intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng và thực hiện một số chủ đề dạy học STEM phần điện học Vật lý 11, 12 Trung học phổ thông

Chia sẻ: Ganuongmuoiot | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:65

71
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên của đề tài nhằm phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của giáo dục STEM trong trường phổ thông. Điều tra, phân tích thực trạng dạy học Vật lý theo định hướng STEM ở một số trường THPT trên địa bàn thành phố Vinh. Trên cơ sở đó phân tích các nguyên nhân, khó khăn để đề xuất hướng giải quyết của đề tài. Đề xuất giải pháp thực hiện đề tài nghiên cứu: Xây dựng các chủ đề dạy học STEM phần điện học Vật lý 11,12 và tiến hành thực nghiệm tổ chức dạy học một số chủ đề tại trường THPT Lê Viết Thuật.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng và thực hiện một số chủ đề dạy học STEM phần điện học Vật lý 11, 12 Trung học phổ thông

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN MỘT SỐ CHỦ ĐỀ DẠY HỌC STEM PHẦN ĐIỆN HỌC VẬT LÝ 11, 12 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG BỘ MÔN: VẬT LÝ
  2. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT LÊ VIẾT THUẬT =====*===== SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN MỘT SỐ CHỦ ĐỀ DẠY HỌC STEM PHẦN ĐIỆN HỌC VẬT LÝ 11, 12 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Họ và tên giáo viên: Đậu Thị Thúy Hằng Bộ môn : Vật lý - Tổ Tự nhiên Đơn vị công tác : Trường THPT Lê Viết Thuật, TP Vinh, Tỉnh Nghệ An Số điện thoại : 0989 832 663 Năm học: 2019-2020
  3. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang làm thay đổi căn bản nền sản xuất của thế giới, tạo ra những cơ hội rất lớn nhưng cũng đặt ra những thách thức không nhỏ cho mỗi quốc gia. Điều này đặt ra cho ngành Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) một sứ mệnh to lớn là chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Để thực hiện được nhiệm vụ này, GD-ĐT rất cần thiết phải đưa giáo dục STEM vào nhà trường, bởi những ưu thế của giáo dục STEM trong dạy học, góp phần tích cực trong việc đổi mới phương pháp dạy học theo chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) mới, thực sự giúp HS hướng đến thế giới công nghệ 4.0 và các lợi thế khác, đáp ứng được mục tiêu đào tạo con người có năng lực trong cuộc sống tương lai, phù hợp nhu cầu nhân lực lao động trong thời đại công nghệ 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới. Giáo dục STEM một mặt thực hiện đầy đủ mục tiêu giáo dục đã nêu trong chương trình GDPT mới, mặt khác nhằm phát triển các năng lực cốt lõi cho hpcj sinh (HS), phát triển các năng lực đặc thù của môn học thuộc về STEM và định hướng nghề nghiệp cho HS. Để đón đầu chương trình GDPT mới, nhiều địa phương và trường học đã đi trước một bước trong việc triển khai giáo dục STEM. Trong quá trình triển khai dạy học các môn học STEM, một trong những yêu cầu đối với giáo viên (GV) là phải biết cách tổ chức, thiết kế các hoạt động STEM một cách sáng tạo có hiệu quả, phù hợp với điều kiện dạy học. Tuy nhiên hiện nay qua khảo sát chúng tôi nhận thấy việc triển khai dạy học STEM ở các trường THPT còn nhiều hạn chế, bên cạnh đó, một số GV vẫn chưa có nhận thức đầy đủ về bản chất dạy học STEM cũng như cách thiết kế hoạt động, tổ chức, thực hiện dạy học STEM như thế nào cho có hiệu quả trong môn học. Hơn nữa, hiện nay trên các trang mạng điện tử, tài liệu sách vở, các tạp chí GD đã cung cấp rất nhiều các vấn đề chung về giáo dục STEM nhưng các tài liệu hướng dẫn cụ thể việc tổ chức dạy học các môn học theo định hướng STEM trong trường PT còn chưa nhiều.Vì vậy nghiên cứu sâu về dạy học STEM, đề xuất cách thức thiết kế và tổ chức cho HS học tập hiệu quả các môn học STEM nói chung, Vật lý nói riêng như thế nào là một hướng nghiên cứu mới cập nhật, cần thiết trong bối cảnh nền GD-ĐT Việt Nam đang đổi mới căn bản và toàn diện. Vật lí với đặc thù là bộ môn khoa học thực nghiệm có tính công nghệ và kỹ thuật rất cao, có nhiều kiến thức liên quan đến thực tiễn, thực hành cùng với nền tảng để học Vật lý là Toán học nên rất thuận lợi trong việc triển khai dạy học theo phương thức STEM bằng các hình thức tăng cường các hoạt động nghiên cứu, trải nghiệm sáng tạo, câu lạc bộ.... Qua đó giúp HS hiểu được các ứng dụng khoa học kỹ thuật, chế tạo các sản phẩm áp dụng vào đời sống thực tiễn, đồng thời giúp HS không những hiểu sâu sắc các kiến thức Vật lí, từ đó tạo động lực, lòng đam mê, yêu thích bộ môn. Nói tóm lại, dạy học Vật lý theo 1
  4. phương thức STEM là một hướng giáo dục phù hợp giúp HS phát triển đầy đủ các năng lực đặc thù và năng lực cốt lõi theo mục tiêu của chương trình GDPT mới. Qua quá trình nghiên cứu và giảng dạy bộ môn Vật lí ở THPT chúng tôi thấy có thể khai thác, thiết kế và thực hiện được nhiều chủ đề dạy học STEM ở tất cả các phân môn cơ, nhiệt, điện, quang và một số phần khác của bộ môn Vật lý. Trong thực tiễn, các loại máy móc, đồ dùng quen thuộc, gần gũi phục vụ trong đời sống đa phần là những sản phẩm được ứng dụng từ điện học nên khai thác các chủ đề dạy học STEM phần điện học trong chương trình Vật lý phổ thông sẽ kích thích được sự hứng thú, tích cực của HS trong quá trình dạy học. Với những lí do trên nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng dạy học, chúng tôi đã nghiên cứu đề tài “Xây dựng và thực hiện một số chủ đề dạy học STEM phần điện học Vật lý 11, 12 Trung học phổ thông”. Hy vọng đề tài sẽ góp một phần nhỏ, là nguồn tài liệu có ích giúp các thầy cô và các bạn đọc tham khảo và vận dụng vào quá trình dạy học môn Vật lý theo định hướng STEM ở các trường phổ thông. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: HS lớp 11,12 trường THPT Lê Viết Thuật. Quá trình dạy học Vật lý ở trường phổ thông. - Phạm vi nghiên cứu: Các chủ đề dạy học STEM phần điện học thuộc chương trình Vật lý 11,12 THPT. Tiến hành thực nghiệm sư phạm tại trường THPT Lê Viết Thuật TP Vinh. - Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9/2018 đến tháng 2/2020. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu - Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của giáo dục STEM trong trường phổ thông. - Điều tra, phân tích thực trạng dạy học Vật lý theo định hướng STEM ở một số trường THPT trên địa bàn thành phố Vinh. Trên cơ sở đó phân tích các nguyên nhân, khó khăn để đề xuất hướng giải quyết của đề tài. - Đề xuất giải pháp thực hiện đề tài nghiên cứu: Xây dựng các chủ đề dạy học STEM phần điện học Vật lý 11,12 và tiến hành thực nghiệm tổ chức dạy học một số chủ đề tại trường THPT Lê Viết Thuật. - Trên cơ sở các chủ đề đã thực nghiệm, lựa chọn và giới thiệu cách tổ chức hoạt động cụ thể một số chủ đề dạy học STEM phần điện học Vật lý 11,12 theo các phương pháp, hình thức dạy tích cực nhằm định hướng phát triển các năng lực HS. 2
  5. 4. Đóng góp mới của đề tài - Điều tra được thực trạng dạy học Vật lý theo định hướng STEM ở một số trường THPT trên TP Vinh, phân tích các nguyên nhân, khó khăn, đưa ra hướng khắc phục, giải pháp để nâng cao chất lượng dạy học các môn học STEM, áp dụng thực nghiệm có hiệu quả tại trường THPT Lê Viết Thuật. - Xây dựng hệ thống các chủ đề dạy học STEM phần điện học phục vụ giảng dạy một số bài học trong chương trình SGK Vật lý 11,12 nhằm phát triển năng lực cho HS. - Tổ chức dạy học một số chủ đề STEM phần điện học Vật lý 11, 12 tại trường phổ thông phù hợp với điều kiện dạy học của nhà trường và thu được những kết quả thiết thực nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Vật lý và các môn học STEM, đưa giáo dục STEM vào trường học, góp phần vào phong trào thi đua đổi mới sáng tạo trong dạy học đáp ứng với yêu cầu chương trình GDPT tổng thể. 3
  6. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận về giáo dục STEM trong nhà trường phổ thông đáp ứng với chương trình GDPT mới 1.1. Khái niệm về giáo dục STEM STEM là viết tắt của từ Science (Khoa học), Technology (Công nghệ), Engineering (Kĩ thuật), Mathematics (Toán học). Giáo dục STEM về bản chất được hiểu trang bị cho người học những kiến thức và kĩ năng cần thiết liên quan đến các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán học. Các kiến thức và kĩ năng này phải được tích hợp, lồng ghép và bổ trợ cho nhau, giúp HS không chỉ hiểu về nguyên lí mà còn có thể thực hành và tạo ra các sản phẩm trong cuộc sống hằng ngày. Đối với giáo dục STEM, các kiến thức khoa học, toán học, công nghệ và kĩ thuật không chỉ được dạy học theo hướng trang bị kiến thức thông thường mà được vận dụng nhằm giải quyết các tình huống thực tiễn trong cuộc sống. Việc làm này đem lại hai tác dụng lớn. Một là giúp cho trải nghiệm học tập của HS trở nên thú vị hơn, tạo động lực thúc đẩy các em hứng thú với việc học tập và nghiên cứu khoa học, công nghệ ngay từ nhỏ. Hai là gắn kết nhà trường với địa phương, cộng đồng cũng như các tổ chức thông qua những vấn đề mang tính toàn cầu (ô nhiễm không khí, hiệu ứng nhà kính…). Sự gắn kết đa dạng các thành phần giáo dục, tạo thành một hệ sinh thái giáo dục, sẽ là một trong những chìa khóa giúp nuôi dưỡng và đào tạo những thế hệ công dân toàn cầu có kiến thức và kỹ năng, đặc biệt là tư duy sáng tạo trong thời đại mới. Như vậy giáo dục STEM là một phạm trù rộng và liên quan đến nhiều lĩnh vực với hai đặc điểm nổi bật là tính tích hợp liên môn và hoạt động thực hành gắn với lí thuyết. Với giáo dục STEM, HS có thể học để lập trình điều khiển, chế tạo robot nhưng cũng có thể đơn giản là chế tạo ra những sản phẩm phục vụ đời sống. Qua đó cho thấy việc dạy và học STEM không nhất thiết cần điều kiện cơ sở vật chất, công nghệ hiện đại mà hoàn toàn tùy thuộc vào ý tưởng triển khai bài dạy của GV. 1.2. Chủ đề dạy học STEM trong trường trung học Chủ đề STEM là chủ đề dạy học được thiết kế dựa trên vấn đề thực tiễn kết hợp với chuẩn kiến thức, kỹ năng của các môn khoa học trong chương trình phổ thông. Trong quá trình dạy học, GV tổ chức cho HS làm việc nhóm, sử dụng công nghệ truyền thống và hiện đại, công cụ toán học để tạo ra những sản phẩm có tính ứng dụng thực tiễn, phát triển kỹ năng và tư duy HS. Chủ đề STEM cần đảm bảo các tiêu chí: giải quyết vấn đề thực tiễn, kiến thức trong chủ đề thuộc lĩnh vực STEM, định hướng hoạt động thực hành, làm việc nhóm. 4
  7. Có thể phân loại các chủ đề dạy học STEM dựa vào các tiêu chí sau. Dựa vào phạm vi kiến thức để giải quyết vấn đề STEM, người ta chia chủ đề STEM thành hai loại: Chủ đề STEM cơ bản được xây dựng trên cơ sở kiến thức thuộc phạm vi các môn khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán trong chương trình giáo dục phổ thông. Các sản phẩm chủ đề STEM này thường đơn giản, bám sát nội dung sách giáo khoa (SGK) và thường được xây dựng trên cơ sở các nội dung thực hành, thí nghiệm trong chương trình giáo dục phổ thông. Chủ đề STEM mở rộng có những kiến thức nằm ngoài chương trình giáo dục phổ thông và SGK. Những kiến thức đó HS phải tự tìm hiểu và nghiên cứu từ tài liệu chuyên ngành. Sản phẩm STEM loại hình này có độ phức tạp cao hơn. Dựa vào mục đích dạy học, ta có thế chia chủ đề STEM thành hai loại chính: Chủ đề STEM dạy học kiến thức mới được xây dựng trên cơ sở kết nối kiến thức của nhiều môn học khác nhau mà HS chưa được học hoặc được học một phần, HS sẽ vừa giải quyết được vấn đề và vừa lĩnh hội tri thức mới. Chủ đề STEM dạy học và vận dụng được xây dựng trên cơ sở những kiến thức HS đã được học. Chủ đề STEM dạng này bồi dưỡng cho HS năng lực vận dụng lý thuyết vào thực tiễn. Kiến thức lý thuyết được củng cố và khắc sâu. 1.3. Quy trình xây dựng chủ đề bài học STEM Bước 1: Lựa chọn chủ đề bài học Căn cứ vào nội dung kiến thức trong chương trình môn học và các hiện tượng, quá trình gắn với các kiến thức đó trong tự nhiên; quy trình hoặc thiết bị công nghệ có sử dụng của kiến thức đó trong thực tiễn… để lựa chọn chủ đề bài học. Bước 2: Xác định vấn đề cần giải quyết Sau khi lựa chọn chủ đề của bài học, cần xác định vấn đề cần giải quyết để giao cho HS thực hiện sao cho khi giải quyết vấn đề đó HS phải học được những kiến thức, kĩ năng cần dạy trong chương trình môn học đã lựa chọn hoặc vận dụng những kiến thức, kỹ năng đã biết để xây dựng bài học. Bước 3: Xây dựng tiêu chí của thiết bị và giải pháp giải quyết vấn đề Sau khi đã xác định vấn đề cần giải quyết (sản phẩm cần chế tạo) cần xác định rõ tiêu chí của giải pháp, sản phẩm. Các tiêu chí này phải hướng tới việc định hướng quá trình học tập và vận dụng kiến thức nền của HS chứ không nên tập trung đánh giá sản phẩm vật chất. Bước 4: Thiết kế tiến trình tố chức hoạt động Tiến trình tổ chức hoạt động học được thiết kế theo các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực với 5 hoạt động học. Mỗi hoạt động được thiết kế rõ ràng về mục đích, nội dung và sản phẩm học tập mà HS phải hoàn thành. Các hoạt động này có thể được tổ chức cả trong và ngoài lớp học (ở trường, ở nhà và cộng đồng). 5
  8. 1.4. Tiến trình tổ chức dạy học STEM trong trường Trung học Mỗi bài học STEM thường được tổ chức theo 5 hoạt động như sau: Hoạt động 1: Xác định vấn đề Trong hoạt động này, GV giao cho HS nhiệm vụ học tập chứa đựng vấn đề, trong đó HS phải hoàn thành một sản phẩm học tập cụ thể với các tiêu chí đòi hỏi HS phải sử dụng kiến thức mới trong bài học để đề xuất, xây dựng giải pháp và thiết kế nguyên mẫu của sản phẩm cần hoàn thành. Tiêu chí của sản phẩm là yêu cầu hết sức quan trọng, bởi đó chính là "tính mới" của sản phẩm, kể cả sản phẩm đó là quen thuộc với HS; đồng thời, tiêu chí đó buộc HS phải nắm vững kiến thức mới thiết kế và giải thích được thiết kế cho sản phẩm cần làm. Hoạt động 2: Nghiên cứu kiến thức nền và đề xuất giải pháp Trong hoạt động này, HS thực hiện hoạt động học tích cực, tự lực dưới sự hướng dẫn của GV. HS phải tự tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức để sử dụng vào việc đề xuất, thiết kế sản phẩm cần hoàn thành. Kết quả là, khi HS hoàn thành bản thiết kế thì đồng thời cũng đã học được kiến thức mới theo chương trình môn học tương ứng. Hoạt động 3: Lựa chọn giải pháp Trong hoạt động này, HS được tổ chức để trình bày, giải thích và bảo vệ bản thiết kế kèm theo thuyết minh (sử dụng kiến thức mới học và kiến thức đã có); đó là sự thể hiện cụ thể của giải pháp giải quyết vấn đề. Dưới sự trao đổi, góp ý của các bạn, GV và HS tiếp tục hoàn thiện (có thể phải thay đổi để bảo đảm khả thi) bản thiết kế trước khi tiến hành chế tạo, thử nghiệm. Hoạt động 4: Chế tạo mẫu, thử nghiệm và đánh giá HS tiến hành chế tạo mẫu theo bản thiết kế đã hoàn thiện; trong quá trình chế tạo đồng thời phải tiến hành thử nghiệm và đánh giá. Trong quá trình này, HS cũng có thể phải điều chỉnh thiết kế ban đầu để bảo đảm mẫu chế tạo là khả thi và tối ưu (theo nhận thức của HS). Hoạt động 5: Chia sẻ, thảo luận, điều chỉnh Trong hoạt động này, HS được tổ chức để trình bày sản phẩm học tập đã hoàn thành; trao đổi, thảo luận, đánh giá để tiếp tục điều chỉnh, hoàn thiện. 2. Cở sở thực tiễn của dạy học Vật lý theo định hướng STEM ở một số trường PT 2.1.Thực trạng tổ chức dạy học môn Vật lý theo định hướng STEM ở một số trường THPT trên địa bàn TP Vinh. Từ năm học 2014-2015, giáo dục STEM đã được Bộ GD-ĐT đưa vào một số văn bản hướng dẫn khuyến khích triển khai ở các nhà trường, đặc biệt sau khi Thủ tướng ban hành Chỉ thị 16/CT-TTg ngày 04/5/2017 về việc tăng cường 6
  9. năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, Bộ GD-ĐT đã triển khai thí điểm và đến nay giáo dục STEM đã được triển khai đồng loạt trên phạm vi toàn quốc. Riêng ở tỉnh ta, giáo dục STEM đã được Sở GD&ĐT đưa vào hướng dẫn nhiệm vụ năm học ở bậc học Tiểu học và Trung học từ năm học 2017 - 2018. Tuy nhiên, trước năm 2014 không phải là trong GDPT của Việt Nam hoàn toàn không có giáo dục STEM. Thực chất, giáo dục STEM là một phương thức giáo dục nhấn mạnh đến thực hành trải nghiệm sáng tạo của HS nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến cuộc sống thông qua dạy học tích hợp liên môn. Trước đó Bộ GD-ĐT đã triển khai các phong trào, các cuộc thi trong trường phổ thông theo hướng này, điển hình như cuộc thi khoa học kĩ thuật dành cho HS trung học, cuộc thi vận dụng kiến thức liên môn vào giải quyết những vấn đề thực tiễn… Từ những chương trình thí điểm này, những phong trào, cuộc thi bước đầu đã có sự lan tỏa, tác động tích cực, làm chuyển biến trong dạy học tại các trường trên địa bàn thành phố Vinh nói riêng, tỉnh Nghệ An nói chung. Từ đó, HS được thực hành, trải nghiệm nhiều hơn, học tập gắn với cuộc sống hơn. Tuy nhiên, các phong trào vẫn chỉ dừng lại ở hình thức các cuộc thi, thu hút được một lượng nhỏ GV, HS tham gia, chưa trở thành hoạt động thường xuyên, phổ biến của GV và HS. Hiện nay, tại thành phố Vinh, với nhiều lợi thế riêng, việc giáo dục STEM đã và đang được nhiều trường tiểu học và trung học cơ sở đưa vào chương trình hoạt động chính khóa của Nhà trường. Từ năm học 2018 – 2019, các trường THPT tại thành phố Vinh, như Trường THPT chuyên Phan Bội Châu, THPT Hà Huy Tập đã thành lập các câu lạc bộ STEM. Phương thức triển khai của các trường chủ yếu đó là xã hội hóa. Nhà trường phối hợp cùng một số trung tâm để đưa giáo dục STEM vào trường học. …, xây dựng nhiều chuyên đề dạy học STEM, bước đầu đưa vào giảng dạy có hiệu quả ở các môn học. Thực tế triển khai cho thấy, giáo dục STEM được tổ chức trong nhà trường thường tập trung qua các hình thức: dạy học tích hợp theo định hướng giáo dục STEM, sinh hoạt câu lạc bộ STEM, các cuộc thi, các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, phối hợp tổ chức các hoạt động STEM giữa nhà trường và các cơ sở dạy nghề, ngày hội STEM…. Qua đây cho thấy, giáo dục STEM đã có được những kết quả bước đầu, tạo tiền đề thuận lợi cho bước triển khai tiếp theo mang tính đại trà và hiệu quả khi thời gian thực hiện chương trình GDPT mới chỉ còn không đầy một năm nữa.Tuy nhiên, theo điều tra ở một số trường phổ thông trên thành phố Vinh, thực tế triển khai vẫn còn gặp nhiều khó khăn, bất cập. 7
  10. Để tiến hành tìm hiểu về thực trạng dạy học STEM trong dạy học Vật lý ở trường THPT tôi đã tiến hành khảo sát bằng phiếu điều tra đối với GV và HS với mục đích thu thập thông tin, phân tích khó khăn, thuận lợi của thực trạng dạy học STEM môn Vật lý ở trường phổ thông. Nội dung khảo sát: Tìm hiểu nhận thức, hiểu biết, quá trình tổ chức dạy học STEM môn Vật lý các GV ở các trường THPT. Đối tượng khảo sát: 30 GV dạy các bộ môn KHTN và Toán, Công nghệ ở 3 trường THPT trong TP Vinh: Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng, THPT Hà Huy Tập, THPT Lê Viết Thuật và 120 HS trường THPT Lê Viết Thuật. Thời gian khảo sát: Từ tháng 9/2018 đến tháng 11/2019. Phiếu khảo sát GV và HS (có trong Phụ lục kèm theo). Sau khi thu thập, phân tích, tổng hợp qua các phiếu điều tra, kết quả cho thấy như sau: 1.1. Hiểu biết của GV trong dạy học STEM Biểu đồ 1. Thống kê về hiểu biết của GV trong dạy học định hướng STEM không biết đến Đầy đủ 14% 35% Sơ sài 51% Hình 1. Biểu đồ thống kê sự hiểu biết, nhận thức của GV về dạy học theo định hướng STEM 8
  11. 1.2. Mức độ cần thiết dạy học Vật lý theo định hướng giáo dục STEM Biểu đồ 2. Thống kê mức độ cần thiết dạy học môn Vật lý theo định hướng giáo dục STEM Không cần thiết Ít cần thiết 7% 11% Rất cần thiết Cần thiết 55% 27% Hình 2. Biểu đồ thống kê sự cần thiết dạy học môn Vật lý theo định hướng giáo dục STEM 1.3. Mức độ thường xuyên đưa STEM và dạy học Vật lý Biểu đồ 3. Thống kê về mức độ thường xuyên đưa STEM vào dạy học Vật lý Chưa bao giờ Rất thường Ít thường 23% xuyên xuyên 33% 2% Thường xuyên 42% Hình 3. Biểu đồ thống kê về mức độ thường xuyên đưa STEM vào dạy học Vật lý 9
  12. 1.4. Thống kê sự hứng thú của HS khi tham gia hoạt động STEM Biểu đồ 4. Thống kê sự hứng thú tham gia hoạt động STEM của HS Rất thích Thích Bình thường Không thích 5% 3% 20% 72% Hình 4. Biểu đồ thống kê về sự hứng thú tham gia hoạt động STEM của HS 1.5. Thống kê số HS được học Vật lý theo định hướng giáo dục STEM 50% 45% 40% 35% 30% 25% 20% 15% 10% 5% 0% Thường xuyên Thỉnh thoảng Mới 1 lần Chưa bao giờ Hình 5. Biểu đồ thống kê số lượng HS đã được học các chủ đề môn Vật lý theo định hướng giáo dục STEM Như vậy thông qua khảo sát GV và HS chúng tôi nhận thấy nhìn chung các GV đều thấy được tầm quan trọng và sự cần thiết của dạy học môn Vật lý 10
  13. theo định hướng STEM, tuy nhiên vấn đề vẫn là triển khai, tổ chức dạy học theo định hướng STEM như thế nào cho hiệu quả và phù hợp với điều kiện dạy học ở trường phổ thông. Mặc dù một số GV đã thực hiện, nhưng vẫn còn lúng túng, hạn chế. Nhiều GV cho biết, trong dạy học Vật lý chỉ tập trung truyền thụ kiến thức mà chưa chú trọng, chủ động trang bị cho HS kiến thức môn Vật lý cũng như các môn KHTN, Công nghệ và Toán theo định hướng STEM. Đối với các em HS, việc đưa STEM vào dạy học là rất cần thiết bởi những hiệu quả mà nó mang lại trong giáo dục là to lớn. Một mặt thực hiện được những mục tiêu của GDPT đó là phát triển các năng lực cốt lõi của HS và năng lực đặc thù của môn học, mặt khác nó tác động tích cực đến thái độ, tâm lý người dạy bởi sự hứng thú, niềm đam mê, yêu thích khoa học của các em. 2.2. Nguyên nhân và khó khăn của thực trạng dạy học Vật lý ở trường THPT theo định hướng STEM Mặc dù việc tiếp cận chương trình GDPT mới đã tạo điều kiện thuận lợi hơn để có thể triển khai giáo dục STEM, tuy nhiên với khung chương trình hiện hành, GV vẫn còn gặp khó khăn trong việc tổ chức các nội dung, chủ đề sao cho vừa đảm bảo được yêu cầu của khung chương trình vừa phải phát huy tính sáng tạo của HS. Vì vậy khi triển khai chương trình GDPT mới cần phải có hướng dẫn về những chủ đề STEM trong các môn, lĩnh vực học tập để tạo thuận lợi cho GV tổ chức dạy học. Tâm lý ngại tìm hiểu, ngại sáng tạo cùng với trình độ GV chưa đáp ứng được yêu cầu. Phần lớn GV chưa có nhận thức đầy đủ về giáo dục STEM và có những hướng suy nghĩ giáo dục STEM cao xa, khó thực hiện. GV THPT được đào tạo đơn môn, do đó gặp khó khăn khi triển khai dạy học theo hướng liên ngành như giáo dục STEM. Bên cạnh đó, GV còn ngại học hỏi, ngại chia sẻ với đồng nghiệp, nên chưa có sự phối hợp tốt giữa GV các bộ môn trong dạy học STEM. Hình thức kiểm tra, đánh giá hiện nay vẫn còn là rào cản. Môn Công nghệ và Tin học là hai môn thành tố của giáo dục STEM nhưng vẫn chưa có vị trí chỗ đứng đúng nghĩa. Hơn nữa việc kiểm tra, đánh giá hiện nay ở trường phổ thông cụ thể là kì thi trung học phổ thông quốc gia được tổ chức theo hình thức làm bài thi trắc nghiệm kiểm tra kiến thức, kĩ năng, trong khi kiểm tra, đánh giá theo mô hình giáo dục STEM là đánh giá thông qua sản phẩm, đánh giá quá trình. Vì vậy trên thực tế, việc triển khai giáo dục STEM vẫn phải hạn chế ở các lớp cuối cấp để dành thời gian cho em ôn thi. Còn các khối lớp khác không nặng nề về thi cử thì đảm bảo học để thi hết kì cho nên việc học theo sách giáo khoa (SGK), luyện giải bài tập vẫn là một hoạt động chính của HS. GV chỉ dành một phần thời gian cho hoạt động STEM (ngoại khóa, hoạt động ngoài giờ lên lớp hoặc một số tiết tự chọn) là chủ yếu. Điều kiện cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Sĩ số mỗi lớp học quá đông cũng gây khó khăn cho tổ chức hoạt động, cản trở việc đổi mới 11
  14. phương pháp dạy học của GV, việc chưa có phòng học STEM riêng, trong khi phòng thực hành bộ môn chưa phù hợp để HS có không gian hoạt động, làm việc nhóm, nghiên cứu, thí nghiệm cũng là một khó khăn. Trên cơ sở phân tích các nguyên nhân, khó khăn đã đề cập ở trên, chúng tôi thấy muốn tổ chức dạy học STEM có hiệu quả, thành công việc đầu tiên GV phải dành nhiều thời gian đọc, nghiên cứu, tìm hiểu về các tài liệu chuyên sâu STEM. Từ đó, căn cứ vào điều kiều kiện dạy học cụ thể ở mỗi nhà trường thực hiện các hoạt động chuyên môn: trao đổi ý kiến với đồng nghiệp, thống nhất xây dựng các chủ đề STEM của mỗi phân môn, tổ chức các hoạt động dạy học phù hợp. Không nhất thiết đặt nặng vấn đề tạo ra các sản phẩm STEM phức tạp, có tính kĩ thuật cao mà điều quan trọng trong dạy học là tạo cho HS một thói quen thường xuyên ứng dụng các kiến thức lý thuyết, các nguyên lý đã học vào thực tiễn để quá trình học là một quá trình kiến tạo, phát triển năng lực. Sau khi học được mỗi chủ đề STEM các em đạt được những phẩm chất, năng lực mà GV đã đề ra. Trong quá trình dạy học nên khuyến khích các em sử dụng các nguồn nguyên vật liệu sẵn có, quen thuộc, rẻ tiền, có thể tận dụng những phế phẩm để tạo ra những sản phẩm thân thiện với môi trường, giáo dục ý thức trách nhiệm các em với cộng đồng, môi trường tự nhiên. Các sản phẩm STEM có thể không mới đối với nhân loại nhưng lại có tính mới đối với HS nên kích thích được sự tò mò, hứng thú trong quá trình học của HS. Nhìn nhận vấn đề như vậy GV có thể dễ dàng, thoải mái hơn trong tiếp cận dạy học các bộ môn KHTN theo phương thức STEM. Trong đề tài này, với mục đích đưa giáo dục STEM vào trường học để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, chúng tôi xin trình bày giải pháp thực hiện dưới đây. 3. Xây dựng một số chủ đề dạy học theo định hướng STEM phần điện học Vật lý 11,12 THPT 3.1. Phân tích đặc điểm nội dung phần điện học Vật lý 11,12 chương trình THPT dưới góc độ STEM Phần điện học của chương trình Vật lý THPT bắt đầu từ việc cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản đó là nguyên nhân xuất hiện dòng điện - Điện tích - Điện trường đến những khái niệm về sự hình thành dòng điện không đổi, nguồn điện, điện năng tiêu thụ, công suất điện, các loại định luật Ôm …. Sự xuất hiện của từ trường xung quanh dòng điện và lý thuyết tạo ra dòng điện xoay chiều đến sự vận dụng các định luật về điện từ, đặc biệt là cảm ứng điện từ vào việc sản xuất máy phát điện, động cơ điện, truyền tải và sử dụng điện năng. Nói chung phần lớn các kiến thức của phân môn điện học chương trình Vật lý 11,12 THPT hiện hành rất gần gũi và có nhiều ứng dụng trong đời sống và kỹ thuật. Đây là một điểm rất thuận lợi để triển khai dạy học theo định hướng STEM. Trong đề tài này, chúng tôi chủ yếu tập trung đi sâu nghiên cứu vào hai chương “Dòng điện không đổi” Vật lý 11 và chương “ Dòng điện xoay chiều “ Vật lý 12 vì lượng kiến thức trọng tâm của phần điện học tập trung tại đây, 12
  15. chiếm thời lượng lớn trong dạy học. Đồng thời trong cấu trúc đề thi THPT Quốc Gia những năm gần đây tổng số câu hỏi của 2 chương này chiếm số lượng nhiều nhất trong cấu trúc đề thi, có trung bình từ 8 câu đến 9 câu tức là đến 20% - 22,5%. Nên nếu HS được tiếp cận những kiến thức này bằng những phương pháp dạy học tích cực và gắn liền với thực tiễn như dạy học STEM sẽ giúp HS hiểu sâu sắc hơn lý thuyết cũng như vận dụng nó để giải quyết những vấn đề hay và khó liên quan kỹ thuật mà những phương pháp dạy học truyền thống khó có thể đem lại hiệu quả cao. Chương “Dòng điện không đổi” là chương II trong chương trình Vật lí 11. Chương này gồm 14 tiết, là chương nối tiếp kiến thức chương “Điện tích – Điện trường”, đồng thời là nền tảng để nghiên cứu các phần điện học khác trong chương trình Vật lí phổ thông như: dòng điện trong các môi trường, từ trường, dòng điện xoay chiều. Phân tích nội dung kiến thức chương “Dòng điện không đổi” theo quan điểm STEM cho thấy dòng điện một chiều có thể dùng để thắp sáng, các nguồn điện một chiều cũng được sử dụng rộng rãi. Trong các trường hợp dùng đến dòng điện không đổi ở hiệu điện thế nhỏ, nguồn điện đóng vai trò quan trọng, chẳng hạn đèn pin cầm tay, radio, điều khiển ti vi… .Nguồn điện có thể tạo ra bằng nhiều cách như dùng pin điện hóa, thực phẩm xanh, từ USB…, thắp sáng hệ thống đèn chiếu sáng, đèn tín hiệu. Điện năng có thể dễ dàng chuyển hóa thành các dạng năng lượng khác. Đó là một đặc tính có tầm quan trọng đặc biệt, nhờ đó năng lượng điện được sử dụng rộng rãi trong đời sống và kỹ thuật. GV có thể tổ chức cho HS khai thác các chủ đề STEM từ đây. Các mạch điện dùng trong thực tế là tương đối phức tạp, hầu hết các thiết bị điện đều có sự chuyển hóa năng lượng điện thành nhiều dạng năng lượng khác nhau. Kiến thức về định luật Ôm cho mạch kín và cho các loại đoạn mạch giúp ta tính chính xác khi thiết kế và lắp ráp mạch điện. Việc sử dụng các nguồn điện thích hợp và mắc chúng thành bộ một cách hợp lí sẽ nâng cao được hiệu suất sử dụng. Theo chương trình SGK Vật lý 12 hiện hành thì nội dung kiến thức phần dòng điện xoay chiều xét ở chương III, đó là những kiến thức cơ bản mang tính chất trọng tâm của chương trình Vật lý 12 chiếm thời lượng 15 tiết học. Nhìn chung có thể chia thành hai mảng chính của chương này. Mảng thứ nhất từ bài 12 đến 19, coi dòng điện biến thiên điều hòa cùng tần số góc như điện áp đặt vào đoạn mạch, điện tích hai đầu tụ điện. Những kiến thức này là nền tảng lý thuyết để ứng dụng vào ngành KHKT. Mảng thứ hai từ bài 20 đến bài 23, có kiến thức cơ bản là sự vận dụng các định luật về điện từ, đặc biệt là cảm ứng điện từ vào việc sản xuất, truyền tải và sử dụng điện năng. Những kiến thức đề cập ở chương này có tầm quan trọng rất lớn về thực tiễn vì đó là những ứng dụng phổ biến của hiện tượng điện trong cuộc sống hiện nay. Hầu hết các thiết bị, sản phẩm liên quan đến nguyên lý của điện học đều xuất phát từ đây, ví dụ như chế tạo các loại máy phát điện, các sản phẩm máy biến áp, các đồ dùng gia dụng về điện…. Vì vậy nếu xây dựng được một số chủ đề dạy học STEM ở phần này 13
  16. nhằm định hướng tư duy một cách tích cực thì sẽ có tác dụng tốt trong việc phát triển các năng lực cốt lõi và năng lực đặc thù của môn học. 3.2. Đề xuất một số chủ đề dạy học STEM phần điện học Vật lý 11,12 THPT Dựa vào nhu cầu thực tiễn của cuộc sống mà HS cần khám phá, kết hợp với nội dung kiến thức chương trình SGK Vật lý 11,12 phần điện học, GV có thể xây dựng được rất nhiều chủ đề dạy học STEM. Tuy nhiên khi lựa chọn, xây dựng và thực hiện các chủ đề STEM này thì GV cần lưu ý không nên để ảnh hưởng đến thời lượng dạy học của bộ môn, xáo trộn nhiều kiến thức trong chương trình dạy học. Sau khi học xong chủ đề STEM, HS phải nắm được các chuẩn kiến thức, kĩ năng được quy định trong chương trình THPT, các chủ đề STEM khai thác phù hợp với điều kiện thực tiễn dạy học của nhà trường, trình độ của HS. Trên cơ sở đó, chúng tôi đề xuất một số chủ đề STEM phần điện học Vật lý 11,12 mà theo chúng tôi là phù hợp trong quá trình dạy học tại trường phổ thông. 3.2.1. Đề xuất xây dựng một số chủ đề STEM cơ bản chương 2 “Dòng điện không đổi” Vật lý 11, chương 3 “ Dòng điện xoay chiều” Vật lý 12 Trong quá trình triển khai, chúng tôi đã đề xuất 10 chủ đề như sau: TT Chủ đề thực tiễn Kiến thức, kỹ năng môn Vật lý có liên quan 1 Pin điện hóa sáng tạo Bài 7. Dòng điện không đổi. Nguồn điện – Vật lý 11 2 Đèn ngủ từ cổng sạc điện thoại, loa đài Bài 18: Khảo sát đặc tính chỉnh lưu của điốt bán dẫn và đặc tính khuếch đại của Tranzio – Vật lý 11, Bài 16 Truyền tải điện năng, máy biến áp – Vật lý 12 3 Máy bắt muỗi sáng tạo Bài 9- Vật lý 11 4 Các hệ thống điều khiển bằng dòng Từ bài 7 đến bài 10 chương 2 - điện với nguồn pin Vật lý 11 5 Máy hạ áp AC 220V xuống DC 12V Bài 18. Khảo sát đặc tính chỉnh không dùng biến áp lưu của điốt bán dẫn- Vật lý 11, Bài 6. Tụ điện 6 Chế tạo mạch tụ khuếch đại điện áp Bài 6. Tụ điện - Vật lý 11 Bài 8. Năng lượng điện trường 7 Chế tạo các mạch điều khiển Từ bài 11 đến bài 15 – Vật lý11 14
  17. 7 Máy biến áp và ứng dụng của máy biến Bài 16. Truyền tải điện năng, áp máy biến áp - Vật lý 12 7 Hệ thống truyền tải điện năng Bài 16. Truyền tải điện năng, máy biến áp – Vật lý 12 8 Máy phát điện xoay chiều Bài 17. Máy phát điện xoay chiều – Vật lý 12 10 Động cơ điện và các ứng dụng của Bài 18. Động cơ không đồng động cơ điện trong đời sống bộ ba pha – Vật lý 12 Với các chủ đề STEM cơ bản được xây dựng trên cơ sở kiến thức thuộc phạm vi các môn khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán trong chương trình giáo dục phổ thông. Các sản phẩm chủ đề STEM này thường đơn giản, bám sát nội dung SGK và thường được xây dựng trên cơ sở các nội dung thực hành, thí nghiệm trong chương trình GDPT. 3.2.2. Đề xuất xây dựng một số chủ đề STEM mở rộng phần điện học Vật lý 11, 12 THPT Chủ đề STEM mở rộng có những kiến thức nằm ngoài chương trình GDPT và SGK. Những kiến thức đó GV hướng dẫn để HS tự tìm hiểu và nghiên cứu từ tài liệu chuyên ngành. Sản phẩm STEM loại hình này có độ phức tạp cao hơn. Ở nội dung này, chúng tôi đã triển khai 5 chủ đề như sau: TT Chủ đề thực tiễn Kiến thức, kỹ năng Vật lý liên quan 1 Các thiết bị cảnh báo, bảo vệ, điều Định luật Ôm cho đoạn mạch khiển bằng điện chỉ chứa R. 2 Chế tạo các thiết bị dùng pin năng Dòng điện trong chất bán dẫn, lượng mặt Trời: ô tô đồ chơi năng Định luật bảo toàn và chuyển lượng mặt trời, bếp năng lượng mặt hóa năng lượng. trời 3 Đèn cảm ứng tự động mở, tắt Công nghệ cảm ứng chuyển động. 4 Xe ô tô điều khiển bằng công tắc đảo Mạch điện một chiều mắc song chiều song, định luật Ôm cho toàn mạch, chuyển hóa năng lượng 5 Phanh điện từ - an toàn giao thông Dòng điện Fu-cô, định luật Len- xơ, lực từ, từ trường. Tùy theo mục đích xây dựng chủ đề, GV có thể sử dụng chủ đề STEM cơ bản để xây dựng kiến thức mới, điều này có nghĩa là HS muốn hoàn thành 15
  18. nhiệm vụ học tập thì phải tự chiếm lĩnh các kiến thức có liên quan. Hoặc có thể sử dụng các chủ đề STEM cơ bản và chủ đề STEM mở rộng để vận dụng, rèn luyện các kiến thức, kĩ năng sau một chủ đề hoặc một chương học. Sau khi giải quyết vấn đề học tập, HS sẽ có những kiến thức sâu sắc hơn, nhớ được lâu hơn và áp dụng được nhiều hơn vào thực tiễn cuộc sống. 4.Tổ chức dạy học một số chủ đề STEM phần điện học Vật lý 11, 12 THPT Trong 15 chủ đề mà chúng tôi đã đề xuất để dạy học một số bài học Vật lý thuộc chương trình THPT hiện hành theo phương thức STEM như đã giới thiệu trên đây, trong quá trình tổ chức dạy học, chúng tôi đã tổ chức cho HS thực hiện thông qua nhiều hình thức như lồng ghép dạy học chủ đề STEM vào một số tiết học trên lớp, dạy học dự án, các hoạt động trải nghiệm như: tổ chức câu lạc bộ Vật lý, hoạt động ngoại khóa, giao nhiệm vụ về nhà cho HS dưới sự hướng dẫn của GV. Trong SKKN này chúng tôi lựa chọn giới thiệu và xin được trình bày cụ thể quá trình tổ chức dạy học 4 chủ đề STEM với các hình thức dạy học như đã nói trên như sau. 4.1. Tổ chức dạy học chủ đề STEM “Pin điện hóa sáng tạo” Chủ đề pin điện hóa là một trong những chủ đề STEM điển hình được giới thiệu trên nhiều tài liệu tập huấn, tạp chí, thường được tổ chức dạy học dưới hình thức dạy học dự án theo định hướng STEM trong thời gian 02 tiết trên lớp và 1 tuần làm việc ở nhà. Căn cứ vào điều kiện dạy học của nhà trường, nội dung kiến thức bài học chúng tôi mạnh dạn thiết kế, tổ chức dạy học lại chủ đề STEM “Pin điện hóa sáng tạo” lồng ghép trong một tiết học khi dạy học bài 7- Dòng điện không đổi – Vật lý 11 (tiểu mục 1. Pin điện hóa thuộc mục V. Pin và Acquy thuộc tiết 2- bài 7- Dòng điện không đổi – trong PPCT Vật lý 11). Để thực hiện được điều này, sau khi HS đã học xong tiết 1 (hết phần IV- bài 7 SGK Vật lý 11) GV giao nhiệm vụ về nhà cho HS tìm hiểu các kiến thức về các nguồn điện một chiều như pin và acquy gồm các nội dung: cấu tạo, nguyên lý hoạt động, công dụng. Ở tiết 2, GV dành thời gian 45 phút trên lớp để HS thực hiện chủ đề STEM “Pin điện hóa sáng tạo”. 4.1.1. Lí do chọn chủ đề Pin điện hóa là nguồn điện gần gũi trong đời sống hằng ngày, cung cấp năng lượng cho nhiều thiết bị, dụng cụ quen thuộc như đồng hồ, điều khiển ti vi, đèn pin…. Về nguyên lý cấu tạo của pin điện hóa, HS đã được học trong SGK (hai cực có bản chất khác nhau ngâm trong dung dịch điện phân). Vấn đề đặt ra là, ngoài những vật liệu, hóa chất trình bày như trong SGK, GV hướng dẫn để HS suy nghĩ xem trong thực tế còn có cách nào tạo ra pin điện hóa? Dưới sự gợi ý của GV, HS sẽ phát hiện ra trong thực tế gần gũi, các loại củ quả như chanh, khoai tây, táo, cam… và các loại muối ăn, dấm ăn là những thực phẩm rất quen thuộc với đời sống chúng ta, ngoài cung cấp nguồn thực phẩm bổ dưỡng chúng còn có thể trở góp phần tạo thành những nguồn điện rất thân 16
  19. thiện với môi trường. Vấn đề tưởng chừng đơn giản, nhưng có tác dụng rất lớn trong việc giúp HS rèn luyện tư duy khoa học, kính thích trí tò mò, khám phá, sáng tạo của các em. 4.1.2. Mục tiêu của chủ đề - HS trình bày được cấu tạo và nguyên tắc hoạt động của các nguồn điện một chiều gồm pin và acquy. - Trình bày được nguyên lý tạo ra pin điện hóa từ các củ quả dễ tìm trong cuộc sống, cơ chế hoạt động của 1 cục pin. - Vận dụng được các kiến thức trong chủ đề và kiến thức đã biết để thiết kế, chế tạo pin điện hóa từ củ quả thân thiện với môi trường thắp sáng đèn led có tính ứng dụng được trong đời sống hằng ngày. - Phát triển các phẩm chất (thái độ tích cực, hợp tác, yêu thích, say mê khoa học, có ý thức bảo vệ môi trường), các năng lực chung (năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, giao tiếp và hợp tác, tự chủ và tự học) cho HS. 4.1.3. Kiến thức STEM trong chủ đề Tên sản Khoa học Công nghệ (T) Kỹ thuật Toán học phẩm (S) (E) (M) Pin điện Vật lý: Thiết kế bản vẽ Quy trình chế Định lượng hóa Dòng điện không kĩ thuật, sử dụng tạo pin điện và định tính đổi. Nguồn điện; các nguyên vật hóa. các nguyên Dòng điện trong liệu dễ tìm, an vật liệu cần chất điện phân. toàn thực phẩm: thiết để chế Hóa học: Sự điện chanh, khế chua, tạo pin điện ly, quá trình oxi khoai tây,… hóa. hóa- khử 4.1.4. Chuẩn bị Mỗi nhóm chuẩn bị các dụng cụ và vật liệu cần thiết chế tạo các pin điện hóa như sau: Vật liệu chuẩn bị Hình ảnh minh họa 04 quả chanh, 04 củ khoai tây, 02 quả khế chua, 01 thanh nhôm, 01 thanh sắt (đinh sắt), 20 cm dây điện đôi, 01 đèn led. 17
  20. 4.1.5. Thiết kế hoạt động học tập Hoạt động 1: Tìm hiểu chung về các nguồn điện một chiều pin và acquy Hướng dẫn của GV Hoạt động của HS GV tổ chức cho đại diện các Đại diện các nhóm HS báo cáo nhóm HS báo cáo, thảo luận kết quả nội dung được giao về nhà qua bài thực hiện nhiệm vụ về nhà: tìm hiểu, thuyết trình powerpoint về các nghiên cứu về cấu tạo, nguyên lí hoạt nguồn điện một chiều như pin và động công dụng của các nguồn điện acquy. một chiều như pin và acquy thuộc tiểu Các nhóm còn lại phản biện, thảo mục 1. Pin điện hóa (mục V- Pin và luận và ghi chép nhận xét của GV. Acquy - bài 7 SGK Vật lý 11). Kết quả sản phẩm các nhóm (bài thuyết trình) được GV thu lại để đánh giá. Nhận xét, đánh giá kết quả các nhóm. Chốt lại kiến thức cần nắm về các nguồn điện pin và acquy. Hoạt động 2: Đề xuất các phương án chế tạo pin điện hóa GV đặt vấn đề: - - - Các nguồn điện một chiều được sử- dụng rộng rãi trong thực tế gồm pin- điện hóa (thực chất gồm hai cực có bản- chất khác nhau được ngâm trong dung- dịch chất điện phân như axit, bazo,- muối…) và acquy (nguồn điện hóa học- hoạt động dựa trên phản ứng thuận- - HS vận dụng các kiến thức đã nghịch). Trong đó pin điện hóa là một được tìm hiểu về pin điện hóa trong nguồn điện gần gũi với chúng ta, cung SGK để đề xuất các phương án chế cấp năng lượng cho nhiều thiết bị, dụng tạo pin điện hóa. HS có thể đề xuất cụ quen thuộc như đồng hồ, các loại các phương án sau đây: điều khiển, đèn pin…. Ngoài những vật + Phương án 01. Chế tạo pin điện liệu, hóa chất trình bày như trong SGK, hóa từ dung dịch muối ăn NaCl và 2 các em hãy suy nghĩ xem trong thực tế bản cực đồng, sắt. còn có cách nào tạo ra pin điện hóa từ + Phương án 02. Chế tạo pin điện các vật liệu dễ tìm? hóa từ dung dịch dấm ăn và 2 bản - Tổ chức cho HS thảo luận, đề xuất cực đồng, sắt. các phương án chế tạo pin điện hóa. - - GV nhận xét các phương án đã đưa ra, + Phương án 03 (HS có thể không tất cả các phương án đều đúng, có tính đề xuất được phương án này): Chế 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
22=>1