intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp hình thành kỹ năng sống cho trẻ 3-4 tuổi

Chia sẻ: Canhvatxanhbaola | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:20

16
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm mầm non được hoàn thành với một số biện pháp như sau: Xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống phù hợp với khả năng và nhận thức của trẻ; Giáo dục kĩ năng sống thông qua các hoạt động hàng ngày; Lựa chọn nội dung, những kỹ năng cơ bản phù hợp với khả năng của trẻ lớp mình;...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp hình thành kỹ năng sống cho trẻ 3-4 tuổi

  1. ỦY BAN NHÂN DÂN QUẬN HOÀNG MAI TRƯỜNG MẦM NON THỊNH LIỆT ------ LOGO SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP HÌNH THÀNH KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ 3- 4 TUỔI Lĩnh vực : Giáo dục mẫu giáo Cấp học : Mầm non Tên tác giả : Nghiêm Thị Hoa Đơn vị công tác: Trường mầm non Thịnh Liệt Chức vụ : Giáo viên . Năm học 2019-2020 1
  2. MỤC LỤC A. ĐẶT VẤN ĐỀ.....................................................................................................2 I. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................2 1. Thời gian, đối tượng, phạm vi nghiên cứu.........................................................2-3 2. Thực trạng..............................................................................................................3 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ......................................................................................3 I. Cơ sở lý luận........................................................................................................3-4 II. Cơ sở thực tiễn.......................................................................................................4 1. Thuận lợi............................................................................................................4-5 2. Khó khăn...............................................................................................................5 III. Các biện pháp.....................................................................................................5 1. Biện pháp 1.......................................................................................................5-.6 2. Biện pháp 2.........................................................................................................6-7 3. Biện pháp 3.......................................................................................................7-12 C. KẾT LUẬN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM……................…..…...............12 1. Kết quả.................................................................................................................12 2. Kết luận................................................................................................................13 3. Đề xuất và khuyến nghị........................................................................................14 D. TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................15 E. CÁC MINH CHỨNG HÌNH ẢNH.............................................................16-19 2
  3. A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài “Trẻ em như búp trên cành Biết ăn biết ngủ biết học hành là ngoan” Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của dân tộc. Việc bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ em là trách nhiệm của nhà nước, của xã hội và của mỗi gia đình: “Trẻ em hôm nay, Thế giới ngày mai”. Việc giáo dục trẻ ngay từ khi còn nhỏ là vô cùng quan trọng trong sự nghiệp giáo dục, nhằm hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ sau này. Bác Hồ nói: “Không có giáo dục thì không nói gì đến kinh tế văn hóa”. Sản phẩm của giáo dục là con người mà con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển đất nước trong tương lai đó chính là thế hệ trẻ. Trẻ thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động...Hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thách thức, những áp lực tiêu cực. Nếu thiếu kỹ năng sống, các em dễ bị lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, bạo lực và lối sống ích kỉ, kiêu căng, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Trong quá trình phát triển nhân cách nếu trẻ được sớm hình thành và tôn vinh các giá trị đích thực của mình thì các em sẽ có một nhân cách phát triển toàn diện, bền vững, có khả năng thích ứng và chống chọi với mọi biến động xã hội, biết tự khẳng định mình trong cuộc sống . Trẻ em là giai đoạn học, tiếp thu, lĩnh hội những giá trị cuộc sống để phát triến nhân cách, do đó cần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để trẻ nhận thức đúng và có hành vi ứng xử phù hợp ngay từ khi còn nhỏ. Giúp trẻ sống tự tin, kích thích tính tò mò, ham học hỏi, có kĩ năng giao tiếp tốt và biết cách tự bảo vệ bản thân để giúp trẻ phát triển toàn diện về mọi mặt, bên cạnh đó còn giúp giáo viên nhận thức sâu sắc, giúp phụ huynh hiểu rõ về tầm quan trọng của việc dạy kĩ năng sống cho trẻ 1. Thời gian, đối tượng, phạm vi nghiên cứu: a. Thời gian phạm vi nghiên cứu: - Tháng 09/2019 khảo sát tình hình thực tiễn, viết đề cương sáng kiến. - Từ tháng 10/2019 đến tháng 5/2020 áp dụng vào thực tế - Tháng 01/2020 viết sáng kiến kinh nghiệm - Tháng 02/2020 hoàn thiện sáng kiến kinh nghiệm b. Đối tượng nghiên cứu - Trẻ 3 - 4 tuổi lớp C1 Trường mầm non Thịnh Liệt, Quận Hoàng Mai 3
  4. c. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp trực quan, hành động - Phương pháp thực hành trải nghiệm - Phương pháp hướng dẫn giải thích, phân tích - Phương pháp tạo tình huống 2. Thực trạng Trường mầm non Thịnh Liệt là trường đạt chuẩn quốc gia nằm ở trên địa bàn Phường Thịnh Liệt với 3 cơ sở, trường có 20 nhóm lớp, có khung cảnh sư phạm xanh sạch - đẹp. Nhà trường có đủ cơ sở vật chất cần thiết để phục vụ cho công tác chăm sóc và giáo dục trẻ, tại các nhóm lớp nhà trường đã trang bị các tài liệu và đồ dùng để giáo viên có điều kiện hoàn thành tốt công việc được giao. Phong trào: "Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực" của trường mầm non Thịnh Liệt vẫn luôn được chú tâm. Trong đó việc dạy cho trẻ những kỹ năng sống cơ bản để giúp trẻ rèn luyện bản thân ngay từ nhỏ là một việc không thể thiếu trong mọi môi trường nhất là đối với trường mầm non Thịnh Liệt. Năm học 2019-2020 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp mẫu giáo bé với tổng số học sinh là 47 cháu trong đó 25 cháu nữ và 22 cháu nam. B - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lý luận Dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non nhằm giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được những điều nên làm hay không nên làm. Theo các chuyên gia giáo dục kỹ năng sống và kiến thức cơ bản sẽ tạo nền tảng tốt cho quá trình học hỏi, phát triển sau này của trẻ. Các bé được học kỹ năng từ sớm đúng phương pháp sẽ tự tin và nhanh nhẹn hơn trong cuộc sống. Giáo dục kỹ năng sống là một phần quan trọng trong chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non. Hiện nay, việc đưa giáo dục kỹ năng sống vào nhà trường, nhất là từ bậc học mầm non đã được thực hiện ở hầu hết các nước trên thế giới và mỗi nước có một phương thức giáo dục khác nhau. Tại Việt Nam thì việc đưa giáo dục kỹ năng sống vào lứa tuổi mầm non cũng được chú trọng vào các năm gần đây. Trẻ cần phải được trang bị những kỹ năng để sống chung và ứng phó, xử lý những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống hàng ngày. Vậy một số “Kỹ năng sống” cần thiết đối với trẻ 3-4 tuổi đó là: Kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng tự tin, kỹ năng tự bảo vệ, kỹ sống hợp tác, kỹ năng giao tiếp ứng xử , để đưa vào dạy trẻ với mục đích nhằm giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, độc lập, sáng tạo, linh hoạt, tự giác, dễ hòa 4
  5. nhập, dễ chia sẻ… hình thành nếp sống văn minh, có hành vi ứng sử, giao tiếp theo quy tắc, chuẩn mực phù hợp II. Cơ sở thực tiễn Là giáo viên mầm non nhiều năm phụ trách lớp mẫu giáo bé, tôi nhận thức được tầm quan trọng của kĩ năng sống đối với sự phát triển của trẻ, tôi đã luôn trăn trở và suy nghĩ làm thế nào để giáo dục kĩ năng sống cho trẻ lớp tôi có hiệu quả. Việc xác định được các kĩ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp tôi lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ.Tôi nhận thấy rằng đối với trẻ 3-4 tuổi việc dạy trẻ những kĩ năng sống không phải là nói cho trẻ biết thế nào là đúng, thế nào là sai như ta thường làm. Các phương pháp như cũ như bài giảng theo những chuẩn mực, cô hỏi trẻ chủ động trả lời sẽ hoàn toàn thất bại vì chúng chỉ cung cấp thông tin, mà từ thông tin và nhận thức đến thay đổi hành vi khoảng cách còn rất lớn. Vì vậy dạy trẻ những kĩ năng sống là giúp trẻ nâng cao năng lực. Trên thực tế nhiều trẻ trong lớp mà tôi đang giảng dạy chưa có nhiều vốn kiến thức về kĩ năng sống vì phần lớn phụ huynh lớp tôi là lao động chân tay và làm nghề tự do, một số khác thì công nhân, một số phụ huynh chưa chú ý, một số phụ huynh còn nuông chiều con, thường hay làm thay cho trẻ, còn một số phụ huynh chưa hiểu biết và chưa quan tâm đến việc dạy kĩ năng sống cho trẻ. Trong những năm gần đây trường tôi cũng chưa có những sáng kiến về các kĩ năng sống để tôi học tập. Vậy làm thế nào để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3 - 4 tuổi có hiệu quả và giúp trẻ phát triển một cách toàn diện nhất về mọi mặt, đó là câu hỏi luôn đặt ra trong tôi. Từ những trăn trở suy nghĩ trên tôi đã chọn đề tài:" Một số biện pháp giúp trẻ 3 - 4 tuổi có những kỹ năng sống cần thiết " Kĩ năng sống thúc đẩy sự phát triển của cá nhân và xã hội và giáo dục kĩ năng sống chính là những nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vy và thói quen tích cực, lành mạnh. Đối với trẻ mầm non trong quá trình phát triển nhân cách nếu trẻ được sớm hình thành và tôn vinh các giá trị đích thực của mình thì các em có một nhân cách phát triển toàn diện, bền vững, có khả năng thích ứng và chống chọi với mọi biến động xã hội, biết tự khẳng định mình trong cuộc sống. Trong quá trình thực hiện giáo dục kĩ năng sống cho trẻ tôi nhận thấy có một số thuận lợi và khó khăn như sau: 1. Thuận lợi: - Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu nhà trường, phòng Giáo dục - Đào tạo Quận Hoàng Mai. 5
  6. - Trường lớp quy mô đạt chuẩn, phòng nhóm gọn gàng, sạch sẽ, đảm bảo hợp vệ sinh và an toàn cho trẻ. - Bản thân tôi thường xuyên được tham gia các buổi sinh hoạt chuyên môn trong trường để trau dồi chuyên môn. Và cũng đã được kiến tập một số tiết mẫu ở trường nên cũng đã học tập được một số kinh nghiệm trong phương pháp giảng dạy. - 80% học sinh đều học qua lớp nhà trẻ cho nên trẻ cũng có nề nếp. - Các bậc phụ huynh luôn quan tâm tới các con và thường xuyên trao đổi thông tin với các cô giáo. - Trẻ ở cùng độ tuổi nên mức độ nhận thức tương đối đồng đều chính vì vậy việc dạy trẻ cũng gặp nhiều thuận lợi. 2. Khó khăn: - Một số trẻ quá hiếu động, nghịch ngợm cho nên cũng gây ảnh hưởng tới các bạn khác trong lớp khi tham gia các hoạt động. - Một số trẻ trong lớp còn nhút nhát chưa tự tin khi giao tiếp với cô và các bạn. - Nhiều gia đình do ít con cho nên chiều chuộng và dẫn đến trẻ ngại hoạt động mà luôn có tính ỷ lại vào người khác. - Một số trẻ chưa biết cách tự chăm sóc bản thân mình cho tốt - Rất nhiều trẻ chưa biết cách phối hợp với các bạn chơi trong nhóm. Bảng khảo sát đầu năm Đầu năm Các mặt phát triển Trẻ đạt Tỉ lệ % Trẻ CĐ Tỉ lệ % 1.Kỹ năng tự phục vụ 27 57% 20 43% 2.Kỹ năng tự bảo vệ 30 64% 17 36% Tổng 47 3.Kỹ năng hợp tác 25 53% 22 47% trẻ 4.Kỹ năng giao tiếp- ứng xử 26 55% 21 45% 5.Kỹ năng tự tin 25 53% 22 47% Qua khảo sát, tôi đã nghiên cứu và lựa chọn, xây dựng một số biện pháp hình thành kỹ năng sống cho trẻ. III. CÁC BIỆN PHÁP 1. Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống phù hợp với khả năng và nhận thức của trẻ. 6
  7. a. Mục đích: Xây dựng kế hoạch là một biện pháp quan trọng, là kim chỉ nam để giáo viên chủ động sắp xếp, chuẩn bị và thực hiện các hoạt động theo đúng kế hoạch đã đề ra nhằm đạt kết quả tốt nhất. Vì thế ngay từ đầu năm học 2019 – 2020 tôi đã bám sát vào kế hoạch giáo dục kĩ năng sống của nhà trường để lên kế hoạch lựa chọn các kỹ năng sống phù hợp với điều kiện thực tế và khả năng nhận thức của trẻ. Khi lập kế hoạch tôi căn cứ vào mục tiêu giáo dục trẻ theo lứa tuổi, những kỹ năng sống trẻ chưa có hoặc chưa thành thạo ở lứa tuổi trước, điều kiện cơ sở vật chất của trường, lớp mình phụ trách. b. Cách tiến hành: - Bước 1: Xác định các kỹ năng sống cần thiết của trẻ - Bước 2: Xác định thời gian giáo dục kỹ năng giáo dục cho từng kỹ năng sống. - Bước 3: Lựa chọn những phương pháp và hình thức giáo dục thích hợp với trẻ. - Bước 4: Xác định các điều kiện thực hiện kỹ năng sống cho trẻ. - Bước 5: Xác định những hoạt động phối hợp với các bậc cha mẹ và cộng đồng để rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ. - Bước 6: Đưa các kỹ năng sống vào trong kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ hàng ngày .c. Kết quả: Với kế hoạch xây dựng cụ thể như trên tôi đã lồng ghép các nội dung giáo dục trẻ vào các hoạt động giáo dục hàng ngày một cách hiệu quả. 100% trẻ lớp tôi đều được hướng dẫn những kỹ năng sống cần thiết. Trẻ có thể tiếp thu được từ những kỹ năng đơn giản rồi đến những kỹ năng khó hơn. 2. Biện pháp 2: Giáo dục kĩ năng sống thông qua các hoạt động hàng ngày. a. Mục đích: Thông qua các hoạt động khác của trẻ tôi khéo léo lông ghép tích hợp nhưng nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ một cách phù hợp nhằm mang lại những hiệu quả tốt nhất. b. Cách tiến hành: - Hoạt động đón trả trẻ: Tôi lồng ghép giáo dục kĩ năng giao tiếp cho trẻ như biết lễ phép chào cô, chào bố mẹ, hỏi han bạn hoặc tôi lồng ghé kĩ năng tự phục vụ bản thân và chấp hành quy định của lớp như tự cất giầy dép, ba lô đúng nơi quy định. - Hoạt động góc: Chúng ta biết rằng “Trẻ học bằng chơi, chơi mà học” vì thế thông qua hoạt động này trẻ được đóng các vai khác nhau trong xã hội từ đó mà trẻ có tất cả những kiến thức và kinh nghiệm cuộc sống 7
  8. Ví dụ: Ở góc chơi phân vai mẹ con, trẻ học được các kĩ năng như kĩ năng giao tiếp giữa mẹ và con, trẻ biết nói nựng con, dặn dò con, kĩ năng chăm sóc như trẻ biết lấy nước cho con uống, xúc bột cho con ăn, kĩ năng hợp tác như trẻ học được cách chơi trong nhóm như biết trò chuyện chia sẻ với bạn….sau khi chơi xong trẻ cất đồ dùng đồ chơi đúng nơi quy định. - Hoạt động ngoài trời: Thông qua hoạt động ngoài trời tôi đã lồng ghép dạy trẻ nhiều kĩ năng khác nhau Ví dụ: Qua việc trò chuyện san sát cầu trượt, trẻ nhận biết được một số nguyên nhân gây ra ngã, tai nạn và biết cách phòng tránh nguy cơ gây ngã. Các kĩ năng tôi dạy trẻ đó là - Kĩ năng giao tiếp: Trẻ lắng nghe cô và các bạn, nêu ý kiến, chia sẻ thông tin - Kĩ năng sử lí tình huống: Khi ngồi trên cầu trượt trẻ cần phải làm gì? - Kĩ năng ra quyết định: Làm gì hay không làm gì để phòng tránh ngã? - Hoạt động giờ ăn: Trong giờ ăn tôi dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống qua đó dạy trẻ những kĩ năng lao động, phục vụ, rèn tính tự lập như biết đi chia cơm cho bàn của mình, biết ăn uống lịch sự, không nói chuyện trong khi ăn, ăn hết xuất, không làm rơi vãi, biết mời khi ăn, biết dọn, cất bát thìa đúng nơi quy định…. - Hoạt động lao động: Trẻ biết lau dọn các góc chơi và sắp xếp lại đồ dùng gọn gàng nhằm phát triển kĩ năng hợp tác và rèn thói quen sống ngăn nắp gọn gàng Trẻ biết tưới nước cho cây giúp cô, biết nhặt lá rụng trong sân trường, bồn cây luôn sạch sẽ. - Hoạt động vệ sinh: Tôi dạy trẻ các kĩ năng tự phục vụ như: Rửa mặt, rửa tay bằng xà phòng, cách chải tóc, cách gấp quần áo và đi vệ sinh đúng nơi quy định… c. Kết quả: Khi trẻ dược chải nghiệm những kỹ năng sống thông qua các hoạt động hàng ngày đã giúp trẻ dần dần hình thành những thói quen sống, những đức tính cần thiết để xử lỹ các tình huống trẻ gặp trong cuộc sống. 3. Biện pháp 3: Lựa chọn nội dung, những kỹ năng cơ bản phù hợp với khả năng của trẻ lớp mình. a. Mục đích: Giúp trẻ của lớp tôi có thể tiếp thu được tất cả những kiến thức về những kỹ năng cơ bản nhất để trẻ có thể tự tin, mạnh dạn hơn. Biết sử lý các tình huống trong cuộc sống hàng ngày, dần tạo cho trẻ những đức tính cần thiết của một người có nhân cách, đạo đức, có ích cho xã hội. 8
  9. b. Cách tiến hành: - Dạy trẻ biết cách tự phục vụ, chăm sóc: Dạy cho trẻ biết các kĩ năng tự phục vụ thì trẻ ý thức được sự cần thiết của việc tụ phục vụ bản thân, tăng cường tính độc lập cho trẻ, trẻ có trách nhiệm sống hơn với chính mình. Đầu năm, trẻ lớp tôi còn rất nhiều trẻ chưa có kỹ năng tự phục vụ bản thân như: chưa biết cách thay quần áo, chưa biết cách gấp quần áo và còn để đồ dùng không đúng theo quy định, còn có một số trẻ khi xúc cơm còn rơi vãi, có những trẻ không tự xúc mà chỉ chờ đợi cô xúc cho thì mới ăn thậm trí trẻ bị sổ mũi thì ngay lập tức trẻ lấy tay quệt ngang mặt chứ không cần nghĩ phải làm gì. Là một giáo viên điều đầu tiên là tôi cần tập cho trẻ những kỹ năng nhỏ nhất giúp trẻ biết cách chăm sóc và giữ gìn sức khỏe cho chính mình. Thời gian trẻ ở trường là đa phần cho nên trẻ cần phải học cách chăm sóc bản thân mình và ai sẽ là người dạy trẻ những kỹ năng đó, không ai khác ngoài cô giáo của trẻ và để trẻ có được kỹ năng đó thì chúng ta phải thường xuyên cho trẻ thực hiện. Trong chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ bao gồm những công việc mà trẻ phải tự làm như: trẻ phải biết tự mình rửa tay trước khi ăn cơm và sau khi đi vệ sinh, khi tay bẩn, rèn cho trẻ biết tự rửa tay dưới vòi nước bằng xà phòng đúng quy trình, phải biết xúc cơm như thế nào cho đúng, biết lấy khăn lau miệng, biết xúc miệng nước muối…Đây là công việc trẻ phải tự làm chứ không thể nhờ ai làm hộ mình được và đó là kỹ năng không thể thiếu trong mỗi trẻ vì nó còn giúp trẻ hình thành hành vi và thói quen tốt cho trẻ sau này. ( Minh chứng 1: Hình ảnh trẻ lau mặt trước khi ăn) Hàng ngày, nhất là vào mùa đông, trẻ lớp tôi thường mặc nhiều áo đi lớp, trước khi đi ngủ trẻ phải cởi bớt áo ra, trẻ thường để quần áo lộn xộn dẫn đến việc giáo viên chúng tôi mất nhiều thời gian để gấp quần áo cho trẻ. Chính vì vậy vào giờ hoạt động góc, hoạt động chiều tôi đã dạy trẻ kỹ năng gấp quần, áo, cách cởi áo, mặc áo. Để dạy trẻ có hiệu quả, ở góc kỹ năng tôi đã làm một số bộ sách về kỹ năng cho trẻ được tập luyện: Tập cài cúc áo, cởi cúc áo, mặc áo, kéo khóa, gấp áo, gấp quần…để từ đó trẻ có thể ứng dụng vào thực tế một cách hiệu quả. ( Minh chứng 2: Hình ảnh trẻ đang học cách gấp quần áo) - Kĩ năng tự bảo vệ bản thân: Xã hội hiện đại mang đến cho cuộc sống con người nhiều tiện ích, sự thoải mái nhưng cũng tiềm ẩn nhiều mối nguy hiểm, đặc biệt là đối với con trẻ. Điều này đòi hỏi mỗi trẻ đều phải có những kỹ năng để xử lý cũng như bảo vệ chính bản thân mình. Trẻ có kỹ năng bảo vệ bản thân sẽ biết cách làm thế nào để tránh xa những mối nguy hiểm. 9
  10. Trên thực tế, lớp tôi có rất nhiều trẻ chưa phân biệt được những gì là nguy hiểm hay không nguy hiểm đối với mình. Chính vì vậy nên việc giúp trẻ phân biệt những mối nguy hiểm luôn được tôi quan tâm, lồng ghép vào để giáo dục trẻ qua những câu chuyện, qua hoạt động học, qua tranh ảnh, video…Để việc giáo dục trẻ kỹ năng tự bảo vệ được tốt, tôi đã lựa chọn ra những mối nguy hiểm thường xảy ra trong cuốc sống hàng ngày đối với trẻ để lồng ghép vào các thời điểm trong ngày cho thích hợp. Cụ thể: Với tình huống: Khi sảy ra hỏa hoạn. Tôi dạy cho trẻ những kĩ năng cơ bản cần thiết để bảo vệ bản thân mình khi thoát ra khỏi đám cháy một cách an toàn như hô hoán cho mọi người cùng biết, lấy khăn ẩm bịt mũi miệng… Các mối nguy hiểm trong gia đình: Ổ điện, quạt điện, bếp ga, phích nước nóng, bàn là…tôi sẽ lồng vào hoạt động khám phá để dạy trẻ. Tôi cho trẻ kể tên về những đồ dùng trong gia đình nhà mình, sau đó cho trẻ xem tranh về những đồ dùng đó, hỏi trẻ xem những đồ dùng này các con có được sử dụng không? Vì sao? Sau khi trẻ được khám phá về đồ dùng gia đình tôi tổ chức cho trẻ chơi trò chơi trên bảng các trò chơi: “Gạch chéo vào những đồ dùng gây bỏng cho trẻ”. Các mối nguy hiểm ngoài xã hội: bắt cóc, lạc đường, những nơi nguy hiểm gần ao hồ, cột điện, nơi công trường đang thi công…với những mối nguy hiểm này tôi sẽ truyền đạt cho trẻ bằng các câu hỏi tình huống, cho trẻ xem những đoạn video…cô và trẻ cùng nhau thảo luận để trẻ hiểu được đó là những mối nguy hiểm mà cần phải tránh xa. Từ đó tôi sẽ dạy trẻ các kĩ năng sử lý tình huống khi bị bắt cóc như: hét to cầu cứu, bám dính hoặc bám chặt vào các đồ vật, quay cánh tay, đập đạp vào kẻ bắt cóc Kỹ năng tự bảo vệ bản thân là thật sự cần thiết dạy cho con trẻ, xã hội đang phát triển đồng nghĩa với với những tện nạn xã hội một nhiều, trang bị cho trẻ những kỹ năng tự bảo vệ bản thân chính là trang bị cho trẻ những hành trang để trẻ có thể sống an toàn, lành mạnh hơn. - Tạo sự tự tin cho trẻ khi tham gia hoạt động: Người ta thường nói: chỉ cần tự tin là giành được 50% thành công. Tự tin là điều hết sức cần thiết để có thể thành công trong cuộc sống, sự nghiệp. Tuy nhiên không phải ai cũng có thể luôn đạt được sự tự tin cần thiết trong nhiều tình huống. Do đó tự tin là một trong những yếu kỹ năng quan trọng mà chúng ta cần từng bước xây dựng cho trẻ từ khi còn nhỏ tuổi. Sự tự tin sẽ giúp trẻ dám nỗ lực, không ngại thử thách; trẻ tự tin sẽ có khả năng sống độc lập, hòa nhập xã hội tốt và dễ thành công hơn trong cuộc sống. Ví dụ: Giờ hoạt động góc trẻ được đóng vai làm ca sĩ, lúc đầu tôi sẽ để tự trẻ đóng vai đó và xem trẻ thể hiện vai chơi đó như thế nào? Tôi sẽ đứng bên cạnh 10
  11. quan sát, nếu thấy trẻ đóng không được lúc đó tôi mới nhập vai khán giả và cùng trò chuyện để trẻ hiểu vai chơi của mình. ( Minh chứng 3: Hình ảnh trẻ đóng vai bác sĩ) Tôn trọng cũng chính là động lực tâm lý đầu tiên sinh ra sự tự tin, trẻ không được tôn trọng thì trẻ sẽ mất dần sự tự tin vào chính bản thân trẻ. Nắm bắt được tâm lý này cho nên tôi luôn tôn trọng trẻ, khích lệ trẻ để tạo thêm sự tự tin cho trẻ nhưng bên cạnh đó tôi không quá tán dương trẻ để dẫn đến việc trẻ kiêu ngạo. Khi trẻ đã tự tin rồi thì mọi hoạt động sẽ đều đạt kết quả cao. Ví dụ: Khi tôi giao bài cho trẻ làm và mỗi bài có một yêu cầu khác nhau, lúc này nếu có trẻ không làm theo yêu cầu của tôi mà trẻ làm theo ý thích của trẻ thì tôi cũng không thể mắng trẻ mà tôi hỏi trẻ, tại sao trẻ không làm theo yêu cầu đó. Đây tuy là một chuyện rất nhỏ nhưng cũng nói lên được sự tôn trọng của tôi đối với trẻ. ( Minh chứng 4: Hình ảnh trẻ làm bài theo yêu cầu của cô) Kích thích sự tò mò ở trẻ cũng là một cách hay để giúp trẻ trở nên tự tin hơn. Bởi vì đó chính là lúc bé khám phá thế giới xung quanh và kiểm nghiệm xem mình có thể làm gì. Để phát triển lòng tự tin của trẻ, tôi quan sát kỹ lưỡng những đặc tính nổi bật ở mỗi trẻ và khuyến khích trẻ tham gia vào các hoạt động thích hợp với năng khiếu của bản thân. Rất nhiều trẻ thích khám phá thế giới xung quanh và tìm hiểu về sự vật hiện tượng đó như: Tại sao cây lại héo, tại sao thìa nhựa lại nổi trên mặt nước…có những trẻ lớp tôi chỉ thích chơi trò lắp ghép và sau một thời gian trẻ đã biết lắp ghép ra các đồ dùng có ý nghĩa. - Tạo môi trường giao tiếp cho trẻ: Dạy trẻ mầm non kỹ năng giao tiếp là rất cần thiết nhưng ta cần xác định được sẽ dạy trẻ các kỹ năng giao tiếp nào cho trẻ. Trẻ đến trường thì việc đầu tiên là trẻ phải giao tiếp với cô, rồi đến các bạn trong lớp và mọi người trong trường học. Hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ không phải là tôi dạy trẻ nói nhiều mà dạy trẻ cách giao tiếp và ứng xử như thế nào cho đúng. Môi trường giao tiếp mà luôn an toàn, thân thiện thì sẽ tạo cho trẻ sự yên tâm, hưng phấn khi tham gia vào các hoạt động. Trong lớp học việc xây dựng các góc chơi cũng rất quan trọng vì khi trẻ tham gia vào các góc chơi cũng chính là lúc trẻ đang học cách giao tiếp với các bạn. Đầu tiên tôi cần tạo một môi trường giao tiếp thật tốt để trẻ có cảm giác thật thoải mái khi trẻ đến lớp và trẻ có nhu cầu giao tiếp bằng lời. Có nghĩa là trong tất cả mọi hoạt động một ngày của trẻ ở lớp, tôi luôn dùng nhiều trò chơi câu đố để khích lệ trẻ tham gia, qua đó sẽ giúp trẻ tự nhiên hơn và cởi mở hơn trong giao tiếp. 11
  12. Ví dụ: Lớp tôi có cháu Ngọc Trâm. ngọc Thiện, Minh Tú các cháu này rất ít nói và ít tham gia vào các hoạt của lớp, do cháu nhút nhát. Với những trẻ nhút nhát, trẻ ít tham gia vào các hoạt động thì tôi thường xuyên gọi trẻ trả lời trong các hoạt động và cho trẻ nhập vào các nhóm chơi như: bán hàng, nấu ăn, xây dựng vì các nhóm chơi này yêu cầu trẻ phải giao tiếp nhiều hơn. Giờ hoạt động ngoài trời trẻ tham gia rất sôi nổi vì trẻ được chơi theo ý thích trẻ, nhiều trẻ có thể rủ nhau cùng chơi xích đu và kể cho nhau nghe những câu chuyện trẻ biết, có nhiều trẻ thì thích vẽ phấn và vẽ các hình theo ý tưởng của riêng trẻ. Lúc này tôi thường quan sát xem các trẻ giao tiếp với nhau như thế nào và cách nói chuyện của trẻ đã đúng chưa, nếu chưa đúng thì tôi nhẹ nhàng nhắc nhở trẻ để trẻ nhận ra cách nói của mình là không đúng và tôi giúp trẻ sửa sai. ( Minh chứng 5: Hình ảnh trẻ trổ tài theo ý thích) - Hướng dẫn trẻ cách hợp tác với các bạn trong nhóm: Hợp tác là mọi người cùng nhau hoàn thành một việc gì đó hay cùng nhau làm việc vì một mục đích và nó còn mang ý nghĩa cùng nhau vui vẻ làm việc. Chính vì thế, hợp tác là quan trọng vì có những công việc trẻ cần sự chia sẻ của các bạn mới hoàn thành được, qua đó trẻ thấy vui hơn, có tình cảm với bạn bè và tạo được niềm vui cho mình và cho cả bạn mình nữa. Kỹ năng hợp tác với các bạn trong nhóm của trẻ được phát triển qua nhiều hoạt động như: Trẻ tham gia chơi trò chơi đóng vai (Bán hàng, nấu ăn, bác sỹ…) thì tôi gợi ý cho trẻ tự phân vai nhau và theo thứ tự lần lượt đóng các vai như: người bán hàng, người thu tiền, người làm mẹ, người làm con, người làm bệnh nhân, người làm bác sỹ… Khi trẻ chơi tôi luôn đứng bên ngoài quan sát và xem trẻ giải quyết các tình huống xung đột giữa các bạn trong nhóm như thế nào, nếu trẻ giải quyết tốt rồi tôi để trẻ chơi tiếp còn chưa giải quyết được tôi sẽ là người giúp đỡ trẻ. ( Minh chứng 6: Hình ảnh trẻ cùng chơi góc nấu ăn) Khi trẻ tham gia chơi góc âm nhạc, tôi chuẩn bị cho nhóm trẻ đó một số dụng cụ âm nhạc cần thiết như: Xắc xô, trống nhỏ, phách tre… Việc còn lại tôi cho trẻ tự thiết lập một ban nhạc theo ý trẻ và trong ban nhạc đó sẽ tự bầu ra một ban nhạc trưởng. Tôi đứng quan sát xem trẻ làm như thế nào, nhưng tôi thấy trẻ. đã biết kết hợp với nhau và cùng chơi để tạo thành một âm thanh riêng cho chính trẻ sáng tác. Giờ hoạt động góc các nhóm trẻ thường được giao lưu lẫn nhau và cùng nhau chơi cho nên lúc này mới cần đến sự hợp tác giữa các trẻ để trẻ không tranh giành nhau đồ chơi, vai chơi. Nhất là góc xây dựng khi trẻ chơi hay ồn nhất và hay tranh 12
  13. cãi nhau vì đồ chơi, tôi thường xuyên nhắc trẻ khi chơi phải biết nhường nhịn lẫn nhau. Góc xây dựng thì lại cần sự tỉ mỉ và các bạn trong nhóm phải biết phân công công việc cho nhau sao cho hợp lý thì mới hoàn thành công trình do trẻ xây lên. ( Minh chứng 7: Hình ảnh trẻ cùng chơi góc xây dựng ) Vì vậy để giúp trẻ có kỹ năng hợp tác được tốt thì giáo viên cần phải tổ chức những hoạt động này một cách thường xuyên, giáo dục trẻ biết giúp đỡ nhau trong công việc, hình thành cho trẻ một đức tính tốt về tinh thần đồng đội, tạo cho trẻ một lý tưởng sống cao đẹp trong tương lai. c. Kết quả: Sau khi lựa chọn những nội dung, những kỹ năng cơ bản phù hợp với khả năng của trẻ lớp tôi. Ttôi đã thấy được hiệu quả ró dẹt cụ thể: 98% trẻ đều biết tự phục vụ cho bản thân, 90% trẻ biết tránh xa những vật, môi trường nguy hiểm để bản vệ bản thân. Trẻ đã mạnh dạn tự tin hơn khi tham gia các hoạt động tập thể. Trẻ chơi với nhau biết đoàn kết, phối hợp với nhau, biết chia sẻ trong khi chơi C - PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết quả Sau khi áp dụng những biện pháp trên vào công tác giảng dạy và tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, tôi nhận thấy đã đạt được những kết quả sau. a. Đối với trẻ Trẻ đều được cô giáo và cha mẹ tạo điều kiện, khuyến khích, khơi dậy tính tò mò, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin. Trẻ được rèn luyện khả năng sẵn sàng học tập và kết quả học tập ở trường hiệu quả ngày càng cao. Trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập, kỹ năng nhận thức, kỹ năng vận động thô, vận động tinh thông qua các hoạt động hàng ngày, trong cuộc sống của trẻ. Trẻ được rèn luyện về kỹ năng xã hội, kỹ năng thể hiện cảm xúc, kỹ năng giao tiếp, chung sống hoà bình. Trẻ đi học đều hơn, tỉ lệ chuyên cần cao và ít gặp khó khăn khi đến lớp, trẻ có kỹ năng trực nhật, giúp cô kê bàn ăn, xếp khay ăn, chia thìa, kê ghế, phơi khăn…. Thông qua kết quả đánh giá chất lượng cuối mỗi kế hoạch tháng, đối với từng mặt phát triển trẻ đạt khá tốt. 13
  14. Bảng khảo sát cuối năm Đầu năm Cuối năm Các mặt phát triển Trẻ Tỉ lệ Trẻ Tỉ lệ Trẻ Tỉ lệ Trẻ Tỉ lệ đạt % CĐ % đạt % CĐ % 1. Kỹ năng tự phục vụ 27 57% 20 43% 45 96% 2 4% 2.Kỹ năng tự bảo vệ 30 64% 17 36% 44 94% 3 6% Tổng 38 3.Kỹ năng hợp tác 25 53% 22 47% 45 96% 2 4% 4.Kỹ năng giao tiếp - ứng xử 26 55% 21 45% 40 89% 5 11% 5.Kỹ năng tự tin 25 53% 22 47% 37 79% 12 21% b. Đối với giáo viên Có thêm nhiều kinh nghiệm, củng cố và mở rộng thêm về kiến thức sư phạm đặc biệt là về kỹ năng tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng cho trẻ. Mạnh dạn tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh, biết tự chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với cha mẹ trẻ tạo uy tín đối với phụ huynh và với trẻ, được phụ huynh tín nhiệm. c. Đối với phụ huynh Có sự thay đổi nhìn nhận về việc giáo dục kỹ năng sống học của con em mình , nhận thấy được tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trong sinh hoạt và nhu cầu của cuộc sống hiện nay . Tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục trẻ tại trường,các bậc cha mẹ đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với vô giáo thông qua nhiều hình thức, số lượng phụ huynh tham gia phối hợp đạt 82%. 2. Kết luận: Việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ đóng một vai trò vô cùng quan trọng, không chỉ giúp trẻ phát triển tư duy, óc sáng tạo, quan sát, ghi nhớ có chủ định mà còn giúp trẻ so sánh, phân tích, tổng hợp….Còn là những kinh nghiệm bổ ích đối với cuộc sống thực tiễn hàng ngày diễn ra xung quanh trẻ, giúp trẻ có một hành trang vững vàng một tâm thế tự tin để bước vào cuộc sống. Qua thực hiện đề tài tôi xin được rút ra một số bài học kinh nghiệm sau: 14
  15. Giáo viên cần thường xuyên học hỏi kinh nghiệm dạy trẻ kĩ năng sống qua các tài liệu, qua bạn bè, đồng nghiệp, qua mạng internet, tham gia đầy đủ các buổi tập huấn, nắm vững phương pháp dạy trẻ kĩ năng sống. Lập kế hoạch giáo dục kĩ năng sống thật cẩn thận trước khi dạy trẻ,giáo viên cần đưa ra những nội dung kĩ năng cơ bản cụ thể để dạy trẻ. Kỹ năng sống cần được lồng ghép thông qua các hoạt động học và các hoạt động khác. Bên cạnh đó tuyên truyền tốt đến các bậc phụ huynh để cùng tham gia giáo dục trẻ Trẻ em được giáo dục kỹ năng sống tốt thì khả năng thích nghi và thành công trong cuộc sống sẽ dễ dàng hơn. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Điều đó giúp cho trẻ tự tin, chủ động xử lý linh hoạt các tình huống trong cuộc sống. Vì vậy trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi có những kĩ năng sống cần thiết” với những biện pháp nêu trên đã giúp tôi xác định được rõ mục tiêu và tầm quan trọng trong việc dạy trẻ có những kĩ năng sống, giúp tôi có phương pháp tốt hơn, sáng tạo hơn, tích cực hơn, hứng thú hơn khi tham gia học tập và rèn luyện. Cũng từ đó tư duy sáng tạo của các cháu được phát triển một cách toàn diện 3. Đề xuất và khuyến nghị a. Đối với phòng giáo dục và đào tạo Thường xuyên xây dựng kiến tập dự giờ chuyên đề kĩ năng sống để tạo điều kiện cho giáo viên học tập và nâng cao trình độ chuyên môn hơn nữa, tham mưu với cấp trên hỗ trợ kinh phí cho việc trang bị đồ dùng ,đồ chơi, cơ sở vật chất cho nhà trường. Góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ của nhà trường ngày một tốt hơn. b. Đối với nhà trường Mua sắm thêm đồ dùng, đồ chơi trang thiết bị học tập và vui chơi cho cô và trẻ. Cần trang bị thêm tài liệu về giáo dục kĩ năng sống để giáo viên nghiên cứu. Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi đã triển khai thực hiện. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, chị em đồng nghiệp để đề tài này ngày một hoàn thiện hơn, thực hiện tốt hơn trong năm học tiếp theo. Tôi xin chân thành cảm ơn! 15
  16. D. TÀI LIỆU THAM KHẢO - Tạp trí giáo dục mầm non - Sách giáo dục mầm non mới - Sách báo, tranh ảnh - Sách giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống cho trẻ mầm non - Mạng Internet trang giáo dục mầm non. 16
  17. E. MINH CHỨNG HÌNH ẢNH 1. Trẻ lau mặt trước giờ ăn 2. Trẻ đang học cách gấp áo 17
  18. 3. Trẻ đóng vai ca sĩ 4. Trẻ làm bài theo yêu càu của cô 18
  19. 5. Trẻ trổ tài theo ý thích 6. Trẻ cùng chơi nấu ăn 19
  20. 7. Trẻ cùng chơi xây dựng 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
23=>2