You are on page 1of 97

Thuvienvatly.

com Trang |1

WWW.THUVIENVATLY.COM

Bản Tin Vật Lý

© Thư Viện Vật Lý


www.thuvienvatly.com
banquantri@thuviemvatly.com
Tháng 8 năm 2010
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Nội dung: Trần Nghiêm – trannghiem@thuvienvatly.com


Biên tập: Trần Triệu Phú – trieuphu@thuvienvatly.com
Thiết kế: Bích Triều, Vũ Vũ
Cùng một số Cộng tác viên khác

 Trong bản tin có sử dụng hình ảnh và các bài dịch từ các tạp chí nổi tiếng
Physics World, Nature Physics, New Scientist, cùng một số tạp chí khác.
Thuvienvatly.com Trang |2

Trong tháng này

Kích thước proton nhỏ hơn chúng ta nghĩ ...................................................................... 3


Thí nghiệm cực kì chính xác xác nhận các photon thuộc họ hàng boson .......................... 5
Thí nghiệm ba khe xác nhận thực tại có bản chất lượng tử ............................................. 7
Kỉ lục tạo ra phản vật chất lạnh nhất ............................................................................. 9
Edward Witten giành Huy chương Newton 2010 .......................................................... 10
10 triệu năm nữa, lục địa châu Phi sẽ bị tách ra làm hai ............................................... 11
Bộ ngũ tôpô học giành giải thưởng Europhysics ........................................................... 12
Voyager 2 - 12.000 ngày: Cuộc đua siêu marathon vẫn tiếp tục .................................... 14
Các ngôi sao cổ thuộc Dải Ngân hà có lí lịch ‘ngoại bang’ ............................................. 15
Trạng thái siêu rắn có thể chỉ là một hiệu ứng dẻo lượng tử ......................................... 17
NASA công bố 10 bức ảnh ‘lạnh’ về Mặt trăng ............................................................. 18
Bản chất của tia vũ trụ là các hạt proton ..................................................................... 23
5 kỉ lục của phi thuyền thám hiểm vũ trụ ..................................................................... 24
Những ngôi sao đầu tiên ra đời như thế nào ................................................................ 28
Bí ẩn sao siêu mới đã được giải .................................................................................. 30
Vệ tinh Planck công bố bản đồ toàn vũ trụ đầu tiên ..................................................... 32
Lỗ đen thổi bong bóng ............................................................................................... 34
Nguồn gốc của các vụ nổ vũ trụ vẫn là một bí ẩn ......................................................... 36
Mỗi thiên hà có thể ẩn chứa 10.000 nền văn minh? ..................................................... 39
Bí hiểm các hang động trên Mặt trăng ......................................................................... 41
Sự dẫn điện mặt tô pô ở antimon ............................................................................... 44
Bản đồ kim cương toàn cầu ........................................................................................ 46
Trái tim tăm tối có thể giải thích các bí ẩn của mặt trời ................................................ 48
Máy phát bằng sợi nano lấy điện từ chuyển động của cơ thể ........................................ 51
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Tính chất thứ tư của các electron ................................................................................ 53


Lí thuyết du hành thời gian tránh được nghịch lí ông cháu ........................................... 55
Nước có ở khắp nơi trên Mặt trăng ............................................................................. 57
Boeing tiết lộ mẫu phi thuyền vũ trụ thương mại ......................................................... 60
Lần đầu tiên phát hiện các phân tử C60 trong không gian vũ trụ .................................. 63
‘Ngôi sao điên’ bị trục xuất khỏi Dải Ngân hà ............................................................... 65
Graphene có khả năng lọc arsen khỏi nước uống ......................................................... 68
Mỗi lỗ đen có thể ẩn chứa một vũ trụ tiềm ẩn ............................................................. 70
Các vụ nổ tia gamma có thể quét sạch sự sống dưới đại dương .................................... 71
Xúc tiến kế hoạch xây dựng Máy Va chạm Thẳng Quốc tế ILC ...................................... 73
Phát hiện một miệng hố va chạm thiên thạch còn nguyên sơ qua Google Earth ............. 75
Giới hạn khối lượng mới cho boson Higgs .................................................................... 77
Các quốc gia họp bàn xúc tiến dự án Lò phản ứng Thực nghiệm
Nhiệt hạch Hạt nhân Quốc tế ...................................................................................... 79
ISS sắp có đồng hồ nguyên chính xác nhất thế giới ..................................................... 82
Trái đất bị tiểu hành tinh đe dọa vào năm 2182 ........................................................... 83
Gặp gỡ nhà khám phá ra hạt quark: Murray Gell-Mann ................................................ 84
Thuvienvatly.com Trang |3

Các lỗ đen đang quay có thể là công cụ để phát hiện ra axion .......................... 87
Phương pháp mới tạo ra các bộ ba photon ...................................................... 88
Tương lai truyền thông lượng tử qua vệ tinh không còn xa ............................... 89
‘Mặt người trên sao Hỏa’ chỉ là đồi đá mà thôi ................................................. 91
Các chuyên gia người Nhật kêu gọi đưa rô bôt lên thám hiểm mặt trăng ........... 94
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010
Thuvienvatly.com Trang |4

Kích thước proton nhỏ hơn


chúng ta nghĩ
Bán kính của proton nhỏ hơn nhiều so với
trước đây người ta nghĩ – đó là kết luận của
các nhà vật lí đã tiến hành đo nó với độ chính
xác tốt nhất từ trước đến nay. Kết quả bất ngờ
trên thu được từ các nghiên cứu hydrogen
muon tính và có thể là các nhà vật lí cần phải
suy nghĩ lại cách thức họ áp dụng lí thuyết
điện động lực học lượng tử (QED) – hay thậm
chí bản thân lí thuyết đó cần có một sự đại tu
lớn.
Đo dịch chuyển Lamb ở hydrogen muon tính tại Viện
Một proton gồm hai quark tích điện liên kết Paul Sherrer. Kênh trích xuất muon (giữa) tải chùm
với nhau bằng lực mạnh và bán kính của nó muon từ bẫy cyclotron (ở phía sau khối bê tông) đến
được xác định là khoảng cách mà tại đó mật mục tiêu (phía trước bên phải). (Ảnh: Aldo Antognini)
độ điện tích giảm dưới một giá trị nhất định.
Bán kính đó được đo bằng hai cách – bằng
cách cho tán xạ các electron từ hydrogen và
Nay một đội khoa học quốc tế đứng đầu là
bằng cách nhìn rất gần vài sự chênh lệch giữa
những mức năng lượng nhất định của nguyên Randolf Pohl tại Viện Quang học Lượng tử
tử hydrogen gọi là dịch chuyển Lamb. Cho Max Planck ở Garching, Đức, đã lần đầu tiên
đến gần đây, ước tính tốt nhất của bán kính đo được sự dịch chuyển Lamb ở hydrogen
proton là 0,877 femto mét với sai số 0,007 muon tính và nhận thấy bán kính proton là
fm. 0,8418 fm với sai số 0,007 fm. Trong khi đây
là phép đo chính xác nhất tính từ trước đến
Sự dịch chuyển Lamb này là một hệ quả của nay, nhưng nó lại hết sức mâu thuẫn với
các tương tác giữa electron và các quark những phép đo trước đây.
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

thành phần của proton được mô tả bằng QED.


Những tương tác này hơi khác một chút đối Đội nghiên cứu đã sử dụng một máy gia tốc
với các electron chiếm giữ các mức năng proton tại Viện Paul Scherrer ở Thụy Sĩ để
lượng 2s và 2p và sự dịch chuyển năng lượng tạo ra một chùm muon, chùm đó sau đó được
thu được phụ thuộc một phần vào bán kính chiếu vào chất khí hydrogen. Mỗi khi một
của proton. muon va chạm với một phân tử hydrogen –
xảy ra khá thường xuyên, làm nó vỡ ra và thế
Nặng hơn tốt hơn chỗ electron để tạo ra hydrogen muon tính.
Khoảng 1% thời gian muon ở trạng thái 2s,
Sự dịch chuyển Lamb còn xảy ra ở hydrogen nơi nó có thể bị kích thích lên trạng thái 2p
muon tính, trong đó electron được thay thế bằng cách hấp thụ một photon từ một xung
bằng một muon. Tuy nhiên, sự dịch chuyển laser. Trạng thái 2p sau đó phân hủy với sự
đó phụ thuộc nhiều hơn vào bán kính của phát xạ ra một tia X.
proton vì muon nặng hơn electron và do đó
nó mất nhiều thời gian hơn để đến rất gần –
và thường vào bên trong – proton.
Thuvienvatly.com Trang |5

Các phép tính phức tạp đội của Pohl đã làm được một công việc
tuyệt vời. Khả năng kém nhất – nhưng hào
Bằng cách đếm số tia X như vậy trong khi hứng nhất – theo Flowers là có cái gì đó
quét tần của xung laser, đội khoa học có không đúng với QED.
thể thực hiện một phép đo rất chính xác
của năng lượng photon cần thiết để chi Trong khi QED xây dựng trên nền tảng
phối sự chuyển tiếp 2s-2p. Sau đó, con số toán học yếu, thì nó cực kì thành công
này được đưa vào một phép tính QED phức trong việc dự đoán kết quả của các thí
tạp để thu về bán kính của proton. nghiệm. “Việc thay đổi QED sẽ là một
thức thức lớn mang tính triết lí đối với các
Pohl cho biết đội của ông đã và đang làm nhà vật lí”, ông nói.
việc với phép đo ấy trong 12 năm qua và
đã thu về những gợi ý đầu tiên của kết quả Kết quả trên đã gây ra một làn gió hoạt
dị thường đó cách đây khoảng 6 năm trước. động thực nghiệm và lí thuyết, với một số
Kể từ đó, các nhà nghiên cứu đã xem xét, nhà vật lí đã thận trọng làm lại các phép
lặp lại và cải tiến các phép đo của họ nên tính dịch chuyển Lamb và những người
họ đảm bảo rằng các kết quả là chính xác. khác thì thử cải tiến các phép đo trên cơ sở
electron của bán kính proton.
Theo Jeff Flowers thuộc Phòng thí nghiệm
Vật lí quốc gia Anh quốc, có ba lời giải Trong khi đó, đội của Pohl sẽ lặp lại thí
thích có thể có cho sự không nhất quán nghiệm của mình và tiến hành một loạt
trên. Có khả năng nhất là QED đúng, phép đo mới trên helium muon tính để đo
nhưng nó không áp dụng được trong cái bán kính của hạt nhân helium.
ông gọi là ‘một phép tính rất khó’. Khả
năng thứ hai là có một trục trặc với thí Nghiên cứu trên công bố trên tạp chí
nghiệm trên – nhưng Flowers, người không Nature.
có liên quan trong phép đo trên, tin rằng
Nguồn: physicsworld.com
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010
Thuvienvatly.com Trang |6

Thí nghiệm cực kì chính


xác xác nhận các photon
thuộc họ hàng boson
Các nhà vật lí ở Mĩ vừa thực hiện một
phép kiểm tra cực kì chính xác của
một trong những nền tảng của vật lí
học hiện đại – quan điểm cho rằng hai
loại hạt sơ cấp, boson và fermion, tuân
theo hai loại hành trạng thống kê rạch
ròi nhau. Thí nghiệm gốc laser trên
xác nhận các photon hành xử theo
Dmitry Budker (trái) và Damon English. (Ảnh: Roy thống kê Bose–Einstein, khép lại các
Kaltschmidt và Damon English) nghi ngờ rằng các photon thật ra là
fermion với độ chính xác cao gấp
1000 lần so với những phép kiểm tra
trước đây.

Vật lí học cho chúng ta biết rằng các hạt sơ cấp chia làm hai nhóm chính: boson, những hạt có
giá trị xung lượng góc nội hay spin nguyên, và fermion, những hạt có spin bán nguyên. Các
boson bao gồm các hạt mang lực như photon, W và Z và tuân theo thống kê Bose-Einstein.
Một hệ quả quan trọng của điều này là nhiều boson giống hệt nhau tự do chiếm giữ cùng một
trạng thái lượng tử, dẫn tới các hiện tượng như ngưng tụ Bose-Einstein và sự phát laser.

Fermion bao gồm các hạt vật chất cơ bản như các quark và electron và tuân theo hành trạng
Fermi-Dirac. Các fermion giống hệt nhau không bao giờ có thể tồn tại trong cùng một trạng
thái lượng tử, cho chúng ta cấu trúc lớp vỏ của các nguyên tử và, cùng với nó, ngành hóa học.
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Không có lời giải thích đơn giản

Nguyên lí các hạt spin nguyên bị chi phối bởi thống kê Bose–Einstein, còn các hạt spin bán
nguyên biểu hiện hành trạng Fermi–Dirac đã được chứng minh bằng cơ sở toán học của lí
thuyết trường lượng tử. Nhưng một số nhà vật lí, kể cả Richard Feynman sau này, đã vấp phải
thực tế là không có lời giải thích đơn giản nào cho mối liên hệ này và nó vẫn dựa trên nhiều
giả thuyết, một số thì rõ ràng và một số thì tiềm ẩn. Thật vậy, người ta cho rằng những giả
thuyết này có lẽ không có vai trò gì trong những lí thuyết tổng quát hơn, thí dụ như lí thuyết
dây.

Dmitry Budker và Damon English thuộc trường Đại học California ở Berkeley quyết tâm sẽ
kiểm tra nguyên lí này, gọi là định lí thống kê spin, với độ chính xác họ có thể thực hiện. Họ
biết rằng cơ hội bác bỏ lí thuyết này là rất nhỏ, nhưng họ thấy dù sao việc thực hiện thí nghiệm
cũng thật quan trọng. Như Budker trình bày, việc phát hiện ra sự vi phạm CP trong ngành vật
lí hạt không có liên quan và “không có bất kì yêu cầu lí thuyết trực tiếp nào” nhưng hiện tại là
một trong những thành phần chính trong việc giải thích tại sao vũ trụ có vẻ chứa rất nhiều vật
Thuvienvatly.com Trang |7

chất so với vật chất tối. “Thí nghiệm của chúng tôi có tính rủi ro rất cao nhưng rất đáng giá”,
ông nói, “trong đó chúng tôi cực kì không có khả năng bác bỏ lí thuyết trên nhưng nếu chúng
tôi thực hiện được thí nghiệm thì nó sẽ là một khám phá mang tính cách mạng”.

Budker và English, cùng với Valeriy Yashchuk thuộc Phòng thí nghiệm quốc gia Lawrence
Berkeley đã nghiên cứu một loại hấp thụ hai photon đặc biệt bởi các nguyên tử barium trong
đó xung lượng góc toàn phần của các nguyên tử dịch chuyển từ 0 lên 1. Cơ học lượng tử cho
chúng ta biết rằng không thể xây dựng một hàm sóng hai hạt với một xung lượng góc toàn
phần bằng 1 nếu hàm sóng đó là đối xứng (đối với sự trao đổi hạt) như trường hợp đối với các
boson giống hệt nhau. Nói cách khác, nếu các photon là boson thì không thể nào thực hiện quá
trình hấp thụ đặc biệt này đối với các cặp photon có cùng tần số.

Không có sự hấp thụ nào như vậy

Các nhà nghiên cứu đã chiếu hai chùm laser màu lục từ hai hướng ngược nhau vào một chùm
nguyên tử barium đựng trong một hộp cộng hưởng quang, với năng lượng kết hợp của một cặp
photon (gồm một photon từ mỗi chùm) bằng với năng lượng hấp thụ barium. Họ nhận thấy khi
tần số của hai chùm chênh lệch rất ít thì sự hấp thụ này xảy ra, cái họ quan sát bằng cách đo
các photon giải phóng bởi sự thôi kích thích sau đó của barium. Nhưng họ quan sát thấy không
có sự hấp thụ nào như vậy khi các tần số đó là giống hệt nhau – chứng tỏ rằng các photon thật
sự là boson.

Budker và David DeMille, hiện làm việc tại Đại học Yale, đã công bố các kết quả từ một thí
nghiệm giống như vậy thực hiện hồi năm 1999, thí nghiệm còn chứng tỏ rằng các photon hành
xử như các boson. Tuy nhiên, phép kiểm tra mới nhất trên chính xác hơn nhiều lần, nhờ các
cải tiến trong cơ cấu thí nghiệm, và giảm sai số trong kết quả đi hơn ba bậc độ lớn – chứng tỏ
kết quả trên tốt hơn bốn phần trong 1011 ở mức độ tin cậy 90%. Theo Budker, độ chính xác
trên có thể cải thiện 100-1000 lần bằng cách cải tiến tính ổn định của các laser và tăng thêm
hiệu suất và giảm sự nhiễu của máy dò photon.

Những lợi ích thực tế


Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Budker bổ sung thêm rằng thí nghiệm trên còn có thể có những lợi ích thực tế. Ông cho biết
nhóm của ông đã có thể đo một loại chuyển tiếp hai photon cực kì yếu và trước đây chưa hề
quan sát thấy, cho phép bởi sự phân tách cấu trúc tinh tế, và sự chuyển tiếp này có tiềm năng
sử dụng trong những loại đồng hồ nguyên tử mới.

Nguồn: physicsworld.com
Thuvienvatly.com Trang |8

Thí nghiệm ba khe xác nhận thực tại có bản chất lượng tử
Trong thí nghiệm hai khe năm 1908, một photon chiếu vào một cặp khe đi qua cả hai khe đồng
thời và tự giao thoa với chính nó. Kết quả bất ngờ này đã mang lại một trong những manh mối
đầu tiên của thế giới kì lạ của cơ học lượng tử. Giờ thì những phép đo chính xác do các nhà
khoa học người Canada và Áo thực hiện trên một phiên bản ba khe một lần nữa đã xác nhận
các tiên đoán của cơ học lượng tử.

Một thí nghiệm đơn giản gửi các photon qua


ba khe đã mang lại bằng chứng tốt nhất từ
trước đến nay của một chân lí quan trọng
của thuyết lượng tử gọi là quy tắc Born. Kết
quả này mang lại sự chỉ dẫn quan trọng cho
những ai đang tìm kiếm một lí thuyết của tất
cả - một thuyết lượng tử bao hàm cả sự hấp
dẫn.

Khi một chùm hạt như photon hoặc electron


được chiếu vào hai khe rất gần nhau, thì hệ
vân giao thoa có được là vì các hạt hành xử
giống như sóng. Cường độ của hệ vân có thể
tính ra bằng cách bình phương tổng các sóng
đã truyền qua mỗi khe. Đây là hệ quả của
quy tắc Born -quy tắc xác định xác suất mà
một phép đo trên một hệ lượng tử sẽ thu
Ảnh minh họa các photon đi qua bộ ba khe.
được một kết quả nhất định nào đó.
Ảnh: IQC
Trong trường hợp ba khe, phép tính trên
mang lại ba số hạng mô tả sự giao thoa giữa
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

các sóng đang truyền qua ba cặp khe có thể


có. Tuy nhiên, không có số hạng “bậc ba”
nào mô tả các sóng truyền qua cả ba khe.

Trong khi quy tắc Born đã là hạt nhân của thuyết lượng tử kể từ thập niên 1920, nhưng nó vẫn
chưa được kiểm tra thực nghiệm với bất kì độ chính xác nào. Giờ thì Gregor Weihs tại trường
Đại học Innsbruck ở Áo, cùng các đồng nghiệp tại trường Đại học Waterloo ở Canada, vừa
thực hiện một thí nghiệm ba khe chứng tỏ rằng không có sự giao thoa bậc ba.

Phép đo bắt đầu tiến hành với sự tạo ra photon độc thân chiếu vào một mặt nạ có ba khe – mỗi
khe rộng 30 µm và cách nhau 100 µm. Một khi đã đi qua khe, photon đi tới một máy dò nhạy
với vị trí. Các photon độc thân được chiếu vào ở tốc độ 40.000 hạt mỗi giây và một đồ thị biểu
diễn cường độ photon theo vị trí mang lại hình ảnh giao thoa như mô tả bởi quy tắc Born.

Để kiểm tra quy tắc Born, đội khoa học lặp lại phép đo với một khe mở tại mỗi thời điểm – và
sau đó với ba cấu hình hai khe có thể có. Nếu quy tắc Born là đúng, thì toàn bộ những phép đo
Thuvienvatly.com Trang |9

này cộng lại sẽ cho hình ảnh giao thoa giống như khi nhìn với cả ba khe cùng mở. Weihs và
các đồng nghiệp đã nhìn thấy kết quả này với sai số 1% cường độ vân, xác nhận quy tắc Born.

Theo Weihs, bất kì sự vi phạm nào của quy tắc Born cũng có nghĩa là phương trình
Schrödinger – nền tảng của thuyết lượng tử - sẽ phải sửa đổi lại. “Sự tồn tại của các số hạng
giao thoa bậc ba sẽ có những tác động lí thuyết khủng khiếp – nó sẽ làm lay chuyển cơ học
lượng tử đến tận gốc rễ”, ông nói.

Tuy nhiên, việc khám phá ra một sự vi phạm như vậy sẽ được mọi người hân hoan chào đón,
vì một lí thuyết lượng tử sửa đổi có thể dẫn tới một lí thuyết thống nhất mà người ta tìm kiếm
lâu nay có khả năng hợp nhất thuyết lượng tử hiện đại với các lí thuyết hấp dẫn.

Weihs cho biết đội của ông hiện đang trong kế hoạch thực hiện một thí nghiệm tương tự với
các bộ tách chùm tia thay cho ba khe – cơ cấu thí nghiệm đó sẽ cho phép họ giảm bớt sai số
thực nghiệm. Họ còn có kế hoạch lặp lại thí nghiệm trên với bốn và năm khe.

Các bạn có thể tìm đọc công trình của Weihs và đồng nghiệp trên tạp chí Science 329 418.

Nguồn: physicsworld.com
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010
Thuvienvatly.com T r a n g | 10

Kỉ lục tạo ra phản vật chất lạnh nhất


Các nhà vật lí làm việc tại phòng
nghiên cứu hạt nhân CERN ở biên giới
giữa Thụy Sĩ và Pháp vừa tạo ra được
những hạt phản vật chất lạnh nhất từ
trước đến nay.

Đội nghiên cứu đã làm lạnh các phản


proton xuống đến những nhiệt độ lạnh
hơn cả trên bề mặt của Pluto, chỉ 17 độ
trên không độ tuyệt đối. Các nhà vật lí
đang nghiên cứu phản vật chất lạnh hi
vọng cuối cùng sẽ có được cái nhìn
sâu sắc lí giải tại sao vũ trụ lạnh cấu
thành từ vật chất chứ không phải phản
vật chất. Ảnh: CERN Geneva

Để nghiên cứu vấn đề này một cách


sâu sắc, đội khoa học cần phải kết hợp
các phản proton lạnh với một đối tác Máy làm lạnh phản hydrogen thu gom một
phản hạt của electron, gọi là positron, số lượng lớn hạt trong một bẫy từ với một
để tạo ra các nguyên tử lạnh của phản đầu trên để hở. Theo thời gian, những hạt
hydrogen. Bằng cách này, các nhà vật năng lượng cao nhất sẽ vọt ra khỏi bẫy, còn
lí sẽ có thể giữ các nguyên tử trung những hạt năng lượng thấp hơn vẫn ở lại
hòa trong các bẫy từ và phân tích hành trong bẫy. Bẫy từ dần dần co lại cho nên
trạng của phản vật chất một cách cẩn các hạt lạnh hơn sau đó có thể thoát ra
thận hơn. ngoài, cuối cùng chỉ để lại những hạt lạnh
nhất mà thôi.
“Hydrogen là một trong những hệ
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

được nghiên cứu nhiều nhất trong vật “Đó chính là nguyên tắc làm lạnh tách cà
lí học”, lời của Jeff Hangst, phát ngôn phê của bạn trong khi nó vẫn ở trên bàn”,
viên của nhóm nghiên cứu phản vật Hangst gợi đến cách thức những phân tử
chất ở nhiệt độ thấp tại CERN, ở nước nóng nhất trong tách cà phê của bạn
Geneva. “Chúng tôi muốn thực hiện bay hơi ra ngoài trước, để lại phía sau
những loại phép đo chính xác ấy trong những phân tử lạnh hơn.
phổ phản vật chất”.
Kỉ lục phản vật chất lạnh nhất trước đây
được lập năm 1989 bởi một đội tại Đại học
Harvard. Họ đã làm lạnh các phản proton
xuống đến khoảng 104,3 kelvin.

Nguồn: PhysOrg.com
Thuvienvatly.com T r a n g | 11

Edward Witten giành Huy


chương Newton 2010

Nhà tiên phong của lí thuyết dây Edward


Witten đã giành Huy chương Isaac Newton
2010 của Viện Vật lí cho “nhiều đóng góp
xuất sắc của ông đã làm biến chuyển các lĩnh
vực lí thuyết hạt, lí thuyết trường lượng tử và
thuyết tương đối rộng”.

Huy chương quốc tế trên tặng cùng với một


giải thưởng trị giá 1000 bảng Anh và được
trao cho “những đóng góp xuất sắc cho vật lí
học”. Nó sẽ được trao tại một buổi lễ diễn ra
ở London vào thứ sáu này (02/07), tại đó
Witten sẽ đọc một bài thuyết trình nói về
những thành tựu nghiên cứu của ông.

Witten hiện làm việc tại Viện Nghiên cứu


Cao cấp ở Princeton, New Jersey, Mĩ, và
Edward Witten giảnh Huy chương Isaac Newton 2010
thường được xem là một nhân vật hàng đầu
(Ảnh: Viện Nghiên cứu Cao cấp Princeton)
trong sự phát triển của lí thuyết dây. Lí thuyết
dây gợi ý rằng các hạt sơ cấp như electron và
Giáo sư Dame Jocelyn Bell Burnell, chủ tịch
photon chỉ là những biểu hiện của lớp bản
Viện Vật lí, phát biểu: “Tính căn nguyên, cái
chất cơ bản hơn nhiều được mô tả bởi các dây
nhìn vật lí và sức mạnh toán học của giáo sư
một chiều, dài 10–35 m. Ban đầu, nó được
Witten đã làm cách mạng hóa lĩnh vực nghiên
thiết lập để mô tả lực mạnh tác dụng lên các
cứu trên. Là một nhà vật lí lí thuyết sáng tạo
quark và gluon, lí thuyết dây sớm trở thành
nhất và có nhiều thành quả nhất, ông đã có sự
một tiềm năng cho “lí thuyết của tất cả” có
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

tác động hết sức to lớn trong các lĩnh vực lí


thể hợp nhất lực hấp dẫn với ba lực kia trong
thuyết trường lượng tử, thuyết tương đối rộng
tự nhiên.
và lí thuyết dây”.
Các phương pháp tính toán mới Witten, năm nay 58 tuổi và là công dân Mĩ,
lấy mảnh bằng đầu tiên của ông về ngành sử
Việc biểu diễn lại các hạt dưới dạng dây đòi học tại trường Đại học Brandeis. Sau đó, ông
hỏi 10 hoặc 11 chiều, khiến rất khó thực hiện vào trường Đại học Princeton, với vị cố vấn
những phép tính thực tế, thí dụ như chỉ rõ cái cho luận án tiến sĩ của ông là David Gross,
gì sẽ xảy ra khi hai electron va chạm nhau. một nhà lí thuyết dây hàng đầu khác.
Witten đã xử lí vấn đề đó bằng cách sửa đổi
cơ sở toán học của lí thuyết hạt, tạo ra những
Nguồn: physicsworld.com
phương pháp mới dùng để thực hiện các phép
toán trong nội bộ lí thuyết dây.
Thuvienvatly.com T r a n g | 12

10 triệu năm nữa, lục địa châu Phi sẽ bị tách ra làm hai
Các nhà khoa học tại trường Đại học Leeds dự báo trong vòng 10 triệu năm
nữa, vùng sừng châu Phi sẽ biến mất và một đại dương mới sẽ ra đời.

Đội nghiên cứu, với mục tiêu chứng tỏ rằng diễn biến địa chất có thể thật
nhanh chóng và dữ dội, sẽ trình bày nghiên cứu của họ tại Triển lãm Khoa học
Hè Hội Hoàng gia năm nay, mở cửa ở London, ngày 28/6. Du khách tham
quan sẽ có thể thực hiện một tour 3D qua vết nứt Afar ở Ethiopia - ở trên và
bên dưới mặt đất – nơi lục địa châu Phi đang vỡ rạn ra.

Trong sa mạc Afar hẻo lánh, một đoạn dài 60km của ranh giới mảng đã nứt ra
nhiều đến 8m trong 10 ngày vào năm 2005. Khe nứt chứa đầy 2,5 km khối đá
tan chảy – đủ để chôn vùi 42 km vuông khu vực giao thông tấp nập của
London bên dưới 60m dung nham.

Kể từ đó, vết nứt ngày một rộng ra và dài ra với những đợt phun trào gần đây
nhất xảy ra mới hồi tháng 3/2010. Các nhà khoa học đang nghiên cứu khu vực
đó tin rằng một đại dương mới đang từ từ hình thành và cuối cùng sẽ tách lục
địa châu Phi ra làm hai.

Tiến sĩ Tim Wright thuộc Khoa Trái đất và Môi trường, Đại học Leeds, nói:
“Quá trình hình thành đại dương thường ẩn sâu bên dưới lòng biển, nhưng ở
Afar, chúng tôi có thể đi bộ băng qua khu vực nơi bề mặt Trái đất tách ra xa
nhau – điều đó thật sự thú vị”.

“Hiện tại, chúng ta có cơ hội tiến hành mọi loại thí nghiệm trong phòng thí
nghiệm tự nhiên độc nhất vô nhị này, để tìm hiểu thêm về các quá trình có liên
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

quan trong sự định hình bề mặt Trái đất. Nó giúp chúng ta tìm hiểu và giảm
nhẹ các hiểm họa thiên nhiên như động đất và núi lửa phun”.

“Hoạt động đó trong 5 năm qua ở Afar thật sự không thể tin được – chúng ta
đang chứng kiến các mảng nền tách ra xa nhau trong thời gian thực trước mắt
mình. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tầm quan trọng của magma tan chảy
trong toàn bộ tiến trình đó – chúng tôi đã có thể theo dõi magma từ bên dưới
lớp bao của Trái đất cho đến khi nó xâm nhập vào các vết nứt và hóa rắn
thành lớp bao mới, hay phun lên trên bề mặt”.

Nguồn: PhysOrg.com
Thuvienvatly.com T r a n g | 13

Bộ ngũ tôpô học giành giải thưởng Europhysics

Khuôn khổ tôpô học

Zhang, Kane và Mele được vinh danh


cho công trình lí thuyết của họ về hiệu
ứng Hall spin lượng tử (QSHE), xảy
ra trong những chất cách điện rất
mỏng nhất định. Nó liên quan đến các
electron spin up dẫn dọc theo một gờ
của chất cách điện, còn các electron
spin down thì dẫn dọc theo gờ đối
diện. Các nỗ lực của bộ tam đã thiết
lập một khuôn khổ lí thuyết cho các
chất cách điện tôpô học – các chất là
chất cách điện nguyên khối nhưng là
chất dẫn điện tốt trên bề mặt.
Hiệu ứng Hall spin lượng tử: Các electron tại các gờ của một
chất cách điện rất mỏng có thể dẫn điện. Nếu các electron đang Năm 2005, Kane và Mele đã đề xuất
chuyển động ra khỏi trang giấy, thì các electron spin down (màu một lí thuyết tổng quát tiên đoán các
đỏ) chuyển động dọc theo gờ bên trái, còn các electron spin up chất liệu là chất cách điện tôpô 2D.
(màu xanh) chuyển động dọc theo gờ bên phải. (Ảnh: Laurens
Molenkamp.) Hai nhà khoa học đã nhận ra graphene
– những tấm carbon chỉ dày một
Năm nhà vật lí đã mang đến cho chúng ta hiệu ứng nguyên tử - là một ứng cử viên, mặc
Hall spin lượng tử và các chất cách điện tôpô học vừa dù việc xác lập điều này bằng thực
giành được giải thưởng Europhysics năm nay từ phân nghiệm là không khả thi. Tuy nhiên,
viện vật chất ngưng tụ thuộc Hội Vật lí châu Âu. làm việc một cách độc lập, Zhang dự
đoán hồi năm 2006 rằng thủy ngân
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Những người đạt giải là Shoucheng Zhang thuộc Đại


học Stanford; Charles Kane và Eugene Mele thuộc telluride sẽ là một chất cách điện tôpô
Đại học Pennyslvania; Hartmut Buhmann và Laurens 2D. Dự đoán này được xác nhận thực
Molenkamp thuộc Đại học Würzburg ở Đức. nghiệm vào năm 2007 bởi Buhmann
và Molenkamp, hai nhà khoa học
Kể từ khi được xác nhận thực nghiệm vào năm 2007, khác giành giải thưởng của năm nay.
hai hiện tượng có liên quan trên đã trở thành những
đề tài nghiên cứu chính trong ngành vật lí chất rắn Joel Moore ở trường Đại học
với hàng trăm bài báo đăng tải trên website arXiv. California, Berkeley, nói giải thưởng
Nghiên cứu tiên phong của bộ ngũ trên còn có thể trên là một “sự ghi nhận xứng đáng
cho phép các nhà vật lí có cái nhìn sơ bộ đầu tiên về của một khám phá hấp dẫn thể hiện sự
một hạt hay lảng tránh gọi là fermion Majorana và tương tác mang tính xây dựng giữa
đưa đến các máy tính lượng tử không bị nhiễu. các dự báo lí thuyết và nghiên cứu
thực nghiệm trong ngành vật lí vật
chất ngưng tụ”.
Thuvienvatly.com T r a n g | 14

Mở rộng sang 3D

Những chất như thế được gọi là chất cách điện tôpô 2D vì hiệu ứng xảy ra trong các chất liệu
cực mỏng, trong đó các electron bị hạn chế với hai chiều không gian và hiệu ứng có liên quan
với hình dạng (hay tôpô học) của các hàm sóng electron. Năm 2007, Kane và Mele – và một
cách độc lập, Moore, Leon Balents và Rahul Roy – đã nhận ra rằng cách chất cách điện tôpô
còn có thể tồn tại trong các chất liệu 3D dày hơn. Điều này được xác nhận thực nghiệm vào
năm 2008 bởi Zahid Hasan cùng các đồng nghiệp tại trường Đại học Princeton.

Marcel Franz ở trường Đại học British Columbia cho biết các chất cách điện tôpô 3D “cấu
thành một pha thật sự mới của vật chất lượng tử”. “Chúng ta nghĩ mình đã hiểu hết các khía
cạnh của lí thuyết dải trong chất rắn nhưng những phát triển mới này cho thấy thật ra chúng ta
hoàn toàn bỏ sót một số khía cạnh tôpô học tỏ ra có tầm quan trọng thật cơ bản”, ông nói.

Hạt và phản hạt

Các nhà vật lí đặc biệt quan tâm xem điều gì xảy ra tại tiếp giáp giữa một chất cách điện tôpô
và một chất siêu dẫn. Một số nhà vật lí tin rằng những cấu trúc như thế có thể dung dưỡng một
loại giả hạt mới làm nhớ tới các “fermion Majorana”, những hạt được tiên đoán hồi năm 1937
bởi nhà lí thuyết người Italy Ettore Majorana nhưng cho đến nay chưa được trông thấy.

Các fermion Majorana là những hạt giống electron có phản hạt riêng của chúng. Chúng không
phải là fermion cũng chẳng phải boson, và thay vào đó chúng tuân theo thống kê phi Abel.
Các trạng thái lượng tử của những hạt như vậy được trông đợi là có trở kháng cao đối với các
nhiễu loạn do môi trường gây ra, khiến chúng là những ứng cử viên lí tưởng cho các máy tính
lượng tử.

Nguồn: physicsworld.com
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010
Thuvienvatly.com T r a n g | 15

Voyager 2 - 12.000 ngày: Cuộc đua siêu marathon vẫn tiếp tục
Phi thuyền Voyager 2 của NASA đã
vượt qua một cột mốc quan trọng vào
ngày hôm qua (29/06) – nó đã hoạt động
liên tục trong 12.000 ngày.

Trong gần 33 năm, phi thuyền đáng nể


trên đã gửi phản hồi các dữ liệu về
những hành tinh khí khổng lồ nhóm
ngoài, và các đặc điểm và tương tác của
gió mặt trời ở giữa và bên ngoài các
hành tinh đó. Trong số nhiều kết quả của
Ảnh minh họa phi thuyền Voyager 2 của NASA khi nó
nó, Voyager 2 đã phát hiện ra Đốm Đen
nghiên cứu các ranh giới bên ngoài của nhật quển – một cái
Lớn của Hải vương tinh và những cơn ‘bọt’ từ xung quanh hệ mặt trời tạo ra bởi gió mặt trời. Ảnh:
gió giật 450 m/s của nó. NASA/JPL-Caltech.

Hai phi thuyền Voyager là phi thuyền hoạt động liên tục lâu nhất trong không gian sâu thẳm.
Voyager 2 phóng lên vào ngày 20/08/1977, khi Jimmy Carter làm tổng thống Mĩ. Voyager 1
phóng lên khoảng hai tuần sau đó, vào hôm 05/09. Hai phi thuyền là những vật thể nhân tạo ở
xa nhất, vượt khỏi ranh giới của nhật quyển – cái bọt mặt trời tạo ra xung quanh hệ mặt trời.
Các nhà điều hành sứ mệnh trông đợi Voyager 1 rời khỏi hệ mặt trời của chúng ta và đi vào
không gian giữa các sao trong 5 năm tới, cùng với Voyager 2 trên hành trình đi vào không
gian giữa các sao không bao lâu sau đó.

Đã vượt chặng đường hơn 21 tỉ km trên hành trình lướt gió của nó băng qua các hành tinh
thẳng tiếng vào không gian giữa các sao, phi thuyền trên hiện ở cách mặt trời gần 14 tỉ km.
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Một tín hiệu từ mặt đất, truyền đi ở tốc độ ánh sáng, mất khoảng 12,8 giờ mới tới được
Voyager 2.

Voyager 1 sẽ đạt tới cột mốc 12.000 ngày này vào hôm 13/07/2010, sau khi đi hơn 22 tỉ km.
Voyager 1 hiện ở cách mặt trời hơn 17 tỉ km.

Hai phi thuyền Voyager do Phòng thí nghiệm Sức đẩy phản lực của NASA (JPL) chế tạo. Đây
cũng là cơ quan điều hành cả hai phi thuyền trên. Viện Công nghệ California (Caltech) được
NASA ủy quyền quản lí JPL.

Nguồn: PhysOrg.com
Thuvienvatly.com T r a n g | 16

Các ngôi sao cổ thuộc Dải Ngân hà có lí lịch ‘ngoại bang’

Nhiều ngôi sao cổ thuộc Dải Ngân hà là


tàn dư của những thiên hà khác nhỏ
hơn bị xé toạc ra bởi những vụ va chạm
thiên hà khốc liệt xảy ra cách nay
khoảng 5 tỉ năm về trước, theo các nhà
nghiên cứu tại trường Đại học Durham,
Vương quốc Anh.

Các nhà khoa học tại Viện Vũ trụ học


Tính toán thuộc trường Durham và các
cộng tác viên của họ tại Viện Thiên văn
vật lí Max Planck ở Đức, và Đại học
Groningen ở Hà Lan, đã cho chạy
những chương trình mô phỏng máy tính
đồ sộ để tái dựng sự bắt đầu của thiên
hà của chúng ta.

Mô phỏng trên cho thấy những ngôi sao


Mô phỏng này cho thấy một thiên hà kiểu Dải Ngân hà
cổ, tìm thấy trong quầng bụi sao bao khoảng 5 tỉ năm trước khi đa số các va chạm thiên hà vệ tinh
xung quanh Dải Ngân hà, đã bị xé ra từ đang diễn ra. Ảnh: Andrew Cooper/John Helly, Đại học
những thiên hà nhỏ hơn bởi lực hấp dẫn Durham
phát sinh bởi các thiên hà đang va chạm
nhau. Tác giả lãnh đạo nhóm, Andrew Cooper, ở Viện
Vũ trụ học Tính toán thuộc Đại học Durham, nói:
Các nhà vũ trụ học dự đoán rằng Vũ trụ “Thực tế chúng tôi đã trở thành các nhà khảo cổ
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

sơ khai tràn ngập những thiên hà nhỏ thiên hà học, đang săn tìm những địa điểm có khả
đưa đến quãng đời thiên hà ngắn và dữ năng là nơi các ngôi sao cổ có thể phân tán xung
dội. Những thiên hà này va chạm với quanh thiên hà.
nhau để lại các mảnh vỡ cuối cùng đã
sáp nhập vài những thiên hà trông quen “Các mô phỏng của chúng tôi cho thấy các tàn tích
thuộc hơn giống như Dải Ngân hà. khác nhau trong thiên hà ngày nay, kiểu như các
ngôi sao cổ này, liên quan như thế nào với các sự
Các nhà nghiên cứu nói kết quả của họ kiện xảy ra trong quá khứ xa xôi.
ủng hộ cho lí thuyết rằng nhiều ngôi
sao cổ thuộc Dải Ngân hà đã từng thuộc “Giống như vỉa đá cổ tiết lộ lịch sử của Trái đất,
về những thiên hà thay vì là những ngôi quầng bụi sao đóng vai trò là một bản ghi của một
sao đầu tiên ra đời bên trong thiên hà thời kì sơ khai đầy kịch tính trong quãng đời của
của chúng ta khi nó bắt đầu hình thành Dải Ngân hà đã kết thúc từ lâu trước khi Mặt trời
cách nay khoảng 10 tỉ năm trước. ra đời”.
Thuvienvatly.com T r a n g | 17

Các mô phỏng máy tính bắt đầu từ Big Bang, khoảng “Dữ liệu của chúng tôi sẽ giúp các
13 tỉ năm trước, và sử dụng các định luật vạn vật vật nhà quan sát giải mã các trải nghiệm
lí để mô phỏng sự tiến triển của vật chất tối và các và “sự đau đớn” của thiên hà của
ngôi sao. chúng ta theo một cách tương tự như
cách các nhà khảo cổ sử dụng để cho
biết những người La Mã đã sống như
thế nào từ đồ tạo tác mà họ để lại cho
hậu thế”.

Nghiên cứu trên là một phần của Dự


án Aquarius, sử dụng các chương
trình mô phỏng siêu máy tính lớn
nhất để nghiên cứu sự hình thành của
các thiên hà kiểu như Dải Ngân hà.

Aquarius được triển khai bởi Tập


đoàn Virgo, bao gồm các nhà khoa
học đến từ Viện Thiên vật lí vật lí
Max Planck ở Đức, Viện Vũ trụ học
Tính toán tại Đại học Durham ở Anh,
Đại học Victoria ở Canada, Đại học
Mô phòng này thể hiện quầng bụi sao xung quanh Dải Ngân hà Groningen ở Hà Lan, Caltech ở Mĩ,
ngày nay. Ảnh: Andrew Cooper/Đại học Durham và Trieste ở Italy.

Những mô phỏng này là thực tế nhất tính cho đến Các nhà vũ trụ học Durham sẽ trình
nay, có khả năng phóng đại những chi tiết rất tinh vi
bày nghiên cứu của họ trước công
của cấu trúc quầng sao, kể cả “các dòng chảy” sao – chúng là một phần của triển lãm
những ngôi sao đang bị hút từ những thiên hà nhỏ “Nhìn về tương lai” của lễ kỉ niệm
hơn bởi lực hấp dẫn của vật chất tối. thứ 350 Hội Hoàng gia, tổ của tại
Trung tâm Southbank ở London diễn
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Một trong một trăm ngôi sao trong Dải Ngân hà ra cho đến chủ nhật, 04/07.
thuộc về quầng sao, nó lớn hơn cái đĩa xoắn ốc quen
thuộc của thiên hà của chúng ta nhiều lần. Những Nguồn: PhysOrg.com
ngôi sao này già gần như bằng tuổi của Vũ trụ.

Giáo sư Carlos Frenk, Giám đốc Viện Vũ trụ học


Tính toán thuộc Đại học Durham, nói: “Các mô
phỏng trên là một dấu vân tay cho sự hình thành
thiên hà. Chúng thể hiện những manh mối thiết yếu
cho lịch sử sơ khai, dữ dội của Dải Ngân hà nằm trên
ngưỡng cửa thiên hà của chúng ta.
Thuvienvatly.com T r a n g | 18

Trạng thái siêu rắn có thể chỉ là một hiệu ứng dẻo lượng tử
Nó là một trong những thứ kì lạ nhất mà cơ học lượng tử tiên đoán: một chất rắn chảy, giống như ma quỷ,
qua chính nó. Nếu điều đó chưa đủ khiến đầu óc bạn u ám đi, thì các thí nghiệm khẳng định để có “siêu chất
rắn” này thật ra có thể thu được theo một số cách hoàn toàn khác nhau.

“Chúng tôi vẫn không hiểu hiện tượng trên. Nó là cái gì đó mới mẻ”, phát biểu của John Reppy, thuộc
trường Đại học Cornell ở Ithaca, New York, người khẳng định đã thoáng thấy hiệu ứng mới đó, đặt tên là
tính dẻo lượng tử (quantum plasticity).

Trong một chất rắn, các nguyên tử liên kết với nhau trong một mạng lưới đều đặn, giữ cho cấu trúc của
chúng rắn chắc dưới những điều kiện nhất định. Nhưng ở những nhiệt độ nhất định, sự siêu rắn được cho là
xảy ra. Làm lạnh một số chất rắn đến gần không độ tuyệt đối, thì chúng sẽ trở nên không ma sát và chảy
giống như một chất lỏng, trong khi vẫn giữ được cấu trúc mạng của chúng.

Năm 2004, Moses Chan và Eun-Seong Kim, khi đó tại trường Đại học Bang Pennsylvania và Đại học Park,
khẳng định đã tạo ra được một chất siêu rắn bằng cách làm lạnh một bình trụ helium-4 đến sát không độ
tuyệt đối.

Họ đặt bình trụ đó cho nó dao động xung quanh một trục ở giữa – quay một quãng đường ngắn theo một
hướng và sau đó xoắn trở lại theo hướng kia. Khi họ hạ nhiệt độ của helium xuống, Chan và Kim lưu ý thấy
bình trụ dao động chậm đi. Họ giả định đây là do sự giảm tỉ lệ helium rắn đang quay so với bình trụ. Vì ma
sát là nguyên nhân làm cho helium bên trong bình trụ quay khi bình trụ tự quay, nên các nhà nghiên cứu
gán cho sự giảm này một sự giảm ma sát của helium. Họ kết luận rằng hiệu ứng siêu rắn có thể giữ vai trò ở
những nhiệt độ thấp.

Trong khi các kết quả của Chan và Kim được tái dựng lại, thì Reppy cho biết cách giải thích của họ có thể
là sai lầm. Để khảo sát thêm về sự siêu rắn, ông đã thêm một cái màng dẻo lên trên bình trụ để cho phép
ông nén helium, tạo ra “các khiếm khuyết” bổ sung trong cấu trúc mạng của nó. Những thí nghiệm trước đó
gợi ý rằng điều này có thể làm tăng thêm sự siêu rắn, nhưng Reppy nhận thấy không có bằng chứng của
hiệu ứng này.

Ngoài ra, ông nhận thấy khi ông tăng nhiệt độ lên trên 200 mK, thì tần số của dao động giảm đi, mặc dù sự
chuyển tiếp sang trạng thái siêu rắn không được cho là xảy ra ở những nhiệt độ này.

Ông kết luận rằng mối liên hệ giữa nhiệt độ và tần số dao động là một hiệu ứng lượng tử hoàn toàn mới,
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

chứ không phải sự siêu rắn. Hiệu ứng mới này, Reppy nói, xảy ra do các khiếm khuyết cố hữu trong mọi
chất rắn helium-4, làm thay đổi hành trạng của chúng ở những nhiệt độ khác nhau.

Reppy tính được khi nhiệt độ tăng lên, thì các khiếm khuyết trở nên linh động hơn, làm cho cấu trúc của
helium kém rắn chắc hơn. “Sự chao đảo” này làm các dao động chậm đi. Vì nó khác với tính mềm thông
thường và có khả năng là do các hiệu ứng lượng tử gây ra, nên hiện tượng trên được gọi là tính dẻo lượng
tử. “Nó khác với tính dẻo thông thường”, Reppy nói.

Ông không bác bỏ sự tồn tại của tính siêu rắn nhưng ông cho rằng những người nói họ đã trông thấy nó thật
ra có thể họ đã quan sát thấy tính dẻo lượng tử.

Kim, hiện làm việc tại KAIST ở Daejeon, Hàn Quốc, bác bỏ quan điểm cho rằng ông và Chan đã giải thích
sai các kết quả của họ, nhưng ông nhận thấy các kết quả của Reppy thật hấp dẫn.

Nguồn: New Scientist


Thuvienvatly.com T r a n g | 19

NASA công bố 10 bức ảnh ‘lạnh’ về Mặt trăng


Phi thuyền Trinh sát Mặt trăng (LRO) của Một bức ảnh đáng chú ý nữa là ảnh toàn
NASA đã và đang quét qua khắp Mặt trăng cảnh mặt phía bên kia của Mặt trăng. Mặc
trong suốt một năm, và để kỉ niệm sự kiện dù một vài phi thuyền – trong đó có sứ
này, NASA đã soạn ra một bộ 10 bức ảnh mệnh SELENE của Nhật Bản – đã chụp
đặt tên là “những kết quả lạnh lẽo nhìn ảnh thành công mặt phía bên kia của mặt
thấy trong năm đầu tiên hoạt động của trăng, nhưng LRO khảo sát gần hơn vào
LRO”. địa hình của một nửa này của Mặt trăng,
nơi hoàn toàn lảng tránh Trái đất chúng ta.
Sứ mệnh được phóng lên ngày 19 tháng 6 Phía bên này gồ ghề hơn phía ở gần và có
năm 2009 với mục tiêu thu thập một bộ dữ nhiều miệng hố hơn, trong đó có một trong
liệu đa dạng về môi trường mặt trăng. Nó những miệng hố va chạm lớn nhất được
có bảy thiết bị khoa học gắn trên tàu, trong biết trong hệ mặt trời, Lòng chão Cực
đó có một camera có thể lập bản đồ mặt Nam-Aitken.
trăng với độ phân giải khoảng 50 cm.
NASA hi vọng phi thuyền này sẽ giúp “Sứ mệnh trên đã hoạt động rất trơn tru,
chuẩn bị cho một thế hệ mới của những với phi thuyền LRO đang thực thi nhiệm
chuyến thám hiểm dài ngày có con người vụ một cách hoàn hảo và mọi thiết bị đều
trên Mặt trăng. đạt tới giới hạn thành công của chúng”,
phát biểu của Richard Vondrak, nhà khoa
Những bức ảnh lạnh lẽo học dự án LRO tại Trung tâm Du hành Vũ
trụ Goddard của NASA ở Maryland, Hoa
10 bức ảnh chọn lọc bao gồm sự phát hiện Kì.
ra nơi lạnh nhất được biết trong hệ mặt
trời. Diviner, thiết bị nhiệt độ của LRO, đã Ba trong số những bức ảnh này là di tích từ
xác định địa điểm đáy của miệng hố cuộc chạy đua vào không gian. Ở phía Mĩ,
Hermite của Mặt trăng và đo được nhiệt độ các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra những
là –248 °C, lạnh hơn 64° so với trên bề mặt bước chân đầu tiên mà Neil Armstrong và
của Diêm vương tinh (kỉ lục nhiệt độ trước Buzz Aldrin đã đi và lộ trình mà các nhà du
đây). hành Apollo 14 đã di chuyển đến bờ mép
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

của một miệng hố hình nón. Ở phía Nga,


LRO đã nhận ra một rô bôt của Nga đã di
chuyển 10 km trên bề mặt chị Hằng trước
khi nó mất liên lạc hồi tháng 9 năm 1971.

Những bức ảnh đầy cảm hứng

“Tôi thiết nghĩ những bức ảnh này cuối cùng sẽ thuyết phục được các nhà lí thuyết hoài nghi,
những người khẳng định rằng các sứ mệnh Apollo là chuyện bịa đặt, nhưng tôi cho rằng rồi họ
sẽ chỉ nói các bức ảnh LRO là bịa đặt nốt thôi – các bạn không thể giành phần thắng đâu”,
Marek Kukula, một nhà thiên văn tại Đài thiên văn hoàng gia Greenwich ở nước Anh phát
biểu.

Kukula tin rằng tất cả các cơ quan vũ trụ đều hiểu rõ nhu cầu cần phổ biến các khám phá của
họ trước công chúng. “Trước hết, họ được tài trợ công khai nên họ phải có trách nhiệm cho
những người nộp thuế biết cái họ đã làm với số tiền của người ta”, ông nói. “Và sự hứng thú
Thuvienvatly.com T r a n g | 20

và mạo hiểm của các sứ mệnh vũ trụ có vai trò quan trọng đối với việc truyền cảm hứng cho
thế hệ trẻ chọn lấy sự nghiệp khoa học và kĩ thuật”.

LRO hoàn tất một năm sứ mệnh khảo sát của nó vào tháng 9 tới, khi đó nó sẽ bắt đầu một sứ
mệnh khoa học hai năm. Vondrak cho biết đội của ông có kế hoạch điều khiển phi thuyền một
cách chặt chẽ hơn với hi vọng thu được những bức ảnh độc đáo hơn của các đặc điểm địa chất
của Mặt trăng và thu được nhiều thông tin hơn về khí quyển của Mặt trăng.

Nơi lạnh nhất trong hệ mặt trời (Ảnh: NASA/Goddard/Đại học California, Los Angeles)
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Những bước chân đầu tiên của các nhà du hành vũ trụ trên Mặt trăng
(Ảnh: NASA/Goddard/Đại học Bang Arizona)
Thuvienvatly.com T r a n g | 21

Apollo 14 nằm gần bờ mép của một miệng hố hình nón (Ảnh NASA/Goddard/Đại học Bang Arizona)
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Thiết bị rô bôt bị thất lạc của Nga đã được tìm thấy (Ảnh: NASA/Goddard/Đại học Bang Arizona)

Phía bên kia của Mặt trăng (Ảnh: NASA/Goddard)


Thuvienvatly.com T r a n g | 22

Đếm số lượng miệng hố và đá lăn (Ảnh: NASA/Goddard/Đại học Bang Arizona)


Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Các ngọn núi trên Mặt trăng (Ảnh: NASA/Goddard/Đại học bang Arizona)

Suối Mặt trăng: những con rãnh bí ẩn trên Mặt trăng (Ảnh: NASA/JHUAPL/LS)
Thuvienvatly.com T r a n g | 23

Hang động Mặt trăng (Ảnh: NASA/Goddard/Đại học Bang Arizona)


Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Các khu vực gần nơi ánh sáng mặt trời không đổi tại cực nam (Ảnh: NASA/Goddard)

Nguồn: physicsworld.com
Thuvienvatly.com T r a n g | 24

Bản chất của tia vũ trụ là các hạt proton

Tia vũ trụ là gồm các hạt proton – đó là


kết quả mà các nhà khoa học vừa tìm
thấy khi họ sử dụng một ma trận lớn
gồm nhiều kính thiên văn bố trí trên
khắp sa mạc Utah ở Mĩ. Mỗi chiếc kính
thiên văn trong ‘dàn trận’ 67 đơn vị
ngắm bầu trời với một con mắt đa diện.
Cho nên chẳng có gì ngạc nhiên khi các
nhà khoa học gọi nó là Mắt Ruồi.

Các nhà khoa học tại máy dò Mắt Ruồi


Phân giải Cao, tên gọi tắt là HiRes, đặt
trong sa mạc Utah, đã xác định được
các thành phần tích điện dương tìm
thấy tại trung tâm của mỗi nguyên tử là
cái cấu thành nên tia vũ trụ. Trước đây,
họ đã không đảm bảo rằng các tia năng
lượng cao đó không phải là cái gì đó
Tia vũ trụ, có nguồn gốc bên ngoài Dải Ngân hà của chúng ta, nặng hơn, thí dụ như hạt nhân của một
bắn phá vào bầu khí quyển của chúng ta, trong đó chúng gây nguyên tử sắt.
ra một cơn mưa hạt sơ cấp. Ảnh: NASA
Các tia vũ trụ, có nguồn gốc từ bên ngoài Dải Ngân hà của chúng ta, bắn phá vào bầu khí
quyển của chúng ta, trong đó chúng gây ra một cơn mưa hạt sơ cấp. Những hạt này làm cho
các phân tử nitrogen trong không khí hơi lóe sáng. Năng lượng của lóe sáng đó được ghi lại
trong các máy dò quang nhạy gắn trên các kính thiên văn. Các hạt đó tạo ra một hình ảnh dạng
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

nón và một nhánh năng lượng đặc trưng trong các máy dò.

Các tia vũ trụ có năng lượng có thể cao hơn nhiều so với bất cứ thứ gì mà các nhà vật lí tạo ra
được. HiRes khảo sát thành phần của các tia vũ trụ với năng lượng lớn hơn một triệu lần năng
lượng tạo ra trên Trái đất, thí dụ như trong máy gia tốc tại Máy Va chạm Hadron Lớn.

Máy dò HiRes còn có thể xác định cả hướng của tia vũ trụ đến. John Belz, một thành viện đội
nghiên cứu ở trường Đại học Utah, cho biết việc thiết lập hai bộ kính thiên văn mang lại “cái
nhìn” nổi lập thể cần thiết để theo vết quỹ đạo đến của các tia vũ trụ. Hai ma trận kính thiên
văn, mỗi ‘đội’ chiếm diện tích vài acre, cách nhau khoảng 7 dặm. Nguồn gốc của tia đến có
thể định vị đến một vùng to cỡ bằng mặt trăng tròn.

Các nhà thực nghiệm đã giữ số liệu trong vài năm từ tháng 5/1997 đến tháng 4/2006 và gần
đây mới công bố công trình của họ trên tạp chí Physical Review Letters.

Nguồn: PhysOrg.com
Thuvienvatly.com T r a n g | 25

5 kỉ lục của phi thuyền thám hiểm vũ trụ


Theo các tiêu chuẩn của phi thuyền vũ trụ, Voyager 2 là một vận động viên cừ khôi.
Hôm 28 tháng 6 rồi, phi thuyền vũ trụ hoạt động lâu nhất này đã vượt qua ngưỡng 12.000
ngày – gần 33 năm – trong vũ trụ. Nhưng nó không phải là phi thuyền duy nhất từng lập kỉ lục
trong ngành du hành vũ trụ. Dưới đây, chúng tôi giới thiệu sơ lược 5 kỉ lục mà các phi thuyền
đã lập được tính cho đến nay.
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Hoạt động lâu nhất: Voyager 2


Các tàu thám hiểm Voyager 1 và 2 của NASA được phóng lên theo trình từ ngược, nên
Voyager 2 thật ra lớn tuổi hơn. Nó bay vào vũ trụ hôm 20/08/1977, 16 ngày trước người anh
em song sinh của nó, và đã thăm viếng qua Mộc tinh, Thổ tinh, Thiên vương tinh và Hải
vương tinh.
Nó tiếp tục gửi về các số liệu đo của gió mặt trời khi nó đang đi qua ranh giới của hệ
mặt trời tiến ra không gian giữa các sao.
Nguồn năng lượng phóng xạ của nso sẽ giữ nó hoạt động cho đến khoảng năm 2025,
lúc ấy nó sẽ 48 tuổi.
(Ảnh: NASA / JPL-Caltech)
Thuvienvatly.com T r a n g | 26

Nhanh nhất: Helios-B


Sứ mệnh hợp tác Đức-Mĩ, Helios-B, còn gọi là Helios02, là phi thuyền thứ hai trong số
hai con tàu vũ trụ đã nghiên cứu mặt trời.
Nó giữ kỉ lục tốc độ nhanh nhất từng thu được với một phi thuyền vũ trụ. Trong lần
tiếp cận gần với mặt trời vào năm 1976, nó đã đạt tới tốc độ hơn 250.000 km/h so với ngôi sao
mẹ của chúng ta.
Ảnh trên là một nguyên mẫu của con tàu.
(Ảnh: NASA/Trung tâm Vũ trụ Kennedy)
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Nhìn sắc nét nhất: Tàu Trinh sát sao Hỏa


Bức ảnh này được chụp bởi Thí nghiệm Chụp ảnh Khoa học Phân giải Cao (HiRISE)
trên Tàu Trinh sát sao Hỏa của NASA: camera mạnh nhất từng gửi lên một vật thể khác trong
hệ mặt trời.
Thuvienvatly.com T r a n g | 27

HiRISE có thể phân biệt những chi tiết nhỏ cỡ 1 mét, và thậm chí có thể chụp ảnh
những chi tiết khác nhau của các cỗ xe rô bôt sao Hỏa từ trên quỹ đạo.
(Ảnh: NASA / JPL / Đại học Arizona)

Thiết bị tiếp đất hoạt động lâu nhất: Opportunity


Thiết bị Opportunity của NASA tiếp đất sao Hỏa hôm 25/01/2004 và vẫn hoạt động
trong hơn 6 năm 5 tháng sau đó, vượt quá thời gian sống thiết kế của nó đúng 90 ngày.
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Người anh em song sinh của nó, Spirit, tiếp đất sớm hơn ba tuần, nhưng đã không còn
nghe nói tới kể từ tháng 3 rồi, khi ánh sáng mặt trời hạn chế của mùa đông đã bỏ đói các tấm
thu năng lượng mặt trời của nó và buộc nó đi vào ngủ đông.
Nếu nó thức giấc trở lại, nó sẽ giành kỉ lục thiết bị tiếp đất hoạt động lâu nhất của Opportunity.
(Ảnh: Sứ mệnh Tàu Thám hiểm sao Hỏa, Cornell, JPL, NASA)
Thuvienvatly.com T r a n g | 28

Đi xa nhất: Voyager 1
Mặc dù Voyager 2 xuất phát trước hai tuần, nhưng Voyager 1 là tàu vũ trụ đi nhanh
hơn trong cặp đôi song sinh này, cho nên nó đã đi quãng đường xa hơn.
Hiện nay, nó ở nơi cách xa mặt trời gấp 114 lần khoảng cách từ Trái đất đến mặt trời, vượt
ngoài khoảng cách trung bình 39 lần khoảng cách Trái đất- mặt trời của Diêm vương tinh.
Voyager 1 được kì vọng đi vào không gian giữa các sao trong khoảng 5 năm, thoát ra
khỏi cái bọt khổng lồ bao xung quanh mặt trời, còn gọi là nhật quyển, do gió mặt trời tạo ra.
(Ảnh: NASA)
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Nguồn: New Scientist


Thuvienvatly.com T r a n g | 29

Những ngôi sao đầu tiên ra đời như thế nào


Lúc bắt đầu, đã có hydrogen và helium. Được tạo ra trong ba phút đầu tiên sau Big
Bang, những nguyên tố này làm phát sinh ra tất cả các nguyên tố khác trong vũ trụ. Các vì sao
là những phân xưởng thực hiện công việc này. Qua sự nhiệt hạch hạt nhân, các ngôi sao đã tạo
ra các nguyên tố như carbon, oxygen, magnesium, silicon và các chất liệu thô khác cần thiết
cho việc sản xuất các hành tinh và cuối cùng là sự sống.

Một mô hình do máy tính tạo ra thể hiện ngôi sao


đầu tiên trông như thế nào. Ảnh: Ralf Kaehler và
Tom Abel

Nhưng những ngôi sao đầu tiên đó trông như thế nào? Nghiên cứu mới từ trường Đại
học Columbia cho biết toàn bộ mấu chốt của vấn đề là phản ứng đơn giản sau đây:

H- + H --> H2 + electron

“Để theo dõi chuỗi sự kiện giải thích làm thế nào chúng ta có mặt ở đây, chúng ta cần
phải tìm hiểu sự bắt đầu đó”, phát biểu của Daniel Wolf Savin, một nhà nghiên cứu tại Phòng
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

thí nghiệm Thiên văn vật lí thuộc Đại học Columbia. Công trình của Savin và các cộng sự của
ông đã công bố trong số ra ngày 02/07 của tạp chí Science.

Nghiên cứu của Savin mô tả chi tiết một phản ứng hóa học chủ chốt xảy ra trong vũ trụ
khoảng một triệu năm sau Big Bang. Phản ứng đó, gọi là sự phân li kết hợp, cho phép các đám
mây trong vũ trụ nguội đi, đặc lại và hình thành nên những ngôi sao đầu tiên.

“Để tìm hiểu những ngôi sao đầu tiên đã hình thành như thế nào, chúng ta cần phải biết
các đám mây mang lại sự ra đời của chúng đã nguội đi như thế nào. Hydrogen phân tử (H2)
phát bức xạ nhiệt ra khỏi các đám mây, nên chúng ta cần phải biết có bao nhiêu H2 trong đám
mây. Điều này hóa ra đòi hỏi phải tìm hiểu quá trình hóa học mà qua đó H2 hình thành. Đó là
cái chúng tôi đã đo được”, Savin nói.

H2 được hình thành khi hai nguyên tử hydrogen đến gần nhau và liên kết với nhau để
tạo ra một phân tử. Nhóm của Savin đã đo được xác suất này. Các kết quả của ông cho thấy
khả năng cho điều này xảy ra cao hơn các tính toán lí thuyết và thí nghiệm trước đây chỉ ra.
Thuvienvatly.com T r a n g | 30

“Sai số trước đây ở phản ứng này làm hạn chế khả năng của chúng ta dự đoán xem một
đám mây khí có hình thành nên một ngôi sao hay không, và nếu cò thì khối lượng của ngôi sao
đó sẽ là bao nhiêu”, Savin nói. “Đó là một cái quan trọng cần định lượng, vì khối lượng của
một ngôi sao xác định các nguyên tố nó sẽ tổng hợp ra”.

Khối lượng theo dự đoán của những ngôi sao đầu tiên phụ thuộc vào các điều kiện ban
đầu của những đám mây nguyên thủy mà chúng hình thành từ đó. Những điều kiện này rất
không xác định và vẫn là một lĩnh vực nghiên cứu sôi nổi. Bằng cách so sánh các dự đoán mô
hình với các quan sát vũ trụ, các nhà thiên văn có thể phỏng đoán rằng những điều kiện ban
đầu này phải là gì. Nhưng độ chính xác của những ước đoán này phụ thuộc nhiều vào kiến
thức của chúng ta về các phản ứng hóa học cơ sở, đặc biệt là những phản ứng mà Savin và
nhóm của ông đã đo. Với dữ liệu mới có trong tay, các nhà vũ trụ học sẽ có thể xác định tốt
hơn xem những điều kiện ban đầu gì trong vũ trụ sơ khai dẫn tới sự hình thành của những ngôi
sao đầu tiên.

Nguồn: PhysOrg.com
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010
Thuvienvatly.com T r a n g | 31

Bí ẩn sao siêu mới đã được giải


Sao siêu mới là những vụ nổ sao khủng khiếp
có thể nhìn thấy trong khắp vũ trụ. Sao siêu
mới loại Ia là một loại vụ nổ sao tương đối
đồng đều, nên các nhà nghiên cứu sử dụng
chúng làm “ngọn nến chuẩn” để quan sát sự
tăng tốc giãn nở của vũ trụ. Tuy nhiên, lâu
nay người ta biết rằng chúng biểu hiện sự
biến thiên đáng kể trong phổ của chúng và
nguồn gốc của những khác biệt đó vẫn chưa
được hiểu rõ.

Hiện nay, các nhà khoa học ở Viện Niels


Bohr, đã giải được bí ẩn trên. Họ đã chứng
minh rằng các sao siêu mới đang bùng nổ phi
Minh họa cấu trúc của một sao siêu mới Ia. Tro tàn của đối xứng và sự khác biệt diện mạo của chúng
những pha đầu tiên của vụ nổ, ngay khi kích ngòi (màu đơn giản là do hướng chúng ta quan sát
vàng), lệch so với tâm của vật chất phóng vọt ra. Tùy chúng. Các kết quả trên được công bố trên
thuộc vào nơi chúng ta quan sát sao siêu mới, nó sẽ có
những tính chất phổ khác nhau.
tạp chí khoa học Nature.

Sao siêu mới loại Ia giữ một vai trò quan


trọng trong vũ trụ học vì chúng có thể dùng
để đo khả năng trong vũ trụ. Mặc dù chúng
không phải là những ‘ngọn nến chuẩn’ hoàn
hảo (độ sáng của chúng có thể biến thiên lên
tới 50%), nhưng chúng vẫn có thể làm chuẩn
dựa trên kiến thức rằng các sao siêu mới sáng
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

nhất mờ đi chậm hơn, còn các sao sáng yếu


hơn thì mờ đi nhanh hơn.

Hiện nay, có một sự nhất trí rộng rãi là tính


tương đối đồng nhất của các sao siêu mới loại
Ia là do chúng có cùng nguồn gốc, đó là một
sao lùn trắng trong một hệ sao đôi, trong đó
hai ngôi sao quay tròn xung quanh nhau. Sao
lùn trắng là loại sao mà mặt trời của chúng ta
sẽ trở thành như vậy lúc kết thúc cuộc đời
của nó khi nó đã cạn kiệt hydrogen. Sao lùn
trắng đó hấp thụ vật chất tuôn ra từ ngôi sao
đồng hành của nó và khi nó đạt tới 1,4 lần
khối lượng mặt trời thì nó nổ thành một sao
siêu mới.
Thuvienvatly.com T r a n g | 32

Tuy nhiên, câu chuyện thật sự xảy ra thì phức tạp hơn. Các sao siêu mới mờ đi theo kiểu giống
nhau có thể biểu hiện hành trạng hơi khác nhau ở mức độ nhanh mà vật chất đang giãn nở của
chúng dần chậm lại (cái gọi là gradient vận tốc). Thực tế này đã làm tăng thêm các nghi ngờ
về việc các sao siêu mới loại Ia có thể dùng làm những ngọn nến chuẩn vũ trụ hay không.

“Và với các nghiên cứu chi tiết mới, hiện nay chúng tôi chỉ ra được rằng gradient vận tốc đó
liên hệ chặt chẽ với các sao siêu mới đang bùng nổ phi đối xứng này”, theo nhà thiên văn vật lí
Jesper Sollerman làm việc tại Trung tâm Vũ trụ Tối thuộc Viện Niels Bohr ở Đại học
Copenhagen.

Các nghiên cứu mới của một đội khoa học quốc tế bao gồm Keiichi Maeda, Đại học Tokyo, và
Giorgos Leloudas, Jesper Sollerman và Max Stritzinger ở Trung tâm Vũ trụ Tối đã chứng tỏ
rằng gradient vận tốc đó liên hệ chặt chẽ với một đặc điểm phi đối xứng của các vụ nổ của các
sao siêu mới này.

“Cái chúng tôi có thể thấy là bản chất biến thiên của các sao siêu mới có thể giải thích bởi một
vụ nổ bất đối xứng, trong đó sự kích ngòi xảy ra từ chính giữa lan ra ngoài. Cho nên, những
diện mạo khác nhau của các sao siêu mới đơn giản là phụ thuộc vào điểm nhìn mà chúng được
quan sát”, Giorgos Leloudas giải thích.

Trong khi đã có các dấu hiệu từ những quan sát trước đây của sao siêu mới loại Ia là chúng có
thể phát nổ phi đối xứng, nhưng đây là lần đầu tiên nó được chứng minh một cách thuyết phục
bởi các nghiên cứu thực nghiệm khảo sát các vùng lõi sao siêu mới. Các nhà nghiên cứu đã
quan sát các sao siêu mới trong những giai đoạn muộn, nơi người ta có thể nhìn sâu vào phần
bên trong của chúng và điều này xác nhận rằng chúng thật sự phát nổ phi đối xứng.

“Ngoài việc cho chúng ta cái nhìn sâu sắc mới vào cách thức những ngôi sao này phát nô và
giải được bài toán đi cùng với những diện mạo khác nhau của chúng, các kết quả trên còn là
tin tức tốt lành cho việc sử dụng sao siêu mới làm ngọn nến chuẩn. Nếu chúng ta quan sát đủ
số lượng sao siêu mới, thì các sai lệch khỏi những góc đó sẽ bị san bằng”, kết luận của ba nhà
nghiên cứu ở Viện Niels Bohr: Giorgos Leloudas, Jesper Sollerman và Max Stritzinger.
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Nguồn: PhysOrg.com
Thuvienvatly.com T r a n g | 33

Vệ tinh Planck công bố bản đồ toàn vũ trụ đầu tiên

Hình ảnh sáng sủa hơn của quá khứ: bầu trời vi sóng do phi thuyền Planck cung cấp. Ảnh: ESA

Sứ mệnh Planck của Cơ quan Vũ trụ châu Âu (ESA) vừa công bố bản đồ toàn vũ trụ
đầu tiên của nó. Ảnh trên thể hiện phông nền vi sóng vũ trụ (CMB) với độ phân giải cao nhất
từ trước đến nay và nó có thể hỗ trợ các nhà vũ trụ học phát triển một bức tranh sáng sủa hơn
nhiều của vũ trụ thời sơ khai.
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

“Đây là thời khắc mà người ta trông đợi ở Planck”, phát biểu của David Southwood,
giám đốc khoa học và thám hiểm bằng rô bôt của ESA. “Chúng ta đang mở ra cánh cổng bước
sang vương quốc Eldorado, nơi các nhà khoa học có thể gieo mầm các mỏ vàng sẽ đưa đến sự
hiểu biết sâu sắc hơn về lai lịch của vũ trụ của chúng ta và nó hoạt động như thế nào hiện
nay”.

Sứ mệnh Planck được phóng lên quỹ đạo hồi tháng 5/2009 với mục tiêu chính là lập
bản đồ CMB, bức xạ nguyên thủy sinh ra khoảng 375.000 năm sau Big Bang. Những biến
thiên nhỏ trong nhiệt độ của CMB được tin là phản ánh các thăng giáng trong vũ trụ sơ khai từ
cái mà những cấu trúc lớn như thiên hà sau này sẽ phát triển thành.

CMB ban đầu được phát hiện ra vào những năm 1960 và nghiên cứu CMB trong thập
niên 1990 sử dụng vệ tinh Tàu khảo sát Nền Vi sóng (COBE) của NASA đã mang về cho
George Smoot và John Mather giải thưởng Nobel vật lí năm 2006.
Thuvienvatly.com T r a n g | 34

Các phân cực cổ

Năm 2003, khảo sát toàn bầu trời đầu tiên của CMB đã được tạo ra bởi Tàu khảo sát
Vi sóng Phi đẳng hứng Wilkinson (WMAP) của NASA. Ngoài nhiệt độ, WMAP còn đo độ
phân cực của các photon vi sóng cổ - cung cấp thêm thông tin về vũ trụ sơ khai.

Người ta trông đợi sứ mệnh Planck đã qua mặt WMAP phát hiện ra một loại phân cực
cho đến nay chưa quan sát được gọi là “mốt B”, cái được tin là có niêm đại từ thời kì lạm phát
và được xác định bởi mật độ của các sóng hấp dẫn nguyên thủy.

Hình ảnh vừa công bố là thành quả của sáu tháng thu thập dữ liệu, và ESA hi vọng
công bố bản phân tích khoa học đầu tiên của bức ảnh trên trong vòng hai năm tới.

“Bức ảnh đầu tiên này là bằng chứng cho thấy các thiết bị đang hoạt động hoàn hảo”,
theo lời Nazzareno Mandolesi thuộc Viện Thiên văn học vật lí quốc gia Italy (INAF), phát
biểu tại Diễn đàn Mở Khoa học châu Âu ở Turin, Italy. “Chúng ta có thể nói chỉ 15 ngày
Planck là tốt hơn nhiều so với 5 năm WMAP”, ông nói.

Một trong những mục tiêu khoa học chính của sứ mệnh Plack là nghiên cứu cái xảy ra
trong thời kì lạm phát không bao lâu sau Big Bang, khi vũ trụ giãn nở 1028 lần trong vòng chỉ
10-36 giây. Quá trình này là cần thiết trong tất cả các mô hình chính thống hiện nay của vũ trụ,
nhưng chi tiết sự giãn nở đó vẫn còn gây tranh cãi. “Dữ liệu Planck sẽ mang lại cho chúng ta
phép kiểm tra thực tế đầu tiên của các mô hình lạm phát”, Norma Sanchez, một nhà vật lí học
tại Đài thiên văn Paris, phát biểu tại Turin.

Nguồn: physicsworld.com
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010
Thuvienvatly.com T r a n g | 35

Lỗ đen thổi bong bóng


Kết hợp các quan sát thực hiện với Kính thiên văn Rất Lớn của ESO và kính thiên văn
tia X Chandra của NASA, các nhà thiên văn vừa vén màn cặp đôi vòi vật chất mạnh nhất từng
thấy từ một lỗ đen dạng sao. Vật thể này, còn gọi là micro quasar, thổi ra một cái bong bóng
khổng lồ chất khí nóng, bề năng 1000 năm ánh sáng, lớn gấp đôi và mạnh hơn hàng chục lần
so với các micro quasar khác. Khám phá trên được báo cáo trên tạp chí Nature, số ra tuần này.

Lỗ đen đang thổi bong bong khí. Ảnh: ESO/L. Calçada

“Chúng tôi thật bất ngờ bởi lượng năng lượng mà lỗ đen đưa vào trong khối khí ấy”,
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

tác giả đầu nhóm Manfred Pakull nói. “Lỗ đen này có khối lượng chỉ vài lần mặt trời, nhưng là
một phiên bản thu nhỏ thật sự của các quasar và thiên và vô tuyến mạnh nhất, nơi chứa các lỗ
đen có khối lượng bằng vài triệu lần Mặt trời”.

Được biết các lỗ đen giải phỏng một lượng năng lượng khủng khiếp khi chúng nuốt lấy
vật chất. Người ta nghĩ đa phần năng lượng đó giải phóng ở dạng bức xạ, chủ yếu là tia X. Tuy
nhiên, những kết quả mới cho thấy một số lỗ đen có thể giải phóng nhiều năng lượng, và có lẽ
còn nhiều hơn, ở dạng các vòi vật chất chuyển động nhanh phun thẳng ra ngoài. Những dòng
vật chất tốc độ cao đó xuyên vào khối khí giữa các sao ở xung quanh, làm nó nóng lên và kích
hoạt một sự giãn nở. Cái bong bóng phồng lên đó chứa một hỗn hợp chất khí nóng và các hạt
cực nhanh ở những nhiệt độ khác nhau. Các quan sát trong một vài dải năng lượng (quang
học, vô tuyến, tia X) giúp các nhà thiên văn học tính ra tốc độ toàn phần tại đó lỗ đen đang
làm nóng môi trường xung quanh nó.
Thuvienvatly.com T r a n g | 36

Các nhà thiên văn có thể quan sát các đốm nơi các dòng vật chất lao vào chất khí giữa
các sao nằm xung quanh lỗ đen, và phát hiện thấy cái bọt khí nóng đang phồng lên ở tốc độ
gần một triệu km/h.

“Chiều dài của các dòng vật chất trong NGC 7793 thật bất ngờ, so với kích thước của
lỗ đen từ đó chúng được giải phóng ra”, đồng tác giả Robert Soria nói. “Nếu lỗ đen đó co lại
đến kích thước của một quả bóng đá, thì mỗi dòng vật chất sẽ trải rộng từ Trái đất đến vượt
khỏi quỹ đạo của Diêm vương tinh”.

Cho đến nay, các nhà thiên văn vẫn chưa có phương tiện gì để đo kích thước của bản
thân lỗ đen. Lỗ đen dạng sao nhỏ nhất đã phát hiện tính cho đến nay có bán kính khoảng 15
km. Một lỗ đen dạng sao trung bình khoảng 10 lần khối mặt trời có bán kính chừng 30 km,
còn một lỗ đen dạng sao “cỡ bự” có lẽ có bán kính lên tới 300 km. Giá trị này vẫn nhỏ hơn
nhiều so với các dòng vật chất, chúng kéo dài từ vài trăm năm ánh sáng ở mỗi phía của lỗ đen,
hoặc khoảng vài nghìn triệu triệu km.

Nghiên cứu này sẽ giúp các nhà thiên văn học tìm hiểu sự tương đồng giữa những lỗ
đen nhỏ hình thành từ các ngôi sao bùng nổ và các lỗ đen siêu khối lượng tại tâm của các thiên
hà. Các dòng vật chất năng lượng rất cao đã được nhìn thấy phát ra từ những lỗ đen siêu khối
lượng, nhưng được cho là kém thường xuyên hơn ở dạng micro quasar nhỏ hơn. Khám phá
mới đề xuất rằng phần nhiều trong số chúng có thể đơn giản là không được chú ý tới từ trước
đến nay.

Lỗ đen thổi bong bóng khí ở trên nằm cách xa chúng ta 12 triệu năm ánh sáng, trong
vùng ngoài của thiên hà xoắn ốc NGC 7793. Từ kích thước và tốc độ giãn nở của cái bóng
khsi, các nhà thiên văn tìm thấy hoạt động của dòng vật chất đó đã diễn ra ít nhất là 200 000
năm.

Nguồn: PhysOrg.com
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010
Thuvienvatly.com T r a n g | 37

Nguồn gốc của các vụ nổ vũ trụ vẫn là một bí ẩn


Khi một ngôi sao phát nổ dưới dạng sao siêu mới, nó tỏa sáng đến mức có thể trông
thấy nó từ khoảng cách hàng triệu năm ánh sáng. Một loại sao siêu mới đặc biệt – Loại Ia –
sáng lên và mờ đi một cách dễ ước đoán nên các nhà thiên văn sử dụng chúng để đo sự giãn
nở của vũ trụ. Khám phá thu được về năng lượng tối và vũ trụ đang gia tốc đã viết lại kho kiến
thức của chúng ta về vũ trụ. Nhưng nguồn gốc của những sao siêu mới này, cái đã được chứng
minh khá hữu dụng, vẫn là một ẩn số.
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Ảnh chụp qua kính thiên văn Hubble này cho thấy Thiên hà Pinwheel (M101), một trong những thí dụ được biết
tới nhiều nhất của các thiên hà xoắn ốc lớn, và các vùng đang hình thành sao của nó với sự chi tiết không có tiền
lệ. Các nhà thiên văn đã tìm kiếm các thiên hà như thế này trong một cuộc săn tìm các thủy tổ của sao siêu mới
Loại Ia, nhưng tìm kiếm của họ đa số hóa ra là trắng tay. Ảnh: NASA/ESA

“Câu hỏi cái gì gây ra một sao siêu mới Loại Ia là một trong những bí ẩn lớn chưa
được giải trong ngành thiên văn học”, theo Rosanne Di Stefano thuộc Trung tâm Thiên văn
vật lí Harvard-Smithsonian (CfA).

Các nhà thiên văn đã có bằng chứng rất mạnh mẽ cho thấy sao siêu mới Loại Ia phát
sinh từ các tàn dư sao bùng nổ gọi là các sao lùn trắng. Để phát nổ, sao lùn trắng đó phải thu
đủ khối lượng cho đến khi nó đạt tới một điểm tới hạn và không còn tự kiềm nén được nữa.

Có hai kịch bản hàng đầu cho giai đoạn trung gian từ sau lùn trắng ổn định sang sao
siêu mới, cả hai kịch bản đều yêu cầu có một sao đồng hành. Trong khả năng thứ nhất, một
sao lùn trắng nuốt lấy chất khí thổi ra từ một ngôi sao láng giềng khổng lồ. Trong khả năng
Thuvienvatly.com T r a n g | 38

thứ hai, hai sau lùn trắng va chạm nhau và hợp làm một. Để xác lập xem khả năng nào đúng
(hay ít nhất là phổ biến hơn), các nhà thiên văn đi tìm bằng chứng của những hệ sao đôi này.

Biết được tỉ lệ trung bình của các sao siêu mới, các nhà khoa học có thể ước tính phải
có bao nhiêu sao lùn trắng tiền sao siêu mới tồn tại trong một thiên hà. Nhưng việc tìm kiếm
những ‘cụ tổ’ này hóa ra đa phần là trắng tay.

Để săn tìm các sao lùn trắng đang bồi tụ vật chất, các nhà thiên văn tìm kiếm các tia X
thuộc một năng lượng đặc biệt, sinh ra khi chất khí va chạm với bề mặt sao trải qua sự nhiệt
hạch hạt nhân. Một thiên hà tiêu biểu phải chứa hàng trăm nguồn tia X “siêu mềm” như vậy.
Thay vì thế, chúng ta lại chỉ thấy có một ít thôi. Kết quả là một bài báo mới đây đề xuất rằng
khả năng thứ hai, kịch bản hợp nhất, là nguồn gốc của sao siêu mới Loại Ia, ít nhất là trong
nhiều thiên hà.

Kết luận đó dựa trên một giả định rằng các sao lùn trắng đang bồi tụ vật chất sẽ xuất
hiện dưới dạng các nguồn tia X siêu mềm khi vật chất rơi vào chịu sự nhiệt hạch hạt nhân. Di
Stefano và các cộng sự của bà thì cho rằng dữ liệu hiện nay không ủng hộ cho giả thuyết này.
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Trong ảnh chụp âm bản này này của Thiên hà Pinwheel (M101), các ô vuông màu đỏ đánh dấu vị trí các nguồn
tia X “siêu mềm”. Thiên hà Pinwheel phải chứa hàng trăm sao lùn trắng đang bồi tụ vật chất trên đó sự nhiệt hạch
hạt nhân đang xảy ra, tạo ra vô khối tia X. Nhưng chúng ta chỉ mới phát hiện ra vài tá nguồn tia X siêu mềm thôi.
Điều này có nghĩa là chúng ta phải nghĩ ra những phương pháp mới để tìm kiếm các thủy tổ hay lảng tránh của
các sao siêu mới Loại Ia. Ảnh: R. Di Stefano (CfA)

Trong một bài báo mới, Di Stefano đưa vấn đề tiến thêm một bước nữa. Bà trình bày
rằng một sao siêu mới do sự hợp nhất mang lại cũng sẽ đi trước một thời kì trong đó một sao
Thuvienvatly.com T r a n g | 39

lùn trắng bồi tụ vật chất chịu sự nhiệt hạch hạt nhân. Các sao lùn trắng được tạo ra khi các
ngôi sao già đi, và các ngôi sao khác nhau gì đi ở những tốc độ khác nhau. Bất kì một hệ đôi
sao lùn trắng khắng khít nào cũng sẽ trải qua một pha trong đó sao lùn trắng hình thành trước
thu lấy và đốt cháy vật chất từ kẻ đồng hành già đi chậm hơn của nó. Nếu các sao lùn trắng
này tạo ra tia X, thì chúng ta sẽ tìm thấy nhiều nguồn tia X siêu mềm hơn chừng một trăm lần
so với hiện nay.

Vì cả hai kịch bản – vụ nổ do sự bồi tụ và vụ nổ do sự hợp nhất – đều liên quan đến sự
bồi tụ và hợp nhất đồng thời, nên việc thiếu các nguồn tia X siêu mềm dường như bác bỏ cả
hai loại thủy tổ trên. Một lời giải khác do Di Stefano đề xuất là các sao lùn trắng không tỏa
sáng ở những bước sóng tia X trong những khoảng thời gian dài. Có lẽ vật chất xung quanh
một sao lùn trắng có thể hấp thụ tia X, hoặc các sao lùn trắng đang bồi tụ vật chất có lẽ phát ra
phần lớn năng lượng của chúng ở những bước sóng khác.

Nếu đây là lời giải thích đúng, Di Stefano nói, thì “chúng ta phải nghĩ ra những
phương pháp mới tìm kiếm các thủy tổ hay lảng tránh của các sao siêu mới Loại Ia”.

Nguồn: PhysOrg.com
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010
Thuvienvatly.com T r a n g | 40

Mỗi thiên hà có thể ẩn chứa 10.000 nền văn minh?

Ảnh minh họa từng đĩa vô tuyến hợp thành SKA. (ẢnhL SKA)

Chiếc kính thiên văn vô tuyến lớn nhất từng xây dựng trên mặt đất sẽ chật vật lắng
nghe các nền văn minh ngoài địa cầu giống như nền văn minh của chúng ta, theo hai nhà
nghiên cứu hiện đang sống và làm việc ở Anh. Các tính toán của họ đề xuất rằng khi Ma trận
Km Vuông (SKA) bắt đầu hoạt động vào năm 2022, nó sẽ khó phân biệt các tín hiệu vô tuyến
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

phát đi từ những nền văn minh ngoài trái đất với công nghệ kiểu trái đất. Kết quả là một bằng
chứng thêm nữa cho thấy các nhà khoa học phải chọn một phương pháp đa ngành để săn tìm
sự sống thông minh không chỉ dựa việc dò tìm các tín hiệu vô tuyến.

Chương trình Tìm kiếm Trí thông minh Ngoài địa cầu (SETI) đã và đang kiên nhẫn
lắng nghe các thiên hà có khả năng có các tín hiệu của nền văn minh ngoài hành tinh trong
hơn 50 năm qua, nhưng cho đến nay không có sự thành công nào. Là một trong nhiều mục tiêu
khoa học của nó, SKA sẽ tham gia nghiên cứu trên vào năm 2022, hi vọng trả lời được câu hỏi
lâu nay rằng thật ra có phải nền văn minh của chúng ta là độc nhất vô nhị hay không.

Tuy nhiên, nghiên cứu thực hiện bởi Duncan Forgan, tại Đại học Edinburgh, và Bob
Nichol, tại Đại học Portsmouth, cho rằng cơ hội tìm thấy các nền văn minh kiểu loài người của
nó là mong manh: chỉ một phần mười triệu.

Họ đã xây dựng một mô hình máy tính giả lập Dải Ngân hà để xem nó có thể dung
dưỡng bao nhiêu nền văn minh. “Chúng tôi muốn đưa ra một đánh giá có sức mạnh trong
chừng mực chúng tôi có thể làm đối với sử dụng các kính thiên văn vô tuyến mới nhất cho
Thuvienvatly.com T r a n g | 41

mục đích SETI”, Forgan nói. Hai nhà nghiên cứu đã đưa vào mô hình trên những dữ liệu mới
nhất về sự tiến hóa sao, sự hình thành hệ hành tinh và các vùng ở được – khu vực xung quanh
một ngôi sao đủ ấm cho một hành tinh có nước lỏng trên bề mặt của nó – và nhiều dữ kiện
khác.

Để tính toán kịch bản trường hợp tốt nhất cho SKA thành công, họ đã lạc quan giả sử
rằng nếu một hành tinh kiểu trái đất nằm trong vùng ở được thì nó sẽ luôn luôn cho sự sống
thông minh tiến hóa trên đó. Từ đây, họ có thể tính số thiên hà có sự sống thông minh bằng
cách gán cho các ngôi sao những tính chất ngẫu nhiên từ một phân bố thống kê. Chạy mô hình
đã 30 lần, họ tìm thấy thiên hà trung bình sẽ chứa khoảng 10.000 nền văn minh thông minh.

“Giờ chúng ta đã có bộ dữ liệu của các nền văn minh thiên hà theo thời gian và không
gian”, Forgan nói. “Nhưng có các yếu tố có thể ngăn cản [chúng ta] lắng nghe một nền văn
minh” nền văn minh đó có thể đã tự diệt hoặc đã bị tận diệt bởi một vụ va chạm tiểu hành tinh.
Tuy nhiên, có khả năng hơn là sự tiến bộ công nghệ có thể khiến chúng khó phát hiện ra hơn”.

Trên Trái đất, chúng ta đã và đang làm rò rỉ các tín hiệu vô tuyến vào trong không gian
vũ trụ trong gần một thế kỉ qua và bất kì nền văn minh láng giềng nào có thể đã nghe trộm các
tín hiệu của chúng ta. Thật vậy, SKA có thể phát hiện ra chúng ta nếu nó được đặt ở đâu đó
cách xa chúng ta đến 100 parsec – hay 326 năm ánh sáng. Tuy nhiên, vì công nghệ của chúng
ta đang cải tiến, và công suất cần thiết để phát ra các tín hiệu như vậy đang giảm đi, nên chúng
ta đang chuyển từ một hành tinh “vô tuyến ầm ĩ” thành một hành tinh “vô tuyến lặng lẽ”.

Với những yếu tố này trong đầu, Forgan và Nichol đã kết hợp các kết quả dân cư thiên
hà của họ với các ràng buộc về sự tuyệt chủng hàng loạt, dựa trên bản ghi hóa thạch của Trái
đất, và quan điểm cho rằng một nền văn minh chỉ là “vô tuyến ầm ĩ” trong 100 năm đầu tiên
của nó. Họ tìm thấy cơ hội của sự truyền thông vô tuyến giữa chúng ta và một nền văn minh
kiểu Trái đất hay một nền văn minh đoản thọ nào đó, trong giới hạn độ nhạy 100 parsec của
SKA, là một phần mười triệu.

Tuy nhiên, kết quả này chỉ dựa trên các nền văn minh có công nghệ tương tự như của
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

chúng ta; nó không loại trừ các tín hiệu ngang dọc phát đi từ một nền văn minh phát triển cao
hơn. “Đây chỉ là một phần nhỏ của SETI. Các tìm kiếm SETI khác hoạt động trên giả thuyết
rằng chúng đang tìm kiếm những nền văn minh đã tồn tại lâu dài và phát đi, vì những mục
đích riêng của họ, bức xạ có phần mạnh hơn”, Alan Penny, một nhà nghiên cứu tại Đại học St
Andrews nhấn mạnh.

Nguồn: physicsworld.com
Thuvienvatly.com T r a n g | 42

Bí hiểm các hang động trên Mặt trăng


Một thế giới hoàn toàn mới đến với cuộc đời Alice khi cô bé đi theo Thỏ Trắng xuống
hang. Có một con mèo miệng xếch, một con sâu bướm hút thuốc tẩu, một người bán mũ điên
điên khùng khùng, và vân vân. Nó khiến bạn chợt hỏi... không biết cái gì đang chờ trong các
hang động trên Mặt trăng?
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Cái hố này trong vùng Marius Hills của Mặt trăng đủ lớn để chứa toàn
bộ Nhà trắng bên trong. Ảnh: NASA/ LROC/ ASU

Phi thuyền Trinh sát Mặt trăng (LRO) của NASA đang gửi về hình ảnh của các hang
động lớn sâu hàng trăm foot – thu hút sự chú ý theo dõi của các nhà khoa học.

“Chúng có thể là lối dẫn vào một thế giới thần tiên dưới lòng đất”, lời của Mark
Robinson thuộc trường Đại học Bang Arizona, nhà nghiên cứu chính cho camera LRO.
“Chúng tôi tin rằng các hang động khổng lồ là những cửa sổ mái hình thành khi trần của các
ống dung nham dưới lòng đất co lại”.

Phi thuyền Kaguya của Nhật Bản đã lần đầu tiên chụp ảnh vô số hang động hồi năm
ngoái. Giờ thì Camera Tàu Trinh sát Mặt trăng (LROC, chính camera đã chụp ảnh các địa
điểm hạ cánh Apollo và vết tích của các nhà du hành vũ trụ trên bụi mặt trăng) đang mang lại
cho chúng ta những hình ảnh phân giải cao của những lối vào các hang động và vùng xung
quanh của chúng.
Thuvienvatly.com T r a n g | 43

Vào những năm 1960, trước khi con người đặt chân lên Mặt trăng, các nhà nghiên cứu
đã đề xuất sự tồn tại của một hệ thống các đường ngầm, tàn tích của các con sông dung nham
tan chảy, bên dưới bề mặt chị Hằng. Họ đã xây dựng trên lí thuyết về các bức ảnh chụp từ trên
quỹ đạo cho thấy hằng trăm con rãnh dài, hẹp gọi là các suối mặt trăng, chạy ngang dọc khắp
những vùng đồng bằng mặt trăng rộng lớn. Các nhà khoa học tin rằng những con suối này là
bằng chứng bề mặt của những đường hầm dưới lòng đất qua đó dòng dung nham đã chảy cách
nay hàng tỉ năm trước.

“Thật thú vị là hiện nay chúng ta đã xác nhận quan điểm này”, Robinson nói. “Các bức
ảnh Kaguya và LROC chứng tỏ rằng các hang động này là những cửa sổ trần cho các ống
dung nham, cho nên chúng ta biết những đường hầm như vậy có thể tồn tại nguyên vẹn ít nhất
là trong những phần nhỏ sau vài tỉ năm”.
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Những hình ảnh Kaguya này thể hiện hang động Marius Hills trong bối cảnh
một hệ thống những con suối núi lửa uốn khúc. Vì hang động trên nằm ở giữa
một con suối nhỏ, nên có khả năng nó thể hiện một sự co lại của trần ống dung
nham. Ảnh: JAXA/SELENE

Các ống dung nham hình thành khi lớp trên của dung nham chảy ra từ một ngọn núi
lửa bắt đầu nguội đi còn dung nham bên dưới tiếp tục chảy trogn các rãnh dạng ống. Dung
nham cứng hơn phía trên bảo vệ cho dung nham tan chảy bên dưới, cho phép duy trì trạng thái
ấm lỏng và tiếp tục chảy đi. Các ống dung nham đã được tìm thấy trên Trái đất và có thể khác
nhau từ một ống đơn giản đến một mê cung phức tạp trải dài hàng dặm.
Thuvienvatly.com T r a n g | 44

Nếu các đường hầm mở ra các cửa sổ trần vẫn trụ vững theo thời gian và vững còn mở,
thì một ngày nào đó chúng có thể mang lại sự bảo vệ cho các vị khách con người trước các
thiên thạch và những mảnh vỡ vũ trụ khác.

“Các đường hầm đó mang lại một tấm chắn bức xạ hoàn hảo và một môi trường nhiệt
rất ôn hòa”, Robinson nói. “Một khi bạn đi sâu 2 m xuống dưới bề mặt Mặt trăng, nhiệt độ vẫn
khá đồng đều, có lẽ khoảng -30 đến -40 độ C”.

Nhiệt độ đó nghe có vẻ lạnh


lẽo, nhưng nó sẽ là tin tốt lành cho
các nhà thám hiểm đang tìm cách
thoát khỏi các nhiệt độ cực độ của
bề mặt chị Hằng. Ở xích đạo của
Mặt trăng, nhiệt độ lúc giữa trưa
tăng vọt tới 100 độ C và giảm xuống
tới -150 độ C vào ban đêm”.

Paul Spudis thuộc Viện Mặt


trăng và Hành tinh học tán thành
rằng các ống dung nham và các
đường hầm mặt trăng có tiềm năng
tiện lợi cho các nhà thám hiểm
tương lai, nhưng ông nói “Khoan
hãy mơ tới chuyến nghỉ dưỡng tiếp
theo của bạn tại khu Carlsbad Hilton
Mặt trăng. Nhiều đường hầm có lẽ
chứa đầy các dung nham chưa hóa Hang động này nằm trong vùng Mare Ingenii gần như gấp đôi
rắn”. kích cỡ của hang động ở vùng Marius Hills. Ảnh: NASA/
Goddard/ ASU
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

“Chúng ta không thể nói, với các thiết bị điều khiển từ xa của mình, rằng các cửa sổ
trần đó dẫn đến đâu. Để tìm ra kết quả chắc chắn, chúng ta cần phải đi lên Mặt trăng và tiến
hành một số chuyến khảo sát hang động. Tôi xin chia sẻ một số bất ngờ trong việc khảo sát
hang động. Vài năm trước đât, tôi đã giúp lập bản đồ một dòng dung nham ở Hawaii. Chúng
tôi đã có một bộ lỗ thông hơi đẹp, thuộc loại giống như các cửa sổ trần. Hóa ra thì có một hệ
thống hang động hoàn toàn mới không hiển hiện trong ảnh chụp từ trên không”.

Vậy thì có cái gì tương tự đang ẩn náu bên dưới các cửa sổ trần mặt trăng hay không?
“Ai mà biết được”, Spudis nói. “Mặt trăng vẫn liên tục gây bất ngờ đối với tôi”.

Đây có thể là một con thỏ trắng đáng để theo đuổi.

Nguồn: PhysOrg.com
Thuvienvatly.com T r a n g | 45

Sự dẫn điện mặt tô pô ở antimon

Ảnh minh họa một sóng electron truyền qua một gờ bậc. (Ảnh: Ali Yazdani)

Các nhà vật lí ở Mĩ vừa chứng minh rằng các electron ở trong những trạng thái mặt tô
pô học vẫn giữ độ dẫn cao của chúng bất chấp sự có mặt của các khiếm khuyết bề mặt. thí
nghiệm trên xác nhận một tiên đoán chủ chốt về hành trạng của các electron trên bề mặt của
một “chất cách điện tô pô học” – một trạng thái mới được khám phá của vật chất hứa hẹn
mang lại một nền vật lí mới phong phú và có thể có những ứng dụng thực tiễn trong điện tử
học và điện toán lượng tử.

Các chất cách điện tô pô học có sức thu hút lớn trong ngành vật lí vật chất ngưng tụ vì
các tính chất dẫn khác thường của chúng. Mặc dù dòng điện không dễ gì chảy qua nguyên
khối vật liệu này – vì thế mới có tên gọi như vậy – nhưng dòng điện thật sự chạy tốt trên bề
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

mặt của chúng. Do đó, các chất cách điện tô pô học có thể sử dụng làm các chất dẫn điện cực
mỏng trong các dụng cụ điện tử, và có thể còn dung dưỡng những loại giả hạt mới không nhạy
với sự nhiễu môi trường vốn là thứ dịch họa đối với các máy tính lượng tử.

Những tính chất kì lạ của các chất cách điện tô pô học phát sinh do hình dạng – hay
dạng thức tô pô học – của các dải năng lượng electron khiến cho một electron trên mặt không
thể bị tán xạ lùi. Nếu một electron như vậy nằm trên một bề mặt kết tinh kiểu bậc thềm với các
bậc nguyên tử liên tiếp nhau, thì lí thuyết tiên đoán rằng electron đó sẽ không bị tán xạ nếu nó
chuyển động vuông góc với các bậc thềm. Điều này không giống với các electron ở trên các bề
mặt của các kim loại thông thường, chúng bị phản xạ mạnh tại các bậc thềm.

Ali Yazdani cùng các đồng nghiệp tại trường Đại học Princeton bắt đầu kiểm tra tiên
đoán này bằng cách nghiên cứu các electron trên bề mặt của một đơn tinh thể antimon.
Antimon là một á kim loại và do đó không hoàn toàn là một chất cách điện tô pô học, nhưng
nó thật sự có các trạng thái mặt tô pô học.
Thuvienvatly.com T r a n g | 46

Đội nghiên cứu bắt đầu với việc đặt một tinh thể antimon trong một buồng chân không
cực cao, trong đó nó bị chẻ ra để phô ra một bề mặt sạch kiểu bậc thềm. Sau đó, mẫu được làm
lạnh xuống 4 K và bề mặt của nó được phân tích bằng một kính hiển vi quét chui hầm (STM).

STM đo mật độ của các trạng thái năng lượng electron trên bề mặt đó. Những electron
này có xu hướng bị giam giữ với từng bậc riêng lẻ và các trạng thái năng lượng của chúng là
lời giải cho bài toán cổ điển của môn vật lí lượng tử dạy ở trường đại học – hạt nằm trong một
cái hộp.

Tuy nhiên, vì các electron tồn tại trong các trạng thái tô pô học, nên chúng có thể “rò
rỉ” ra khỏi các bậc thềm nếu chúng chuyển động vuông góc với một bậc. Sự rò rỉ này nới lỏng
các trạng thái năng lượng hạt-trong-hộp, cái có thể nhìn thấy qua ảnh chụp STM. Bằng cách
đo bề rộng của chúng, Yazdani và đội nghiên cứu tính được rằng các electron ở các trạng thái
mặt tô pô học truyền qua một gờ bậc khoảng 50% thời gian, và bị phản xạ khoảng 50% thời
gian còn lại. Trái lại, khi các thí nghiệm tương tự được thực hiện sử dụng các kim loại thường
như đồng, thì có sự truyền hiệu dụng zero giữa các gờ bậc.

Theo Yazdani, độ truyền không đạt 100% vì các trạng thái electron của antimon phức
tạp hơn các trạng thái mặt tô pô học ở những chất liệu khác. Sự truyền các electron mặt tô pô
học còn tùy thuộc vào hướng spin của chúng – và ở antimon, cấu trúc khe và các tính chất spin
khiến cho các electron mặt có thể vừa truyền qua vừa bị phản xạ khỏi những chỗ khuyết tật. Ở
những chất liệu khác, sự phản xạ có thể hoàn toàn bị cấm.

Thật vậy, khả năng đo sự truyền qua lẫn sự phản xạ là một đặc điểm quan trọng của thí
nghiệm trên. Trong khi kĩ thuật STM hoạt động rất tốt ở antimon, thì Yazdani trình bày rằng
nó không thích hợp cho nghiên cứu bề mặt của một số chất cách điện tô pô học khác ít có sự
phản xạ.

Công trình công bố trên tạp chí Nature.

Nguồn: physicsworld.com
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010
Thuvienvatly.com T r a n g | 47

Bản đồ kim cương toàn cầu

Bản đồ phân bố kim cương trên Trái đất. 80% địa điểm có kimberlite thuộc về lục địa châu Phi.

Một đội gồm các nhà địa vật lí quốc tế vừa lập ra một tấm bản đồ dự đoán các địa điểm
mỏ kim cương trên Trái đất. Đây là hình ảnh đầu tiên thuộc loại này, và nó được tạo ra bằng
cách liên hệ các quá trình địa chất tại bề mặt với cơ chế động lực học xảy ra ở sâu hơn nhiều
trong lõi của hành tinh chúng ta.

Tất nhiên tấm bản đồ rất hấp dẫn cho nghiên cứu học thuật, nhưng nó cũng sẽ là một
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

công cụ hữu ích để tìm kiếm thêm các mỏ kim cương. Trond Torsvik tại Đại học Oslo, người
lãnh đạo nhóm nghiên cứu, cho biết một số đồng tác giả đã làm việc với các công ti kim cương
ở châu Phi, hiện nay họ đang quan tâm đến công cụ có khả năng hữu dụng này.

Đa số kim cương tự nhiên đã có hàng tỉ năm tuổi và thường hình thành trong lớp bao
của Trái đất dưới áp suất cao ở độ sâu dưới 150 km. Thỉnh thoảng, hiếm thôi, một số kim
cương được nâng lên mặt đất qua lớp bao bởi magma dâng lên nhanh chóng, chúng nguội đi ở
bề mặt tạo ra các viên đá lửa gọi là kimberlite.

Torsvik và các đồng sự cho rằng magma đang dâng lên trong lớp bao phía trên được
kích hoạt bởi những xung đá bao nóng trồi lên từ những độ sâu lớn hơn. Những đặc điểm này
của lớp bao được tin là phát sinh ở những độ sâu gần 3000 km - ở ranh giới giữa lớp bao và
lớp nhân bên dưới – và chúng có thể vẫn ổn định ở đó trong hàng triệu năm.

Trái lại, các mảng kiến tạo tại bề mặt Trái đất đang dịch chuyển tương đối so với nhau
tiêu biểu khoảng 0-100 mm mỗi năm. Vì lí do này, đội của Torsvik đã tái dựng chuyển động
của các mảng nền trong 320 triệu năm qua để tính ra các địa điểm tại mặt đất nằm trên các cột
Thuvienvatly.com T r a n g | 48

lớp bao ở những thời điểm nhất định trong niên kỉ địa chất hiện nay. Điều này cho phép họ tạo
ra một tấm bản đồ của những địa điểm có khả năng có kimberlite trên khắp mặt đất.

Tấm bản đồ thu được (ảnh trên) cho thấy 80% các địa điểm kimberlite (các chấm đen
trên bản đồ) phải nằm bên trong hoặc dọc theo lục địa châu Phi trong một vành đai tương đối
hẹp. Những địa điểm này nằm phía trên một dải ổn định tại ranh giới lớp nhân (đường màu đỏ
đậm trên bản đồ) được tin là nguồn gốc của các cột lớp bao. Đa số kimberlite vô định hình
chưa tới 320 triệu năm tuổi (các chấm trắng trên bản đồ) nằm trong vùng địa chất Slave thuộc
Canada, gần với bờ rìa lục địa đang hoạt động kiến tạo tại nơi phun trào của chúng.

David Evans, một nhà địa vật lí tại Đại học Yale ở Mĩ, thật ấn tượng bởi quy mô của
nghiên cứu này. Ông cho biết các liên hệ của nhóm với ngành công nghiệp là chìa khóa cho sự
thành công của họ. “Torsvik đã có thể thu được cơ sở dữ liệu kim cương có niên đại chính xác
về kimberlite – cái vẫn chưa được công bố đầy đủ, nhưng nó hiển hiện từ những con số trong
bài báo của ông”.

Nguồn: physicsworld.com
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010
Thuvienvatly.com T r a n g | 49

Trái tim tăm tối có thể giải thích các bí ẩn của mặt trời
David Shiga

Có phải vật chất tối đang bị che giấu tại tâm của mặt trời rực cháy của chúng ta không?
Vâng, hai nhóm nghiên cứu tin rằng vật chất hay lảng tránh ấy đang làm nguội nhân mặt trời
của chúng ta đi.

Sự sáng suốt đó không ảnh hưởng gì đáng kể đến nhiệt độ chung của mặt trời. Thay
vào đó, một cái lõi đang lạnh đi bởi vật chất tối sẽ giúp giải thích cách thức nhiệt phân bố và
truyền đi bên trong mặt trời, một quá trình vẫn hiểu biết nghèo nàn.

Vật chất tối không tương tác với ánh sáng và vì thế là không nhìn thấy. Bằng chứng
duy nhất cho sự tồn tại của nó là các hiệu ứng hấp dẫn của nó tác dụng lên các vật thể khác,
bao gồm cả các thiên hà. Những hiệu ứng này cho thấy vật chất tối chiếm khoảng 80% tổng
khối lượng của vũ trụ.

Ý tưởng cho rằng vật chất có thể bị che giấu tại tâm của mặt trời đã có từ thập niên
1980, khi các nhà thiên văn học nhận thấy số lượng neutrino ma quỷ hạ nguyên tử rời khỏi
mặt trời chỉ vào khoảng một phần ba cái do các mô phỏng máy tính cho rằng phải như thế. Vật
chất tối có thể giải thích sản lượng thấp đó vì nó sẽ hấp thụ năng lượng, làm giảm tốc độ của
các phản ứng nhiệt hạch sản sinh ra neutrino.

Tuy nhiên, vấn đề đã được giải theo một cách khác khi người ta nhận ra rằng các
neutrino dao động giữa ba loại, chỉ một trong số đó được phát hiện ra trên Trái đất. Hệ quả là
ý tưởng vật chất tối mặt trời bị bỏ quên.

Giờ thì nó được khai quật lên trong ánh sáng của những tìm kiếm gần đây cho vật chất
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

tối, cái đã đặt ra các giới hạn lên khối lượng của các hạt cấu thành nên nó và chứng tỏ rằng nó
chỉ tương tác rất yếu với vật chất thông thường. Những kết quả này đưa Stephen West ở
trường Đại học London, và các đồng nghiệp của ông đi đến khảo sát cái sẽ xảy ra nếu các hạt
rơi vào trong những giới hạn này tồn tại trong mặt trời.

Các mô phỏng của họ cho thấy sự hấp dẫn sẽ hút các hạt tối như vậy xuống tâm của
mặt trời, nơi đó chúng sẽ hấp thụ nhiệt. Một số trong những hạt vật chất tối này khi đó sẽ
mang lượng nhiệt này từ lõi lên trên bề mặt, làm giảm nhiệt độ của lõi.

Tương tự, công trình mới công bố trong tuần này bởi Mads Frandsen và Subir Sarkar ở
trường Đại học Oxford cũng ủng hộ quan điểm rằng vật chất tối trong mặt trời làm nguội nhân
mặt trời. Các tính toán của họ sử dụng một hạt vật chất tối với khối lượng 5 giga electronvolt –
nhẹ hơn hạt sử dụng mô phỏng của West.

Frandsen trình bày rằng điều này sẽ khiến cho hạt vật chất tối nặng gấp chừng năm lần
một hạt proton hoặc neutron – phù hợp với quan sát cho thấy dường như có nhiều vật chất tối
Thuvienvatly.com T r a n g | 50

gấp năm lần vật chất thông thường trong vũ trụ. “Đây là một ứng cử viên vật chất tối rất hấp
dẫn vì nó mang lại cho chúng ta một phương pháp tìm hiểu tỉ số của vật chất với vật chất tối”,
ông nói.

Bóng tối trong ánh sáng (Ảnh: KPA/Zuma/Rex Features)

Sarkar và Frandsen cho biết hạt vật chất tối mặt trời của họ còn giải được một bài toán
khác nữa. Năng lượng nhiệt truyền trong mặt trời bởi sự dẫn nhiệt và bức xạ xung quanh nhân,
và bởi sự đối lưu ở gần bề mặt, nhưng vị trí của cái gọi là ranh giới đối lưu giữa hai vòng là
cái gây bàn cãi.

Các mô phỏng dựa trên thành phần của mặt trời cho thấy ranh giới đó rộng hơn cái
được nhận ra bởi các sóng âm phát hiện trên bề mặt của mặt trời, chúng bị ảnh hưởng bởi vị trí
của ranh giới này. Sarkar và Frandsen cho biết việc đưa thêm vị trí vật chất tối đã đề xuất của
họ vào trong các mô phỏng sẽ mang ranh giới này tiến vào trong, mang lại sự ăn khớp chặt
chẽ hơn giữa các mô phỏng và quan sát.

Nhưng không phải ai cũng bị thuyết phục, Joyce Guzik, cộng sự của West tại Phòng
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

thí nghiệm quốc gia Los Alamos ở New Mexico, chỉ ra rằng trong khi có vướng mắc xảy ra
với các mô hình hiện nay của mặt trời, nhưng khó khăn là ở chỗ những mô hình này mang lại
nhiệt độ mặt trời thấp hơn cái người ta quan sát thấy. Việc bổ sung thêm một hiệu ứng làm
lạnh tại lõi chỉ làm cho sự không nhất quán này thêm khó giải quyết mà thôi.

Chúng ta không phải chờ đợi lâu để tìm ra xem có vật chất tối trong mặt trời hay
không. Cả hai nhóm nghiên cứu đều tán thành rằng nếu có sự làm nguội ở lõi, thì nó sẽ làm
giả công suất phát của một số loại neutrino mặt trời đi khoảng 10%. Người ta có thể kiểm tra
sự suy giảm này khi các máy dò neutrino ở Canada và Italy trở nên có thể thu thập nhiều dữ
liệu nhạy hơn nữa.

Các ngôi sao tối cũng có thể tạo ra lỗ đen

Mặt trời không phải là ngôi sao duy nhất có khả năng có một trái tim tăm tối. Chúng ta
có thể sớm tìm ra xem vật chất tối có giúp hình thành nên vô số ngôi sao biến đổi thành các lỗ
đen siêu khối lượng tại tâm của đa số thiên hà hay không.
Thuvienvatly.com T r a n g | 51

Nguồn gốc của những lỗ đen như vậy là một bí ẩn. Một lí thuyết phát biểu rằng chúng
là tàn dư của những ngôi sao đầu tiên của vũ trụ, được cho là phải hình thành bên trong các
đám mây vật chất to nặng. Những ngôi sao này có thể có nhân giàu các hạt vật chất tối thuộc
một loại sẽ hủy lẫn nhau dưới dạng những đợt phát bức xạ. Công suất phát bổ sung này có thể
cho phép những ngôi sao này phát triển lớn hơn các ngôi sao bình thường, mang lại sự hình
thành những lỗ đen siêu khối lượng khi các ngôi sao đó qua đời. Nhưng không rõ là có hi vọng
phát hiện ra ngôi sao tối nào hay không.

Hồi tháng 6, một nghiên cứu do Katherine Freese thuộc trường Đại học Michigan ở
Ann Arbor đứng đầu đã ám chỉ rằng những ngôi sao tối có thể đạt tới 10 triệu lần khối lượng
của mặt trời.

Trong một nghiên cứu sau đó, Erick Zackrisson thuộc trường Đại học Stockholm ở
Thụy Điển và các đồng nghiệp đã tính được độ sáng biểu kiến của những ngôi sao như vậy.
Họ kết luận rằng chúng phải nằm trong tầm ngắm của Kính thiên văn vũ trụ hồng ngoại James
Webb của NASA, sắp phóng lên quỹ đạo vào năm 2013.

Nguồn: New Scientist


Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010
Thuvienvatly.com T r a n g | 52

Máy phát bằng sợi nano lấy điện từ chuyển động của cơ thể

Sơ đồ máy phát bằng sợi nano của Yong Shi và các cộng sự. Ảnh: Yong Shi

Các nhà khoa học tại Viện Công nghệ Stevens và Đại học Princeton vừa tiết lộ một
loại dụng cụ mini sử dụng các sợi nano để phát điện. Máy phát nano của họ có thể khai thác
năng lượng từ chuyển động của con người hoặc những chuyển động khác để cấp nguồn cho
các bộ cảm biến không dây, các dụng cụ điện tử di động, và thậm chí cả các cơ quan cấy ghép
trong y khoa.

Yong Shi, một kĩ sư cơ học tại Stevens, phát biểu: “Chúng tôi đặc biệt hào hứng trước
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

việc sử dụng các máy phát trên cơ sở sợi nano trong các tình huống tương thích sinh học, như
nhúng các dụng cụ đó trong giày dép và quần áo để khai thác năng lượng từ chuyển động của
cơ thể con người để cấp điện cho các dụng cụ điện tử di động như pin iPod hoặc điện thoại di
động”.

Các dụng cụ mới với công suất cao vừa nói chế tạo từ sợi nano chì zirconate titanate
(PZT). PZT có điện áp áp điện cao và hằng số điện môi lớn – những tính chất lí tưởng cho sự
biến đổi cơ năng thành điện năng. Không giống như các màng mỏng nguyên khối hoặc sợi
micro, các sợi nano PZT đã qua quá trình xoay điện còn có tính linh hoạt cao và tính bền cơ
học.

Đội của Shi chế tạo máy phát nano của họ bằng cách cho lắng các sợi nano PZT đã
xoay điện lên trên một ma trận gồm các điện cực trên một chất nền silicon. Các sợi nano có
đường kính chừng 60 nm và chúng được nhúng trong một ma trận polymer mềm
(polydimethylsiloxane, PDMS). Dụng cụ hoàn chỉnh có thể lấy ra khỏi chất nền silicon hoặc
chế tạo trên các chất nền dẻo, tùy thuộc vào loại ứng dụng mà người ta muốn có.
Thuvienvatly.com T r a n g | 53

Khi tác dụng áp suất cơ lên mặt trên của cơ cấu, nó được truyền đến các sợi nano thông
qua ma trận PDMS, gây ra sự tích điện do sức căng và uốn cong ở các sợi nano khi chúng di
chuyển. Kết quả là một điện áp sinh ra giữa hai điện cực liền kề nhau.

Các nhà nghiên cứu cho biết, với một thể tích cho trước của máy phát nano, dụng cụ
sợi nano này phát ra điện áp cao hơn và công suất lớn hơn các dụng cụ chế tạo từ các dây nano
bán dẫn áp điện với cùng năng lượng vào. Trên lí thuyết, công suất cực đại phát ra từ một máy
phát nano áp điện phụ thuộc vào các tính chất của chất liệu hoạt tính, cho nên hằng số điện áp
áp điện của chất liệu giữa hai điện cực càng lớn, thì điện áp phát và công suất phát càng cao.
Ngoài ra, việc thay đổi chiều dài của chất liệu hoạt tính giữa hai điện cực cũng sẽ làm thay đổi
điện áp và dòng điện phát ra.

Arthur Ritter, giám đốc khoa kĩ thuật y sinh tại Stevens và không có liên quan trong
nghiên cứu này, nói: “Một trong những hạn chế chính của các dụng cụ y sinh cấy ghép hoạt
tính hiện nay là vấn đề cấp điện cho pin. Điều này có nghĩa là chúng phải được sạc lại hoặc
thay thế đều đặn. Nhóm của Shi đã chứng minh một công nghệ sẽ cho phép các dụng cụ cấy
ghép hồi phục một phần cơ năng trong dòng máu chảy hoặc chuyển động của chất lưu nhu
động bên trong cơ thể để cấp điện cho các dụng cụ y sinh cấy ghép thông minh”.

Do công nghệ trên xây dựng trên các cấu trúc nano, nên nó có thể cấp điện cho các rô
bôt nano trong dòng máu trong những khoảng thời gian kéo dài hơn. Những rô bôt như vậy có
thể truyền dữ liệu chẩn đoán, lấy mẫu y sinh và/hoặc gửi những hình ảnh không dây thẳng đến
một bộ cơ sở dữ liệu ngoài để phân tích.

Đội nghiên cứu hiện đang tìm cách tối ưu hóa cấu trúc của dụng cụ nano của họ và đơn
giản hóa quá trình chế tạo.

Nguồn: physicsworld.com
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010
Thuvienvatly.com T r a n g | 54

Tính chất thứ tư của các electron


Ngoài khối lượng, điện tích và spin ra, các electron còn có một tính chất thứ tư như các
lí thuyết vật lí hiện nay tiên đoán hay không? Các nhà nghiên cứu ở Đức, Cộng hòa Czech và
Mĩ muốn đi tìm câu trả lời cho câu hỏi cơ bản này của vật lí học. Để cải thiện độ chính xác của
các phép đo trước đây, họ đã tạo ra một chất liệu mới với sự hỗ trợ của siêu máy tính Julich
JUROPA.

Các nhà khoa học đã tạo ra một chất liệu ceramic mới với sự hỗ trợ của siêu máy tính Julich JUPORA.
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Ảnh: Forschungszentrum Juelich

Electron là những hạt sơ cấp tích điện âm. Chúng tạo ra lớp vỏ bao xung quanh các
nguyên tử và ion. Đó là điều bạn đã học được ở trường phổ thông. Tuy nhiên, đã từ rất sớm,
người ta biết rằng thông tin này cần được bổ sung thêm. Lí do là nhiều nhà vật lí tin rằng các
electron có một mômen lưỡng cực điện vĩnh cửu. Một mômen lưỡng cực điện thường sinh ra
khi các điện tích dương và âm bị phân cách trong không gian.

Tương tự như các cực bắc và nam của một nam châm, có hai loại điện cực. Trong
trường hợp các electron, tình huống phức tạp hơn nhiều vì các electron thật ra không có chiều
kích không gian nào cả. Dẫu vậy, toàn bộ các lí thuyết vật lí vượt khỏi mô hình chuẩn của vật
lí hạt sơ cấp đều xây dựng trên sự tồn tại của mômen lưỡng cực đó. Các lí thuyết này hóa ra có
thể giải thích làm thế nào vũ trụ ở dạng như chúng ta biết ngày nay có thể được tạo ra trong
những thời khắc đầu tiên. Theo các lí thuyết đang thịnh hành, Vụ nổ Lớn xảy ra cách nay
chừng 13,7 tỉ năm trước đã phải tạo ra lượng vật chất và phản vật chất nhiều ngang nhau. Vì
hai đối tượng này hủy lẫn nhau, nên sẽ chẳng còn lại gì. Tuy nhiên, trên thực tế, có nhiều vật
Thuvienvatly.com T r a n g | 55

chất hơn phản vật chất đã được tạo ra. Một mômen lưỡng cực điện của electron có thể giải
thích được sự mất cân bằng này.

Cho đến nay, chưa có ai từng chứng minh thành công sự tồn tạo của mômen lưỡng cực
nhỏ xíu trên lí thuyết này. Các phương pháp hiện nay đơn giản là không đủ nhạy. Tuy nhiên,
một miếng ceramic nhỏ sẽ có thể sớm làm thay đổi cục diện này. Tiến sĩ Marjana Ležaić và
tiến sĩ Konstantin Rushchanskii tại Viện Vật lí Chất rắn ở Forschungszentrum Jülich, cùng với
giáo sư Nicola Spaldin tại trường Đại học California ở Santa Barbara, đã thiết kế ra miếng
ceramic này, với các tính chất rất đặc biệt, trong một phòng thí nghiệm ảo, sử dụng siêu máy
tính JUPORA. Chất liệu europium barium titanate mới đó sẽ cho phép các phép đo nhạy hơn
10 lần so với trước đây. Theo các nhà vật lí Julich, độ nhạy này có thể đủ để tìm ra mômen
lưỡng cực điện của electron.

Vì mômen lưỡng cực điện không thể đo trực tiếp, nên các nhà vật lí đang làm việc với
các nhà khoa học ở trường Đại học Yale, Hoa Kì, và các viện nghiên cứu Czech ở Ptague, để
chứng minh gián tiếp sự tồn tại của nó. Các nhà nghiên cứu ở Yale đã phát triển một cơ cấu thí
nghiệm sử dụng một từ kế giao thoa SQUID cực nhạy để đi sự từ hóa của miếng ceramic trong
một điện trường. Mục tiêu của họ là chứng minh một sự thay đổi ở sự từ hóa khi điện trường
bị đảo ngược lại. Đây đồng thời sẽ là bằng chứng rằng tồn tại mômen lưỡng cực điện. Trong
một electron, một lưỡng cực điện chỉ có thể định hướng song song hoặc đối song với spin
electron. Trong một điện trường, đa số electrond dịnh hướng sao cho mômen lưỡng cực của
chúng song song với trường. Số electron định hướng khác thì ít hơn. Điều này sẽ dẫn tới một
sự từ hóa có thể đo được. Nếu điện trường đảo hướng ngược lại, thì các mômen lưỡng cực của
các electron bị đảo ngược, dẫn tới một sự thay đổi đồng thời, có thể đo được, ở sự từ hóa. Mặt
khác, nếu không có mômen lưỡng cực điện, thì sự từ hóa sẽ giữ nguyên không đổi.

Rất khó tìm ra một chất liệu thích hợp bằng phương pháp thử-sai. Chất liệu này phải có
sự kết hợp không bình thường của các tính chất: nồng độ các ion từ cao, sự mất trật tự từ ở
nhiệt độ dưới bốn độ Kelvin và một sự phân cực điện có thể đảo ngược lại. Ležaić cho biết các
đồng nghiệp của bà ở Yale đã đi đến ý tưởng và thực hiện các phép đo để kiểm tra những chất
liệu khác nhau. Tuy nhiên, một chất liệu mới với toàn bộ những tính chất cần thiết có thể tìm
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

thấy nhanh hơn với việc sử dụng phân tích lí thuyết và các mô phỏng trên máy tính. Nhóm
hợp tác của Ležaić đã tổng hợp ảo và phân tích europium barium titanate trên siêu máy tính ở
Julich. Để làm như vậy, tất cả những gì họ cần là thành phần hóa học của nó và các phương
trình cơ bản của cơ học lượng tử. Từ đây, họ đã tính ra sự tương tác giữa từng nguyên tử và
electron và các tính chất từ địa phương. Từ đó, họ kết luận ceramic là chất liệu tối ưu.

Các nhà nghiên cứu ở Prague cũng đã tổng hợp và phân tích chất liệu trên trong phòng
thí nghiệm và xác nhận các tính chất đã tính ra ở Julich. Duy chỉ có mômen lưỡng cực tìm
kiếm lâu nay của electtron vẫn là chưa phát hiện ra. Các hiệu ứng không mong muốn vẫn cố
hữu trong các phép đo, cho nên các nhà khoa học cần làm việc nhiều hơn nữa mới mong xác
nhận được mômen lưỡng cực điện của electron là có hay không.

Nguồn: PhysOrg.com
Thuvienvatly.com T r a n g | 56

Lí thuyết du hành thời gian tránh được nghịch lí ông cháu


Khả năng đi ngược dòng thời gian trở về quá khứ để giết chết tổ tiên nhà bạn, ngăn
không cho bạn ra đời nữa, là một vấn đề nghiêm trọng đối với bài toán du hành thời gian. Đấy
là chưa nói tới các chi tiết kĩ thuật phức tạp của việc xây dựng một cỗ máy thời gian. Nhưng
các nhà vật lí tại Viện Công nghệ Massachusetts ở Mĩ vừa đề xuất một lí thuyết mới có thể
tránh được nghịch lí ông cháu, bằng cách sử dụng sự viễn tải lượng tử và “hậu chọn lọc”
những cái mà một nhà du hành thời gian có thể làm và không thể làm.

Sơ đồ thể hiện CTC qua sự viễn tải thông thường (a) và viễn tải hậu chọn lọc (b). Ảnh: Seth Lloyd.

Mô hình du hành thời gian vừa nó do Seth Lloyd đề xuất có đăng tại website
arXiv.org, phát sinh từ nghiên cứu của họ về cơ học lượng tử của các đường cong kiểu thời
gian khép kín (CTC) và tìm kiếm một lí thuyết hấp dẫn. Nói một cách đơn giản thì CTC là một
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

đường của không thời gian quay trở lại điểm xuất phát của nó. Sự tồn tại của các CTC được
thuyết tương đối rộng Einstein cho phép, mặc dù Gödel mới là người đầu tiên phát hiện ra
chúng. Như với nhiều ngụ ý khác của lí thuyết của mình, Einstein có phần lúng túng trước các
CTC.

Trong bài báo mới, các nhà khoa học khảo sát một phiên bản đặc biệt của CTC dựa
trên sự kết hợp viễn tải lượng tử với sự hậu chọn lọc, thu được một lí thuyết CTC hậu chọn lọc
(P-CTC). Trong sự viễn tải lượng tử, các trạng thái lượng tử bị vướng víu sao cho một trạng
thái có thể truyền đến trạng thái kia ở một địa điểm khác. Sau đó, các nhà khoa học đã áp dụng
khái niệm hậu chọn lọc, nghĩa là khả năng thực hiện một phép điện toán tự động chỉ chấp nhận
những kết quả nhất định và bỏ qua những kết quả khác. Như vậy, sự hậu chọn lọc có thể đảm
bảo rằng chỉ một loại trạng thái nhất định có thể được viễn tải. Các trạng thái “đủ chuẩn” để
viễn tải là những trạng thái đã được hậu chọn lọc để là “trước sau như một” trước khi truyền
đi. Chỉ sau khi được nhận dạng và phê chuẩn thì trạng thái đó mới có thể được viễn tải, nghĩa
là trạng thái đó đang truyền ngược thời gian. Dưới những điều kiện này, du hành thời gian chỉ
có thể xảy ra theo một kiểu kiên định, phi nghịch lí.
Thuvienvatly.com T r a n g | 57

Các nhà nghiên cứu cho biết cơ chế của P-CTC cho thấy sự du hành thời gian lượng tử
như vậy có thể xem là một dạng chui hầm lượng tử ngược dòng thời gian, nó có thể xảy ra
ngay cả khi không có một hành trình cổ điển từ tương lai dẫn đến quá khứ. Vì lí thuyết P-CTC
xây dựng trên sự hậu chọn lọc, nên nó mang lại những giải pháp kiên định cho những nghịch lí
như vậy: bất cứ điều gì xảy ra trong một P-CTC cũng có thể xảy ra trong cơ học lượng tử
thông thường với một xác suất nào đó.

Tuy nhiên, các nhà khoa học lưu ý rằng việc ngăn chặn các sự kiện nghịch lí sẽ làm
cho các sự kiện không khả năng xảy ra thường xuyên hơn. Những hiệu ứng kì lạ và phản trực
giác này phát sinh do bản chất phi tuyến của các P-CTC. Giống như người anh hùng trong
phim ảnh luôn vận động để thoát khỏi cái chết dường như ngay trước mắt, người ông trong
nghịch lí ông cháu sẽ luôn vận động để sống sót trước sự hung hăng của đứa cháu bất hiếu kia.
Một chút thăng giáng lượng tử sẽ đẩy lùi viên đạn của tay sát thủ hậu duệ đó.

Ngoài việc ngăn chặn nghịch lí ông cháu, lí thuyết P-CTC còn có ưu điểm là nó không
đòi hỏi các biến dạng của không thời gian mà các lí thuyết du hành thời gian truyền thống xây
dựng trên đó. Những sự biến dạng không thời gian này chỉ tồn tại trong các môi trường cực độ
thí dụ như bên trong các lỗ đen, làm cho những lí thuyết này hầu như không thể nào hiện thực
hóa được.

Mặc dù các phép điện toán hậu chọn lọc là phi tuyến và cho đến nay vẫn tỏ ra là không
thể, nhưng một số nghiên cứu đã chứng tỏ rằng cơ học lượng tử có thể là phi thuyến và cho
phép các phép điện toán hậu chọn lọc, có khả năng làm cho sự điện toán lượng tử là một kĩ
thuật rất mạnh. Một máy vi tính như vậy có thể giải quyết hiệu quả hơn nhiều trước một bài
toán phức tạp chứa rất nhiều biến bằng cách chạy hết mọi kết hợp có thể có của các biến và
hậu chọn lọc chỉ những kết hợp nào giải được bài toán mà thôi. Chiến lược này sẽ hoạt động
tốt hơn nhiều so với chiến lược cổ điển muốn thử các kết hợp khác nhau cho đến khi tìm ra
một kết hợp hoạt động được. Mặt khác, những nghiên cứu khác cho thấy cơ học lượng tử phải
là tuyến tính, một phần do những cái dường như không thể mà sự hậu chọn lọc cho phép.

Tuy nhiên, các nhà khoa học hi vọng các nghiên cứu trong tương lai sẽ làm sáng tỏ
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

rằng lí thuyết của họ có đúng hay không. Họ giải thích rằng tác dụng của P-CTC có thể kiểm
tra bằng cách tiến hành các thí nghiệm viễn tải lượng tử, và bằng cách hậu chọn lọc chỉ những
kết quả nào tương ứng với trạng thái ra bị vướng víu như mong muốn.

P-CTC cũng sẽ có thể cho phép sự du hành thời gian trong không thời gian mà không
cần các đường cong kiểu thời gian khép kín theo thuyết tương đối rộng. Nếu tự nhiên bằng
cách nào đó cung cấp cơ sở động lực học phi tuyến mang lại bởi phép chiếu trạng thái cuối
cùng, thì có khả năng cho các hạt (và, trên nguyên tắc, con người) chui hầm từ tương lai trở về
quá khứ.

Nguồn: PhysOrg.com
Thuvienvatly.com T r a n g | 58

Nước có ở khắp nơi trên Mặt trăng


Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học Tennessee, Knoxville, một lần nữa khiến các
nhà khoa học phải bất ngờ trước những gì họ nghĩ họ đã biết về Mặt trăng.

Mặt trăng. Ảnh: NASA


Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Mùa thu năm ngoái, các nhà nghiên cứu, trong đó có Larry Taylor, một giáo sư xuất
sắc thuộc Khoa Trái đất và Các khoa học Hành tinh, đã phát hiện ra “sương mặt trăng” trên bề
mặt chị hằng – tức “nước” bị hấp thụ trong những lớp trên cùng của đất mặt trăng. Khám phá
này đã đánh đổ niềm tin đã có từ thời Apollo rằng mặt trăng là một xứ sở khô cằn.

Giờ thì các nhà khoa học, bao gồm Taylor và Yang Liu, phó giáo sư tại Khoa Trái đất
và Các khoa học Hành tinh, vừa phát hiện thêm rằng nước trên mặt trăng còn phân tán rộng rãi
– cả bên ngoài và bên trong của mặt trăng – với một số điểm tương đồng với nước trong các
hệ núi lửa trên Trái đất chúng ta.

Không giống như sương mặt trăng được tin có nguồn gốc ngoại bang như gió mặt trời
mang hydro đến tiếp xúc với oxy của Mặt trăng, lượng nước do Taylor và Liu phát hiện là ở
bên trong, phát sinh từ một nguồn gốc hoàn toàn khác. Làm thế nào có nó thì vẫn chưa rõ.
Lượng nước đó có thể được bổ sung thêm bởi các sao chổi va chạm, chúng vốn có chứa băng,
trong hoặc sau thời kì hình thành của mặt trăng và Trái đất.
Thuvienvatly.com T r a n g | 59

Sự tồn tại của núi lửa trên mặt trăng hơn 4 tỉ năm trước đây mang lại cho các nhà
nghiên cứu một manh mối rằng nước có thể tồn tại bên trong vật thể ấy, vì cơ sở động lực học
của các núi lửa trên Trá đất chủ yếu bị chi phối bởi nước. Vì thế, các nhà khoa học đã thực
hiện khám phá mới lạ của họ bằng cách khảo sát đá bazan mặt trăng do sứ mệnh Apollo 14
mang về hồi năm 1971. Sử dụng một phổ kế ion sơ cấp tại Viện Công nghệ California, các nhà
khoa học đã xác định các thành phần dễ bay hơi trong một khoáng chất calcium phosphate rất
giống với khoáng chất này tìm thấy trên Trái đất.

Các nhà khoa học cho biết đây là bằng chứng cho sự có mặt của nước trong phần lõi
của mặt trăng, nơi phát sinh của một số loại đá mặt trăng. Điều này chứng tỏ một mối quan hệ
hóa học và địa chất giữa Trái đất và Mặt trăng gần gũi hơn so với được biết trước đây.

Ảnh chụp hiển vi của một lát mỏng của mẫu vật mặt trăng 14053. Ảnh: Larry Taylor/Đại học
Tennessee
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Kết quả phân tích khoáng chất trên có những hàm ý sâu sắc cho sự tìm hiểu lịch sử
hình thành của Mặt trăng và Trái đất. Người ta thường tin rằng mặt trăng được tạo ra khi Trái
đất sơ khai bị va chạm bởi một tiền-hành tinh cỡ sao Hỏa tên gọi là Theia, làm tan chảy và bốc
hơi tiền-hành tinh đó và một mảng lớn của Trái đất. Đám mây các hạt sinh ra bởi cú va chạm
sau đó tụ tập lại tạo ra mặt trăng, thành ra nó không có các nguyên tố dễ bay hơi như hydro và
chlorine. Tuy nhiên, việc các nhà khoa học vừa khám phá ra những chất dễ bay hơi này đã gây
thách thức đối với lí thuyết này.

Nếu như nước trên Mặt trăng là lượng nước còn dư trong cú va chạm khủng khiếp đó,
thì thật bất ngờ là nước đã còn lại sau cú va chạm vì các nguyên tố dễ bay hơi hơn, như natri
và kali, đã bị thút tháo hầu hết. Các chi tiết của lí thuyết va chạm cần được xem xét lại, Liu
phát biểu.

Việc khám phá ra sự phong phú và dồi dào của nước trên mặt trăng có nghĩa là những
chuyến phiêu lưu của con người lên mặt trăng sẽ không còn là quá xa vời nữa. Tuy nhiên, chi
Thuvienvatly.com T r a n g | 60

phí phiêu lưu hiện nay là rất đắt. Thí dụ, người ta phải tốn chừng 25.000 USD để khai thác
chưa tới nửa lít nước trên mặt trăng.

Tuy nhiên, nếu các nhà khoa học nghĩ ra được quá trình nào đó dễ dàng lấy lại phần
nước này từ đất đá mặt trăng để làm nước uống và nhiên liệu, thì việc con người thuộc địa hóa
mặt trăng không phải là chuyện nằm ngoài tầm với.

Nguồn: PhysOrg.com
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010
Thuvienvatly.com T r a n g | 61

Boeing tiết lộ mẫu phi thuyền vũ trụ thương mại


Tại Hội chợ triển lãm Hàng không quốc tế Farnborough hai năm tổ chức một lần ở
Anh quốc, hôm 19 tháng 7 vừa rồi, hãng Boeing đã tiết lộ kế hoạch chế tạo một tổ hợp phi
thuyền vũ trụ chuyên chở các nhà du hành và hàng hóa lên các trạm vũ trụ. Phi thuyền trên sẽ
thế chỗ các tàu con thoi vũ trụ của NASA sắp nghỉ hưu vào năm tới.
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Ảnh minh họa phi thuyền CST-100 của hãng Boeing. Ảnh: Boeing
Boeing đã giành giải thưởng trị giá 18 triệu USD từ phía NASA dưới Thỏa thuận Hành
động Vũ trụ Phát triển Đội du hành Thương mại (CCDev) nhằm hỗ trợ các hệ thống thương
mại mới dùng cho chuyên chở các nhà du hành lên Trạm Vũ trụ Quốc tế và bất kì trạm vũ trụ
tư nhân nào trong tương lai.
Phi thuyền giá thành thấp của Boeing, Tàu Vận tải Vũ trụ Phi hành đoàn 100 (CST-
100), được thiết kế để mang bảy nhà du hành trong các sứ mệnh ngắn hạn lên tới độ cao 100
km phía trên mặt đất. Phi thuyền này na ná như phi thuyền Apollo đã chở các nhà du hành vũ
trụ lên mặt trăng hồi thập niên 1960 và 1970, nhưng nó lớn hơn.
Thuvienvatly.com T r a n g | 62

Phi thuyền này sẽ có thể neo đậu với một trạm vũ trụ ở trên quỹ đạo trong thời gian lên
tới bảy tháng và sẽ được bảo vệ khi quay trở lại khí quyển bằng một lá chắn nhiệt hiện đại.
Sau đó, nó sẽ hạ độ cao với sự hỗ trợ của những chiếc dù, rồi hạ cánh trên đệm không khí lên
chỗ đất khô. Lá chắn nhiệt sẽ được thay thế, cho phép phi thuyền cất cánh trở lại. Mẫu thiết kế
cho phép mỗi phi thuyền thực hiện được đến 10 sứ mệnh vũ trụ.
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Hãng Boeing cho biết phi thuyền CST-100 đầu tiên sẽ được phóng lên từ Florida, có lẽ vào đầu năm 2014 nếu có
đủ tài trợ. Thiết kế phi thuyền tương thích với nhiều loại tên lửa, bao gồm Atlas V, Delta IV, hoặc tên lửa Falcon
9 của SpaceX, nhưng chọn loại tên lửa nào thì cho đến nay chưa có quyết định cuối cùng.
NASA không phải là khách hàng duy nhất của Boeing, vì công ti này còn là đối tác với
hãng hàng không Bigelow Aerospace, cùng lập nên Liên đoàn Hàng không Vũ trụ Thương
mại hồi tháng 6 rồi. Theo Boeing, Bigelow Aerospace sẽ đóng góp chuyên môn của họ trong
việc thiết kế và chế tạo các thiết bị vũ trụ, đồng thời là khách hàng sử dụng của CST-100.
Thuvienvatly.com T r a n g | 63

Minh họa phi thuyền CST-100 đang tiếp cận một trạm vũ trụ Bigelow. Ảnh: Boeing
Hãng Bigelow Aerospace đang xây dựng hai loại mô đun vũ trụ - Sundancer và BA300
– sẽ là bộ phận của trạm vũ trụ thương mại đầu tiên trên thế giới, tên gọi là Phức hợp Không
gian Quỹ đạo, mà công ti trên hi vọng sẽ bay vào quỹ đạo và hoạt động trong năm 2015.
Bigelow cho biết ba phần tư thu nhập của họ và từ các khách hàng ở trạm vũ trụ hướng tới nhà
cung cấp vận tải vũ trụ.
Hai hãng Space Exploration Technologies (SpaceX) và Orbital Sciences Corporation
cũng dang phát triển phi thuyền vũ trụ tương tự, với sự hỗ trợ ngân sách của NASA.
Nguồn: PhysOrg.com
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010
Thuvienvatly.com T r a n g | 64

Lần đầu tiên phát hiện các phân tử C60 trong không gian vũ trụ

Ảnh minh họa các quả bóng bucky C60 trong vũ trụ. Ảnh: NASA/JPL-Caltech
Các nhà thiên văn sử dụng Kính thiên văn vũ trụ Spitzer của NASA vừa phát hiện ra các phân
tử carbon, gọi là “bóng bucky” (C60) trong không gian vũ trụ. Bóng bucky là những phân tử
hình quả bóng đá lần đầu tiên được quan sát thấy trong một phòng thí nghiệm cách nay đã 25
năm.
Sở dĩ các phân tử này mang tên như vậy vì chúng na ná giống với các mái vòm đo đạc kiến
trúc của Buckminster Fuller, chúng có các vòng tròn đan xen nhau trên bề mặt của một hình
gần như cầu. Bóng bucky được cho là trôi nổi trong không gian vũ trụ, nhưng người ta không
phát hiện ra chúng, mãi cho đến nay.
Đây là những phân tử lớn nhất được biết tồn tại trong vũ trụ. “Chúng tôi đặc biệt thích thú vì
chúng có các tính chất độc nhất vô nhị khiến chúng là những nhân vật quan trọng trong mọi
loại tiến trình vật lí và hóa học đang diễn ra trong vũ trụ”, phát biểu của Jan Cami, thuộc
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

trường Đại học Western Ontario, Canada. Cami là tác giả của bài báo tường thuật về khám phá
trên đăng trên tạp chí Science.
Bóng bucky cấu tạo gồm 60 nguyên tử carbon sắp xếp theo những cấu trúc hình cầu, ba chiều.
Hình ảnh xen kẽ lục giác và ngũ giác của chúng ăn khớp với các viền trắng đen trên quả bóng
đá bình thường. Đội nghiên cứu còn tìm thấy một họ hàng thon dài hơn của bóng bucky, gọi là
C70, trong không gian vũ trụ. Những phân tử này gồm 70 nguyên tử carbon và có hình dạng
giống với một viên ruby ôvan hơn. Cả hai loại phân tử này thuộc về một họ có tên chính thức
là fullerene.
Đội của Cami đã bất ngờ tìm ra các quả bóng carbon trong một tinh vân hành tinh tên gọi là
Tc 1. Các tinh vân hành tinh là tàn dư của các sao, như mặt trời, đã trút hết những lớp khí và
bụi bên ngoài của chúng khi chúng gì đi. Một ngôi sao nóng, đặc, hay sao lùn trắng, tại tâm
của tinh vân trên tỏa sáng và làm nóng những đám mây vật liệu đã bị ‘bóc vỏ’ này.
Thuvienvatly.com T r a n g | 65

Dữ liệu từ Kính thiên văn vũ trụ Spitzer của NASA cho thấy các dấu hiệu của bóng bucky trong vũ trụ.
Ảnh: NASA/JPL-Caltech/Đại học Western Ontario
Bóng bucky được tìm thấy trong những đám mây này, có lẽ phản ánh một giai đoạn ngắn ngủi
trong cuộc sống của ngôi sao, khi nó thổi phụt ra vật liệu giàu carbon. Các nhà thiên văn đã sử
dụng thiết bị quang phổ của Spitzer để phân tích ánh sáng hồng ngoại phát ra từ tinh vân hành
tinh trên và nhìn thấy các dấu hiệu phổ của bóng bucky. Những phân tử này đại khái ở nhiệt
độ phòng – nhiệt độ lí tưởng để phát ra các vân đặc trưng của ánh sáng hồng ngoại mà Spitzer
có thể phát hiện ra. Theo Cami, Spitzer đã nhìn vào đúng nơi tại thời điểm đúng lúc. Một thế
kỉ trước đây chẳng hạn, bóng bucky không thể nào phát hiện ra được vì chúng còn quá lạnh.
So sánh dữ liệu thu từ Spitzer với dữ liệu lấy từ các phép đo trong phòng thí nghiệm của cùng
phân tử trên cho kết quả ăn khớp ở mức hoàn hảo.
Cami nói: “Chúng tôi không có kế hoạch trước cho khám phá này. Nhưng khi chúng tôi nhìn
thấy các dấu hiệu phổ dị thường này, chúng tôi lập tức biết rằng mình đang nhìn thấy một
trong những phân tử đã được tìm kiếm nhiều nhất bấy lâu nay”.
Năm 1970, giáo sư người Nhật Eiji Osawa đã tiên đoán sự tồn tại của bóng bucky, nhưng
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

chúng không được quan sát thấy mãi cho đến các thí nghiệm trong phòng lab vào năm 1985.
Các nhà nghiên cứu đã mô phỏng các điều kiện có trong khí quyển của những ngôi sao khổng
lồ, giàu carbon, đang già đi, trong đó các chuỗi carbon đã được phát hiện thấy. Thật bất ngờ,
những thí nghiệm này mang lại sự hình thành những lượng lớn fullerence. Các phân tử này đã
được tìm thấy trên Trái đất, trong muội hóng của nến, trong các lớp đá, và trong các thiên
thạch.
Nghiên cứu về fullerence và các họ hàng của chúng đặc biệt sôi nổi trong thời gian gần đây vì
các phân tử này có độ bền vô song và các tính chất hóa lí ngoại hạng. Các ứng dụng tiềm năng
của chúng có thể kể đến là áo giáp, phân phối thuốc trong cơ thể và các công nghệ siêu dẫn.
Nguồn: PhysOrg.com
Thuvienvatly.com T r a n g | 66

‘Ngôi sao điên’ bị trục xuất khỏi Dải Ngân hà


Kính thiên văn vũ trụ Hubble của NASA vừa phát hiện ra một ngôi sao siêu nhanh – một thực
thể hiếm đang chuyển động nhanh gấp ba lần mặt trời của chúng ta.
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Ngôi sao nóng, màu xanh HE 0437-5439 vút ra khỏi vùng tâm của Dải Ngân hà với tốc độ vừa đủ để thoát khỏi
sức hút hấp dẫn của thiên hà chủ. Ngôi sao thoát chết lao vút qua vùng biên ngoài xa xôi của Dải Ngân hà ở tốc
độ 1,6 triệu dặm/giờ, ở cao phía trên đĩa thiên hà, cách vùng tâm khoảng 200.000 năm ánh sáng. Ảnh: NASA,
ESA, và G. Bacon (STScI)
Ngôi sao này có lẽ đã được tạo ra do một sơ suất vũ trụ. 100 triệu năm trước đây, một hệ sao
ba đang chuyển động qua vùng trung tâm náo nhiệt của Dải Ngân hà của chúng ta thì nó tiến
quá gần đến lỗ đen khổng lồ của thiên hà chủ nhà. Lỗ đen ấy đã nuốt lấy một ngôi sao và tống
khứ hai kẻ bại trận còn lại ra khỏi Dải Ngân hà. Hai ngôi sao bị hất cẳng ấy đã hợp lại thành
một ngôi sao xanh siêu nóng lao vút đi ở tốc độ không tưởng tượng nổi.
Nghe có vẻ như truyện khoa học viễn tưởng, nhưng các nhà thiên văn học Hubble cho biết đây
là kịch bản có khả năng nhất cho sự ra đời của cái gọi là ngôi sao siêu tốc, tên là HE 0437-
5439. Nó là một trong những ngôi sao nhanh nhất từng được phát hiện ra với tốc độ lên tới 1,6
triệu dặm/giờ.
Đa số trong chừng 16 ngôi sao siêu tốc đã biết, tất cả đều được phát hiện ra kể từ năm 2005,
được cho bị tống vọt ra từ trung tâm của thiên hà của chúng ta. Nhưng kết quả Hubble này là
quan sát trực tiếp đầu tiên liên hệ một ngôi sao như vậy với một nguồn gốc thuộc tâm thiên hà.
Thuvienvatly.com T r a n g | 67

Warren Brown, nhà thiên văn học thuộc Trung tâm Thiên văn vật lí Harvard-Smithsonian ở
Cambridge, Massachusetts, cho biết những ngôi sao bị tống khứ này thuộc loại hiếm trong thế
giới 100 tỉ ngôi sao của Dải Ngân hà. Cứ mỗi 100 triệu ngôi sao trong thiên hà, thì có ẩn náu
một ngôi sao siêu tốc.
Việc nghiên cứu những ngôi sao này có thể cung cấp thêm manh mối về bản chất của một số
khối lượng không nhìn thấy của vũ trụ, và nó có thể giúp các nhà thiên văn học hiểu rõ hơn
các thiên hà đã hình thành như thế nào.
Ngôi sao siêu tốc trên hiện đang ở cách tâm thiên hà của chúng ta chừng 200.000 năm ánh
sáng. Ngôi sao đang vút đi ở tốc độ khủng khiếp, nhanh gấp đôi tốc độ cần thiết để thoát khỏi
trường hấp dẫn của thiên hà.
Tuy nhiên, tuổi của ngôi sao trên vẫn là một bí ẩn. Dựa trên tốc độ và vị trí của HE 0437-5439,
ngôi sao đó phải là 100 triệu năm tuổi. Nhưng khối lượng của nó – 9 lần khối lượng mặt trời –
và màu xanh có nghĩa là nó đã đốt cháy nhiên liệu sau chỉ 20 triệu năm – ngắn hơn nhiều so
với thời gian để nó đi tới vị trí hiện nay của nó.
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Một cơ chế khả dĩ cho ngôi sao HE 0437-5439 thu đủ năng lượng cần thiết để thoát khỏi Dải Ngân hà. Trong
kịch bản này, một hệ sao ba, gồm một hệ sao đôi và một thành viên khác liên kết với nhóm, đang quay xung
quanh ở gần quái vật lỗ đen của thiên hà. Một ngôi sao bị lỗ đen bắt giữ và cặp đôi còn lại thoát thân ra khỏi thiên
hà. Bộ đôi lao vút qua thiên hà, một thành viên phát triển nhanh hơn và ngốn lấy thành viên kia. Ngôi sao sung
sức thu được, nặng và rất xanh, được gọi là sao hành khất màu xanh. Ảnh: NASA, ESA, và A. Feild (STScI)
Các nhà thiên văn học đã đề xuất hai khả năng để giải bài toán tuổi. Hoặc là ngôi sao đã hồi
xuân bằng cách trở thành một sao hành khất màu xanh, hoặc là nó bị ném ra khỏi Đám mây
Magellan Lớn, một thiên hà láng giềng của chúng ta.
Lời giải thích có khả năng nhất cho màu xanh và tốc độ cực nhanh của ngôi sao là nó là một
phần của một hệ sao ba đã lao vào cuộc chơi hấp dẫn với quái vật lỗ đen của thiên hà của
chúng ta. Cuộc đấu hỗn mang này đã truyền vận tốc thoát cho các ngôi sao. Ý tưởng này được
Thuvienvatly.com T r a n g | 68

đề xuất vào năm 1988, và nó tiên đoán rằng lỗ đen của Dải Ngân hà sẽ bắn vọt ra một ngôi sao
trong mỗi 100.000 năm một lần.
“Chúng tôi đang nhắm tới các ngôi sao “B” to nặng, kiểu như HE 0437-5439”, Brown nói –
ông là người phát hiện ra 14 trong số 16 ngôi sao siêu tốc đã biết. “Những ngôi sao này không
sống đủ lâu để tồn tại trong vùng ngoại vi xa xôi của Dải Ngân hà, cho nên chúng tôi không
trông đợi tìm thấy chúng ở đó. Nhưng số lượng sao trong vùng phía ngoài ít hơn nhiều so với
vùng trung tâm, nên chúng tôi có cơ hội tốt hơn để tìm thấy những vật thể kì lạ này”.
Nguồn: PhysOrg.com
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010
Thuvienvatly.com T r a n g | 69

Graphene có khả năng lọc arsen khỏi nước uống

Hỗn hợp magnetite-RGO hòa tan trong dung dịch nước


và được lọc ra bằng từ tính. (Ảnh: ACS Nano)

Các nhà nghiên cứu vừa tìm thấy một công dụng khác nữa cho chất liệu thần kì graphene. Một
chất liệu hỗn hợp gồm graphene oxide đã khử và magnetite có thể lọc một cách hiệu quả arsen
ra khỏi nước uống, theo nghiên cứu mới được thực hiện ở Hàn Quốc.

Graphene là một tấm carbon chỉ dày một nguyên tử và còn tồn tại ở dạng oxide. Graphene
oxide đã khử (RGO) là một trạng thái hóa học của chất liệu trên khi đã thu thêm các electron.
Quá trình lọc hoạt động bằng cách cho hòa tan một hỗn hợp magnetite-RGO vào trong nước
cần lọc arsen. Hỗn hợp sau đó được lọc một cách nhanh chóng và hiệu quả khỏi nước, sử dụng
một nam châm vĩnh cửu.
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Arsen là một trong những nguyên tố gây ung thư nhiều nhất và độc tính trên 10 ppb. Nước
uống bị nhiễm nguyên tố trên là một thực tế nguy hiểm hàng ngày đối với nhiều người trên thế
giới và nó có thể dẫn tới các bệnh mãn tính và chết chóc. Arsen chủ yếu có nguồn gốc từ các
loại đá tự nhiên giàu arsen qua đó nước đã ngấm qua, nhưng nó cũng xuất hiện ở những khu
vực nơi arsen được khai mỏ. Các nhà khoa học còn cho rằng các thay đổi trong canh tác nông
nghiệp, thí dụ như sử dụng các giếng nước ngầm làm nước tưới thay cho nước mặt như nước
sông, nước hồ, cũng có thể là một nguyên nhân.

Arsen được lọc khỏi nước uống bằng cách sử dụng carbon hoạt tính hoặc cho nó kết tủa với
các khoáng chất sắt như sắt oxide – thí dụ các vi tinh thể magnetite (Fe3O4). Tuy nhiên, những
hạt tinh thể bé nhỏ đó không thể dùng trong nước sông, hoặc các môi trường khác nơi nước
chảy, do kích thước nhỏ của chúng và thực tế magnetite nhanh chóng oxy hóa khi phô ra trước
khí quyển. Các nhà nghiên cứu mới đây đã khắc phục được trở ngại vừa nói bằng cách kết hợp
các oxide sắt với carbon và ống nano carbon, và các chất liệu gốc graphene như graphene
oxide.
Thuvienvatly.com T r a n g | 70

Dựa trên thành quả này, Kwang Kim, In-Cheol Hwang và các cộng sự tại trường Đại học
Khoa học và Công nghệ Pohang đã tạo ra một loại hợp chất magnetite mới dựa trên RGO.
Chất liệu lai đó có thể lọc hơn 99,9% arsen trong mẫu giảm hàm lượng của nó xuống dưới 1
ppb.

Các nhà nghiên cứu hiện đang tìm các phương pháp tổng hợp graphene quy mô lớn đồng thời
sản xuất các chất liệu lai gốc graphene cho các ứng dụng đa dạng thuộc lĩnh vực môi trường
và sinh vật học.

Nguồn: physicsworld.com
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010
Thuvienvatly.com T r a n g | 71

Mỗi lỗ đen có thể ẩn chứa một


vũ trụ tiềm ẩn Khi mật độ vật chất đạt tới những tỉ lệ khủng
khiếp (hơn 1050 kg/m3) bên trong một lỗ đen,
thì sự xoắn tự biểu hiện dưới dạng một lực
Chúng ta có thể đang sống bên trong một lỗ chống lại sự hấp dẫn. Lực này ngăn không cho
đen. Ý tưởng kì cục này là kết luận của một vật chất nén lại vô hạn để đạt tới mật độ vô
nhà vũ trụ học dựa trên một biến thể của các hạn, cho nên không có điểm kì dị. Thay vào đó,
phương trình của thuyết tương đối rộng theo Poplawski, vật chất bị nảy trở ra và bắt
Einstein làm thay đổi bức tranh của chúng ta về đầu giãn nở trở lại.
cái xảy ra tại tâm của một lỗ đen.
Bây giờ, trong một nghiên cứu chắc chắn gây
Trong một phân tích chuyển động của các hạt tranh cãi, Poplawski áp dụng những ý tưởng
đi vào trong một lỗ đen, công bố hồi tháng 3, này để lập mô phỏng hành trạng của không-
Nikodem Poplawski thuộc trường Đại học thời gian bên trong một lỗ đen tại thời điểm nó
Indiana ở Bloomington, Mĩ, đã chứng minh bắt đầu bật trở ra. Kịch bản na ná như cái xảy
rằng bên trong mỗi lỗ đen có thể tồn tại một vũ ra lúc bạn nén một cái lò xo. Poplawski tính
trụ khác nữa. “Có lẽ các lỗ đen khổng lồ tại được lực hấp dẫn ban đầu thắng lực đẩy của sự
tâm của Dải Ngân hà và các thiên hà khác là xoắn và giữ vật chất nén lại, nhưng cuối cùng
cầu nối dẫn đến những vũ trụ khác”, Poplawski thì lực đẩy đủ mạnh nên vật chất ngừng co lại
nói. Nếu đúng như vậy – chữ NẾU viết hoa – và bật trở ra. Các phép tính của Poplawski cho
thì không có gì để bác bỏ rằng bản thân vũ trụ thấy không-thời gian bên trong lỗ đen giãn nở
của chúng ta đang nằm bên trong một lỗ đen. đến khoảng 1,4 lần kích thước nhỏ nhất của nó
Theo thuyết tương đối rộng Einstein (GR), bên trong thời gian chừng 10-46 giây.
trong của các lỗ đen là các “kì dị” – những Theo Poplawski, sự bật ngược nhanh đến bất
vùng trong đó mật độ vật chất đạt tới vô hạn. ngờ này có thể là cái dẫn tới vũ trụ giãn nở mà
Điểm kì dị đó là một điểm thật sự có mật độ vô chúng ta quan sát thấy ngày nay.
hạn hay chỉ là một thiếu sót toán học của GR
thì người ta không rõ, vì các phương trình của Làm thế nào chúng ta biết chúng ta có đang
GR không áp dụng được cho bên trong các lỗ sống bên trong một lỗ đen hay không? Không
đen. Mặt khác, phiên bản sửa đổi của các khó đâu. Một lỗ đen đang quay sẽ truyền một
phương trình Einstein mà Poplawski sử dụng phần spin sang không-thời gian bên trong nó,
thì xử lí được điểm kì dị đó. và tương tác này thể hiện dưới dạng một
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

“hướng ưu tiên” trong vũ trụ của chúng ta. Một


Trong phân tích của ông, Poplawski chuyển hướng ưu tiên như vậy sẽ mang lại sự vi phạm
sang một biến thể của GR gọi là thuyết hấp dẫn của một tính chất của không-thời gian gọi là
Einstein-Cartan-Kibble-Sciama (ECKS). đối xứng Lorentz, đối xứng liên hệ không gian
Không giống như các phương trình Einstein, sự và thời gian. Người ta cho rằng một sự vi phạm
hấp dẫn ECKS xét đến spin hay xung lượng như vậy có thể là nguyên nhân cho các dao
góc của các hạt sơ cấp. Tính cả spin của vật động đã quan sát thấy của neutrino từ dạng này
chất cho phép người ta tính được một tính chất sang dạng khác.
của hình học không-thời gian gọi là sự xoắn.
Buồn thay, không có điểm mốc nào để chúng
ta tìm kiếm những vũ trụ khác bên trong các lỗ
đen. Khi bạn tiếp cận một lỗ đen, trường hấp
dẫn tăng dần làm cho thời gian càng lúc càng
trôi chậm đi. Cho nên, đối với một người quan
sát ở bên ngoài, bất kì vũ trụ mới nào ở bên
trong đó cũng sẽ chỉ hình thành sau khi một
khoảng thời gian vô hạn đã trôi qua.
Theo New Scientist
Thuvienvatly.com T r a n g | 72

Các vụ nổ tia gamma có thể


quét sạch sự sống dưới đại Sự nguy hại đối với phiêu sinh vật sống trong
các đại dương không phải là bản thân tia
dương gamma mà là các chớp bức xạ tử ngoại (UV)
sinh ra bởi sự tương tác của tia gamma với
Theo một đội nghiên cứu người Cuba, một vụ khí quyển. Các tia gamma đến ban đầu từ
nổ tia gamma vũ trụ đi đến Trái đất có thể gây GRB sẽ bóc electron ra khỏi các phân tử chất
nguy hại đối với phiêu sinh vật đại dương ở khí. Những electron này sau đó sẽ kích thích
độ sâu lên tới 75m. Những sinh vật này chiếm các phân tử khác tạo ra sự phát xạ năng lượng
tới 40% sự quang hợp của đại dương, cho nên tử ngoại. Theo Cárdenas, khoảng 1-10% năng
một sự kiện như vậy có thể có tác động lượng tia gamma tới đi đến mặt đất dưới dạng
nghiêm trọng đối với hàm lượng carbon ánh sáng tử ngoại và có khả năng gây nguy
dioxide của Trái đất. hại cho phiêu sinh vật. Phần năng lượng còn
Các vụ nổ tia gamma (GRB) là những sự kiện lại xuất hiện dưới dạng ánh sáng khả kiến và
điện từ tỏa sáng mạnh nhất trong vũ trụ, giải hồng ngoại ít nguy hiểm hơn đối với sự sống.
phóng tới 1044 J năng lượng tia gamma trong Để mô phỏng tác động của bức xạ UV này,
một chùm hẹp trong vài giây đồng hồ. Chúng đội nghiên cứu đã khảo sát suất phản chiếu
có hai loại, dài và ngắn, và loại dài là phổ tiêu biểu cho các đại dương của Trái đất để
biến nhất và được cho rằng có nguyên nhân là tính ra phổ UV ở những độ sâu khác nhau. Họ
do sự co nhân của một sao siêu mới. Cho đến còn xét đến chất lượng quang của nước vì
nay, các GRB đã được quan sát thấy trong các không phải đại dương nào cũng sạch cả. Kết
thiên hà ở xa, chứ chưa thấy trong Dải Ngân hợp những dữ kiện này với một vài yếu tố
hà. Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu tin rằng khác, họ tìm thấy một ánh chớp UV có thể
một vụ nổ GRB như thế là nguyên nhân gây đâm xuyên tới 75m trong nước sạch, gây phá
ra sự tuyệt chủng hàng loạt Ordovician xảy ra hủy một enzyme thiết yếu cho sự quang hợp
cách nay chừng 450 triệu năm trước. và đồng thời làm cho phiêu sinh vật tiêu hao
Với quan điểm này, một đội gồm các nhà sinh một phần năng lượng từ sự quang hợp để sửa
học và vật lí học tại Trung tâm Đại học Las lỗi ADN bị hỏng.
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Villas ở Santa Clara, Cuba, đã lập mô phỏng


cái xảy ra khi một vụ nổ tia gamma ở gần –
cách xa chúng ta khoảng 6000 năm ánh sáng
– chạm tới Trái đất ngày nay. “Mong muốn
của chúng tôi là liên hệ thiên văn vật lí với
khoa học môi trường, một lĩnh vực nói chung
là chưa được khám phá. Chúng tôi muốn biết
làm thế nào các vụ nổ sao có thể ảnh hưởng
đến sự tiến hóa của sự sống trên Trái đất”,
nhà vật lí Rolando Cárdenas phát biểu.

Ảnh minh họa vụ nổ tia gamma GRB 020813, quan sát


thấy hồi năm 2002 và tồn tại khoảng hai phút. (Ảnh:
NASA/CXC/M Weiss)
Thuvienvatly.com T r a n g | 73

Sự suy giảm khả năng quang hợp như thế nhiều nguyên tố nặng hơn helium – và
này của phiêu sinh vật có thể có tác động GRB ít xảy ra hơn trong các môi trường
dễ thấy lên khí hậu của Trái đất. Carbon giàu kim loại”, Andrew Levan, một nhà
dioxide được tiêu thụ khối lượng lớn bởi nghiên cứu GRB tại Đại học Warwick,
phiêu sinh vật đại dương với chỉ một loài, Anh quốc, giải thích. Mặc dù hiếm, nhưng
Prochlorococcus marinus, đã chiếm tới không hẳn GRB không đi tới Trái đất
20% toàn bộ sự quang hợp của sinh quyển. được. “Các vụ nổ tia gamma có khả năng
Phiêu sinh vật còn là mắc xích đầu tiên xảy ra trong thiên hà của chúng ta khoảng
trong nhiều chuỗi thức ăn đại dương và sự 10 triệu năm một lần hoặc cỡ đó thời gian.
tàn lụi của chúng do tác động của GRB sẽ Để có tác động đối với Trái đất thì nó phải
có tác động chết chóc lên toàn giới sinh vật xảy ra trực diện với chúng ta và không ở xa
biển. lắm. Tuy nhiên, thật hợp lí nếu nghĩ rằng
trong lịch sử hơn 4,5 tỉ năm của Trái đất,
Tuy nhiên, GRB hiếm xảy ra trong các
có lẽ chúng ta đã từng bị ảnh hưởng bởi
thiên hà như Dải Ngân hà của chúng ta.
một vụ nổ GRB như thế”, Levan nói.
“Lời giải thích có khả năng nhất cho điều
này là Dải Ngân hà giàu kim loại hơn – với
Nguồn: physicsworld.com
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010
Thuvienvatly.com T r a n g | 74

Xúc tiến kế hoạch xây dựng Máy Va chạm Thẳng Quốc tế ILC
Các nhà vật lí tại phòng thí nghiệm vật lí bổ sung cho Máy Va chạm Hadron Lớn
hạt châu Âu CERN đang có kế hoạch xây (LHC) và giúp họ giải thích các bí ẩn của
dựng một máy va chạm thẳng dài 31 km để vũ trụ.

Ảnh minh họa các đường hầm ILC. (Ảnh: Fermilab/Sandbox Studio)
Máy va chạm nguyên tử vòng 27 km của phép các nhà vật lí khảo sát chi tiết hơn các
CERN, LHC, chỉ mới hoạt động trọn vẹn kết quả tìm kiếm của LHC.
hồi tháng 3 năm nay, nhưng các nhà khoa Người ta hi vọng ILC sẽ hoạt động cùng
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

học đã lên kế hoạch xây dựng một Máy Va với LHC, cho lao các proton vào nhau.
chạm Thẳng Quốc tế (ILC) mới, với chi Foster mô tả các va chạm proton đó là thô,
phí 6,7 tỉ USD, vào năm 2012 để cho lao và ông ví von nó giống như việc cho hai
các electron và positron vào nhau. Cỗ máy quả cam lao vào nhau ở tốc độ 45 dặm/giờ
va chạm electron thẳng duy nhất như thế là và hi vọng hai hạt cam sẽ va chạm trực
Máy gia tốc Thẳng Stanford dài 3,2 km xây diện với nhau. Trong proton, “các hạt cam”
dựng hồi năm 1962 ở California, Hoa Kì. là các quark cấu tạo nên proton, và thường
Đường hầm trên sẽ sử dụng các nam châm thì chỉ duy nhất một quark từ mỗi proton
siêu dẫn để gia tốc các electron cùng những va chạm sẽ có hướng lao trực diện. Foster
tương đương phản vật chất của chúng, nói LHC tìm kiếm mọi thứ có vẻ suôn sẻ,
positron, về phía nhau ở tốc độ gần bằng nhưng nó chỉ cho các nhà vật lí biết thông
tốc độ ánh sáng. Việc xây dựng được trông tin về lượng năng lượng cực đại mà một va
đợi mất khoảng 7 năm. Giám đốc châu Âu chạm có thể có, chứ cho họ biết rất ít về sự
của dự án ILC, giáo sư Brian Foster, cho phân bố năng lượng đó giữa các quark.
biết cỗ máy va chạm thẳng trên sẽ cho ILC sẽ cho mang lại cho các nhà khoa học
thông tin chính xác hơn về tiền tuyến năng
Thuvienvatly.com T r a n g | 75

lượng cao vì nó sẽ cho lao các electron vào LHC vì đường hầm LHC có dạng vòng, và
nhau, electron vốn nhẹ hơn proton đến khi các electron bị bẻ cong bởi từ trường
2000 lần và được xem là không có cấu trúc thì chúng phát ra tia X giống như các hạt
bên trong. Khi hai electron va chạm nhau, khác. Các electron lại quá nhỏ bên phần
năng lượng giải phóng ra đã được người ta lớn năng lượng đưa vào một electron sẽ chỉ
biết chính xác. Các electron không thể nào đủ bù cho sự tổn thất dưới dạng tia X.
va chạm nhau một cách hiệu quả bên trong

Máy Va chạm Thẳng Quốc tế ILC.


Một số câu hỏi mà ILC và LHC đang cố dinh CERN ở Geneva vì đa số các nhà vật
gắng đi tìm câu trả lời là vũ trụ có bao lí muốn sử dụng nó là ở đó. Khoảng 700
nhiêu chiều, tại sao lại có quá nhiều hạt hạ nhà khoa học ở 300 trường đại học và
nguyên tử, cái gì xảy ra với phản vật chất phòng thí nghiệm đang làm việc trong dự
mà lí thuyết Big Bang đã tiên đoán, và hạt án trên. Chiều dài cuối cùng của cỗ máy
Higgs (cái gọi là hạt ‘thần thánh’) trông vẫn chưa có sự nhất trí.
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

như thế nào? Lí thuyết vũ trụ được biết tới Tại Hội nghị quốc tế về Vật lí Năng lượng
nhiều nhất hiện nay tiên đoán sự tồn tại của cao (ICHEP) ở Paris trong tuần này, các
một hạt Higgs mang lại cho vật chất khối nhà khoa học sẽ dành một phần thời gian
lượng của nó. Nếu được phát hiện ra, thì nó
để thảo luận về ILC và các máy va chạm
có thể đặt nền tảng cho một sự thống nhất
thế hệ tiếp theo.
của các lí thuyết lượng tử và thuyết tương
đối tổng quát. Thông tin thêm về ILC -
http://www.linearcollider.org/
Địa điểm xây dựng ILC chưa được thống
nhất, nhưng có lẽ đâu đó gần tổng hành
Nguồn: PhysOrg.com
Thuvienvatly.com T r a n g | 76

Phát hiện một miệng hố va chạm thiên thạch


còn nguyên sơ qua Google Earth
Một miệng hố va chạm thiên thạch còn nguyên Cập. Miệng hố trên ban đầu được chú ý tới trên
sơ vừa được tìm thấy trong một khu vực xa xôi các ảnh chụp Google Earth, và người ta tin
hẻo lánh thuộc sa mạc Sahara ở tây nam Ai rằng nó chỉ mới vài nghìn năm tuổi.

Miệng hố Kamil. Ảnh: Luigi Folco.


Miệng hố rộng 45 m, sâu 16 m, tên gọi là Các nhà khoa học đã đặt chân đến địa điểm
Kamil, có lẽ hình thành bởi sự va chạm của trên hồi năm ngoái để xác nhận phát hiện mới,
một thiên thạch sắt, và lần đầu tiên được chú ý và quay trở về hồi tháng 2 năm nay. Trong
tới trên các ảnh chụp Google Earth hồi năm hành trình thám hiểm của mình, họ đã tìm được
2008 bởi Vincenzo de Michele, một cựu nhân hơn 5000 mảnh thiên thạch sắt, tổng khối
viên bảo tàng Civico Museo di Storia Naturale, lượng là 1,7 tấn, và họ ước tính khối thiên
ở Milan, Italy. thạch ban đầu rộng khoảng 1,3 m, cân nặng 5-
10 tấn, và chạm vào Trái đất ở tốc độ chừng
Các nhà nghiên cứu đứng đầu là Luigi Folco,
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

3,5 km/s, làm cho đa phần vật chất của nó bay


người phụ trách thiên thạch tại bảo tàng Museo
hơi.
Nazionale dell'Antartide thuộc trường Đại học
Siena, cũng đã báo cáo việc tìm thấy miệng hố Folco cho biết vì miệng hố trên được bảo quản
trên qua ảnh chụp vệ tinh vào năm 1972, và đã tốt nên nó sẽ cung cấp nhiều thông tinh về các
đến thăm địa điểm trên. Bản báo cáo có công vụ va chạm thiên thạch cỡ nhỏ. Chỉ có 176
bố trên phiên bản trực tuyến của tạp chí miệng hố va chạm thiên thạch được xác nhận
Science, số mới nhất. trên mặt đất, nhưng đa số bị san phẳng đi
nhanh chóng, và chỉ có 15 trong số chúng có
Bờ vành của miệng hố cao 3 m và bị bao quanh
đường kính nhỏ hơn 300 m. Những vụ va chạm
bởi các nan hay các viền vật chất màu nhạt do
như vậy xảy ra khoảng 10-100 năm một lần, và
cú va chạm thổi tung ra khỏi miệng hố. Folco
đa số các thiên thạch nhỏ bị bốc cháy khi
cho biết “miệng hố hình nan” là cực kì hiếm
chúng đi vào bầu khí quyển và không thể chạm
trên Trái đất nhưng phổ biến trên sao Hỏa hoặc
tới mặt đất.
mặt trăng, nơi bầu khí quyển mỏng mảnh ít
mang lại các quá trình bào mòn đối với chúng. Đội nghiên cứu cũng đã phân tích các mẫu đất
Trên Trái đất, các nan như vậy thường bị ăn và thủy tinh hình thành bởi sự kết tụ của cát ở
mòn hay san phẳng đi nhanh chóng. khu vực trên. Họ hi vọng những phân tích này
sẽ giúp họ xác định được tuổi của miệng hố, và
Thuvienvatly.com T r a n g | 77

những kết quả sơ bộ cho thấy thiên thạch trên hơn 5000 năm trước, một khoảng thời gian địa
có khả năng đã lao vào chúng ta không sớm chất rất gần gũi.

Mô hình độ cao kĩ thuật số của miệng hố Kamil cùng với


bản đồ dị thường từ
chồng lên trên sau khi đã tìm kiếm và thu gom có hệ
thống các thiên thạch > 10 g.
Ảnh: Luigi Folco, Science Express,
doi:10.1126/science.1190990.

Tọa độ của miệng hố Kamil là 22º 01' 06" Bắc


26º 05' 15" Đông.
Nguồn: PhysOrg.com
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010
Thuvienvatly.com T r a n g | 78

Giới hạn khối lượng mới cho


boson Higgs

Fermilab
Các thí nghiệm tại Fermilab đã thu hẹp Kết quả mới nhất từ máy va chạm Tevatron
ngưỡng khối lượng khả dĩ của boson tại Fermilab ở Chicago ước tính khối lượng
Higgs – hạt hay lảng tránh mà các nhà vật đó trong ngưỡng 158–175 GeV/C2 với độ
lí hi vọng trông thấy lần đầu tiên tại Máy tin cậy 95%. Khi kết hợp với các tìm kiếm
Va chạm Hadron Lớn (LHC). Các kết quả boson Higgs trước đây và các ràng buộc do
loại trừ khoảng một phần tư ngưỡng khối Mô hình Chuẩn yêu cầu, thì khối lượng hạt
lượng trước đây cho hạt Higgs và tăng Higgs có khả năng nhất là trong ngưỡng
thêm khả năng là nó sẽ hơi nhẹ - và do đó 114–158 GeV/C2 hoặc 175–185 GeV/C2.
khó phát hiện hơn.
Nếu hạt Higgs nặng về phía dưới của
Boson Higgs là những hạt mà Mô hình ngưỡng 114–158 GeV/C2 thì sẽ mất 5 đến
Chuẩn của ngành vật lí hạt đã tiên đoán, và nhiều năm nữa trước khi LHC có thể chứng
sự tồn tại của nó mang lại lời giải thích làm minh hay bác bỏ sự tồn tại của nó. Mặt
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

thế nào các hạt sơ cấp có được khối lượng khác, nếu nó ở tốp trên của ngưỡng này,
của chúng. Tuy nhiên, Mô hình Chuẩn hay ở 175–185 GeV/C2, thì sự tồn tại của
không tiên đoán khối lượng chính xác của nó có thể được xác lập trong thời gian
boson Higgs và việc xác định khối lượng chừng một năm mà thôi.
đó được người ta kì vọng là một thành tựu Mối ràng buộc mới trên là nỗ lực chung
quan trọng của LHC tại CERN ở Thụy Sĩ. của hai thí nghiệm chính của Tevatrton –
Cơ hội LHC tìm thấy hạt Higgs tùy thuộc CDF và DZero. Mỗi thí nghiệm ghi nhận
một phần vào khối lượng của ‘hạt thần khoảng 500.000 tỉ va chạm proton-phản
thánh’ này. Một hạt Higgs nặng hơn proton kể từ năm 2001 và hai đội thực
khoảng 140 GeV/C2 có khả năng phân hủy nghiệm đã làm việc độc lập nhau để sàng
thành các cặp boson Z và W, tạo ra một tín lọc dữ liệu tìm kiếm bằng chứng cho hạt
hiệu đặc trưng trong các máy dò LHC. Trái Higgs. Mặc dù cả hai đội đều không tìm ra
lại, một hạt Higgs nhẹ hơn sẽ nghiêng về dấu hiệu nào của hạt Higgs, nhưng các kết
một phân hủy thành các quark đáy quả sau đó được tổng hợp lại tính ra các
(bottom), chúng khó nhận ra trên nền nhiễu giới hạn khối lượng theo kiểu loại trừ.
của những sự kiện khác.
Thuvienvatly.com T r a n g | 79

Vẫn có cơ hội là hạt Higgs có thể được nữa để tăng thêm cơ hội tìm ra hạt Higgs –
nhận ra trong lượng dữ liệu khổng lồ mà thay vì đưa cơ sở ngừng hoạt động vào
Tevatron thu thập. Thật vậy, các nhà khoa năm 2011 như kế hoạch.
học làm việc tại cỗ máy va chạm trên hiện Các kết quả trên được thảo luận tại Hội
đang cố gắng thuyết phục các cơ quan tài nghị quốc tế về Vật lí Năng lượng cao đang
trợ Mĩ cho cơ sở hoạt động thêm vài năm diễn ra ở Paris, Pháp.
Nguồn: physicsworld.com
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010
Thuvienvatly.com T r a n g | 80

Các quốc gia họp bàn xúc tiến dự án Lò phản ứng Thực nghiệm
Nhiệt hạch Hạt nhân Quốc tế
Các lần trì hoãn, chi phí leo thang và các nhằm mục tiêu nghiên cứu một giải pháp
trở ngại tài chính đã đưa các quốc gia hậu năng lượng sạch và vô hạn thay thế cho
thuẫn cho Lò phản ứng Thực nghiệm Nhiệt nhiên liệu hóa thạch đang ngày một cạn
hạch Hạt nhân Quốc tế (ITER) gặp nhau kiệt trên Trái đất.
vào hôm qua để bàn về việc xúc tiến dự án. Dự án dự định triển khai lò phản ứng kiểm
ITER do Liên minh châu Âu đề xướng, với nghiệm tại Cadarache ở miền nam nước
45% chi phí đóng góp từ Trung Quốc, Ấn Pháp, nhưng chi phí leo thang đã khiến
Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Nga và Mĩ, nhiều quốc gia thành viên lo lắng.
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Lò phản ứng Thử nghiệm Nhiệt hạch Hạt nhân Quốc tế (ITER) sẽ được triển khai xây dựng
ở Cadarache, miền nam nước Pháp.
Tổng chi phí ước tính đối với EU, nhà hậu Ủy ban châu Âu hồi tháng rồi đã tuyên bố
thuẫn chính, đã tăng gấp đôi lên 7,2 tỉ euro chi thêm 1,4 tỉ euro cho phần đóng góp của
(9,2 tỉ USD), vượt quá chi phí ước tính ban châu Âu cho dự án, nhưng tuyên bố này
đầu khoảng 15 tỉ euro. cần được sự phê chuẩn của các thành viên
EU.
Cuộc họp diễn ra trong hai ngày (hôm qua
và hôm nay) ở Cadarache của các thành Tổng hành dinh quản trị của ITER và hai
viên hội đồng ITER đánh dấu sự khởi động tòa nhà chứa thiết bị sẽ được ưu tiên xây
của pha xây dựng và diễn ra sau khi EU dựng trước.
gồng mình bơm thêm ngân quỹ để giữ cho Cuộc họp trong tuần này cũng thông qua
dự án tiến triển theo kế hoạch. việc bổ nhiệm nhà vật lí người Nhật Bản
Osamu Motojima làm ông chủ mới của
Thuvienvatly.com T r a n g | 81

ITER, thay cho người đồng hương của ông, Nó cũng sẽ kiểm tra một số công nghệ then
Kaname Ikeda. chốt cho sự nhiệt hạch hạt nhân như sự
thiêu nóng, điều khiển và bảo trì từ xa,
Được thành lập vào năm 2006 sau nhiều
những công nghệ thiết yếu cho một nhà
năm tranh cãi, ITER nhắm tới mục tiêu là
máy điện nhiệt hạch.
xây dựng một cơ sở thực nghiệm để kiểm
tra xem sự nhiệt hạch hạt nhân có khả năng Các thử nghiệm sơ bộ sẽ chỉ sử dụng
là một nguồn cấp điện khả thi hay không. hydrogen. Các thí nghiệm trọng yếu sử
dụng tritium và deuterium có thể gây ra sự
Nhiệt hạch hạt nhân là thúc ép hạt nhân của
nhiệt hạch sản sinh những lượng lớn năng
các nguyên tố nhẹ trong một plasma siêu
lượng sẽ không được thực hiện trước năm
nhiệt, giam giữ trong một buồng hình bánh
2026.
rán gọi là tokamak, để chúng kết hợp lại
thành những nguyên tố nặng hơn và đồng Các nhà khoa học cho biết quá trình nhiệt
thời giải phóng lượng năng lượng khổng lồ. hạch nhân, quá trình xảy ra trong mặt trời
và các sao khác, sẽ là an toàn và không
Tháng 11 năm ngoái, ủy ban ITER đã từ bỏ
mục tiêu thu được plasma đầu tiên vào năm phải lo lắng các vấn đề chất thải gây ô
2018, và hồi tháng 3 rồi họ cho biết tháng nhiễm. Trong khi đó, sự phân hạch hạt
11 năm 2019 mới có plasma đầu tiên như nhân, quá trình thúc ép sự phân hủy của
một nguyên tử để giải phóng năng lượng,
vậy.
vẫn khiến người ta lo ngại về độ an toàn và
Theo thiết kế, ITER sẽ sản sinh 500 MW vấn đề chất thải phóng xạ nguy hiểm tồn
trong khoảng thời gian dài, gấp 10 lần năng tại lâu dài trong tự nhiên.
lượng cần thiết để giữ cho plasma giải
Nếu dự án ITER thành công, thì bước tiếp
phóng năng lượng, ở những áp suất cực kì
theo sẽ là xây dựng một lò phản ứng
cao.
thương mại, một mục tiêu có lẽ cần vài
thập niên nữa mới đạt tới.
Nguồn: AFP, PhysOrg.com
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010
Thuvienvatly.com T r a n g | 82

Các đối tác quốc tế thống nhất chi thêm tiền cho dự án ITER
Liên minh châu Âu và sáu đối tác hậu thuẫn được sự thống nhất về vấn đề tài trợ tài chính
cho dự án ITER (Lò phản ứng thực nghiệm và khung thời gian triển khai dự án thực
nhiệt hạch hạt nhân quốc tế) hôm qua đã đạt nghiệm này.

Mô hình lò phản ứng thực nghiệm ITER.

ITER đặt tại Cadarache ở miền nam nước Pháp, thời hạn này được lùi lại đến tháng 11 năm
do EU sáng lập, có 45% chi phí được đóng góp 2019.
từ Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản,
Sự nhiệt hạch hạt nhân là thúc ép hạt nhân của
Nga và Mĩ. Mục tiêu của nó là nghiên cứu một
các nguyên tố nhẹ ở trong một plasma quá
giải pháp năng lượng sạch và vô hạn để thay
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

nhiệt, giữ bên trong một cái buồng hình bán


thế cho nguồn nhiên liệu hóa thạch đã dần cạn
rán gọi là tokamak, để chúng hợp nhất thành
kiệt.
những nguyên tố nặng hơn, đồng thời giải
Con sốt tài chính và chi phí leo thang trong phóng năng lượng.
thời gian qua đã phủ mây mù lên dự án quốc tế
Cuộc gặp cũng đã chính thức bổ nhiệm nhà vật
nhiều tham vọng này. Tuy nhiên, sau hai ngày
lí người Nhật Bản Osamu Motojima làm tổng
gặp gỡ đối thoại ở Cadarache, ủy ban điều phối
giám đốc mới của ITER, thay cho người đồng
của ITER đã đạt tới sự thống nhất, và phía
hương của ông, Kaname Ikeda.
châu Âu cam kết sẽ chi bổ sung thêm tối đa 6,6
tỉ euro (8,5 tỉ USD) để tiếp tục xúc tiến dự án. Tổng chi phí ước tính do phía EU tài trợ đã
tăng gấp đôi lên 7,2 tỉ euro (9,2 tỉ USD). Chi
Cuộc gặp cũng đã chính thức đưa ra quyết định
phí tổng cộng do các bên đóng góp hiện đã lên
từ bỏ mục tiêu ban đầu của dự án là thu được
tới khoảng 15 tỉ euro.
plasma đầu tiên vào năm 2018, thay vào đó
Nguồn: AFP, PhysOrg.com
Thuvienvatly.com T r a n g | 83

ISS sắp có đồng hồ nguyên tử


chính xác nhất thế giới
Trên Trái đất, độ chính xác của các đồng
Trạm Vũ trụ Quốc tế (ISS) sẽ sớm có một hồ caesium bị hạn chế bởi trọng lực. Các
chiếc đồng hồ chính xác nhất từng được nguyên tử được làm lạnh bằng cách dùng
con người đưa lên không gian vũ trụ. Nó sẽ laser làm cho chúng chậm lại, sau đó tung
cho phép đồng hồ hóa tốt hơn các đồng hồ chúng thẳng đứng lên trên bên trong một
trên Trái đất và đồng thời khảo sát các cơ cái hộp trong đó nguyên tử thực hiện các
sở vật lí mới. phép đo để xác định tần số chính xác của
Hồi tuần rồi, Cơ quan Vũ trụ châu Âu bức xạ vi sóng mà chúng hấp thụ và phát
(ESA) cho biết thí nghiệm tên gọi là Bộ xạ. Trong môi trường không trọng lượng,
Đồng hồ Nguyên tử trong Vũ trụ (ACES) các nguyên tử nấn ná lại trong hộp lâu hơn,
sẽ được công ti EADS Astrium chế tạo và cho phép thực hiện các phép đo lâu hơn và
dự kiến phóng lên trạm vũ trụ vào năm chính xác hơn.
2014. Chiếc đồng hồ này sẽ định giờ bằng ACES sẽ chính xác hơn các đồng hồ trên
cách đo tần số vi sóng hấp thụ bởi các các vệ tinh GPS ít nhất là 100 lần.
nguyên tử caesium đông lạnh.
Sử dụng đồng hồ trên trạm vũ trụ làm một
mốc tham chiếu chung, các đồng hồ
nguyên tử trên mặt đất có thể được so sánh
với nhau chính xác hơn. Ngoài ra, người ta
có thể nhận ra các sai lệch giữa các đồng
hồ nguyên tử nếu như một hằng số vật lí cơ
bản gọi là alpha – hằng số chi phối lực điện
từ - không là bất biến.
Nguồn: New Scientist
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010
Thuvienvatly.com T r a n g | 84

Trái đất bị tiểu hành tinh đe dọa vào năm 2182


Theo một nghiên cứu quốc tế với sự tham 1/1000 sẽ va chạm với Trái đất chúng ta và
gia của các nhà khoa học Tây Ban Nha, hơn nửa xác suất này cho thấy cú va chạm
một tiểu hành tinh có nguy cơ gây hại tên định mệnh sẽ xảy ra vào năm 2182.
gọi là (101955) 1999 RQ36 có xác suất

Đây là những tiểu hành tinh vad sao chổi đã được phi thuyền của loài người thăm viếng.
Ảnh: ESA, NASA, JAXA, RAS, JHUAPL, UMD, OSIRIS
María Eugenia Sansaturio, đồng tác giả của Quỹ đạo của tiểu hành tinh trên được xác
bài báo đăng trên tạp chí Icarus và là nhà định qua 290 quan sát quang học và 13
nghiên cứu tại trường Đại học Valladolid, phép đo radar, nhưng “sai số quỹ đạo” là
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

cho biết: “Tổng xác suất va chạm của tiểu lớn vì ngoài hấp dẫn ra quỹ đạo của nó còn
hành tinh '(101955) 1999 RQ36' có thể ước bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng Yarkovsky.
tính là 0,00092 – xấp xỉ một phần nghìn, Hiệu ứng Yarkovsky là những nhiễu loạn
nhưng cái bất ngờ nhất là hơn nửa xác suất gây biến đổi chút ít đối với quỹ đạo của các
này (0,00054) tương ứng với năm 2182”. vật thể nhỏ thuộc hệ mặt trời vì, khi đang
quay, chúng đẩy bức xạ mặt trời đến từ
Tiểu hành tinh '(101955) 1999 RQ36' là
phía này sang phía bên kia, nghĩa là hai
một phần của Nhóm Tiểu hành tinh Có
phía của chúng có sự chênh lệch áp suất
nguy cơ gây hại (PHA) có khả năng va
bức xạ mặt trời.
chạm với Trái đất do quỹ đạo gần của
chúng, và chúng có thể gây phá hủy Tuy nhiên, biết trước những thực tế này có
nghiêm trọng đối với hành tinh chúng ta. thể cho phép các nhà khoa học nghĩ ra các
PHA này được phát hiện ra vào năm 1999 cơ chế làm chệch hướng đi của tiểu hành
và có đường kính 560 m. tinh trên.
Nguồn: PhysOrg.com
Thuvienvatly.com T r a n g | 85

Gặp gỡ nhà khám phá ra hạt quark:


Murray Gell-Mann
Matthew Blakeslee (New Scientist)
Murray Gell-Mann là nhà khoa học từng lí hạt đòi hỏi phải có một người tổ chức
đạt giải Nobel vật lí và hiện vẫn đang chúng lại. Không ai làm công việc đó tốt
nghiên cứu về cơ học lượng tử, nhưng ở hơn Gell-Mann, ông đi đến một khuôn khổ
tuổi 80, nay ông muốn quay trở lại với phân loại đưa các hạt thành những bộ tám –
niềm đam mê ngày xưa của mình – đó là hay các nhóm tám hạt.
nghiên cứu ngôn ngữ học. Ông đặt tên cho khuôn khổ của mình là Bát
Trước khi cuộc phỏng vấn của tôi với Đạo – ám chỉ đến con đường ngộ pháp của
Murray Gell-Mann chính thức bắt đầu, Phật giáo, cái ông đã tham khảo trước
chúng tôi đã đi ăn trưa. Chúng tôi đang ở chuyến đi Ấn Độ. Bát Đạo sớm đưa Gell-
Viện Santa Fe nằm ở vùng chân đồi thuộc Mann luận ra rằng proton và neutron rốt
vùng núi non Sangre de Cristo bang New cuộc chẳng phải là hạt sơ cấp, mà thật ra
Mexico. Và ở đây, mọi người cùng ăn trưa chúng được cấu tạo từ một loại hạt sơ cấp
với nhau. mới nữa. Ông gọi hạt này là “quark”, chơi
Chúng tôi ngồi tại một bàn trên hành lang chữ từ tiểu thuyết của nhà văn James Joyce.
lối đi cùng với một nhóm lộn xộn gồm các Quan điểm của Gell-Mann đã trở thành trụ
cột của mô hình chuẩn của ngành vật lí hạt,
nhà vật lí, các nhà sinh học và các nhà
mô hình giải thích được đa số các lực và
khoa học máy tính. Mọi người trao đổi rôm
hạt cơ bản đã biết, và ông được trao giải
rả về tương lai của báo giới khoa học. Gell-
thưởng Nobel vật lí năm 1969.
Mann, một trong những nhà vật lí hàng đầu
của thế kỉ 20, và là người đã khám phá ra Gell-Mann tiếp tục nghiên cứu vật lí học,
quark, tuyên bố ông không đánh giá cao nhưng ông là người có nhiều sở thích đa
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

các nhà báo khoa học. Quay sang phía tôi, dạng, cho nên ông còn theo đuổi những
Gell-Mann cười nhẹ và nói, “Nhưng tôi hứng thú khác nữa. Giữa thập niên 1980,
không chắc anh có là ngoại lệ không”. ông là một trong những thành viên sáng lập
của Viện Santa Fe (SFI), một trung tâm
Tôi nhắc Gell-Mann thôi đừng bực dọc vì
nghiên cứu liên ngành dành cho khoa học
sự lãng phí thời gian nữa. Đúng như tôi tin
của các hệ phức tạp. Nhiều ý tưởng quan
tưởng, một khi chúng tôi về nghỉ tại phòng
trọng đã được nung nấu và phát triển tại
làm việc của ông, Gell-Mann tỏ ra thật thân
SFI trong hơn 26 năm lịch sử của nó – thí
thiện và dễ mến.
dụ như các kiểu mẫu phức phát sinh từ
Nghiên cứu của Gell-Mann đã làm cách nhiều tương tác đơn giản giải thích tại sao,
mạng hóa cái nhìn của chúng ta về sự vận chẳng hạn, hành vi của đàn kiến nô dịch lại
động của vật chất ở thang bậc hạ nguyên tử. phức tạp hơn hành vi của từng con kiến
Trong thập niên 1950 và đầu thập niên một; và các kĩ thuật như thuật toán di
1960, khi danh mục các hạt sơ cấp ngày truyền có thể dùng trong các phần mềm tự
một mở rộng vượt khỏi bộ ba quen thuộc sinh ra lời giải cho các bài toán theo kiểu
gồm proton, neutron và electron, và xuất giống như học thuyết Darwin.
hiện những hạt ngày càng lạ lẫm, ngành vật
Thuvienvatly.com T r a n g | 86

Con người đã giúp dọn dẹp sự lộn xộn của thế giới
hạ nguyên tử (Ảnh: ChinaFotoPress/Getty)
Thật có chút mỉa mai là sau khi thực hiện James Hartle ở trường Đại học California,
một kì công lịch sử mang tính giản hóa Santa Barbara, tin rằng cách hiểu “tách rời
luận – sự tao nhã của Bát Đạo tương tự như lịch sử” của họ sẽ tháo gỡ được những
của bảng tuần hoàn các nguyên tố - Gell- vướng mắc này.
Mann lại là người kịch liệt phản đối Một đề tài hấp dẫn khác mà Gell-Mann
phương thức giản hóa luận mang tính lịch quan tâm là đa số ngôn ngữ của loài người
sử đối với khoa học. Tuy nhiên, ông thấy có chung một nguồn gốc. Kể từ thế kỉ thứ
phương thức này chẳng có gì phi lí. “Giản 19, các nhà ngôn ngữ học đã so sánh các
hóa luận là ý tưởng lớn, nhưng nó sẽ chỉ ngôn ngữ để suy ra tổ tiên chung của chúng,
đưa bạn tiến xa trong nghiên cứu các đối nhưng trong đa số trường hợp, Gell-Mann
tượng phức tạp. Tại sao anh không thử tìm nói, loại phân tích như thế này lạc mất dấu
hiểu động đất theo quark? Tất nhiên không tại thời điểm cách nay 6000 hoặc 7000 năm.
nên rồi. Anh nên sử dụng các khái niệm Ông nói đa số các nhà ngôn ngữ học khẳng
cấp trung, thí dụ như sự kiến tạo mảng và định rằng không thể lần theo vết tích đó đi
ma sát”. xa hơn nữa về quá khứ và – đây là cái thật
Gell-Mann đã bước sang tuổi 80, nhưng sự khiến ông day dứt – “thật vô lí là họ
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

ông vẫn giữ vẻ hóm hỉnh và sôi nổi ngày thậm chí chẳng hề thử xem có được hay
nào. Bài toán vật lí nổi bật nhất mà ông không”.
đang nghiên cứu là một phương thức khảo Gell-Mann lãnh đạo chương trình Sự tiến
sát cơ học lượng tử, không giống như cách hóa của Ngôn ngữ Loài người (EHL) của
hiểu Copenhagen nhiều người biết, không SFI. Các nhà ngôn ngữ học EHL cho biết
cần công nhận vị thế đặc biệt đối với vai
họ có thể lùi ngược xa hơn về quá khứ
trò của nhà quan sát thông minh. Theo cách bằng cách phân loại các họ ngôn ngữ thành
hiểu Copenhagen, quan sát từ bên ngoài là các siêu họ và thậm chí thành một siêu-siêu
cái làm cho một hệ lượng tử “suy sụp” vào
họ. “Cái chúng tôi tìm thấy”, Gell-Mann
một trạng thái đặc biệt nào đó. Nhưng giải thích, “là bằng chứng chưa chắc chắn
Gell-Mann nghĩ, nếu người quan sát phải ở
lắm cho một tình huống trong đó một phần
bên ngoài hệ, thì làm thế nào chúng ta có lớn ngôn ngữ của cả loài người có nguồn
thể xem con người là một bộ phận của vũ
gốc chung từ cách nay khoảng 20.000 năm,
trụ, và làm thế nào các hệ lượng tử hành xử
cho đến cuối kỉ băng hà gần nhất”. Đội
trước khi có sự sống thông minh tồn tại? nghiên cứu không khẳng định kết luận đó
Gell-Mann và người cộng sự của ông, cho mọi ngôn ngữ, vì dẫu sao vẫn còn có
Thuvienvatly.com T r a n g | 87

cái gì đó chưa ổn. “Mọi kết luận như thế nói khoa học phức chỉ là một lát rất nhỏ
này đều xuất phát từ phân tích dữ liệu mà của con đường dẫn tới sự hoàn thiện.
ra”, ông nói. Chúng ta chỉ mới sờ đến bên ngoài của nó
mà thôi”. Ông nhận xét như thế đã là lạc
Nhiều nhà khoa học đạt giải Nobel thường
quan rồi, nó có nghĩa là chúng ta chưa đạt
có những bước nhảy nghề nghiệp đột ngột,
tới sự hiểu biết sâu sắc hơn về các khuôn
và Gell-Mann không phải là ngoại lệ.
mẫu tiềm ẩn và các mối quan hệ tồn tại
Nhưng tại sao ông lại chọn ngôn ngữ học?
giữa nhiều lĩnh vực có tính nhân loại và
Đối với Gell-Mann, động thái này thật ra là
toàn cầu.
một sự quay trở lại với một trong những sở
thích thời trai trẻ của ông. Ông vốn không Các khủng hoảng và thách thức mà chúng
ưa vật lí học phổ thông và ban đầu dự tính ta đang đối mặt trong thế kỉ 21 bao gồm
trở thành hoặc một nhà ngôn ngữ học, hoặc nhiều vấn đề đan xen chính trị, xã hội, văn
một nhà khảo cổ. Nhưng khi ông viết đơn hóa, kinh tế và khoa học. “Tất cả những
xin nhập học trường Yale, bố của ông đã vấn đề này cần được xếp chung lại với
thuyết phục ông chọn vật lí làm môn học nhau trong một số dạng mô hình. Nhưng
chính. “Tôi nghĩ tôi có thể đổi sang ngành hiện nay chúng chủ yếu được nghiên cứu
học khác một khi tôi đã được nhận vào một cách tách rời nhau”, Gell-Mann nói.
trường”, Gell-Mann nhớ lại, “nhưng tôi Đó là những vấn đề quá ư lộn xộn cần có
quá lười để làm như vậy. Và hóa ra cha của một nhà tổ chức lại cho quy củ, và Gell-
tôi đã đúng. Tôi thích vật lí, và tôi có sở Mann hi vọng nền khoa học phức có thể
trường”. mang đến một Bát Đạo mới cho các vấn đề
toàn cầu ấy.
Trong đời mình, Gell-Mann luôn là một
người khao khát nghiên cứu ngôn ngữ học. Murray Gell-Mann nhận giải Nobel vật lí
Cách nói chuyện của ông thường lèo lái năm 1969 cho công trình của ông về sự
sang từ nguyên học, ngữ nghĩa học, và phân loại các hạt sơ cấp và các tương tác
cách phát âm. Ông tìm tòi gốc rễ Ấn-Âu của chúng. Sinh ra ở thành phố New York
của “plec”, nghĩa là “gấp nếp” và xuất hiện vào năm 1929, ông vào trường đại học
trong cả “simplex” (đơn giản) và Yale năm 15 tuổi và lấy bằng tiến sĩ tại
“complex” (phức tạp). Viện Công nghệ Massachusetts. Năm 1984,
ông là người đồng sáng lập ra Viện Santa
“Vậy thì chúng ta đang ở đâu đây?”, ông
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Fe.
nói, cuộc trò chuyện của chúng tôi có chút
lạc đề. “À đúng rồi, sự phức tạp. Tôi muốn
Nguồn: New Scientist
Thuvienvatly.com T r a n g | 88

Các lỗ đen đang quay có thể là công cụ để phát hiện ra axion


Các lỗ đen không những liên tục mang đến nó sẽ co lại và rơi vào lỗ đen, trong khi
các bất ngờ, mà chúng còn có thể là công phần còn lại thì bị ném ra phía ngoài và có
cụ để khám phá những hạt vật chất kì lạ thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn khủng
khó phát hiện ra trên Trái đất. khiếp của lỗ đen.

Với các điều kiện thích hợp, một hạt tán xạ Toàn bộ quá trình sau đó lặp lại như cũ,
ra khỏi một lỗ đen đang quay tròn sẽ kích nhưng với lỗ đen quay chậm hơn trước đó.
hoạt sự hình thành một hạt mới. Điều này “Về cơ bản, quá trình tiếp diễn cho đến khi
còn làm cho lỗ đen mất đi một chút xung lỗ đen mất hết spin của nó”, phát biểu của
lượng góc, một hiệu ứng gọi là “siêu bức Sergei Dubovsky thuộc trường Đại học
xạ”. Stanford ở California. Hiệu suất của hiệu
ứng đó phụ thuộc vào khối lượng của lỗ
Asimina Arvanitaki ở trường Đại học đen, cho nên dấu hiệu của các axion là sự
California, Berkeley, cùng các đồng nghiệp thiếu hụt các lỗ đen đang quay nhanh thuộc
cho biết sự thất thoát xung lượng góc này một khối lượng nhất định. Các hạt kì lạ đó
có thể khai thác để săn tìm các hạt giả còn có thể tiết lộ sự có mặt của chúng trong
thuyết gọi là axion, hạt cấu thành nên vật những đợt bùng phát sóng hấp dẫn phát ra
chất tối lạnh không nhìn thấy, cái dường khi các đám mây của chúng bị xé toạc ra
như đang giữ các thiên hà lại với nhau. xung quanh lỗ đen hoặc khi các hạt đó di
chuyển từ một đám mây axion này sang
Theo tính toán của đội nghiên cứu, một đám mây khác.
axion độc thân phát ra bởi một lỗ đen đang
quay tròn có thể kích thích sự phát xạ thêm “Thật bất ngờ là bạn có thể biết nhiều điều
nhiều axion để tạo thành một đám mây như vậy về một hạt nhỏ bé, khối lượng nhẹ
quay xung quanh lỗ đen đó. Sự tạo thành bằng cách nhìn vào một đối tượng vĩ mô,
của mỗi axion sẽ giải phóng năng lượng to lớn, phức tạp trên bầu trời”, phát biểu
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

quay ra khỏi lỗ đen. Cuối cùng thì đám của Andrew Strominger thuộc trường Đại
mây đó đủ đậm đặc để cho một phần của học Harvard.
Nguồn: New Scientist
Thuvienvatly.com T r a n g | 89

Phương pháp mới tạo ra các bộ ba photon


Một đội nghiên cứu quốc tế vừa đạt tới một Quá trình này đã được đề xuất cách đây 20
cột mốc quan trọng trong nghiên cứu năm, nhưng trước đây người ta chưa bao
quang học lượng tử - đó là trực tiếp tạo ra giờ thực hiện được trong thực nghiệm.
các bộ ba photon. Các nhà khoa học đã tìm
kiếm kết quả này trong nhiều năm nhưng Vì mỗi bộ ba phát sinh từ một photon bơm,
trước đây chưa hề thành công. cho nên các tương quan lượng tử sẽ mở
rộng cho cả ba photon theo kiểu không thể
Trước đây, việc tạo ra các cặp đôi photon thu được khi sử dụng các cặp photon tạo ra
đã làm cách mạng hóa ngành quang học độc lập.
lượng tử và từng bước hiện thực hóa các
công nghệ đang xuất hiện như mã hóa Người ta hi vọng nguồn phát bộ ba photon
lượng tử và điện toán lượng tử với các này sẽ cho phép kiểm tra các tương quan
photon. lượng tử kì lạ, và sẽ từng bước hiện thực
hóa ngành điện toán lượng tử.
Thông thường, những cặp photon này được
tạo ra bằng cách gửi những xung laser Kì công trên thuộc về Thomas Jennewein,
cường độ mạnh qua một tinh thể. Trong Hannes Hübel, Deny Hamel và Kevin
phương pháp mới, các nhà nghiên cứu tạo Resch ở trường Đại học Waterloo, Canada,
ra các bộ ba photon bằng cách trước tiên cùng với Alessandro Fedrizzi ở trường Đại
tạo ra một cặp photon, sử dụng một tinh thể học Queensland, Australia và Sven
quang, sau đó phân tách một trong hai Ramelow thuộc Viện Hàn lâm Khoa học
photon thành hai photon nữa bên trong một Áo.
tinh thể thứ hai.
Nguồn: PhysOrg.com
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010
Thuvienvatly.com T r a n g | 90

Tương lai truyền thông lượng tử qua vệ tinh không còn xa


Sự truyền thông bởi các hệ mã hóa lượng Một số hệ máy chiếu phim 3D hiện đại đã
tử mang lại sự an toàn tuyệt đối, nhưng với phân cực ánh sáng theo cách này để phân
điều kiện là bạn phải làm chủ được công biệt hai hình ảnh dùng để tạo ra ảo giác 3D.
nghệ. Làm như vậy đảm bảo một người xem
phim đeo kính phân cực sẽ nhìn thấy hiệu
Nhiều gia thức mã hóa lượng tử hoạt động ứng 3D cho dù đầu họ có nghiêng đi.
bằng cách đo spin “lên” hoặc “xuống” trên
các cặp photon bị vướng víu chia sẻ giữa Một hệ 3D sử dụng ánh sáng phân cực
một người gửi, thường gọi là Alice, và một ngang và phân cực dọc để phân biệt hai
người nhận gọi là Bob. Hai thành viên của hình ảnh chỉ hoạt động nếu như kính mắt
cặp photon vướng víu luôn có spin ngược của người xem được định hướng cùng
hướng nhau. Nếu một kẻ nghe trộm chặn chiều lên-xuống như máy chiếu của rạp –
một photon lại, thì hoạt động đọc nó sẽ ảnh nói cách khác, nó chỉ hoạt động khi kính
hưởng đến cặp đôi vướng víu và có thể đeo và máy chiếu cùng chia sẻ chung một
phát hiện ra được. hệ tham chiếu vật lí.

Kỉ lục khoảng cách cho sự truyền thông mã Nếu thông tin được mã hóa trên phương
hóa lượng tử giữa hai địa điểm trên Trái diện phân cực tròn của sự vướng víu
đất hiện nay là 144 km. Nếu sự mã hóa photon, thì có khả năng cho Alice và Bob
lượng tử được triển khai trên quy mô toàn thiết lập một khóa mã hóa lượng tử, cho dù
cầu, thì dữ liệu phải được gửi qua các cổng họ không có chung một hệ tham chiếu vật
kết nối vệ tinh, và ở đây phương pháp lí.
truyền thống gặp phải trở ngại: sự thu nhận
tín hiệu lên và xuống của một vệ tinh đang Hệ thống tương đối đơn giản trên vẫn còn
quay trên quỹ đạo thay đổi theo thời gian, hạn chế ở chỗ phát hiện người nghe trộm,
khiến nó khó nhận ra spin của một photon nhưng Anthony Laing, một thành viên của
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

và xác lập khóa mã hóa. đội nghiên cứu ở Bristol, cho biết có nhiều
cách để giải quyết vấn đề đó. Mặc dù sự
Một đội khoa học tại Đại học Bristol ở Anh thiếu một hệ tham chiếu chung cản trở việc
quốc vừa phát minh ra một giao thức độc sử dụng các phép đo spin lên/xuống thông
lập với sự định hướng khai thác thực tế là thường để xác lập một khóa mã hóa, nhưng
các photon có thể vừa có sự phân cực tròn người gửi và người nhận vẫn có thể đo
vướng víu vừa có spin vướng víu. chúng.

Ánh sáng phân cực tròn có thể hình dung là Và sự kết hợp những phép đo như vậy trên
cái đinh ốc xoắn theo chiều kim đồng hồ chuỗi photon dùng để mã hóa kênh truyền
hoặc ngược chiều kim đồng hồ theo trục thông là đủ để phát hiện ra kẻ nghe trộm.
truyền của nó. Hai dạng xoắn đó được nhận Toán học chỉ là thủ thuật thôi, còn “vật lí
ra dễ dàng, cho dù sự định hướng của mới mang lại phương thức cố hữu để làm
người nhận là như thế nào không quan như vậy”, Laing nói.
trọng.
Thuvienvatly.com T r a n g | 91

Norbert Lütkenhaus tại trường Đại học photon có xu hướng bị thất thoát sau khi
Waterloo ở Ontario, Canada, cho biết giao truyền đi những khoảng cách xa, làm giảm
thức mới trên có khả năng là một công cụ hiệu suất truyền thông, và các máy dò
rất hữu ích trong sự phát triển công nghệ photon thỉnh thoảng ghi nhận sự phát hiện
thông tin lượng tử. Nhưng ông nói thêm khi mà chẳng có mặt photon nào hết, điều
rằng vấn đề lớn nhất trong sự truyền thông đó có thể gây ra sai số trong dữ liệu.
qua vệ tinh trên Trái đất là thực tế các
Nguồn: New Scientist
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010
Thuvienvatly.com T r a n g | 92

‘Mặt người trên sao Hỏa’ chỉ là đồi đá mà thôi

Tàu vũ trụ Viking 1 của Mĩ hồi tháng 7 Nhưng một ảnh chụp mới công bố hôm qua,
năm 1976 đã chụp một bức ảnh trong đó do camera HiRISE phân giải cao của
xuất hiện cái dường như là một ngọn đồi NASA thực hiện, cuối cùng cho thấy Mặt
hình mặt người trên bề mặt đầy bụi bặm người trên sao Hỏa thật sự chỉ là một ngọn
của hành tinh đỏ. đồi đá cỡ lớn nằm giữa sa mạc sao Hỏa.

Ảnh cận cảnh vùng đá nâng nổi tiếng trên bề mặt sao Hỏa, nơi có
‘mặt người’ gây xôn xao dư luận hồi thập niên 1970.
Chỉ trong vài ngày sau khi bức ảnh năm người đó thật ra là một ngọn núi mặt bàn
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

1976 được công bố, nhiều người đã tranh dài vài dặm, cao vài trăm feet. Còn các chi
cãi sôi nổi rằng cấu trúc trên là do con tiết trông tựa như gương mặt, mắt, mũi,
người tạo ra và đã được xây dựng bởi miệng là sản phẩm của góc nghiêng giữa
những người sao Hỏa trong quá khứ xa xôi. tia sáng mặt trời và bề mặt lỗ chổ của nó.
Tuy nhiên, với ảnh chụp HiRISE từ cao độ
300 km trên mặt hành tinh đỏ, thì mặt
Thuvienvatly.com T r a n g | 93

Ảnh trắng đen nguyên bản của tàu vũ trụ Viking.


Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Phiên bản đen trắng của ảnh chụp HiRISE. Trong bức ảnh phân giải cao này,
gương mặt người không còn xuất hiện nữa.

Khi công nghệ và kĩ thuật chụp ảnh ngày một tiến bộ, gương mặt trên sao Hỏa bắt đầu ngày một kém “tính
người” đi.
Thuvienvatly.com T r a n g | 94

Ảnh phối cảnh ba chiều thể hiện vùng đồi mặt người trên sao Hỏa.
Nguồn: Daily Mail
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010
Thuvienvatly.com T r a n g | 95

Các chuyên gia người Nhật kêu gọi đưa rô bôt lên thám hiểm mặt
trăng
Thứ năm hôm qua 29/07, trong một bản báo Đội nghiên cứu đã phác thảo việc xây dựng căn
cáo vừa phê chuẩn, ủy ban chuyên gia cố vấn cứ đầu tiên của thế giới tại cực nam của mặt
cho chính phủ Nhật Bản đã kêu gọi quốc gia trăng vào năm 2020 do các rô bôt có bánh xe
này đưa một rô bôt có bánh xe lên mặt trăng tiên tiến thực hiện.
trong 5 năm tới và xây dựng căn cứ mặt trăng
đầu tiên vào năm 2020. Ban đầu, họ dự định đưa lên mặt trăng một rô
bôt dạng người có hai chân, nhưng sau phân
“Việc khám phá mặt trăng là cực kì quan tích cho thấy một rô bôt “kiểu xe bốn chân” thì
trọng... như chúng ta đã thấy từ buổi bình minh thực tế hơn do bề mặt chị hằng vốn dĩ mấp mô.
của kỉ nguyên chinh phục vĩ đại trong hệ mặt
trời”, bản báo cáo trình bày. “Trung Quốc, Ấn Nhóm nghiên cứu ước tính chi phí cho sứ
Độ và các nước khác đang nhắm tới mục tiêu mệnh không người lái đó sẽ là 200 tỉ yen (2 tỉ
thám hiểm mặt trăng. Nếu như Nhật Bản cứ USD) trong 10 năm. Tất nhiên, số tiền này sẽ
chần chừ, thì sẽ khó duy trì ưu thế của chúng ta chẳng dễ gì có được trong tình hình hiện nay
trong lĩnh vực khoa học về mặt trăng”. khi mà chính phủ Nhật đang nỗ lực cắt giảm
chi tiêu ngân sách.
Lưu ý rằng một vệ tinh quan sát của Nhật Bản
đã gửi về thành công những hình ảnh phân giải Ủy ban trên sẽ sớm đệ trình bản báo cáo của
cao của toàn bộ mặt trăng, bản báo cáo trên cho mình lên bộ trưởng vận tải Seiji Maehara,
rằng nước Nhật nên đẩy mạnh chương trình người phụ trách chương trình thám hiểm vũ trụ
thám hiểm mặt trăng để thể hiện “sự hiện diện của chính phủ Nhật Bản.
quốc tế” của họ.
Bản báo cáo sau đó sẽ được thảo luận tại Bộ
Ủy ban trên, gồm các chuyên gia đến từ Cơ tham mưu chiến lược Chính sách Vũ trụ do thủ
quan Thám hiểm Vũ trụ Nhật Bản, một cơ tướng Naoto Kan chủ trì.
quan do chính phủ tài trợ, đồng thời là cơ quan
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

kinh tế và nghiên cứu hàn lâm, đã phê chuẩn Chương trình vũ trụ của Nhật Bản đã có một
bản báo cáo, gác lại một năm tranh cãi về dạng phát triển lớn trong năm nay khi một phi
thức của phi thuyền thám hiểm mặt trăng của thuyền không người lái đã quay về từ hành
quốc gia này. trình 7 năm đi khảo sát một tiểu hành tinh xa
xôi, và từ sự thành công của một “du thuyền vũ
Theo kế hoạch, nhiệm vụ của rô bôt mặt trăng trụ” được cấp nguồn chỉ bằng ánh sáng mặt
là lắp đặt một dụng cụ quan sát và thu thập các trời.
mẫu địa chất để gửi về Trái đất. Rô bôt cũng sẽ
lắp đặt các tấm mặt trời để phát điện. Bạn đồng minh thân cận của Nhật Bản, nước
Mĩ, đã hủy một chương trình đưa người Mĩ trở
lại mặt trăng vào năm 2020.

Nguồn: AFP, PhysOrg.com


Thuvienvatly.com T r a n g | 96

WWW.THUVIENVATLY.COM

Bản Tin Vật Lý

© Thư Viện Vật Lý


www.thuvienvatly.com
banquantri@thuviemvatly.com
Tháng 8 năm 2010
Bản Tin Vật Lý Tháng 8 - 2010

Nội dung: Trần Nghiêm – trannghiem@thuvienvatly.com


Biên tập: Trần Triệu Phú – trieuphu@thuvienvatly.com
Thiết kế: Bích Triều, Vũ Vũ
Cùng một số Cộng tác viên khác

 Trong bản tin có sử dụng hình ảnh và các bài dịch từ các tạp chí nổi tiếng
Physics World, Nature Physics, New Scientist, cùng một số tạp chí khác.

You might also like