« Home « Kết quả tìm kiếm

Khóa luận tốt nghiệp ngành Y đa khoa: Nghiên cứu nồng độ cystatin C ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 có tổn thương thận


Tóm tắt Xem thử

- NGHIÊN CỨU NỒNG ĐỘ CYSTATIN C HUYẾT THANH Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2.
- Em xin cam đoan đề tài “Nghiên cứu nồng độ cystatin C ở bệnh nhân ĐTĐ type 2 có tổn thương thận” là đề tài do bản thân em thực hiện..
- Một số nghiên cứu về cystatin C huyết thanh trong đánh giá tổn thương thận……….17.
- CHƯƠNG 2 – ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
- ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
- Thiết kế nghiên cứu.
- Các biến số, chỉ số trong nghiên cứu.
- Thời gian nghiên cứu.
- Địa điểm nghiên cứu.
- VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC Y HỌC TRONG NGHIÊN CỨU.
- SƠ ĐỒ NGHIÊN CỨU.
- Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu.
- Đặc điểm tuổi, giới đối tượng nghiên cứu.
- Một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của đối tượng nghiên cứu.
- Nồng độ Cystatin C huyết thanh ở đối tượng nghiên cứu.
- BỆNH ÁN NGHIÊN CỨU.
- DANH SÁCH ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
- So sánh tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu.
- So sánh tỉ lệ đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi Bảng 3.3.
- Một số bệnh lý kèm theo của đối tượng nghiên cứu Bảng 3.4.
- Một số đặc điểm cận lâm sàng của đối tượng nghiên cứu Bảng 3.5.
- Số lượng đối tượng nghiên cứu theo từng nhóm.
- Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về nồng độ cystatin C ở bệnh nhân có biến chứng thận do ĐTĐ, cho thấy giá trị của cystatin C có nhiều ưu điểm hơn so với creatinin huyết thanh [46].
- Nghiên cứu nồng độ cystatin C huyết thanh ở bệnh nhân ĐTĐ type 2 có tổn thương thận” với mục tiêu:.
- Lấy với công thức MDRD làm ví dụ, các nhà nghiên cứu cho thấy công thức này thường đánh giá mức lọc cầu thận thấp hơn ở đối tượng có chức năng thận bình thường.
- Các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng ước tính mức lọc cầu thận dựa trên nồng độ cystatin C huyết thanh có thể cung cấp một phương pháp đơn giản và chính xác để phát hiện và theo dõi sự suy giảm sớm chức năng thận [23]..
- Vài nghiên cứu khác chỉ ra sử dụng glucocorticoid liều cao làm tăng nồng độ cystatin C sau ghép gan.
- Một số nhóm nghiên cứu đã phát triển các phương trình tính mức lọc cầu thận ước tính từ cystatin C huyết thanh bằng cách sử dụng các phương pháp tương tự như đã dùng cho creatinin.
- Một số công thức tính MLCT dựa vào cystatin C huyết thanh trong các nghiên cứu được thể hiện trong bảng 1.4..
- Quần thể nghiên cứu.
- Trong nghiên cứu này, các tác giả rút ra kết luận cystatin huyết thanh có thể là marker hữu ích trong suy chức năng thận ở bệnh nhân ĐTĐ type 2 có albumin niệu bình thường [21].
- Một số nghiên cứu về cystatin C huyết thanh trong đánh giá tổn thương thận.
- Nghiên cứu về nồng độ cystatin C ở các nhóm đối tượng.
- Nghiên cứu tiến cứu của tác giả Nguyễn Hồng Hà (2012) thực hiện trên 130 bệnh nhân có các bệnh lý cầu thận ở bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 12/2009 tới tháng 8/2010, kết quả cho thấy nồng độ cystatin C huyết thanh không có sự khác biệt giữa giới nam và nữ.
- Cũng trong nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu quan sát thấy khi mức lọc cầu thận <.
- Ở phía Bắc, trong nghiên cứu của Bùi Tuấn Anh (2012) trên 55 người khỏe mạnh và 94 bệnh nhân thận ở bệnh viện Bạch Mai, tác giả cũng rút ra kết luận nồng độ cystatin C không khác biệt có ý nghĩa giữa 2 giới, ở cả hai nhóm bệnh và chứng [1].
- Nghiên cứu trên 77 đối tượng không có tiền ĐTĐ, ĐTĐ và 70 bệnh nhân ĐTĐ type 2, Đặng Anh Đào (2017) và cộng sự đưa ra kết quả nồng độ cystatin C ở bệnh nhân có ĐTĐ mg/L) cao hơn so với nhóm chứng mg/L) (p <.
- Hye nghiên cứu trên đối tượng là 806 bệnh nhân ĐTĐ type 2 không có bệnh thận, nồng độ cystatin C huyết thanh cũng được chỉ ra là có mối tương quan thuận với nguy cơ mắc các biến chứng mạch máu khác của ĐTĐ type 2.
- Nghiên cứu về vai trò của cystatin C trong ước tính mức lọc cầu thận Nhằm so sánh mức lọc cầu thận được ước tính bởi các công thức khác nhau dựa cả trên creatinin và cystatin C huyết thanh, N.R.
- Robles đã tiến hành nghiên cứu trên 727 bệnh nhân ngoại trú.
- Từ kết quả nghiên cứu của mình, Lesley A.
- Kết quả này được ủng hộ bởi nghiên cứu của Levey (2017) với mức lọc cầu thận được ước tính bởi công thức kết hợp, công thức LMR creatinin và CAPA cystatin C [80]..
- Ở Việt Nam, trong nghiên cứu của Đặng Anh Đào và Trần Hữu Dàng (2017), MLCT cys có tương quan thuận mức độ rất chặt với mức lọc cầu thận xạ hình thận (r=0,71, p<0,001).
- Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy cystatin C huyết thanh có giá trị trong ước đoán giảm mức lọc cầu thận với độ nhạy 84,2%, độ đặc hiệu 98% [3]..
- CHƯƠNG 2 – ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1.
- Sử dụng corticoid trong vòng một tháng trước thời điểm nghiên cứu.
- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.2.1.
- Thông tin của đối tượng nghiên cứu.
- o Các công thức, tiêu chuẩn và phân loại sử dụng trong nghiên cứu.
- Các thuật toán thống kê sử dụng trong nghiên cứu..
- Xét nghiệm cystatin C huyết thanh do nhóm nghiên cứu chi trả..
- Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu..
- So sánh tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu Tuổi trung bình.
- Các đối tượng mắc ĐTĐ type 2 trong nghiên cứu có tuổi trung bình là 61,04.
- So sánh tỉ lệ đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi.
- Một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của đối tượng nghiên cứu Bảng 3.3.
- Một số bệnh lý kèm theo của đối tượng nghiên cứu.
- Kết quả nghiên cứu chỉ ra tỉ lệ tăng huyết áp cao hơn một cách có ý nghĩa ở nhóm có tổn thương thận so với nhóm không có.
- Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy không có sự khác biệt tỉ lệ bệnh nhân rối loạn mỡ máu giữa 2 nhóm (p = 0,53).
- Điều này có thể do cỡ mẫu nghiên cứu của chúng tôi còn nhỏ và không có đủ kết quả xét nghiệm mỡ máu của các bệnh nhân..
- Một số đặc điểm cận lâm sàng của đối tượng nghiên cứu.
- Chỉ số glucose và HbA1C máu ở hai nhóm nghiên cứu không có sự khác biệt.
- Trong nghiên cứu của chúng tôi, kết quả cho thấy cả glucose và HbA1c lúc nhập viện của bệnh nhân giữa 2 nhóm có và không có tổn thương thận không có sự khác biệt.
- Ở nhóm có tổn thương, sự gia tăng nồng độ creatinin như là một hậu quả tất yếu của suy giảm chức năng thận, dù nhóm bệnh trong nghiên cứu này bao gồm cả những bệnh nhân có chỉ số ACR bất thường và mức lọc cầu thận bình thường.
- Nồng độ Cystatin C huyết thanh ở đối tượng nghiên cứu..
- Nồng độ cystatin C ở các nhóm đối tượng nghiên cứu không bằng nhau, trong đó, thấp nhất là ở nhóm chứng với trung bình là mg/L, cao nhất ở nhóm bệnh nhân suy thận mạn tính là mg/L.
- Đây là cơ sở để nghiên cứu cystatin C như một chất chỉ điểm tổn thương thận [52].
- Kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ cystatin C ở nhóm bệnh nhân suy thận mạn tính cao hơn có ý nghĩa so với cả 3 nhóm còn lại (p <.
- Điều này có thể giải thích do các phân nhóm khác nhau giữa 2 nghiên cứu: nhóm albumin niệu bình thường của Jeon có thể bao gồm cả bệnh nhân có mức lọc cầu thận <.
- Dù vậy, cả 2 nghiên cứu đều cho thấy sự tăng cystatin C khi so với nhóm đã có suy thận mạn tính, hay nghĩa là cystatin C huyết thanh tăng theo mức độ giảm của mức lọc cầu thận.
- Kết quả nghiên cứu trên 101 bệnh nhân có bệnh thận mạn ĐTĐ của Ogawa năm 2018 cũng có kết luận tương tự như trên [26]..
- (𝑥̅± SD Trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ cystatin C được thấy tăng theo nhóm tuổi ở cả 2 nhóm nghiên cứu.
- Kết quả nghiên cứu này cho thấy ở đối tượng chưa có tổn thương thận, sự khác nhau theo nhóm tuổi của nồng độ cystatin C là không đáng kể.
- Nghiên cứu của Knight (2004) về cystatin C trong mối liên quan với các yếu tố tuổi, giới, cân nặng cũng cho kết quả tương tự [75]..
- Lu Wei và cộng sự (2014) phân tích từ 800 bệnh nhân cũng cho thấy có sự tăng nồng độ cystatin C huyết thanh, dù nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc chia đối tượng thành 2 nhóm <.
- Từ kết quả nghiên cứu trên 654 bệnh nhân của mình, A.
- Trong nghiên cứu này, sự tăng cystatin C theo nhóm tuổi một cách rõ ràng là kết quả của sự suy giảm nhanh chóng của mức lọc cầu thận trong nhóm bệnh nhân đã có tổn thương thận, khác với việc giảm từ từ như ở nhóm chứng..
- Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt về nồng độ cystatin C giữa giới tính nam và nữ, trong cả nhóm bệnh và nhóm chứng hoặc ở đối tượng bệnh nhân ĐTĐ type 2 nói chung.
- Nghiên cứu của Phạm Quốc Toản (2015) cũng so sánh cystatin C huyết thanh ở hai nhóm có và không có tổn thương thận ở bệnh nhân ĐTĐ type 2, đưa ra kết luận rằng không có sự khác biệt giữa hai giới [15].
- Cũng trên nghiên cứu có đối tượng là bệnh nhân ĐTĐ, Buysschaert (2003) cho ra hệ số tương quan giữa nồng độ cystatin C và creatinin là 0,92 [40].
- Nghiên cứu của Dsa (2017) trên đối tượng là 120 bệnh nhân có bệnh thận mạn cho kết quả mối tương quan này với r = 0,875, p <.
- Khi nghiên cứu trên bệnh nhân trong khoa điều trị tích cực, M.
- Đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu xây dựng các công thức toán học để ước lượng mức lọc cầu thận.
- Nghiên cứu của F.
- Có thể thấy kết quả tương tự như trên trong nghiên cứu của Lee Sung Hyun trên 73 bệnh nhân ĐTĐ với hệ số tương quan r = 0,637 (p <.
- ước tính bởi nhiều công thức là kết luận chung của nhiều nghiên cứu [53].
- Trong nghiên cứu của D.
- Ngoài ra, nghiên cứu còn quan sát thấy creatinin ở nhóm đối tượng có mức lọc cầu thận 45-60 mL/phút vẫn nằm trong khoảng bình thường (0,7-1,4 mg/dL), trong khi cystatin C đã bắt đầu tăng ở nhóm này [19].
- Ở nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ creatinin và cystatin C đều tăng so với giá trị trên của khoảng bình thường.
- Kết quả nghiên cứu của P.Giri (2011) trên 106 bệnh nhân bệnh thận mạn cũng tương đồng với quan sát của chúng tôi, đều ủng hộ luận điểm cystatin C huyết thanh là dấu ấn sinh học phản ánh sớm suy giảm mức lọc cầu thận [60]..
- Ở bệnh nhân có bệnh thận ĐTĐ, chỉ số ACR là yếu tố dự báo độc lập của bệnh thận mạn giai đoạn cuối theo các nghiên cứu RENAAL (Reduction of Endpoints in NIDDM with the AII Antagonist Losartan), IDNT (Irbesartan Diabetic Nephropathy Trial) [38, 72]..
- Trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ cystatin C huyết thanh khác nhau ở các mức độ kết quả ACR.
- Trong nghiên cứu của chúng tôi không quan sát thấy sự khác biệt về nồng độ cystatin C giữa 2 nhóm ACR bình thường và ACR ≥ 17.
- Nghiên cứu nồng độ cystatin C trong huyết thanh ở 50 bệnh nhân ĐTĐ type 2 có tổn thương thận và 29 bệnh nhân ĐTĐ chưa có tổn thương thận, chúng tôi đưa ra các kết luận sau:.
- KIẾN NGHỊ Qua kết quả nghiên cứu chúng tôi có kiến nghị sau:.
- Đặng Anh Đào và Trần Hữu Dàng Nghiên cứu chức năng thận ở bệnh nhân đái tháo đường thể 2 bằng cystatin C huyết thanh", Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế .
- Phạm Quốc Toản (2015), Nghiên cứu nồng độ cystatin C huyết thanh, nước tiểu ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 có tổn thương thận, Luận án Tiến sĩ, Học viện Quân Y..
- ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP BÁC SĨ Nghiên cứu nồng độ cystatin C huyết thanh ở bệnh nhân đái tháo đường type 2.
- Mã nghiên cứu:

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt