là rất cần
thiết.
Đề án “Mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ nguồn nước ngọt tại sông
Rế, sông Giá, sông Đa Độ, sông Chanh Dương, kênh Hòn Ngọc, hệ thống trung
thủy nông Tiên Lãng trên địa bàn thành phố Hải Phòng giai đoạn 2013-2020”
đã được Ủy ban nhân dân thành phố chỉ đạo cơ quan chuyên môn thực hiện để
trình Hội đồng nhân dân thành phố xem xét, thông qua. Đề án bao gồm những
nội dung chính sau đây:
- Sự cần thiết của Đề án và căn cứ xây dựng Đề án;
- Đặc điểm nguồn nước, tình hình khai thác, sử dụng tài nguyên nước
thành phố Hải Phòng;
- Hiện trạng và các vấn đề bất cập trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước
mặt;
- Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp bảo vệ nguồn nước ngọt trên địa bàn
thành phố;
- Phụ lục, bảng biểu thống kê.
Phần I
SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ ÁN VÀ CĂN CỨ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

I. Sự cần thiết của Đề án


Sự phát triển mạnh về kinh tế, đặc biệt là về công nghiệp và đô thị đã làm
cho nhu cầu dùng nước của Hải Phòng tăng mạnh. Theo kết quả tính toán sơ bộ
của Viện Quy hoạch thủy lợi, tổng lượng nước đến hằng năm qua thành phố Hải
Phòng vào khoảng 5,1 tỷ m3/năm nhưng nguồn nước phân bố không đều theo cả
không gian và thời gian. Trước nhu cầu khai thác, sử dụng nước của thành phố
Hải Phòng ngày càng tăng và tình trạng suy giảm chất lượng nước, đặc biệt là
đối với nguồn nước ngọt, ngày càng diễn ra ở nhiều nơi với các mức độ khác
nhau, khả năng thiếu nước cho các ngành kinh tế, nhất là vào mùa khô ngày càng
rõ và sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế bền vững cũng như chất lượng đời
sống nhân dân của thành phố.
Kết quả quan trắc, giám sát tài nguyên nước và môi trường trong thời gian
vừa qua cho thấy, hiện nay, nguồn nước ngọt tại các sông cấp nước trên địa bàn
thành phố ngày càng suy thoái, ô nhiễm do các hoạt động sản xuất và sinh hoạt
gây ra, ảnh hưởng nghiêm trọng đến số lượng và chất lượng nguồn nước thô
phục vụ sản xuất, sinh hoạt, duy trì môi trường sinh thái và tác động trực tiếp đến
sức khỏe của người dân. Vì vậy, việc xây dựng Đề án “Nhiệm vụ, giải pháp bảo
vệ nguồn nước ngọt tại sông Rế, sông Giá, sông Đa Độ, sông Chanh Dương,
kênh Hòn Ngọc, hệ thống trung thủy nông Tiên Lãng trên địa bàn thành phố
Hải Phòng giai đoạn 2013-2020” là cấp thiết.
II. Phạm vi Đề án
Phạm vi Đề án bao gồm sông Giá, sông Rế, sông Đa Độ, sông Chanh
Dương, kênh Hòn Ngọc và hệ thống trung thuỷ nông Tiên Lãng.
III. Căn cứ xây dựng Đề án
- Luật Bảo vệ môi trường số 52/2005/QH 11 ngày 29/11/2005;
- Luật Tài nguyên nước số 17/2012/QH 13 ngày 21/6/2012;
- Pháp lệnh Bảo vệ và Khai thác công trình thủy lợi số 32/2001/PL-
UBTVQH10 ngày 04/4/2001 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
- Quyết định số 104/2000/QĐ-TTg ngày 25/8/2000 của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông
thôn đến năm 2020.
- Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07/9/2006 của Chính phủ về lập, phê
duyệt và quản lý Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội.
- Nghị định số 04/2008/NĐ-CP ngày 11/01/2008 của Chính phủ về việc sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07/9/2006 của
Chính phủ về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã

4
hội.
- Nghị định số 120/2008/NĐ-CP ngày 01/12/2008 của Chính phủ về việc
Quản lý lưu vực sông.
- Nghị định số 112/2008/NĐ-CP ngày 20/10/2008 của Chính phủ về Quản
lý, bảo vệ, khai thác tổng hợp tài nguyên và môi trường các hồ chứa thủy điện,
thủy lợi.
- Quyết định số 271/2006/QĐ-TTg ngày 27/11/2006 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt điều chỉnh, bổ sung “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã
hội thành phố Hải Phòng đến năm 2020”.
- Quyết định số 1448/QĐ-TTg ngày 19/9/2009 của Thủ tướng Chính phủ
về việc phê duyệt quy hoạch chung xây dựng thành phố Hải Phòng đến năm
2025 và tầm nhìn đến năm 2050.
- Thông tư số 15/2009/TT-BTNMT ngày 05/10/2009 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường quy định về Định mức kinh tế - kỹ thuật lập quy hoạch, điều
chỉnh quy hoạch tài nguyên nước.
- Báo cáo số 166/BC-BCS ngày 23/11/2007 của Ban Cán sự Đảng UBND
thành phố về việc sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU của Thành
ủy về công tác quản lý và phát triển đô thị Hải Phòng đến năm 2010.
- Kế hoạch số 11/KH-HDND ngày 13/8/2013 của Hội đồng nhân dân
thành phố về việc chuẩn bị kì họp thứ 7 Hội đồng nhân dân thành phố khóa XIV
(nhiệm kì 2011-2016).
Phần II
ĐẶC ĐIỂM NGUỒN NƯỚC, TÌNH HÌNH KHAI THÁC,
SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN NƯỚC THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

I. Điều kiện tự nhiên Hải Phòng


1.1. Vị trí địa lý
Hải Phòng là thành phố thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ, nằm về phía Đông
Bắc Đồng bằng châu thổ sông Hồng và sông Thái Bình, có diện tích khoảng
1.523 km2 với tọa độ:
- Từ 20030’39” đến 21001’15” vĩ độ Bắc.
- Từ 106023’39” đến 107008’39” kinh độ Đông.
Điểm cực Bắc qua thôn Phi Liệt, xã Lại Xuân, huyện Thủy Nguyên; điểm
cực Nam qua xã Vĩnh Phong, huyện Vĩnh Bảo và điểm cực Đông là ranh giới
trên biển giữa Hải Phòng-Quảng Ninh đi qua Vịnh Lan Hạ và phía Đông đảo Cát
Bà. Ngoài ra còn đảo Bạch Long Vĩ nằm giữa Vịnh Bắc Bộ tại tọa độ 20 008’ vĩ
độ Bắc và 107044’ kinh độ Đông.
Bắc và Đông Bắc giáp Quảng Ninh với chiều dài 54 km ngăn cách tự
nhiên bởi sông Đá Bạch-Bạch Đằng. Phía Tây Bắc giáp Hải Dương với chiều dài
98 km. Phía Tây Nam giáp Thái Bình trên 35 km dọc theo sông Hóa.
Hải Phòng là thành phố cảng có trục đường sắt và đường bộ quan trọng,
đặc biệt là hệ thống đường thủy liên hoàn rất thuận tiện cho giao thông vận tải.
Hải Phòng có vị trí chiến lược quan trọng của cửa ngõ phía Đông miền Bắc.
1.2. Địa hình, địa mạo
Địa hình và địa mạo của Hải Phòng là do kết quả của sự vận động địa chất
kéo dài hàng trăm triệu năm, cùng với quá trình bồi tụ phù sa của hệ thống sông
Hồng và sông Thái Bình mà hình thành nên. Có thể chia địa hình thành hai vùng
chính: Phía Bắc Hải Phòng là vùng đồng bằng xen kẽ với đồi núi thấp, phía nam
Hải Phòng có địa hình đồng bằng thuần túy.
Đồi núi trong đất liền Hải Phòng cao trung bình 50 đến 100 m chiếm 10%
tổng diện tích của thành phố, nhưng nằm rải ra ở khắp phần phía Bắc Hải Phòng
thành từng dải liên tục hoặc đứt quãng theo hướng Tây Bắc-Đông Nam. Vùng
đồng bằng thuần túy bao gồm các huyện: An Dương, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo và
phần lớn quận Kiến An, quận Đồ Sơn. Độ cao tuyệt đối của mặt đất thay đổi từ
2,5m đến 3,5m, và giảm dần từ Tây sang Đông. Bề mặt chủ yếu được bao phủ
bởi lớp sét pha, cát sa và phù sa bồi đắp. Trong vùng lẻ tẻ có nhiều ao, hồ, đầm
và vùng đất bãi thường xuyên ngập nước thủy triều phân bố ở ven các sông lớn
như sông Văn Úc, sông Lạch Tray, sông Thái Bình, sông Hóa. Đặc biệt, Hải
Phòng có chiều dài bờ biển trên 125 km, lại có nhiều cửa sông lớn đổ ra nên
lượng cát bùn hàng năm tải ra biển với một khối lượng đáng kể, đã tạo nên
những bãi sa bồi lấn ra biển có nơi tới vài cây số, hình thành những rừng sú vẹt

6
hoặc đã được cải tạo thành khu kinh tế mới như khu vực Trấn Dương (Vĩnh
Bảo); Vinh Quang, Tiên Hưng, Đông Hưng, Tây Hưng (Tiên Lãng); Tân Trào
(Kiến Thụy) và khu vực Đình Vũ…(Bản đồ hành chính Hải Phòng tại
phụ lục hình 1)
Với đặc điểm trên, địa hình, địa mạo ở Hải Phòng đã có ảnh hưởng quan
trọng đến chế độ dòng chảy sông ngòi tại địa phương. Ở vùng núi đá vôi và vùng
núi đồi thấp, quá trình tập trung nước nhanh hơn vùng đồng bằng, vùng đất bãi
lại thường xuyên ngập nước thủy triều. Độ nghiêng của địa hình theo hướng Tây
Bắc – Đông Nam đã tạo thành độ dốc xuôi thuận cho dòng chảy khi nước thủy
triều xuống.
1.3. Thổ nhưỡng
Thổ nhưỡng ở Hải Phòng có nguồn gốc chính là phù sa bồi đắp, đất
thường có phản ứng chua, hàm lượng chất dinh dưỡng kém, một số diện tích
mang tính chất chua mặn phát triển trên nền sú vẹt. Riêng vùng đồi núi cấu tạo
chủ yếu là cát kết quartzit và đá vôi tuổi Devon (Đề-vôn) đến Fermi (Féc-mi).
Tổng diện tích hiện nay là 50.690 ha có thể chia ra làm 3 loại đất chính: Đất chua
có nguồn gốc phù sa do sông Thái Bình bồi đắp, do quá trình đắp đê ngăn lũ nên
hàng năm loại đất này không được bồi đắp thêm sản phẩm mới, độ pH thường từ
5÷6. Đất chua mặn chiếm diện tích nhiều nhất và tập trung ở các vùng gần cửa
sông chịu ảnh hưởng của thủy triều, phản ứng của đất khá chua, độ pH = 4÷4,5
hàm lượng muối sulfat nhiều. Đất mặn phân bố dọc theo đê biển và đê cửa sông
lớn nên dễ bị nước biển ngấm vào. Trong đất này, thường gặp tầng tích tụ muối
và tầng đất có váng rỉ sắt lẫn xác sú vẹt. Thành phần của đất thay đổi từ sét đến
cát mịn, càng xuống sâu càng nhẹ. Lượng muối tan chiếm 0,25% đến 100%,
trong đó MgCl2, CaSO4, CaCl2, NaCl chiếm đa số sau đó đến MgSO 4 và Na2SO4.
Phản ứng của đất này thay đổi phụ thuộc nồng độ muối, nhất là các muối có chứa
cation kiềm, độ pH từ 5,5 ÷ 6,5, mùn từ 1,1% đến 2,4%; đạm từ 0,12% đến
0,9%, lân từ 0,06% đến 0,08%, kali từ 0,22% đến 0,3%.
Ngoài ra, Hải Phòng còn có một ít diện tích đất bãi biển. Loại đất này
thường có nồng độ muối cao, tổng số muối tan chiếm 0,5% đến 4%, chủ yếu là
mặn Cloxít.
1.4. Rừng và lớp phủ thực vật
Độ che phủ rừng toàn thành phố tính đến 31/12/2012 đạt 11,84 %. Các địa
phương có độ che phủ rừng cao là huyện Cát Hải (37,45%), huyện Bạch Long
Vỹ (21%), quận Đồ Sơn (22,05%), các địa phương khác đạt dưới 10%. Nhìn
chung, độ che phủ rừng của Hải Phòng tương đối thấp do quỹ rừng của Hải
Phòng không lớn. Để đảm bảo môi trường và cảnh quan của thành phố, ngoài
việc phải tập trung đầu tư trồng phủ xanh toàn bộ quỹ đất quy hoạch lâm nghiệp,
cần đẩy mạnh trồng cây phân tán trên các quỹ đất tận dụng (bao gồm: các tuyến
đường giao thông, bờ kênh, bờ mương, bờ đầm, bờ vùng, bờ thửa, ven đê; các
đồi gò, công viên, vườn hoa; trồng cây trong các khu dân cư tạo bóng mát và
cảnh quan; khuôn viên các cơ quan, khu công nghiệp, đơn vị, trường học, bệnh
viện) để nâng cao độ che phủ rừng và cây xanh của thành phố.
II. Điều kiện khí hậu
Do nằm trong vành đai nhiệt đới, gần chí tuyến Bắc, chịu ảnh hưởng của
chế độ gió mùa Đông Nam châu Á nên khí hậu Hải Phòng vừa mang tính chất
chung của khí hậu miền Bắc Việt Nam, vừa có đặc điểm riêng của vùng duyên
hải. Đặc điểm đó được thể hiện qua các yếu tố khí hậu chủ yếu sau đây:
2.1. Chế độ nhiệt
Hải Phòng có nền nhiệt độ tương đối cao, việc phân bố nhiệt độ trong năm
không được đồng đều và chia làm hai mùa rõ rệt, với những biến động nhất định.
Tổng nhiệt độ hàng năm đạt xấp xỉ 8500 0C, trong đó mùa khô đạt 35000C, mùa
mưa đạt khoảng 50000C. Nhiệt độ trung bình cả năm ở các khu vực Hải Phòng
đều đạt trên 230C, tương đương với tiêu chuẩn khí hậu nhiệt đới. Tuy nhiên, giữa
các tháng nhiệt độ trung bình đó đều có biến động rõ rệt theo từng mùa. Tháng 1
và tháng 2 nhiệt độ trung bình xuống thấp xấp xỉ 17 0C, sang các tháng mùa hè lại
tăng nhanh, đạt tới mức xấp xỉ nhiệt độ trung bình tiêu chuẩn. Sự phân bố nhiệt
độ trung bình hàng ngày cũng phản ảnh rõ rệt đặc tính biến động trên. Trong một
năm ở Hải Phòng, nhiệt độ trung bình ngày hạ dưới 15 0C thường xảy ra các
tháng 12, tháng 1 và tháng 2. Trong thời gian này còn có thể xuất hiện ngày có
nhiệt độ trung bình dưới 100C. Tháng 4 và tháng 5 nhiệt độ trung bình thường
200C đến 250C, các tháng mùa mưa nhiệt độ trung bình ngày đạt khoảng 25 0C
đến 300C, cũng có ngày đạt trên 300C. Nhiệt độ cao nhất và thấp nhất ở Hải
Phòng biến đổi theo chu kỳ, trong một năm thường có một cực tiểu vào mùa
đông do ảnh hưởng của không khí lạnh cực đới, nhiệt độ trung bình tối thấp là
140C đến 150C. Một cực đại xuất hiện vào mùa hè do ảnh hưởng của không khí
nhiệt đới Ấn Độ Dương biến tính, hoặc không khí nhiệt đới Thái Bình Dương,
nhiệt độ trung bình tối cao đạt từ 310C đến 320C.
2.2. Chế độ mưa ẩm
Hải Phòng là một trong những tỉnh có lượng mưa khá lớn ở nước ta, hàng
năm lượng mưa trung bình tại các khu vực trong thành phố đều đạt từ 1600 mm
đến 1800 mm, riêng Bạch Long Vĩ có lượng mưa nhỏ nhất là 1126,7 mm. Số
ngày mưa trung bình ở Hải Phòng là 100 ngày đến 150 ngày, riêng Bạch Long
Vĩ chỉ có 89 ngày. Số ngày mưa trong mùa lũ nhiều hơn trong mùa cạn, tuy
nhiên lượng mưa thực tế do cường độ mưa quyết định phần lớn. Trong mùa cạn
lượng mưa trung bình hàng ngày đạt dưới 5 mm với tần suất từ 70% đến 90%.
Trong mùa lũ lượng mưa trung bình hàng ngày đạt từ 5 mm đến 50 mm, với tần
suất 40% đến 50% số ngày.
Độ ẩm tuyệt đối trung bình ở Hải Phòng hàng năm đạt xấp xỉ 24,7 mb.
Trong các tháng mùa đông, độ ẩm tuyệt đối từ 15 mb đến 20 mb, thấp nhất vào

8
tháng I (15,1 mb). Trong các tháng mùa hạ, độ ẩm tuyệt đối trung bình là 30 mb
đến 32 mb, cao nhất là tháng VIII (32,6 mb).
2.3. Chế độ gió bão
Hải Phòng có bờ biển dài (khoảng 125 km), chưa kể các đảo lớn nhỏ
ngoài khơi, vì vậy thường chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão, chủ yếu là các cơn
bão hình thành từ Thái Bình Dương hoặc biển Đông. Theo thống kê số cơn bão
đổ bộ vào nước ta trong nhiều năm thì ở khu vực Hải Phòng (từ Quảng Ninh
đến Ninh Bình) trung bình hàng năm Hải Phòng có từ 3 đến 5 cơn bão đổ bộ
vào, thời gian bão có khả năng đổ bộ vào thường từ tháng 6 đến tháng 10, tập
trung nhiều nhất trong ba tháng, tháng 7, 8, 9. Các cơn bão đổ bộ vào Hải
Phòng thường có tốc độ gió trung bình từ 30 m/s đến 40 m/s (110 ÷ 140
km/giờ). Gió giật có thể lên tới trên 50 m/s (180 km/giờ) ứng với chu kỳ lặp lại
20 năm. Ngoài ra, với chu kỳ lặp lại 50 năm, tốc độ gió giật đạt tới 55 m/s.
III. Đặc điểm mạng lưới sông
3.1. Mạng lưới sông chính
Các sông chính nằm trên địa bàn thành phố Hải Phòng đều là phần hạ lưu
của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình sau khi đã qua địa phận tỉnh Hải
Dương. Sông chính của Hải Phòng là những sông nhánh cấp I, cấp II của hệ
thống sông chung. Tổng số sông của toàn vùng là hơn 50; theo thống kê có 13
con sông có chiều dài trên 10 km, còn lại phần lớn là các sông nhỏ ngắn và dốc,
được phân bố chủ yếu ở rìa phía Đông Nam và ở phần giữa và rìa của phía Tây
Nam.
Có thể nói, mạng lưới sông chính của Hải Phòng bao gồm 6 sông chính:
Thái Bình, Văn Úc, Kinh Thầy, Bạch Đằng, Lạch Tray, Luộc.
- Sông Thái Bình: thuộc loại sông lớn của thành phố, sau khi chảy qua tỉnh
Hải Dương vào Hải Phòng, sông hợp lưu với sông Luộc tại Quý Cao và đổ ra
biển tại xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, có chiều dài 30 km. Ở phía hạ lưu độ
dốc đáy sông nhỏ nên tốc độ chảy yếu, sông uốn khúc quanh co, nhưng nhìn
chung vẫn chảy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam. Phần lớn lượng nước của sông
Thái Bình được phân lưu vào sông Văn Úc qua sông Mới-một sông có đặc điểm
là khá thẳng, độ dốc lớn. Do vậy, ở phía hạ lưu sông Thái Bình, sau phân lưu
sông Mới, tốc độ chảy càng nhỏ, sự bồi lắng cũng tăng lên, độ sâu trung bình chỉ
còn 2 m, chỗ rộng nhất 200 m, chỗ hẹp nhất 50m.
- Sông Văn Úc: là sông nhánh cấp II của sông Thái Bình qua Hải Dương
vào Hải Phòng tại ngã ba Kênh Đồng (ngã ba Văn Úc-Lạch Tray), có độ dốc đáy
sông trung bình, độ sâu tương đối lớn, chỗ sâu nhất có thể tới 45 m (vụng La),
sông uốn khúc, có nơi tạo thành vụng xoáy nước như vụng Ông ở khu vực Câu
Thượng. Trong sông cũng hình thành các doi bãi lớn như bãi Kênh Đồng, bãi
phà Khuyển. Hướng chảy chỉ yếu là Tây Bắc-Đông Nam, đổ ra biển tại xã Vinh
Quang huyện Tiên Lãng dài 41 km.
Sông Kinh Thầy: phần hạ lưu từ ngã ba Xi Măng ra đến cửa sông Cấm,
thuộc địa phận Hải Phòng từ ngã ba Kinh Thầy-sông Hàn, đổ ra biển tại cửa
Cấm với chiều dài 37 km. Sông có chiều rộng tương đối lớn, trung bình là 400
m, độ sâu trung bình 0,7 m. So với các sông khác ở Hải Phòng thì sông Kinh
Thầy có độ uốn khúc nhỏ nhất (1,19). Hướng chảy chủ yếu Tây Bắc-Đông Nam.
Dọc theo đoạn sông từ phà Kiền trở xuống có cảng lớn và nhiều bến bãi phụ; sự
hoạt động tấp nập của tầu thuyền phần nào có ảnh hưởng tới chế độ dòng chảy
trong sông.
- Sông Bạch Đằng: đoạn thượng lưu còn được gọi là sông Đá Bạc, vào địa
phận Hải Phòng tại Dầm Dê, đổ ra biển tại cửa Nam Triệu dài 42 km. Hướng
chảy chủ yếu là Tây Bắc-Đông Nam, đoạn giữa từ trên phà Rừng 4 km đến ngã
ba sông Ruột lớn có hướng chảy Bắc-Nam. Chiều rộng vào loại lớn nhất của
sông Hải Phòng, trung bình 1.000 m, chỗ rộng nhất đến 1.800m, độ sâu trung
bình 10 m sông có rất nhiều nhánh phụ đổ vào, nhánh lớn nhất là sông Giá. Hai
bên bờ phía thượng lưu thường có nhiều dãy núi đá vôi, phía hạ lưu lại có bãi
triều rất rộng, có nơi thành rừng sú vẹt.
- Sông Lạch Tray: Là sông nhánh của sông Văn Úc được tách ra từ ngã ba
Kênh Đồng, đổ ra biển tại Tràng Cát, quận Hải An, dài 43 km, độ sâu trung bình
4,0 m chiều rộng trung bình 120m với độ uốn khúc 1,44, vào loại lớn nhất của
sông ngòi Hải Phòng. Hướng chảy chủ yếu là Tây Bắc - Đông Nam, hai bên bờ
có bãi triều rộng. Sông Lạch Tray là tuyến đường giao thông thủy quan trọng của
thành phố.
- Sông Luộc: Nối liền sông Hồng với sông Thái Bình-hai hệ thống sông
lớn ở miền Bắc. Hằng năm, sông Luộc chuyển một lượng nước đáng kể từ hệ
thống sông Hồng sang hệ thống sông Thái Bình. Sông Luộc đi vào địa phận Hải
Phòng từ Chanh Chử, nhập lưu với sông Thái Bình tại Quý Cao, dài 18 km,
chiều rộng trung bình 4,0 m. Sông uốn khúc và bồi lắng mạnh mẽ.
3.2. Mạng lưới sông nhánh
Mạng lưới sông nhánh trên địa bàn thành phố bao gồm một số sông: Hóa,
Mới, Tam Bạc, Kinh Môn, Hàn, Rế, Giá, Đa Độ.
- Sông Hóa: là phân lưu của sông Luộc được tách ra từ ngã ba Chanh Chử
và nhập lưu với sông Thái Bình tại Trấn Dương, dài 37 km, chiều rộng trung
bình 80 m, độ sâu trung bình 3m, sông uốn khúc và có bãi rộng ở hai bên bờ
sông Hóa là ranh giới tự nhiên giữa Hải Phòng và Thái Bình.
- Sông Mới: nối liền sông Thái Bình với sông Văn Úc, trước kia là sông
nhân tạo mới được đào năm 1936. Do đoạn sông thẳng và ngắn với chiều dài 3
km, độ dốc đáy sông lớn, phía hạ lưu sông Thái Bình lại uốn khúc, do đó lượng
nước ngày càng có xu hướng chuyển qua sông Văn Úc là chính, chiếm 60%
lượng nước sông Thái Bình. Vì thế sông Mới có tốc độ chảy lớn nhất so với các
sông của thành phố, sức xói lở hai bờ và tạo lòng mạnh mẽ. Hướng chảy chủ yếu

10
là Tây-Đông, độ sâu trung bình 6 m, chiều rộng trung bình là 100 m.
- Sông Tam Bạc: nối liền sông Lạch Tray với sông Cấm (từ Niệm Nghĩa
đến Cầu Thượng Lý) dài 3 km theo hướng Tây Nam-Đông Bắc độ sâu trung bình
4 m; chiều rộng trung bình 80m. Ngoài ra ở phía Bắc thành phố có đoạn sông
Kinh Môn, là ranh giới tự nhiên với tỉnh Hải Dương, dài 12 km. Chiều rộng
trung bình 120 m, hệ số uốn khúc 2,4 và chảy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam là
chủ yếu.
- Sông Hàn: nối liền sông Kinh Thầy với sông Đá Bạc, độ sâu trung bình 4
m. Hướng chảy là Tây Nam-Đông Bắc.
- Sông Giá: có chiều dài khoảng 19km nằm ở phía Bắc thành phố Hải
Phòng, tiếp nhận nước từ sông Đá Bạc qua cống Phi Liệt và nhập lại vào sông
Bạch Đằng qua đập Minh Đức.
- Sông Rế: có tổng chiều dài trên địa bàn thành phố Hải Phòng khoảng
hơn 10km, nằm ở phía Tây của thành phố Hải Phòng (tiếp nhận nước từ sông Hà
Nhuận qua cống CT3).
- Sông Đa Độ: có chiều dài gần 50km nằm ở phía Tây Nam của thành phố Hải
Phòng, tiếp nhận nước từ sông Văn Úc qua cống Trung Trang, chảy qua địa bàn các
quận: Kiến An, Dương Kinh, Đồ Sơn; các huyện: Kiến Thụy, An Lão sau đó nhập lại
sông Văn Úc tại cống Cổ Tiểu.
IV. Đặc điểm nguồn nước
4.1. Mưa
Lượng mưa năm ở Hải Phòng khá phong phú, trung bình hàng năm đạt từ
1.600 đến 1.800 mm. Riêng đảo Bạch Long Vỹ lượng mưa năm trung bình chỉ
đạt 1127 mm (Bảng 1). Lượng mưa năm biến đổi khá lớn, tỷ số chênh lệch giữa
lượng mưa năm lớn nhất và nhỏ nhất đạt từ 1,7 lần đến 2,6 lần (Lượng mưa bình
quân nhiều năm (1961-2009 - Phụ lục bảng 1)
Xét theo không gian, lượng mưa năm có xu thế tăng dần từ biển vào đất
liền. Vùng có lượng mưa nhiều nhất là khu vực Kiến An và nội thành với lượng
mưa trên 1800 mm. Nói chung lượng mưa năm biến đổi theo không gian không
nhiều và sự biến đổi này hoàn toàn phù hợp với quy luật của sự biến đổi về địa lý
tự nhiên của khu vực Hải Phòng.
Lượng mưa trong năm như trên đã trình bày có sự biến động rất lớn và
phân phối không đều theo hai mùa khá rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Sử dụng chỉ
tiêu phân mùa vượt trung bình với suất bảo đảm lớn hơn hay bằng 50%, ở Hải
Phòng từ tháng 5 đến tháng 10 là mùa mưa, riêng Bạch Long Vĩ mùa mưa chậm
hơn một tháng, từ tháng 6 đến tháng 10.
Trong mùa mưa (tháng 5÷10) tổng lượng mưa đạt từ 1.300 mm đến 1.500
mm, chiếm 80% đến 85% tổng lượng mưa cả năm. Số ngày mưa trong năm cũng
tập trung vào những tháng này, trung bình hàng năm ở Hải Phòng có 100 đến
150 ngày mưa, trong đó 60 đến 80 ngày mưa vào các tháng 7, 8, 9. Tính chất
mưa của một trận mưa trong mùa mưa hoàn toàn khác hẳn với mùa khô, trong
mùa này thường có cường độ mưa khá lớn, lượng mưa trung bình ngày đạt trên
20 mm, trong khi mùa khô lượng mưa bình quân ngày chỉ đạt 5 mm.
Trong các tháng mùa khô mùa mưa lớn nhất thường xẩy ra không vượt
quá 50 mm/ngày, ngược lại trong những tháng mùa mưa lượng mưa ngày có thể
đạt đến trên 300 mm (Phân bố lượng mưa năm của thành phố Hải Phòng - Phụ
lục hình 2)
4.2. Nguồn nước từ nơi khác đến
Ngoài lượng mưa, Hải Phòng còn là vùng hạ lưu của hệ thống sông Hồng
và sông Thái Bình, sông ngòi Hải Phòng được tiếp nhận lượng nước theo hai
hướng từ thượng nguồn đổ về và do dòng triều từ biển dồn vào. Trung bình hàng
năm tổng lượng dòng chảy qua các sông dao động từ 0,05÷1,33 tỷ m3
Trong các tháng mùa lũ tổng lượng dòng chảy chiếm tới 75% đến 85%
lượng dòng chảy năm, những tháng mùa cạn chỉ chiếm khoảng 15% đến 25%. Về
mùa cạn, ngoài lượng nước từ thượng nguồn khá ổn định chảy về, ở Hải Phòng
còn tiếp nhận lượng nước triều với khối lượng không nhỏ từ ngoài biển dồn vào
qua các sông.
4.3. Dòng chảy sông ngòi
Dòng chảy năm thường xuyên biến động, song sự biến động đó vẫn tuân
theo một quy luật nhất định. Qua tính toán cho thấy, ba sông chính (Kinh Thầy,
Văn Úc, Thái Bình) của thành phố có sự phân phối dòng chảy năm của mỗi sông
khác nhau. Trong đó, sông Văn Úc tại Trung Trang có dòng chảy năm lớn hơn
cả, vì sông rộng và sâu, lại có độ dốc tương đối lớn, cửa sông rộng, chiếm trên
80% lượng nước từ sông Rạng, sông Gùa ở Hải Dương đổ về. Sông Kinh Thầy
tại trạm Cửa Cấm có dòng chảy năm trung bình. Riêng hạ lưu sông Thái Bình có
dòng chảy năm tương đối nhỏ, do đặc điểm của sự diến biến lòng sông mạnh mẽ.
Tại ngã ba sông Thái Bình và sông Mới, nhánh rẽ về sông Thái Bình hai bên bờ
ngày càng bị thu hẹp lại, lòng sông bị bồi lấp mạnh, sông có độ uốn khúc lớn với độ dốc
nhỏ. Do đó, nguồn nước từ thượng lưu đưa về chủ yếu chuyển qua sông Mới sang sông
Văn Úc, vì đoạn sông Mới thẳng và độ dốc đáy sông lớn.
Sự biến đổi của dòng chảy năm trên từng sông tương đối lớn như sông Kinh Thầy,
sông Văn Úc. Riêng sông Thái Bình sự biến động này có phần ít hơn.

12
Tổng lượng dòng chảy qua các sông

Với điều kiện địa lý khí hậu gần như đồng nhất, thông qua chỉ tiêu phân
mùa dòng chảy đã nêu trên, thấy rằng sông ngòi ở Hải Phòng cũng có sự thống
nhất chung về thời gian các mùa: Mùa lũ đều bắt đầu từ tháng 6, kết thúc vào
tháng 10 kéo dài năm tháng. Mùa cạn bắt đầu từ tháng 11 kết thúc vào tháng 5
năm sau kéo dài bảy tháng. Hầu hết lượng dòng chảy tháng 6,7 đều lớn hơn
lượng dòng chảy bình quân năm.
4.4. Nước dưới đất và khả năng khai thác
Ở Hải Phòng bên cạnh nguồn nước mặt dồi dào được cung cấp bởi các hệ
thống sông Hồng và sông Thái Bình, còn có nguồn nước ngầm tương đối phong
phú. Có thể chia nguồn nước ngầm thành hai phần:
a) Nước trong đất thuộc kỷ đệ tứ (Q)
Nước trong lớp bùn cát, các thấu kính hay nêm cát, cát pha. Các lớp này
nằm bên trên lớp bùn sét khá dày, tuyệt đại đa số các hố khoan đều gặp và các
mực nước xuất hiện so với mặt đất tự nhiên từ 0,5÷2,0 m. Đây là loại nước tự do
tuy phổ biến trong lưu vực, song không có giá trị về mặt cấp nước vì trữ lượng
rất nhỏ và chất lượng không đảm bảo. Nước trong tầng chứa gồm các thấu kính
cát lớn rồi đến lớp cát cuội sỏi, tầng này thường ở độ sâu 30÷40 m, là loại nước
có áp, chiều dày chứa nước thay đổi mãnh liệt từ 2m đến 30; 40 m. Chất lượng
nước phức tạp, chỗ mặn chỗ ngọt không theo một quy luật nhất định. Do chất
lượng nước như vậy nên mặc dù trữ lượng khá lớn nhưng việc dùng nước cho
sinh hoạt, cho sản xuất công nông nghiệp bị hạn chế nhiều. Mặt khác ngay những
vùng nước ngọt chỉ sau khi khai thác được một thời gian (trên 10 năm) chất lượng
nước lại thay đổi, chuyển sang nước lợ (thể hiện như một số giếng nước cấp cho
thành phố hiện nay).
b) Nước trong đá gốc
Nước ở kẽ nứt trong đá trầm tích tuổi Jura hạ (J1): Diện phân bố hẹp, chỉ
lộ ra trên một khu vực rất nhỏ bên Thủy Nguyên. Nước tồn tại dưới dạng kẽ nứt
của đá, chất lượng tốt nhưng trữ lượng nhỏ, Q = 1.000 m3/ngày đêm.
Nước trong đá trầm tích tuổi Carlu hạ (C1): Phân bố ở khu vực núi đá vôi
Xuân Sơn huyện An Lão, nước tồn tại dưới dạng kẽ nứt, mặn không dùng được
cho sinh hoạt và sản xuất.
Nước trong đá trầm tích tuổi Devon trung (D2): Phân bố ở phía Bắc khu
vực từ sông Giá đến Đá Bạc, nước tồn tại trong dạng kẽ nứt của sa diệp thạch và
đá vôi, chất lượng tốt, trữ lượng phong phú.
Nước trong đá trầm tích tuổi Silua thượng (S2) phân bố ở vùng Kiến An
kéo dài thành một vòng cung liên tục, chất lượng tốt, trữ lượng khá lớn. Đây là
tầng nước tốt nhất có nhiều khả năng cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất.
Theo tính toán sơ bộ cho kết quả Q = 2.200 m3/ngày đêm.
Nước ngầm ở Hải Phòng gồm:
- Nước trong lòng bùn cát, cát pha khi xây dựng công trình cần chú ý đến
tính ăn mòn pH-SO4 để chọn loại xi măng chống ăn mòn.
- Nước trong tầng cát dưới sâu cần tiến hành thăm dò tiếp để xác định khu
vực nước ngọt một cách chính xác về ranh giới. Tiến hành phân tích để xác định
chất lượng một cách toàn diện, xác định lưu lượng nước và đặc biệt chú ý đến
quá trình nhiễm bẩn sau thời gian khai thác.
- Nước trong tầng đá: Tập trung nghiên cứu tỉ mỉ cho các khu vực nước
ngọt như vùng đá có tuổi Jura hạ, Devon trung, Silua thượng, về các mặt chất
lượng, trữ lượng, lưu lượng tối đa, tối thiểu để khai thác hàng ngày.
Qua kết quả thăm dò chung thấy: nơi có khả năng dồi dào nguồn nước
ngầm đảm bảo cả về chất lượng và trữ lượng để cung cấp cho sinh hoạt và sản
xuất là khu vực Kiến An và phía Bắc huyện Thủy Nguyên.

Phần III
HIỆN TRẠNG VÀ CÁC VẤN ĐỀ BẤT CẬP TRONG
KHAI THÁC, SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN NƯỚC MẶT

I. Hiện trạng và bất cập trong khai thác, sử dụng tài nguyên nướ mặt
trên địa bàn thành phố
1.1. Hiện trạng và bất cập trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước
mặt trên hệ thống sông Rế
1.1.1. Hiện trạng khai thác sử dụng nguồn nước
Sông Rế hiện nay cấp nước tưới tiêu cho hơn 10.000ha đất canh tác nông
nghiệp của huyện An Dương và là nguồn nước thô quan trọng của thành phố,
phục vụ cho các nhà máy nước: An Dương (công suất 140.000 m 3/ngày, từ năm
2013 sẽ được nâng công suất lên 200.00 m 3/ngày), nhà máy nước Vật Cách hiện
tại (công suất 11.000 m3/ngày, sẽ được nâng công suất lên 60.000 m 3/ngày), nhà

14
máy nước Vật Cách mới (giai đoạn I đang thi công có công suất 25.000 m 3/ngày,
theo quy hoạch là 100.000 m3/ngày), nhà máy nước Kim Sơn (giai đoạn I đang
thi công là 25.000m3/ngày, theo quy hoạch là 200.000 m 3/ngày) đảm bảo cung
cấp đủ nhu cầu nước sạch cho nhân dân các quận Lê Chân, Hồng Bàng, Ngô
Quyền, Hải An và huyện An Dương, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
3 khu công nghiệp Nomura, Tràng Duệ và An Dương (Các công trình khai thác
nguồn nước sông Rế - Phụ lục bảng 2)
Trong thời gian qua, Công ty TNHH Một thành viên Khai thác Công trình
thủy lợi An Hải đã thực hiện các biện pháp nhằm khắc phục tình trạng ô nhiễm
sông Rế như:
- Tăng cường phương tiện, trang thiết bị kiểm tra trực tiếp hệ thống bằng
xuồng máy mật độ 1 hoặc 2 tuần/lần; kịp thời phát hiện, cùng chính quyền địa
phương lập biên bản và đình chỉ các trường hợp vi phạm Pháp lệnh Khai thác và
bảo vệ công trình thủy lợi; đầu tư trang bị máy xúc, ô tô tải để phục vụ công tác
giải tỏa, lấn chiếm trên địa bàn.
- Từ năm 2008, Công ty đã tập trung nguồn vốn, tranh thủ sự ủng hộ của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đầu tư Dự án cải tạo hệ thống An Kim
Hải; đến nay, dự án đã cơ bản hoàn thành, bờ kênh An Kim Hải từ ngã ba Kim
Khê về Hà Liên đã được nối liền, bờ kênh một số trọng điểm như khu vực cầu
Rế, nhà máy nước Vật Cách, nhà máy nước Quán Vĩnh đã được kè đá với chiều
dài trên 5 km; công ty đang hoàn thiện đắp bờ hệ thống.
- Công ty đang trình Ủy ban nhân dân thành phố phê duyệt Dự án mở rộng
hệ thống cống Kim Sơn, tăng cường bổ sung nguồn nước cho hệ thống An Kim
Hải.
- Để khắc phục tình trạng ô nhiễm nguồn nước, Công ty thường xuyên lấy
nước vào qua các cống ngang: Tỉnh Thủy, Kim Sơn, Nhu Kiều và thông qua xí
nghiệp thủy nông Kim Thành lấy nước từ cống đầu mối Bàng La, Quảng Đạt,
thau đảo liên tục qua cống Cái Tắt.
- Rà soát các cửa thoát ra hệ thống An Kim Hải, xây dựng cống điều tiết
trên kênh trục chính An Kim Hải để thực hiện quy trình vận hành hệ thống chỉ
lấy nước từ An Kim Hải cho các tuyến kênh xương cá và thoát qua các cống ra
sông Lạch Tray; xây dựng đập ngăn nước thải vào hệ thống kênh dẫn để điều
chuyển nguồn nước thải của xã Tân Tiến, An Hưng, trạm thu phí Lê Thiện
xuống hạ lưu nhà máy nước Vật Cách ra sông Cấm.
Bên cạnh đó, trước tình hình vi phạm pháp luật về tài nguyên nước ngày
càng gia tăng gây ô nhiễm suy giảm chất lượng nguồn nước sông Rế như hiện
nay, Sở Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với các ngành chức năng, các địa
phương, Công ty TNHH Một thành viên Khai thác công trình thủy lợi An Hải,
Công ty TNHH Một thành viên cấp nước Hải Phòng thường xuyên tiến hành
kiểm tra, xử lý các vi phạm về lấn chiếm, xả nước thải chưa qua xử lý vào sông
Rế, đề xuất Ủy ban nhân dân thành phố những giải pháp nhằm từng bước khắc
phục tình trạng ô nhiễm sông Rế, cụ thể:
+ Giải tỏa khu vực chợ An Đồng và dọc hai bên bờ sông Rế do dân lấn
chiếm đất, xây dựng nhà trái phép ven sông làm cản trở dòng chảy, gây ô nhiễm
môi trường để thực hiện “Dự án cải tạo hệ thống An Kim Hải” nhằm giải quyết
việc thoát nước thải của thị trấn An Dương, các xã Lê Lợi, Đặng Cương, Hồng
Thái, Đồng Thái, An Đồng ra sông Lạch Tray qua cống Luồn.
+ Lập phương án thu gom nước thải của xã Nam Sơn, Bắc Sơn huyện An
Dương, phường Hùng Vương quận Hồng Bàng, các doanh nghiệp phía bắc
đường 5, bệnh viện Giao thông vận tải nhằm thoát nước thải ra sông Cấm; điều
chỉnh chuyển hướng thoát nước thải, nước mưa của khu công nghiệp An Dương
ra cống Hoàng Lâu ra sông Lạch Tray, không để nước thải vào nguồn nước sông
Rế.
+ Có cơ chế phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương trong việc bảo
vệ chất lượng nguồn nước hệ thống An Kim Hải, hạn chế các tác nhân gây ô
nhiễm nguồn nước sông Rế từ phía đầu nguồn hệ thống An Kim Hải trên địa bàn
tỉnh Hải Dương.
1.1.2. Bất cập trong khai thác, sử dụng nguồn nước
Hiện nay nguồn nước sông Rế đang bị ô nhiễm từ nhiều nguồn: Nước thải
sinh hoạt, sản xuất của thị trấn An Dương, các xã Lê Lợi, Đặng Cương, Hồng
Thái, Đồng Thái, An Đồng thoát theo tuyến kênh An Kim Hải từ cống Hà Liên
theo đường 208 và 220 về phía đập Cái Tắt ra sông Lạch Tray, tuy nhiên hiện
nay tuyến kênh này đang bị lấn chiếm gây ứ tắc, đặc biệt là tại khu vực chợ An
Đồng dẫn đến tình trạng nước thải chảy ngược về phía sông Rế.
Nước thải sinh hoạt của xã Nam Sơn, Bắc Sơn huyện An Dương, phường
Hùng Vương quận Hồng Bàng và các doanh nghiệp phía bắc đường 5, bệnh viện
Giao thông vận tải, trung đoàn tên lửa 285 đang được xả vào kênh Bắc Nam Hùng và đưa vào
sông Rế qua cống Tây Hà (xã Bắc Sơn) và cống An Trì (phường Hùng Vương).
Theo kết quả quan trắc sông Rế năm 2011 của Trung tâm Quan trắc Môi
trường-Sở Tài nguyên và Môi trường Hải Phòng, chất lượng nguồn nước sông
Rế đã bị ô nhiễm bởi hàm lượng chất hữu cơ, amoni, kim loại nặng,… vượt giới
hạn cho phép theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt (mức
A2 trong QCVN 08: 2008/BTNMT). Cụ thể (Kết quả quan trắc chất lượng nước sông
Rế giai đoạn 2006-2010 - Phụ lục bảng 3):
- Khu vực xóm Phụng Dương (thôn Đình Ngọ, xã Hồng Phong), tổng chất
rắn lơ lửng vượt mức A2 là 2,3 lần (tháng 6), nitrit vượt 1,3 lần (tháng 12),
amoni vượt 3,8 lần (tháng 12), phenol vượt 5,8 lần (tháng 6), coliform vượt 2,6
lần (tháng 8), sắt vượt 1,4 lần (tháng 8).
- Khu Bắc Hà (xã Bắc Sơn), gần khu vực nhà máy nước Vật Cách có tổng chất rắn
lơ lửng vượt 2 lần (tháng 4), BOD và COD đều vượt 1,5 lần (tháng 6), nitrit vượt 1,8 lần

16
(tháng 12), amoni vượt 10 lần (tháng 12), phenol vượt 12,2 lần (tháng 8), coliform vượt
3,2 lần (tháng 4), sắt vượt 2,2 lần (tháng 4).
- Khu vực thôn Lương Quy (xã Lê Lợi), tổng chất rắn lơ lửng vượt 2 lần (tháng 8),
nitrit vượt 1.6 lần (tháng 12), amoni vượt 8,7 lần (tháng 12), phenol vượt 4,4 lần (tháng
10), sắt vượt 2,3 lần (tháng 8), thủy ngân vượt 1,7 lần (tháng 4).
- Khu vực tổ 3, thị trấn An Dương (gần cầu Rế), tổng chất rắn lơ lửng vượt
1.9 lần (tháng 8), BOD vượt 1,2 lần (tháng 10), nitrit vượt 2,3 lần (tháng 12),
amoni vượt 4,3 lần (tháng 12), phenol vượt 3,2 lần (tháng 10), coliform vượt 1,6
lần (tháng 8), thủy ngân vượt 1,5 lần (tháng 4). Khu vực thôn Vân Tra (xã An
Đồng), tổng chất rắn lơ lửng vượt 2,4 lần (tháng 8), nitrit vượt 1,9 lần (tháng 12),
amoni vượt 1,5 lần (tháng 12), phenol vượt 3,4 lần (tháng 4), coliform vượt 1,6
lần (tháng 10 và 12), thủy ngân vượt 1,8 lần (tháng 4).
- Mẫu nước cống Cái Tắt, tổng chất rắn lơ lửng vượt 2 lần (tháng 8), nitrit
vượt 2,6 lần (tháng 12), amoni vượt 9,9 lần (tháng 12), phenol vượt 10,6 lần
(tháng 4), thủy ngân vượt 1,6 lần (tháng 4).
Tình trạng các hộ dân, các cơ sở sản xuất, trang trại chăn nuôi, các nghĩa
trang, bãi rác nằm ngay sát sông Rế xả nước thải, rác thải trực tiếp xuống lòng
sông gây ô nhiễm nguồn nước; đặc biệt khu vực thị trấn An Dương có tình trạng
người dân xây dựng nhà kiên cố, lấn chiếm hành lang bảo vệ công trình thủy lợi.
Hiện nay, trên toàn hệ thống An Kim Hải có 58 điểm xả thải gây ô nhiễm
nghiêm trọng nguồn nước, trong đó có 32 khu dân cư, 18 doanh nghiệp, 6 nghĩa
trang, 2 bệnh viện; 423 trường hợp lấn chiếm, vi phạm hành lang bảo vệ công
trình thủy lợi, đến nay đã giải tỏa được 44 trường hợp (Bản đồ các nguồn gây ô
nhiễm sông Rế-Phụ lục hình 3).
Chất lượng các nguồn nước bị suy giảm có nguyên nhân do các ngành
chức năng chưa kiểm soát hết được chất thải, nước thải. Luật Bảo vệ môi trường
quy định việc kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường nước trong lưu vực sông, các
nguồn thải trên lưu vực sông phải được điều tra, thống kê, đánh giá và có giải
pháp kiểm soát, xử lý trước khi thải vào. Việc phát triển mới các khu sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, đô thị, dân cư tập trung trong lưu vực sông phải được xem
xét trong tổng thể toàn lưu vực, có tính đến các yếu tố dòng chảy, chế độ thuỷ
văn, sức chịu tải, khả năng tự làm sạch của dòng sông và hiện trạng sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ và phát triển đô thị trên toàn lưu vực chưa được thực hiện
đầy đủ; nguồn chất thải, nước thải đổ xuống các nguồn nước này chưa được
kiểm soát.
Sự phối hợp giữa các cơ quan được giao quản lý và vận hành là Công ty
TNHH Một thành viên Khai thác công trình thủy lợi An Hải với các cơ quan
chức năng và chính quyền địa phương chưa tốt.
1.2. Hiện trạng và bất cập trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước
mặt trên hệ thống sông Giá
1.2.1. Hiện trạng khai thác sử dụng nguồn nước
Sông Giá thuộc hệ thống sông Bạch Đằng, xưa có tên gọi là Đô Lý Giang,
bắt nguồn từ sông Đá Bạc tại khu vực xã Lại Xuân chạy qua các xã thuộc phía
Đông Bắc của huyện Thuỷ Nguyên, rồi đổ vào sông Bạch Đằng tại khu vực Đầm
De thuộc thị trấn Minh Đức. Sông Giá là dòng sông vừa cung cấp nguồn nước
cho sản xuất nông nghiệp gồm hàng chục nghìn ha, lại vừa là nguồn nước ngọt
chủ đạo phục vụ sản xuất nước sạch cho hàng vạn hộ dân thuộc địa bàn huyện
Thủy Nguyên.
Hiện nay, sông Giá đang trực tiếp phục vụ tưới tiêu cho khoảng 12.400 ha
đất canh tác nông nghiệp, 600 ha nuôi trồng thủy sản nước ngọt, cấp nước sinh
hoạt cho khoảng 300 nghìn dân của huyện Thủy Nguyên, cấp nước cho các nhà
máy, khu công nghiệp, trong đó cung cấp nước thô cho các công ty, nhà máy lớn
như: Công ty Xi măng Chinfon, Công ty Xi măng Hải Phòng, Công ty Công
nghiệp tàu thủy Nam Triệu, Công ty Công nghiệp tàu thủy Phà Rừng, Công ty cổ
phần Nhiệt điện Hải Phòng, Công ty cổ phần Dương Kinh, khu công nghiệp
VSIP và các nhà máy nước sạch nông thôn v.v…
1.2.2. Bất cập trong khai thác, sử dụng nguồn nước
Mặc dù được đánh giá là sông sạch nhất thành phố song hiện nay sông Giá
cũng đang có nguy cơ bị ô nhiễm do nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp
chưa qua xử lý xả trực tiếp vào nguồn nước từ các hộ gia đình và tổ chức sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ. Đặc biệt là nước thải từ các khu công nghiệp đóng tàu, sản
xuất thép, khai thác và chế biến khoáng sản (như khu vực khai thác khoáng sản An
Sơn thuộc đầu nguồn sông Giá), các bãi rác ven sông, dư lượng thuốc bảo vệ thực
vật trong sản xuất nông nghiệp…là những tác nhân chính gây ô nhiễm nguồn nước
(Kết quả quan trắc chất lượng nước sông Giá giai đoạn 2006-2010- Phụ lục bảng 4)
Hiện nay, trên hệ thống thủy lợi Thủy Nguyên có 35 trường hợp xả thải
gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước, từ tháng 9/2011 đến nay có 17 trường
hợp lấn chiếm đất công trình thủy lợi (Bản đồ các nguồn gây ô nhiễm sông Giá-
Phụ lục hình 4).
1.3. Hiện trạng và bất cập trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước
mặt trên hệ thống sông Đa Độ
1.3.1. Hiện trạng khai thác sử dụng nguồn nước
Sông Đa Độ có trữ lượng nước khoảng 17 triệu m 3, chảy qua địa phận các
quận, huyện Kiến An, Đồ Sơn, Kiến Thụy, Dương Kinh, An Lão. Hiện nay, sông
Đa Độ đang đảm nhận các chức năng:
- Tưới tiêu chủ động cho sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản;
- Cấp nước thô cho các nhà máy sản xuất nước sạch của thành phố: Nhà
máy nước Cầu Nguyệt (công suất 40.000m 3/ngày), sông He (10.000m3/ngày),

18
Hưng Đạo (dự kiến công suất 25.000m 3/ngày); ngoài ra nhà máy nước Viwaseen
cấp nước thô cho Khu công nghiệp Đình Vũ. Theo Quy hoạch cấp nước đến năm
2020-2025, tầm nhìn đến năm 2030, nhà máy nước Cầu Nguyệt sẽ có công suất
là 200.000 m3/ngày, Hưng Đạo là 200.000 m3/ngày, Viwaseen là 170.000
m3/ngày phục vụ sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt cho nhân dân của các
quận/huyện trong lưu vực sông.
1.3.2. Bất cập trong khai thác, sử dụng nguồn nước
Tình trạng vi phạm, lấn chiếm hành lang bảo vệ công trình thủy lợi dọc hai
bên bờ sông diễn ra với nhiều hình thức như: Khoanh ao, đầm nuôi trồng thủy
sản; Trông cây lâu năm, cây ăn quả trên bờ kênh; San lấp bờ kênh để cấy lúa,
trồng rau; Làm nhà tạm, kể cả nhà kiên cố trong phạm vi bảo vệ công trình thủy
lợi; Mai táng sát bờ kênh, bờ sông, đặc biệt là nghĩa trang phường Tràng Minh-
quận Kiến An. Theo số liệu thống kê của Công ty TNHH Một thành viên khai
thác công trình thủy lợi Đa Độ, tính đến tháng 11/2011, tổng diện tích đất hai
bên bờ sông Đa Độ bị các công trình lấn chiếm là 916.153 m 2, trong đó đoạn
sông trên địa bàn huyện Kiến Thụy và quận Dương Kinh bị lấn chiếm: 615.202
m2; quận Kiến An: 83.894 m2; và huyện An Lão: 217.057 m2 (Bản đồ các nguồn
gây ô nhiễm sông Đa Độ - Phụ lục hình 5)
Hiện nay, trên hệ thống sông có khoảng 11 bệnh viện lớn, nhỏ (bệnh viện
Kiến An, bệnh viện Lao, bệnh viện chỉnh hình Nauy, bệnh viện Ruồn…);
khoảng 60 trạm xá xã, phường; 120 cơ sở sản xuất công nghiệp; và 50 làng nghề
sản xuất tiểu thủ công nghiệp, chăn nuôi gia súc, chế biến lương thực, thực
phẩm, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật... Hầu hết các cơ sở này đều không có
công trình xử lý nước thải và xả trực tiếp gây ô nhiễm nguồn nước sông Đa Độ.
(Kết quả quan trắc chất lượng nước sông Đa Độ giai đoạn 2006-2010 - Phụ lục bảng
5, Thống kê, tổng hợp các điểm xả thải điển hình gây ô nhiễm nghiêm trọng
nguồn nước sông Đa Độ - Phụ lục bảng 6 )
1.4. Hiện trạng và bất cập trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước
mặt trên hệ thống sông Chanh Dương
1.4.1. Hiện trạng khai thác sử dụng nguồn nước
Kênh Chanh Dương là kênh tưới tiêu chính của toàn huyện Vĩnh Bảo.
Kênh có chiều dài 24,5km từ cống Chanh Chử (Thắng Thủy) đến cống I (Trấn
Dương) đi qua địa bàn 16 xã, thị trấn của huyện.
Nguồn nước chính cung cấp cho kênh Chanh Dương lấy từ sông Luộc,
thông qua các công trình đầu mối cống Chanh Chử, cống Ba Đồng, cống Đồng
Ngừ.
Hệ thống thủy nông đảm bảo tưới tiêu cho 10.400ha diện tích đất nông
nghiệp và dân sinh kinh tế trên địa bàn huyện. Ngoài ra, còn có nhiệm vụ cung
cấp nước thô cho 25trạm nước sạch trên địa bàn huyện (trong đó có 01 trạm
2.500m3/ngàyđêm; 02 trạm 500m3/ngàyđêm và 22 trạm 200 m3/ngàyđêm) cung
cấp nước nước sạch cho 30 xã, thị trấn trên địa bàn huyện.
1.4.2. Bất cập trong khai thác, sử dụng nguồn nước
Do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và nước biển dâng; thủy triều hoạt
động mạnh, nước mặn dâng cao (từ 13km đến 15km), nguồn nước ngọt bị thu
hẹp, bão lũ và mưa lớn xảy ra gây khó khăn cho công tác tiêu úng.
Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và kinh doanh phát triển,
nguồn nước thải chưa được xử lý khi xả thải ra hệ thống kênh tưới tiêu gây ảnh
hưởng đến chất lượng nước.
Sản xuất nông nghiệp phát triển, thời tiết luôn diễn biến phức tạp, phát
sinh nguồn sâu bệnh nhiều, ảnh hưởng từ nguồn thuốc bảo vệ thực vật ở trên
đồng ruộng tiêu thoát ra các hệ thống kênh và qua kênh Chanh Dương làm ảnh
hưởng đến chất lượng nước của hệ thống.
Các ao hồ trong khu dân cư nông thôn bị thu hẹp, lượng nước thải sinh
hoạt và chăn nuôi trong khu dân cư nông thôn phần lớn được thải qua các kênh
nhánh tưới tiêu và kênh trục ra hệ thống kênh Chanh Dương và một phần tiêu
thoát trực tiếp qua các kênh và cống qua đê khác.
Nước thải chưa qua xử lý của các trại chăn nuôi gia súc, gia cầm; nước
thải của các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề trên địa bàn huyện
Vĩnh Bảo xả thải ra các hệ thống kênh mương thủy lợi và dồn về hệ thống trung
thủy nông cũng là những tác nhân làm suy giảm chất lượng nguồn nước (Kết quả
phân tích chất lượng nước sông Chanh Dương năm 2013 - phụ lục bảng 7, Bản
đồ các nguồn gây ô nhiễm sông Chanh Dương - Phụ lục hình 6)
1.5. Hiện trạng và bất cập trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước
mặt trên hệ thống trung thủy nông Tiên Lãng
1.5.1. Hiện trạng khai thác sử dụng nguồn nước
Hệ thống trung thủy nông Tiên Lãng được chia tách thành 2 khu vực độc lập Bắc
– Nam sông Mới, có nhiệm vụ cung cấp nước tưới, tiêu cho hơn 23.000 ha cây trồng
nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, các ngành kinh tế và nước sinh hoạt.
Hệ thống công trình thủy lợi trên hệ thống trung thủy nông Tiên Lãng gồm 64
cống dưới đê, 53 cống đập điều tiết nội đồng, 79 trạm bơn điện, 237,7km kênh mương –
trong đó có 43km kênh trục chính.
1.5.2. Bất cập trong khai thác, sử dụng nguồn nước
Hiện nay toàn bộ nước thải tại các khu công nghiệp, nước thải sinh hoạt của 23
xã, thị trấn và Công ty TNHH Một thành viên Nông nghiệp Quý Cao đều xả vào hệ
thống kênh trung thủy nông Tiên Lãng.
Huyện Tiên Lãng gồm 23 xã, thị trấn, dân số đông, có nhiều lĩnh vực có hoạt
động liên quan đến việc xả nước thải vào hệ thống như: quy hoạch khu công nghiệp,
phát triển làng nghề truyền thống, phát triển kinh tế trang trại, dịch vụ du lịch, Công ty
TNHH Giầy Nam Thiện thuộc xã Bắc Hưng...hầu hết các địa điểm xả nước thải vào hệ
thống đều chưa được xử lý, gây ô nhiễm nguồn nước.

20
Kênh cống Khuể từ cầu Chè đến đập Mũi Tây thuộc địa bàn thị trấn Tiên Lãng, dọc
bờ kênh bên phía dân cư hàng ngày lượng nước thải do một số hộ dân làm bún máy, bánh,
làm đậu phụ, giết mổ gia súc, gia cầm xả ra kênh gây ô nhiễm nguồn nước nghiêm trọng.
Ngoài ra, các khu vực gây ô nhiễm khác như: khu vực suối khoáng thuộc xã
Bạch Đằng, khu vực da giầy thị trấn Tiên Lãng, bệnh viện huyện Tiên Lãng, phòng
khám 2 Hùng Thắng, phòng khám 4 Đông Quy; khu vực các chợ trung tâm như chợ
Đôi, chợ Đông Quy, chợ Vàm Láng; khu vực nuôi trồng thủy sản Tiên Hưng; các trại
lợn, trại gà trên toàn huyện; các khu vực nghĩa trang của xã trong toàn huyện.
Công tác quản lý trong khai thác sử dụng và bảo vệ nguồn nước trên hệ thống
trung thuỷ nông Tiên Lãng còn nhiều bất cập gây cản trở trong việc sử dụng hiệu quả và
phát triển bền vững nguồn nước như:
- Thiếu quy hoạch tổng thể dài hạn về khai thác, sử dụng nguồn nước, dẫn đến thiếu sự
hài hòa giữa các mục tiêu khai thác, sử dụng nước trên hệ thống trung thủy nông.
- Chưa tuân thủ và chấp hành đúng quy trình trong việc khai thác, sử dụng nguồn
nước cũng như trong quản lý, kiểm soát xả thải vào nguồn nước.
- Nhận thức của người dân về nhu cầu bảo vệ nguồn nước ở huyện Tiên Lãng nói
chung, của hệ thống thủy nông huyện nói riêng còn hạn chế (Bản đồ các nguồn gây ô
nhiễm hệ thống trung thuỷ nông Tiên Lãng - Phụ lục hình 7)
1.6. Hiện trạng và bất cập trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước
mặt trên hệ thống kênh Hòn Ngọc
1.6.1. Hiện trạng khai thác sử dụng nguồn nước
Hòn Ngọc là một kênh nhỏ dài 28,4 km, chiều rộng lớn nhất là trên 100m,
chiều rộng nhỏ nhất là khoảng 36m, bắt nguồn từ sông Kinh Thầy tại cống An
Sơn, xã An Sơn và đổ ra sông Cửa Cấm tại cống Bính Động, xã Hoa Động. Kênh
chảy uốn khúc qua địa phận 16 xã thuộc huyện Thuỷ Nguyên là: An Sơn, Phù
Ninh, Tân Dương, Thiên Hương, Cao Nhân, Hợp Thành, Thuỷ Sơn, Mỹ Đồng,
Kỳ Sơn, Quảng Thanh, Lại Xuân, Chính Mỹ, Kênh Giang, Đông Sơn, Lâm
Động, Hoa Động. Ngoài nguồn cung cấp nước chính là sông Kinh Thày, kênh
Hòn Ngọc còn được cung cấp nước bởi 05 con kênh nhánh là kênh Núi Lấm,
Phù Yên, Kiền Bái, Thiên Lâm và Chu. Trữ lượng nước kênh Hòn Ngọc đạt 20
triệu m3.
Cùng với sông Giá, kênh Hòn Ngọc là nguồn cung cấp nước chính phục
vụ sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản đồng thời có nhiệm vụ quan trọng
là cấp nước sinh hoạt cho dân sinh, công nghiệp, dịch vụ, phát triển giao thông
thuỷ và du lịch sinh thái, góp phần cải tạo môi trường sinh thái trên địa bàn
huyện. Ngoài chức năng trên, kênh Hòn Ngọc còn phải hứng chịu toàn bộ nước
thải công nghiệp, dân sinh và nước mưa trên địa bàn đều tập trung để chảy ra
sông Cấm qua cống đầu mối là cống Bính Động (xã Hoa Động). Nhiệm vụ cụ
thể của kênh Hòn Ngọc hiện nay là:
- Phục vụ nước tưới cho 7.328,9 ha đất sản xuất lúa và trồng màu; 345,6
ha cho nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt; cung cấp nước sinh hoạt với sản lượng
trung bình 11.050 m3 /ngày đêm;
- Cung cấp nước thô cho các công ty, nhà máy lớn như Việt Ý: 175.158m 3
(năm 2012), Dương Kinh: 354.183 m3 (năm 2012).
Ngoài vai trò cung cấp nước cho ngành sản xuất nông nghiệp và nuôi
trồng thuỷ sản, kênh còn cấp nước cho hoạt động sản xuất công nghiệp, kinh
doanh cũng như các cơ sở sản xuất nhỏ, làng nghề, sản xuất hộ gia đình, các cơ
sở y tế như: làng nghề Mỹ Đồng (xã Mỹ Đồng), Bệnh viện Thuỷ Nguyên (xã
Thuỷ Sơn), Xí nghiệp Xăng dầu K31 (xã Kỳ Sơn), Công ty Thép Sông Đà (xã
Hoàng Động), nhà máy giấy (xã Hoàng Động), Công ty giầy Aurora (xã Thiên
Hương), Công ty Chế biến hương liệu thực phẩm Việt Nam (xã Đông Sơn),
Công ty TNHH Vũ Hải (xã Đông Sơn), Công ty giầy da Trường Sơn (xã Kênh
Giang), Công ty bao bì Trường Hồng (xã Đông Sơn), Công ty TNHH SanFong
(xã Kênh Giang), Công ty TNHH Vĩnh An (xã Kênh Giang), Công ty Alliangce
Mine Rals Việt Nam (xã Kênh Giang), Công ty TNHH Mai Phương (xã Kênh
Giang).
1.6.2. Bất cập trong khai thác, sử dụng nguồn nước
Tuy chưa có cuộc điều tra chính thức nào về chất lượng môi trường nước
kênh Hòn Ngọc nhưng đây là con kênh chịu sự xả thải của tất cả các ngành nghề
sản xuất kinh doanh, nước thải dân sinh của 16 xã kênh chảy qua. Điều này đã
ảnh hưởng đến chất lượng nước của kênh Hòn Ngọc, ảnh hưởng đến nguồn nước
ngọt cung cấp cho các hoạt động sản xuất, dân sinh trên địa bàn. Thực trạng khai
thác, sử dụng nguồn nước, xả nước thải vào nguồn nước kênh Hòn Ngọc cho
thấy một số nguyên nhân và nguy cơ làm suy thoái chất lượng nước kênh Hòn
Ngọc như sau:
- Nước thải sinh hoạt chưa qua xử lý của hầu hết các hộ gia đình thuộc 16
xã đổ thẳng vào kênh là một trong những tác nhân gây ô nhiễm nguồn nước.
Ngay tại đầu cầu Trịnh Xá bắc qua kênh Hòn Ngọc thuộc địa bàn xã Thiên
Hương có hai điểm chuyên rửa, sửa chữa xe ô tô xả nước thải kèm theo dầu máy
chảy thẳng xuống kênh gây ô nhiễm nguồn nước. Lượng dầu mỡ dư thừa nổi và
lan rộng trên mặt nước gây ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước cung cấp cho các nhà
máy nước của các xã có kênh Hòn Ngọc chảy qua.
- Hiện nay, nhiều nguồn nước thải từ các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và
y tế thải vào kênh Hòn Ngọc, cụ thể: Làng nghề Mỹ Đồng (xã Mỹ Đồng), garage Anh Quý
(xã Thuỷ Sơn), garage Thanh Hà (xã Thuỷ Sơn), Bệnh viện Thuỷ Nguyên (xã Thuỷ Sơn),
các cơ sở sản xuất bún tại xã Thiên Hương, bãi rác An Sơn (xã An Sơn). Việc này gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến chất lượng nguồn nước cung cấp cho các nhà máy nước của các
xã có kênh Hòn Ngọc chảy qua phục vụ sinh hoạt cho hàng nghìn hộ dân (Kết quả quan
trắc chất lượng nước kênh Hòn Ngọc năm 2013 - phụ lục bảng 8, Bản đồ các nguồn gây
ô nhiễm hệ thống kênh Hòn Ngọc - Phụ lục hình 8)

22
- Kênh Hòn Ngọc cung cấp nước chính cho diện tích đất làm nông nghiệp của 16 xã,
trên địa bàn, đồng thời nước thải của 7.328,9 ha đất làm nông nghiệp, mang theo dư lượng
thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật xả trực tiếp vào kênh hoặc qua 05 kênh nhánh là kênh
Núi Lâm, Phù Yên, Kiền Bái, Thiên Lâm và Chu.
- Một số dự án khu công nghiệp, nhà máy sản xuất và khu dân cư tập trung được xây
dựng ngay trên đất công trình và hành lang bảo vệ làm thu hẹp dòng chảy, giảm dung tích
tích trữ và gây ô nhiễm nguồn nước.
- Việc lập và thực hiện quy hoạch, kế hoạch khai thác, sử dụng nguồn nước còn
nhiều bất cập như: Hầu hết các nguồn nước đều chưa có phân vùng mục đích khai thác, sử
dụng và bảo vệ, chưa có phân vùng xả thải; các giấy phép khi thác, sử dụng tài nguyên nước
và xả thải vào nguồn nước chưa thực sự được xem là công cụ phục vụ quản lý, bảo vệ tài
nguyên nước; việc thực hiện các quy định trong giấy phép chưa được quan tâm.
II. Nguyên nhân gây ô nhiễm suy giảm chất lượng nguồn nước
Quá trình nghiên cứu đánh giá hiện trạng và các vấn đề bất cập trong khai thác sử
dụng nước mặt trên hệ thống các sông: Rế, Giá, Đa Độ, Chanh Dương; kênh Hòn Ngọc
và hệ thống trung thuỷ nông Tiên Lãng cho thấy tác nhân gây ô nhiễm nguồn nước của
các hệ thống bao gồm:
2.1. Ô nhiễm nguồn nước do các hoạt động xả thải:
- Nguồn dư lượng thuốc trừ sâu và bảo vệ thực vật. Trong quá trình chăm
sóc lúa và các cây trồng khác bà con nông dân đã sử dụng một lượng thuốc trừ
sâu, thuốc bảo vệ thực vật không nhỏ trên cánh đồng nằm trong lưu vực của các
hệ thống. Một phần lớn dư lượng thuốc trừ sâu và bảo vệ thực vật này đã theo
đường tiêu thoát nước đi vào nguồn nước.
- Nguồn nước xả thải của các khu công nghiệp tập trung, cụm công
nghiệp, nước thải của các làng nghề. Đây là nguồn gây ô nhiễm quan trọng cần
phải được quan tâm sử lý triệt để. Theo quy hoạch trên địa bàn thành phố có 16
khu công nghiệp và 39 cụm công nghiệp cùng rất nhiều làng nghề sản xuất thủ
công mỹ nghệ truyền thống đang hoạt động với công suất lớn. Căn cứ luật môi
trường, luật Tài nguyên nước… quy định các chất thải, nước thải nguy hại phải
được thu gom xử lý đảm bảo tiêu chuẩn mới được xả thải ra môi trường. Tuy
nhiên hiện tại việc tuân thủ pháp luật về môi trường, pháp luật về Tài nguyên
nước hiện nay còn rất nhiều hạn chế như là việc xử lý nước thải.
- Nguồn thải từ các bệnh viện, trung tâm y tế quận, huyện, trạm y tế của
các xã, phường. Đây là một tác nhân hết sức nguy hiểm gây ô nhiễm, các chất
thải nguy hại (chất thải y tế) rất khó xử lý.
- Các nghĩa trang nằm dọc theo các bờ sông: từ tập quán, phong tục của
từng địa phương việc an táng, cát táng gây ra mất vệ sinh ô nhiễm nguồn nước.
- Các trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm có quy mô lớn của các địa phương được
bố trí chăn nuôi sát cạnh các nguồn nước trong khi công tác thu gom xử lý chất thải rắn,
nước thải chưa được quan tâm xử lý đúng tiêu chuẩn kỹ thuật.
- Các bãi rác chôn lấp rác thải sinh hoạt của các xã, thị trấn thường được
bố trí cạnh các dòng sông, hệ thống công trình thuỷ lợi không được xây dựng
đúng quy trình đã biến thành nguy cơ gây ô nhiễm cho nguồn nước mặt.
- Nước thải sinh hoạt của các khu dân cư không được thu gom xử lý chảy
trực tiếp tới nguồn nước.
- Giao thông vận tải thuỷ trên các sông: Rế, Giá, Đa Độ, Chanh Dương;
kênh Hòn Ngọc và hệ thống trung thuỷ nông Tiên Lãng làm nguồn nước ô nhiễm
dầu mỡ ảnh hưởng đến chất lượng nước mặt các hệ thống này.
- Hải Phòng là thành phố cửa sông ven biển các nguồn nước của thành phố
là hạ lưu của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình do vậy phải chịu toàn bộ
lượng chất thải từ thượng nguồn của hai hệ thống sông này dồn về. Đây là một
trong các tác nhân quan trọng trong việc quản lý liên quan đến liên vùng, liên
tỉnh của các cấp có thẩm quyền chỉ đạo. Cần phải có sự phối hợp giữa các tỉnh
thành phố và Bộ ngành Trung ương.
2.2. Các nguồn nước của thành phố là hạ lưu của hệ thống sông Hồng và sông Thái
Bình do vậy phải chịu một lượng chất thải từ thượng nguồn của hai hệ thống sông này dồn
về. Đây là một trong các tác nhân quan trọng trong việc quản lý liên quan đến liên vùng,
liên tỉnh của các cấp có thẩm quyền chỉ đạo. Cần phải có sự phối hợp giữa các tỉnh thành
phố và Bộ ngành Trung ương.
2.3. Đầu tư ngân sách cho các công trình bảo vệ nguồn nước còn hạn chế.
2.4. Nhận thức của doanh nghiệp, cộng đồng dân cư đối với việc khai thác,
sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước không đầy đủ và toàn diện, chưa nhận thức
hết tầm quan trọng của nguồn nước ngọt.
2.5. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật chưa hiệu quả, chưa đạt được
chuyển biến trong ý thức , nhận thức, chấp hành, thực thi pháp luật của nhân dân, doanh
nghiệp, nhất là một bộ phận cán bộ, công chức làm công tác quản lý nguồn nước ở các
cấp.
2.6. Công tác quản lý nhà nước chưa đáp ứng yêu cầu, chưa có sự phối hợp chặt
chẽ giữa các sở, ngành và chính quyền địa phương và các đơn vị liên quan. Trách nhiệm
của người đứng đầu các cơ quan quản lý nhà nước chưa được đề cao; các cơ quan quản lý
nhà nước chưa thực hiện đúng các quy định, nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của pháp
luật.
2.7. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm về khai thác, sử dụng tài
nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước, lấn chiếm hành lang bảo vệ nguồn nước đã
được triển khai tại các cấp. ngành, địa phương. Tuy nhiên, chất lượng các cuộc thanh
tra, kiểm tra còn rất hạn chế, không phát hiện hết những thiếu sót của cơ sở sản
xuất hoặc hướng dẫn cơ sở sản xuất không đầy đủ việc khắc khục những thiếu
sót, xử lý chưa nghiêm các trường hợp vi phạm.
2.8. Hải Phòng là thành phố cửa sông ven biển, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu,
quá trình dâng cao của mực nước biển vào đất liền dưới tác động của thuỷ triều làm tăng

24
nguy cơ ngập lụt và xâm nhập mặn các địa phương ven biển. Xâm nhập mặn bị đẩy sâu
vào trong đất liền sẽ gây mất cân bằng hệ sinh thái, mục đích canh tác sử dụng đất và ô
nhiễm nguồn nước ngọt. Ngoài ra biến đổi khí hậu và nước biển dâng còn ảnh hưởng và
đe dọa đến sự phát triển bền vững của nhiều ngành kinh tế khác như: xây dựng, giao
thông, công nghiệp, thương mại…cần phải có các giải pháp trong việc ứng phó với nước
biển dâng như xây dựng hệ thống các công trình ngăn mặn, nâng cấp hệ thống đê sông và
đê biển giảm thiểu ngập lụt do nước biển dâng.

Phần IV
MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP BẢO VỆ NGUỒN
NƯỚC NGỌT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ GIAI ĐOẠN 2013-2020

I. Mục tiêu
1.1. Mục tiêu tổng quát:
Đảm bảo số lượng, chất lượng nguồn nước ngọt, phục hồi chất lượng
nguồn nước ngọt của các sông Đa Độ, sông Giá, sông Rế, sông Chanh Dương,
kênh Hòn Ngọc và hệ thống trung thuỷ nông Tiên Lãng cung cấp đủ cho nhu
cầu, đời sống nhân dân; sản xuất của các ngành kinh tế-xã hội của thành phố.
1.2. Mục tiêu cụ thể:
- Giai đoạn 2013-2015:
+ Lập kế hoạch di chuyển các công trình xây dựng vi phạm hành lang bảo
vệ. Ngăn chặn các nguồn phát sinh gây ô nhiễm mới ảnh hưởng đến các nguồn
nước ngọt. Từng bước cải thiện tình trạng suy thoái, ô nhiễm các sông Rế, sông
Giá, sông Đa Độ, duy trì chất lượng nguồn nước đối với sông Chanh Dương,
kênh Hòn Ngọc và hệ thống trung thủy nông Tiên Lãng như chỉ số kiểm soát
năm 2013.
+ 100% các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư trên địa
bàn thành phố nâng cao ý thức trách nhiệm về bảo vệ nguồn nước. 100% cán bộ,
công chức làm công tác quản lý tài nguyên nước và môi trường các cấp được tập
huấn, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ.
+ Kiểm soát 50% lượng nước được xử lý trước khi thải ra môi trường các
lưu vực sông; bảo đảm thu gom toàn bộ lượng nước thải, không để xả thải trực
tiếp ra sông, trước mắt đối với các sông: Giá, Rế, Đa Độ, Chanh Dương, kênh
Hòn Ngọc, hệ thống trung thuỷ nông Tiên Lãng.
+ Lập Bản đồ địa chính, xác định hành lang bảo vệ, cắm mốc chỉ giới
hành lang bảo vệ nguồn nước các sông: Rế, Giá, Đa Độ, Chanh Dương; kênh
Hòn Ngọc, hệ thống trung thuỷ nông Tiên Lãng.
+ Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, khai thác và sử
dụng tài nguyên nước; phân cấp, xác định rõ chủ thể quản lý các sông; Xây dựng
quy chế phối hợp bảo vệ nguồn nước giữa các ngành, địa phương.
- Giai đoạn 2016-2020:
+ Phấn đấu đến năm 2020 chất lượng nước của các sông Rế, sông Giá,
sông Đa Độ, sông Chanh Dương, kênh Hòn Ngọc và hệ thống trung thuỷ nông
Tiên Lãng đạt tiêu chuẩn cho phép theo các quy chuẩn hiện hành về cấp nước
cho các mục đích khai thác, sử dụng; duy trì và áp dụng đồng bộ, thường xuyên
có hiệu quả công tác bảo vệ nguồn nước trên hệ thống các sông này.
+ Trong phạm vi hành lang, bảo vệ nguồn nước không còn công trình xây
dựng trái phép tồn tại, không còn các cửa xả trực tiếp nước thải vào nguồn nước.
II. Nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ nguồn nước ngọt trên địa
bàn thành phố
2.1. Tuyên truyền, nâng cao ý thức, trách nhiệm của tổ chức, cộng đồng
dân cư trong khai thác, sử dụng và bảo vệ nguồn nước ngọt có ý nghĩa quyết
định đối với sự sống.
- Xây dựng mô hình quản lý, bảo vệ nguồn nước có sự tham gia của cộng
đồng dân cư.
- Ứng dụng mô hình quản lý, bảo vệ tài nguyên nước với quan điểm nước
là tài sản chung, áp dụng các mô hình quản lý, bảo vệ nguồn nước với quan điểm
nước là hàng hóa kinh tế. Triển khai việc giáo dục ngoại khóa về bảo vệ tài
nguyên nước và môi trường cho toàn bộ học sinh tiểu học và trung học cơ sở trên
Tải bản FULL (53 trang): https://bit.ly/3vEGIE9
địa bàn thành phố. Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
- Tạo sự chuyển biến nhận thức bảo vệ nguồn nước đối với toàn xã hội về
tình trạng ô nhiễm, tầm quan trọng của việc phải bảo vệ, cải thiện chất lượng các
nguồn nước ngọt trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
2.2. Tăng cường kiểm soát các nguồn thải gây ô nhiễm nguồn nước, kiểm
soát chặt chẽ hoạt động khai thác và sử dụng nước bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả
và bền vững; đánh giá được hiện trạng khai thác sử dụng và nhu cầu sử dụng
nước của cơ sở khai thác, sử dụng nguồn nước; sử dụng nguồn nước phải có
Giấy phép khai thác, sử dụng theo quy định.
- Thống kê, kiểm kê các nguồn xả thải vào nguồn nước; phân vùng nguồn
nước theo mục đích khai thác, sử dụng, bảo vệ các sông Rế, sông Giá, sông Đa
Độ, sông Chanh Dương, kênh Hòn Ngọc và hệ thống trung thuỷ nông Tiên Lãng.
- Thiết lập, xây dựng cơ sở dữ liệu, thông tin và ứng dụng mô hình tổng
thể để đánh giá và dự báo một cách hệ thống và đầy đủ diễn biến số lượng, chất
lượng nguồn nước mặt của thành phố; phạm vi, mức độ và các mối quan hệ giữa
các nguồn gây ô nhiễm tới chất lượng nguồn nước các sông cấp nước ngọt.
- Xử lý những vi phạm pháp luật về khai thác và xả thải vào nguồn nước.
Chặn đứng các nguồn xả thải vào nguồn nước, điều tra, thống kế, kiểm kê các cơ
sở phát thải gây ô nhiễm nguồn nước, quan trắc phân tích theo tiêu chuẩn hiện
hành, buộc các cơ sở sản xuất có phát thải phải có giấy phép xả thải mới được xả
thải vào môi trường.

26
- Lập danh mục các vị trí xả thải (nước thải, rác thải) kế hoạch xử lý triệt
để, không để hình thành các bãi rác gần nguồn nước gây ô nhiễm nước.
- Ủy ban nhân dân cấp huyện rà soát các nghĩa trang, thống kê số lượng
mồ mả lập quy hoạch phương án, lộ trình di dời theo quy hoạch nông thôn mới
và tiêu chuẩn vệ sinh quy định.
- Xây dựng các trạm quan trắc cố định, quan trắc định kì, thường xuyên
thông báo các thông tin, dữ liệu chính về chất lượng nguồn nước các sông phấn
đấu đến 2016-2020 các trạm quan trắc được nâng cấp thành trạm quan trắc tự
động.
2.3. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phục vụ
quản lý tài nguyên nước; chủ động xây dựng các cơ chế, chính sách kiểm soát ô
nhiễm nguồn nước liên tỉnh Hải Phòng-Hải Dương-Thái Bình, Hải phòng-Quảng
Ninh trong cùng một lưu vực sông nhằm đảm bảo yêu cầu kiểm soát tổng thể,
toàn diện về tổng trữ lượng và chất lượng nước trong các lưu vực sông.
- Rà soát, quy định cụ thể, rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ
thể đối với từng sở, ban, ngành trong quản lý tổng hợp và thống nhất về tài
nguyên nước trên địa bàn thành phố tránh chồng chéo, cản trở việc thực thi các
Tải bản FULL (53 trang): https://bit.ly/3vEGIE9
nhiệm vụ. Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
- Tiến hành thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định về khai thác,
sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước đối với toàn bộ các
nguồn nước ngọt. Xây dựng quy chế, giám sát, phối hợp trong xử lý vi phạm
hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước.
2.4. Rà soát quy hoạch hệ thống các công trình thủy lợi, quy hoạch hệ thống thu
gom; phân chia lưu vực, tiểu vùng thoát nước mặt, xác định đúng, đủ số lượng công
trình, trạm xử lý nước thải, hạn chế tiến tới chấm dứt tình trạng nước thải, nước chảy
tràn trên bề mặt đổ, xả trực tiếp vào các nguồn nước trên địa bàn thành phố.
- Lập quy hoạch hành lang và cắm mốc bảo vệ các nguồn nước ngọt chống
xâm nhập mặn của thành phố; thực hiện quy hoạch và đầu tư hệ thống hạ tầng kỹ
thuật về cấp thoát nước, thu gom xử lý nước thải, chất thải rắn, giao thông đường
thủy, di chuyển các nghĩa trang, bãi rác trong phạm vi bảo vệ.
- Xây dựng quy hoạch hệ thống thu gom nước thải, nước mưa tại các khu
vực dân cư tập trung thuộc lưu vực các nguồn nước ngọt giai đoạn 2013-2015;
lập quy hoạch đối với các sông Rế; sông Đa Độ; kênh Hòn Ngọc.
- Xây dựng các công trình bảo vệ lòng dẫn, bảo vệ hai bên bờ sông (đắp
bờ sông, kè 2 bên bờ sông), kè đất, trồng cây chống xói lở (chú ý giải pháp phi
công trình).
- Giải tỏa các công trình xây dựng trong phạm vi, chỉ giới bảo vệ nguồn
nước sau khi cắm mốc giai đoạn 2013-2015, giải tỏa các công trình mới phát
sinh trái phép hành lang bảo vệ nguồn nước, có lộ trình di dời từ năm 2015-2020.

4150913

You might also like