Hướng dẫn tìm hiểu, trả lời câu hỏi bài: Mùa lá rụng trong vườn – Ngữ Văn 12

Đang tải...

MÙA LÁ RỤNG TRONG VƯỜN

(Trích)

Ma Văn Kháng

A. YÊU CẦU

1. HS hiểu được diễn biến tâm lí của các nhân vật, nhất là chị Hoài và ông Bằng trong buổi cúng tất niên chiều ba mươi Tết. Từ đó thấy được sự quan sát tinh tế và cảm nhận tinh nhạy của nhà văn về những biến động, đổi thay trong tư tưởng, tâm tí con người Việt Nam giai đoạn xã hội chuyển mình.

2. Trân trọng những giá trị của văn hóa truyền thống.

B. KIẾN THỨC CẦN NẮM VỮNG

1. Ma Văn Kháng sinh năm 1936, quê ở Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp khoa Văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, ông lên dạy học một thời gian dài ở Lào Cai rồi chuyển về công tác ờ Hà Nội. Ông đã được trao Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam nàm 1986, Giải thưởng Văn học ASEAN năm 1998 và Giải thưởng Nhà nước về văn học và nghệ thuật năm 2001.

Sáng tác của Ma Văn Kháng chủ yếu ở thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn, về tiểu thuyết, tiêu biểu là: Đồng bạc trắng hoa xoè (1979); Vùng biên ải (1983); Mùa lá rụng trong vườn (1985)… về truyện ngắn, tiêu biểu là các tập truyện Ngày đẹp trời (1986); Trăng soi trăng nhỏ (1994)…

2. Đoạn trích học nằm trong chương 2 của tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn. Đây là tác phẩm đánh dấu bước chuyển về cảm hứng và đề tài của Ma Văn Kháng: từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự; từ đề tài viết về mảnh đất vùng cao sang viết về cuộc sống ở thị thành. Truyện xoay quanh những sinh hoạt thường ngày của gia đinh cụ Bằng- một gia đình vốn được coi là nền nếp ở Hà Nội nay bỗng trờ nên lung lay trước nền kinh tế thị trường. Từ số phận của một gia đình, nhả văn đã cho thấy sự biến đổi trong cuộc sống hiện tại và bày tỏ niềm lo lắng sâu sắc cho các giá trị truyền thống trước sự đổi thay của thời cuộc. .

Qua khung cảnh đoàn tụ đón Tết trong gia đình ông Bằng, trích đoạn phản ánh và ngợi ca những truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc: sự tri ân với tiên tổ, với những người đã khuất; nền nếp gia giáo; nghĩa tình thuỷ chung; tình thương yêu gắn kết sâu nặng của các thành viên trong gia đình…

Những nét đẹp truyền thống ấy hiện rõ ở cảnh mọi người trong gia đình ông Bằng đón chị Hoài về ăn Tết với bao thân thương: ở phút gặp gỡ xúc động giữa chị Hoài và ông Bằng; ở cảnh ông Bằng khấn lạy trước bàn thờ tổ tiên; ở khung cảnh sum họp trong bữa cỗ chiều ba mươi Tết…

Vẻ đẹp văn hoá truyền thống dân tộc đã được nhà văn thể hiện kết đọng ở hai nhân vật là chị Hoài và ông Bằng. Chị Hoài là một người dâu nết na thuỳ mị, chăm chỉ đảm đang, thảo hiền, nghĩa tình thắm thiết… Chị quả là một mẫu hình

đẹp về người vợ, người con dâu, người mẹ trong gia đình truyền thống. Còn ông Bằng lại là một hiện thân của sự nền nếp gia giáo. Ông chính là người nuôi dưỡng văn hoá truyền thống của dân tộc, là người nối kết giữa văn hoá truyền thống quá khứ với hiện tại.

Thông qua cuộc sum họp đầy ấm áp nghĩa tình, nền nếp của một gia đình Hà Nội, nhà văn ngợi ca những nét đẹp của văn hoá truyền thống dân tộc.

Ngôn ngữ đoạn trích sinh động, tự nhiên, gần gũi với đời sống thường ngày. Chi tiết truyện phong phú và giàu chất hiện thực. Đặc sắc nhất là nghệ thuật khắc hoạ tích cách nhân vật của Ma Văn Kháng. Các nhân vật dù là chính hay phụ đều hiện lên hết sức sống động, có tính cách rõ ràng. Đó là một ông Bằng gia giáo, mực thước, sâu sắc; một chị Hoài nết na thuỳ mị, đảm đang, giàu tình cảm; một cô Lí năng nổ tháo vát; một anh Luận tinh tế nhạy cảm; một cô Phượng đằm thắm nồng hậu…

C. HƯỚNG DẪN HỌC BÀI1

1-Anh (chị) có ấn tượng gì về nhân vật chị Hoài? Vì sao mọi người trong gia đình đều yêu quý chị?

Gợi ý:

– Chị Hoài mang vẻ đẹp đằm thắm của người phụ nữ nông thôn: “người thon gọn… Chiếc khăn len nâu thắt ôm khuôn mặt rộng có cặp mắt hai mí đằm thắm và cái miệng cười rất tươi”.

– Nét đằm thắm, mặn mà toát lên từ tâm hồn chị, từ tình cảm đôn hậu, từ cách ứng xử, quan hệ với mọi người. Từng là dâu trưởng trong gia đình ông Bằng, bây giờ chị đã có một gia đình riêng với những quan hệ riêng, lo toan riêng, mọi người vẫn nhớ, vẫn quý, vẫn yêu chị. Bởi vì “người phụ nữ tưởng đã cắt hết mối dây liên hệ với gia đình này, vẫn giao cảm, vẫn chia sẻ buồn vui và cùng tham dự cuộc sống của gia đình này” (Biết chuyện cô Phượng đã chuyển công tác, nhận được thư bố chồng cũ, sợ ông buồn nên phải lên ngay”; chu đáo, xởi lởi chuẩn bị quà, hỏi thăm tất cả mọi người lớn, bé; sự thành tâm của chị trước bàn thờ gia tiên chiều 30 Tết….). Trong tiềm thức mỗi người “vẫn sống động một chị Hoài đẹp người, đẹp nết”.

– Chị Hoài được mọi người yêu quý vì chị là mẫu người phụ nữ vẫn giữ được nét đẹp truyền thống quý giá trước những “cơn địa chấn” xã hội.

2- Phân tích diễn biến tâm lí hai nhân vật ông Bằng và chị Hoài trong cảnh gặp lại trước giờ cúng tất niên.

Gợi ý:

Cảnh sum họp trước giờ cúng tất niên:

– Ông Bằng: “nghe thấy xôn xao tin chị Hoài lên”, “ông sững lại khi nhìn thấy Hoài, mặt thoáng một chút ngơ ngẩn. Rồi mắt ông chớp liên hồi, môi ông bật bật không thành tiếng, có cảm giác ông sắp khó oà”, “giọng ông bỗng khê đặc, khàn rè: Hoài đấy ư, con? Nỗi vui mừng, xúc động không dấu giếm của ông khi gặp lại người đã từng là con dâu trưởng mà ông rất mực quý mến.

– Chị Hoài: “gần như không chủ động được mình, lao về phía ông Bằng, quên cả đôi dép, đôi chân to bản… kịp hãm lại khi còn cách ông già hai hàng gạch hoa”. Tiếng gọi của chị nghẹn ngào trong tiếng nấc: “ông!”

– Cảnh gặp gỡ vui mừng, nhuốm một nỗi tiếc thương đau buồn.

3 – Khung cảnh Tết và dòng tâm tư cùng với lời khấn của ông Bằng trước bàn thờ gợi cho anh (chị) cảm xúc và suy nghĩ gì về truyền thống văn hoá riêng của dân tộc ta?

Gợi ý.

– Khung cảnh Tết: khói hương, mâm cỗ thịnh soạn “vào cái thời buổi đất nước còn nhiều khó khăn sau hơn ba mươi năm chiến tranh….”, mọi người trong gia đình tề tựu, quây quần… Tất cả chuẩn bị chu đáo cho khoảnh khắc tri ân trước tổ tiên trong chiều 30 Tết.

– Ông Bằng “soát lại hàng khuy áo, chỉnh lại cà vạt, ho khan một tiếng, dịch chân lại trước mặt bàn thờ”. “Thoáng cái, ông Bằng như quên hết xung quanh và bản thể. Dâng lên trong ông cái cảm giác thiêng liêng rất đỗi quen thân và tâm trí ông bỗng mờ nhoà… Thưa thầy mẹ đã cách trở ngàn trùng mà vẫn hằng sống cùng con cháu. Con vẫn vẳng nghe đâu đây lời giáo huấn. ..”

– Những hình ảnh sống động gieo vào lòng người đọc niềm xúc động rưng rưng, đề rồi “nhập vào dòng xúc động tri ân tiên tổ và những người đã khuất”.

– Bày tỏ lòng tri ân trước tổ tiên, trước những người đã mất trong lễ cúng tất niên – chiều 30 Tết, điều đó đã trờ thành một nét văn hoá truyền thống đáng trân trọng và tự hào của dân tộc ta. “Quá khứ không cắt rời với hiện tại. Tổ tiên không tách rời với con cháu. Tất cả liên kết một mạch bền chặt thuỷ chung”. Dù cuộc sống hiện đại muôn sự đổi thay cùng sự thay đổi của những cách nghĩ, cách sống, những quan niệm mới, nét đẹp truyền thống văn hóa ấy vẫn đang và rất cần được gìn giữ, trân trọng.

Xem thêm: Hướng dẫn tìm hiểu, trả lời câu hỏi bài: Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) – Ngữ Văn 12 tại đây. 

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận