You are on page 1of 26

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


-------o0o-------

TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN

Đề tài: Vai trò của nền sản xuất hàng hóa trong sự tăng trưởng kinh tế và
phát triển đồng bộ các loại thị trường

Giảng viên hướng dẫn: PGS. TS. Trần Thị Lan Hương
Sinh viên: Phạm Duy Hưng (20200296)
Nguyễn Thanh Lâm (20200336)
Trần Phúc Mạnh Linh (20200352)
Trần Minh Cảnh(20204635)
Mã lớp: 123234
Khóa: K65

Hà Nội, 5/2021
PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ

1. Phạm Duy Hưng (20200296)


Phụ trách chương II phần nội dung (xem thêm ở phần mục lục).
2. Nguyễn Thanh Lâm (20200336)
Phụ trách chương III phần nội dung, phần kết luận (xem thêm ở phần mục lục).
3. Trần Phúc Mạnh Linh (20200352)
Phụ trách phần mở đầu và chương I phần nội dung (xem thêm ở phần mục lục).
4. Trần Minh Cảnh (20204635)
Phụ trách kiểm tra bài tiểu luận và chép tiểu luận.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT LÝ LUẬN VỀ NỀN SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ
THỊ TRƯỜNG
1.1 Nền sản xuất hàng hóa
1.1.1 Khái niệm nền sản xuất hàng hóa
1.1.2 Điều kiện tồn tại nền sản xuất hàng hóa
1.1.3 Mâu thuẫn cơ bản là động lực phát triển nền sản xuất hàng hóa
1.1.4 Ưu thế của nền sản xuất hàng hóa
1.2 Thị trường
1.2.1 Khái niệm
1.2.2 Phân loại
1.2.3 Các chủ thể tham gia thị trường
1.3 Cơ chế thị trường và Kinh tế thị trường
1.3.1 Cơ chế thị trường
1.3.2 Kinh tế thị trường
CHƯƠNG II: VAI TRÒ VÀ TÁC DỤNG CỦA TIẾN TRÌNH ĐỔI MỚI
SANG NỀN SẢN XUẤT HÀNG HÓA
2.1 Giai đoạn trước đổi mới 1986
2.1.1 Đặc điểm : Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
2.1.2 Sự hạn chế
2.1.3 Kết quả của hạn chế kinh tế
2.2 Giai đoạn đổi mới sang nền sản xuất hàng hóa, từ 1986 về sau
2.2.1 Đặc điểm mô hình tổ chức kinh tế
2.2.2 Sự thúc đẩy kinh tế tăng trưởng
2.2.3 Sự phát triển của thị trường
CHƯƠNG III: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ
CỦA NỀN SẢN XUẤT HÀNG HÓA
3.1 Mục tiêu
3.1.1 Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
3.1.2 Nền kinh tế độc lập tự chủ, xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” gắn liền với đảm bảo an ninh quốc phòng
3.2 Một số khuyến nghị
3.2.1 Đối với nhà nước
3.2.2 Đối với doanh nghiệp
3.1.3 Đối với người lao động
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Kinh tế không còn là một đề tài xa lạ thậm chí nó còn là một phần rất quan
trọng trong cuộc sống của mỗi con người. Kinh tế là lĩnh vực quan trọng đảm bảo
sự thịnh vượng ấm no của một đất nước cũng như hỗ trợ mạnh mẽ cho sự bình ổn
chính trị, duy trì phúc lợi xã hội cũng như sự phát triển về công nghệ, quốc
phòng,… Phát triển kinh tế luôn là một quá trình quan trọng trong công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước. Và việc định hướng phát triển kinh tế thì luôn là một
công việc hết sức khó khăn, và việc đi ngược với quy luật thực tiễn sẽ có thể gây
nên những hậu quả cực kì nghiêm trọng và có quy mô lớn, thậm chí gây ra đói
nghèo, lạm phát, … dẫn đến sự suy yếu của một quốc gia do bất ổn chính trị hoặc
bị biến thành thuộc địa kiểu mới của những nước khác. Và việc nghiên cứu vai trò
của nền sản xuất hàng hóa trong sự tăng trưởng kinh tế và phát triển đồng bộ các
loại thị trường phần nào giúp ta hiểu rõ hơn về thực tiễn khách quan của nền kinh
tế. Từ đó giúp mọi người có cái nhìn khách quan hơn về đề tài, cũng như có những
định hướng đúng đắn hơn trong quá trình điều hành nền kinh tế.
2. Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của nền sản xuất hàng hóa trong sự tăng trưởng kinh tế và phát triển
đồng bộ các loại thị trường
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu có hạn trong một bài tiểu luận nhỏ, nhằm nêu lên khái
quát lý luận về nền sản xuất hàng hóa và thị trường, vai trò và tác dụng của tiến
trình đổi mới sang nền sản xuất hàng hóa cũng như một số khuyến nghị nhằm phát
huy vai trò của nền sản xuất hàng hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, chính sách của Nhà nước
và của Đảng Cộng Sản Việt Nam là cơ sở phương pháp luận định hướng nghiên
cứu.
5. Giới thiệu nội dung nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu là về vai trò của nền sản xuất hàng hóa trong sự tăng trưởng
kinh tế và phát triển đồng bộ các loại thị trường gồm có 3 chương nhằm tóm tắt lại
lý luận về nền sản xuất hàng hóa và thị trường cũng như khái quát vai trò và tác dụng
của tiến trình đổi mới sang nền sản xuất hàng hóa và đưa ra một số khuyến nghị
nhằm phát huy vai trò của nền sản xuất hàng hóa.
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT LÝ LUẬN VỀ NỀN SẢN XUẤT
HÀNG HÓA VÀ THỊ TRƯỜNG

1.1. Nền sản xuất hàng hóa


1.1.1. Khái niệm nền sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hoá là một kiểu tồ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản
xuất ra để bán trên thị trường.
Trong kiểu tổ chức kinh tế này, toàn bộ quá trình sản xuất phân phối - trao
đổi- tiêu dùng; sản xuất ra cái gì, như thế nào và cho ai đều thông qua việc mua
bán, thông qua hệ thống thị trường và do thị trường quyết định.
Cơ sở kinh tế - xã hội của sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá là phân
công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa người sản xuất này và người
sản xuất khác do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định.
Phân công lao động xã hội là việc phân chia người sản xuất vào các ngành
nghề khác nhau của xã hội. Hoặc nói cách khác đó là chuyên môn hoá sản xuất.
Do phân công lao động, xã hội nên mỗi người chỉ sản xuất một hay một vài
sản phẩm nhất định. Song, nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của mọi người đều cần có
nhiều loại sản phẩm. Vì vậy họ đòi hỏi phải có mối liên hệ trao đổi sản phẩm cho
nhau, phụ thuộc vào nhau.
Trong lịch sử đã diễn ra 3 cuộc phân công lớn: ngành chăn nuôi tách khỏi
ngành trồng trọt, ngành thủ công tách ra khỏi ngành nông nghiệp, dẫn tới xuất hiện
ngành thương nghiệp.
1.1.2. Điều kiện tồn tại nền sản xuất hàng hóa
Phân công lao động xã hội là điều kiện của sản xuất hàng hoá. Điều kiện thứ
hai của sản xuất hàng hoá là sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất do
các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định. Dựa vào điều kiện này
mà người chủ tư liệu sản xuất có quyền quyết định việc sử dụng tư liệu sản xuất và
những sản phẩm do họ sản xuất ra. Như vậy quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu
sản xuất đã chia rẽ người sản xuất, làm họ tách biệt nhau về mặt kinh tế.
Trong điều kiện đó người sản xuất này muốn sử dụng sản phẩm của người sản
xuất khác thì phải trao đỗi sản phẩm lao động cho nhau. Sản phẩm lao động trở
thành hàng hoá.
Khi sản phẩm lao động trở thành hàng hoá thì người sản xuất trở thành người
sản xuất hàng hoá, lao động của người sản xuất hàng hoá vừa có tính chất xã hội,
vừa có tính chất tư nhân, cá biệt. Tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hoá
thể hiện ở chỗ do phân công lao động xã hội nên sản phẩm lao động của người này
trở nên cần thiết cho người khác cần cho xã hội.
Còn tính chất tư nhân cá biệt thể hiện ở chỗ sản xuất ra cái gì, bằng công cụ
nào, phân phối cho ai là công việc cá nhân của chủ sở hữu về tư liệu sản xuất, do
họ định đoạt. Tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hoá chỉ được thừa nhận
khi họ tìm được người mua trên thị trường và bán được hàng hoá do họ sản xuất ra.
Vì vậy, lao động của người sản xuất hàng hoá bao hàm sự thống nhất giữa hai
mặt đối lập là tính chất xã hội và tính chất cá nhân, cá biệt của lao động.
Quá trình chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp lên sản xuất hàng hoá sản xuất tự
cung tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế đầu tiên mà loài người sử dụng để giải quyết
vấn đề để sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai. Sản xuất tự cung tự
cấp là kiểu tổ chức sản xuất mà trong đó sản phẩm của người lao động làm ra được
dùng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của nội bộ từng hộ gia đình, từng công xã hay
từng cá nhân riêng lẻ. Sản xuất tự cung tự cấp còn được gọi là sản xuất tự cấp tự
túc hoặc kinh tế tự nhiên. Đây là kiểu tổ chức sản xuất khép kín nên nó thường gắn
với sự bảo thủ, trì trệ, nhu cầu thấp, kỹ thuật thô sơ lạc hậu. Nền kinh tế tự nhiên
tồn tại ở các giai đoạn phát triển thấp của xã hội (công xã nguyên thủy, nô lệ,
phong kiến).
1.1.3. Mâu thuẫn cơ bản là động lực phát triển nền sản xuất hàng hóa
Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội và tính chất tư nhân, cá biệt của lao động sản
xuất hàng hoá là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá. Đối với mỗi hàng hoá
mâu thuẫn đó được giải quyết trên thị trường. Đồng thời nó được tái tạo thường
xuyên với tư cách là mâu thuẫn của nền kinh tế hàng hoá nói chung. Chính mâu
thuẫn này là cơ sở của khủng hoảng kinh tế sản xuất thừa. Sản xuất hàng hoá ra đời
và phát triển là một quá trình lịch sử lâu dài. Đầu tiên là sản xuất hàng hoá giản
đơn dựa trên kỹ thuật thủ công và lạc hậu. Nhưng khi lực lượng sản xuất phát triển
cao hơn, sản xuất hàng hoá giản đơn chuyển thành sản xuất hàng hoá quy mô lớn.
Quá trình chuyển biến này diễn ra trong thời kỳ quá độ từ xã hội phong kiến sang
xã hội tư bản.
1.1.4. Ưu thế của nền sản xuất hàng hóa
Thứ nhất, sự phát triển của sản xuất hàng hoá làm cho phân công lao động xã
hội ngày càng sâu sắc, chuyên môn hoá, hiệp tác hoá ngày càng tăng, mối liên hệ
giữa các ngành, các vùng ngày càng chặt chẽ. Từ đó, nó xoá bỏ tính tự cấp tự túc,
bảo thủ trì trệ của nền kinh tế, đẩy mạnh quá trình xã hội hoá sản xuất và lao động.
Thứ hai, tính cách biệt kinh tế đòi hỏi người sản xuất hàng hoá phải năng
động trong sản xuất, kinh doanh đề sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Muốn vậy, họ
phải ra sức cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao chất lượng, cải tiến quy
cách, mẫu mã hàng hoá, tổ chức tốt quá trình tiêu thụ... Từ đó làm tăng năng suất
lao động xã hội, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Thứ ba, sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, với quy mô ngày càng lớn
làm cho hiệu quả kinh tế đối với xã hội ngày càng cao và ưu thế của nó so với sản
xuất nhỏ ngày càng tăng lên về quy mô, trình độ kỹ thuật và khả năng thoả mãn
nhu cầu sản xuất hàng hoá quy mô lớn góp phần thúc đẩy quá trình tích tụ và tập
trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế ở trong nước và nước ngoài, hội nhập với
nền kinh tế thế giới.
Với những tác dụng kể trên, hiện nay trên thế giới có rất nhiều nước (trong đó
có Việt Nam) đã và đang tập trung cho việc phát triển kinh tế hàng hoá.
1.2. Thị trường
1.2.1. Khái niệm
Thị trường là tổng hòa những quan hệ kinh tế trong đó nhu cầu của các chủ
thể được đáp ứng thông qua việc trao đổi, mua bán với sự xác định giá cả và số
lượng hàng hóa, dịch vụ tương ứng với trình độ phát triển nhất định của nền sản
xuất xã hội.
1.2.2. Phân loại
Căn cứ theo đối tượng trao đổi, mua bán cụ thể, có các loại thị trường như: thị
trường hàng hóa, thị trường dịch vụ. Trong mỗi loại thị trường này lại có thể cụ thể
ra thành các thị trường theo các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau rất phong phú.
Căn cứ vào phạm vi các quan hệ, có các loại thị trường trong nước, thị trường
thế giới.
Căn cứ vào vai trò của các yếu tố được trao đổi, mua bán, có thị trường tư liệu
tiêu dùng, thị trường tư liệu sản xuất.
Căn cứ vào tính chất và cơ chế vận hành, chia ra thị trường tự do, thị trường
có điều tiết, thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thị trường cạnh tranh không hoàn hảo
(độc quyền).
1.2.3. Các chủ thể tham gia thị trường
• Người sản xuất
Người sản xuất hàng hóa là những người sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch
vụ ra thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Ngoài ra họ còn tạo ra
và phục vụ cho những nhu cầu trong tương lai với mục tiêu đạt lợi nhuận tối đa
trong điều kiện nguồn lực có hạn. Ngoài mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, người sản
xuất cần phải có trách nhiệm đối với con người, trách nhiệm cung cấp những hàng
hóa dịch vụ không làm tổn hại tới sức khỏe và lợi ích của con người trong xã hội.
• Người tiêu dùng
Người tiêu dùng là những người mua hàng hóa, dịch vụ trên thị trường đề thỏa
mãn nhu cầu tiêu dùng. Sức mua của người tiêu dùng là yếu tố quyết định sự phát
triển bền vững của người sản xuất. Sự phát triển đa dạng về nhu cầu của người tiêu
dùng là động lực quan trọng của sự phát triển sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp tới sản
xuất. Do đó, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng ngoài việc thỏa
mãn nhu cầu của mình, cần phải có trách nhiệm đồi với sự phát triển bền vững của
xã hội. Người tiêu dùng chỉ có tính chất tương đối.
• Các chủ thể trung gian trong thị trường
Chủ thể trung gian là những cá nhân, tổ chức đảm nhiệm vai trò cầu nối giữa
các chủ thể sản xuất, tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Những chủ thể
này có vai trò kết nối, thông tin trong các quan hệ mua, bán. Trong điều kiện nền
kinh tế thị trường hiện đại ngày nay, các chủ thể trung gian thị trường không phải
chỉ có các trung gian thương nhân mà còn: trung gian môi giới chứng khoán, trung
gian môi giới nhà đất, trung gian môi giới khoa học công nghệ... Bên cạnh đó cũng
có nhiều loại hình trung gian không phù hợp với các chuẩn mực đạo đức (lừa đảo,
môi giới bất hợp pháp...).
• Nhà nước
Trong nền kinh tế thị trường, xét về vai trò kinh tế, nhà nước thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về kinh tế đồng thời thực hiện những biện pháp để khắc
phục những khuyết tật của thị trường, làm cho nền kinh tế thị trường hoạt động
hiệu quả.
1.3. Cơ chế thị trường và Kinh tế thị trường
1.3.1. Cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường là hệ thống các quan hệ mang tính tự điều chỉnh tuân theo
yêu cầu của các quy luật kinh tế.
Cơ chế thị trường là phương thức cơ bản để phân phối và sử dụng các nguồn
vốn, tài nguyên, công nghệ, sức lao động, thông tin, trí tuệ, ... trong nền kinh tế thị
trường. Đây là một kiểu cơ chế vận hành nền kinh tế mang tính khách quan, do bản
thân nền sản xuất hàng hóa hình thành. Cơ chế thị trường được A.Smith ví như là
một bàn tay vô hình có khả năng tự điều chỉnh các quan hệ kinh tế.
Vai trò của thị trường luôn không tách rời với cơ chế thị trường. Thị trường
trở nên sống động bởi có sự vận hành của cơ chế thị trường.
1.3.2. Kinh tế thị trường
* Khái niệm
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường.
Đó là nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao đổi
đều được thông qua thị trường, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật thị
trường.
Sự hình thành kinh tế thị trường là khách quan trong lịch sử: từ kinh tế tự
nhiên, tự túc, kinh tế hàng hóa rồi từ kinh tế hàng hóa phát triển thành kinh tế thị
trường.
* Đặc trưng phổ biến của nền kinh tế thị trường
Thứ nhất, có sự đa dạng của các chủ thể kinh tế, nhiều hình thức sở hữu. Các
chủ thể kinh tế bình đẳng trước pháp luật.
Thứ hai, thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực
xã hội.
Thứ ba, giá cả được hình thành theo nguyên tắc thị trường.
Thứ tư, là nền kinh tế mở, thị trường trong nước quan hệ mật thiết với thị
trường quốc tế.
* Ưu thế và khuyết tật của nền kinh tế thị trường
- Ưu thế của nền kinh tế thị trường:
Một là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra động lực cho sự sáng tạo các chủ thể
kinh tế.
Hai là, nền kinh tế thị trường luôn phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ
thể, các vùng miền cũng như lợi thế quốc gia.
Ba là, nền kinh tế thị trường tạo luôn tạo ra các phương thức để thỏa mãn tối
đa nhu cầu của con người, từ đó thúc đẩy tiến bộ, văn minh xã hội.
- Khuyết tật của nền kinh tế thị trường:
Một là, trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn những rủi ro khủng hoảng.
Hai là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài
nguyên không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội.
Ba là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa
sâu sắc trong xã hội.
* Một số quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường
- Quy luật giá trị
- Quy luật cung - cầu
- Quy luật lưu thông tiền tệ
- Quy luật cạnh tranh
CHƯƠNG II. VAI TRÒ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TIẾN
TRÌNH ĐỔI MỚI SANG NỀN SẢN XUẤT HÀNG HÓA
2.1. Giai đoạn trước đổi mới 1986
2.1.1. Đặc điểm nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
Nhà nước đảm nhận chủ yếu việc tạo ra của cải vật chất và phân phối của
cải vật chất.
Nhà nước nắm giữ mọi nguồn lực và cơ sở kinh tế, lập kế hoạch chỉ huy các
hoạt động kinh tế, công hữu là thống trị.
Nhà nước quản lí kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ
thống chỉ tiêu, pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới.
Cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh
của các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất và công dân bị hạn chế sự tự chủ sản
xuất kinh doanh.
Quan hệ hàng hóa- tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là
chủ yếu.
Bộ máy quản lí cồng kềnh, nhiều cấp trung gian.
2.1.2. Sự hạn chế
Thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, không kích thích tính
năng động sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Làm cho đội ngũ cán bộ công chức của các cơ quan hành chính nhà nước
trở nên quan liêu, lộng quyền, hách dịch.
Phủ định thị trường tự do, bao cấp, vi phạm quy luật thị trường.
2.1.3. Kết quả của hạn chế kinh tế
Quy luật khách quan của thị trường không được tôn trọng, tạo nên động lực
sản xuất trì trệ, năng suất lao động thấp, khan hiếm hàng hóa, khủng hoảng kinh tế.
Kết quả sản xuất công nghiệp năm 1976 đạt tổng sản lượng tương đương 48
tỷ đồng( theo giá cố định năm 1982). Trong đó, công nghiệp nhóm A chiếm 34.1%
và nhóm B chiếm 65.9%; quốc doanh chiếm 62.7%, tiểu thủ công nghiệp 37.3% và
công nghiệp trung ương 44.2%, công nghiệp địa phương 55.8%. Những ngành then
chốt của công nghiệp nặng chiếm tỷ trọng không lớn; năng lượng 5.6%, luyện kim
3.3%, cơ khí 12.3%, hóa chất phân bón 9.4%, vật liệu xây dựng 6%. Công nghiệp
nhóm B chỉ có lương thực và thực phẩm là ngành lớn nhất 33.6%, dệt da may
nhuộm 14.5%. Thiết bị nhập từ nhiều nguồn, trong đó của 13 nước tư bản chiếm
41%, của Liên Xô và Đông Âu 20%, trong nước chế tạo chỉ khoảng 13%.
Về hiệu quả sản xuất, mức tích lũy trên 1 đồng vốn tài sản cố định của công
nghiệp trung ương là 0.25 đồng, hệ số tích lũy của 100 đồng vốn sản xuất là 33%,
song chưa đạt mức ổn định của thời kỳ 1964-1965 của miền Bắc và năm 1970 của
miền Nam.
Tình trạng không sử dụng hết công suất phổ biến, công nghiệp quốc doanh
chỉ đạt 62%. Trong cơ cấu kinh tế quốc dân, công nghiệp chiếm tỷ trọng 10.6% lao
động xã hộ, 37% giá trị tài sản cố định, làm ra 38.4% tổng sản phẩm xã hội ,
25.3% GDP và 53% giá trị sản lượng công nông nghiệp. Nguồn nguyên liệu phụ
thuộc nước ngoài, các ngành lệ thuộc hoàn toàn là cơ khí, hóa chất, dệt…
2.2. Giai đoạn đổi mới sang nền sản xuất hàng hóa, từ 1986 đến nay
2.2.1. Đặc điểm mô hình tổ chức kinh tế
Nhà nước từng bước tách ra khỏi vai trò đảm nhận sản xuất của cải vật
chất; chỉ đảm nhận vai trò tạo dựng môi trường pháp lí, chính sách, điều tiết vĩ mô
và đầu tư công ích ( từ thuế và các nguồn thu của Nhà nước).
Nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Đa dạng hóa các hình thức sở hữu, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước,
kinh tế tư nhân ngày càng phát triển.
Doanh nghiệp và công dân được tự chủ kinh doanh theo pháp luật.
Hội nhập, đa dạng hóa , đa phương hóa quan hệ quốc tế( để mở rộng thị
trường và thu hút đầu tư).
2.2.2. Sự thúc đẩy kinh tế tăng trưởng
Là một nền kinh tế đang lên với tốc độ phát triển cao, tạo được niềm tin với
các nhà đầu tư và bạn bè quốc tế. Việt Nam có giá nhân công rẻ, trình độ dân trí
khá cao, thị trường lớn với dân số đông, một đất nước ổn định về chính trị và một
quyết tâm đổi mới mạnh mẽ của chính phủ, về tài nguyên, về vị trí địa lý,...
- Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh:
Giai đoạn 1986 – 1990: Nền kinh tế dần dần khắc phục được những yếu kém
và có những bước phát triển. Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986 - 1990: GDP tăng
4,4%/năm; tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3,8 - 4%/năm; công
nghiệp tăng bình quân 7,4%/năm, trong đó sản xuất hàng tiêu dùng tăng 13 -
14%/năm; giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 28%/năm. Phục hồi được sản xuất,
tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát,… Đây được đánh giá là thành công bước
đầu cụ thể hóa nội dung của công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên.
Giai đoạn 1991 - 1995: Đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái.
GDP bình quân tăng 8,2%/năm; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,3%/năm;
nông nghiệp tăng 4,5%/năm; lĩnh vực dịch vụ tăng 12%/năm; tổng sản lượng
lương thực 5 năm (1991 - 1995) đạt 125,4 triệu tấn, tăng 27% so với giai đoạn
1986 - 1990. Hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng trưởng tương đối
khá.
Giai đoạn 1996 - 2000: Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng
của kinh tế thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. GDP
bình quân của cả giai đoạn 1996 - 2000 đạt 7%; trong đó, nông, lâm, ngư nghiệp
tăng 4,1%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,5%; các ngành dịch vụ tăng 5,2%.
Nếu tính cả giai đoạn 1991 - 2000 thì nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân là 7,5%.
So với năm 1990, GDP năm 2000 tăng hơn hai lần.
Giai đoạn 2001 - 2005: Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, theo
hướng tích cực, năm sau cao hơn năm trước. GDP tăng bình quân 7,5%/năm, riêng
năm 2005 đạt 8,4%; trong đó, nông nghiệp tăng 3,8%; công nghiệp và xây dựng
tăng 10,2%; các ngành dịch vụ tăng 7%. Riêng quy mô tổng sản phẩm trong nước
của nền kinh tế năm 2005 đạt 837,8 nghìn tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm 1995.
GDP bình quân đầu người khoảng 10 triệu đồng (tương đương 640 USD), vượt
mức bình quân của các nước đang phát triển có thu nhập thấp (500 USD). Từ một
nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn lương thực, Việt
Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, Việt Nam đứng
thứ nhất thế giới về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về các mặt hàng gạo, cà phê,
hạt điều; thứ 4 về cao su;…
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, bảo
đảm sự ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh, bước đầu phát huy được
nhiều lợi thế của đất nước, của từng vùng và từng ngành; cải cách thể chế kinh tế,
từng bước hoàn thiện các cơ chế chính sách quản lý và hệ thống điều hành; cải
cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ; phát triển
nguồn và chất lượng lao động, khoa học và công nghệ;…
Giai đoạn 2006 - 2010: Nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm
lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ
nhóm nước thu thập thấp đã trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp). GDP
bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu (từ cuối năm 2008), nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam vẫn đạt cao. Số doanh nghiệp tăng hơn 2,3 lần, số vốn tăng 7,3 lần
so với giai đoạn 2001 - 2005. Doanh nghiệp cổ phần trở thành hình thức tổ chức
sản xuất kinh doanh phổ biến. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150
tỷ USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001 -
2005. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu
đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 16%. GDP năm 2010 tính theo
giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000.
Giai đoạn 2011 – 2019: kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh và ổn định hơn,
đồng thời chất lượng tăng trưởng đã được cải thiện tích cực. Bình quân giai đoạn
2011 - 2019, tăng trưởng GDP đạt 6,3%, tuy thấp hơn so với mục tiêu đặt ra trong
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 (7 - 8%), nhưng so với
nhiều nền kinh tế, đặc biệt là so với các nước trong khu vực ASEAN, Việt Nam
luôn nằm trong nhóm các nước có mức tăng trưởng cao nhất, đạt trên 6%/năm.
Nhờ đó, thu nhập bình quân đầu người năm sau cao hơn năm trước, bình quân giai
đoạn 2011 - 2019 đã đạt 2.125 USD, năm 2019 cao gấp 1,79 lần so với năm 2011,
điều này đã đưa Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình. Quy mô tăng
trưởng của nền kinh tế cũng đã tăng hơn 2 lần, từ 116 tỷ USD (năm 2010) lên 250
tỷ USD (năm 2019).
GDP năm 2020 tăng 2,91% (Quý I tăng 3,68%; quý II tăng 0,39%; quý III
tăng 2,69%; quý IV tăng 4,48%), tuy là mức tăng thấp nhất của các năm trong giai
đoạn 2011-2020 nhưng trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh
hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội thì đây là thành công lớn của Việt
Nam với mức tăng trưởng năm 2020 thuộc nhóm cao nhất thế giới. Điều này cho
thấy tính đúng đắn trong chỉ đạo, điều hành khôi phục kinh tế, phòng chống dịch
bệnh và sự quyết tâm, đồng lòng của toàn bộ hệ thống chính trị, Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ; sự nỗ lực, cố gắng của người dân và cộng đồng doanh nghiệp để
thực hiện có hiệu quả mục tiêu “vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế
– xã hội”. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp
và thủy sản tăng 2,68%, đóng góp 13,5% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của
toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,98%, đóng góp 53%;
khu vực dịch vụ tăng 2,34%, đóng góp 33,5%
Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá,
trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương
thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển
ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng
bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững
thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển
một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng
trưởng ổn định.
Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, gắn sản xuất với thị trường:
Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm 2005
còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và
liên tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%, năm 2005
lên 41%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm
2005.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển
với tốc độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý... có bước
phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế.
Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả,
tập trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh
tế. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và
tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và
phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 38% GDP
của cả nước. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối
cao, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu
nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng
góp vào ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân.
2.2.3. Thúc đẩy sự phát triển của thị trường
Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế
của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt
Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện các
cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),... Đến nay, Việt
Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp
định thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất
quan trọng về kinh tế đối ngoại.
Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các
loại thị trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước
phát triển mạnh.
Phát triển đa dạng các ngành hàng, phát triển đồng bộ các thị trường tài chính-
thị trường đầu tư- thị trường hàng hóa dịch vụ.
CHƯƠNG III. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM PHÁT
HUY VAI TRÒ CỦA NỀN SẢN XUẤT HÀNG HÓA
3.1. Mục tiêu
3.1.1. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tham khảo kinh nghiệm
phát triển của các quốc gia trên thế giới và từ thực tiễn phát triển Việt Nam, Đảng
ta đã đề ra đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCH. Đây là bước
phát triển mới về tư duy lý luận, một sự vận dụng độc lập, sáng tạo của Đảng ta
trong quá trình đổi mới và là sự vận dụng sáng tạo từ chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác -
Lênin về CNXH và con đường đi lên CNXH, đặc biệt là những chỉ dẫn của Lê-nin
trong chính sách kinh tế mới.
Với mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nền kinh tế nước ta đã đạt nhiều
thành tựu, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn chiến tranh, bảo vệ nền độc lập dân tộc,
thống nhất đất nước. Tuy nhiên, sau khi thống nhất đất nước, cả nước đi lên
CNXH, mô hình kinh tế này đã bộc lộ nhiều hạn chế. Trước tình trạng sản xuất
đình đốn, thương mại trì trệ, năng suất lao động thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế rất
thấp, lực lượng sản xuất lạc hậu... Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn nước ta, quyết tâm từ bỏ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp để chuyển sang nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh
tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành
phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai
trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là
động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân
bố theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.
Như vậy, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không phải là cái khác biệt mà
vẫn là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật khách quan của
kinh tế thị trường” như quy luật tự do cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá
trị; thực hiện tự do hoá thương mại... Các nguyên tắc, thông lệ quốc tế trong quản
lý và điều hành kinh tế được tuân thủ và vận dụng một cách hợp lý, linh hoạt. Nhà
nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính
sách, pháp luật và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước; thực
hiện sự điều tiết ở tầm vĩ mô, “định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế;
tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch” bảo đảm cho thị trường phát triển
lành mạnh, tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường.
Ngoài ra, nền kinh tế thị trường phải hiện đại và hội nhập quốc tế. Nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam đã và đang thực hiện quá trình hội nhập quốc tế, mở rộng và
gia tăng các mối quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm tranh
thủ nhiều cơ hội hợp tác, giúp đỡ về nhiều mặt từ các nước, đặc biệt là các quốc
gia phát triển; chủ động và tích cực, nhanh chóng và hiệu quả, tận dụng tốt những
thời cơ, vận hội, phát huy tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước cho mục tiêu
tăng trưởng kinh tế, đồng thời có những biện pháp gia tăng khả năng dự phòng của
nền kinh tế, ứng phó tốt với những rủi ro, thách thức của tiến trình hội nhập.
3.1.2. Nền kinh tế độc lập tự chủ, xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” gắn liền với đảm bảo an ninh quốc
phòng.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là một chủ trương không thay đổi
trong mọi giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước. Đảng ta trong quá trình lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng luôn đặc biệt quan tâm đến vấn đề này và quan điểm về
xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đã được đề cập trong nhiều nghị quyết quan
trọng của Đảng. Để xây dựng được nền kinh tế độc lập, tự chủ, chúng ta cần phải
có một hệ thống giải pháp đồng bộ và lâu dài, trong đó công tác quản lý nhà nước
có vai trò đặc biệt quan trọng.
Độc lập, tự chủ về chính trị là điều kiện tiền đề xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ. Ngược lại, độc lập, tự chủ về kinh tế là điều kiện bảo đảm độc lập, tự
chủ về chính trị, bởi một quốc gia đói nghèo, thường xuyên phải dựa vào viện trợ
quốc tế, thì khó có thể giữ vững được độc lập, tự chủ về chính trị.
Độc lập, tự chủ về kinh tế trước hết và quan trọng nhất là về đường lối,
chính sách, luật pháp kinh tế được xây dựng thành hệ thống hoàn chỉnh đặt trên
căn bản lợi ích dân tộc hướng vào mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”; trên cơ sở đó xây dựng nền kinh tế ngày càng hiện đại
thích ứng với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, có năng lực cạnh tranh cao,
đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội ngày càng lớn.
Trong điều kiện thế giới đang biến đổi nhanh theo xu thế toàn cầu hóa, mỗi
quốc gia phải hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình hợp lý nhằm khai thác lợi thế
động của từng nước để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ, từng bước nâng cao
vị thế của đất nước trong khu vực và trên thế giới.
Là nước đang tiến hành công nghiệp hóa, nước ta có thể và cần phải chủ
động tham gia quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới không chỉ về thương mại và
đầu tư, các định chế toàn cầu và tổ chức hợp tác khu vực, mở rộng quan hệ song
phương với các nước, mà quan trọng hơn cả, phải từng bước tham gia có hiệu quả
vào quá trình phân công quốc tế, dịch chuyển những ngành, lĩnh vực từ các nước
công nghiệp sang các nước đang phát triển, tham gia chuỗi giá trị sản xuất và chuỗi
phân phối toàn cầu từng loại sản phẩm, dịch vụ.
Liên quan đến độc lập, tự chủ của từng nước là sức mạnh quốc gia. Vị thế
của mỗi nước trong khu vực và trên thế giới được xác định trên cơ sở sức mạnh
quốc gia của nước đó. Những biến số quan trọng của sức mạnh quốc gia gồm dân
số, nguồn nhân lực, sức mạnh kinh tế, độ phức tạp về công nghệ, tiềm lực quân sự.
Độc lập tự chủ của quốc gia chỉ có thể được bảo đảm khi Nhà nước đề ra
được đường lối, chiến lược phát triển khả dĩ khai thác được sức mạnh quốc gia, giữ
vững ổn định chính trị - xã hội, tăng trưởng kinh tế với tốc độ nhanh và bền vững,
bảo đảm an sinh xã hội, cảnh báo sớm và có đủ cơ chế, nguồn lực đối phó được với
rủi ro trong kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Một nền kinh tế phát triển toàn
diện là điều kiện xây dựng một nền quốc phòng mạnh, còn một nền quốc phòng
mạnh sẽ tạo môi trường phát triển và bảo vệ tốt thành quả kinh tế.
Kết hợp kinh tế với quốc phòng là hoạt động chủ động của một quốc gia trên
cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật của hai lĩnh vực kinh tế và quân sự,
nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước trong quá trình phát triển
kinh tế, đồng thời ngăn chặn, hạn chế các tác động tiêu cực của chiến tranh, của
phát triển quốc phòng đối với sự phát triển kinh tế. Sự kết hợp đó là hoạt động của
toàn xã hội, song vai trò quyết định thuộc về Nhà nước.
Ở nước ta, kết hợp kinh tế với quốc phòng còn là sự tiếp nối truyền thống
lịch sử dân tộc: dựng nước đi đôi với giữ nước. Ðó cũng là một chiến lược xuyên
suốt của Ðảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Kết hợp kinh tế với quốc
phòng phải thể hiện trong xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý; có chiến lược kinh tế đối
ngoại đúng đắn; xây dựng và hoàn thiện không ngừng hệ thống quan hệ sản xuất;
quân đội làm tốt chức năng vừa là lực lượng bảo vệ các thành quả kinh tế - xã hội
của đất nước, vừa là lực lượng xây dựng kinh tế; kết hợp kinh tế với quốc phòng
trong đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, trong chiến lược phát triển khoa học và
công nghệ.
Ngày nay, hoạt động kinh tế là trung tâm, hàng đầu, nhằm huy động mọi
nguồn lực từ con người đến của cải vật chất, tài nguyên thiên nhiên, để giải quyết
những vấn đề bức xúc nhất về nâng cao đời sống nhân dân, tạo ra những điều kiện
vật chất, kỹ thuật quan trọng để củng cố quốc phòng, đó là xây dựng thế trận và lực
lượng sẵn sàng đủ sức bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ (vùng đất,
vùng biển, vùng trời), bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững và củng cố hòa bình,
an ninh, ổn định trên cả nước, thúc đẩy công cuộc xây dựng kinh tế, hiện đại hóa
đất nước. Như vậy, hai nhiệm vụ xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng thống
nhất về mục tiêu, định hướng phát triển.
3.2. Một số khuyến nghị:
3.2.1. Đối với nhà nước:
Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển mạnh mẽ, tác động
mạnh đến mọi mặt, các lĩnh vực kinh tế, xã hội trên phạm vi toàn thế giới, đòi hỏi
Việt Nam phải tiếp tục chuyển đổi từ phát triển kinh tế chủ yếu theo chiều rộng
(các ngành có giá trị gia tăng thấp, sử dụng nhiều lao động giản đơn như: dệt may,
da giày, lắp ráp linh kiện điện tử, chế biến nông, lâm, thủy sản, thực phẩm...) sang
phát triển theo chiều sâu, (các ngành có giá trị gia tăng cao, sử dụng lao động chất
lượng cao, có kỹ năng như: công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo, điện tử tin học, sản
xuất vật liệu mới thay thế nhập khẩu...). Trước hết, cần ưu tiên tập trung vào một
số ngành công nghệ cao mà Việt Nam có thế mạnh như công nghệ thông tin, công
nghệ y - sinh, công nghệ sinh học…
Nhà nước cần rà soát lại chiến lược phát triển kinh tế quốc gia, trên cơ sở đó
điều chỉnh kế hoạch phân bổ không gian kinh tế hợp lý, gắn với thế mạnh của từng
vùng; tạo sự liên kết các vùng lãnh thổ phát triển theo hướng bền vững, bảo vệ môi
trường, an ninh quốc gia.
Tiếp tục đẩy mạnh thu hút vốn FDI, theo hướng ưu tiên cho những doanh
nghiệp ứng dụng và chuyển giao công nghệ mới thân thiện môi trường; chuyển
giao công nghệ quản lý hiện đại. Có chính sách ưu tiên thu hút những nhà đầu tư
chiến lược, những dự án có quy mô lớn, công nghệ cao, công nghệ sạch, sản xuất
hàng xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ.
Nhà nước phát huy sức mạnh tổng thể của các thành phần kinh tế, khai thác
mọi nguồn lực cho phát triển. Tăng cường hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp
trong và ngoài ngành, giữa các ngành để khai thác tối đa lợi thế của nhau cùng phát
triển. Trước mắt thực hiện tốt Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội
nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “về phát triển kinh tế tư
nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa”, huy động cao nhất tiềm lực trong xã hội đầu tư vào các dự án phát
triển kinh tế.
Huy động nguồn lực cho phát triển bền vững, trong đó chú trọng việc huy
động nguồn vốn tư nhân trong nước cho phát triển bền vững, chuyển trọng tâm thu
hút vốn đầu tư FDI từ số lượng sang chất lượng và chuẩn bị tốt các điều kiện để
chuyển tiếp thành công sang giai đoạn “hậu ODA”. Đồng thời sử dụng nguồn lực
huy động được một cách tập trung và hiệu quả, hướng tới các mục tiêu phát triển
kinh tế bền vững đặt ra; tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách đi đôi với lồng ghép
các chính sách phát triển bền vững, nguồn lực tài chính cho phát triển bền vững và
các mục tiêu cần đạt trong Chiến lược; tăng cường phối hợp, hợp tác giữa các bên
liên quan để tạo sự lan tỏa trong thực hiện các các mục tiêu phát triển bền vững.
Cần bảo đảm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững không chỉ là công việc
của Chính phủ mà của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.

3.2.2. Đối với doanh nghiệp:


Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam; trong đó, nhất là các doanh nghiệp trẻ,
các doanh nghiệp khởi nghiệp cần nhận thức, công nghệ và ý thức kỷ luật lao động
chính là giải pháp hiệu quả và thực tiễn nhất để thúc đẩy năng suất lao động và từ
đó mới có thể thu lại hiệu quả.
Trong từng giai đoạn phát triển, doanh nghiệp cần lựa chọn một số lĩnh vực
tập trung ưu tiên đầu tư, để tạo ra những sản phẩm chất lượng cao có khả năng
cạnh tranh; một số ngành, sản phẩm chủ yếu mà Việt Nam có thế mạnh nhằm thúc
đẩy tăng trưởng nhanh, xây dựng thương hiệu mạnh và chỗ đứng vững chắc trên
thị trường trong nước và nước ngoài.
Doanh nghiệp cần không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động nhằm thúc đẩy
phát triển nền kinh tế. Để giải phóng nguồn lực cho các khu vực khác của nền kinh
tế, các doanh nghiệp nhà nước cần phải được tái cơ cấu một cách toàn diện về mô
hình quản trị, chiến lược kinh doanh và quản lý tài chính. Đồng thời, Nhà nước đẩy
mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, chỉ giữ lại một số ít doanh nghiệp
thật sự quan trọng có tính chất dẫn dắt nền kinh tế, hoặc những doanh nghiệp công
ích không để thị trường can thiệp; doanh nghiệp phục vụ cho quốc phòng an ninh.
Tiếp tục đẩy mạnh chiến lược xuất khẩu, hội nhập sâu vào mạng lưới sản
xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, từng bước tiến lên những bậc thang giá trị cao hơn.

3.2.3. Đối với người lao động:


Người lao động cần nỗ lực, rèn luyện, phấn đấu, nâng cao trình độ học vấn,
tay nghề, khẳng định năng lực... để thăng tiến, nâng cao thu nhập và rèn luyện cho
mình tác phong làm việc chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi trong xu thế phát
triển hiện nay.
Người lao động phải tuân theo kỷ luật để đảm bảo việc thực hiện công việc
được thực hiện một cách thống nhất, chặt chẽ, hiệu quả, đảm bảo trật tự tại nơi làm
việc.
Các công nhân, viên chức, lao động sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp
luật; tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống, thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn,
xây dựng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp vững mạnh.
KẾT LUẬN

Như vậy, chúng ta thấy rằng việc xây dựng và phát triển nền sản xuất hàng
hóa ở nước ta là một quá trình vừa có tính cấp bách lại vừa có chiến lược lâu dài.
Nó quyết định đến sự thành bại của cả một nền kinh tế, là định hướng phát triển
các loại hình kinh tế khác nhau. Trong từng bước đi của quá trình có những khó
khăn do sự xuất phát thấp của nên kinh tế nhưng lại có những thuận lợi nhất định
được khai thác: đó là nguồn lao động dồi dào, môi trường và con người Việt Nam
năng động ,có khả năng tiếp cận cơ chế thị trường nhanh ,nước ta lại nằm trong
khu vực Châu Á-Thái Bình Dương ;vùng trung tâm của nền văn minh loài người
đang được di chuyển đến, vùng kinh tế năng động nhất hiện nay.
Chính vì thế ngay từ buổi đầu của chính sách đổi mới kinh tế ta đã xác định
ngay việc đổi mới phải theo hướng có lợi cho sự phát triển của nền sản xuất hàng
hóa. Trong thập niên gần đây sản xuất hàng hóa phát triển mạnh mẽ nhờ sự tác
động và thúc đẩy của công nghệ mới và lực lượng sản xuất mới, cho nên nền kinh
tế hàng hóa đang có xu hướng chuyển sang kinh tế thị trường. Tốc độ phát triển
cao của sản xuất hàng hóa tạo sự hấp dẫn mạnh đối với các nhà hoạch định chiến
lược, phát triển kinh tế-xã hội hiện nay ở các nước XHCN.
Bài tiểu luận trên đã trình bày những kiến thức mà chúng em tìm hiểu được về
nền sản xuất hàng hóa và nền kinh tế thị trường. Mong nhận được sự góp ý và đánh
giá của cô để giúp chúng em nâng cao hơn sự hiểu biết của mình!
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] PGS.TS Ngô Tuấn Nghĩa, PGS.TS Nguyễn Minh Khải, PGS.TS Phạm Văn
Dũng, PGS.TS Tô Đức Hạnh, Chương 2,3, Giáo trình Kinh tế chính trị Mác –
Lênin, NXB Giáo dục, 2019
[2] Phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn 2030
https://tapchitaichinh.vn/su-kien-noi-bat/phat-trien-kinh-te-ben-vung-o-viet-nam-
den-nam-2025-va-tam-nhin-2030-333233.html
[3] Chiến lược phát triển kinh tế xã hội
http://cand.com.vn/thoi-su/Phan-thu-hai-Chien-luoc-phat-trien-Kinh-te-xa-hoi-
2021-2030-616525/
[4] Kinh tế Việt Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_t%E1%BA%BF_Vi%E1%BB%87t_Nam

You might also like