« Home « Kết quả tìm kiếm

XÁC LẬP VAI TRÒ AN NINH CHÍNH TRỊ CỦA NHẬT BẢN Ở ĐÔNG NAM Á TRONG THẬP NIÊN ĐẦU THỜI KÌ SAU CHIẾN TRANH LẠNH


Tóm tắt Xem thử

- XÁC LẬP VAI TRÒ AN NINH CHÍNH TRỊ CỦA NHẬT BẢN Ở ĐÔNG NAM Á TRONG THẬP NIÊN ĐẦU THỜI KÌ SAU CHIẾNTRANH LẠNH Đăng ngày Danh mục: Bài viết Tạp chí » Năm 2007 » Số 5 Do được thiên nhiên ưu đãi vị trí địa – chính trị thuận lợi, Đông Nam Á luôn là khu vực tranh giành ảnhhưởng của các thế lực chính trị lớn.
- Có thể kể ra các thế lực chính trị lớn liên quan trực tiếp tới các lĩnh vực kinh tế, chính trị,an ninh của khu vực này là Mỹ, Liên Xô (cũ), Nhật Bản, Trung Quốc và phần nào đó còn có các nướctrong cộng đồng Châu Âu (EU).
- Tuỳ thuộc vào mục đích và thực lực mà mỗi thế lực chính trị thường theođuổi một mục đích lớn.
- Nhật Bản chủ yếu liên quan đến các vấn đề kinh tế.
- duy nhất chỉ có Mỹ hầu như dính líu tới tất cảcác vấn đề của khu vực.
- Hơn thế, Mỹ còn đóng vai trò xung kích, tạo ra chiếc ô đảm bảo an ninh cho cácđồng minh, lôi kéo họ tham gia vào cán cân quyền lực của khu vực.
- Trong các cường quốc có mối liên hệ với khu vực này, Nhật Bản là nước có mối liên hệ lợi ích đặc biệt vớicác quốc gia Đông Nam Á.
- Do vậy, Nhật Bản chưa bao giờ rời bỏ ý tưởng đóng một vai trò quan trọngđối với khu vực Đông Nam Á.
- Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, Nhật Bản đã từng chiếm đóng ĐôngNam Á bằng sức mạnh quân sự nhưng buộc phải rời bỏ khu vực này do bại trận trong cuộc chiến tranhđó.
- Sau chiến tranh, Nhật Bản trở lại với các nước Đông Nam Á bằng con đường “ngoại giao kinh tế” vàthực hiện nhất quán chính sách này trong một thời gian dài.
- Mỹ có sự điều chỉnh lớn trong chính sách Châu Á- Thái Bình Dương, giảm dần sự hiện diện quân sự trong khu vực.
- các nước ASEAN đãđạt được tốc độ phát triển kinh tế cao, sự gắn kết các quốc gia thành viên trong Hiệp hội ngày càng chặtchẽ, các vấn đề về hợp tác an ninh, chính trị không còn là điều né tránh trong các cuộc họp của ASEAN;điểm nóng Campuchia đã được giải quyết ổn thoả bằng một giải pháp chính trị.
- quan hệ Đông Dương.
- ASEAN được khôi phục và đang trên đà phát triển nhanh chóng, tạo ra bầu không khí hoà bình, hữu nghịvà hợp tác trong khu vực.
- Đó là những mâu thuẫn tôn giáo, sắc tộc, chiến tranh li khai, việc chạy đua gia tăng tiềm lựcquân sự của các nước ASEAN, những tranh chấp ở biển Đông… Đặc biệt là sự gia tăng nhanh chóng ảnhhưởng của các cường quốc bên ngoài nhằm lấp “khoảng trống quyền lực” do Mỹ và Liên Xô để lại.
- Như vậy, một khi trật tự trong khu vực có sự thay đổi lớn đã đặt ra vấn đề là vai trò các cường quốc tại ĐôngNam Á sẽ thay đổi như thế nào? Trong bối cảnh đó, “Nhật Bản đang muốn đóng một vai trò “có ý nghĩa” trong trật tự thế giới mới” (1) nói chung và ở Đông Nam Á nói riêng.
- Trên thực tế, không ai có thể phủ nhận được vai trò to lớn của Nhật Bản trong quá trình hợp tác pháttriển kinh tế với các nước ASEAN.
- Sự tăng trưởng nhanh chóng của các nền kinh tế ASEAN không thể cóđược nếu tách rời nhân tố Nhật Bản.
- Theo tài liệu “Triển vọng kinh tế thế giới đến năm 2000 do Bộ Kinhtế Nhật Bản soạn thảo thì tốc độ tăng trưởng của các nước ASEAN từ năm 1986 đến năm 1993 bình quânlà 5,5% năm, từ 1993 đến 2000, tốc độ tăng trưởng bình quân ở mức cao, 7% năm.
- So với các cường quốc tư bản Âu – Mỹ, Nhật Bản là một đối tác hàng đầu, là một trong những bên đốithoại năng động nhất của ASEAN.
- Với sự hợp tác mở rộng, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế và hỗ trợ pháttriển (ODA) năm 1995, xuất khẩu của Nhật Bản sang ASEAN đạt 79,9 tỉ USD và nhập khẩu về 42,7 tỉUSD, chiếm tương ứng 18% tổng kim ngạch xuất khẩu và 14% tổng kim ngạch nhập khẩu của nước này.
- Cũng trong năm 1995, đầu tư trực tiếp ( FDI) của Nhật Bản vào các nước ASEAN đạt 5,15 tỉ USD chiếm10,4% tổng FDI của nước này.
- Ngược lại, Nhật Bản là nước nhập khẩu lớn thứ ba từ ASEAN chỉ sau Mỹvà EU.
- Năm 1998, thương mại hai chiều ASEAN – Nhật Bản đạt gần 84 tỉ USD, chiếm 14% tổng kim ng ạch thương mại của ASEAN” (3) .Những con số trên đã phản ánh rõ nét sự gần gũi và hỗ trợ mật thiếtlẫn nhau giữa các nền kinh tế ASEAN và Nhật Bản và vai trò của Nhật Bản đối với nền kinh tế ASEAN.Tuy nhiên, Nhật Bản chưa bằng lòng với vai trò đó mà đang nỗ lực vươn lên đóng một vai trò toàn diệnhơn trong cả lĩnh vực chính trị và an ninh khu vực.
- Thật vậy, sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, các nhà lãnh đạo Nhật Bản đã quan tâm nhiều đến việc tiếptục trách nhiệm an ninh lớn hơn nhằm bảo vệ những lợi ích kinh tế đã được xây dựng của họ tại ĐôngNam Á, bởi lẽ, “hiệu quả trong hợp tác kinh tế bắt nguồn từ những hiểu biết trong lĩnh vực an ninh, tạocơ sở để gia tăng về hợp tác kinh tế.
- Nhật Bản sẽ tiếp tục chủ động tham gia các hoạt động đối thoại vềhợp tác an ninh – chính trị trên cả hai cấp độ: giữa Nhật Bản và ASEAN và giữa Nhật Bản với các nướcthành viên ASEAN” (4.
- Có thể thấy được ý định của Nhật Bản muốn đóng vai trò chính trị, an ninh lớn hơn khi họ đạt được vị trí cường quốc kinh tế thế giới.
- Vào những năm 80 của thế kỉ XX, khi Liên Xô tăng cường khả năng chiếnđấu của các lực lượng hải quân và không quân ở Tây Thái Bình Dương thì Mỹ và Nhật Bản cũng quantâm sâu sắc đến vấn đề này.
- Dưới ức ép của Mỹ, Nhật Bản đã chấp nhận chia sẻ trách nhiệm với Mỹ bằng cách đóng góp mộtphần tài chính cho các nỗ lực phòng thủ của Mỹ và dần dần tiếp nhận vai trò lớn hơn trong việc bảo vệnhu cầu an ninh của nước Nhật.
- Năm 1981, Chính phủ Nhật Bản tái xác định chính sách quốc phòng của mình b ằng việc tuyên bố rằng chính sách an ninh quốc gia của Nhật Bản bao gồm phòng thủ lãnh thổ,không phận và đường biển cho tới phạm vi 1000 dặm.
- Như vậy, bằng chương trình hợp tác an ninh với Mỹ, Nhật Bản đãkhéo léo lách qua những ràng buộc về mặt pháp lí để xây dựng cho mình có được một tiềm lực quốcphòng mạnh.
- Đây chính là yếu tố căn bản nhất hỗ trợ cho vai trò an ninh tự chủ, độc lập và vị thế chínhtrị ngày càng tăng của Nhật Bản trên trường quốc tế.
- Có thể thấy được sự thay đổi lớn trong chính sách tăng cường tiềm lực quốc phòng của Nhật Bản.
- Cụ thể “ bắt đầu từ năm 1987 ba năm liền Nhật Bản chi phí quân sự vượt quá giới hạn 1% tổng giá trị thu nhậpquốc dân.
- năm 1990 lên đến 4000 tỉ yên ( khoảng 32,2 tỉ USD), từ năm 1991 đến năm 1995 tổng kimngạch dự chi quốc phòng khoảng 172 tỉ USD, bình quân mỗi năm tăng 3% đứng đầu các nước phát triểnvề tốc độ tăng” (5) .Song song với việc gia tăng chi phí quân sự và hiện đại hoá quốc phòng, Nhật Bản đãthể hiện ngày càng độc lập hơn về vai trò an ninh đối ngoại đối với khu vực Đông Nam Á.
- Từ đầu thậpniên 90 của thế kỉ XX, Nhật Bản đã thể hiện một vai trò chính trị rộng lớn hơn trong các vấn đề quốc tế.Đã đến lúc người Nhật hiểu rằng họ phải có những việc làm cụ thể hơn cho các đối tác của họ, chứ không phải chỉ đóng góp tiền bạc rồi nói đã làm nhiều cho hoà bình thế giới..
- Vì thế, Nhật Bản thể hiện quyết tâm thực hiện vai trò chính trị của nước lớn bằng cách tham gia vàophần cuối ván bài Campuchia.
- Tháng 6 năm 1990, Nhật Bản đã phối hợp với Thái Lan đứng ra triệu tậpcuộc họp tại Tokyo của các phái chính trị Campuchia để bàn về các giải pháp nỗ lực cho tiến trình lập lạihoà bình ở đất nước này.
- Nhật Bản đã thuyết phục được ba nhóm Campuchiađồng ý với hình thức 2 nhóm thay vì 4 nhóm.
- Tiếp theo, để có cơ sở pháp lí cho các hoạt động quân sự ở nướcngoài, tháng 6 năm 1992, Quốc hội Nhật Bản đã thông qua “ Luật về hợp tác các hoạt động gìn giữ hoàbình” (Peace Keeping Opera tion – PKO).
- Sau khi Hiệp định hoà bình về Camphuchia được kí kết “ Nhật Bản đã gửi 700 kỹ sư của các lực lượngphòng vệ tham gia hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên Hợp Quốc ở Campuchia.
- Hành động này thể hiệnmột sự thay đổi có tính chất lịch sử trong chính sách an ninh đối ngoại của Nhật Bản” (6.
- Đây là lần đầutiên kể từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, Nhật Bản đưa lực lượng quân đội của mình ra nướ c ngoài mà không bị các nước khác phê phán nhiều.
- Do vậy, có thể xem đây là một bước tiến mới của Nhật Bản trêncon đường hướng tới một cường quốc “ bình thường”.
- Sự kiện thứ hai thể hiện rõ nét vai trò tích cực của Nhật Bản là việc họ cố gắng nối lại quan hệ với cácnước Đông Dương.
- Trước khi Hiệp định hoà bình về Campuchia được kí kết, Nhật Bản đã bày tỏ ý muốncải thiện quan hệ với Việt Nam, song ý tưởng này đã bị Mỹ và các nước ASEAN phản đối vì không muốnNhật Bản đơn phương đi trước.
- Thế nhưng với quyết tâm của mình, Nhật Bản một mặt tích cực đóng gópvào tiến trình hoà bình ở Campuchia, mặt khác vận động chính quyền Mỹ thay đổi chính sách đối với ViệtNam.
- Cuối cùng, Nhật Bản cũng mạnh dạn dứt khoát quyết định nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam trong k hi Mỹ vẫn chưa dỡ bỏ lệnh cấm vận.
- Những việc làm đó của Nhật Bản đã có ảnh hưởng tốt đẹp đến việccải thiện các mối quan hệ tại khu vực, góp phần tạo lập ra một môi trường hoà bình ở Đông Nam Á.
- Sau những nỗ lực can dự vào nền an ninh chính trị ở Đông Nam.
- Á diễn ra có vẻ thuận lợi cho Nhật Bản,tháng 1 năm 1993, trong chuyến viếng thăm chính thức các nước ASEAN, Thủ tướng Nhật Bản Miyazawađã công bố chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với khu vực Đông Nam Á với những nội dung cơ bản sau: Thứ nhất , trên cơ sở một tầm nhìn lâu dài về an ninh Đông Nam Á, Nhật Bản chủ trương cùng các nướckhu vực tập trung hợp tác ổn định tình hình khu vực, thiết lập trật tự an ninh và bảo vệ tình hình khuvực.
- Thứ hai, Nhật Bản kêu gọi hợp tác, phối hợp chặc chẽ với ASEAN để tái thiết Đông Dương, xác định diễnđàn phát triển toàn diện Đông Dương (7.
- Nội dung học thuyết Miyazawa cho thấy rằng ngoài quan hệ kinh tế truyền thống, Nhật Bản đã trực tiếpđề cập đến hợp tác trong lĩnh vực an ninh, chính trị với các quốc gia ASEAN, đồng thời mở rộng vai tròcủa Nhật sang các nước Đông Dương.
- Nhật Bản không chỉ mở rộng ảnh hưởng chính trị của mình trongcả khu vực mà còn thực hiện được nhiệm vụ quan trọng được nêu ra từ học thuyết Fukuda, đó là vai tròcầu nối của Nhật Bản giữa ASEAN và Đông Dương.
- Xu thế liên kết toàn khu vực của ASEAN đã trở thành hiện thực.
- Bối cảnhđó, đã thúc đẩy Nhật Bản tiếp tục điều chỉnh chính sách đối ngoại của họ và đã đưa đến sự ra đời họcthuyết Hashimoto năm 1997.
- Trong học thuyết này có một nội dung quan trọng, đó là bày tỏ quyết tâmcủa Nhật Bản chuyển mối quan hệ Nhật Bản.
- ASEAN từ chỗ lấy quan hệ hợp tác kinh tế làm trọng tâmsang lĩnh vực chính trị, an ninh, văn hoá phúc lợi xã hội và các vấn đề toàn cầu.
- Khuyến khích đầu tư củaNhật Bản vào các nước ASEAN, tăng cường hợp tác trong vấn đề môi trường… mà Nhật Bản đã nêu ra tạiHội nghị cấp cao G7 ở Liông ( tháng 6/1996), thúc đẩy đối thoại khu vực, kể cả vấn đề đảm bảo an ninh.
- Rõ ràng học thuyết Hashimoto đã đánh giá cao ASEAN như là một đối tác bình đẳng với Nhật Bản.
- Điềunày không chỉ là do sự lớn mạnh của các nền kinh tế ASEAN mà còn là sự mong muốn của Nhật Bản.
- Giờđây, Nhật Bản muốn ASEAN xem họ không chỉ là một đối tác lớn về kinh tế mà còn là một đối tác lớntrên cả bình diện an ninh chính trị, bình đẳng như các cường quốc khác.
- Như vậy, chính sự hợp tác toàndiện với ASEAN đã giúp cho Nhật Bản thể hiện được vai trò an ninh chính trị của họ ngày càng lớn tạikhu vực này.
- Tóm lại, thế giới hậu Chiến tranh Lạnh với xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá ngày càng gia tăng cao độđã làm cho các mối liên kết toàn diện và phụ thuộc lẫn nhau giữa kinh tế và an ninh ngày càng lớn.
- Đảmbảo an ninh, ổn định chính trị để phát triển kinh tế đang là một nhu cầu chung của tất cả các nước.
- CảNhật Bản và các nước ASEAN đều nhận thức sâu sắc vấn đề này.
- Khai thác thế mạnh của một cườngquốc kinh tế, tận dụng cơ hội của thời kì hậu Chiến tranh Lạnh, Nhật Bản nhanh chóng điều chỉnh chínhsách đối ngoại của mình với quyết tâm trở thành một cường quốc toàn diện trên thế giới.
- Một phần quan trọng trong chiến lược này là Nhật Bản ngày càng đóng vai trò lớn hơn trong lĩnh vực an ninh chính trị ởĐông Nam Á.
- Tất nhiên, sự gia tăng vai trò đó phải phù hợp với nhu cầu nội tại của các nước ASEAN.Chiến lược hội nhập quốc tế, mở rộng đối ngoại với bên ngoài là cơ sở cho sự phát triển bền vững ởtrong nội bộ khối của ASEAN đã bắt gặp nhu cầu mở rộng quan hệ toàn diện của Nhật Bản tạo nên sự giao thoa về lợi ích của đôi bên.
- Chính điều đó đã làm chất xúc tác và tạo điều kiện thuận lợi cho NhậtBản gia tăng vai trò chính trị và an ninh ở khu vực Đông Nam Á.
- Viện nghiên cứu bảo vệ hoà bình và an ninh Nhật Bản, Vấn đề an ninh khu vực Đông Nam Á , Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1994.
- Nguyễn Trần Quế, 35 năm ASEAN hợp tác và phát triển , Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 2003.
- Dương Phú Hiệp – Phạm Hồng Thái (Chủ biên), Nhật Bản trên con đường cải cách , Nxb Khoa học Xãhội, Hà Nội 2004.
- Lý Thực Cốc, Mỹ thay đổi lớn chiến lược toàn cầu , Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1996.
- Ngô Xuân Bình (Chủ biên), Chính sách đối ngoại của Nhật Bản thời kì sau Chiến tranh Lạnh, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 2000.
- (1) Thông tấn xã Việt Nam, Tham khảo đặc biệt , ngày Viện nghiên cứu bảo vệ hoà bình và an ninh Nhật Bản, Vấn đề an ninh khu vực Đông Nam Á , Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1994, tr.
- (3) Nguyễn Trần Quế, 35 năm ASEAN hợp tác và phát triển , Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 2003, tr.
- Dương Phú Hiệp – Phạm Hồng Thái, Nhật Bản trên con đường cải cách , Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 2004, tr.
- 271.(5) Lý Thực Cốc, Mỹ thay đổi lớn chiến lược toàn cầu , Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1996 , tr.
- 271.(6) Ngô Xuân Bình, Chính sách đối ngoại của Nhật Bản thời kì sau Chiến tranh Lạnh, Nxb Khoa học Xãhội, Hà Nội 2000, tr.
- (7) Ngô Xuân Bình, Chính sách đối ngoại của Nhật Bản thời kì sau Chiến tranh Lạnh, Nxb Khoa học Xãhội, Hà Nội 2000, tr.
- Như vậy, có thể khẳng định rằng quan hệ Nhật Bả n- ASEAN sẽ còn tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trongthời gian tới nhưng dù vậy, mối quan hệ này vẫn còn những điểm đáng lưu tâm như: sự lo ngại về chínhsách quốc phòng của Nhật Bản hoặc Nhật Bản sẽ xử lí như thế nào trước tình hình Trung Quốc đang cốgắng mở rộng ảnh hưởng xuống khu vực này thông qua kế hoạch thành lập khu vực buôn bán chung ASEAN- Trung Quốc.
- QUAN HỆ NHẬT BẢN -EU Mặc dù Nhật Bản từng coi mình là một thành viên của Phương Tây nhưng mối quan hệ giữa Nhật Bảnvới EU lại khác hẳn mối quan hệ giữa Nhật Bản - Mĩ hoặc Nhật Bản - Trung Quốc, Nhật Bản - ASEAN v.v…Khi xem xét mối quan hệ này người ta dễ dàng nhận ra nó có vẻ chỉ chú trọng về quan hệ kinh tế.
- Nhưmọi người đều biết, sau chiến tranh thế giới lần thứ II, Nhật Bản và các nước EU đều là đồng minh củaMĩ với vai trò ngăn cản sự bành trướng ảnh hưởng của Liên Xô( cũ) ở Châu Âu và của Trung Quốc ởChâu Á, nhưng dường như do cả hai bên đều được đặt dưới sự bảo vệ của Mĩ nên nhu cầu tăng cườngquan hệ nhằm bảo đảm an ninh cho nhau không chiếm vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại củahai bên mà họ chỉ ủng hộ nhau trong những chính sách để chống lại các nước xã hội chủ nghĩa khi đó.Trái lại, quan hệ kinh tế lại được cả hai bên chú trọng nhiều hơn đặc biệt là phía Nhật Bản, Nhật Bản đãxác định EU là thị trường quan trọng thứ 3 sau thị trường Mĩ và Đông Á để phục vụ cho chính sách pháttriển kinh tế dựa vào ngoại thương, cho nên đến những năm 1970 trong khi các nước EU còn đang lúngtúng tìm cách giải quyết vấn đề kinh tế trì trệ thì Nhật Bản đã thành công trong việc thâm nhập vào thịtrường này qua buôn bán và đầu tư.
- Sự lấn át của hàng hoá của Nhật Bản lớn đến mức khiến cho Uỷban của EU phải ép buộc Nhật Bản tiến hành đàm phán thương mại để mở của thị trường Nhật Bản chohàng hoá của EU nhằm cải thiện tình trạng mất cân đối mậu dịch.
- Khi cuộc chiến tranh lạnh kết thúc quan hệ Nhật Bản - EU nói chung vẫn được duy trì theo hướng trongthời kì chiến tranh lạnh song người ta thấy đã có sự hợp tác chặt chẽ hơn bao gồm cả ở trong lĩnh vựcbảo đảm an ninh.
- Nhật Bản và EU đã có những cuộc gặp để bàn về vấn đề bảo đảm an ninh của mìnhsau chiến tranh lạnh hoặc vấn đề chống khủng bố sau sự kiện 11 - 9 xảy ra ở nước Mĩ, nhưng điểm nổibật vẫn là quan hệ kinh tế.
- Tất nhiên hiện nay hàng hoá của Nhật Bản không còn xâm nhập ồ ạt vào thịtrường EU như trước nữa nhưng cán cân thương mại vẫn luôn nghiêng về phía Nhật Bản bởi chiến lượckhôn ngoan của các công ty Nhật Bản dưới sự hỗ trợ của chính phủ hoặc qua việc đầu tư xây dựng cácxí nghiệp tại các nước EU để xuất khẩu tại chỗ.
- Hiện tại, để nâng cao vai trò chính trị và sức mạnh kinh tế, EU đã liên minh thành một khối thống nhất vềcả chính trị, kinh tế nhằm trở thành một cực cân bằng với Mĩ và Nhật Bản.
- Tuy nhiên, việc kết nạp ồ ạtcác nước thành viên mới, nhất là các nước Đông Âu cũ có lẽ sẽ gây ra không ít khó khăn để EU thựchiện được mục đích của mình.
- Mặt khác phía Nhật Bản lại có vẻ như chỉ đang chú trọng đến việc xâydựng khu vực kinh tế Đông Á nên trong tương lai gần quan hệ Nhật Bản - EU sẽ không có những thay đổihoặc xung đột kinh tế lớn

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt