You are on page 1of 264

CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI

ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NGÀNH


CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ VIỆT NAM
BỘ CÔNG THƯƠNG

CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI


ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NGÀNH
CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ VIỆT NAM
Tác giả: Ts.Trần Hoàng long

NHÀ XUẤT BẢN CÔNG THƯƠNG


Hà Nội - 2012
MÃ SỐ: KT 05 ĐH 12
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
DANH MỤC CÁC HÌNH, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH
THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
NGÀNH CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN CÔNG 15
NGHIỆP HỖ TRỢ
1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại công nghiệp hỗ trợ 15
2. Vai trò của công nghiệp hỗ trợ 27
3. Nội dung cơ bản của việc phát triển công nghiệp hỗ trợ 35
II. CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT 43
TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
1. Khái niệm 43
2. Một số nội dung chủ yếu của chính sách thương mại tác 52
động đến công nghiệp hỗ trợ
3. Quan điểm, phương pháp và nội dung đánh giá tác động của 65
chính sách thương mại đến sự phát triển công nghiệp hỗ trợ
III. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC VỀ CHÍNH 74
SÁCH THƯƠNG MẠI NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG
NGHIỆP HỖ TRỢ
1. Kinh nghiệm về chiến lược thương mại quốc gia nhằm phát 74
triển công nghiệp hỗ trợ
2. Kinh nghiệm về chính sách thương nhân nhằm phát triển 78
công nghiệp hỗ trợ
3. Kinh nghiệm về chính sách thị trường và mặt hàng nhằm 82
phát triển công nghiệp hỗ trợ
4. Kinh nghiệm về chính sách xuất nhập khẩu và công cụ 85
của chính sách xuất nhập khẩu nhằm phát triển công
nghiệp hỗ trợ
5. Các bài học kinh nghiệm về chính sách thương mại 91
nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI SỰ
PHÁT TRIỂN CNHT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 - 2011
I. TỔNG QUAN MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP HỖ 95
TRỢ CHỦ YẾU Ở VIỆT NAM
1. Tổng quan về số lượng, cơ cấu, đặc điểm của các doanh 95
nghiệp công nghiệp hỗ trợ
2. Khái quát sự phát triển của một số ngành CNHT chủ yếu 101
2.1. Công nghiệp hỗ trợ cơ khí chế tạo của Việt Nam 101
2.2. Công nghiệp hỗ trợ điện tử - tin học của Việt Nam 105
2.3. Công nghiệp hỗ trợ sản xuất và lắp ráp ô tô của Việt Nam 108
2.4. Công nghiệp hỗ trợ dệt may của Việt Nam 112
2.5. Công nghiệp hỗ trợ da - giầy ở Việt Nam 117
II. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI ĐỐI 123
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở
VIỆT NAM
1. Hệ thống các văn bản, chính sách thương mại ảnh hưởng 123
đến sự phát triển công nghiệp hỗ trợ
2. Phân tích tác động của chính sách thương mại đối với sự 143
phát triển công nghiệp hỗ trợ trên cơ sở các kết quả điều tra,
phỏng vấn
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH 177
THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CÔNG
NGHIỆP HỖ TRỢ Ở VIỆT NAM
1. Thành tựu 177
2. Hạn chế 182
3. Nguyên nhân của các hạn chế 191
CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH
THƯƠNG MẠI NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ
TRỢ Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020
I. BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC ẢNH 197
HƯỞNG ĐẾN HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THƯƠNG
MẠI NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở
VIỆT NAM
1. Bối cảnh quốc tế 197
2. Bối cảnh trong nước 199
II. .DỰ BÁO NHU CẦU PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP 202
HỖ TRỢ CỦA VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020
1. Đối với ngành cơ khí chế tạo 203
2. Đối với ngành điện tử - tin học 204
3. Đối với ngành sản xuất và lắp ráp ô tô 206
4. Đối với ngành dệt - may 208
5. Đối với ngành da - giầy 210
III. QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƯỚNG CỦA VIỆC HOÀN 212
THIỆN CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI NHẰM PHÁT
TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở VIỆT NAM
1. Quan điểm của việc hoàn thiện chính sách thương mại 212
nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam
2. Định hướng của việc hoàn thiện chính sách thương mại 217
nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam
IV. GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH 220
THƯƠNG MẠI NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
HỖ TRỢ
1. Hoàn thiện văn bản, chiến lược cấp quốc gia nhằm phát 220
triển công nghiệp hỗ trợ
2. Hoàn thiện chính sách thương nhân nhằm phát triển công 226
nghiệp hỗ trợ
3. Hoàn thiện chính sách thị trường và mặt hàng nhằm phát 236
triển công nghiệp hỗ trợ
4. Hoàn thiện chính sách và các công cụ của chính sách về 244
xuất nhập khẩu nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ
5. Tăng cường phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại 253
phát triển công nghiệp hỗ trợ giữa các bộ ngành và cộng đồng
doanh nghiệp
6. Khuyến nghị đối với các doanh nghiệp 256
TÀI LIỆU THAM KHẢO 263
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. Từ viết tắt Tiếng Việt
Từ viết tắt Tên đầy đủ
CN Công nghiệp
CNHT Công nghiệp hỗ trợ
CSTM Chính sách thương mại
DN Doanh nghiệp
DNNVV Doanh nghiệp nhỏ và vừa
ĐTNN Đầu tư nước ngoài
SP Sản phẩm
SXKD Sản xuất kinh doanh
TM Thương mại
XNK Xuất nhập khẩu

2. Từ viết tắt Tiếng Anh


Từ viết tắt Tên đầy đủ Tiếng Anh
AFTA ASEAN Free Trade Area
APEC Asia-Pacific Economic Cooperation
ASEAN Association of Southeast Asia Nations
FDI Foreign Direct Investment
JETRO Japan External Trade Organization
MNCS Multi-national companies
ODA Official Development Assistance
OEMS Original Equipment Manufacturer
United Nations Industrial Development
UNIDO
Organisation
VAT Value Added Tax
VDF Vietnam Development Forum
WTO World Trade Organization
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

Bảng 1.1: Một số đặc điểm các nhà cung cấp linh kiện ô tô
tại Nhật Bản
Bảng 1.2: Chính sách của nhà nước hỗ trợ phát triển thương
nhân
Bảng 2.1: Số lượng DN trong các ngành CN theo các năm
Bảng 2.2: Số lượng DN theo từng ngành CN chính và CNH
Bảng 2.3: Số lao động trong các DN CNHT
Bảng 2.4: Số lao động trung bình trong các DN CNHT
Bảng 2.5: Vốn của các DN CNHT
Bảng 2.6: Năng suất lao động thời kỳ 2000 - 2007
Bảng 2.7: Một số DN ĐTNN vào CNHT điện tử - tin học
Bảng 2.8: Một số DN ĐTNN cho CNHT sản xuất ô tô
Bảng 2.9: Năng lực sản xuất một số SP phụ kiện may của
Việt Nam
Bảng 2.10: SP chủ yếu của ngành và tốc độ tăng trưởng
Bảng 2.11: Tình trạng máy móc, thiết bị của ngành da - giầy
Việt Nam
Bảng 2.12: Thống kê về cuộc điều tra
Bảng 2.13: Mức độ tiếp cận các nguồn vốn của DN tư nhân
Bảng 2.14: Những khó khăn DN gặp phải khi vay tiền từ các
tổ chức tín dụng
Bảng 2.15: Mức độ tiếp cận thông tin về các văn bản luật,
thủ tục hành chính
Bảng 2.16: Mức độ tiếp cận thông tin về kế hoạch, chính
sách
Bảng 2.17: Vai trò của quan hệ cá nhân với các công chức để
tiếp cận thông tin về chính sách, thủ tục
Bảng 2.18: Nhu cầu cung cấp thông tin
Bảng 2.19: Đánh giá của DN về nguồn cung cấp trong nước
Bảng 2.20: Tỉ lệ DN đánh giá về thủ tục đăng ký mã số thuế
xuất khẩu và các thủ tục liên quan đến XNK
DANH MỤC CÁC HÌNH, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ

Hình 1.1: Mô hình quá trình xây dựng và thực hiện chính
sách công
Hình 1.2: Sơ đồ kim cương của M. Porter trong phân tích và
đánh giá lợi thế cạnh tranh của DN
Hình 1.3: Tác động của thuế quan nhập khẩu
Hình 2.1: Tỉ trọng số lượng DN CNHT hình thức sở hữu
trong các ngành CN
Hình 2.2: Sơ đồ mô tả quá trình sản xuất dệt may
Hình 2.3: Nhập khẩu bông theo tháng giai đoạn 2007 - 2009
Hình 2.4: Đánh giá chất lượng của thủ tục đăng ký kinh
doanh
Hình 2.5: Đánh giá chất lượng của thủ tục khắc dấu
Hình 2.6: Đánh giá chất lượng của thủ tục đăng ký mã số
thuế
Hình 2.7: Đánh giá chất lượng của thủ tục mua hoá đơn giá
trị gia tăng
Hình 2.8: Nguyên nhân làm DN chậm có được mặt bằng
SXKD
Hình 2.9: Tác động của từng nhóm CSTM đến từng ngành
CNHT
LỜI MỞ ĐẦU

Mục tiêu tổng quát trong chiến lược phát triển kinh tế,
xã hội 2011 - 2020 đã được Đại hội XI của Đảng thông qua
chỉ rõ: “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Tuy nhiên, quá trình
công nghiệp hoá của Việt Nam hiện nay đang đứng trước một
thử thách rất lớn là phải tiến hành trong điều kiện tự do hoá
thương mại với các nước trên thế giới. Trong khi đó, sức
cạnh tranh của hàng công nghiệp Việt Nam nói chung còn
yếu, nhất là những ngành sản xuất các loại máy móc, thiết bị,
linh kiện, vật liệu. Điểm yếu cơ bản nhất của công nghiệp
Việt Nam có thể nói bắt nguồn từ sự yếu kém của ngành công
nghiệp hỗ trợ (CNHT) , nó liên quan đến “sự sinh tồn” của
nền công nghiệp Việt Nam, nó đi liền với vấn đề liệu nền kinh
tế Việt Nam có đủ sức cạnh tranh quốc tế để phát triển hay
không. Một mặt nữa, cũng chính sự yếu kém của CNHT đã
góp phần vào thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam. Vì
chúng ta phải nhập khẩu rất nhiều linh kiện, nguyên phụ liệu
đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu và càng đẩy mạnh xuất
khẩu thì nhu cầu về đầu vào cho sản xuất càng tăng mạnh,
đây là nguyên nhân khiến nhập siêu tăng cao.
Trong khi đó, chính sách thương mại hiện nay cũng có
những bất cập tác động đến CNHT cần phải hoàn thiện như:
Sự phát triển của thị trường nội địa còn mang nặng tính tự
phát, thiếu bền vững; Thương nhân tuy đông nhưng chưa
mạnh, phần lớn thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn ít,
mạng lưới cơ sở vật chất, kỹ thuật nhỏ bé, nghèo nàn, lạc
hậu, thiếu chiến lược phát triển, năng lực và vị thế còn yếu;
Quy mô xuất khẩu xét cả về tổng kim ngạch xuất khẩu lẫn
bình quân đầu người vẫn còn nhỏ hơn so với các nước trong
khu vực; Việc triển khai thực hiện các cam kết khu vực và
quốc tế của Việt Nam còn thụ động, không ít các doanh
nghiệp còn tư tưởng muốn kéo dài sự bảo hộ; Việc áp dụng
các tiêu chuẩn về môi trường trong hoạt động thương mại, đã
gây cho các doanh nghiệp Việt Nam một số khó khăn trong
quá trình tiếp cận thị trường của các nước phát triển. Tất cả
những yếu kém đó đều có nguyên nhân xuất phát từ các
Chính sách Thương mại (CSTM) chưa theo kịp tình hình thực
tế của đất nước và thế giới, do đó ảnh hưởng không nhỏ đến
phát triển CNHT ở Việt Nam hiện nay.
Thực tiễn đang đòi hỏi chúng ta phải có biện pháp tăng
cường sự chủ động, tái cấu trúc nền kinh tế. Đây được xem
như là một trong những nhiệm vụ cấp thiết và quan trọng
hiện nay.
Như vậy, có thể thấy rằng việc phát triển CNHT phải
được xem là một trong những nhiệm vụ trung tâm của hệ
thống chính sách quốc gia. Trong đó CSTM là một loại chính
sách rất được quan tâm. Với ý nghĩa trên, để góp phần đẩy
nhanh sự phát triển của CNHT, Nhà xuất bản Công Thương
xin được giới thiệu cùng bạn đọc “Chính sách thương mại
đối với sự phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam”
của Tiến sĩ kinh tế Trần Hoàng Long. Hi vọng ấn phẩm sẽ
là tài liệu hữu ích để quý vị tham khảo trong quá trình nghiên
cứu và thực tiễn sản xuất kinh doanh .
Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc

NHÀ XUẤT BẢN CÔNG THƯƠNG


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH
THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NGÀNH
CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại công nghiệp hỗ trợ
1.1. Khái niệm công nghiệp hỗ trợ
“Công nghiệp hỗ trợ” hay còn gọi khác là “Công
nghiệp phụ trợ”; “Công nghiêp bổ trợ”, xuất phát từ tên gọi
tiếng Anh “supporting industries”, xuất hiện ở Nhật Bản từ
thập niên 60 của thế kỷ XX. Tuy vậy, phải đến giữa thập niên
80 của thế kỷ XX, khái niệm này mới được biết đến ở Đông
Á và được dùng phổ biến từ đầu thập kỷ 90. Mặc dù thuật
ngữ CNHT đã được nhắc đến từ khá lâu song cho đến nay
vẫn chưa có một khái niệm chung cho tất cả các quốc gia.
Tùy theo điều kiện cụ thể của ngành CN nước mình mà mỗi
nước lại có một định nghĩa khác nhau
Ở Nhật Bản, định nghĩa CNHT chính thức được đưa ra
lần đầu tiên vào giữa những năm 1980 trong Chương trình
Phát triển CNHT Châu Á, theo đó “CNHT là các ngành CN
cung cấp những gì cần thiết, như nguyên vật liệu thô, linh
phụ kiện và hàng hóa tư bản, cho các ngành CN lắp ráp”
. Hiện nay, ở Nhật Bản, CNHT được hiểu là một nhóm
các hoạt động CN cung ứng đầu vào trung gian cho các
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

ngành CN hạ nguồn. Nói cách khác, CNHT nằm ở phần giữa


của quá trình sản xuất, từ thượng nguồn đến hạ nguồn. Hàn
Quốc, Đài Loan cũng xác định CNHT theo cách này.
Trong khi đó, theo Cục phát triển CNHT Thái Lan,
“CNHT là các nguyên liệu và quy trình cần thiết để sản xuất
ra SP trước khi chúng được đưa ra thị trường”
Bộ Năng lượng Mỹ định nghĩa CNHT bao gồm những
ngành cung cấp các quy trình cần thiết để sản xuất và hình
thành SP trước khi chúng được đưa đến các ngành CN cuối
cùng. Chương trình phát triển ngành CNHT hiện nay ở Mỹ
bao gồm 07 ngành: các thiết bị làm nóng CN; xử lý nhiệt;
rèn; hàn; luyện kim bột và các vật liệu dạng hạt; sứ cao cấp;
các SP các-bon.
Nhìn chung, các nước châu Âu không sử dụng cụm từ
“Công nghiệp hỗ trợ” mà thường gọi lĩnh vực này là “các
ngành cung ứng” (Supplier Industries), chỉ việc cung cấp SP
từ các DN bên ngoài.
Như vậy, có thể thấy rằng CNHT là một khái niệm
rộng, có tính chất tương đối. Dù có rất nhiều cách định nghĩa,
các khái niệm CNHT đều có các điểm chung như sau: (i)
cung ứng các linh phụ kiện cho mục đích sản xuất SP cuối
cùng; (ii) bao gồm các công đoạn chủ yếu để sản xuất các
linh kiện kim loại, nhựa và cao su, điện và điện tử, nhằm
phục vụ một số ngành CN chế tạo như xe máy, ô tô, điện tử,
chế tạo máy móc; (iii) việc cung ứng này chủ yếu được đáp
ứng bởi hệ thống DNNVV có trình độ công nghệ cao, tạo ra

16
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

những SP có độ chính xác lớn, thực hiện các cam kết hợp
đồng với khách hàng một cách chuẩn mực; (iv) khách hàng
cuối cùng của các ngành CNHT là nhà lắp ráp, do vậy, thị
trường của CNHT không rộng như sản xuất SP cho người
tiêu dùng cuối cùng. Thị trường hàng hoá của họ thu hẹp hơn,
có những nhóm SP nằm ở phần thị trường rất hẹp và chỉ dành
cho một số khách hàng nhất định. Đây chính là khó khăn lớn
nhất để phát triển CNHT. Mặc dù vậy, CNHT lại trở nên hấp
dẫn và tương đối ổn định nếu DN hỗ trợ đó tìm được khách
hàng dài hạn, hoặc tìm được thị trường “ngách” cho mình.
Ở Việt Nam, khái niệm CNHT xuất hiện trong các
chương trình hợp tác kinh tế với Nhật Bản. Thuật ngữ CNHT
được sử dụng chính thức từ năm 2004, chủ yếu trong các chỉ
thị, công văn chỉ đạo của Thủ tướng chính phủ. Nội dung
phát triển CNHT đã được đề cập trong Quy hoạch tổng thể
phát triển các ngành CN Việt Nam và Kế hoạch tổng thể phát
triển CN điện tử Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến
2020. Trong đó, CNHT được định nghĩa: Hệ thống CNHT là
hệ thống các nhà sản xuất và công nghệ sản xuất có khả năng
tích hợp theo chiều ngang, cung cấp nguyên vật liệu, linh
kiện, phụ tùng… cho khâu lắp ráp cuối cùng
Trong bản quy hoạch này, CNHT được phân chia thành
hai thành phần chính, phần cứng liên quan đến sản xuất và
phần mềm là hệ thống dịch vụ CN và marketing. Năm nhóm
ngành đã được Chính phủ chỉ định ưu tiên phát triển CNHT
và được hoạch định kế hoạch phát triển cụ thể, đó là: cơ khí,
điện tử, ô tô, dệt may, da - giầy.

17
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Như vậy, có thể thấy khái niệm về CNHT của Việt Nam có
nét khác biệt so với các khái niệm ở các quốc gia khác:
(i) CNHT được xác định rộng hơn, từ khâu sản xuất
nguyên vật liệu đến cả các dịch vụ CN và không chỉ tập trung
các DNNVV mà cả các DN lớn. Điều này đồng nghĩa với
việc rất khó có thể tạo ra được trọng tâm trong CNHT.
(ii) Các ngành CNHT ở đây được xác định trên cơ sở
các ngành CN hạ nguồn (cơ khí, điện tử, ô tô, dệt may, da -
giầy) chứ không xác định trên đặc thù SP của ngành sản xuất
hỗ trợ (cơ khí chế tạo, nhựa, điện tử…).
Ngoài ra, cùng với thuật ngữ “Công nghiệp hỗ trợ”, có
một vài khái niệm khác cũng được sử dụng để chỉ ngành CN
chuyên cung cấp đầu vào như:
- CN liên quan và hỗ trợ: Thuật ngữ này được M.Porter
sử dụng như là một yếu tố quyết định của lợi thế cạnh tranh
quốc gia. Trong đó, CNHT được định nghĩa như khu vực tạo
ra các yếu tố đầu vào được sử dụng rộng rãi, còn CN liên
quan là những ngành trong đó DN có thể phối hợp và chia sẻ
các hoạt động trong cùng chuỗi giá trị khi họ cạnh tranh với
nhau, hoặc là những ngành sản xuất ra các SP có tính chất bổ
sung cho nhau
- Thầu phụ: Thuật ngữ này đã được sử dụng khá lâu
trong ngành CN nhưng không được định nghĩa cụ thể. Theo
Cơ quan Phát triển CN Liên hợp quốc (UNIDO) thì thầu phụ
là: “thỏa thuận giữa hai bên nhà thầu chính và nhà thầu phụ.
Nhà thầu chính giao cho một hoặc một vài DN sản xuất linh

18
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

phụ kiện hoặc cụm linh kiện và/hoặc cung cấp dịch vụ CN
cần thiết cho việc sản xuất SP cuối cùng của mình. Nhà thầu
phụ thực hiện công việc tuân theo sự chỉ định của nhà thầu
chính”. Hình thức thầu phụ khá phổ biến tại Nhật Bản và các
quốc gia NEC trong những năm 1950 - 1970. Tuy nhiên,
trong những năm gần đây, do áp lực kinh doanh và tồn tại,
các DN thầu phụ đang có khuynh hướng chuyển sang hình
thức độc lập hơn, giống như các DN trong ngành CNHT.
- CN phụ thuộc: Thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi ở
Ấn Độ từ những năm 1950, trong Luật CN năm 1951, CN
phụ thuộc được hiểu là hoạt động trong lĩnh vực CN có liên
quan đến hoặc có dự định liên quan đến việc chế tạo hoặc sản
xuất linh kiện, phụ tùng, cụm linh kiện, công cụ hoặc hàng
hóa trung gia, hoặc cung cấp dịch vụ. Có thể thấy rằng CN
phụ thuộc là một phần của CNHT dưới hình thức các hoạt
động CN quy mô nhỏ. Với đặc tính như vậy, rất khó có thể
tìm ra một chính sách độc lập để thúc đẩy sự phát triển của
ngành CN này.
- CN linh phụ kiện: Thuật ngữ này được hiểu là ngành
CN sản xuất phụ tùng, linh kiện, được sử dụng rộng rãi trong
ngành CN lắp ráp như xe máy, ô tô, điện và điện tử. Đây là
thuật ngữ có phạm vi hẹp, nó không bao gồm các yếu tố đầu
vào khác trong CNHT như dịch vụ, công cụ, máy móc và
nguyên liệu
- Nhà cung cấp: Cũng giống như “CN linh phụ kiện”,
thuật ngữ này không được định nghĩa cụ thể, nó được sử dụng
rộng rãi ở Malaysia và các nước Nam Á. Không giống với
“Công nghiệp hỗ trợ”, “nhà cung cấp” dùng để chỉ các DN đơn

19
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

lẻ, là một bộ phận của CNHT, nhân tố quan trọng cho sự phát
triển của ngành CN này.
Và đến đầu năm 2011, VN mới có khái niệm chính
thức về “Công nghiệp hỗ trợ”, khái niệm mày được đưa ra
trong quyết định số 12/2011/QĐ-TTg ban hành ngày
24/02/2011 của Thủ tướng Chính phủ, cụ thể như sau: CNHT
là các ngành CN sản xuất vật liệu, phụ tùng, linh kiện, phụ
kiện, bán thành phẩm để cung cấp cho ngành CN sản xuất,
lắp ráp các SP hoàn chỉnh là tư liệu sản xuất hoặc SP tiêu
dùng 0. Có thể khái quát lại: CNHT là ngành công nghiệp
sản xuất các sản phẩm để cung ứng cho các ngành công
nghiệp khác sản xuất các sản phẩm hoàn chỉnh. Đây là khái
niệm rộng, đầy đủ và phù hợp với thực tiễn nền CN và
CNHT ở VN, là căn cứ mang tính pháp lý để VN tiếp tục
phát triển mạnh mẽ hơn nữa ngành CNHT.
Như vậy, CNHT là một thực thể kinh tế được hình
thành từ thực tế phát triển CN của các quốc gia. Dưới tác
động của sự thay đổi cấu trúc CN, các nhà hoạch định chính
sách nhận thấy tầm quan trọng của một khu vực kinh tế và
cần phải có các chính sách để thúc đẩy sự phát triển của khu
vực này. Khái niệm “Công nghiệp hỗ trợ” được nhìn nhận từ
nhiều góc nhìn và quan điểm khác nhau, phụ thuộc vào mục
tiêu quy hoạch cũng như thiết lập chính sách CN đặc thù của
các quốc gia. Có thể rút ra một số kết luận quan trọng liên
quan đến các vấn đề lý luận của CNHT:
- CNHT là một khái niệm của CN hiện đại, được kế
thừa từ những khái niệm có liên quan và nhấn mạnh đến tầm
quan trọng của các ngành CN cung cấp các yếu tố trung gian

20
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

đầu vào cũng như các yếu tố hỗ trợ cho các ngành CN then
chốt, có giá trị kinh tế cao và quá trình sản xuất phức tạp.
- Khái niệm chung về CNHT tương đối đồng nhất, tuy
nhiên, tùy vào mục đích sử dụng mà mỗi quốc gia có sự giới
hạn phạm vi của ngành này ở một số ngành cụ thể hay một số
hoạt động cụ thể.
- Ngành CNHT không được xem xét trong hệ thống
phân loại ngành kinh tế theo quan điểm truyền thống (theo
lĩnh vực sản xuất) mà chỉ được xem xét như một ngành CN
với sự tái định nghĩa các ngành CN theo cấu trúc dọc (theo
hoạt động sản xuất) dưới áp lực của chuyên môn hóa quy
trình và tái cấu trúc DNCN.
- Đối với các quốc gia đang phát triển, CNHT đóng vai
trò quan trọng trong việc tạo ra SP xã hội, thúc đẩy tăng
trưởng của các ngành CN mũi nhọn, thu hút vốn ĐTNN và
nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, vùng và địa
phương.
- Việc xác định phạm vi của ngành CNHT phải căn cứ
trên điều kiện đặc thù cũng như hoạch định chính sách CN
của mỗi quốc gia, không nên sử dụng chung định nghĩa của
các quốc gia khác, vì như vậy có thể tạo ra sự phát triển
không ổn định cũng như đánh mất tính chủ động và độc lập
của nền kinh tế đất nước.
1.2. Đặc điểm của ngành công nghiệp hỗ trợ
Cho dù các cách tiếp cận về CNHT có thể khác nhau,
nhưng có thể nói đây là một ngành có phạm vi khá lớn với sự

21
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

tham gia của đông đảo các DN. CNHT có những đặc điểm
riêng từ cấu trúc tới đặc điểm phát triển của ngành:
- Thứ nhất, sự phát triển của CNHT là tất yếu của quá
trình phân công lao động xã hội. Tại các nước phát triển, khi
quy mô sản xuất cũng như sự phức tạp hóa của SP đạt đến
một mức độ nhất định, quá trình phân lý các hoạt động lắp
ráp và sản xuất linh kiện thành những công đoạn độc lập sẽ
hình thành, chuyên môn hóa sẽ xuất hiện. Quá trình này là tất
yếu và gắn liền với sự thay đổi trong phân công lao động theo
hướng chuyên môn hóa này là sự ra đời của các ngành
CNHT. Còn tại các nước đang phát triển, với sự đầu tư của
các nước phát triển trong ngành CN lắp ráp như ô tô, xe máy,
điện, điện tử … sẽ kéo theo sự phát triển CNHT.
- Thứ hai, CNHT là ngành phức tạp và rộng lớn. Khoa
học kỹ thuật ngày càng phát triển, các SP sản xuất ra ngày
càng tinh vi hơn, mỗi SP lại có vô số các chi tiết hợp thành.
Một DN dù lớn đến mức nào cũng không thể và không nên tự
mình sản xuất khép kín một SP. Lợi thế cạnh tranh và quá
trình chuyên môn hóa sản xuất không cho phép làm điều đó. Do
vậy, để sản xuất một SP hoàn chỉnh cần sự tham gia của nhiều
DN, nhiều ngành khác nhau. Điều đó dẫn đến CNHT có phạm
vi rất rộng, cả về mặt liên kết ngành hay địa lý.
- Thứ ba, CNHT góp phần tạo nên “chuỗi giá trị”. Khi
một ngành CN sản xuất hay lắp ráp một SP nhất định phát
triển, cần có một hệ thống các ngành CNHT để cung cấp các
chi tiết SP đó. Đến lượt nó, các DN được coi là hỗ trợ cho SP
đó lại cần các DN khác “hỗ trợ” cho mình. Cứ như vậy, để có
hệ thống các ngành CNHT, ngoài việc phải phát triển các

22
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

ngành CN cơ bản, cần có sự phát triển của các ngành CNHT


khác nữa. Như vậy, chỉ với một SP, chuỗi giá trị đã kéo dài
và mở rộng ra hầu hết các ngành CN cơ bản và tạo ra giá trị
cho nhiều ngành CN khác.
- Thứ tư, CNHT không phải là ngành “công nghiệp
phụ”. Nói đến CNHT người ta thường nghĩ đến các ngành
sản xuất phụ tùng, linh kiện, nguyên phụ liệu cho các ngành
lắp ráp như ô tô, xe máy, máy móc thiết bị cơ khí, điện, điện
tử, dệt may … (những ngành thường được coi là ngành CN
chính). Chính vì vậy, trên thực tế, CNHT thường bị coi là
ngành “công nghiệp phụ”, tuy nhiên, điều này hoàn toàn
không hợp lý. Về mặt lý luận CNHT có thể được hiểu là
ngành đối xứng với các ngành CN lắp ráp, có vai trò như các
ngành CN khác. Ngành CN chính, chỉ có thể phát triển khi
ngành CNHT phát triển và ngược lại, khi ngành CN chính đã
phát triển sẽ tạo “động lực” thúc đẩy phát triển ngành CNHT.
- Thứ năm, thu hút số lượng lớn DN, nhất là các
DNNVV. Một đặc điểm của CNHT là nó thu hút một số lượng
DN lớn, với nhiều quy mô khác nhau trong đó có một số
lượng lớn các DNNVV. Do tính chất đa cấp và phát triển
theo hình cây của hệ thống CNHT, số lượng các DN ở cấp
thấp rất lớn. Đa phần các DN ở cấp này là các DNNVV. Ví
dụ trong ngành ô tô Nhật Bản (bảng 1.1) cho thấy, chỉ tính tới
các nhà cung cấp cấp 3, quy mô DN trung bình chỉ là 10 lao
động. Trong các lĩnh vực sản xuất khác, điều kiện cũng tương
tự như vậy.

23
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Bảng 1.1: Một số đặc điểm các nhà cung cấp linh kiện ô tô tại Nhật
Bản

Đặc điểm Nhà cung cấp Nhà cung cấp Nhà cung cấp Nhận xét
cấp 1 cấp 2 cấp 3 chung
Quy mô Quy mô lớn Quy mô trung Quy mô nhỏ và Càng cấp
(Số lượng (1.198 người) bình (69 rất nhỏ (10 dưới quy mô
lao động) người) người) càng nhỏ
Độ tuổi bình Thấp (39 tuổi) Trung bình Cao (46 tuổi) Càng cấp
quân của lao (42 tuổi) dưới, độ
động tuổi càng
cao
Số lượng 5,3 công ty 4,5 công ty 2,5 công ty Càng cấp
khách hàng cao càng
bình quân nhiều
khách hàng
Quy mô Quy mô lớn Quy mô trung Quy mô nhỏ Cấp càng
sản xuất (4.540.000 bình (530.000 (140.000 thấp, quy
hàng tháng SP/tháng) SP/tháng) SP/tháng) mô sản xuất
càng nhỏ
Chủng loại Đa dạng (594 Trung bình Ít (35 chủng Cấp càng
SP chủng loại) (107 chủng loại) thấp, chủng
loại) loại SP
càng ít

Nguồn: Báo cáo tổng hợp đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Nhà nước (2010), “Chính sách Phát triển công nghiệp hỗ trợ ở
Việt Nam đến năm 2020”, Mã số: KX.01.22/06/10.
Đặc tính này của CNHT cho thấy tầm quan trọng của
phát triển CNHT và vai trò quan trọng của chính sách nhà
nước trong phát triển ngành CN này, đặc biệt tại các nước
đang phát triển. Phát triển CNHT là cơ sở cho DN tham gia

24
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

vào hệ thống sản xuất của các công ty đa quốc gia, tiếp nhận
công nghệ, tham gia hệ thống toàn cầu. Phát triển CNHT
không chỉ là một phương thức hiệu quả thu hút ĐTNN mà
còn là cơ sở tạo lập một cơ sở CN bền vững trong nước với
số lượng lớn các DN tham gia. Tuy vậy, để phát triển CNHT
với sự tham gia của nhiều DNNVV, những đối tượng hạn chế
về khả năng về vốn, công nghệ, quản lý, nhà nước cần có
những chính sách hỗ trợ và khuyến khích mạnh mẽ.
1.3. Phân loại công nghiệp hỗ trợ
Việc phân loại CNHT có thể được thực hiện theo các
tiêu thức khác nhau.
- Phân loại theo ngành nghề sản xuất ra SP cuối cùng.
Theo cách tiếp cận về CNHT là một hệ thống bao trùm chuỗi
giá trị sản xuất ra một SP, một chủng loại SP cụ thể, CNHT có
thể phân thành các ngành phù hợp với các SP cuối cùng chính
như: cơ khí, điện tử, tin học, ô tô, dệt may, da - giầy...
Cách phân loại CNHT trong này được sử dụng khá phổ
biến cả trong thực tế và trong nghiên cứu, nhất là nghiên cứu
từng ngành sản xuất riêng lẻ. Ưu điểm của nó là xác định rõ
ràng các đối tượng tham gia một hệ thống ngành CN, đóng
góp vào chuỗi giá trị để sản xuất ra SP cuối cùng. Khi đã xác
định rõ ràng các đối tượng tham gia vào ngành CNHT của
từng ngành, các chính sách trở nên trực tiếp và xu hướng có
hiệu quả nhanh chóng hơn.
Tuy vậy cách phân loại này gặp phải khó khăn khi một
DN CNHT tham gia vào nhiều ngành sản xuất khác nhau. Ví
dụ như một DN sản xuất linh kiện kim khí rèn dập, SP của họ
có thể là linh kiện cho ô tô, xe máy, … Khó có thể xác định
nhà sản xuất này tham gia một ngành đơn nhất nào. Chính sự

25
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

giao thoa này làm hạn chế khả năng tiếp cận DN CNHT, kể
cả về mặt nghiên cứu và chính sách.
- Phân loại theo ngành/ công nghệ sản xuất linh kiện.
Đây là cách thức phân loại căn cứ vào chủng loại SP DN sản
xuất ra hoặc công nghệ mà DN đó sử dụng. Ví dụ, một DN
sản xuất dây điện có thể cung cấp SP cho sản xuất xe máy,
điện, điện tử...; một DN cơ khí chế tạo khuôn mẫu có thể
cung cấp cho khách hàng trong ngành nhựa, ô tô, xe máy, cơ
khí nông nghiệp, điện, điện tử..
Với cách tiếp cận phân loại trên, có thể phân loại
CNHT theo các ngành sản xuất liên quan tới các vật liệu điển
hình: linh kiện nhựa; gia công kim khí; linh kiện cao su; linh
kiện thủy tinh; sản xuất hóa chất; nguyên liệu thô; …
Cách phân loại này khắc phục phần nào nhược điểm
của các phân loại trên khi một DN cung cấp tham gia vào
nhiều ngành sản xuất SP cuối cùng khác nhau. Nhược điểm
của các phân loại này là nó không bao trùm hết toàn bộ ngành
CNHT, các nhà cung cấp trực tiếp cho các nhà sản xuất lắp
ráp SP cuối cùng thường là những nhà sản xuất những cụm
linh kiện với nhiều chi tiết là nhựa, kim loại gia công, cao
su… Cách phân loại theo quy trình công nghệ hay gia công
nguyên vật liệu hạn chế khả năng tiếp cận những nhà cung
cấp trên.
Tuy vậy, nhìn lại lịch sử phát triển của thuật ngữ
CNHT, có thể nói ngành này là một trong những đối tượng
ưu tiên trong chính sách hợp tác phát triển CN của các nước
đang phát triển với các nước phát triển, nhất là Nhật Bản.
Bản thân khái niệm “Công nghiệp hỗ trợ” cũng từ yêu cầu
xây dựng chính sách phát triển và liên kết CN mà ra. Đứng từ

26
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

góc nhìn của các nhà ĐTNN, đối tượng các nhà cung cấp mà
họ thường cần tới là những nhà sản xuất với các công nghệ và
SP cụ thể như rèn, dập, đúc, gia công kim loại… Việc phân
loại CNHT theo công nghệ sản xuất cho phép các DN và
người lập chính sách tại các nước đang phát triển xác định
đúng đối tượng ưu tiên trong chính sách của mình.
2. Vai trò của công nghiệp hỗ trợ
Trong định hướng xây dựng nền kinh tế theo hướng
công nghiệp hiện đại, CNHT đóng vai trò quan trọng:
- Một là, Công nghiệp hỗ trợ có vai trò thúc đầy quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Theo khái niệm của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì các yếu tố sau cần được
thỏa mãn:
(i) “Quá trình cải biến lao động thủ công lạc hậu thành
lao động sử dụng công nghệ tiên tiến hiện đại”. Phát triển
công nghiệp hỗ trợ giúp các doanh nghiệp không phải thực
hiện mọi khâu trong quá trình sản xuất ra một sản phẩm với
khoản chi phí khổng lồ. Với sự phát triển của công nghiệp hỗ
trợ, các doanh nghiệp chỉ cần tập trung vào chuyên môn hóa,
vào khâu mà mình có khả năng làm tốt nhất với một mức đầu
tư chi phí hợp lý nhất. Kết quả là xã hội có sự phân công lao
động ngày càng sâu sắc.
(ii) “Sử dụng công nghệ tiên tiến hiện đại”. CNHT là
một ngành đòi hỏi chi phí cho máy móc, công nghệ lớn hơn
bất kỳ một ngành CN nào khác. Yếu tố công nghệ là một
trong những yếu tố quan trọng trong sự phát triển của ngành
CNHT. Với những nước đang phát triển, CNHT cần phải tận
dụng lợi thế của người đi sau, tiếp thu trực tiếp từ các nước
có nền CN phát triển thông qua hình thức ĐTNN, ODA…

27
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Chính vì thế, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
ngành CNHT là ngành có nhu cầu lớn nhất trong việc sử
dụng công nghệ hiện đại lớn nhất.
(iii) "Hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý". Một cơ
cấu kinh tế hợp lý là cơ cấu kinh tế trong đó tỷ lệ nông
nghiệp giảm, tỷ lệ CN và dịch vụ tăng lên. CNHT là ngành
bao trùm số lượng lớn các ngành CN khác nên ngành này
đang thu hút một số lượng lao động đáng kể. Kết quả là cơ
cấu lao động thay đổi, từ đó thay đổi cơ cấu kinh tế theo
hướng hợp lý hơn.
- Hai là, CNHT góp phần tăng trưởng kinh tế trong dài
hạn. Nếu như ba nhân tố cấu tạo nên tính cạnh tranh của một
SP CNHT được giải quyết thì CNHT sẽ trở nên cạnh tranh và
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn, vì:
(i) Một quốc gia với ngành CNHT cạnh tranh có thể duy
trì nguồn vốn ĐTNN cho ngành lắp ráp cuối cùng tương đối
lâu hơn một quốc gia không có ngành CNHT cạnh tranh. Với
xu hướng chi phí lao động ngày càng chiếm một tỷ lệ nhỏ, thì
một công ty đa quốc gia có thể vẫn ở lại một quốc gia cho dù
quốc gia đó đang mất đi lợi thế về chi phí lao động, miễn là lợi
ích mà họ nhận được từ việc sử dụng các đầu vào cạnh tranh
có thể bù đắp được chi phí lao động đang tăng cao.
(ii) SP của ngành CNHT có thể được xuất khẩu tới các
quốc gia mà ngành lắp ráp cuối cùng ở đó đang có nhu cầu.
Khi đó, ngành CNHT cạnh tranh sẽ tạo ra các SP là các bộ
phận có chất lượng tốt, giá cả cạnh tranh, vận chuyển đúng
thời gian, tạo được uy tín trên thị trường quốc tế.
(iii) Sự phát triển của ngành CNHT cũng sẽ tạo nên ảnh
hưởng tích cực trong việc thúc đẩy đổi mới công nghệ, từ đó

28
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

cải thiện phúc lợi của một quốc gia. Trong cuốn "Lợi thế
cạnh tranh của các quốc gia", M.Porter đã nhấn mạnh tầm
quan trọng của CNHT mang tính cạnh tranh với vai trò là
chất xúc tác quá trình đổi mới công nghệ. Hơn nữa, Ông cũng
đề cập đến các DN của một quốc gia sẽ hưởng lợi nhiều nhất
khi mà CNHT mang tính cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu
mặc dù một quốc gia không cần thiết phải có lợi thế cạnh
tranh trong tất cả các ngành CNHT nếu như quốc gia đó đã
có những ngành chuyên môn hóa nhất định
- Ba là, CNHT góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh
của SP CN. CNHT được coi là ngành sản xuất nền tảng của
ngành CN chính yếu, ở các nước phát triển, CNHT được ưu
tiên phát triển trước để làm cơ sở cho các ngành CN chính
như: cơ khí, điện tử, ô tô, dệt may, da - giầy... phát triển. Việc
phát triển CNHT không phải là tiêu chí tác động trực tiếp đến
năng lực cạnh tranh của các ngành CN chính, nhưng lại có
tác động gián tiếp, cụ thể như sau:
(i) Ngành CNHT phát triển sẽ tạo được nguồn cung đầu
vào ổn định, chất lượng, từ đó đảm bảo được khả năng giao
hàng cho các DN trong các ngành CN chính. Các DN lắp ráp
hay các DN sản xuất SP cuối cùng, dù là DN trong nước hay
các công ty đa quốc gia (MNCs), dù bán SP tại thị trường nội
địa hay xuất khẩu, đều có nhu cầu rất lớn về mua sắm các SP
CNHT như phụ tùng, khuôn kim loại, linh kiện, từ các nhà
cung cấp trong nước. Nếu CNHT không phát triển, các công
ty này sẽ phải phụ thuộc rất nhiều vào nhập khẩu linh phụ
kiện, điều này có thể ảnh hưởng đến tiến độ của hợp đồng.
Hơn nữa, khi ngành CNHT phát triển sẽ kích thích các nhà
sản xuất đầu tư nhiều hơn vào máy móc, dây chuyền thiết

29
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

bị... vì họ có thể yên tâm về tính đồng bộ và kịp thời trong


sản xuất.
(ii) CNHT giúp giảm giá thành sản xuất, hạ giá thành
SP, nâng cao giá trị gia tăng cho SP cuối cùng. Theo ông
Junichi Mori, chuyên gia UNIDO cho biết, đối với các SP
điện tử tiêu dùng, chi phí vật liệu và linh phụ kiện chiếm 70%
chi phí sản xuất, phần còn lại bao gồm chi phí về lao động
(khoảng 10%), chi phí chế tạo (18%) và chi phí hậu cần
(2%). Chính vì vậy, việc cắt giảm chi phí lao động của SP sẽ
không thu được nhiều kết quả so với việc cắt giảm chi phí
theo vật liệu và linh phụ kiện. Ngay cả khi những vật liệu và
linh phụ kiện này được cung cấp với giá rẻ ở nước ngoài thì
những phí tổn chuyên chở, bảo hiểm sẽ làm tăng chi phí đầu
vào cho DN rất nhiều. Đó là chưa kể đến những rủi ro về tiến
độ, thời gian nhận hàng nhập khẩu. Đối với các công ty đa
quốc gia thì sẽ gặp khó khăn hơn trong việc quản lý dây
chuyền cung cấp. Sự phát triển của CNHT trong nước sẽ tạo
rất nhiều điều kiện thuận lợi cho các DN lắp ráp SP cuối
cùng, hạ giá thành SP, nâng cao năng lực cạnh tranh. Do đó,
để phát triển CN, mỗi quốc gia không những cần xác định các
ngành CN chủ đạo, mũi nhọn mà song song với nó là phát
triển các ngành CNHT.
Mặt khác, theo ông Kenichi Ohno, giám đốc dự án
Diễn đàn phát triển Việt Nam phân tích thì giá trị gia tăng
chủ yếu của SP nằm ở quy trình sản xuất sử dụng công nghệ
cao, thường ở giai đoạn bắt đầu (thiết kế và linh phụ kiện) và
giai đoạn cuối (tiếp thị). Còn ở giai đoạn giữa (lắp ráp) lại
cần công nghệ tương đối thấp và chỉ tạo ra giá trị gia tăng

30
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

thấp. Theo tính toán của các chuyên gia, đối với một số
ngành, CNHT cung cấp tới 90-95% giá trị gia tăng trong sản
xuất CN.
Như vậy, sự phát triển CNHT trong nước sẽ giúp giảm
chi phí sản xuất do nâng cao được tỷ lệ nội địa hóa và giúp
các nhà lắp ráp có vốn ĐTNN mở rộng sản xuất. Sự tập trung
của CN phụ linh kiện cũng sẽ tạo điều kiện thu hút các nhà
lắp ráp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
- Bốn là, CNHT làm tăng khả năng thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài. CNHT có vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc thu hút dòng vốn ĐTNN, nhất là ngành sản xuất các loại
máy móc.
Một DN ĐTNN đang đầu tư sản xuất, lắp ráp tại một
quốc gia có những sự lựa chọn cho việc tiếp nhận các yếu tố
đầu vào như sau: (i) sản xuất nội bộ trong khuôn khổ các
công ty đó; (ii) đặt mua từ nhà cung cấp địa phương (có thể là
DN trong nước hoặc DN nước ngoài đặt tại thị trường nội
địa); (iii) nhập khẩu từ các quốc gia khác. Lựa chọn phương
án (ii) sẽ giúp DN ĐTNN linh hoạt hơn trong việc thu hút các
yếu tố đầu vào, có thể điều chỉnh sản lượng kịp thời trước
những thay đổi của thị trường, dễ dàng hơn trong đàm phán
và kiểm soát chất lượng. Ngoài ra, các DN ĐTNN cũng tiết
kiệm được chi phí vận chuyển, bảo hiểm, những rủi ro trong
quá trình vận chuyển so với việc nhập khẩu các yếu tố đầu
vào. Hơn thế nữa, không phải DN ĐTNN nào cũng có khả
năng sản xuất tại chỗ những SP CNHT.

31
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Từ phân tích ở trên cho thấy CNHT phải phát triển mới
thu hút ĐTNN, nhất là ĐTNN trong các ngành sản xuất các
loại máy móc. Tuy nhiên, cũng không phải là CNHT phát
triển đồng bộ rồi mới có ĐTNN. Có nhiều trường hợp ĐTNN
đi trước và lôi kéo các DN khác đầu tư phát triển CNHT. Cụ
thể, có thể chia quá trình ĐTNN xâm nhập vào thị trường nội
địa thành 3 giai đoạn như sau:
(i) Giai đoạn I: Trước khi ĐTNN vào đã có nhiều công
ty trong nước sản xuất SP CNHT cung cấp cho các công ty
lắp ráp, sản xuất SP chính cho thị trường nội địa. Khi có
ĐTNN, một bộ phận những công ty sản xuất CNHT sẽ phát
triển mạnh hơn nếu được tham gia vào mạng lưới chuyển
giao công nghệ của các DN ĐTNN. Tuy nhiên, để có thể trở
thành đối tác của các DN này, các công ty CNHT phải chứng
tỏ có tiềm năng cung cấp linh kiện, phụ liệu với chất lượng
và giá thành cạnh tranh được với hàng nhập khẩu.
(ii) Giai đoạn II: Đồng thời với sự gia tăng của ĐTNN,
nhiều DN bản xứ ra đời chủ yếu để phục vụ cho hoạt động
của các DN này. Những DN sớm hình thành sự liên kết với
DN ĐTNN sẽ được chuyển giao công nghệ và sẽ phát triển
mạnh.
(iii) Giai đoạn III: Sau một thời gian hoạt động, DN
ĐTNN được mở rộng, tạo thị trường ngày càng lớn cho các
SP CNHT. Nhiều DN nước ngoài sẽ đến đầu tư vào lĩnh vực
CNHT, đây có thể là các DN vốn đã có quan hệ giao dịch lâu
dài với các DN ĐTNN; cũng có thể là các DNNVV ở nước
ngoài khác thấy thị trường của CNHT đã lớn mạnh nên đến
đầu tư.

32
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

Như vậy, nếu các công ty CNHT trong nước phát triển,
có thể đáp ứng được yêu cầu của DN ĐTNN (giai đoạn 1) sẽ
tạo điều kiện thúc đẩy các DN CNHT (giai đoạn 2) ra đời,
đồng thời tạo điều kiện, môi trường để các công ty nước
ngoài đến đầu tư (giai đoạn 3). Mối liên quan giữa CNHT và
môi trường thu hút ĐTNN đặt ra thách thức: chừng nào các
công ty ĐTNN không thấy Chính phủ đưa ra các chính sách
cụ thể và dài hạn để phát triển CNHT theo hướng nói ở (i) và
(ii) cũng như chính phủ không tạo môi trường kinh doanh ổn
định cho các DN ĐTNN để từ đó CNHT phát triển theo
trường hợp (iii) thì họ sẽ không đánh giá cao môi trường
ĐTNN ở nước đó.
- Năm là, CNHT giúp tiếp thu chuyển giao công nghệ.
Như ở trên đã phân tích, việc phát triển các ngành CNHT sẽ
thu hút được nhiều nhà ĐTNN vào thị trường nội địa. Và có
thể thấy một xu hướng rõ ràng là việc mở rộng thu hút ĐTNN
đi liền với sự đổi mới và chuyển giao công nghệ cho DN
trong nước. Ngoài vốn, các DN nước ngoài tại đây còn mang
đến những công nghệ sản xuất, kỹ năng, trình độ quản lý tiên
tiến hơn, mà từ đó các DN trong nước có thể học tập. Điều
này lại đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình
CN hoá, hiện đại hoá đất nước.
Việc chuyển giao công nghệ của các DN ĐTNN cho
các DN trong nước thường được tiến hành qua hai hình thức
chính sau đây:
(i) Chuyển giao công nghệ theo hàng ngang (horizontal
inter- firm transfer). Đây là hình thái chuyển giao từ các công
ty đa quốc gia (MNCs) sang các công ty con tại nước ngoài
(các DN ĐTNN) hoặc chuyển giao giữa các DN ĐTNN và

33
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

DN bản xứ trong cùng ngành (ở đây là những DN hoạt động


trong ngành CNHT).
(ii) Chuyển giao hàng dọc giữa các DN (vertical inter-
firm transfer). Đây là hình thái liên kết phổ biến nhất của các
DN ĐTNN, trong đó công ty trong nước tạo quan hệ ổn định
để cung cấp các SP CNHT (điển hình là các SP CNHT như
phụ tùng, linh kiện ô tô, xe máy...) cho DN ĐTNN, qua đó
được các DN ĐTNN này chuyển giao công nghệ và tri thức
quản lý.
- Sáu là, CNHT thúc đẩy sự phát triển của các DNNVV.
Đối với các nền kinh tế đang phát triển, việc đưa ra các chính
sách khuyến khích phát triển các DNNVV được coi là một
trong những giải pháp tối ưu nhằm phát triển kinh tế. Bởi lẽ,
việc thành lập và SXKD các loại hình DN này không đòi hỏi
cao về nguồn vốn, trình độ nhân lực, công nghệ... nên trước
mắt có thể tận dụng tối đa và hiệu quả những nguồn lực trong
nước.
Một đặc điểm của ngành CNHT là các SP CNHT
thường được sản xuất với quy mô nhỏ, thực hiện bởi các
DNNVV. Do đó, trong ngành xe hơi chẳng hạn, các bộ phận
như đầu máy xe, thân xe, bánh xe... thường không được kể là
CNHT vì chủ yếu do các công ty lớn sản xuất với quy mô
lớn. Trong ngành này, CNHT là những linh kiện, những phụ
liệu ở cấp thấp hơn được cung cấp để sản xuất ra đầu máy xe,
thân xe... Vì thế, việc phát triển ngành CNHT sẽ kéo theo sự
phát triển của các DNNVV.
Nhật Bản là một ví dụ điển hình cho việc vận dụng các
DNNVV làm động lực để tạo ra sự phát triển thần kỳ của nền

34
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

kinh tế. Có thể nói, đằng sau các công ty khổng lồ có quy mô
toàn cầu như Toyota, Nissan, Mitsubishi, Sony, Sharp... là rất
nhiều nhóm các DNNVV đóng vai trò là DN vệ tinh cung cấp
nhiều loại phụ tùng, linh kiện khác nhau với chất lượng cao
và giá thành thấp.
3. Nội dung cơ bản của việc phát triển công nghiệp hỗ
trợ
3.1. Mô hình phát triển công nghiệp hỗ trợ
Tùy theo bối cảnh, năng lực và điều kiện áp dụng mà
mỗi quốc gia lựa chọn cho mình mô hình phát triển CNHT
khác nhau. Có thể đưa ra bốn mô hình như sau:
- Phát triển CNHT theo hướng tự phát: Ở một số quốc
gia đã công nghiệp hóa sớm như Anh, Pháp, Đức, Mỹ… các
ngành CNHT không được xem xét dưới góc độ riêng biệt.
Với đặc điểm lịch sử phát triển sớm của các quốc gia này, các
DN tham gia vào quá trình cung cấp diễn ra một cách tự phát
và hình thành nên hệ thống các ngành CNHT. Việc hình
thành các mạng lưới cung ứng cũng như các DN CNHT xuất
phát trực tiếp từ nhu cầu và điều kiện của nền kinh tế, được
“dẫn dắt” bởi “bàn tay vô hình” của thị trường, ít có sự tham
gia, điều tiết và tác động của Chính phủ. Tuy nhiên, mô hình
này không thể áp dụng ở các nước đến sau do họ phải tiến
hành CN hóa trong thời gian ngắn, không có điều kiện để cho
“thị trường tự điều chỉnh” như trong quá khứ. Thêm vào đó,
với áp lực cạnh tranh toàn cầu, nếu không có những tác động
tích cực từ phía Chính phủ và các cơ quan quản lý, các quốc

35
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

gia có thể đánh mất khả năng tham gia vào chuỗi phân công
lao động quốc tế.
- Phát triển CNHT dựa trên chiến lược kéo: Chiến lược
này được hình thành đầu tiên ở các nước phát triển thuộc thế
hệ thứ hai như Nhật Bản. Với nhận thức về các yêu cầu và
thách thức trong cạnh tranh toàn cầu, Nhật Bản đã cố gắng
xây dựng một nền CN mạnh dựa trên cấu trúc tích hợp. Bằng
việc sử dụng các chính sách thúc đẩy thị trường các DNNVV
tham gia vào quá trình sản xuất linh phụ kiện và trở thành các
đối tác lâu dài của các DN lớn, Nhật Bản đã tạo nên một nền
CNHT mạnh, bộ đệm của nền CN chất lượng cao trong quá
trình cạnh tranh toàn cầu.
- Phát triển CNHT dựa trên chiến lược đẩy: Điển hình
của việc thực hiện chiến lược đẩy là Hàn Quốc. Với nhận
thức trong điều kiện cạnh tranh quốc tế gay gắt, Hàn Quốc đã
thực hiện một số chính sách quyết liệt để thúc đẩy CN trong
nước, đặc biệt là CNHT. Ngược với cách thức của Nhật Bản,
Chính phủ Hàn Quốc sử dụng các biện pháp thiên về chính
sách bắt buộc, thúc đẩy các DN lớn trong nước phải thực hiện
các liên kết với các DN nhỏ, các nhà cung cấp trong nước.
Điểm rõ nét nhất của chiến lược này là các quy định về nội
địa hóa. Với việc quy định chặt chẽ các điều khoản về nội địa
hóa, các tập đoàn kinh tế lớn và các công ty ĐTNN phải thực
hiện việc chuyển giao công nghệ sản xuất các linh phụ kiện
cho các công ty liên doanh trong nước và các DNNVV.
Chiến lược đẩy được Hàn Quốc và Đài Loan áp dụng cũng
phát huy tác dụng nhưng không hoàn toàn. Hàn Quốc đã

36
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

thành công với chiến lược này trong ngành CN ô tô, tuy
nhiên lại không thành công trong CN điện và điện tử. Ngày
nay, các điều kiện để có thể thực hiện được chiến lược đẩy
cũng đã trở nên khó khăn hơn do các điều khoản về mở cửa
thị trường, mậu dịch tự do của các hiệp định TM quốc tế. Tuy
nhiên, các nước vẫn có thể sử dụng các chính sách này thông
qua các giải pháp phi thuế, hỗ trợ vốn vay hoặc kỹ thuật.
- Mô hình phát triển tổng hợp: Cả hai chiến lược, chiến
lược kéo với việc sử dụng các chính sách “mềm” và chiến
lược đẩy, sử dụng các chính sách “cứng”, có nhiều ưu và
nhược điểm và chỉ thành công trong một số điều kiện nhất
định của nền kinh tế cũng như bối cảnh thế giới. Các nền
kinh tế không sử dụng thuần túy một chiến lược kéo hay đẩy
mà phối hợp các chính sách này để có được hiệu quả cao
nhất, hạn chế được những tiêu cực trong quá trình phát triển
CN, điển hình là Đài Loan và các nước đến sau như Malaysia
và Thái Lan.
Các quốc gia đến sau, nhận thức được vị thế và điều
kiện cạnh tranh của mình cùng với kinh nghiệm của các nước
khác đã xây dựng cho mình những chiến lược phát triển
CNHT linh hoạt và mềm dẻo hơn. Chiến lược của các quốc
gia này tập trung vào việc đồng thời: (i) tạo dựng các điều
kiện thị trường như kêu gọi ĐTNN trong khu vực lắp ráp, tạo
ra các lợi thế về chi phí để thu hút các DN lớn và thúc đẩy
các DN này tìm kiếm các đối tác trong nước, (ii) xây dựng
các điều kiện để phát triển các DNCN trong nước, đặc biệt là
các DNNVV và (iii) thiết lập các hỗ trợ về thông tin, nguồn

37
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

nhân lực, pháp lý cho việc hình thành và phát triển các liên
kết cũng như thị trường linh phụ kiện.
Phát triển CNHT là sự gia tăng về số lượng các DN
kèm theo sự cải thiện về năng lực của các DN CNHT. Sự cải
thiện về năng lực của các DN CNHT được thể hiện ở một số
nội dung như: (i) Năng lực sản xuất thể hiện qua trình độ
công nghệ sản xuất và trình độ nguồn nhân lực. (ii) Năng lực
tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu thể hiện qua mức
độ gắn kết với các nhà cung cấp và khách hàng, cùng với
tương quan giữa các nguồn cung cấp và tiêu thụ SP.
3.2. Điều kiện để phát triển công nghiệp hỗ trợ
Để phát triển CNHT, cần các điều kiện về hạ tầng
nền CN, các điều kiện về nhu cầu thị trường và cuối cùng
là môi trường và các thể chế hỗ trợ cho sự phát triển của
các ngành này.
- Điều kiện hạ tầng nền CN: bao gồm cơ cấu CN; các
hoạt động CN cơ bản; năng lực sản xuất và tham gia phân
công lao động quốc tế.
(i) Cơ cấu CN: Phải được hình thành theo hướng hiện
đại với sự xuất hiện của các ngành CN then chốt. Một nền CN
mất cân đối về cơ cấu giữa CN chế tạo, CN lắp ráp và CN chế
biến sẽ tạo ra những khó khăn khi phát triển các ngành CNHT
bởi vì nhiều hoạt động CNHT được hình thành trên cơ sở phát
triển chung của các ngành CN này. Ví dụ, ngành CN luyện
kim sẽ là điều kiện cần cho CN cơ khí, và CN cơ khí là điều
kiện cần cho các ngành sản xuất phụ kiện máy móc, ô tô, xe

38
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

máy. Thêm vào đó, nếu hệ thống CN không cân đối ở khu vực
thượng nguồn và hạ nguồn thì khả năng phát triển khu vực
trung gian - CNHT cũng sẽ gặp khó khăn.
(ii) Các hoạt động CN cơ bản: Như luyện kim, khai
thác cao su, hóa chất, nhựa, CN mạ, đúc… phải có nền tảng
phát triển, vì những hoạt động này có ý nghĩa rất lớn trong
việc hình thành và phát triển CNHT. Sự sẵn sàng về nguồn
lực, công nghệ, nhân lực và vốn trong các khu vực này sẽ là
điều kiện hết sức cần thiết để hình thành các ngành CNHT.
(iii) Năng lực sản xuất và tham gia phân công lao động
quốc tế: Các quốc gia với nền CN có năng lực sản xuất dồi
dào (vốn, công nghệ, nhân lực) và có điều kiện thuận lợi
tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế (vị trí
thuận lợi, thị trường tiêu thụ lớn) sẽ có nhiều khả năng để
phát triển các ngành CNHT. Ngược lại, nếu một quốc gia
không tự tăng cường năng lực sản xuất, tạo dựng lợi thế về
chi phí hoặc công nghệ để có thể thu hút các DN lớn thì sẽ rất
khó khăn trong việc xây dựng CNHT. Trong điều kiện cạnh
tranh quốc tế, dưới áp lực về tối thiểu hóa chi phí và tăng
cường năng lực cạnh tranh, các DN lớn sẽ tìm kiếm các khu
vực có được các lợi thế nhất định và các điều kiện sẵn sàng
tốt nhất để đầu tư. Đây chính là một trong những động lực
quan trọng cho sự phát triển của CNHT. Đặc biệt, năng lực
sản xuất và kinh doanh của các DNNVV là một trong những
điều kiện then chốt cho sự phát triển của CNHT. Số lượng
cũng như trình độ về công nghệ và quản lý của khu vực này
sẽ là đòn bẩy hoặc rào cản lớn cho việc hình thành CNHT.

39
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

- Điều kiện thị trường. Song song với các điều kiện về
hạ tầng CN, sự hình thành một thị trường “các hoạt động hỗ
trợ” là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của CNHT. Các
điều kiện về thị trường bao gồm nhu cầu thị trường hàng hóa
trung gian, khả năng liên kết của các DN trong nền kinh tế và
các lợi thế thị trường cho sự lựa chọn chiến lược của các DN.
(i) Nhu cầu thị trường linh phụ kiện: Một trong những
điều kiện cơ bản để hình thành CNHT là sự xuất hiện nhu cầu
về các SP và hàng hóa trung gian - thị trường các hoạt động
hỗ trợ. Nhu cầu này được hình thành khi xuất hiện các DN
lớn hoạt động trong khu vực hạ nguồn như các DN sản xuất,
chế tạo và lắp ráp. Khi các DN này (chủ yếu là các DN
ĐTNN) hợp lý hóa hoạt động SXKD bằng cách chọn các khu
vực sản xuất có lợi thế nhất về chi phí hoặc công nghệ thì gần
như tất yếu, họ muốn sử dụng các nguồn lực sẵn có và tại
chỗ. Đây sẽ là thị trường lớn cho các DN CNHT địa phương.
Tuy nhiên, thị trường các hàng hóa trung gian này phải đảm
bảo một số yêu cầu cho sự phát triển CNHT, đó là yêu cầu
về quy mô, điều kiện công nghệ và tập quán kinh doanh.
Nếu các công ty ĐTNN thực hiện chiến lược thâm nhập thị
trường nội địa với quy mô nhỏ thì khả năng phát triển
CNHT sẽ có giới hạn. Các DN này sẽ không quá mặn mà
với việc chuyển giao công nghệ, phát triển mạng lưới thầu
phụ và các nhà cung cấp linh kiện mà chỉ tập trung vào khai
thác và tận dụng các điều kiện sẵn có. Đây chính là bài học
của CN ô tô Việt Nam.

40
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

(ii) Khả năng liên kết lâu dài giữa các DN lớn và các
DN nhỏ. Những đặc điểm của các thị trường mới nổi như là
sự chênh lệch khá lớn về công nghệ và khả năng quản lý, sự
hạn chế về thông tin, pháp luật và cả các rào cản đến từ văn
hóa và tập quán kinh doanh sẽ là những trở ngại cho việc
thiết lập các quan hệ liên kết lâu dài. Nếu các liên kết không
được đảm bảo lâu dài giữa các DN lớn và DN nhỏ thì khả
năng lôi kéo các DN nhỏ vào hoạt động trong các ngành
CNHT sẽ rất khó khăn. Mặt khác, điều này cũng sẽ hạn chế
việc chọn lựa đối tác của các DN lớn.
(iii) Lợi thế so sánh: Điều kiện cuối cùng là việc tạo
dựng các động cơ để các DN chế tạo và lắp ráp thực hiện các
chiến lược nội địa hóa và thuê mua ngoài. Các lợi thế so sánh
đó bao gồm lợi thế về chi phí và lợi thế về quy trình, công
nghệ. Lợi thế về chi phí là yếu tố cơ bản nhất cho việc sử
dụng các DN CNHT. Nếu trong điều kiện chi phí cho việc
thuê mua từ các DN tại chỗ có lợi thế hơn việc tự sản xuất
hay thuê mua từ nước ngoài thì đây sẽ là động lực để các nhà
sản xuất tiến hành các hoạt động chuyển giao công nghệ, ký
kết hợp tác kinh doanh, tìm kiếm đối tác. Ngoài ra, nếu việc
sử dụng các DN tại chỗ sẽ có lợi từ việc đảm bảo chất lượng
tới SP, tối ưu hóa quy trình và công nghệ sản xuất thì đây
cũng là động cơ để các DN chế biến, lắp ráp tham gia vào thị
trường SP CNHT. Các DN trong các ngành da - giầy, dệt
may, hóa chất, đóng tàu quan tâm đến các lợi thế về quy trình
và công nghệ cũng ngang với các lợi thế về chi phí.

41
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

- Điều kiện về thể chế và môi trường: Ngoài các điều


kiện trên thì điều kiện về thể chế và môi trường cũng là các
điều kiện cần cho sự phát triển CNHT.
(i) Pháp luật: Để phát triển CNHT, các quy định về
pháp luật nhằm đảm bảo cân bằng lợi ích của các bên tham
gia vào thị trường các SP trung gian, khắc phục các thất bại
của thị trường là cực kỳ cần thiết. Chính phủ cần có các quy
định cụ thể để bảo vệ lợi ích của các DNNVV trong các điều
khoản thương lượng với các công ty nước ngoài và các điều
kiện pháp luật để ràng buộc trách nhiệm của các DNNVV.
Đặc biệt, các quy định của pháp luật phải tương thích với các
điều kiện của luật quốc tế để đảm bảo khả năng hội nhập của
các DN CNHT.
(ii) Thông tin: Một trong những thất bại lớn nhất của thị
trường tổ chức là sự thiếu hụt về thông tin. Để có thể phát
triển CNHT, cần phải có một hệ thống cung cấp thông tin kịp
thời, đầy đủ và hiệu quả cho các DN, cả các DN hạ nguồn
cũng như các DN CNHT. Kinh nghiệm cho thấy nếu thiếu
một hệ thống thống kê CN đủ mạnh, một cơ chế công bố và
chia sẻ thông tin hiệu quả thì các chính sách hỗ trợ Chính phủ
đối với CNHT thường không phát huy được tác dụng. Khả
năng tiếp cận thông tin và sự sẵn sàng của các nguồn thông
tin chính thống và đầy đủ là một trong những điều kiện tối
quan trọng cho sự phát triển của CNHT.
(iii) Các ràng buộc và hỗ trợ: Ngoài tất cả các điều kiện
trên thì không thể không kể đến các ràng buộc và các hỗ trợ

42
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

từ phía Chính phủ. Việc hình thành và phát triển CNHT một
cách tự phát khó có thể tái diễn trong điều kiện kinh tế thế
giới hiện tại. Các quốc gia đi sau phải sử dụng các chính sách
tích cực hơn và can thiệp nhiều hơn vào quá trình công
nghiệp hóa. Sự điều phối các nguồn lực, các chính sách ưu
đãi, những chương trình hỗ trợ là cực kỳ cần thiết để các
ngành CNHT có thể phát triển nhanh và đúng hướng.
- Nguồn nhân lực: Cuối cùng, sự sẵn sàng của nguồn
nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của các DN lắp ráp
cũng như các DN CNHT sẽ là một trong các điều kiện cơ bản
cho sự phát triển của hai khối DN này. Sự thiếu hụt các
nguồn nhân lực đáp ứng đủ điều kiện sẽ làm cho khả năng
phát triển của cả hai khối DN này kém đi, dẫn đến việc hình
thành các ngành CNHT gặp khó khăn. Thêm vào đó, vai trò
của các tổ chức nghiên cứu, tư vấn hỗ trợ về thông tin và các
trường đại học trong việc đào tạo nguồn nhân lực cũng sẽ là
điều kiện cơ bản để phát triển CNHT.
II. CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI SỰ
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
1. Khái niệm
Cho đến nay chưa có một khái niệm hoàn chỉnh về
chính sách, ở mỗi quốc gia, mỗi lĩnh vực, mỗi giai đoạn lịch
sử đều có những quan niệm khác nhau. Tuy nhiên, có thể
thấy những từ khóa chính của khái niệm này gồm: vấn đề,
chính quyền và sự lựa chọn. Khi một vấn đề kinh tế - xã hội
nào đó xuất hiện, chính quyền sẽ lựa chọn nội dung, mục tiêu

43
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

và cách thức giải quyết vấn đề đó và sự lựa chọn đưa đến


quyết định. Toàn bộ quy trình này được đặt trong một môi
trường tương tác của các tác nhân chính sách, tạo ra hàng loạt
các ràng buộc trước khi chính sách xuất hiện và các tác động
sau đó từ sự chi phối của những điều kiện này, dẫn đến các
cách thể hiện khác nhau trong các vai trò chính sách (policy
actor) và quy trình chính sách (policymaking processing).
Một số nước công khai thể hiện vai trò của các nhóm lợi ích,
một số khác là sự chi phối của các đảng phái chính trị, ở nơi
này quy trình chính sách nặng về kỹ thuật, ở nơi khác lại là
sự thỏa hiệp hay áp đặt.
Quá trình hoạch định chính sách là hết sức quan trọng,
trước khi đưa ra, cần điều tra, khảo sát thực tế nền kinh tế,
xã hội. Chính sách có thể giải quyết một vấn đề bức xúc,
một vấn đề mới trong thực tiễn hoặc sáng tạo ra một khuôn
khổ để dẫn dắt, khuyến khích các nỗ lực phát triển của xã
hội hoặc để phòng ngừa một vấn đề không tốt có thể nảy
sinh trong tương lai. Như vậy, cần có chính sách giải quyết
các vấn đề trước mắt và vấn đề mang tính lâu dài trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời phải có những
công cụ khoa học trong việc khảo sát, lấy ý kiến và tôn
trọng ý kiến của nhân dân để tạo ra sự chính xác trong
hoạch định chính sách, để chính sách phù hợp với thực tế,
tăng tính khả thi trong quá trình thực hiện Khi đề cập đến
phạm trù chính sách thì nội hàm của nó phải bao gồm các
yếu tố cấu thành sau đây:

44
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

- Chủ thể đề ra và triển khai thực hiện chính sách là chủ


thể quản lý của hệ thống quản lý, tại đó chính sách được đề ra
và tổ chức thực hiện. Tuỳ theo các hệ thống quản lý khác
nhau có chính sách khác nhau như chính sách của một cơ
quan, DN, ngành, quốc gia, quốc tế….
- Chính sách luôn gắn với những mục tiêu cụ thể. Mục
tiêu của chính sách có thể được hiểu theo nghĩa rộng, có
nghĩa là đạt tới trạng thái mong đợi của hệ thống quản lý như
mục tiêu tăng trưởng, mục tiêu phát triển… Mục tiêu cũng có
thể được hiểu theo nghĩa hẹp như mục tiêu thu nhập, mở rộng
quy mô, cải cách cơ cấu… Mục tiêu khác nhau quy định
chính sách khác nhau.
- Chính sách còn bao hàm trong nó cả cách thức mà chủ
thể cần hành động để đạt tới mục tiêu mong muốn, bao hàm
nhiều nội dung từ quan điểm chỉ đạo hành động của chủ thể
đến phương hướng, phương án, phương tiện, công cụ và
nguồn lực thực thi chính sách trong thực tiễn, các tiêu chí
đánh giá chính sách. Phương thức hành động có thể bao hàm
cả sự phân chia trách nhiệm và quyền hạn trong bộ máy quản
lý của hệ thống nếu mục tiêu của chính sách đòi hỏi một sự
cơ cấu lại.
Quá trình trên thì có thể nêu mô hình quá trình xây
dựng và thực hiện chính sách công như sau:

45
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Hình 1.1: Mô hình quá trình xây dựng và thực hiện


chính sách công
Như vậy, có thể hiểu chính sách là hệ thống các chủ
trương, nguyên tắc, quy định, công cụ và biện pháp thích hợp
của Nhà nước để điều chỉnh các hoạt động của quốc gia trong
những thời kỳ nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra

46
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

trong chiến lược phát triển. Những mục tiêu này bao gồm sự
phát triển toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã
hội - môi trường.
Thương mại là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, buôn
bán giữa những người sản xuất, kinh doanh và người tiêu
dùng. Có quan hệ hàng hóa - tiền tệ là có TM. Thực ra từ lâu
sự phát triển nền văn minh của loài người đã gắn liến với
hoạt động buôn bán. Thuật ngữ kinh doanh đã được Arixtot
sử dụng từ những năm 380 - 322 (trước công nguyên) đã
dùng nhiều trong thời kỳ Hy Lạp.
Ở Việt Nam, theo quan niệm của nhiều nhà khoa học,
các nhà chuyên môn và như Nghị Quyết XII của Bộ Chính trị
ngày 13/01/1996 về “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động
thương nghiệp, phát triển thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa”, thì TM không chỉ là hoạt động mua - bán hàng
hoá thuần tuý, mà bao gồm cả những dịch vụ TM liên quan
như: đại diện TM, môi giới TM, uỷ thác mua bán hàng hoá,
đại lý mua bán hàng hoá, quảng cáo TM, gia công TM,…
Như vậy, khái niệm TM ở đây được hiểu rộng hơn khái niệm
thương nghiệp.
Ngày nay, các nhà kinh tế học hiện đại cũng coi TM
hoạt động với chức năng chủ yếu là mua - bán hàng hoá và
các dịch vụ mua - bán kèm theo. TM là hình thức trao đổi
hàng hoá, thông qua việc mua và bán (trong nước và quốc tế)
và các dịch vụ TM. Công thức chung trao đổi hàng hoá của
TM là: T-H-T. TM ứng tiền trước để mua, dự trữ trong lưu
thông, bán hàng và các dịch vụ để thu tiền về (trong đó có các
loại chi phí và lợi nhận thu được từ bán hàng).

47
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Như vậy, ở mỗi quốc gia, qua mỗi thời kỳ đều có các
khái niệm về TM khác nhau. Luật TM của Việt Nam năm
1997 đưa ra khái niệm: Hoạt động TM là việc thực hiện một
hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân, bao gồm việc
mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt
động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc
nhằm thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội. So với các
nước trên thế giới, khái niệm thương mại theo Luật Thương
mại 1997 được hiểu theo nghĩa hẹp, bao gồm 14 hành vi điều
chỉnh các quan hệ mua bán hàng hoá và dịch vụ liên quan
trực tiếp đến mua bán hàng hoá. Việc xác định phạm vi điều
chỉnh theo diện hẹp của Luật Thương mại 1997 trên thực tế
đã phát sinh nhiều vấn đề, không chỉ trong quá trình thực
hiện các giao dịch thương mại mà còn ảnh hưởng đến việc
giải quyết các tranh chấp thương mại, tiếp sau đó là việc công
nhận và cho thi hành các bản án, phán quyết của trọng tài
nước ngoài.
Đến Luật TM năm 2005, khái niệm này có điều chỉnh,
mở rộng: “Hoạt động TM là hoạt động nhằm mục đích sinh
lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư,
xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
khác”. Việc mở rộng khái niệm TM đã giúp hài hoà nguyên
tắc điều chỉnh hoạt động thương mại của VN với chuẩn mực
quốc tế. Cụ thể, khái niệm hoạt động thương mại của VN
hiện đã bao trùm các lĩnh vực thương mại hàng hoá, thương
mại dịch vụ và các khía cạnh thương mại của đầu tư và sở
hữu trí tuệ. Việc mở rộng này còn giúp cho việc giải quyết
các tranh chấp quốc tế được thực hiện dễ dàng hơn, tạo điều

48
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

kiện cho VN thực thi được cam kết cho thi hành phán quyết
của Trọng tài nước ngoài liên quan đến TM tại VN.
Từ các nội dung trên, có thể đưa ra khái niệm: CSTM là
hệ thống các chủ trương, nguyên tắc, quy định, công cụ và
biện pháp thích hợp của Nhà nước để điều chỉnh các hoạt
động TM của quốc gia trong những thời kỳ nhất định nhằm
đạt được các mục tiêu đã đề ra trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội. Như vậy, CSTM ở đây được hiểu theo nghĩa
rộng, bao gồm những vấn đề về chiến lược thương mại quốc
gia, thương nhân, thị trường, mặt hàng, XNK và các công cụ
thuế quan, phi thuế quan và giấy phép cho phép các đơn vị
được kinh doanh buôn bán trong nước hay với nước ngoài.
CSTM là một bộ phận của chính sách kinh tế - xã hội
của một quốc gia, nó có quan hệ chặt chẽ và phục vụ cho sự
phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó. Nó tác động mạnh
mẽ đến quá trình tái sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, quy
mô và phương thức tham gia của nền kinh tế mỗi quốc gia
vào phân công lao động quốc tế và TM quốc tế. CSTM còn
có vai trò to lớn trong việc khai thác triệt để lợi thế so sánh
của nền kinh tế trong nước, phát triển các ngành sản xuất và
dịch vụ đến quy mô tối ưu. Ngoài ra, vai trò đó còn thể hiện
trên các mặt sau: (i) Mở rộng giao lưu hàng hoá và xuất khẩu,
tạo động lực phát triển kinh tế; (ii) Tạo ra nhu cầu cạnh tranh
với hàng nhập khẩu, bắt buộc các DN trong nước phải giảm
chi phí, tăng năng suất, nâng cao chất lượng SP và có sức
cạnh tranh tốt hơn; (iii) Tác động đồng bộ cùng các chính
sách khác đến việc tạo lập môi trường vĩ mô ổn định, cơ sở
hạ tầng tốt, lực lượng lao động có trình độ, hệ thống tài chính

49
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

nhạy bén, khuyến khích việc tiếp nhận công nghệ mới và thúc
đẩy cạnh tranh
Để thúc đẩy quá trình tăng trưởng, CSTM phải đáp ứng
được một số yêu cầu quan trọng: (i) Không kiềm chế hoạt
động TM; (ii) Tạo điều kiện cho các DN sản xuất hàng hóa
và dịch vụ có giá thành và giá cả ngang với giá thế giới; (iii)
Để các DN tự quyết định sẽ buôn bán SP nào và với số lượng
bao nhiêu.
Nhiệm vụ của CSTM có thể thay đổi qua mỗi thời kỳ,
nhưng đều có mục tiêu chung là điều chỉnh các hoạt động
TM theo hướng phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Trong thời kỳ đổi mới, CSTM của Việt Nam
gồm những nội dung chủ yếu sau: (i) Đẩy mạnh hoạt động
TM trong và ngoài nước để đáp ứng nhu cầu CN hoá, hiện
đại hoá đất nước; (ii) Mở rộng đa dạng hoá và đa phương hóa
thị trường và phương thức hoạt động kinh doanh theo quan
điểm mở cửa, từng bước gắn nền kinh tế nước ta với nền kinh
tế thế giới, thị trường trong nước với thị trường quốc tế; (iii)
Đổi mới cơ chế quản lý, chính sách lưu thông hàng hoá trong
nước, XNK theo hướng mở rộng quyền tiếp xúc với thị
trường quốc tế, quyền hoạt động XNK cho các ngành, các địa
phương, các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu, đồng thời tăng
cường quản lý ở tầm vĩ mô, bảo đảm sự quản lý thống nhất
và có hiệu quả của Nhà nước trong lĩnh vực TM …
Chính vì vậy, CSTM bao gồm nhiều bộ phận khác nhau có
liên quan hữu cơ với nhau. Có nhiều cách phân loại CSTM:
- Về lý thuyết, các CSTM được sử dụng phổ biến trong
các giáo trình giảng dạy ở bậc đại học tại Việt Nam bao gồm:
(i) Chính sách thuế, tài chính tín dụng, tỷ giá hối đoái, biện

50
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

pháp quản lý giá, biện pháp chống trợ cấp và chống bán phá
giá; (ii) Hạn ngạch, hạn ngạch thuế quan, cấp hạn ngạch tự
động và không tự động; (iii) Quyền kinh doanh, giấy phép
kinh doanh, giấy phép XNK; (iv) Các quy định về tiêu chuẩn
kỹ thuật đối với hàng hóa và DN, thủ tục hải quan… (v)
Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực.
- Về thực tiễn, trong hoạch định chính sách, hiểu theo
nghĩa rộng, thường phân loại các CSTM thành một số chính
sách sau: (i) Chính sách thương nhân đối với DN ĐTNN, DN
trong nước, DNNVV… (ii) Chính sách mặt hàng đối với mặt
hàng cấm kinh doanh, kinh doanh có điều kiện, tự do kinh
doanh; (iii) Chính sách thị trường gồm thị trường trong nước
và thị trường nước ngoài, thị trường có ưu đãi và không có ưu
đãi; thị trường nông thôn và thị trường đô thị…; (iv) Chính
sách XNK nhằm khuyến khích hay hạn chế xuất khẩu hoặc
nhập khẩu, chính sách này thường sử dụng các công cụ thuế
quan, phi thuế quan; (v) Và hiều theo nghĩa rộng, CSTM còn
bao gồm các chính sách khác về tài chính, tín dụng, đầu tư và
các chủ trương, chiến lược thương mại.
- Bên cạnh đó, gắn với mục tiêu, tính đặc thù và sự phân
công trong quản lý nhà nước, có thể chia CSTM làm 3 nhóm
như: (i) Chính sách phát triển TM nội địa; (ii) Chính sách phát
triển XNK (iii) Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế.
Mặc dù có nhiều cách phân loại, nhưng để phục vụ mục
tiêu chung của một quốc gia, cần phải có sự phối hợp giữa
các loại chính sách. Từ những phân tích trên, có thể hiểu
CSTM nhằm phát triển CNHT là tổng thể các chủ trương,
nguyên tắc, công cụ, biện pháp mà Nhà nước lựa chọn để

51
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

điều chỉnh các hoạt động TM của quốc gia trong những thời
kỳ nhất định mang tính khuyến khích, tác động đến các hoạt
động của ngành CNHT nhằm đạt được mục tiêu đã định.
2. Một số chính sách thương mại chủ yểu tác động đến
công nghiệp hỗ trợ
Như đã trình bày ở trên, các quốc gia ngày càng nhận
thấy vai trò của CNHT và sự phát triển CNHT phụ thuộc rất
lớn vào hệ thống chính sách của quốc gia đó, trong đó có
CSTM. Mục tiêu của CSTM nhằm phát triển CNHT là phát
triển hệ thống DN CNHT, xây dựng lợi thế cạnh tranh quốc
gia, xây dựng nền tảng và tạo động lực phát triển CN Việt
Nam. Các nội dung của CSTM nhằm phát triển CNHT có thể
phân tích theo bốn nhóm tác động chính như sau:
2.1. Chiến lược thương mại quốc gia
Trong chiến lược TM của các nước có ba mô thức phát
triển TM quốc tế. Một là chiến lược phát triển SP sơ chế, hai là
chiến lược sản xuất hàng nội địa thay thế hàng nhập khẩu, ba
là chiến lược sản xuất hàng xuất khẩu
- Chiến lược xuất khẩu SP sơ chế là một chiến lược
hoàn toàn dựa vào tài nguyên, kinh tế tự nhiên được một số
nước đang phát triển thể hiện thời kỳ đầu sau chiến tranh,
song nó đã bị phủ định. Những ý kiến hiện nay tập trung chủ
yếu vào hai loại chiến lược: sản xuất thay thế nhập khẩu và sản
xuất hướng về xuất khẩu.
- Chiến lược sản xuất thay thế nhập khẩu đã được hầu
hết các nước CN phát triển hiện nay theo đuổi trong thế kỷ

52
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

XIX. Ở các nước đang phát triển, trước chiến tranh thế giới
lần thứ II, chiến lược này được thử nghiệm đầu tiên ở các
nước Mỹ La tinh, sau đó đến một số nước Châu Á, như Ấn
Độ và Thổ Nhĩ Kỳ. Các quốc gia này đều mong muốn nhanh
chóng xây dựng một nền kinh tế độc lập, đây là động lực
khiến họ dấn bước vào con đường phát triển thay thế hàng
nhập khẩu. Đến những năm 60, sản xuất thay thế hàng nhập
khẩu đã trở thành chiến lược phát triển kinh tế chủ đạo.
Phương pháp luận của chiến này trước hết là xác định nhu
cầu thị trường trong nước qua số lượng nhập khẩu thực tế qua
các năm. Sau đó bảo đảm là các DN sản xuất trong nước có
thể làm chủ được kỹ thuật sản xuất hoặc các nhà ĐTNN sẵn
sàng cung cấp công nghệ, vốn và quản lý. Cuối cùng lập các
hàng rào bảo trợ để hỗ trợ cho sản xuất trong nước có lãi,
khuyến khích các nhà đầu tư trong những ngành CN là mục
tiêu phát triển. Các biện pháp thay thế nhập khẩu thường là
thuế quan bảo hộ, hạn ngạch nhập khẩu và tỷ giá cao quá mức.
Áp dụng chiến lược thay thế nhập khẩu đã đem lại sự
mở mang nhất định các cơ sở sản xuất, giải quyết công ăn
việc làm, thể hiện quá trình đô thị hoá. Bước đầu hình thành
các chủ DN có đầu óc kinh doanh. Nhưng kinh nghiệm lịch
sử cho thấy, nếu dừng lại quá lâu ở chiến lược này, sẽ vấp
phải những trở ngại rất lớn: (i) Chủ yếu nhằm vào thoả mãn
nhu cầu trong nước, TM quốc tế không được coi trọng, không
tận dụng được những ảnh hưởng tích cực của kinh tế thế giới,
hạn chế khai thác tiềm năng của đất nước và các quan hệ kinh
tế đối ngoại khác; (ii) Kinh tế của các nước đang phát triển

53
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

trong giai đoạn đầu CN hoá là nền kinh tế thiếu thốn đủ thứ,
tổng cầu vượt quá tổng cung. Xu hướng này không thể khắc
phục được trong thời gian ngắn, nếu hạn chế quá mức nhập
khẩu thể hiện chính sách bảo hộ không thích hợp sẽ làm giảm
tốc độ phát triển kinh tế; (iii) Cán cân TM ngày càng thiếu
hụt, nạn thiếu ngoại tệ là trở ngại cho việc mở cửa với bên
ngoài và phát triển kinh tế. Nguyên nhân thiếu ngoại tệ là do
phải nhập khẩu nhiều nguyên liệu, linh kiện cho sản xuất
trong nước và không có nhiều hàng hóa xuất khẩu để thu
ngoại tệ; (iv) Thực hiện chiến lược này, cần phải được bảo hộ
bằng thuế quan, tăng cường các biện pháp hành chính và phối
hợp hành chính. Điều đó làm cho các DN thiếu cơ hội tìm
kiếm ưu thế cạnh tranh, giá thành cao, chất lượng thấp, ảnh
hưởng tiềm năng phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Chiến lược sản xuất hướng về xuất khẩu là chiến lược
mở cửa, hướng ra thị trường bên ngoài. Chiến lược này được
áp dụng rộng rãi ở nhiều nước Mỹ La tinh từ những năm 50
và những nước Đông - Bắc Á và Đông Nam Á từ những năm
60. Phương pháp luận của chiến lược này là sự phân tích về
việc sử dụng các “lợi thế so sánh” của một nước như thế nào
trong sự phân công lao động quốc tế, để mang lại lợi ích tối
ưu cho một quốc gia. Theo cách tiếp cận đó, chiến lược này
là giải pháp mở cửa nền kinh tế quốc dân để thu hút vốn và
kỹ thuật vào khai thác những tiềm năng lao động và tài nguyên
của đất nước, nó gồm ba nhân tố cơ bản sau: (i) Thay cho việc
kiểm soát nhập khẩu để tiết kiệm ngoại tệ và kiểm soát tài
chính là khuyến khích mở rộng nhanh chóng khả năng xuất

54
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

khẩu; (ii) Hạn chế bảo hộ CN địa phương mà thực chất là nuôi
dưỡng tính ỷ lại và thay thế vào đó là nâng đỡ và hỗ trợ cho
các ngành sản xuất hàng xuất khẩu; (iii) Bảo đảm môi trường
đầu tư cho các nhà tư bản nước ngoài thông qua một hệ thống
các chính sách khuyến khích và kinh tế tự do để thu hút đến
mức tối đa vốn đầu tư của các công ty nước ngoài.
Mục tiêu cơ bản của chiến lược là dựa vào đầu tư trực
tiếp cũng như hỗ trợ của tư bản nước ngoài để tạo ra khả năng
cạnh tranh cao của hàng xuất khẩu. Nhờ đó, nền kinh tế nhiều
nước đang phát triển trong vài ba thập kỷ qua đã đạt được tốc
độ tăng trưởng cao, một số ngành công nghiệp đạt trình độ kỹ
thuật tiên tiến, có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Ngoại thương trở thành đầu đàn của nền kinh tế.
Tuy nhiên áp dụng chiến lược này cũng bộc lộ những
nhược điểm:
(i) Do tập trung hết khả năng cho xuất khẩu và các
ngành có liên quan nên dẫn đến tình trạng mất cân đối trầm
trọng giữa các ngành xuất khẩu và không xuất khẩu;
(ii) Do ít chú ý đến các ngành CN phát triển thiết yếu
nhất, nên mặc dù tốc độ tăng trưởng nhanh, nhưng nền kinh
tế đã gắn chặt vào thị trường bên ngoài và dễ bị tác động bởi
những sự biến đổi của thị trường các nước lớn.
Nhận thức những điểm yếu này, các nước phải tự tìm
tòi, lựa chọn một chiến lược phù hợp với giai đoạn phát triển
của mình. Nhiều nước đang phát triển lúc đầu chọn “sản xuất
thay thế nhập khẩu”, rồi đến giai đoạn nào đó chuyển sang

55
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

“sản xuất hướng về xuất khẩu”. Trong một giai đoạn nhất
định, có nước trong cùng thời gian thể hiện dung hoà cả hai
chiến lược này.
2.2. Chính sách thương nhân
Chính sách thương nhân ở nước ta hiện nay quy định
việc đăng ký kinh doanh thực hiện tại cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền; quy định quyền hạn và nghĩa vụ của
thương nhân. Theo đó các thương nhân nước ngoài phải tuân
thủ các quy định của pháp luật Việt Nam và đồng thời cũng
được hưởng một số ưu đãi và được tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động kinh doanh tại Việt Nam.
Một đối tượng đông đảo các doanh nghiệp hoạt động
trong ngành CNHT là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các DN
này tuy số lượng không nhiều nhưng khả năng phát triển ổn
định không cao và nguy cơ phá sản khá lớn. Do vậy, bên
cạnh những chính sách nuôi dưỡng các DN này là các chính
sách nhằm thúc đẩy sự ra đời của các DN mới.
Trong lý thuyết và mô hình con thoi về cạnh tranh của
Micheal Porter, năng lực cạnh tranh của DN phụ thuộc vào:
điều kiện về đầu vào; điều kiện về cầu; điều kiện các ngành
liên quan và các ngành hỗ trợ; chiến lược cấu trúc và đối thủ
cạnh tranh của DN; sự thay đổi tạo ra cơ hội hoặc nguy cơ;
vai trò của Nhà nước. Các điều kiện nêu trên thể hiện qua sơ
đồ sau:

56
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

Chiến lược, cơ
Nhà nước cấu và mức độ
cạnh tranh

Điều kiện về
Điều kiện về cầu (thị
các yếu tố đầu trường)
vào

Các ngành Yếu tố


liên quan và ngẫu
hỗ trợ nhiên

Hình 1.2: Sơ đồ kim cương của M. Porter trong phân tích và đánh
giá lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp
Sự hiện diện của các ngành có liên quan thường dẫn đến
sự hình thành các ngành CN cạnh tranh. Những ngành CN có
liên quan là các ngành mà các DN có thể liên kết hợp tác
trong các lĩnh vực phát triển công nghệ, sản xuất, phân phối,
marketing hoặc dịch vụ sau bán hàng. Sự tồn tại của các ngành

57
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

có liên quan của nước ngoài trên thị trường nội địa tạo điều
kiện trao đổi thông tin, trao đổi công nghệ, tuy nhiên nó cũng
có thể trở thành mối đe doạ đối với các ngành CN sẵn có trong
nước thông qua việc tạo lập những cơ hội xâm nhập mới. Cụ
thể với ngành CN, nhân tố này bao gồm: ngành CN cơ khí chế
tạo các thiết bị chế biến; ngành sản xuất và cung cấp năng
lượng; ngành sản xuất bao bì; ngành sản xuất nguyên liệu đầu
vào và ngành ngành TM, giải quyết đầu ra cho CN. SP của CN
có được tiêu thụ được trên thị trường hay không, mức độ thị
trường hóa của SP tùy thuộc sự phát triển của yếu tố này. Thực
hiện và bảo đảm được điều kiện này thì quá trình tái sản xuất
mở rộng với các giai đoạn sản xuất, lưu thông, trao đổi và tiêu
dùng mới được thực hiện.
Nhà nước với vai trò quản lý vĩ mô của mình có tác
động rất lớn đến sự phát triển của các thương nhân. Nhà
nước là nhà sản xuất và cũng là hộ tiêu dùng lớn nhất; nhà
nước là nhà đầu tư và cũng là người đi vay, cho vay lớn
nhất. Nhà nước cần thực hiện các chức năng như định
hướng; tạo điều kiện môi trường, điều tiết và kiểm tra. Nhà
nước thực hiện vai trò quản lý của mình thông qua việc vận
dụng các quy luật khách quan, các nguyên tắc và phương
pháp quản lý nói chung.
Từ những vấn đề có tính nguyên lý chung ở trên gắn
với sơ đồ kim cương của M. Porter mà cụ thể là các điều
kiện khác trong mô hình, chúng ta có thể tóm lược các chính
sách của Nhà nước nhằm hỗ trợ phát triển thương nhân ở
bảng sau:

58
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

Bảng 1.2: Chính sách của nhà nước hỗ trợ phát triển thương nhân

Đầu tư cho nguồn nhân lực TM

Điều kiện các Hỗ trợ khoa học - công nghệ trong kinh doanh
yếu tố đầu vào Đầu tư cho cơ sở hạ tầng TM
Hỗ trợ tạo nguồn vốn cho các DN
Kích cầu
Điều kiện về cầu Là người mua với nhu cầu đa dạng
Dùng các quy định nhằm thúc đẩy đổi mới
Tạo điều kiện thuận lợi nhằm phát triển các ngành
cung cấp nguồn hàng đầu vào cho các DN; các
Các ngành liên ngành sản xuất các mặt hàng xuất khẩu.
quan
Quy hoạch phát triển các vùng trên cơ sở các cụm
để tạo thuận lợi cho việc tạo nguồn hàng cho DN.
Chiến lược, cơ Thúc đẩy cạnh tranh trong nước
cấu và mức độ
Tăng cường TM và đầu tư cho TM
cạnh tranh

Để tạo điều kiện thuận lợi cho DN kinh doanh TM,


nâng cao khả năng cạnh tranh, Nhà nước còn có hệ thống
CSTM thích hợp ở cả tầm vĩ mô và vi mô:
- Chính sách thu hút ĐTNN vào CNHT: Đối với các
nước đang phát triển, thu hút ĐTNN vào lĩnh vực CNHT rất
cần thiết và với vai trò quan trọng của CNHT thì chính sách
này càng cần những ưu tiên đặc biệt. Chính sách này bao
gồm các hoạt động quảng bá, xúc tiến đầu tư, các quy định
ưu đãi đầu tư sản xuất linh kiện...
- Chính sách phát triển nguồn nhân lực, khoa học công
nghệ: CNHT mới là ngành CN đòi hỏi trình độ lao động và

59
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

trình độ khoa học công nghệ cao. Trong khi đó, các DN
CNHT lại thường là các DNNVV, không có điều kiện đầu tư
phát triển. Do vậy, chính sách này có vai trò quyết định đối
với sự phát triển của CNHT, nó bao gồm các hoạt động đào
tạo, chuyển giao tri thức, chuyển giao công nghệ …
- Chính sách hỗ trợ tài chính: Là cơ sở cho các hoạt
động đầu tư, phát triển sản xuất, đầu tư dài hạn hơn vào công
nghệ, năng lực của các DN trong CNHT. Chính sách này bao
gồm các quy định miễn, giảm thuế, cấp tín dụng ưu đãi, hỗ
trợ thực hiện các thủ tục tài chính và tín dụng…
2.3. Chính sách thị trường và mặt hàng
Với chính sách và cơ chế thực hiện tự do hoá TM, Nhà
nước đã ban hành một số quyết định quan trọng theo hướng
khuyến khích mở rộng lưu thông hàng hoá, mở rộng quyền
của mọi tổ chức kinh tế và công dân Việt Nam được đăng ký
kinh doanh TM dịch vụ; Nhà nước bảo hộ các hoạt động kinh
doanh hợp pháp, tạo những điều kiện bình đẳng trong vay
vốn, mở tài khoản ngân hàng và thuê mướn lao động. Chính
sách phát triển TM trong nước bao gồm nhiều bộ phận, trong
đó có chính sách thị trường nhằm thực hiện những nhiệm vụ
cơ bản sau:
- Một là, tạo điều kiện thuận lợi cho các DN thuộc các
thành phần kinh tế mở rộng và phát triển kinh doanh, khai
thác triệt để lợi thế so sánh của nền kinh tế trong nước, phục
vụ sự nghiệp CN hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Hai là, bảo vệ thị trường nội địa, tạo điều kiện cho các
DN có khả năng đứng vững và vươn lên trong hoạt động kinh
doanh thương mai, dịch vụ, đáp ứng tốt mọi nhu cầu của sản
xuất và đời sống.

60
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

Đối với thị trường trong nước, chính sách của Nhà
nước là đảm bảo tập trung nguồn lực để thúc đẩy sản xuất
hàng hoá, quy hoạch và cơ cấu lại để có những vùng chuyên
canh sản xuất hàng hoá lớn, đảm bảo hệ thống lưu thông
hàng hoá thông suốt giữa các vùng, các địa phương; đảm bảo
cho sản xuất, lưu thông và tiêu dùng hàng hoá cân đối, tránh
những biến động bất ổn trên thị trường; thúc đẩy việc hình
thành đồng bộ các loại thị trường, đảm bảo nhất quán, ổn
định của chính sách để các chủ thể kinh doanh chủ động với
các tình thế trên thị trường, hình thành thị trường thống nhất
trong phạm vi toàn quốc với nhiều cấp độ thị trường và chú
trọng phát triển các thị trường trọng điểm quốc gia, vùng lãnh
thổ. Đối với thị trường ngoài nước, chính sách thị trường hiện
hành của Nhà nước Việt Nam hướng vào mục tiêu thúc đẩy
xuất khẩu, đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, tích cực mở
rộng, tìm kiếm và tiếp cận thêm các thị trường mới.
Chính sách mặt hàng gồm các quy định cụ thể đối với
các loại mặt hàng như các mặt hàng cấm kinh doanh, mặt
hàng kinh doanh có điều kiện, mặt hàng thuộc diện hạn chế
kinh doanh, mặt hàng khuyến khích và tự do kinh doanh, các
mặt hàng quan trọng đối với nền kinh tế do Nhà nước cân đối
ở tầm quốc gia và quản lý tập trung. Chính sách mặt hàng bao
gồm nhiều tầng, vừa bảo đảm tính đa dạng, phong phú về
chủng loại, vừa có mũi nhọn, chiều sâu ở cấp quốc gia, cũng
như các cấp, các đơn vị của nền kinh tế quốc dân. Chính sách
mặt hàng phải đảm bảo phát triển mặt hàng với cơ cấu hợp lý,
phù hợp với nhu cầu thị trường nội địa và xuất khẩu.
Ngoài ra, để tạo điều kiện thuận lợi cho DN kinh doanh
TM, nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo điều kiện mở rộng
giao lưu hàng hoá và phát triển thị trường Nhà nước còn có

61
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

hệ thống chính sách và giải pháp phát triển vốn đầu tư cho
TM thích hợp ở cả tầm vĩ mô và vi mô.
2.4. Chính sách xuất nhập khẩu và các công cụ của
chính sách xuất nhập khẩu
Chính sách XNK của một nước có thể là khuyến khích
hay hạn chế xuất khẩu và nhập khẩu tuỳ theo các giai đoạn và
mặt hàng.
Để khuyến khích xuất khẩu, các chính phủ áp dụng các
biện pháp như miễn thuế, hoàn thuế, tín dụng xuất khẩu, trợ
cấp xuất khẩu, xây dựng các khu CN, khu chế xuất. Để hạn
chế xuất khẩu, các chính phủ có thể áp dụng các lệnh cấm
xuất, cấm nhập, hệ thống giấy phép, các quy định về kiểm
soát khối lượng, về cơ quan xuất khẩu và về thuế đối với xuất
khẩu. Các chính sách hỗ trợ khác được áp dụng bao gồm
khuyến khích khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cho các ngành
hướng vào xuất khẩu (miễn thuế, ưu đãi thuế) hay khuyến
khích các nhà đầu tư trong nước bằng các khoản tín dụng
xuất khẩu với lãi suất thấp, đảm bảo tín dụng xuất khẩu và
cho phép khấu hao nhanh, hoạt động hỗ trợ từ các tổ chức
xúc tiến TM.
Còn đối với việc quản lý nhập khẩu, theo Krugman và
Obstfeld thì những biện pháp quan trọng nhất áp dụng là
- Hệ thống thuế được xem xét thường bao gồm hai loại:
(1) Thuế trực tiếp là thuế đánh vào hàng hoá nhập khẩu hay
xuất khẩu, các loại thuế này bao gồm thuế theo số lượng, thuế
giá trị và thuế hỗn hợp; (2) Thuế gián tiếp bao gồm thuế
doanh thu, Thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt.

62
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

Tác động của của thuế nhập khẩu được diễn tả trong đồ
thị hình 1.4. Trong đó: D và S là đường cầu và đường cung; P
và Q là giá và lượng của hàng hoá. Pw là giá thế giới, Pw + T
là giá trên thị trường trong nước sau khi có thuế nhập khẩu.

Pw S
w
w
w
w
w
w
Pw+T
w
w a b c d
Pw
w D
w
w
w QS QS’ QD’ QD Q
w

Hình 1.3: Tác động của thuế quan nhập khẩu


Trong điều kiện TM tự do, lượng cung QS, lượng cầu là
QD, lượng nhập khẩu ở mức giá thế giới là QD - QS. Tác động
của thuế quan nhập khẩu đến nền kinh tế được tóm tắt như
sau: Lượng nhập khẩu giảm đi còn QD’ - QS’, khiến ngân sách
thu được phần c; thuế nhập khẩu bảo hộ sản xuất trong nước,
khuyến khích DN sản xuất tăng sản lượng lên thành QS’ và
được tăng thặng dư lên một khoản a; phần sản lượng tạo ra
thêm này thể hiện sự lệch lạc trong phân bố nguồn lực, do sử

63
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

dụng thêm nguồn lực đáng lẽ được đầu tư vào các hoạt động
sản xuất khác mà Việt Nam có lợi thế so sánh, như dệt may,
da giầy, hay sản xuất hàng nông sản xuất khẩu; phần phi hiệu
quả của phân bố nguồn lực sản xuất được đo bằng tam giác b.
Gánh nặng chi trả thuộc hoàn toàn về người tiêu dùng, họ bị
tiêu dùng ít đi, chỉ còn lượng cầu QD’ và thặng dư tiêu dùng
bị giảm đi phần khổng lồ (a + b + c + d).
Điều này cũng thể hiện vai trò định hướng tiêu dùng
của thuế nhập khẩu. Phần phi hiệu quả về khía cạnh tiêu
dùng, do người tiêu dùng phải sử dụng ít hàng hoá đi và phải
chi trả lớn hơn lợi ích biên của SP là diện tích d. Tổng chi phí
bảo hộ của nền kinh tế (deadweight loss, cost of protection)
là (b + d).
- Các hàng rào phi thuế quan bao gồm:
+ Trợ cấp xuất khẩu: là khoản tiền trả cho một công ty
hay một cá nhân đưa hàng ra bán ở nước ngoài. Trợ cấp xuất
khẩu có thể theo khối lượng hay theo giá trị.
+ Hạn ngạch nhập khẩu: là sự hạn chế trực tiếp số
lượng hoặc giá trị một số hàng hoá có thể được nhập khẩu, nó
có tác dụng hạn chế tiêu dùng trong nước giống như thuế,
song nó không mang lại nguồn thu cho chính phủ. Hạn ngạch
xuất khẩu thường áp dụng ít hơn hạn ngạch nhập khẩu và chỉ
áp dụng với một số mặt hàng.
+ Hạn chế xuất khẩu tự nguyện: là một biến thể của
hạn ngạch nhập khẩu do phía nước xuất khẩu đặt ra thay vì
nước nhập khẩu.

64
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

+ Các yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá: là một quy định đòi
hỏi một số bộ phận của hàng hoá cuối cùng phải được sản
xuất trong nước. Bộ phận này được cụ thể hoá dưới dạng các
đơn vị vật chất hoặc các điều kiện về giá trị.
+ Trợ cấp tín dụng xuất khẩu: cũng giống như trợ cấp
xuất khẩu nhưng dưới hình thức một khoản vay có tính chất
trợ cấp dành cho người mua.
+ Quy định về mua sắm của chính phủ: hướng việc mua
sắm vào các hàng hoá sản xuất trong nước ngay cả khi những
hàng hoá đó đắt hơn hàng nhập khẩu.
+ Các hàng rào hành chính và kỹ thuật: là việc sử dụng
các điều kiện về tiêu chuẩn y tế, kỹ thuật, an toàn và các thủ
tục hải quan để tạo nên những cản trở TM.
+ Các quy định về chống bán phá giá và trợ cấp: là các
thủ tục, biện pháp áp dụng đối với các hàng hoá bị coi là bán
phá giá hay trợ cấp.
+ Các khu CN và khu chế xuất: tạo cho các DN sản
xuất những ưu đãi như tiền thuê đất, hệ thống cơ sở hạ tầng
tốt, thủ tục hành chính thuận lợi.
3. Quan điểm, phương pháp và nội dung đánh giá tác
động của chính sách thương mại đến sự phát triển công
nghiệp hỗ trợ
Cho đến nay, tất cả các nhà nghiên cứu và quản lý CN
trên thế giới, cho dù theo trường phái tự do (liberalirsm) hay
bảo thủ (protectionism) đều phải thừa nhận vai trò then chốt
của Chính phủ trong quá trình CN hóa nói chung và sự phát
triển CNHT nói riêng của một quốc gia.

65
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

. Đối với CNHT, vai trò của Chính phủ càng quan trọng
hơn vì CNHT được hình thành trong một quá trình khá dài
với sự tham gia của nhiều DN với quy mô vốn và trình độ
công nghệ không đồng đều. Hệ thống CN này còn có đặc tính
rất dễ bị tổn thương vì nó là bộ đệm cho các ngành CN then
chốt của quốc gia. Mặt khác, CNHT còn có vai trò quan trọng
trong tiến trình CN hóa, đặc biệt là các nước đến sau và phát
triển CN dựa trên nguồn vốn và công nghệ bên ngoài thông
qua ĐTNN. Năng lực CN nội sinh là yếu tố quan trọng để thu
hút ĐTNN chất lượng cao, đồng thời là cơ sở để phát triển
các ngành CN mũi nhọn trong nước. Vì vậy, đối với các nước
đang phát triển như Việt Nam, việc xây dựng CNHT là yêu
cầu bắt buộc để có thể thực hiện công nghiệp hóa nhanh và
bền vững.
Với vai trò và đặc điểm của CNHT như vậy, có thể thấy
rằng việc phát triển CNHT phải được xem là một trong
những nhiệm vụ trung tâm của hệ thống chính sách CN và
TM quốc gia. Sự phát triển của CNHT phụ thuộc rất lớn vào
các chính sách điều tiết vĩ mô, chiến lược phát triển CN và
chính sách cụ thể đối với CNHT.
- Thứ nhất, CNHT là một phần không thể tách rời của
hệ thống CN quốc gia, sự hình thành và phát triển của nó phụ
thuộc trực tiếp vào sự phát triển của các ngành CN then chốt,
do vậy nó cũng phụ thuộc vào quy hoạch CN của Chính phủ.
- Thứ hai, sự phát triển của CNHT chịu ảnh hưởng trực
tiếp từ các lựa chọn chiến lược CN như lựa chọn các hình
thức bảo hộ, chiến lược công nghiệp hóa, sự tái cơ cấu kinh
tế hay phân bổ nguồn lực CN.

66
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

- Thứ ba, đặc điểm và phương thức phát triển CNHT


phụ thuộc vào việc chọn lựa phương thức sản xuất là tích
hợp hay mô - đun. Đặc biệt, trong điều kiện của các nước
công nghiệp hóa dựa trên ĐTNN thì điều này càng trở nên
quan trọng.
- Thứ tư, CNHT chịu tác động mạnh mẽ từ các chính
sách kinh tế vĩ mô như thu hút ĐTNN, quản lý và điều hành
các DN nhà nước, quy hoạch CN mũi nhọn.
- Thứ năm, sự phát triển CNHT không thể thoát ly quy
luật phổ biến của các hoạt động kinh doanh. Các DN CNHT
cần có các điều kiện hạ tầng phát triển như giao thông vận
tải, thông tin liên lạc, hệ thống giáo dục đào tạo và nguồn
nhân lực. Đây lại là kết quả từ các chính sách điều phối của
chính phủ.
- Thứ sáu, CNHT chiếm đa số là các DNNVV, năng lực
hạn chế, lại kinh doanh trong điều kiện phụ thuộc vào các DN
lớn, các DN ĐTNN nên có đặc tính rất dễ bị tổn thương. Sự
phát triển bền vững của khối DN này rất cần sự hỗ trợ đặc
biệt từ phía chính phủ đặc biệt là các chính sách ưu đãi và hỗ
trợ trực tiếp.
Như vậy, có thể thấy rằng, để phát triển CNHT, vai trò
của Chính phủ là cực kỳ quan trọng. Điều này cũng đặc biệt
đúng trong điều kiện Việt Nam với điểm xuất phát về CN khá
non yếu và sự phát triển đi lên nhờ hấp thụ ĐTNN. Đứng ở
góc độ của CSTM, việc đánh giá, nhận xét sự tác động của nó
nhằm phát triển CNHT cần phải được xem xét ở tầm vĩ mô,
đứng trên các quan điểm sau:

67
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

- Quan điểm tổng hợp, toàn diện: Khi đánh giá CSTM,
chúng ta phải dựa trên những tiêu chí mang tính tổng hợp,
phản ánh được các tác động chính sách trên nhiều phương
diện kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau. Trong một nền kinh
tế, các yếu tố về kinh tế, chính trị, xã hội đan xen tương tác
lẫn nhau. Việc đánh giá các CSTM đơn thuần chỉ về khía
cạnh kinh tế là chưa toàn diện, dễ dẫn đến tình trạng đề cao
thái quá, hay hạ thấp giá trị tác động của chính sách. Điều
này có thể đưa đến những khuyến nghị sai chệch. Đánh giá
một cách tổng hợp các CSTM là yêu cầu bắt buộc, đặc biệt
đối với các cơ quan quản lý Nhà nước.
- Quan điểm đánh giá dựa trên lợi ích tổng thể toàn xã
hội: Có nhiều các đánh giá khác nhau về lợi ích của một
CSTM, đối với DN, mục tiêu theo đuổi cuối cùng phải là lợi
nhuận; đối với người tiêu dùng, đó là tối đa hóa độ thỏa
dụng... Lợi ích của các nhóm đối tượng không giống nhau,
đôi khi xung đột, mâu thuẫn nhau. Chính vì vậy, một CSTM
có thể tạo điều kiện thuận lợi cho nhóm đối tượng này nhưng
lại là bất lợi đối với nhóm đối tượng khác. Trên góc độ quản
lý Nhà nước về TM, việc đánh giá lợi ích của các CSTM cần
căn cứ vào lợi ích tổng thể của toàn xã hội, không chỉ căn cứ
vào lợi ích của từng ngành, của từng nhóm đối tượng.
- Quan điểm cần xem xét trong mối quan hệ với yếu tố
phát triển bền vững. Yếu tố phát triển bền vững đòi hỏi phải
đạt được “tính hiệu quả trong dài hạn”, coi các vấn đề phát
triển kinh tế là một bài toán tối ưu trong dài hạn. Quan điểm
phát triển bền vững có thể được cụ thể hóa thành nhiều dạng
chỉ tiêu đánh giá rất khác nhau, như chỉ tiêu về môi trường,

68
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

chuyển dịch cơ cấu, năng lực cạnh tranh, tăng trưởng và phát
triển, hàm lượng tri thức trong SP, giá trị thặng dư...
- Quan điểm khi đánh giá phải xét đến xu hướng toàn
cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, vì đây là một xu hướng
tất yếu, tác động đến tất các các quốc gia, thu hẹp khoảng
cách không gian, nó vừa là sự lựa chọn, là sức ép, là phải
chấp nhận sân chơi, luật chơi chung, vừa mang lại cơ hội và
thách thức. Do vậy, khi đánh giá các CSTM phải xét đến khả
năng tận dụng cơ hội và vượt qua những thách thức, khó
khăn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Do có nhiều
hình thức hội nhập và gắn với đó là các cam kết (song
phương, đa phương), việc điều chỉnh CSTM là rất cần thiết
nhưng phải tính đến các xu hướng trong tương lai, nhằm khai
thác những cơ hội, lợi ích và hạn chế những khó khăn, thách
thức của quá trình hội nhập.
Việc đánh giá sự tác động của CSTM được tiến hành ở
cả giai đoạn trước khi ban hành, giai đoạn triển khai cũng
như giai đoạn sau khi đã thực hiện chính sách. Việc đánh giá
thường được thực hiện trên bốn nội dung chính: Đáp ứng yêu
cầu quản lý, mục tiêu quản lý; Xem xét để xác định cần thay
cái gì, có phù hợp hay không phù hợp; Tìm ra cách cải tiến để
hoàn thiện chính sách; Đáp ứng về mặt tài chính. Để đánh giá
sự tác động của CSTM có đạt được mục tiêu hay không, có
thể sử dụng một số phương pháp mang tính kỹ thuật như sau:
- Phân tích lợi ích và chi phí: Đó là xem xét và lựa chọn
lấy một phương án tối ưu trong một loạt các phương án bằng
cách tính toán, phân tích các tiêu chí, mức độ rủi ro của mỗi
phương án. Phương án này nhiều khi không thiết thực lắm, vì

69
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

nó phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người ra quyết định.
Thường có hai trường hợp xảy ra: chi phí và rủi ro lớn, nhưng
lợi ích cũng lớn; và chi phí và rủi ro ít, nhưng lợi ích cũng ít.
Chọn phương án nào tối ưu là do chủ quan của người có thẩm
quyền.
- Đánh giá lựa chọn khả năng thành công hay thất bại:
Phương pháp này phụ thuộc vào khả năng phân tích các rủi
ro, chi phí và lợi ích như đã trình bày trên.
- Đánh giá mức độ tối ưu: Phải có sự tính toán cụ thể
mức độ đạt được mục tiêu, làm thế nào đế đạt được mức tối
ưu về mục tiêu.
- Đánh giá hiệu quả phân bổ ngân sách: Với một số
nguồn ngân sách nhất định, trước khi phân bổ, Chính phủ cần
có sự đánh giá, lựa chọn phương án tối ưu, hiệu quả nhất để
phân bổ ngân sách cho các lĩnh vực khác nhau.
- Đánh giá tối ưu về mặt thời gian: Ứng dụng và tìm
cách để xác định thời gian thực hiện nhanh nhất.
Trong các phương pháp đánh giá chính sách ở trên,
phương pháp nào cũng cần có thông tin đầy đủ, chính xác,
kịp thời và phải kiểm tra các nguồn thông tin trước khi ra
quyết định. Hơn nữa, khi đánh giá tác động của CSTM
nhằm phát triển CNHT, cần phân tích thông tin phản hồi,
nhất là trong giai đoạn thực hiện chính sách, thông qua các
chỉ tiêu như:
- Số lượng DN CNHT: Rõ ràng, lĩnh vực CNHT sẽ chỉ
phát triển được nếu có nhiều doanh nghiệp sản xuất tham gia.

70
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

Tuy nhiên, để có thể sử dụng chỉ tiêu này, việc xác định rõ
ràng phạm vi của CNHT và tiêu chí doanh nghiệp CNHT (là
doanh nghiệp có hoạt động sản xuất) là cần thiết bởi vì trên
thực tế có nhiều DN đa ngành, vừa thực hiện hoạt động TM,
vừa sản xuất nhiều loại SP khác nhau. Bên cạnh tiêu chí về số
lượng DN tuyệt đối, cần xem xét đến cả tiêu chí tương đối
trong tương quan so sánh với số lượng DNCN chính. Như ở
phần đặc điểm CNHT đã chỉ ra, một DNCN chính cần có
nhiều DN CNHT tham gia cung cấp đầu vào và nằm ở nhiều
lớp khác nhau. Như vậy, lĩnh vực CNHT phát triển khi tỷ lệ
số DN CNHT trên số DN chính lớn.
- Quy mô DN CNHT: Nhược điểm của chỉ tiêu số
lượng DN là chưa xem xét đến quy mô DN. Mặc dù, lĩnh
vực CNHT chủ yếu bao gồm các DNNVV, nhưng cũng có
thể có một số DN lớn, và các DNNVV cũng có quy mô
khác nhau. Chính vì vậy, khi xem xét mức độ phát triển
của CNHT, cần tính đến cả quy mô DN CNHT, bao gồm:
số lao động trung bình; số vốn trung bình; doanh thu trung
bình... Tuy nhiên, khi sử dụng tiêu chí này, cần chú ý rằng
không phải quy mô DN lớn hàm ý sự phát triển cao của
lĩnh vực CNHT. Các DNNVV có những ưu điểm riêng, và
thích hợp với lĩnh vực CNHT.
- Trình độ công nghệ của doanh nghiệp CNHT: Lĩnh
vực CNHT phát triển khi các doanh nghiệp CNHT không chỉ
tồn tại (thể hiện ở số lượng doanh nghiệp) mà quan trọng hơn
phải đáp ứng được yêu cầu của khách hàng trong CN chính.
Trong đó, yếu tố trình độ công nghệ giữ vai trò quan trọng.
Với trình độ công nghệ hiện đại, các DN CNHT không chỉ

71
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

đáp ứng được yêu cầu của khách hàng hiện tại mà còn có
thể linh hoạt, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu khi có sự thay đổi.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh toàn cầu hóa, trình độ công
nghệ sẽ tạo điều kiện cho DN CNHT có thể xuất khẩu được
sản phẩm của mình, phục vụ các doanh nghiệp công nghiệp
chính nước ngoài.
- Quan hệ giữa DN CNHT với khách hàng và với nhà
cung cấp: Các DN CNHT cần có mối liên hệ chặt chẽ, không
chỉ với các DNCN chính (khách hàng) mà còn với các DN
CNHT lớp dưới (nhà cung cấp). Mối liên hệ này càng chặt
chẽ, càng thể hiện sự phát triển cao của CNHT vì nó tạo điều
kiện cho các hiệu ứng lan tỏa theo chiều dọc (vertical
spillover effect). Để đánh giá quan hệ này, có thể sử dụng
một số tiêu chí như:
+ Hình thức hợp đồng giữa khách hàng và nhà cung
cấp: Về lý thuyết, quan hệ kinh doanh có thể thực hiện thông
qua hợp đồng dài hạn với các điều kiện, điều khoản được xác
định ổn định, lâu dài hoặc hợp đồng đặt hàng với các điều
kiện, điều khoản được đàm phán và thống nhất theo từng lần.
Hợp đồng dài hạn sẽ tạo điều kiện cho các DN có thể đầu tư
đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất để đáp ứng yêu cầu mà
không lo ngại nhiều về biến động của thị trường.
+ Mức độ chủ động trong việc sử dụng các công cụ
marketing: Nếu các DN nâng cao tính chủ động thì sẽ nắm
bắt tốt hơn nhu cầu thị trường, đa dạng khách hàng, nhà cung
cấp và ngược lại, nếu DN thụ động thì sẽ rất khó phát triển
được mối quan hệ của mình.

72
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

- Tương quan giữa các nguồn cung cấp: Là chỉ tiêu


đánh giá mức độ phát triển của lĩnh vực CNHT. Trong hoạt
động của mình, các DN CNHT có thể sử dụng đầu vào từ các
nguồn cung cấp khác nhau:
+ Nguồn nội bộ DN (in - house): là những loại linh kiện
mà DN có thể tự mình sản xuất. Chỉ tiêu này cao thể hiện
năng lực sản xuất của DN nhưng nếu quá cao cũng sẽ hàm ý
sự thiếu chuyên môn hóa ở mức độ cao của DN.
+ Nguồn nhập khẩu (import): bao gồm các đầu vào mà
DN phải nhập khẩu từ nước ngoài. Trong xu thế toàn cầu
hóa, rõ ràng, mỗi DN, mỗi quốc gia không thể tự mình sản
xuất mọi loại SP, mọi loại linh kiện. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ
nhập khẩu cao sẽ thể hiện sự yếu kém của CNHT. Ngược lại,
các quốc gia cần tham gia vào mạng sản xuất toàn cầu, nhập
khẩu những đầu vào mình không có lợi thế và xuất khẩu
những đầu vào mình có lợi thế.
+ Nguồn cung cấp trong nước (domestic): bao gồm
những đầu vào mà DN mua của những nhà cung cấp trong
nước. Nguồn này có thể được chia nhỏ thành 2 nguồn cung
cấp từ các DN ĐTNN và các DN trong nước. Nếu tỷ lệ đầu
vào mua từ các DN ĐTNN lớn sẽ thể hiện một sự phụ thuộc
vào ĐTNN của lĩnh vực CNHT. Chỉ khi nào có sự tác động
giữa DN ĐTNN với DN trong nước, tiến tới nâng cao năng
lực của các DN trong nước, giảm tỷ trọng mua từ các DN
ĐTNN và tăng dần tỷ trọng mua của các DN trong nước thì
lĩnh vực CNHT mới phát triển.
CSTM là một trong những bộ phận hợp thành có vị trí
và vai trò xác định trong cơ chế và chính sách kinh tế nói

73
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

chung, chịu sự ràng buộc và chi phối bởi cơ chế, chính sách
quản lý kinh tế của Nhà nước trong mỗi thời kỳ nhất định.
Khi xây dựng CSTM, mặc dù đã có sự tham khảo, lấy ý kiến
của các ngành, nhưng mọi cơ chế, chính sách được ban hành
chưa hẳn đều phù hợp hay tương thích, nhất là các cơ chế,
chính sách mang tính chuyên ngành cao do không nắm rõ lý
luận và thực tiễn, do lợi ích cục bộ. Do đó, khi đánh giá tác
động của CSTM, một mặt phải xem xét các chính sách cụ thể
trong mối quan hệ mâu thuẫn giữa các phạm trù, khái niệm
TM, cần xem xét tính tương thích của các cơ chế, CSTM với
các cơ chế chính sách khác, phải trên cơ sở lấy lợi ích tổng
thể nền kinh tế, lấy mục tiêu phát triển bền vững, tiến bộ xã
hội và bảo vệ môi trường. Từ đó mới có cơ sở để điều chỉnh,
hoàn thiện chính sách và cơ chế cho phù hợp.
III. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC VỀ
CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI NHẰM PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
1. Kinh nghiệm về chiến lược thương mại quốc gia
nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ
Theo xu thế chung hiện nay về chuỗi cung cấp toàn
cầu, các nước đều cố gắng đạt được ở mức độ nào đó về
chuyên môn hóa và tham gia vào mạng lưới sản xuất trong
khu vực và trên thế giới. Đài Loan đã chuyên biệt hóa về thiết
bị bán dẫn, Thái Lan tập trung vào phụ tùng ô tô, Malaysia
chuyên về hàng điện tử … Để tham gia được vào những
mạng lưới này, các nước đều phải sở hữu nền tảng CN và
nguồn lực đủ mạnh. Nền tảng CN bao gồm những công nghệ

74
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

chủ yếu, cần thiết cho mọi ngành CN, đó là đúc, khuôn, rèn,
mạ, xử lý nhiệt, sơn, dập và nhựa.
Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan là các quốc
gia có nền CNHT phát triển, tiếp thu được thành tựu công
nghệ nước ngoài và đạt được cạnh tranh quốc tế nhờ vào việc
xác định tốt chiến lược phát triển, trong đó có chiến lược TM
quốc gia.
Quá trình phát triển chính sách đối với CNHT của Thái
Lan có thể được chia thành 4 giai đoạn: (i) Giai đoạn 1960-
1970, khuyến khích và bảo hộ thị trường trong nước; (ii) Giai
đoạn 1971 - 1986, gắn với chính sách hợp lý hóa CN thông
qua yêu cầu xuất xứ địa phương, chính sách này được đưa ra
và thực hiện mạnh mẽ; (iii) Giai đoạn 1987-1999, khuyến
khích xuất khẩu và tự do hóa từng phần; Giai đoạn từ năm
2000 trở đi, gắn với kết thúc yêu cầu xuất xứ địa phương.
Chính phủ Thái Lan từ việc quy định về tỷ lệ nội địa hóa
(năm 1996): 40% đối với xe tải nhỏ, 54% đối với xe tải khác,
đã tiến đến yêu cầu động cơ diesel phải được sản xuất trong
nước. Trong những năm gần đây, các công ty ô tô phương
Tây và Nhật Bản bắt đầu xem Thái Lan như một trung tâm
sản xuất ở khu vực ASEAN. Hiện nay, khi năng lực của
ngành CNHT đã phát triển đáp ứng yêu cầu, Thái Lan có
chính sách buộc các nhà ĐTNN đã ổn định trong sản xuất,
kinh doanh phải thay đổi chiến lược để tuân thủ tỷ lệ nội địa
hóa. Điều này không những đã kéo theo những dự án đầu tư
mở rộng nhà xưởng sản xuất ngay tại chỗ, mà còn kéo theo

75
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

các công ty, tập đoàn lớn từ chính các nước đầu tư sang mở
thêm các cơ sở CNHT tại Thái Lan.
Đối với Malaysia, thực tế cho thấy nước này có những
chính sách thu hút ĐTNN với sự nhấn mạnh vào ngành chế
tạo rất rõ rệt. Trước hết, chế tạo là hướng nhấn mạnh quan
trọng trong chính sách TM và CN của nước này trong các
giai đoạn phát triển khác nhau. Theo Tham Siew - Yean
(2003), chính sách TM và CN của Malaysia từ năm 1957 tới
nay được chia làm 4 giai đoạn: Thay thế nhập khẩu (1957-
1970); Định hướng xuất khẩu (1970-1980); Thay thế nhập
khẩu vòng hai (1980-1985); và Định hướng xuất khẩu (1990
đến nay). Bốn giai đoạn này đều coi chế tạo là điểm nhấn
mạnh, tuy nhiên với các định hướng ngành và thị trường khác
nhau. Hơn nữa, nước ngày không có một Luật ĐTNN riêng
như các nước khác và đây được coi như một lợi điểm để giúp
cho Chính phủ có thể có đủ khoảng trống trong việc đưa ra
những chính sách điều tiết linh hoạt và thích hợp. Trước năm
1998, tỷ lệ kiểm soát vốn của nhà ĐTNN phụ thuộc vào tỷ lệ
xuất khẩu SP và họ chỉ được năm 100% vốn nếu có 80% SP
là xuất khẩu và sản xuất sử dụng công nghệ tiên tiến mà
Chính phủ đang khuyến khích. Tuy nhiên, sau khủng hoảng
tài chính châu Á, với việc suy giảm dòng vốn nước ngoài nói
chung, Chính phủ đã dỡ bỏ mọi hạn chế về tỷ lệ sở hữu đối
với dòng vốn này vào khu vực chế tạo (Investment Regim:
Malaysia, 2004). Việc thay đổi chính sách như vậy rõ ràng là
có ảnh hưởng đến chính sách xã hội nổi tiếng của Malaysia
trong việc tái phân phối của cải nhằm ưu tiên hơn cho người
Malaysia gốc là Bumiputras. Tuy nhiên khi điều kiện kinh tế

76
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

thay đổi, việc thu hút dòng vốn khó khăn hơn, Chính phủ đã
có những thay đổi về hạn chế sở hữu nước ngoài, điều này
cho thấy khi điều kiện kinh tế bắt buộc, Chính phủ vẫn có thể
tạm thời thay đổi những mục tiêu xã hội dài hạn (Investment
Regim: Malaysia, 2004). Đối với Malaysia, do không có Luật
ĐTNN tổng thể nên về cơ bản các cơ chế bảo vệ và hỗ trợ
ĐTNN đều dựa vào các hiệp định song phương. Ví dụ Nhật
Bản là nguồn ĐTNN lớn nhất ở Malaysia, song giữa Nhật
Bản và Malaysia chưa ký kết hiệp định bảo hộ đầu tư. Thực
tế này nói lên rằng trên hết, cơ sở hạ tầng tốt, sự minh bạch
và nhất quán trong chính sách, cơ chế TM mở, sự ổn định
chính trị và kinh tế vĩ mô của Malaysia là những yếu tố đầu
tiên khiến nước này là điểm đến đầu tư hấp dẫn.
Đài Loan: áp dụng quy định về tỷ lệ nội địa hóa vào
những năm 1960 đối với hầu hết các SP trong ngành ô tô,
điện và điện tử, thực sự hữu hiệu trong việc thúc ép các nhà
sản xuất nước ngoài đang chiếm trong thị trường nội địa phải
chuyển giao công nghệ sản xuất linh kiện cho các đối tác liên
doanh trong nước hoặc cho các nhà cung cấp linh kiện trong
nước. Quy định này được dỡ bỏ từ năm 1975 đến 1986 khi
mà các cam kết về tự do hóa TM thực hiện đầy đủ.
Hàn Quốc: Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay, trong khi một loạt các đại
gia ô tô của Mỹ, Đức đã sụp đổ hoặc đang đứng bên bờ phá
sản thì ngành ô tô của Hàn Quốc lại cho những báo cao
doanh thu sáng sủa nhất. Có được kết quả này một phần là
nhờ thành công của việc triển khai hai chương trình 5 năm về
tỷ lệ nội địa hóa 1987 - 1991 và 1992 - 1996 trong ngành CN

77
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

ô tô của nước này. Theo đó, tổng số có 7.032 linh, phụ kiện
được chỉ định phải nội địa hóa và hiện đã nội địa hóa được
khoảng 78% linh kiện được chỉ định.
2. Kinh nghiệm về chính sách thương nhân nhằm phát
triển công nghiệp hỗ trợ
Một trong những điểm mấu chốt đặc biệt quan trọng
trong các chính sách này của các nước Trung Quốc, Malaysia
và Thái Lan là định hướng, khuyến khích mạnh sự phát triển
của ngành chế tạo và hệ thống các DNNVV. Về cơ bản,
ngành chế tạo được coi là mục tiêu ưu tiên phát triển trong
suốt các giai đoạn phát triển kinh tế, nó thể hiện đặc biệt rõ
trong chính sách và các kế hoạch phát triển của các nước này.
Trong định hướng phát triển CN chế tạo, các chương trình
thúc đẩy phát triển DNNVV đặc biệt được coi trọng. Do
những đặc thù của mình, có thể nói khu vực này khá thích
ứng với CNHT như:
- Nhờ quy mô vốn và lao động không quá cồng kềnh,
DNNVV có được khả năng linh hoạt và chuyên môn hóa cao
trong việc bố trí sản xuất, lựa chọn và thay đổi chủng loại và
mẫu mã SP. Khả năng này là vô cùng quan trọng giúp chúng
thích ứng được với yêu cầu đa dạng và liên tục thay đổi của các
nhà lắp ráp. Thêm nữa, các loại SP CNHT đều là các linh phụ
kiện có chủng loại vô cùng đa dạng, các yêu cầu kỹ thuật cũng
như độ phức tạp trải rộng từ thấp đến cao.
- Tuy khó có điều kiện triển khai những hệ thống kỹ
thuật công nghệ có quy mô lớn như các DN lớn, nhưng thực
tế cho thấy các DNNVV thường hay có những phát kiến cải
tiến kỹ thuật rất đa dạng và hợp lý để tận dụng tối đa và thậm
chí nâng cao hiệu năng của các loại công nghệ họ có, phù hợp

78
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

với điều kiện của mình. Với sự linh hoạt của mình, các
DNNVV là người đi tiên phong trong việc áp dụng các phát
minh mới về công nghệ cũng như các sáng kiến về kỹ thuật.
Tuy nó chỉ là các cải tiến kỹ thuật ở mức độ tăng cường hiệu
năng, không thể so sánh được về mức độ đột phá công nghệ
so với các nghiên cứu tại các tập đoàn lớn, nhưng đó cũng là
những tiền đề vô cùng quan trọng để dẫn tới sự đổi mới về
công nghệ sau này.
- DNNVV dễ dàng gắn kết với DN lắp ráp trong chuỗi
sản xuất. Với quy mô nhỏ và khả năng linh hoạt, các DN này
có lợi thế khi tham gia vào chuỗi cung ứng SP cho các nhà
sản xuất lớn ở nhiều tầng khác nhau. Điều này tạo điều kiện
cho các nhà lắp ráp dễ dàng xây dựng được chuỗi cung ứng
hiệu quả, phù hợp với yêu cầu và đặc thù của DN mình.
Tuy nhiên, DNNVV thường gặp những hạn chế nhất
định về vốn, công nghệ sản xuất, nguồn nhân lực đòi hỏi
Chính phủ các nước cần có những cơ chế, chính sách hỗ trợ
để phát triển khu vực này theo đúng hướng. Điểm hạn chế
của khu vực này cũng lại là một thế mạnh của chúng ở điểm
khác. Đó là, do khát vốn và có nhu cầu lớn về đổi mới công
nghệ DNNVV lại rất sẵn sàng tiếp thu những sự hỗ trợ từ
phía chính phủ và các tổ chức khác. Bên cạnh đó, các DN này
cũng là các đối tượng sẵn sàng thực hiện các chiến lược và
quy hoạch ngành theo quy định của Chính phủ. Chính phủ có
thể dễ dàng định hướng các DNNVV hoạt động theo chính
sách đã định trước, qua đó có thể phát triển các ngành CNHT
một cách khoa học và hợp lý.
Cũng chính vì những lý do như trên mà Chính phủ
nhiều nước rất quan tâm đến việc khuyến khích phát triển

79
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

khu vực này trong lĩnh vực CNHT. Các hoạt động hỗ trợ tập
trung vào những điểm yếu của DNNVV như hỗ trợ tài chính,
hỗ trợ phát triển công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực có chất
lượng, quy hoạch quản lý…
- Về hỗ trợ tài chính, các công cụ được áp dụng khá đa
dạng. Thái Lan đẩy mạnh việc hỗ trợ phát triển DNNVV
trong lĩnh vực CNHT thông qua các công cụ chủ yếu là chính
sách thuế và hàng rào thuế quan, không quan tâm đến việc
các DN này thuộc quốc tịch nào. Còn ở Nhật Bản lại được
thực hiện dưới hình thức khác. Để phục vụ nhà máy lắp ráp,
Nhật Bản có hàng nghìn các DN vệ tinh khác sản xuất các
loại linh kiện phụ tùng hỗ trợ cho DN đó. Hiện ở Nhật Bản có
nhiều tên tuổi tầm cỡ thế giới, nhưng các DN này chỉ chiếm
1% số lượng DN và công việc chủ yếu của họ là lắp ráp, sản
xuất cuối cùng, còn trên 95% DN cấp thấp hơn sản xuất các
linh kiện cho các công ty này là các DNNVV.
- Về hỗ trợ công nghệ, ở Nhật Bản có tới 110 trung
tâm hỗ trợ máy móc thiết bị để giúp đỡ các công ty nhỏ với
khả năng tài chính có hạn có thể tiếp cận với máy móc thiết
bị mới. Ngoài ra, Chính phủ Nhật Bản còn xây dựng 47
trung tâm hỗ trợ công nghệ. Nhật Bản còn quan tâm tới việc
xúc tiến các liên kết giữa các nhà cung cấp linh kiện, thường
là các DN nhỏ với các công ty lớn bằng việc thiết lập cơ sở
dữ liệu về CNHT. Các địa phương đều có các cơ sở dữ liệu
riêng với sự tham gia của các quan chức chính quyền, các
DN, các nhà nghiên cứu. Các cơ sở dữ liệu này có chất
lượng cao cung cấp thông tin chi tiết về các nhà cung cấp và
rất dễ tiếp cận.

80
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

- Về việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, nhân


tố được coi là quan trọng nhất cho sự phát triển lâu dài của
các ngành. Một nhà sản xuất Việt Nam chuyên cung cấp các
SP nhựa cho các công ty của Nhật Bản và Mỹ đã chia sẻ rằng
họ cần công nhân có trình độ kỹ thuật cao chứ không phải
máy móc tối tân, và công nhân có trình độ cao vận hành máy
móc cũ thậm chí còn hiệu quả hơn công nhân không có trình
độ vận hành máy mới. Cùng quan điểm đó, một chuyên gia
người Nhật cho rằng việc lắp ráp hoặc vận hành máy móc
đơn giản không thể tạo ra khả năng cạnh tranh quốc tế vì
những công việc đó thì bất kỳ ai ở bất kỳ nơi đâu cũng có thể
làm được. Một chuyên gia người Nhật khác lại nhấn mạnh
vào thái độ làm việc chuyên nghiệp nhằm đảm bảo chất
lượng SP mức tối đa chứ không phải thỏa mãn chỉ ở mức
99%. Theo chuyên gia này thì chính 1% còn lại đó thể hiện
sự khác biệt giữa nhà cung cấp có vốn ĐTNN với nhà cung
cấp trong nước không có tính cạnh tranh. Như vậy, có thể
thấy rằng, điểm thu hút được sự có mặt của các DNNVV, mở
rộng thị trường xuất khẩu chính là chất lượng nguồn nhân lực
quốc gia. Nguồn nhân lực CN chất lượng cao là nhân tố cần
thiết cho việc đưa trình độ sản xuất vượt lên mức mà Thái
Lan và Malaysia đã đạt được, cũng như giải quyết hiệu quả
những thách thức cạnh tranh từ Trung Quốc.
- Về quy hoạch, quản lý, có một điểm đáng chú ý là các
DNNVV rất cần những định hướng và những quy định tạo
khuôn khổ hoạt động cho họ từ Chính phủ. Ví dụ, Nhật Bản
xây dựng tiêu chuẩn 5S đối với các DN sản xuất trong ngành
CNHT, chủ yếu là các DNNVV. 5S bắt nguồn từ 5 chữ tiếng
Nhật là Seiri (Sắp xếp, bố trí), Seiton (Hệ thống), Seisou
(Đồng nhất), Seiketsu (Sạch sẽ) và Shituke (Giáo dục). Việc

81
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

thực hiện nghiêm túc các tiêu chuẩn này tạo hiệu quả đáng kể
trong hoạt động của các DN, giúp nâng cao năng suất và chất
lượng SP. Một kinh nghiệm nữa từ thực tiễn các nước trong
khu vực là các hoạt động hỗ trợ nên được xây dựng thành các
chương trình. Những chương trình như thế thường có ngân
sách rõ ràng, mục tiêu cụ thể giúp cho việc quản lý theo
phương pháp hậu kiểm được thuận lợi và mang lại hiệu quả.
Ví dụ trong quá khứ Hàn Quốc đã thành công trong việc
khuyến khích DNNVV hoạt động trong lĩnh vực CNHT nhờ
các chương trình 5 năm về quy định tỷ lệ nội địa hóa. Hay
Malaysia cũng xây dựng các chương trình phát triển cho khu
vực vừa và nhỏ bao gồm: chương trình hỗ trợ phát triển các
nhà cung cấp linh kiện, chương trình liên kết hỗ trợ CN,
chương trình phát triển kỹ thuật, tổ chức hội chợ các nhà
cung cấp linh kiện phụ tùng và các hội chợ CN …
3. Kinh nghiệm về chính sách thị trường và mặt hàng
nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ
Cùng với các chính sách khác, việc tạo dựng và phát
triển thị trường đầu ra cho các DN trong lĩnh vực CNHT là
hết sức cần thiết. Tuy nhiên cách thức tạo dụng thị trường
đầu ra có những sự khác biệt đáng kể trong các nước được
nghiên cứu. Malaysia tạo dựng thị trường đầu ra cho các DN
cung ứng địa phương bằng cách thúc đẩy việc tạo dựng các
mạng sản xuất nội địa ban đầu với các công ty mỏ neo là các
công ty lớn trong nước. Trong khi đó, Thái Lan dường như
coi trọng hơn việc gắn kết với các mạng sản xuất toàn cầu,
đặc biệt các mạng sản xuất do các công ty chế tạo Nhật Bản
đứng đầu. Thái Lan đã hướng nỗ lực tới việc tạo dựng các thể
chế để thúc đẩy các kết nối dạng này, đặc biệt khuyến khích

82
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

các liên doanh liên kết giữa CN địa phương với nguồn vốn
nước ngoài. Khác với Malaysia và Thái Lan, Trung Quốc rất
coi trọng việc phát triển thị trường cho các DNNVV trong
nước thông qua phát triển các mạng lưới phân phối nội địa,
tạo thị trường lớn cho các SP của DNNVV nói chung và DN
CNHT nói riêng. Sự khác biệt của Trung Quốc là dựa trên
những đặc trưng và lợi thế mà chỉ riêng Trung Quốc có được,
đó là sức mạnh truyền thống của các mạng lưới liên kết và
phương pháp trong văn hóa Trung Hoa cũng như quy mô thị
trường nội địa khổng lồ của nước này khiến cho việc phát
triển ngành CNHT có đủ điều kiện phát triển ngay cả trong
trường hợp không kết nối với các mạng sản xuất nước ngoài.
Kinh nghiệm ở các nước châu Á thường phát triển các
cụm CN ở các làng xã và thị trấn nhỏ. Ở Thái Lan, Malaysia,
Trung Quốc, Ấn Độ, tỷ lệ các cụm CN nằm ở nông thôn
chiếm phần chi phối. Ở Thái Lan, một khái niệm hết sức rõ
được đưa ra là mỗi làng một SP. Bản chất của ý tưởng này là
tìm kiếm và tạo ra sự chuyên môn hóa của mỗi làng ở một SP
có thể tạo ra giá trị gia tăng cao hơn. Ở Thái Lan, khái niệm
này được gọi là OTOP (one Tambon one product) và được
phát triển dựa trên các cơ chế khuyến khích về chính sách,
hành chính, tạo dựng mạng lưới và các chiến lược marketing.
Trong số các SP của làng sản xuất, cần phải tìm ra và nhấn
mạnh một SP mạnh nhất, gọi là SP OTOP vô địch (OTOP
product champion) sau đó lấy giấy chứng nhận của chính
quyền về SP, sau đó có những xem xét và nghiên cứu để phản
ứng với nhu cầu của thị trường và tiêu chuẩn chất lượng. Về
cơ bản các SP này cần phải được hướng đến các thị trường
thành thị và thị trường nước ngoài. Trong chiến lược

83
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

marketing, SP được đưa lên giới thiệu theo nhiều kênh khác
nhau như Hàng không Thái, các báo và các siêu thị lớn.
Ngoài ra, Thái Lan còn tổ chức các triển lãm, hội chợ cho các
SP hoặc mở ra vài cửa hàng OTOP trên khắp đất nước. Hiện
nay với các chiến lược và công cụ marketing hiện đại, nhiều
làng đã có thể phát triển các cụm CNHT dựa trên các lợi thế
vốn có của mình kết hợp với khả năng gia nhập vào các mạng
cung ứng sản xuất nội địa và toàn cầu. Cục CNHT Thái Lan
đã phân loại một cách cụ thể tất cả các ngành CNHT thành 19
lĩnh vực khác nhau gồm ba cấp đó là: máy móc và thiết bị,
linh kiện và dịch vụ và đồng thời đưa ra các chính sách riêng
biệt phù hợp với từng cấp về việc áp dụng chính sách “quy
tắc xuất xứ địa phương” để khuyến khích và bắt buộc các nhà
lắp ráp phải quan tâm và tăng cường sử dụng các đầu vào lắp
ráp được sản xuất tại địa phương.
Một vấn đề nữa là để tìm hiểu, mở rộng thị trường, việc
tạo dựng cơ sở dữ liệu, tăng cường trao đổi thông tin là hết
sức cần thiết. Chính phủ Malaysia đã đưa ra chương trình
trao đổi hợp đồng thầu phụ. Chương trình này cung cấp các
cơ sở dữ liệu máy tính để giúp các DNNVV tìm hiểu và đáp
ứng được nhu cầu của các công ty lớn với tư cách là nhà cung
ứng các đầu vào CN, khuyến khích sự phát triển của các
DNNVV trong khu vực thành các công ty hiện đại có sức
cạnh tranh trong lĩnh vực CNHT. Chương trình trao đổi hợp
đồng thầu phụ đặc biệt nhấn mạnh sự phát triển trong các
ngành như ô tô, các ngành chế biến cao su, ngành chế tạo
máy và điện tử, ngành nhựa, ngành chế biến gỗ, ngành chế
tạo máy và ngành dệt. Cùng với chương trình trao đổi hợp
đồng thầu phụ, Malaysia còn tổ chức các hội chợ và triển lãm

84
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

dành cho DNNVV, thực hiện các nghiên cứu về các phân
đoạn thị trường và sản phẩm.
4. Kinh nghiệm về chính sách xuất nhập khẩu và các
công cụ của chính sách xuất nhập khẩu nhằm phát triển
công nghiệp hỗ trợ
Thái Lan coi ngành CN sản xuất linh kiện điện tử (IC,
Transitor, diod...) là một trong những ngành CNHT quan
trọng phục vụ ngành điện tử. Khách hàng chủ yếu vẫn là thị
trường thế giới, chỉ có một phần các loại linh kiện này được
cung cấp cho các nhà lắp ráp trong nước. Tuy nhiên, để có
thể giữ được mức tăng trưởng sản lượng hàng năm từ 15-
20% và mức tăng trưởng xuất khẩu 12-15% hàng năm của
ngành CNHT, Thái Lan cũng phải nhập khẩu những loại phụ
tùng linh kiện và nguyên vật liệu quan trọng như chất bán
dẫn, các loại IC và transitor đặc chủng... từ các nước khác
như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore. Trong
năm 2007, ngành CN điện tử Thái Lan phải nhập tới 21,87 tỷ
USD các loại nguyên vật liệu và linh phụ kiện quan trọng,
tăng 8% so với năm 2006. Lượng nguyên vật liệu và linh phụ
kiện khổng lồ này đã giúp ngành CN điện tử Thái Lan tăng
tổng sản lượng SP từ năm 2007 lên 27% với việc mở rộng
năng lực của nhiều ngành sản xuất, trong đó năng lực của
ngành sản xuất HDD tăng 32%, ngành sản xuất IC tăng 22%.
Như phần lớn các nước ASEAN khác, ngành CN điện
tử Thái Lan cũng dựa chủ yếu vào vốn ĐTNN. Thái Lan là
một trong những quốc gia Đông Nam Á thu hút được nhiều
vốn ĐTNN nhất vào ngành CN điện tử. Chỉ tính riêng trong
giai đoạn 1986-2001 đã có 4,5 tỷ USD vốn ĐTNN đổ vào
ngành CN điện tử Thái Lan, chủ yếu là vào các ngành sản

85
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

xuất linh kiện điện tử và máy tính. Tuy nhiên, Thái Lan đã
biết tận dụng vốn ĐTNN để xây dựng một nền CN điện tử
phát triển, có các ngành CNHT có tính cạnh tranh cao, hội
nhập thành công vào mạng lưới sản xuất và cung ứng toàn
cầu của ngành điện tử thế giới và trở thành nhà sản xuất và
cung ứng hàng đầu khu vực và thế giới về một số SP như
HDD, IC và PCB. Ngành điện tử và ngành CNHT phục vụ
ngành điện tử Thái Lan đã chuyển đổi mạnh mẽ từ giai đoạn
“sản xuất để thay thế nhập khẩu” sang giai đoạn “định hướng
xuất khẩu” chỉ trong vòng vài ba thập niên và đã thực sự trở
thành ngành CN hàng đầu của đất nước. Một trong các yếu tố
cơ bản đã tạo nên thành công này là các chính sách ưu đãi
của Chính phủ về thuế thu nhập DN, thuế nhập khẩu
trang thiết bị nguyên liệu thô, miễn giảm thuế cho các dự
án công nghệ cao…
Tuy nhiên các ngành CNHT của Thái Lan cũng gặp
phải một số vấn đề trong quá trình xây dựng và phát triển.
Trong một thời gian tương đối dài, Chính phủ chưa có một
chính sách thuế phù hợp để khuyến khích việc phát triển các
ngành CNHT trong nước. Chẳng hạn tỷ lệ thuế đối với các
linh kiện, phụ tùng thay thế phục vụ ngay bản thân ngành sản
xuất linh phụ kiện.
Trong lĩnh vực sản xuất ô tô, Thái Lan được coi là
Detroit (trung tâm ô-tô truyền thống thế giới) của ASEAN,
do nước này đã bắt đầu xuất khẩu được đáng kể ô tô có hầu
hết các linh kiện và phụ kiện được sản xuất trong nước. Ô tô
sản xuất ở Thái Lan, cho dù là để xuất khẩu hay tiêu dùng
trong nước đã có tỷ lệ nội địa hóa tăng nhanh và đạt mức rất
cao, 80-90% đối với SP ô tô tải hạng nhẹ và 30-70% đối với

86
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

các loại xe con. Tổng số các nhà sản xuất linh kiện ô tô ở
Thái Lan có hơn 2.200 trong đó các công ty cung ứng ở vòng
trong là 648 công ty và các công ty cung ứng vòng ngoài là
hơn 1.600 công ty. Các công ty sản xuất linh kiện này sử
dụng hơn 300.000 lao động và với nguyên liệu thô dùng cho
sản xuất chủ yếu từ nguồn trong nước (80%) và còn lại 20%
là nhập khẩu từ nước khác.
Với sự trợ giúp của Chính phủ Nhật Bản và các nhà
ĐTNN, nhất là các nhà đầu tư Nhật Bản, từ cuối những năm
80, Chính phủ Malaysia đã có nhiều chính sách và biện pháp
hiệu quả nhằm phát triển các ngành CNHT phục vụ cho việc
phát triển ngành sản xuất SP điện tử tiêu dùng và điện tử CN.
Vì vậy, tuy ngành sản xuất dụng cụ bán dẫn và các linh kiện
điện tử khác vẫn giữ vai trò chủ đạo nhưng tỉ trọng của ngành
hàng này đã giảm từ 85% (1984) xuống 58% (1991) và chỉ
còn 43% (1997); trong khi đó tỉ trọng của ngành hàng điện tử
tiêu dùng và điện tử CN tăng đáng kể từ 12% (1984) đến
23% (1991) và 40% (1997).
Malaysia hiện nay đã trở thành cơ sở sản xuất của nhiều
công ty đa quốc gia đến từ Mỹ, Nhật, châu Âu, Đài Loan và
Hàn Quốc, đặc biệt trong ngành điện tử. Các SP điện tử bao
gồm từ những thiết bị bán dẫn cho tới những SP điện tử TM
và CN. Với một nền tảng sơ khai vào năm 1968, đến năm
2000, ngành điện tử của Malaysia đã tạo ra gần 25% số việc
làm, 33% giá trị tài sản cố định, và 33% giá trị gia tăng trong
toàn ngành chế tạo. Ngành điện tử đã trở thành nền tảng thúc
đẩy khu vực chế tạo phát triển, chiếm tới trên 80% xuất khẩu
của ngành chế tạo trong năm 2000. Đến năm 2006, tổng kim

87
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

ngạch xuất khẩu của ngành điện tử đã đạt 221,2 tỉ RM chiếm


61,7% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành chế tạo. Ngành
điện tử cũng đã tạo được 397.553 việc làm, chiếm 36,6%
tổng việc làm trong ngành chế tạo. Mặc dù vậy ngành điện tử
vẫn bị hạn chế bởi các hoạt động có giá trị gia tăng thấp và
hàm lượng R&D không cao. Malaysia đứng thứ 3 trong số
các nước xuất khẩu hàng điện tử trên toàn thế giới vào năm
2000 và cũng là nước xuất khẩu đồ bán dẫn và dụng cụ nghe
nhìn hàng đầu trên thế giới (MIDA, 2006). Ngành CN điện tử
của Malaysia mang tính định hướng xuất khẩu. Tỷ trọng lớn
trong ngành này dựa chủ yếu vào các công ty đa quốc gia
(MNC), sử dụng Malaysia như là cơ sở sản xuất quốc tế để
xuất khẩu các SP trung gian và thành phẩm về nước mẹ của
họ hay làm chi nhánh tại các thị trường thứ ba để lắp ráp hay
phân phối.
Đồng thời, Malaysia cũng đặc biệt khuyến khích sự
phát triển trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển vốn có
đóng góp đáng kể đối với quá trình phát triển nguồn nhân lực
trong dài hạn của đất nước. Theo đó, Malaysia thực hiện
miễn thuế thu nhập 5 năm đầu hoặc giảm 100% thuế đầu tư
trong 10 năm đầu.
Trong vài năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
của ngành chế tạo xe hơi Trung Quốc đạt được những tiến bộ
đáng khâm phục. Giá trị xuất khẩu năm 2005 đạt 10,9 tỷ
USD, tăng 34% so với năm 2004.
Đến giữa thập kỷ 90, Trung Quốc đã trở thành nhà xuất
khẩu dệt may lớn nhất thế giới, đồng thời phải đối mặt với

88
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

vấn đề dư thừa năng lực sản xuất trầm trọng. Trong vòng 3
năm, chính phủ phá bỏ gần 10 triệu trục sợi kéo, làm cho hơn
1 triệu công nhân thất nghiệp.
Ngày nay, có khoảng 300.000 nhà xuất khẩu hàng dệt
may ở Trung Quốc. Các DN nước ngoài và tư nhân chiếm 4/5
trị giá xuất khẩu mặt hàng này. Hiện Trung Quốc là nước
đứng đầu thế giới về xuất khẩu hàng dệt may. Ngành dệt may
Trung Quốc phát triển quá nhanh khiến chính phủ nước này
phải tăng thuế xuất khẩu đối với mặt hàng này để kiềm chế
xuất khẩu nhằm tránh những biện pháp đối kháng xuất phát
từ nỗi e ngại về dệt may Trung Quốc của các nước khác.
Bên cạnh đó, sau khi gia nhập WTO, Chính phủ Trung
Quốc vẫn tăng cường thu hút ĐTNN, nhưng thay vì bằng
hàng rào thuế quan như trước đây, giờ đây, họ thu hút nguồn
vốn này bằng hàng rào kỹ thuật và môi trường kinh doanh
bình đẳng, minh bạch. Họ quy định, các công ty nước ngoài
không được mua, bán xe nhập khẩu trừ khi các liên doanh với
công ty trong nước; xe nhập khẩu vào nội địa phải đạt tiêu
chuẩn Euro 4 và chạy kiểm tra trong 50.000 km đầu tiên;
thậm chí hải quan cửa khẩu còn kiểm tra xem thùng chứa xe
nhập khẩu có bị nhiễm vi khuẩn, vi trùng hay không… Để
tránh những phiền toái này, các nhà sản xuất ô tô nước ngoài
đã chọn cách đầu tư mở xưởng sản xuất xe ô tô ngay tại
Trung Quốc.
Những quy định chặt chẽ trong quá trình thâm nhập và
hoạt động tại Trung Quốc đã được thay đổi một cách rõ nét
kể từ khi nước này xin gia nhập vào Tổ chức TM thế giới

89
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

(WTO) vào năm 2001. Chính phủ Trung Quốc đã nới lỏng
các quy định thâm nhập thị trường. Kết quả là tất cả các tỉnh,
thành phố tại nước này đều thành lập các nhà máy sản xuất ô
tô như các nhà sản xuất ô tô nguyên chiếc (OEM), các nhà
sản xuất động cơ và các DN sản xuất các SP CNHT.
Sáp nhập và mua lại (M&A), năm 2005, do quy định
của WTO, Trung Quốc bắt đầu nới lỏng điều tiết vĩ mô và
xóa bỏ những quy định bảo vệ nền CN ô tô nội địa. Giải pháp
quan trọng là thúc đẩy quá trình mua lại và sáp nhập để tăng
cường sức cạnh tranh và hiệu quả, đồng thời tăng cường tính
kinh tế của quy mô.
Nghiên cứu chính sách định hướng dòng vốn nước
ngoài vào ngành CNHT ở các nước Thái Lan, Malaysia và
Trung Quốc có thể rút ra kinh nghiệm như sau:
Thứ nhất, khuyến khích thu hút ĐTNN cũng như dòng
vốn nước ngoài nói chung vào lĩnh vực chế tạo như đưa ra
các ưu tiên về mặt bằng thuế, đơn giản hóa các thủ tục và
giảm bớt các hạn chế về sở hữu, đặc biệt là hỗ trợ miễn thuế
cho các hoạt động sử dụng công nghệ cao trong chế tạo máy
móc và linh kiện, chế tạo thiết bị giao thông vận tải, phát
triển CNHT, chế tạo các thiết bị điện và điện tử cũng như các
linh kiện, chế tạo các phụ kiện nhựa, tăng cường nghiên cứu
triển khai, phát triển nhân lực, phát triển mối liên kết CN.
Thứ hai, các động cơ khuyến khích đối với dòng vốn
nước ngoài còn được đưa ra đối với từng dự án hay từng loại
SP và thay đổi liên tục tùy theo hệ thống các ngành được ưu
tiên trong các kế hoạch phát triển CN của đất nước, tuy nhiên

90
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

điểm chung trong giai đoạn hiện nay là các động cơ khuyến
khích được đưa ra đối với các ngành công nghệ cao, tham gia
hoạt động nghiên cứu phát triển, phát triển nhân lực, phát
triển các mối liên kết CN và chế tạo máy móc và thiết bị. Ví
dụ, đối với công ty sử dụng công nghệ cao và tạo ra các mối
liên kết CN có thể được giảm thuế thu nhập 5 năm và sau đó
được giảm tiếp 30% thuế công ty, nếu các công ty này đặt trụ
sở tại Hành lang Đông bán đảo Malaysia và một số nới khác
thì được miễn thuế.
5. Các bài học kinh nghiệm về chính sách thương mại
nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ
Các quốc gia đến sau, nhận thức được vị thế và điều kiện
cạnh tranh của mình cùng với kinh nghiệm của các nước khác
nên xây dựng cho mình những chiến lược để phát triển CNHT
linh hoạt và mềm dẻo hơn. Chiến lược của các quốc gia này
tập trung vào đồng thời: (i) tạo dựng các điều kiện thị trường
như kêu gọi ĐTNN trong khu vực lắp ráp, tạo ra các lợi thế về
chi phí để thu hút các DN lớn và thúc đẩy các DN này tìm
kiếm các đối tác trong nước; (ii) xây dựng các điều kiện để
phát triển các DNCN trong nước, đặc biệt là các DNNVV; (iii)
thiết lập các hỗ trợ về thông tin, nguồn nhân lực, pháp lý cho
việc hình thành và phát triển các liên kết cũng như thị trường
linh phụ kiện.
Các DN lớn có tác động và vai trò rất lớn cho việc phát
triển các mạng lưới cung cấp, các nhà thầu phụ và một nền
CNHT. Việc tồn tại DN lớn trong một khu vực cùng với cam
kết là một trong những điều kiện quan trọng cho việc tồn tại và
phát triển các mạng lưới DNNVV, những thành phần chính

91
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

của CNHT. Chính phủ cần quan tâm đến mối liên kết giữa các
đối tượng này trong hoạch định các chính sách để đảm bảo cân
bằng lợi ích giữa các bên, đồng thời khai thác được lợi ích của
sự hợp tác.
Cần hình thành thêm các khu CNHT với những CSTM
đặc thù cho các khu, cụm CNHT phát triển thuận lợi, như việc
giải quyết đồng bộ việc đăng ký kinh doanh, thủ tục hành
chính, đất đai, mặt bằng sản xuất, đầu tư, vốn tín dụng, đào tạo
cán bộ ...
Chính sách thu hút ĐTNN vào CNHT cần tập trung
hướng đến của các động cơ khuyến khích nhằm nắn dòng vốn
vào công nghiệp chế tạo và CNHT; Thu hút đầu tư nên là dòng
vốn từ các công ty nắm bí quyết công nghệ, có năng lực chế
tạo và có thị trường đầu ra ổn định; Tham gia được vào chuỗi
sản xuất toàn cầu.
Cần hoàn thiện danh mục mặt hàng CNHT, có những
chính sách hỗ trợ cho việc phát triển các mặt hàng này như các
chính sách về XNK, công cụ thuế quan, phi thuế quan, xin cấp
chứng chỉ xuất xứ, phẩm cấp chất lượng, hỗ trợ các chương
trình về xúc tiến thương mại ...
Mặc dù có vai trò quyết định với sự phát triển CN cho
một quốc gia, nhưng không phải quốc gia nào cũng thành
công trong chính sách hỗ trợ CNHT. Sự thất bại dù ít hay
nhiều trong xây dựng công nghiệp hỗ trợ ở Hàn Quốc, Đài
Loan, Malaysia, Philippin, và gần đây nhất là Việt Nam và
Thái Lan là những bằng chứng rõ nét nhất của vấn đề này. Từ
thực tế của các quốc gia trên thế giới, chúng ta có thể rút ra
một số nguyên nhân chủ yếu sau: Không xác định rõ khái
niệm, phạm vi của CNHT, các chính sách cho CNHT được

92
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ

đặt ra và sử dụng chung; Quan niệm cho rằng phát triển


CNHT cũng giống như phát triển các ngành công nghiệp
khác; Các chính sách thúc đẩy CNHT mang tính ưu đãi chứ
không mang tính hỗ trợ và thúc đẩy; Thiết lập mục tiêu phát
triển CNHT là nhằm thúc đẩy các hoạt động công nghiệp và
thu hút đầu tư mà không nhắm đến việc hấp thu và xây dựng
năng lực nội sinh của nền công nghiệp; Các chính sách phát
triển CNHT quá thiên về chính sách cứng và đẩy (mang tính
bắt buộc); Thiếu sự điều phối và vận hành chung của Chính
phủ vượt trên phạm vi của một ngành, một khu vực.
Tóm lại, chương 1 đưa ra cơ sở lý luận về CNHT, xác
định tầm quan trọng của CNHT trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội. Phần này của chương đã kế thừa một số nội
dung cơ bản: khái niệm, đặc điểm, cách phân loại, vai trò, mô
hình phát triển, điều kiện phát triển CNHT. Tuy nhiên để làm
rõ hơn phần lý luận về CNHT, tác giả đã bổ sung các các nội
dung: điểm chung, sự khác biệt, kết luận chung về khái niệm
CNHT; phân tích ưu nhược điểm của từng cách phân loại,
từng mô hình phát triển CNHT; phân tích, đưa ra minh chứng
làm rõ hơn đặc điểm, vai trò, điều kiện phát triển CNHT.
Mặt khác, chương 1 cũng làm rõ cơ sở lý luận: để phát
triển CNHT, rất cần sự can thiệp của Chính phủ thông qua hệ
thống chính sách, trong đó có CSTM. Qua đó, nội dung phần
này đã kế thừa và hệ thống hóa các khái niệm, nội dung,
phương pháp đánh giá tác động của CSTM đến CNHT. Hệ
thống chính sách này được chia thành 4 nhóm cơ bản: Chiến
lược TM quốc gia, chính sách thương nhân, chính sách thị
trường và mặt hàng, chính sách XNK, các nhóm chính sách
này sẽ được sử dụng có hệ thống, làm căn cứ để nghiên cứu,

93
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

phân tích cho toàn bộ các nội dung tiếp theo. Và cũng để làm
rõ hơn phần lý luận này, tác giả đã bổ sung các nội dung: Khái
niệm CSTM nhằm phát triển CNHT; phân tích, đưa ra minh
chứng làm rõ hơn các nội dung chủ yếu của CSTM tác động
đến CNHT; đưa ra quan điểm và các nội dung sử dụng để đánh
giá tác động của CSTM đến CNHT.
Cuối cùng, bằng việc nghiên cứu kinh nghiệm của một
số nước về CSTM nhằm phát triển CNHT theo 4 nhóm nội
dung đã đề cập ở trên, tác giả đã rút ra một số bài học mà
Việt Nam có thể vận dụng.

94
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
HỖ TRỢ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 - 2011
I. TỔNG QUAN MỘT SỐ NGÀNH CÔNG
NGHIỆP HỖ TRỢ CHỦ YẾU Ở VIỆT NAM
1. Tổng quan về số lượng, cơ cấu, đặc điểm của các
doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ
- Số lượng DN: Kết quả tính toán từ số liệu của Tổng
cục Thống kê cho thấy, trong những năm qua, các ngành CN
chính và CNHT đều có sự tăng trưởng mạnh về số lượng DN.
Tốc độ tăng trưởng về số lượng DN CNHT còn cao hơn tốc
độ tăng trưởng của số lượng DNCN chính, tuy không nhiều.
Điều này chứng tỏ CNHT của Việt Nam đã có sự phát triển
nhất định.
Về mặt lý thuyết, với mỗi DN trong ngành CN chính,
cần vài đến vài chục DN CNHT ra đời để cung cấp đầu vào
cho nó. Như vậy, số lượng DN CNHT phải lớn hơn số lượng
DNCN chính. Trong khi đó, tại Việt Nam, số lượng DNCN
chính lại lớn gấp trên 2 lần số lượng DN CNHT. Tỷ lệ này
phản ánh sự thiếu hụt về CNHT trong nước. Khi các nhà
cung cấp trong nước không có, hoặc không đủ, các DN chính
buộc phải tìm kiếm nguồn cung cấp từ nước ngoài. Chính
điều này dẫn đến tình trạng “nhập để xuất” trong sản xuất
CN, ảnh hưởng đến tình trạng nhập siêu của Việt Nam.
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Bảng 2.1: Số lượng DN trong các ngành CN theo các năm


Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2009 2010
CN chính (1)
Số lượng 6.049 7.039 8.934 11.122 13.169
Tốc độ tăng
16,4% 26,9% 24,49% 18,40%
trưởng
CNHT (2)
Số lượng 2.643 3.253 4.161 5.235 6.430
Tốc độ tăng
23,1% 27,9% 25,81% 22,83%
trưởng
Tỷ lệ (1)/(2) 2,3 2,2 2,1 2,1 2,0

Nguồn: Tính toán theo số liệu Tổng điều tra DN của Tổng cục
thống kê
Phân tích sâu hơn cho thấy, ngoại trừ ngành ô tô thì ở 4
ngành còn lại, số DN CNHT đều ít hơn số DNCN chính,
thậm chí, trong ngành da - giầy thì tỷ lệ giữa DN chính/DN
CNHT còn quá cao. Qua số liệu các năm, có thể thấy tình
trạng của ngành CNHT ô tô có vẻ như giữ nguyên, tình trạng
của ngành dệt - may và da - giầy có xu hướng xấu đi, còn
ngành điện tử và cơ khí có xu hướng được cải thiện.

Bảng 2.2: Số lượng DN theo từng ngành CN chính và CNHT

Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2009 2010


CNHT dệt may 485 524 605 780 921
CN dệt may 2680 3170 4138 5340 6403
Tỷ lệ DN chính/DN
5,5 6,0 6,8 6,9 7,0
CNHT

96
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

CNHT da - giầy 33 33 40 52 62
CN da - giầy 565 631 786 1061 1327
Tỷ lệ DN chính/DN
17,1 19,1 19,7 20,6 21,5
CNHT
CNHT cơ khí 1745 2271 2984 3715 4606
CN cơ khí 2016 2359 2944 3418 3915
Tỷ lệ DN chính/DN
1,2 1,0 1,0 0,9 0,9
CNHT
CNHT điện tử - tin học 120 151 219 306 365
CN điện tử - tin học 740 828 1011 1238 1443
Tỷ lệ DN chính/DN
6,2 5,5 4,6 4,1 4,0
CNHT
CNHT ô tô 260 274 313 382 476
CN ô tô 48 51 55 65 81
Tỷ lệ DN chính/DN
0,2 0,2 0,2 0,2 0,2
CNHT
Nguồn: Tính toán theo số liệu Tổng điều tra DN của Tổng cục thống

Nếu phân chia theo loại hình sở hữu thì có thể thấy cơ
cấu DN CNHT ở Việt Nam tập trung chủ yếu vào khu vực tư
nhân và ít hơn ở khu vực có vốn ĐTNN. Việc tập trung vào
hai loại hình DN này là hợp lý. Tuy nhiên, đối với các nước
đang phát triển, bài học kinh nghiệm là cần dựa nhiều vào
khu vực ĐTNN để phát triển CNHT. Các nhà ĐTNN, với ưu
thế về CN và thị trường sẽ dễ tham gia vào mạng lưới sản xuất
khu vực và toàn cầu hơn nhiều so với các DN trong nước.

97
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Hình 2.1: Tỉ trọng số lượng DN CNHT hình thức sở hữu trong các
ngành CN

100%
90%
80%
70%
60%
50%
40%
30%
20%
10%
0%
Dệt CNHT Da CNHT Ô tô CNHT Ðiện CNHT Cơ khí CNHT
may Dệt giày Da chính Ô tô tử Ðiện chính Cơ khí
chính may chính giày chính tử

DN có vốn ĐTNN DN tư nhân DN nhà nước

Nguồn: Tính toán theo số liệu Tổng điều tra DN của Tổng cục
thống kê

- Số lượng và quy mô lao động. Cũng theo số liệu Tổng


điều tra DN của Tổng cục thống kê cho thấy, mặc dù xét về
số lượng DN, các DN ĐTNN đứng sau các DN tư nhân trong
nước. Nhưng xét về tổng số lao động mà các DN ĐTNN
đóng góp cho các ngành CNHT, thì có thể thấy các DN này
đứng đầu về việc tạo ra công ăn việc làm cho nền kinh tế Việt
Nam (chiếm trên 50% tổng số lao động).

98
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

Bảng 2.3: Số lao động trong các DN CNHT

Loại doanh Năm 2003 Năm 2007


nghiệp Số lượng Tỉ trọng Số lượng Tỉ trọng
DN nhà nước 178,638 8.49% 183,609 9.43%
DN tư nhân 751,696 35.70% 714,035 36.69%
DN ĐTNN 1,174,976 55.81% 1,048,466 53.87%
Tổng 2,105,309 100.00% 1,946,110 100.00%

Nguồn: Tính toán theo số liệu Tổng điều tra DN của Tổng
cục thống kê
Mặc dù số lượng lao động tuyệt đối tăng lên từ năm
2007 đến năm 2008, nhưng số lượng lao động trung bình tại
các DN này lại giảm đi. Phân tích cho thấy có sự khác biệt
mang ý nghĩa thống kê về số lượng lao động trong các DN này
ở cả hai năm 2007 và 2008. Trong đó, DN nhà nước có số lao
động lớn nhất, DN có vốn ĐTNN có quy mô nhỏ hơn nhưng
không đáng kể, còn DN tư nhân trong nước có quy mô lao
động nhỏ hơn hẳn, trung bình dưới 100 lao động cho một DN.

Bảng 2.4: Số lao động trung bình trong các DN CNHT

Loại doanh nghiệp Năm 2008 Năm 2007


DN nhà nước 773 831
DN tư nhân 68 85
DN có vốn ĐTNN 599 610

Nguồn: Tính toán theo số liệu Tổng điều tra DN của Tổng
cục thống kê
- Số lượng và quy mô vốn. Tài sản của DN được tính
bằng tài sản trung bình của đầu năm và cuối năm. Có thể

99
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

nhận thấy rõ tài sản trung bình của DN nhà nước là cao nhất
khi quy mô trung bình là 355 tỷ VNĐ mỗi DN năm 2008 và
204 tỷ VNĐ năm 2007, trong khi đó DN có vốn ĐTNN chỉ
đứng thứ hai với quy mô chưa bằng một phần hai so với các
DN nhà nước lần lượt là 142 và 129 tỷ VNĐ năm 2008 và
2007. DN tư nhân trong nước có quy mô tài sản thấp nhất với
mức trung bình là 1 tỷ VNĐ. Xét về tổng tài sản của tất cả
các DN thì các DN có vốn ĐTNN lại có số vốn lớn nhất (281
tỷ VNĐ) sau đó đến các DN tư nhân trong nước (159 tỷ
VNĐ) và cuối cùng là các DN nhà nước (82 tỷ VNĐ), do số
lượng các DN nhà nước trong lĩnh vực này không nhiều.

Bảng 2.5: Vốn của các DN CNHT


Đơn vị: triệu VNĐ
Năm 2008 Năm 2007
Loại doanh
nghiệp Trung
Tổng tài sản
Trung
Tổng tài sản
bình bình

DN nhà nước 355,611 82.146,095 203,966 44.668,553

DN dân
14,456 159.966,079 14,425 119.278,815
doanh

DN ĐTNN 142,812 281,196,928 129,323 218.813,980

Nguồn: Tính toán theo số liệu Tổng điều tra DN của


Tổng cục thống kê
Số lượng DN, lao động và tài sản ở trên đã phản ánh rất
rõ tiềm lực của các DN có vốn ĐTNN trong việc phát triển
CNHT tại Việt Nam. Các DN nhà nước tuy có quy mô lao
động và tài sản lớn hơn nhưng số lượng DN rất ít, trong khi

100
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

các DN tư nhân trong nước chiếm số lượng áp đảo các DN


thì chủ yếu lại chỉ sản xuất ở quy mô lao động và tài sản rất
nhỏ so với DN ĐTNN.
- Trình độ công nghệ và nguồn nhân lực của DN
CNHT. Chủ yếu máy móc thiết bị của DN do DN đầu tư với
giá trị tài sản trung bình là 89% so với tổng giá trị của máy
móc thiết bị, ngoài ra DN cũng sử dụng phương pháp thuê
mua (27,52%) và thuê (11,67%) và các phương án khác
(34,57%) như do công ty mẹ đầu tư, do DN tự chế, đối tác
cho mượn theo hợp đồng gia công …
Tóm lại, Số lượng DN hoạt động trong lĩnh vực CNHT
có sự gia tăng đáng kể. Nhiều DN được thành lập mới trong
lĩnh vực CNHT, trong đó đa số là các DN tư nhân với ưu
điểm năng động, nhanh nhạy trong nắm bắt nhu cầu của thị
trường.
2. Khái quát sự phát triển của một số ngành CNHT
chủ yếu
2.1. Công nghiệp hỗ trợ cơ khí chế tạo của Việt Nam
Theo số liệu thống kê năm 2008, nước ta hiện có
khoảng 9.070 DN sản xuất cơ khí, thu hút 686.661 người, sản
xuất một lượng hàng hoá trị giá 532.190 tỉ đồng. Như vậy,
nếu tính bình quân thì chỉ có khoảng 76 người lao động/DN
cơ khí. Mỗi người lao động cơ khí tạo ra một lượng SP có giá
trị khoảng 775.000.000 đồng/năm (36.900 USD/năm). Trong
khi đó, một người lao động ở khu công nghệ cao Tân Trúc
tạo ra lượng SP có giá trị 500.000 USD/năm (gấp 13,5 lần).
Như vậy, nếu so với một số nước có trình độ tiên tiến trong
khu vực thì năng suất lao động ngành cơ khí của nước ta còn
rất thấp (Bảng 2.6).

101
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Bảng 2.6: Năng suất lao động thời kỳ 2000 - 2007


Đơn vị: USD/lao động
Quốc gia 2000 - 2002 2003 - 2005 2006 - 2007
Việt Nam 894 1.114 1.461
Ấn Độ 1.192 1.636 2.353
Indonesia 1.772 2.466 3.661
Trung Quốc 1.776 2.518 3.746
Phillippines 2.343 2.511 3.606
Thái Lan 3.577 4.548 6.191
Maylaysia 9.160 10.948 14.988
Hàn Quốc 22.325 28.833 38.253

Nguồn: WB - 2009 và tính toán của Viện Chiến lược phát


triển CN
Trong các cơ sở sản xuất cơ khí, có khoảng một nửa
là các cơ sở cơ khí chế tạo, lắp ráp, còn lại là cơ sở sửa
chữa. Hiện nay, cơ khí Việt Nam được xếp vào vị trí thứ 6
trong số 19 ngành hàng thuộc nhóm có khả năng cạnh
tranh có điều kiện.
- Máy động lực và máy nông nghiệp: Đã sản xuất và
xuất khẩu hàng loại động có xăng và động cơ diêzen cỡ nhỏ,
các loại bơm nước, chế tạo máy kéo 2 bánh, máy kéo 4 bánh
lắp máy công tác, xe vận chuyển nông thôn; máy gặt, máy
tuốt lúa, máy sục khí nuôi thuỷ sản … Tốc độ tăng trưởng giá
trị sản xuất bình quân của ngành 5 năm gần đây đạt gần
17%/năm, mang lại lợi ích rất lớn thông qua việc nâng cao
năng suất, cải thiện điều kiện lao động của người nông dân,

102
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

bảo đảm an ninh lương thực và góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp và nông thôn.
- Cơ khí phục vụ nông - lâm - ngư nghiệp và CN chế
biến: Thời kỳ 2001 - 2009, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất
bình quân đạt gần 17%/năm. Giá trị sản xuất thiết bị chế biến
nông - lâm - thuỷ sản năm 2009 đã tăng gấp 3,3 lần so với
năm 2000. SP đáp ứng được nhu cầu thị trường trong nước và
xuất khẩu là máy xát trắng, máy đánh bóng gạo, dây chuyền
tinh bột sắn, dây chuyền chế biến cà phê kiểu ướt và khô,
thiết bị bóc vỏ lụa hạt điều…
- Máy công cụ: Hiện chỉ có rất ít DN có vốn Nhà nước
trong lĩnh vực này. Năm 2003 bắt đầu có sự đóng góp của
DN ngoài quốc doanh và DN có vốn ĐTNN. SP chủ yếu vẫn
là mẫu sao chép cũ như máy tiện vạn năng, máy khoan, máy
bào ngang, máy phay vạn năng, cưa cần, búa rèn không khí
nén, máy đột dập kim loại, máy cắt tôn … Đến nay, đã đưa
công nghệ CNC vào một số máy tiện vạn năng cỡ vừa và cỡ
lớn, máy phay cỡ trung bình và chế tạo các máy cắt thép
tấm theo chương trình tự động thuộc SP cơ điện tử thế hệ
thứ nhất.
- Cơ khí xây dựng: SP có giá trị cao gồm cần cẩu các
loại, trạm trộn nhựa asphat nóng, trạm trộn bê tông tự động
công suất đến 120 m3/giờ (đáp ứng gần 70% thị phần), bơm
bê tông, máy lu rung … với giá chỉ bằng 50 - 60% giá nhập
ngoại. Ngoài ra còn đáp ứng phần lớn nhu cầu về kết cấu thép
cấp độ trung bình. Một số liên doanh đã sản xuất được thang
máy theo tiêu chuẩn nước ngoài.
- Đóng tàu thuỷ: Hiện đã đóng được tàu hàng 53.000
tấn, tàu chở 6.900 ô tô, tàu chở dầu cỡ lớn và tàu chở contenơ

103
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

1.016 TEU, tàu hút 3000 m3/h, thi công các công trình trên
biển … Chương trình đóng tàu được Nhà nước bảo trợ, năng
lực về thiết kế, công nghệ và thiết bị, năng lực về quản lý và
điều hành của ngành CN tàu thuỷ, tuy trong giai đoạn vừa
qua gặp khó khăn những sẽ được đổi mới và nâng cao.
- Thiết bị kỹ thuật điện - điện tử: Hiện nay đã sản xuất
được các loại máy biến thế ngâm dầu, biến thế khô, một pha,
ba pha, với công suất, cấp điện áp, tổ nối dây khác nhau; các
loại động cơ không đồng bộ 3 pha công suất đến 2500 kW,
điện áp đến 6 kV, động cơ cao áp đến 3,3 kV; động cơ phòng
nổ, động cơ phanh từ, động cơ thông minh hiệu suất cao, các
loại thiết bị đo, thiết bị đóng cắt, bảo vệ, điều khiển mạch
điện; các loại dây và cáp điện … Giai đoạn 2001 - 2009, giá
trị ngành sản xuất thiết bị điện tăng bình quân 25%.
- Cơ khí ô tô - cơ khí giao thông vận tải: CN ô tô Việt
Nam đã hình thành từ việc liên doanh lắp ráp với các đối tác
nước ngoài. Mức độ nội địa hoá xe con còn thấp, ước đạt 12-
15%. Sản lượng thực tế dao động ở mức 5-6 nghìn xe/năm,
sản xuất cầm chừng, thậm chí đã có liên doanh phải tự đóng
cửa. Tuy nhiên, chương trình xe chở khách và xe tải chuyên
dụng có thể nói bước đầu đã đạt kết quả tốt, không những đạt
tỷ lệ sản xuất trong nước 35-40% mà còn tìm được thị trường
xuất khẩu ra nước ngoài. Ngành CN xe máy phát triển mạnh
kép theo sự hình thành hệ thống thầu phụ gồm nhiều DN sản
xuất bộ phận, phụ tùng cho các nhà sản xuất chính. Một số
chi tiết kỹ thuật cao thuộc cụm động cơ đã được sản xuất
hàng loạt. Hiện đã nội địa hoá hơn 80% với tổng công suất
toàn ngành khoảng 2 triệu xe/năm.

104
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

- Cơ khí khác: Tham gia chế tạo phụ tùng, máy móc
thiết bị mỏ, cho ngành dệt - may, da - giầy, sản xuất thuốc lá,
xe đạp, quạt điện, hàng cơ khí tiêu dùng…
Tóm lại, ngành công nghiệp chế tạo cơ khí chưa phát
triển đủ mạnh để giúp Việt Nam có thể chuyển từ nhập siêu
sang xuất siêu. Dù có tốc độ tăng trưởng trung bình 30-
40%/năm nhưng ước tính, mỗi năm ngành cơ khí chế tạo của
Việt Nam vẫn phải nhập khẩu 18 tỷ USD thiết bị. Hiện cơ khí
trong nước mới chỉ trang bị được 38% nhu cầu nền kinh tế,
còn lại là nhập khẩu.
2.2. Công nghiệp hỗ trợ điện tử - tin học của Việt Nam
CNHT phục vụ cho ngành điện tử - tin học tại Việt
Nam có thể được hiểu là ngành CN sản xuất các SP cơ khí,
nhựa, linh kiện, vật liệu điện tử (ngoài các SP của CN bán
dẫn), các bộ phận linh kiện và các vật tư khác hỗ trợ cho CN
lắp ráp đến SP cuối cùng. Trong quá trình tạo ra SP cuối
cùng, các linh kiện có thể được lắp ráp thành cụm linh kiện.
Do vậy, có thể coi sản xuất cụm linh kiện là những công đoạn
hỗ trợ thứ cấp so với công đoạn sản xuất linh kiện ban đầu
(công đoạn sơ cấp).
Ngành điện tử - tin học ở Việt Nam thường được hiểu
bao gồm các lĩnh vực: Sản xuất máy tính, các thiết bị ngoại
vi; Sản xuất SP điện tử nghe nhìn; Sản xuất SP điện lạnh và
điện gia dụng; Sản xuất các SP thông tin - viễn thông; Sản
xuất các SP điện tử CN và chuyên dụng; Sản xuất linh kiện
và vật liệu điện tử; CN phần mềm.
Đặc điểm của ngành là 90% tổng vốn đầu tư và phần
lớn CNHT tập trung ở các DN ĐTNN. Các DN nội địa chiếm
khoảng 2/3 số các cơ sở sản xuất, sử dụng gần 60% lao động.

105
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Tỷ trọng SP điện tử dân dụng chiếm gần 90% cơ cấu hàng


hoá. Công nghệ còn lạc hậu, việc nghiên cứu phát triển còn
yếu nên giá trị gia tăng thấp (10-15%), khả năng cạnh tranh
của SP không cao. Nguyên vật liệu phụ thuộc chủ yếu vào
các nhà cung cấp nước ngoài.
Đa phần các DN Việt Nam ở mọi loại hình đều tổ chức
thực hiện những công đoạn tương tự nhau trong quá trình
hình thành SP. Điểm khác biệt duy nhất giữa các DN là cấp
độ của dây chuyền công nghệ, khả năng sản xuất hàng loạt
hoặc chuyên dụng. Các DN đề sản xuất hoặc theo mẫu tự
thiết kế, hoặc gia công theo mẫu nước ngoài, linh kiện chủ
yếu là nhập ngoại và phải liên kết với các DN khác để được
cung cấp các SP CNHT như các SP cơ khí, nhựa, mạch in,
cao su, chất dẻo, vỏ … để tạo ra SP hoàn chỉnh.
Ngành điện tử - tin học Việt Nam đã sơ bộ hình thành
được một mạng lưới nghiên cứu, thiết kế, sản xuất các SP
điện tử và SP CNHT. Tuy nhiên, một liên kết và phân vùng
chuyên môn này chưa được hình thành rõ nét.
Hiện nay, nhiều hãng sản xuất điện tử lớn trên thế giới
như Samsung, Canon, Intel, Foxconn … đã tiến hành đầu tư
và Việt Nam nhằm sản xuất ra các SP điện tử như điện thoại
di động, máy in, máy tính, điện tử gia dụng cũng như các linh
kiện cho máy tính, máy in, camera, TV, laptop, ipod, iphone,
điện thoại di động và viễn thông cung cấp cho thị trường thế
giới. Điển hình là Tập đoàn Hồng Hải (Foxconn) có kế hoạch
đầu tư lớn vào Việt Nam để đưa Việt Nam trở thành mắt xích
cung cấp các SP điện tử công nghệ cao và linh phụ kiện chính
xác trên thế giới. theo đó, mục tiêu của Foxconn là trở thành
tập đoàn ĐTNN lớn nhất tại Việt Nam với số vốn trên 5 tỷ

106
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

USD và là DN ĐTNN xuất khẩu thu ngoại tệ lớn tại Việt


Nam, dự kiến tổng kim ngạch xuất khẩu sẽ đạt con số 5 tỷ
USD trong vài năm tới.

Bảng 2.7: Một số DN ĐTNN vào CNHT điện tử - tin học

Vốn đầu
Lao
Công ty Lĩnh vực tư (triệu Năm
động
USD)

Sản xuất - Lắp ráp

Samsung Điện thoại di động 670 2009 10.000

Canon Máy in laser 320 2002

Máy giặt, tủ lạnh, máy


Sanyo 44 1995 1.000
điều hoà
CNHT

SP 3C (máy tính, viễn


Foxconn 160 2007
thông, điện tử)

Intel Chíp bán dẫn 1.000 2006

Quạt giải nhiệt máy vi


Nidec 50 2005 7.500
tính
Mạch in điện tử và các
Meiko 300 2006 7.000
SP điện tử hoàn chỉnh
Đĩa quang, linh kiện chế
Hoya tạo ổ đĩa cứng máy vi 130 2004
tính, máy nghe nhạc

107
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Vốn đầu
Lao
Công ty Lĩnh vực tư (triệu Năm
động
USD)
Thiết kế phần cứng
(chíp I.C.) và phần mềm 10
Renesas chức năng dành cho 2004
chíp ĐTDD, xe hơi và
thiết bị kỹ thuật số

Nguồn: Tổng hợp 2010


Tuy nhiên, theo số liệu của Hiệp hội DN điện tử Việt
Nam, năm 2010 ngành điện tử Việt Nam xuất khẩu đạt 3,4 tỷ
USD, nhưng nhập khẩu trên 4,6 tỷ USD. Trong số đó, nhập
linh kiện về lắp ráp các sản phẩm chiếm trên 3 tỷ USD. Như
vậy, tất cả các sản phẩm điện tử lắp ráp tại Việt Nam (dùng
để xuất khẩu và tiêu thụ trong nước) phải nhập khẩu gần
100% linh kiện; các linh kiện sản xuất tại Việt Nam chỉ là vỏ
carton, xốp chèn, vỏ nhựa, sách hướng dẫn...
Tóm lại, CNHT ngành điện tử - tin học cũng trong tình
trạng quá yếu, mất hơn 10 năm nhưng chúng ta chẳng có gì
ngoài một công nghệ liên doanh lắp ráp giản đơn.
2.3. Công nghiệp hỗ trợ sản xuất và lắp ráp ô tô của
Việt Nam
Trước năm 2002, Việt Nam chưa có khái niệm về
ngành CNHT ô tô. Ô tô sản xuất tại Việt Nam, theo quy định,
đều là lắp ráp theo bộ linh kiện. Quy định về bộ linh kiện dựa
trên hàm lượng nội địa trong SP lắp ráp cuối cùng dưới một
trong số các hình thức tăng dần về tỷ lệ nội địa và mức độ ưu
đãi: SKD, CKD1, CKD2, IKD. Tuy nhiên, không một công
ty nào đáp ứng được yêu cầu lắp ráp xe dạng IKD, tỷ lệ nội

108
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

địa của ô tô sản xuất tại Việt Nam rất thấp. Từ năm 2002 đến
2005, bãi bỏ các quy định cho phép lắp ráp xe dạng SKD và
CKD1, xe ô tô sản xuất tại Việt Nam theo 2 hình thức CKD
và IKD. Từ năm 2005, Bộ Tài chính ban hành biểu thuế mới,
theo đó quy định cách tính thuế mới không dựa trên bộ linh
kiện, mà theo các chi tiết và linh kiện đơn lẻ. Việc làm này
đồng nghĩa với việc các quy định về tỷ lệ nội địa được bãi bỏ,
đánh dấu sự ra đời của ngành CNHT ô tô.
Theo thống kê gần đây, số lượng các nhà cung cấp chỉ
khoảng 60 công ty. Khoảng gần 30 công ty là các ty có vốn
ĐTNN. Các công ty này đầu tư vào Việt Nam theo lời mời
của một số công ty lắp ráp ô tô để cung cấp một số linh phụ
kiện cho ngành lắp ráp. Đây là những công ty có kinh nghiệm
trong ngành CNHT ô tô, họ trực thuộc hệ thống nhà cung cấp
của các công ty ô tô tại nước ngoài. Các công ty này cũng chỉ
sản xuất tại Việt Nam những chi tiết có hàm lượng lao động
cao, SP tương đối cồng kềnh, có thể sử dụng chung cho toàn
bộ ngành ô tô như: lốp, ắc quy, ghế, dây điện, bàn đạp phanh.
Một số SP CNHT ô tô Việt Nam có khả năng xuất khẩu, các
SP này nằm trong chiến lược sản xuất toàn cầu của các công
ty đa quốc gia. Các công ty của Việt Nam có số lượng nhỏ,
từng là các công ty cơ khí, sản xuất chất dẻo, nhựa, trình độ
công nghệ kém, không có kinh nghiệm trong ngành ô tô. Các
công ty này hầu hết chưa đủ khả năng cung cấp một SP hoàn
chỉnh cho ngành lắp ráp. Họ chủ yếu cung cấp các bán linh
kiện, hoặc nguyên liệu phục vụ cho việc sản xuất linh kiện.
SP không có hàm lượng kỹ thuật cao.
Sự yếu kém về năng lực sản xuất CNHT ngành ô tô thể
hiện cả về chất lượng SP, giá và tiến độ giao hàng. Hơn nữa

109
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Việt Nam chưa có đầy đủ hạ tầng cần thiết để phát triển


CNHT ô tô, điều này gây trở ngại cho các sản xuất SP CNHT
toàn cầu muốn đầu tư hoặc liên kết đầu tư. Các yếu tố khác
bất lợi cho CNHT ô tô Việt Nam là tình trạng thiếu nguyên
liệu, CN khuôn mẫu kém phát triển…
Bên cạnh đó, ngành CNHT ô tô còn thiếu hệ thống
thông tin để hỗ trợ trong việc tìm kiếm, hợp tác và phát triển
SP. Một số công ty lắp ráp cho biết, khi tiến hành đầu tư tại
Việt Nam họ đã rất nỗ lực tìm kiếm các công ty sản xuất linh
phụ kiện nội địa để vừa có thể tăng cạnh tranh về giá, vừa
đảm bảo thực hiện cam kết phát triển CNHT. Nhưng họ đã
không thể tìm kiếm được các thông tin về ngành do Việt Nam
chưa có một hệ thống cơ sở dữ liệu về CNHT ô tô. Vì vậy,
các SP CNHT Việt Nam gặp khó khăn trong việc tiếp cận thị
trường nội địa là những công ty lắp ráp ô tô. Hơn nữa, trong
kế hoạch hợp tác để nâng cấp hệ thống cung cấp nội địa, các
công ty lắp ráp cũng không thể tìm thấy hoặc không biết
được năng lực của nhà sản xuất để có thể hợp tác phát triển.
Theo chiến lược phát triển ngành CN ô tô Việt Nam
được ban hành từ năm 2004, các DN sản xuất ô tô được
hưởng nhiều ưu đãi về thuế như thuế thu nhập DN để các DN
này tăng dần tỷ lệ nội địa hoá sản xuất linh kiện, phụ tùng.
Các DN ĐTNN sản xuất ô tô cũng có nhiều lợi thế khác do
chính sách thuế rất cao đánh vào xe nhập khẩu nguyên chiếc.
Tuy nhiên, trên thực tế, tỉ lệ nội địa hoá mà các DN thực hiện
đều rất thấp. Tính đến thời điểm tháng 11/2008, theo kết quả
kiểm tra mà Bộ Tài chính công bố, tại công ty Toyota Việt
Nam, tỉ lệ nội địa hoá bình quân là 7% giá trị xe trong khi
theo giấy phép đầu tư cấp lần đầu thỉ tỉ lệ nội địa hoá phải đạt

110
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

ít nhất 30% sau 10 năm kể từ năm 1996. Công ty Suzuki Việt


Nam, chỉ đạt 3%, Công ty Ford Việt Nam còn đạt thấp hơn
nữa chỉ 2%. Một số công ty khác cũng chỉ đạt 4%. Honda
Việt Nam là công ty duy nhất đạt tỉ lệ nội địa hoá 10%.

Bảng 2.8: Một số doanh nghiệp ĐTNN cho CNHT sản xuất ô tô
TT Công ty Nước Vốn đầu SP cung Giá trị
đầu tư tư cấp XK
(tr.USD) (tr.USD)
Nhật Linh phụ
1 Toyota 20
Bản kiện
Toyota Nhật Ghế, nội
2 60 14
Boshoku Bản thất, túi khí
Harada Việt Nhật
3 6 Ăngten
Nam Bản
Nhật
4 Sumi - Hanel 64 Bộ dây điện 108
Bản
Yazaki Hải Nhật
5 19 Bộ dây điện
Phòng Bản
Bàn đạp,
Denso Việt Nhật
6 21,2 van điều
Nam Bản
khiển
Ắc quy Việt Nhật
7 Ắc quy
Nam Bản
Nagata Việt Nhật
8 Chắn bùn
Nam Bản
Inoac Việt Nhật Đệm cao su
9
Nam Bản dán kính
CN chính xác Nhật
10 25 Chi tiết dập
số 1 Bản

111
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Summit Auto
Nhật Tấm che
11 Seats Industru
Bản nắng
Hà Nội
Nhật Động cơ
12 Nidec Tosok 90
Bản điện, quạt
Van điều
khiển, khoá
Nidec Tosok Nhật
13 7 tự đồng,
Akiba Bản
các SP kim
loại
Linh kiện
Okaya Việt Nhật lắp ráp hộp
14 6,7
Nam Bản số cho xe
hơi

Nguồn: Tổng hợp năm 2009


Từ thực tế, có thể rút ra kết luận ngành CNHT ô tô Việt
Nam kém phát triển cả về số lượng, năng lực các công ty
trong ngành, số lượng chủng loại, chất lượng SP, cũng như
khả năng cung cấp.
2.4. Công nghiệp hỗ trợ dệt may của Việt Nam
CNHT ngành dệt may bao gồm hai nhóm SP chính: (i)
Nhóm máy móc trang thiết bị sử dụng trong CN dệt may bao
gồm: những SP chính như: máy may, máy kéo sợi, máy đánh
ống, máy chải, máy sợi con, rô-to kéo sợi, cọc sợi, máy dệt,
máy ghép, bàn ủi phẳng và bàn ủi ép…; (ii) Nguyên phụ liệu,
phụ kiện phục vụ quá trình sản xuất ra SP dệt may bao gồm:
bông, xơ, sợi, các loại vải, khoá kéo, chỉ may,…
Mối quan hệ giữa ngành dệt, ngành may và CNHT
ngành dệt may được thể hiện như sau:

112
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

Xơ tổng hợp Xơ nhân tạo Nguyên liệu


hoá học tự nhiên thô tự nhiên

Kéo sợi

Sản
xuất
Dệt kim Dệt khung nguyên
liệu

Dệt
In vải
Nhuộm vải

Hoàn tất vải

Cắt may
May Nguyên phụ
liệu may
Sản phẩm tiêu
dùng cuối cùng

Hình 2.2: Sơ đồ mô tả quá trình sản xuất dệt may


Sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2009, ngành dệt
may đã khắc phục khó khăn và khởi sắc vào năm 2010 với
xuất khẩu đạt 11,2 tỉ USD tăng hơn 23% so với năm 2009. Sở
dĩ đạt được kết quả như vậy là do Việt Nam là một thị trường

113
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

tiềm năng với nguồn lao động dồi dào và người công nhân
cần cù, có tay nghề cao. Tuy nhiên, một trong những khó
khăn lớn trong ngành dệt may của Việt Nam là sự thụ động
quá lớn vào hệ thống máy móc, thiết bị và nguồn nguyên phụ
liệu, phụ kiện mà chủ yếu là phải nhập khẩu:
- Hệ thống máy móc, thiết bị của ngành dệt đã bị lạc
hậu, không đồng bộ. Hầu hết các thiết bị nhuộm, in và hoàn
tất đều được nhập khẩu từ nước ngoài. Theo đánh giá của Tổ
chức Phát triển Liên Hợp quốc UNDP, ngành dệt Việt Nam
đang ở trình độ công nghệ bậc 2/7 của thế giới, thiết bị máy
móc lạc hậu 2-3 thế hệ. Phụ tùng cơ kiện của ngành dệt rất
phức tạp, yêu cầu khắt khe về chất lượng, đòi hỏi phải có tay
nghề cao và trang thiết bị hiện đại, điều này các DN cơ khí
trong ngành chưa đủ vốn để đầu tư. Vì vậy, các DN chủ yếu
vẫn phải nhập phụ tùng, cơ kiện cho ngành dệt từ Nhật Bản,
Hàn Quốc, Tây Âu, trị giá hàng chục triệu USD mỗi năm.
Năng lực các nhà máy cơ khí chuyên ngành dệt hiện tại quá
nhỏ bé, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của các DN
trong ngành.
- Hệ thống máy móc, thiết bị của ngành may: Bên cạnh
các xưởng cơ khí của các công ty dệt thuộc Vinatex làm
nhiệm vụ sửa chữa, thay thế phụ tùng, cơ kiện thì còn có 4
công ty cơ khí chuyên ngành sản xuất các phụ tùng, cơ kiện
và trang thiết bị phục vụ cho ngành dệt may. Trong thời gian
qua, các đơn vị này tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng do năng
lực còn hạn chế, thiết bị lại lạc hậu nên không đáp ứng kịp

114
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

yêu cầu phát triển nhanh của các DN dệt may. Cả 4 công ty
cơ khí này trị giá sản xuất mỗi năm chỉ vào khoảng 9 triệu
USD, tương đương gần 4.000 tấn phụ tùng, chủ yếu là phụ
tùng, trang thiết bị nhỏ lẻ như: máy trải vải, kiểm tra vải, hút
hơi là, san chỉ, hút kim, dập cúc, cắt vải, hệ thống chiếu sáng,
làm mát và một số phụ tùng như tủ đựng hồ sơ, ghế ngồi
may, kệ để nguyên liệu, xe vận chuyển nội bộ… phục vụ
ngành may là chính, mà cũng chỉ đáp ứng được một phần.
- Nguyên liệu thô cho ngành dệt: Bông cùng với đay,
dâu tằm là các cây nguyên liệu cho CN kéo sợi dệt vải. Đây
là cây đòi hỏi nhiều lao động để sản xuất và chế biến. Diện
tích trồng bông của cả nước không ổn định vì hiệu quả kinh
tế thấp, chỉ dao động khoảng 20 nghìn ha. Mỗi năm ngành
dệt cần khoảng 60.000 tấn bông xơ, nhưng nguồn bông trong
nước chỉ mới sản xuất được từ 13.000 tấn đến 16.000 tấn,
chiếm khoảng 20 - 25% nhu cầu thực tế của ngành dệt. Mặt
khác, trong khối lượng bông được sản xuất ra, chất lượng
bông cũng không đáp ứng được nhu cầu của DN, nên cuối
cùng DN dệt vẫn phải nhập sợi bông. Hiện nay để bảo đảm
sản xuất, các DN cần nhập khẩu đến 95% xơ bông, 70% sợi
tổng hợp, 40% sợi xơ ngắn, 40% vải dệt kim và 60% vải dệt
thoi. Tình hình nhập khẩu bông theo tháng giai đoạn 2007-
2009 được thể hiện trong hình dưới đây:

115
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Hình 2.3: Nhập khẩu bông theo tháng giai đoạn 2007 - 2009

45
40
35
30 Năm 2007
25
Năm 2008
20
15 Năm 2009
10
5
0
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12

Nguồn: Tập đoàn Dệt may Việt Nam - Vinatex

- Ngành sản xuất phụ kiện cho ngành may: Hiện nay,
ngành phụ kiện may của Việt Nam vẫn đang kém phát triển,
thể hiện trong bảng dưới đây:

Bảng 2.9: Năng lực sản xuất một số SP phụ kiện may của Việt Nam

Mặt hàng Công suất thiết kế Thực hiện

1. Chỉ khâu 3.500 tấn/năm 3.500 tấn/năm

2. Bông tẩm 33 triệu Yard/năm 33 triệu Yard/năm

3. Mếch dựng 12 triệu m2/năm 10 triệu m2/năm

4. Cúc nhựa 752 triệu chiếc/năm 650 triệu chiếc/năm

5. Khoá kéo 65 triệu chiếc/năm 60 triệu chiếc/năm

6. Nhãn 120 triệu chiếc/năm 100 triệu chiếc/năm

Nguồn: Quy hoạch phát triển Dệt may Việt Nam đến năm 2020

116
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

Mặc dù thời gian qua có một số nhà máy như Công ty


Cổ phần Phụ liệu may Nha Trang, Công ty may Việt Tiến,
Công ty dệt vải CN và các công ty tư nhân đã sản xuất được
nhiều loại phụ kiện như khoá kéo, tấm lót, cúc, chỉ… nhưng
sản lượng còn thấp, chỉ đáp ứng được khoảng 20 - 25% nhu
cầu của ngành. Các DN dệt may Việt Nam chủ yếu phải nhập
khẩu phụ liệu từ nước ngoài. Ngoài ra, các SP phụ kiện may
của Việt Nam hiện nay không đồng đều về chất lượng. Đơn
cử như mặt hàng khuy quần bò, khi đưa vào máy dập có tới
20 - 30% là bị gãy khuy, một số bị mất lớp màu bên ngoài,
thậm chí có những chiếc không thể đưa vào máy vì kích cỡ
không vừa.
Tóm lại, ngành dệt may, một ngành xuất khẩu chủ lực
của Việt Nam cũng không khá hơn. Năng lực của ngành
CNHT hiện chưa phát triển tương xứng với ngành dệt may.
Là một quốc gia có thế mạnh trong nông nghiệp, nhưng đã
bao nhiêu năm nay nguồn nguyên liệu cho dệt may gần như
vẫn lệ thuộc vào nước ngoài. Chính vì vậy mà các DN may
mặc chủ yếu vẫn phải làm gia công cho nước ngoài. Ngay cả
những sản phẩm CNHT cũng có nhiều SP chỉ làm ở mức nửa
chừng, nhiều SP chất lượng không đạt yêu cầu...
2.5. Công nghiệp hỗ trợ da - giày ở Việt Nam
Sản phẩm chính của ngành CN da - giày của Việt Nam
được chia làm 3 nhóm chính: (i) giày dép các loại; (ii) da
thuộc; và (iii) các loại cặp, túi ví da. Ngành da - giày chiếm
khoảng 4% giá trị sản xuất của toàn ngành CN và có tốc độ
tăng trưởng bình quân đạt mức cao gần 15%/năm, ngoại trừ

117
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

năm 2009 có phần suy giảm do ảnh hưởng của khủng hoảng
tài chính toàn cầu. Tuy nhiên, mức tăng này thấp hơn mức
tăng trưởng bình quân của ngành CN (15,93%).

Bảng 2.10: SP chủ yếu của ngành và tốc độ tăng trưởng

SP Đơn vị Sản lượng theo SP Tăng b.quân, %


/năm
2000 2005 2007 2008 2001- 2001-
2005 2008
Giầy thể Triệu
115,4 272,9 391,6 457,3 18,8 18,8
thao đôi
Triệu
Giầy nữ 29,2 93,6 119,5 104,6 26,2 17,3
đôi
Triệu
Giày vải 21,94 45,02 43,32 57,83 15,46 12,88
đôi
Các loại Triệu
120,58 103,82 118,53 95,32 -2,95 -2,90
khác đôi
Da thuộc
Tấn 3091 13.197 14.422
cứng
Da thuộc 1000
2867 29,191 88,635 96,866 59,06 55,27
mềm sqft
SP cặp -
Tr. chiếc 30 51,7 80 88 11,50 14,40
túi - ví
Nguồn: Số liệu của Hiệp hội Da - Giày Việt Nam các năm 2000-2008

Về thiết bị máy móc, phụ tùng, ngành da - giày Việt


Nam hầu như phải nhập khẩu, tỷ lệ nội địa hoá rất thấp, chỉ
đạt dưới 10%, tình trạng hiện tại như sau:

118
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

Bảng 2.11: Tình trạng máy móc, thiết bị của ngành da - giầy Việt
Nam

TT Công đoạn Loại thiết bị Nguồn gốc Tình trạng


sản xuất xuất xứ máy móc,
thiết bị
Công đoạn Máy chặt thuỷ Đài Loan, Hàn 60% sử dụng
pha cắt lực, máy in, thêu, Quốc, Trung trên 10 năm,
1
nguyên liệu máy lạng da, máy Quốc 40% dưới 10
dẫy mép năm
Máy may, máy Đài Loan, Hàn 65% trên 10
Công đoạn gấp mép, tễ hậu, Quốc năm và 35%
2
may ráp đính ô dê dưới 10 năm sử
dụng
- Máy gò, máy Đài Loan, Hàn 80% trên 10
định hình hậu, Quốc, Ý năm và 20%
máy mài, máy ép dưới 10 năm sử
Công đoạn gò đế có thành dụng
3 ráp và hoàn - Băng tải, hệ Sản xuất trong
thiện thống sấy, nồi nước
hấp giày, máy
mài, máy bôi keo,

Công đoạn Máy mài, máy ép Đài Loan,
4 tiền chế lắp H.quốc
ráp
- Đế lắp ráp Đài Loan,
H.quốc
Công đoạn
5 tiền chế đế - Đế ép đúc Đài Loan,
định hình T.Khắc
- Đế ép phun Đức, Ý

119
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Dụng cụ cơ Khuôn mẫu, dao Sản xuất trong


6 khí chặt, cữ may, ống nước
viền,...
Phụ tùng, Cho hầu hết thiết Nhập khẩu
7 thiết bị máy bị và công đoạn
móc
Ý, Đài Loan, 50% tốt, 30%
Hầu hết các thiết
8 Thuộc da Hàn Quốc, trung bình và
bị
Trung Quốc 20% kém.
Đài Loan, Hàn
Sản xuất cặp- Hầu hết các thiết
9 Quốc, Trung
túi-ví bị nhập khẩu
Quốc

Nguồn: Số liệu của Hiệp hội Da - Giày Việt Nam các năm 2009
- Về nguyên phụ liệu, phụ tùng cho ngành da - giầy, có
thể chia theo 9 nhóm chủng loại cần thiết cho ngành chính
như sau:
(i) Da tổng hợp, nhân tạo các loại: Hiện tại, Việt Nam
vẫn phải nhập khẩu phần lớn da tổng hợp, nhân trung cao
cấp, vật liệu này sản xuất ở Việt Nam thường cứng và chịu
nhiệt kém nên không thể dùng trong công nghệ lưu hoá.
Nguyên nhân của tình trạng này là do công nghệ giả da đòi
hỏi phải đầu tư lớn và chưa có sự đồng bộ giữa các ngành
nhựa và ngành da - giầy. Tỷ lệ nội địa hoá chủng loại nguyên
phụ liệu này hiện thấp chỉ khoảng 30%.
(ii) Vải làm giày dép, đồ da các loại: Ngành dệt may
Việt Nam hiện nay vẫn chưa đủ khả năng cung cấp nguyên
liệu đầu vào cho các ngành da - giầy, mặc dù năng lực của
ngành dệt nước ta là rất lớn. Nguyên nhân là do nguồn
nguyên liệu cho ngành dệt không đáp ứng được yêu cầu và

120
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

thiết bị công nghệ sản xuất vải lạc hậu, ngành chưa chú
trọng vào mảng nguyên liệu cho ngành giày. Trong đó, vải
làm mũ giày là loại nguyên phụ liệu có tỷ lệ nội địa hoá
cao (trên 70%).
(iii) Đế, gót giày dép các loại: Việt Nam vẫn phải nhập
khẩu hầu hết gần như toàn bộ nguyên liệu, vật liệu thô hoặc
phôi để tạo ra đế giữa, đế ngoài, đế mặt, pho hậu và pho mũi
cho mũ giày. Nhiều chi tiết đế lắp ghép vào giày thể thao và
giày nữ cao cấp cũng đang phải nhập khẩu. Hiện tại, Việt
Nam có thể sản xuất được đế ngoài của giày nữ như gót, đế,
đế đúc liền gót và đế giày thể thao. Riêng về nguyên liệu cao
su để sản xuất đế giày thì Việt Nam là một trong những nước
sản xuất nhiều cao su tự nhiên trong khu vực Đông Nam Á,
Việt Nam có thể chủ động nguồn nguyên liệu này, còn cao su
tổng hợp thì phải nhập hoàn toàn. Trong đó, đế và gót giày là
loại nguyên phụ liệu có tỷ lệ nội địa hoá cao (khoảng 60%).
(iv) Phụ liệu kim loại giày dép, đồ da bao gồm: khuy
khoá, ô dê, đinh vít, nhãn mác, khoá kéo, độn sắt, pho sắt,
ống thép cho gót giày... Đối với các phụ liệu có vốn đầu tư
nhỏ chủ yếu do một số DN tư nhân sản xuất. Còn các loại
nguyên phụ liệu cần vốn đầu tư lớn thường do những công ty
có vấn nước ngoài cung ứng, chất lượng ổn định, số lượng
nhiều, giá cao, thường cung cấp cho các công ty liên doanh
hay công ty 100% vốn nước ngoài nhưng năng suất chưa đủ
đáp ứng nhu cầu. Tỷ lệ nội địa hoá của chủng loại nguyên
phụ liệu này khoảng 50%.
(v) Phụ liệu dệt, vải các loại bao gồm: chỉ may, chỉ
khâu đế, dây giày, băng viền, dây tăng cường, nơ trang trí,
nhãn mác... theo thống kê thì có 06 DN sản xuất những SP

121
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

này, công suất vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, các loại SP
cao cấp, thời trang vẫn phải nhập khẩu, kể cả dây giày cao
cấp, chỉ... Tỷ lệ nội địa hoá chủng loại nguyên phụ liệu này
khoảng 50%.
(vi) Vật liệu giấy và bao bì bao gồm: bìa texon, cát
tông, hộp, thùng, túi ni lông, nhãn mác, que chống, giấy độn,
hạt chống ẩm, vật liệu in... Một số SP có yêu cầu tiêu chuẩn
cao, hoặc do yêu cầu của khác hàng vẫn phải nhập khẩu. Nếu
có đầu ra thị trường và chính sách tốt thì loại SP này cũng
phát triển được tốt hơn. Tỷ lệ nội địa hoá của chủng loại
nguyên phụ liệu này đạt trên 70%.
(vii) Keo dán, dung môi, hoá chất trau chuốt các loại:
Theo thống kê thì có 04 DN sản xuất các loại keo dán và
dung môi, hoá chất trau chuốt phục vụ ngành giày, nhưng giá
không cạnh tranh, nhiều loại nhập Trung Quốc vẫn rẻ hơn.
Một số hoá chất trau chuốt giày dép, đồ da như: xi, chất lóng,
chất mầu… vẫn phải nhập khẩu. Ngoài ra ngành giày hiện sử
dụng nhiều loại keo dán có nguồn gốc tự nhiên như keo
latex… Tỷ lệ nội địa hoá chủng loại nguyên phụ liệu này
khoảng 50%.
(viii) Phom giày các loại: Hiện có 05 DN chuyên sản
xuất phom giày, chủ yếu là phom nhựa (còn lại một số phom
nhôm, phom gỗ). Nhưng phom mẫu hầu như phải nhập từ
nước ngoài vì Việt Nam chưa có cơ sở sáng tác và thiết kế
phom. Phom giày là chủng loại nguyên phụ liệu có tỷ lệ nội
địa hoá cao khoảng 70%.
(ix) Dụng cụ cơ khí, phụ tùng và thiết bị máy móc bao
gồm: các loại khuôn mẫu, dao chặt, cữ may, ống viền, đục
các loại, giá kệ, xe chuyển và các SP cơ khí chế tạo phụ vụ

122
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

sản xuất da - giầy. Theo thống kê thì có 06 DN chuyên sản


xuất những SP này, thực tế thì nhiều DN đã đầu tư bộ phận
chế tạo như: Công ty giày Thái Bình (đầu tư nhà máy chế tạo
khuôn đế giày), Công ty 32 (đầu tư xưởng sản xuất dao chặt
với công suất 18.000 dao/tháng)...
Tóm lại, CNHT ngành da - giày cũng ở tình trạng
tương tự các ngành khác, hầu hết mới chỉ là gia công giai
đoạn cuối cùng. Các DN ngành da - giày vẫn phải nhập các
phụ kiện từ nước ngoài, sau đó gia công, tạo thành SP rồi
xuất khẩu.
II. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở
VIỆT NAM
1. Hệ thống các văn bản, chính sách thương mại ảnh
hưởng đến sự phát triển công nghiệp hỗ trợ
1.1. Chính sách thương nhân
Trong thời kinh tế kế hoạch hoá tập trung, chỉ có một
số ít Tổng công ty, công ty nhà nước chuyên doanh XNK
được phép tham gia hoạt động ngoại thương. Từ sau năm
2001, và đặc biệt, kể từ khi gia nhập WTO, Nhà nước cho
phép thương nhân được XNK hầu hết các mặt hàng không phụ
thuộc vào ngành hàng đã đăng ký ngoại trừ các mặt hàng cấm
XNK theo giấy phép và hàng hoá thuộc diện quản lý của các
Bộ chuyên ngành. Nhà nước dành quyền kinh doanh đầy đủ
cho tất cả các cá nhân và DN ĐTNN, không muộn hơn ngày
01/01/2007, ngoại trừ đối với một số SP chịu sự điều chỉnh của
cơ chế “TM Nhà nước” và một số mặt hàng nhạy cảm khác mà
VN chỉ cho phép sau một thời gian chuyển đổi và DN nói trên

123
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

bao gồm quyền được bán SP nhập khẩu cho mọi cá nhân hoặc
DN có quyền phân phối SP đó tại VN.
Bên cạnh đó, khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của
DNNVV cũng ngày càng được hoàn thiện. Năm 2001, Chính
phủ đã ban hành Nghị định về trợ giúp phát triển DNNVV
(Nghị định số 90/2001/NĐ-CP). Đây là văn bản pháp lý đầu
tiên khẳng định nhất quán chính sách trợ giúp phát triển
DNNVV, là cơ sở pháp lý và định hướng quan trọng để các
Bộ, ngành, địa phương xây dựng và triển khai chính sách trợ
giúp DNNVV. Đến năm 2006, Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quyết định số 236/2006/QĐ-TTg về kế hoạch phát triển
DNNVV giai đoạn 2006 - 2010, xác định rõ vai trò của các
cơ quan quản lý nhà nước trong việc xây dựng các mục tiêu
và phát triển DNNVV, các nhiệm vụ chủ yếu và các nhóm
giải pháp … Trên cơ sở Nghị định số 90/2001/NĐ-CP và kế
hoạch phát triển DNNVV 5 năm (2006 - 2010), một loạt các
chính sách trợ giúp DNNVV đã được triển khai, bước đầu đi
vào cuộc sống và có những tác động tích cực tới sự phát triển
của cộng đồng DNNVV.
Năm 2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định
56/2009/NĐ-CP về chính sách trợ giúp phát triển DNNVV,
tập trung vào 3 trụ cột: (i) Tạo lập môi trường pháp lý thuận
lợi, minh bạch và bình đẳng; (ii) hỗ trợ tiếp cận tài chính (bảo
lãnh tính dụng, thuê mua, đầu tư mạo hiểm) và (iii) hỗ trợ
tăng cường năng lực cạnh tranh (công nghệ, phát triển nguồn
nhân lực và tiếp cận thị trường).
Để phát triển DN mới, Chính phủ đã có nhiều chính
sách nhằm cải thiện môi trường kinh doanh. Điển hình là
quyết định số 30/QĐ-TTg, ngày 10/01/2007 phê duyệt Đề án

124
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

Đơn giản hoá thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý
nhà nước giai đoạn 2007 - 2010. Hoạt động đăng ký kinh
doanh của DN được cải cách mạnh mẽ, từ DN xin phép được
kinh doanh sang đăng ký với chính quyền về sự tồn tại của
pháp nhân DN. Các nhà đầu tư có toàn quyền thành lập DN
và tiến hành đăng ký kinh doanh trong tất cả các ngành nghề
pháp luật không cấm. Hiện tại, các DNNVV khởi sự kinh
doanh dễ dàng hơn nhiều so với một vài năm trước đây. Hầu
hết các địa phương đã hình thành cơ chế một cửa liên thông
trong việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, đăng ký
thuế và đăng ký con dấu đối với DN.
Về việc hỗ trợ vốn, Chính phủ Việt Nam đã thể hiện ý
định của mình mở rộng khả năng tiếp cận khoản vay ngân
hàng cho khu vực tư nhân, chủ yếu các DNNVV thông qua
nhiều chính sách nhằm phát triển môi trường tài chính ở Việt
Nam. Một môi trường tài chính minh bạch sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho các DNNVV tiếp cận với các nguồn lực tài
chính bên ngoài. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là
cơ quan ngang Bộ của Chính phủ ban hành những cải cách tài
chính ở Việt Nam. Có thể kể đến một số những cải cách tiêu
biểu trong thời gian qua như: quy chế cho vay của các tổ
chức tín dụng đối với các khách hàng được sửa đổi, bổ sung
nhiều lần, theo hướng nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của các tổ chức tín dụng, mở rộng và đơn giản hoá thủ
tục cho vay cho mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là các
DNNVV; Dần dần thực hiện tự do hoá lãi suất ở Việt Nam
theo từng thời kỳ phát triển kinh tế; Xử lý nợ tồn đọng và cơ
cấu lại các ngân hàng TM nhà nước; Nới lỏng điều kiện thế
chấp; Thành lập Trung tâm thông tin tín dụng cung cấp thông
tin tín dụng của DN cho các tổ chức tín dụng;

125
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Nhà nước cũng khuyến khích tạo hành lang pháp lý


thuận lợi nhằm mở rộng các kênh cấp vốn khác cho DNNVV
như: (i) Cho thuê tài chính (Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã
tín dụng và công ty tài chính năm 1990; Luật các tổ chức tín
dụng được ban hành, sửa đổi vào các năm 1997, 2005; Nghị
định số 16/2001/NĐ-CP, Nghị định số 65/2005/NĐ-CP về tổ
chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt
Nam); (ii) Bao thanh toán (Luật các tổ chức tín dụng được
sửa đổi năm 2005, Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN);
(iii) Thị trường chứng khoán...
Ngoài ra, nhằm hoàn thiện chế độ kế toán Việt Nam
nhằm giúp các DNNVV tiếp cận với các nguồn tài chính và
giảm thiểu chi phí của các tổ chức tín dụng cho vay đối với
DNNVV, Bộ Tài chính cũng đã ban hành các Chuẩn mục kế
toán Việt Nam áp dụng cho các DNNVV. Điều này giúp các
báo cáo tài chính của DN trở nên minh bạch hơn.
Nhằm hỗ trợ các DNNVV tiếp cận dễ dàng hơn với
nguồn tín dụng ngân hàng, trên cơ sở Nghị định số
90/2001/NĐ-CP, Chính phủ đã thành lập các Quỹ bảo lãnh
tín dụng cho DNNVV, thực hiện bảo lãnh cho các DN muốn
vay vốn ngân hàng nhưng không đáp ứng đủ điều kiện về thế
chấp tài sản. Quỹ bảo lãnh tín dụng hoạt động không vì mục
tiêu lợi nhuận, do đó DN chỉ phải chịu mức phí bảo lãnh tín
dụng 0,8%/năm cùng với phí thẩm định.
Về hỗ trợ mặt bằng sản xuất, tuỳ từng đối tượng DN
mà Chính phủ cũng áp dụng những mức ưu đãi miễn, giảm
tiền sử dụng đất cho DN. Theo nội dung của Nghị định số
198/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 về thu tiền sử dụng đất,
Chính phủ quy định những ưu đãi miền, giảm tiền sử dụng

126
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

đất theo quy định của pháp luật về khuyến khích đầu tư. Các
mức miễn giảm tuỳ theo từng lĩnh vực, địa bàn đầu tư: từ
20%, 30% đến cao nhất 50%.
Về hỗ trợ đổi mới khoa học công nghệ, Nhà nước đã
thành lập Quỹ Phát triển Khoa học Công nghệ Quốc gia trong
năm 2008. Hoạt động chủ yếu của quỹ là tài trợ 100% kinh
phí và cho vay kinh phí để nghiên cứu khoa học. Hình thức
tài trợ của Quỹ tối đa 100% cho các trường hợp như: nghiên
cứu cơ bản trong các lĩnh vực; thực hiện các nhiệm vụ khoa
học và công nghệ đột xuất, mới phát sinh; xuất bản các công
trình khoa học do Quỹ tài trợ; công bố các công trình nghiên
cứu trên các tạp chí quốc tế có uy tín; chi phí liên quan trực
tiếp đến đăng ký quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế, thiết
kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng …
Hình thức cho vay không lấy lãi đối với các dự án ứng
dụng kết quả nghiên cứu và phát triển công nghệ được tạo ra
trong nước. Cho vay với mức lãi suất thấp đối với các dự án
đổi mới công nghệ, chú trọng đến công nghệ cao, công nghệ
sạch, công nghệ tạo ra các SP có sức cạnh tranh cao …
Những hỗ trợ thiết thực này sẽ góp phần giúp các DNNVV
chuyển giao, đổi mới, hoàn thiện công nghệ, phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá của đất nước.
Cùng với chính sách khuyến khích hỗ trợ phát triển
DN, để tăng cường liên kết giữa các DN, các nước thường cố
gắng đưa ra chính sách để các DN có sự tập trung về địa lý
(dưới hình thức các khu CN hoặc cụm CN). Trong thời gian
qua, Việt Nam cũng ban hành nhiều chính sách để xây dựng
các khu, cụm CN.

127
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Nghị định số 189/2007/NĐ-CP ngày 27/12/2007 của


Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Bộ Công thương, trong đó có quy định nhiệm
vụ và quyền hạn của Bộ Công thương “Tổng hợp chung về
phát triển CN đa phương và quản lý các cụm, điểm CN ở cấp
huyện và các DNCN ở địa phương”.
Nghị định số 13/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 Quy
định tổ chức của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong đó có giao cho
Sở Công thương quản lý cụm CN và điểm CN trên địa bàn.
Thông tư liên tịch số 07/2007/TTLT-BVN ngày
28/5/2008 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn về công thương thuộc
UBND cấp tỉnh, huyện, trong đó có quy định cho Sở Công
thương “Triển khai thực hiện cơ chế, chính sách ưu đãi thu
hút đầu tư, XNK, thuế, tài chính, lao động và xây dựng hạ
tầng kỹ thuật, giải phóng mặt bằng, di chuyển cơ sở sản xuất,
xây dựng mới cụm, điểm CN, tiểu thủ CN trên địa bàn sau
khi được phê duyệt”.
Chỉ thị số 22/2007/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ
ngày 26/10/2007 về phát triển CN dân doanh, trong đó có
giao cho Bộ Công thương “Chủ trì, phối hợp với uỷ ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng kế
hoạch phát triển cụm, điểm CN quy mô nhỏ đáp ứng yêu cầu
chung của quy hoạch tổng thể phát triển CN theo vùng, lãnh
thổ và quy hoạch phát triển CN địa phương”.
Quyết định số 73/2006/QĐ-TTg ngày 04/4/2006 của
Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể
phát triển các ngành CN Việt Nam theo vùng lãnh thổ đến

128
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

năm 2010, tầm nhìn đến 2020, trong đó có định hướng phát
triển các khu, cụm CN đến năm 2010, tầm nhìn đến năm
2020.
Nghị định số 134/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày
17/6/2004 về khuyến khích phát triển CN nông thôn, trong đó
có nội dung hỗ trợ: “Đầu tư vốn DN kết cấu hạ tầng cho cụm,
điểm CN - tiểu thủ CN và làng nghề”.
Quyết định số 136/2007/QĐ-TTg ngày 20/8/2007 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình khuyến công
quốc gia đến năm 2012, trong đó cơ nội dung: “Hỗ trợ lập
quy hoạch và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cụm, điểm CN
theo quy hoạch phát triển CN của địa phương tại những địa bàn
khó khăn, CN chậm phát triển”.
Nghị định số 66/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07
tháng 7 năm 2006 về phát triển ngành nghề nông thôn:
“Khuyến khích các tổ chức, cá nhân và cơ sở ngành nghề
nông thôn đầu tư xây dựng kết cầu hạ tầng làng nghề, cụm cơ
sở ngành nghề nông thôn. Nhà nước hỗ trợ đầu tư hạ tầng
làng nghề và ngoài hàng rào các cụm cơ sở ngành nghề nông
thôn theo quy định” (Khoản 2, điều 7 Nghị định 66).
1.2. Chính sách thị trường và mặt hàng
Trong những năm gần đây, để cơ cấu các ngành CN,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một số văn bản: Quyết
định số 55/2007/QĐ-TTg ngày 23/4/2007 của Thủ tướng
Chính phủ về phê duyệt Danh mục các ngành CN ưu tiên,
ngành CN mũi nhọn giai đoạn 2007 - 2010, tầm nhìn đến
năm 2020 và một số chính sách khuyến khích phát triển;
Quyết định 160/2008/QĐ-TTg ngày 4/12/2008 phê duyệt
Chiến lược tổng thể và chính sách bảo hộ sản xuất CN trong

129
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

nước phù hợp các cam kết quốc tế, quy định của WTO giai
đoạn đến năm 2020.
Bên cạnh đó, Bộ Công thương đã ban hành quyết định
số 53/2008/QĐ-BCT ngày 30/12/2008 Phê duyệt Chiến lược
phát triển các ngành CN áp dụng công nghệ cao đến năm
2020,... Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế - xã hội được
thông qua các ngành CN cũng đã xây dựng các chiến lược
phát triển ngành.
- Ngành CNHT ô tô: Chính sách quan trọng nhất trong
thời gian này ảnh hưởng tới sự ra đời và phát triển của CNHT
ô tô đó là các quy định liên quan đến tỷ lệ nội địa hoá. Hai
khung chính sách áp dụng cho tỷ lệ nội địa hoá, thứ nhất dựa
trên mức độ cam kết nâng tỷ lệ nội địa của công ty sau một
thời gian hoạt động, thứ hai dựa trên dạng thức lắp ráp để
nhận được sự ưu đãi về thuế nhập khẩu. Trong giấy phép đầu
tư, các công ty lắp ráp ô tô nhận được một số ưu đãi về đầu tư
miến thuế nhập khẩu máy móc thiết bị, miễn giảm thuế thu
nhập DN, giảm thuế tiêu thụ đặc biệt, không tính thuế VAT
đối với ô tô lắp ráp trong nước. Mức độ ưu đãi phụ thuộc vào
cam kết đạt tỷ lệ nội địa hoá trong một khoảng thời gian nhất
định. Thông thường các công ty cam kết đạt mức 30% nội địa
hoá sau 10 năm hoạt động.
Năm 2002 chính phủ ban hành chiến lược phát triển
CN ô tô đến năm 2010 tầm nhìn 2020, theo đó quy định tỷ lệ
nội địa hoá đối với xe sản xuất tại Việt Nam. Tỷ lệ nội địa
hoá vào năm 2005 đạt 20 - 25% đối với dòng xe TM, 40%
với các dòng xe khác. Bộ Khoa học và công nghệ phân loại
sản xuất lắp ráp tại Việt Nam, theo đó bỏ hình thức lắp ráp
các loại SKD và CKD1, thống nhất sử dụng hình thức CKD

130
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

để chỉ hình thức lắp ráp CKD2 trước đây. Việc thực hiện nội
địa hoá sẽ thông qua hình thức IKD. Bộ Tài chính ban hành
biểu thuế cho hai hình thức này, với xe dạng CKD áp dụng
mức 25% IKD từ 1 - 5%.
Theo kết quả một cuộc khảo sát về tỷ lệ nội địa hoá
được tiến hành năm 2008 cho thấy, các công ty lắp ráp không
nỗ lực thực hiện các cam kết về tỷ lệ nội địa, công ty đạt cao
nhất là Toyota vào thời điểm đó cũng chỉ đạt 7%. Chính sách
nội địa hoá thất bại.
- CNHT điện tử: Ngày 28/5/2007, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Quyết định số 75/2007/QĐ-TTg phê duyệt Kế
hoạch tổng thể phát triển CN điện tử Việt Nam đến năm
2010, tầm nhìn 2020. Theo đó, mục tiêu đến năm 2010,
doanh số sản xuất của ngành CN điện tử đạt từ 4 đến 6 tỷ
USD; kim ngạch xuất khẩu đạt từ 3 đến 5 tỷ USD; tạo việc
làm cho 300 nghìn lao động; có tốc độ tăng trưởng từ 20%
đến 30%/năm. Định hướng phát triển của các DN điện tử
trong nước là: chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng phát
triển điện tử chuyên dùng, các DN cần có biện pháp nâng cao
chất lượng, tăng cường tính năng SP để đạt được giá trị gia
tăng cao …. Nhóm SP điện tử dân dụng sẽ áp dụng các biện
pháp để nâng cao chất lượng SP, giảm giá thành, cải thiện
mẫu mã để tăng thị phần và thị trường trong nước.
Để đáp ứng thị trường xuất khẩu, cần tạo ra SP điện tử
phù hợp với nhu cầu thị trường, có chất lượng và giá cả cạnh
tranh; tăng cường các hoạt động hợp tác quốc tế, xúc tiến
TM, tiếp cận thị trường độc lập hoặc trong khuôn khổ
Chương trình xúc tiến TM quốc gia, tham gia các hội chợ,

131
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

triển lãm ở nước ngoài để có thông tin, thị trường, đối tác.
Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện cho các DN hoặc các
trung tâm TM ở nước ngoài tìm hiểu về nhu cầu, thị hiếu của
thị trường, quảng bá SP, thương hiệu, ký hợp đồng, tổ chức
tiêu thụ SP,...
- CNHT dệt may: Chính phủ đã ban hành quyết định
36/2008/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược phát triển
ngành CN dệt may đến năm 2015, định hướng đến năm 2020.
Quy hoạch này tập trung vào các nội dung chủ yếu: Phát triển
ngành dệt may; Phát triển tối đa thị trường nội địa; Phát triển
mạnh các SP CNHT, sản xuất nguyên phụ liệu dệt may, giảm
nhập siêu, nâng cao giá trị gia tăng của ngành; Phát triển
nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng cho sự phát
triển bền vững của ngành dệt may Việt Nam.
Để thực hiện quy hoạch phát triển này. Bộ Công
thương cũng đã đưa ra 2 Chương trình phát triển CNHT cho
ngành dệt may:
+ Quyết định 43/2008/QĐ-BCT của Bộ Công thương
về việc phê duyệt Chương trình sản xuất vải dệt thoi phục vụ
xuất khẩu đến năm 2015 nhằm khuyến khích, huy động mọi
nguồn lực của các thành phần kinh tế và đẩy mạnh thu hút
ĐTNN để phát triển sản xuất nguyên phụ liệu phục vụ ngành
dệt may Việt Nam.
+ Quyết định 39/2008/QĐ-BCT của Bộ Công thương
về việc phê duyệt Chương trình đào tạo nguồn nhân lực
ngành dệt may Việt Nam đến năm 2015, tầm nhìn đến năm
2020 với các nội dung chủ yếu sau: Nâng cao số lượng và
chất lượng lực lượng lao động có tính đến yếu tố hội nhập

132
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

khu vực và quốc tế; trước hết tập trung vào việc nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật chuyên
ngành, công nhân lành nghề; Đổi mới cơ chế quản lý, chương
trình, nội dung, hình thức đào tạo và phương pháp giảng dạy;
đẩy mạnh hợp tác quốc tế về đào tạo.
- CNHT da - giầy: Quy hoạch phát triển ngành giai
đoạn 2000 - 2010, tầm nhìn 2015, thực hiện năm 1998 -
1999 do Tổng công ty da giầy và Hiệp hội da giầy Việt
Nam xây dựng theo chỉ đạo của Bộ công nghiệp nhẹ (nay
là Bộ Công thương).
Nghị định số 35/2002/NĐ-CP ngày 29/3/2002 của
Chính phủ về việc sửa đổi bổ sung Phụ lục ban hành kèm
theo Nghị định số 51/1999/NĐ-CP ngày 08/07/1999 quy định
chi tiết thi hành luật khuyến khích đầu tư trong nước, trong
đó có quy định về các ngành nghề được hưởng ưu đãi đầu tư
như SXKD hàng xuất khẩu, chăn nuôi gia súc gia cầm quy
mô trang trại, đầu tư sản xuất máy cho ngành da. Nghị định
này đã góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất chăn nuôi với
quy mô lớn, tạo dựng nguồn nguyên liệu đầu vào cơ bản cho
ngành da - giầy, khuyến khích DN và cá nhân đầu tư phát
triển CN chế tạo máy hỗ trợ cho ngành da - giày.
Thông tư số 86/2002/TT-BCT ngày 27/09/2002 của Bộ
Tài chính hướng dẫn chi hỗ trợ hoạt động xúc tiến TM, đẩy
mạnh xuất khẩu. Thông tư này góp phần giúp các DN da -
giầy có thêm nguồn lực để triển khai các hoạt động xúc tiến
TM, gia tăng kim ngạch xuất khẩu.

133
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Quyết định số 0104/2003/QĐ-BTM ngày 21/01/2003


của Bộ TM ban hành Quy chế xây dựng và quản lý Chương
trình xúc tiến TM trọng điểm quốc gia. Trong đó, ngành da -
giày được xác định là ngành được ưu tiên hàng đầu.
Quyết định số 55/2007/QĐ-TTg ngày 23/04/2007 của
Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Danh mục các
ngành CN ưu tiên, CN mũi nhọn giai đoạn 2007 - 2010,
tầm nhìn đến năm 2020 và một số chính sách khuyến khích
phát triển. Ngành da - giày được đưa vào danh mục ưu tiên
cả giai đoạn 2007 - 2020.
Quyết định số 36/2007/QĐ-BCN ngày 06/08/2008 của
Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển
chăn nuôi đến năm 2020, nhằm khuyến khích các DN và cá
nhân đầu tư nuôi và giết mổ gia súc, gia cầm CN với quy mô
lớn, đây là nguồn nguyên liệu đầu vào quan trọng cho ngành
da - giầy.
Để khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, Nhà nước có
chính sách thuế đối với SP giày dép xuất khẩu bằng 0% và
nguyên liệu nhập cho hàng gia công. Nguyên liệu nhập cho
sản xuất theo phương thức mua nguyên liệu bán thành phẩm
thì được hoàn thuế khi xuất khẩu hàng hoá.
- CN cơ khí chế tạo: Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
quyết định số 186/QĐ-TTg ngày 26/12/2002, phê duyệt
Chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam đến năm 2010,
tầm nhìn tới 2020, trong đó mục tiêu cụ thể “đáp ứng 40-50%
nhu cầu SP cơ khí của cả nước, trong đó xuất khẩu đạt 30%
giá trị sản lượng”. Tiếp theo, Bộ Công Thương cũng ban
hành quyết định số 2888/QĐ-BCT, ngày 08/06/2009, phê

134
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

duyệt quy hoạch phát triển ngành công nghiệp chế tạo thiết bị
đồng bộ giai đoạn đến năm 2015, có xét đến năm 2025.
Trong đó, chế tạo thiết bị đồng bộ thuộc Danh mục ngành CN
mũi nhọn ban hành kèm theo Quyết định số 55/2007/QĐ-TTg
ngày 23/04/2007 của Thủ tướng Chính phủ, được khuyến
khích phát triển từ nay đến năm 2020. Quyết định số
10/2009/QĐ-TTg ngày 16/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ
ban hành Danh mục SP cơ khí trọng điểm và Danh mục các
dự án đầu tư sản xuất SP cơ khí trọng điểm giai đoạn từ năm
2009 đến năm 2015 cũng xác định cơ chế hỗ trợ phát triển
sản xuất cho lĩnh vực này.
Tuy nhiên, mục tiêu này cơ bản đã không đạt được, đến
nay ngành cơ khí chỉ mới có thể đáp ứng được 20 - 25% nhu
cầu SP cơ khí cả nước. Nguyên nhân là do trong những năm
qua, việc đầu tư của ngành này thiếu tập trung, phân tán và
không đồng bộ, chưa có một cơ sở chế tạo nào đủ mạnh làm
đòn bẩy thúc đẩy toàn ngành. Việc hỗ trợ và phối hợp liên kết
không thực hiện được cũng vì thiếu những chuyên ngành cơ
khí cần thiết như các dự án sản xuất phôi thép rèn, đúc chất
lượng cao, khối lượng lớn, áp dụng công nghệ mới, tiên tiến.
Thiếu các DN trang bị máy gia công chế tạo thiết bị lớn, hiện
đại trong nước. Các DN có nhu cầu đầu tư thường gặp phải
những thủ tục phiền hà, kéo dài và đặc biệt với lãi suất tín dụng
đầu tư hiện nay rất cao nên không hấp dẫn các nhà đầu tư.
1.3. Chính sách xuất nhập khẩu và các công cụ của
chính sách xuất nhập khẩu
a) Công cụ thuế quan: Thuế quan là các biện pháp bảo
hộ được cho phép áp dụng theo luật lệ WTO, mức thuế căn

135
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

cứ vào cam kết giảm thuế của từng nước thành viên. Có ba
loại thuế trong WTO: Thuế quan ràng buộc(1), hạn ngạch thuế
quan (2) và thuế quan hiện hành(3).
Chính sách thuế quan của Việt Nam được thi hành theo
luật về XNK ngày 29/12/1987, sau đó đã được thay thế bằng
luật về thuế XNK vào năm 1991, được sửa đổi vào các năm
1993, 1998 và 2005. Về mức thuế, Việt Nam áp dụng cơ cấu
nhiều mức thuế: thuế suất không ưu đãi, thuế suất ưu đãi và
thuế suất ưu đãi đặc biệt. Thuế quan áp dụng đối với các quốc
gia được hưởng quy chế tối huệ quốc được Bộ tài chính ban
hành theo quyết định số 110/2003/QĐ-BTC ngày 22/07/2003
trong đó liệt kê 10721 dòng thuế. Mức thuế quân bình quân
đối với hàng nông nghiệp là 23.5% và 16.6% đối với hàng
phi nông nghiệp. Trong nỗ lực thực hiện những cam kết về
hội nhập quốc tế, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc
hiện đại hoá quy trình, thủ tục hải quan và góp phần nâng cao
khả năng cạnh tranh của DN. Ngày 28/7/2006, Bộ tài chính
đã ban hành hành quyết định số 39/2006/QĐ-BTC về biểu
thuế xuất khẩu. Theo đó, số dòng thuế trong biểu thuế mới sẽ
tăng lên khoảng hơn 400 dòng, 16 mặt hàng điều chỉnh tăng
thuế chủ yếu là những mặt hàng trong nước đã sản xuất được

1
Thuế quan ràng buộc trong WTO tương ứng với mức thuế suất tối đa của
từng dòng sản phẩm mà các nước thành viên WTO được phép đánh vào hàng
hoá nhập khẩu.
2
Hạn ngạch thuế quan được mặc định bằng hai mức thuế: Mức thuế trong
hạn ngạch thấp hơn được áp dụng cho X đơn vị nhập khẩu đầu tiên và mức
thuế ngoài hạn ngạch được áp dụng cho những đơn vị nhập khẩu sau đó.
3
Thuế quan hiện hành là mức thuế suất hàng năm áp dụng với hàng nhập
khẩu và được cơ quan hải quan công bố chính thức. Thuế hiện hành có thể
thấp hơn hoặc bằng thuế ràng buôc, nhưng không được cao hơn.

136
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

và 117 nhóm mặt hàng được điều chỉnh giảm thuế. Ví dụ tôn
mạ kim loại và tôn sơn màu tăng từ 10% lên 12%, thép cán
nguội tăng lên 7%... hàng điện tử, điện lạnh dân dụng có mức
thuế suất 40%; 50% giảm xuống 30%; 40%; xe máy nguyên
chiếc giảm từ 100% xuống 90%. Một số mặt hàng giảm
nhiều so với mức thuế suất hiện hành (từ mức 20%-40%
xuống 0%-5%) là những vật tư chuyên dùng trong nước chưa
sản xuất được.
Trong khuôn khổ hợp tác khu vực và song phương,
cũng như thực hiện cam kết trong WTO, các dòng thuế XNK
của Việt Nam phải có những chính sách cắt giảm mạnh mẽ.
Vấn đề chủ yếu hiện nay của Việt Nam là tận dụng những
“dư địa” đàm phán và trong phạm vi, khuôn khổ WTO cho
phép xây dựng được một cơ cấu thuế quan hiệu quả, đảm bảo
lợi ích quốc gia, phục vụ các mục tiêu đã định về bảo hộ và
phát triển.
b) Công cụ phi thuế quan:
Công cụ phi quan thuế ở nước ta thực sự đã có tiến bộ
mang tính đột phá cùng với những chuyến biến quan điểm về
tổ chức và quản lý thương mại từ những năm đầu của thời kỳ
"Đổi mới". Trước năm 1997, cơ chế cũ về quản lý xuất khẩu
còn rất cứng nhắc, DN không có sự tự chủ trong hoạt động
kinh doanh thương mại, một số DN nhà nước có độc quyền,
đặc quyền thâu tóm và lũng đoạn các nguồn hàng XNK. Năm
1998, cơ chế quản lý XNK đã thay đổi cơ bản với việc ra đời
nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 quy định thi hành
luật thương mại về hoạt động XNK, gia công, đại lý hàng hóa
với nước ngoài cho phép các DN trong nước được XNK hàng
hóa phù hợp với lĩnh vực kinh doanh trong giấy phép kinh

137
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

doanh. Hệ thống cấp phép được thay thế bằng yêu cầu đăng
ký với hải quan tỉnh hoặc thành phố loại trừ những mặt hàng
thuộc danh mục hàng hóa XNK có điều kiện.
Năm 1999, luật DN ra đời (có hiệu lực vào ngày
1/1/2000) và ngày 4/4/2001, quyết định 46/2001/NĐ-CP về
quản lý XNK 5 năm 2001-2005 đã thay thế cơ chế quản lý
hàng năm bằng một cơ chế dài hạn, thông thoáng hơn, giảm
dần sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào hoạt động kinh
doanh của DN, thay đổi cơ chế "xin cho" trước đây và nâng
cao vai trò của các công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước trong
hoạt động TM.
Với nghị định số 12/2006/NĐ-CP, ngày 23/01/2006 của
Thủ tướng Chính phủ, quy định chi tiết thi hành Luật Thương
mại về hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động
đại lý, mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước
ngoài. Việt Nam đã quy định cụ thể cơ chế quản lý điều hành
XNK giai đoạn sau năm 2005. Có thể nói, chính sách quản lý
XNK ngày càng mang tính ổn định, minh bạch hóa, phù hợp
với các quy định của WTO và trực tiếp phục vụ cho việc
hoạch định kế hoạch phát triển và hoạt động dài hạn của các
DN trên thị trường Việt Nam.
Tháng 06/2001 Quốc hội Việt Nam thông qua một bộ
luật mới về hải quan phản ánh các phương pháp và chính
sách của GATT về định giá hải quan dựa trên giá giao dịch.
Ngày 14/06/2005, Quốc hội thông qua luật hải quan sửa đổi
số 42/2005/QH11 có hiệu lực từ ngày 01/01/2006. Bộ luật
sửa đổi này sẽ đưa luật hải quan của Việt Nam đạt được tiêu
chuẩn cụ thể mà WTO đề ra, đồng thời thực hiện được các
quy định của WTO trong những hiệp định liên quan về định

138
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

giá hải quan, hiệp định về giám định kiểm tra hàng hoá
trước khi xuất khẩu, hiệp định về quy tắc xuất xứ, hiệp định
về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở
hữu trí tuệ và các hiệp định khác. Bộ luật sửa đổi này đã
mang lại những đổi mới và tiến bộ trong các thủ tục hải
quan đặc biệt là các thủ tục thông quan điện tử (hiện tại
đang được khuyến khích). Một vấn đề khó khăn là thực thi
các quy định về định giá hải quan phù hợp với WTO. Chúng
ta cũng đã có nhiều nỗ lực củng cố khả năng và nâng cấp
thiết bị để vượt qua các khó khăn trên. Nhưng Việt Nam vẫn
cần nhiều hỗ trợ hơn nữa về kĩ thuật, để có thể thực thi hiệu
quả các phương pháp định giá hải quan, tuân thủ đầy đủ các
yêu cầu của hiệp định.
Theo cam kết trong WTO, Việt Nam duy trì 2 nhóm
hàng hóa chính thuộc diện quản lý định lượng bao gồm:
(i) Danh mục các mặt hàng cấm XNK: Là những mặt
hàng có ảnh hưởng tiêu cực đối với các vấn đề xã hội, văn
hóa, chính trị, an ninh và môi trường. Tuy vậy, CSTM của ta
cũng không hoàn toàn nhất quán với tiêu chí đó. Mặt hàng xe
đạp, xe mô tô hai, ba bánh cũ và một số loại hàng hóa tiêu
dùng đã qua sử dụng vẫn được liệt kê trong danh mục nêu
trên. Lý do căn bản trước hết nhu cầu bảo hộ các ngành hàng
trong nước, hạn chế tiêu dùng SP không đủ chất lượng nhưng
đồng thời cơ chế quản lý hiện nay bằng các tiêu chuẩn về môi
trường, kỹ thuật không ngăn chặn hữu hiệu việc nhập khẩu
các mặt hàng này.
(ii) Danh mục mặt hàng nhập khẩu có giấy phép: Chính
là các mặt hàng thuộc danh mục có ảnh hưởng đến "cân đối
lớn với nền kinh tế quốc dân" mà các cơ chế XNK trước năm

139
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

2000 thường sử dụng và luôn được bảo hộ chặt chẽ. Đây là


một loại hàng rào phi thuế (NTBs) rõ ràng vì việc nhập khẩu
không dựa trên cơ sở cấp phép tự động và đôi khi nó có tác
dụng như biện pháp cấm nhập khẩu. Năm 2001, Quyết định
46 và Thông tư 11/2001/TT-BTM ngày 18/4/2001 hướng dẫn
chi tiết thực hiện Quyết định 46 đã xây dựng lộ trình loại bỏ
hạn chế định lượng nêu trên. Theo đó, từ năm 2000 đến 2002,
hầu hết những hạn chế định lượng không phù hợp với quy định
của WTO đã bị loại bỏ. Điều này có nghĩa là nước ta đã tiến
một bước căn bản trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế.
Về hỗ trợ đẩy mạnh xuất khẩu, Chính phủ đã ra Quyết
định số 195/1999/QĐ-TTg ngày 27/9/1999 về việc lập, sử
dụng và quản lý Quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Quỹ này được sử
dụng vào các mục đích như: hỗ trợ lãi suất ngân hàng để
mua hàng nông sản xuất khẩu khi giá cả thị trường thế giới
giảm; dự trữ hàng nông sản để chờ xuất khẩu; hỗ trợ tài chính
có thời hạn đối với một số mặt hàng xuất khẩu bị lỗ do thiếu
sức cạnh tranh, hoặc gặp rủi do khách quan. Tuy nhiên, sau
khi Việt Nam gia nhập WTO, những hỗ trợ trực tiếp cho xuất
khẩu như vậy đều bị cấm. Do vậy, gần đây Chính phủ đã
quyết định bãi bỏ Quỹ hỗ trợ xuất khẩu này.
Một trong những vấn đề nữa của chính sách phi quan
thuế của Việt Nam đó là vấn đề về quyền kinh doanh. Thực
chất, nó gắn liền với quyền XNK và quyền được chào bán và
bán SP tại thị trường. Trước đây, quyền kinh doanh chỉ nằm
trong tay một số DN của nhà nước được Bộ thương mại cấp
phép mới có quyền XNK. Quyền kinh doanh nhập khẩu đã
được nới lỏng đáng kể trong những năm vừa qua. Các DN có

140
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

vốn ĐTNN tiếp tục mong muốn nhận được quyền kinh doanh
đầy đủ hơn. Những vấn đề này đã và đang được khắc phục
trong quá trình thực hiện các luật được quốc hội thông qua
như luật DN 2005, luật thương mại (sửa đổi), luật đầu tư
2005 nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các DN trong
nước và nước ngoài.
Vấn đề về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT),
Việt Nam đã cam kết thực hiện đầy đủ hiệp định của WTO về
TBT khi gia nhập WTO mà không có giai đoạn chuyển đổi.
Ngày 26/05/2005, Thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết
định 444/2005/QĐ-TTg về việc phê duyệt dự án thực hiện
hiệp định TBT. Theo quyết định này thì mục tiêu của dự án
là đảm bảo Việt Nam sẽ hoàn thành tốt nghĩa vụ của mình
theo thoả thuận về hàng rào kỹ thuật trong thương mại sau
khi gia nhập WTO, phát triển thương mại với các quốc gia
thành viên của WTO và đạt được mục tiêu của quốc gia là
phát triển kinh tế xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài
ra Thủ tướng còn chỉ đạo các cơ quan, các bộ để xây dựng
và kiểm tra lại tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) và tiêu chuẩn
ngành (TCN) tuân theo những tiêu chuẩn quốc tế nhằm đảm
bảo lợi ích về kinh tế - xã hội đồng thời nâng cao khả năng
cạnh tranh của các DN Việt Nam. Tuy nhiên, sự tham gia
của Việt Nam vào các tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế cũng
chưa đầy đủ và Việt Nam còn chưa có đủ nguồn nhân lực và
năng lực công nghệ để có thể cung cấp các dịch vụ gắn liền
với tiêu chuẩn hoá cũng như thu thập và lưu trữ dữ liệu một
cách hệ thống.

141
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

1.4. Kết quả thực hiện các chính sách


CSTM đã có sự chuyển biến quan trọng theo hướng
chuyển từ cơ chế xin cho, chịu sự tác động trực tiếp của nhà
nước sang cơ chế thị trường, góp phần phát huy tác động tích
cực của cơ chế thị trường trong phân bố nguồn nhân lực xã
hội, gắn bó giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
Tuy nhiên trong quản lý nhà nước về TM còn biểu hiện nhiều
bất cập, cụ thể là:
- Quản lý nhà nước về TM, nhất là trong phát triển mặt
hàng và thị trường xuất khẩu, xây dựng hạ tầng TM, hình
thành và phát triển chợ, trung tâm TM… chưa theo một ý đồ
chung, quy hoạch thống nhất hoặc có quy hoạch nhưng
không theo chỉ đạo theo quy hoạch.
- Chính sách quản lý có liên quan đến TM còn mang
nặng tính giải quyết tình huống, chưa có tầm nhìn dài hạn,
thường thay đổi, bất thường, khó dự đoán… gây khó khăn cho
việc xây dựng kế hoạch kinh doanh của các nhà đầu tư, DN.
- Chưa có đủ lực lượng, thiếu công cụ và những biện
pháp hữu hiệu trong quản lý thị trường, điều hành quan hệ
cung cầu, kiểm soát nhập khẩu, bảo đảm phát triển bền vững,
bảo vệ môi trường sinh thái.
- Chưa có chế tài đủ mạnh để khắc phục tình trạng hàng
nhái, hàng giả, buôn lậu, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
trong hoạt động TM.
- Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về TM - dịch vụ
chưa thật hợp lý, sự phân công, phân quyền giữa các cơ quan
quản lý trung ương và địa phương chưa theo kịp với sự đòi
hỏi của thực tế, dẫn đến tình trạng khi thì chồng chéo, khi thì

142
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

bỏ trống. Đội ngũ cán bộ làm quản lý nhà nước do chưa được
đào tạo bài bản về nghiệp vụ này vì vậy tính chuyên nghiệp
chưa cao. Thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp, chậm
được đổi mới chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho người
sản xuất kinh doanh hoạt động hiệu quả.
- Hệ thống thông tin phục vụ quản lý nhà nước chưa đủ
mạnh. Thông tin từ cơ quan quản lý nhà nước tới các đối
tượng SXKD chưa được xây dựng và tiến hành theo quy
trình, chuẩn mực chung. Hoạt động dự báo, cảnh báo các tác
động và nguy cơ của những yếu tố bên ngoài tới hoạt động
của các DN còn chưa kịp thời.
Ngoài ra, với các phân tích ở trên, cho thấy các chính
sách trên không trực tiếp tác động đến lĩnh vực CNHT mà
chủ yếu hướng đến mục tiêu phát triển DN, thị trường, mặt
hàng nói chung. Chính vì thế, các chính sách đều chưa giải
quyết được những khó khăn đặc thù của CNHT để khuyến
khích lĩnh vực này phát triển.
2. Phân tích tác động của chính sách thương mại đối
với sự phát triển công nghiệp hỗ trợ trên cơ sở các kết quả
điều tra, phỏng vấn
Để nghiên cứu sự tác động của CSTM tới sự phát triển
của ngành CNHT, tác giả đã phân tích các số liệu từ kết quả
điều tra khảo sát đối với các DN CNHT (Mẫu điều tra kèm
theo tại phụ lục 1). Phương pháp điều tra theo kiểu chọn mẫu
từ các đối tượng DN, trong đó đối tượng DN được phân theo
các nhóm: (i) Theo loại hình gồm các DN tư nhân, công ty
TNHH, công ty cổ phần và hợp tác xã ; (ii) Theo một trong
năm nhóm ngành: ô tô, xe máy, điện tử, điện gia dụng, dệt
may, da - giầy, cơ khí chế tạo. Đối tượng điều tra này được

143
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

căn cứ theo Báo cáo Năng lực cạnh tranh Việt Nam năm
2010, theo đó, đã tổ chức chọn mẫu một cách ngẫu nhiên và
lập ra danh sách 250 DN trên địa bàn các tỉnh vùng đồng
bằng sông Hồng (Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng yên) và miền
Đông Nam Bộ (Bình Dương, Đồng Nai), là những vùng có
ngành CNHT phát triển để tiến hành phỏng vấn điều tra.
Bảng câu hỏi điều tra được thiết kế dựa theo những nội
dung đã được hỏi trong bảng câu hỏi điều tra về môi trường
trường kinh doanh của Phòng TM và CN Việt Nam (VCCI)
và Viện nghiên cứu kinh tế Nhật Bản (JERI) khảo sát CNHT
Việt Nam và đã được rút gọn cũng như điều chỉnh cho phù
hợp thực tế đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài, với 3
phần chính: (i) Thông tin chung về DN; (ii) tác động của các
CSTM đến hoạt động kinh doanh của DN; (iii) các đánh giá
và đề xuất của công ty về các CSTM nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động kinh doanh.
Thời gian tiến hành điều tra từ 11/2010 đến hết tháng
3/2011. Phương pháp xử lý số liệu được thực hiện theo
phương pháp tính bình quân giá trị số tương ứng của các câu
trả lời trong toàn mẫu cho từng hạng mục được hỏi và chia
nhóm mẫu nghiên cứu có chủ đích để đánh giá khác biệt về
điểm số trung bình.
Bảng 2.12: Thống kê về cuộc điều tra
TT Chỉ tiêu Số lượng
1 Số bảng câu hỏi phát ra 250
2 Số bảng câu hỏi nhận về 133
3 Số bảng câu hỏi đủ tiêu chuẩn xử lý 102

144
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

2.1. Tác động của chính sách thương nhân


a. Mức độ thuận lợi của các thủ tục khi tham gia vào
hoạt động kinh doanh
Nghiên cứu được tiến hành theo 4 lĩnh vực cần thiết để một
DN có thể tham gia vào hoạt động kinh doanh: đăng ký kinh
doanh; khắc dấu; đăng ký mã số thuế; và mua hoá đơn VAT.
- Đăng ký kinh doanh: Với những khía cạnh liên quan
đến thủ tục, thời gian, thái độ phục vụ và trình độ của cán bộ
công chức liên quan đến lĩnh vực đăng ký kinh doanh, đánh
giá nói chung của các DN là “tốt”, điểm số trung bình theo
thang đo 1-5 (1 - Không tốt; 5 - rất tốt) đạt trên 4,0; 3,46% số
DN đánh giá “không tốt”, hoặc “bình thường”, về thủ tục
đăng ký kinh doanh. Khoảng 4% số DN đánh giá “không
tốt”, hoặc “bình thường”, về thời gian tiến hành đăng ký, thái
độ và trình độ của những cán bộ công chức làm thủ tục đăng
ký kinh doanh.

Hình 2.4: Đánh giá chất lượng của thủ tục đăng ký kinh doanh

Thủ tục
6,00

4,00

2,00
Điểm trung bình
Trình độ cán bộ 0,00 Thời gian
Điểm tối đa

Thái độ phục vụ

Nguồn: Kết quả khảo sát DN

145
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Khắc dấu: Tương tự như thủ tục đăng ký kinh doanh,


thủ tục khắc dấu cũng được DN đánh giá khá cao theo thang
đo 1-5, điểm đánh giá trung bình là khoảng 4,0 điểm - mức
đánh giá “tốt” theo thang đo. Khoảng từ 3,5% đến 7% số DN
đánh giá “không tốt”, hoặc “bình thường”, về thủ tục khắc
dấu, thời gian, thái độ phục vụ và trình độ cán bộ làm thủ tục
khắc dấu.

Hình 2.5: Đánh giá chất lượng của thủ tục khắc dấu

Thủ tục
6,00

4,00

2,00
Điểm trung bình
Trình độ cán bộ 0,00 Thời gian
Điểm tối đa

Thái độ phục vụ

Nguồn: Kết quả khảo sát DN


- Đăng ký mã số thuế: Điểm đánh giá trung bình của
cộng đồng DN với các khía cạnh liên quan như thủ tục, thời
gian, thái độ phục vụ, và trình độ cán bộ - ở mức tốt với điểm
số là 3,9. Khoảng 7% đến 11% số DN đánh giá chất lượng
liên quan đến việc làm thủ tục khắc dấu ở mức “không tốt”
và “bình thường”.

146
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

Hình 2.6: Đánh giá chất lượng của thủ tục đăng ký mã số thuế

Thủ tục
6,00

4,00

2,00
Điểm trung bình
Trình độ cán bộ 0,00 Thời gian
Điểm tối đa

Thái độ phục vụ

Nguồn: Kết quả khảo sát DN


- Mua hoá đơn VAT: Điểm số đánh giá của DN CNHT
về thủ tục mua hoá đơn cũng dừng lại ở mức trên trung bình,
với điểm số trung bình là khoảng 3,8, khoảng 8% đến 12% số
DN đánh giá chất lượng của các khía cạnh liên quan đến thời
gian mua hoá đơn là “không tốt”, hoặc “bình thường”.
Hình 2.7: Đánh giá chất lượng của thủ tục mua hoá đơn
giá trị gia tăng

Thủ tục
6,00

4,00

2,00
Điểm trung bình
Trình độ cán bộ 0,00 Thời gian
Điểm tối đa

Thái độ phục vụ

Nguồn: Kết quả khảo sát DN

147
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Theo đánh giá của các DN thì nhìn chung các thủ tục
hành chính, thời gian cấp phép, thái độ và trình độ cán bộ
thuộc từng khâu trong lĩnh vực này là rất tốt. Đối với một số
ngành nghề kinh doanh có điều kiện, các giấy phép và điều
kiện kinh doanh do các cơ quan chuyên ngành chứng nhận,
cấp phép vẫn còn nhiều trở ngại. Liên quan đến vấn đề này,
nhiều DN cho rằng các cơ quan quản lý chuyên ngành còn có
tình trạng hành xử theo chủ quan, phân biệt đối xử giữa các
DN, trong đó có sự phân biệt DN ngoại tỉnh và trong tỉnh.
Các khâu làm thủ tục cần thiết cho DN gia nhập thị
trường, DN đều không mất các chi phí không chính thức. Các
quy định, thủ tục liên quan đến mỗi khâu tương đối rõ ràng
và đầy đủ. DN có thể tiếp cận các thông tin này tương đối dễ
dàng và thuận tiện. Bên cạnh đó, trình độ chuyên môn, tinh
thần, thái độ làm việc và sự tuân thủ pháp luật của các cán bộ
thực thi công vụ khá cao.
Sự thông thoáng trong các thủ tục đăng ký kinh doanh,
gia nhập thị trường trong thời gian qua đã tạo được sự gia
tăng nhanh chóng khu vực kinh tế tư nhân. Vấn đề hậu kiểm
dường như đã vượt khỏi khả năng của cơ quan cấp phép.
b. Mặt bằng kinh doanh
Mặt bằng SXKD là một yếu tố hết sức quan trọng mà
bất kỳ DN tư nhân nào khi muốn gia nhập thị trường đều phải
giải quyết. Trong suốt quá trình hoạt động thì nhu cầu về mặt
bằng cũng luôn là yêu cầu mà DN phải tính tới.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, phổ biến nhất là hình
thức thuê đất (39,82% số DN); chiếm một tỷ lệ đáng kể,
25,11%, là số DN được nhà nước giao đất. Một tỷ lệ khá phổ
biến, 16,49%, là các DN dùng ngay đất chủ sở hữu để làm

148
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

mặt bằng SXKD. Các hình thức như nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất; nhận góp vốn cũng được nhiều DN áp
dụng. Với quy mô nhỏ, tiềm lực kinh tế chưa cao thì hình
thức sử dụng ngay nhà ở của chủ DN làm văn phòng, địa
điểm giao dịch, cơ sở sản xuất là khá phổ biến. Xét trên khía
cạnh này thì những DN mới gia nhập thị trường, DN nhỏ có
được đất của chủ DN làm cơ sở SXKD là một lợi thế so với
các DN khác. Hình thức góp vốn bằng đất đai không phổ
biến, có thể do giá trị khá lớn, nhiều khi vượt xa giá trị tài sản
của DN.
Diện tích trung bình của lô đất dùng làm mặt bằng
SXKD của DN là khoảng 7586 m2. Thời hạn sử dụng đất
trung bình của những DN phải đi thuê đất là khoảng 19 năm;
trong đó, số DN thuê đất với thời hạn từ 1 năm trở xuống
chiếm khoảng 11,49%. Thời hạn thuê đất dưới 1 năm chủ yếu
là hình thức thuê đất của tư nhân và là các DN nhỏ, mới gia
nhập thị trường.
Khi được hỏi về thời gian chờ để có được mặt bằng
SXKD, có tới 53,57% số DN trả lời phải mất từ vài ngày đến
3 tháng. Số DN phải chờ tới hơn 12 tháng để có được mặt
bằng SXKD là 12,16%. Trong đó, 0,6% số DN phải chờ tới
năm thứ tư để có được mặt bằng SXKD. Cá biệt có 3 DN,
chiếm 0,3%, phải chờ tới 60 tháng để có được mặt bằng
SXKD. Tính trung bình, một DN phải chờ tới gần 6,7 tháng
để có được mặt bằng SXKD. Đi sâu vào từng loại giao dịch
để có được mặt bằng SXKD, DN phải mất trung bình 7,57
tháng để có thể thuê được đất từ Nhà nước. Để được Nhà
nước giao đất, DN phải mất trung bình 6,98 tháng. DN cũng

149
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

phải mất trung bình đến 7,17 tháng để hoàn tất chuyển quyền
sử dụng đất làm mặt bằng SXKD.
Có thể thấy, để có được mặt bằng SXKD thông qua
hình thức thuê đất, giao đất của nhà nước, chuyển quyền sử
dụng đất, DN đã phải mất rất nhiều thời gian. Hầu hết các
DN này đều cho rằng thời gian chờ được đất để hoạt động
SXKD là chậm và ảnh hưởng đến kết quả SXKD. Có DN xin
thuê đất tới 4 năm mới được cấp đất, và thị trường cho hoạt
động kinh doanh theo dự kiến đã thay đổi, không phù hợp với
DN mới gia nhập..
Thủ tục hành chính, quy hoạch đất chưa rõ ràng, chi phí
giao dịch phi chính thức là ba nguyên nhân hàng đầu khiến
DN chậm có được mặt bằng SXKD. Cụ thể, 41,36% số DN
cho rằng thủ tục hành chính “có ảnh hưởng”, hoặc “rất ảnh
hưởng” đến việc chậm có được mặt bằng SXKD; tỷ lệ này ở
nguyên nhân quy hoạch đất chưa rõ ràng và chi phí giao dịch
phi chính thức lần lượt là 41,51% và 32,23%.
Tiền thuê nhà đất cũng là một trong những nguyên
nhân ảnh hưởng lớn đến việc có mặt bằng SXKD. Các DN
thuê đất trên thị trường tư nhân thì giá nhà đất được xác lập
trên quan hệ cung cầu của thị trường. Khi quan hệ này biến
động có ảnh hưởng đến DN nhưng không lớn. Điểm đáng lưu
ý ở đây là giá thuê đất của nhà nước, DN cho là cao hơn giá
thị trường.
Kết quả nghiên cứu cho thấy một nguyên nhân ảnh
hưởng nhiều đến thời gian có mặt bằng SXKD là vấn đề đền
bù, giải phóng mặt bằng. Khâu này thường chiếm nhiều thời
gian nhất, thậm chí có DN có quyết định của UBND tỉnh cho
thuê, cấp đất nhưng tới 3 đến 4 năm mới giải phóng được mặt

150
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

bằng, mặt khác, chi phí đền bù do thoả thuận này có thể lên
tới 3 đến 4 lần chi phí đền bù chính thức.
Sự thoả thuận giữa DN với người dân có thể tiềm ẩn
những bất ổn, bất bình của người dân. DN đền bù hoặc hỗ trợ
cho người dân không theo quy định nào cả, hoàn toàn tự phát
theo sự thoả thuận. Do vậy, cùng 1 khu vực mà tiền đền bù từ
các nguồn người dân nhận được lại khác nhau. Có doanh
nghiệp đã bị người dân cản trở trong quá trình triển khai hoạt
động đầu tư, sản xuất do họ cho rằng doanh nghiệp này đã
đền bù không thoả đáng so với doanh nghiệp khác. Tình trạng
này nếu kéo dài có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến vai trò của
các cấp chính quyền cơ sở, giảm hiệu lực quản lý nhà nước.
Chính sách về mặt bằng SXKD cho DN nói chung còn
rất nhiều khó khăn, các chỉ tiêu đánh giá của DN về nội dung
này rất thấp, thể hiện trong hình vẽ dưới:

Hình 2.8: Nguyên nhân làm DN chậm có được mặt bằng SXKD

Tiền thuê nhà đất


6,00
Nguyên nhân khác 4,00 Thủ tục hành chính
2,00
Biến động cung, cầu nhà Điểm trung bình
Quy hoạch chưa rõ ràng 0,00
đất Điểm tối đa

Chính sách thuế đất của Chi phí giao dịch phi chính
Chính phủ chức
Chính sách nhà đất (trừ
thuế)

Nguồn: Kết quả khảo sát DN

151
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Từ số liệu điều tra và các phân tích trên, có thể thấy


một số lĩnh vực hành chính chủ yếu cần cải cách đối với các
cơ quan chức năng như: (i) Công khai quy hoạch đất đai chi
tiết và nâng cao tính cụ thể, sát thực của quy hoạch. Công
khai và đơn giản hoá thủ tục hành chính hơn nữa và tiến tới
áp dụng cơ chế một cửa; (ii) Các cấp chính quyền cơ sở cần
tích cực hỗ trợ DN trong vấn đề đền bù và giải phóng mặt
bằng, đây đang là một trong những vướng mắc nhất của các
DN; (iii) Nghiên cứu điều chỉnh giá thuê đất phù hợp với khả
năng của các DNTN. Giá thuê đất còn cao, đặc biệt ở các khu
CN, các DNTN khó tiếp cận.
c. Tiếp cận vốn
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng các DN thường gặp
hạn chế và khó khăn về vốn. Những DN trong những năm
đầu mới gia nhập thị trường thì vấn đề vốn lại càng căng
thẳng. Thực tế các DN mới phát triển trong những năm gần
đây, quy mô vốn nhỏ, tài sản sẵn có thấp, chưa đủ để thế
chấp vay các khoản tín dụng cần thiết và cũng chưa đủ uy
tín để huy động các khoản vay không cần thế chấp. Nguồn
vốn huy động từ các quan hệ cá nhân, người thân, bạn
bè,... thường không lớn, không đáp ứng được yêu cầu đầu
tư sản xuất của DN.
Thiếu vốn có thể dẫn DN đến vòng luẩn quẩn của sự
kém hiệu quả kinh tế. Thiếu vốn, đầu tư thấp, hiệu quả kinh
tế thấp lại hạn chế khả năng tiếp cận các nguồn vốn mà đặc
biệt là các nguồn vốn tín dụng. Do vậy, cải thiện khả năng
tiếp cận các nguồn vốn là hết sức quan trọng đối với khu vực
tư nhân hiện nay, trong đó về dài hạn thì nguồn vốn tín dụng
TM sẽ đóng vai trò quan trọng.

152
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

Kết quả nghiên cứu cho thấy khả năng tiếp cận vốn từ
các nguồn là tương đối hạn chế. Chỉ có khả năng tiếp cận vốn
từ nguồn họ hàng và bạn bè được đánh giá ở mức trên trung
bình, điểm trung bình 3,23. Kênh huy động vốn truyền thống
là từ các ngân hàng trong nước cũng rất hạn chế khi điểm số
trung bình chỉ đạt 2,41. Ở mức điểm số gần tương tự là thông
qua thị trường tự do, 2,43. Khả năng tiếp cận vốn từ các kênh
khác như nhà cung cấp, đối tác kinh doanh, phát hành chứng
khoán, … cũng rất hạn chế.

Bảng 2.13: Mức độ tiếp cận các nguồn vốn của DN tư nhân

T Nguồn vốn Tỷ lệ đánh giá điểm (%) Điểm


T (1 - Rất hạn chế; 5 - Rất dễ dàng) trung
bình
1 2 3 4 5
Ngân hàng
1 36,76 18,82 19,32 16,62 8,48 2,41
trong nước
Ngân hàng
2 87,83 9,04 1,93 0,72 0,48 1,17
nước ngoài
Tín dụng
3 82,37 7,83 4,03 1,96 3,81 1,37
ưu đãi
Các tổ chức
4 61,8 15,39 13,91 4,79 4,11 1,74
TD khác
Họ hàng và
5 16,94 10,56 24,35 28,37 19,78 3,23
bạn bè
Nhà cung
6 58,39 13,56 14,25 8,16 5,64 1,89
cấp đầu vào
DN đối tác
7 68,7 13,04 12,17 4,1 1,99 1,58
trong nước
8 DN đối tác 92,55 3,45 2,21 1,38 0,41 1,14

153
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

nước ngoài
Cổ phiếu,
9 88,61 4,12 4,12 1,23 1,92 1,24
trái phiếu
Vay tiền tự
10 40,66 11,91 20,33 17,38 9,72 2,44
do
Nguồn
11 63,26 4,55 8,33 6,44 17,42 2,10
khác

Nguồn: Kết quả khảo sát DN


Khả năng tiếp cận vốn từ nguồn tín dụng ưu đãi rất hạn
chế. Có tới 94,8% DN tư nhân chưa nhận được khoản ưu đãi
tín dụng nào. Trong số các DN nhận được ưu đãi tín dụng thì
khoản ưu đãi tín dụng đầu tư là phổ biến nhất. Khoản ưu đãi
tín dụng trong xuất khẩu rất ít DN tiếp cận được. Điều này
cũng một phần do số DN tư nhân tham gia hoạt động XNK
còn rất ít. Về tính hợp lý của điều kiện và lãi suất cho vay của
các hình thức ưu đãi tín dụng như hỗ trợ lãi suất sau đầu tư,
bảo lãnh tín dụng, 73,02% số DN đồng ý với nhận định là
“hợp lý”; tỷ lệ còn lại không đồng ý với nhận định vừa nêu
do một số nguyên nhân xoay quanh thủ tục và thời hạn cho
vay.
Nhìn chung khả năng tiếp cận vốn của các DN tư nhân
đối với các tổ chức tín dụng là rất hạn chế. Khả năng tiếp cận
vốn từ các ngân hàng trong nước là cao nhất, kế tiếp là từ các
nguồn quĩ tín dụng khác. Vay vốn từ các ngân hàng nước
ngoài còn chưa phổ biến và được đánh giá là khả năng tiếp
cận vốn thấp nhất. Nguyên nhân có thể là do các ngân hàng
này chưa chú trọng đến các đối tượng là các DNNVV.
Khi tiếp cận các nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng,
vẫn còn có tới 58,87% số DN trả lời là có gặp khó khăn.

154
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

Những nguyên nhân hàng đầu gây khó khăn cho DN đó là


thủ tục hành chính phức tạp, điều kiện cho vay quá chặt chẽ
đối với khu vực tư nhân, lãi suất cho vay cao, DN không có
đủ tài sản thế chấp để vay vốn, DN bị phân biệt đối xử với
DN nhà nước. Ngoài ra, những nguyên nhân khác như chi phí
không chính thức, năng lực xây dựng dự án,... cũng có những
ảnh hưởng nhất định đến quá trình vay vốn của DN. Một
điểm đáng lưu ý là chi phí vay vốn không chính thức quá lớn
đã gây nhiều khó khăn cho các DN. Trong cơ chế thị trường
thì DN là khách hàng thực sự của các tổ chức tín dụng. Chi
phí không chính thức cao có thể thể hiện 2 khía cạnh: (i)
nguồn vốn khan hiếm cho nhu cầu của DN; (ii) vẫn còn tồn
tại cơ chế xin, cho những khoản vay tín dụng ưu đãi.
Thủ tục hành chính phức tạp và sự phân biệt đối xử
giữa DN nhà nước với DN tư nhân vẫn là những rào cản cơ
bản đối với khu vực tư nhân khi tiếp cận các nguồn vốn tín
dụng. Nhiều DN cho rằng chính các tổ chức tín dụng đã tạo
ra những thủ tục hành chính phức tạp, không cần thiết làm
rào cản cho những DN tư nhân. Chẳng hạn, DN đã có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn phải có các giấy xác nhận
khác mà thực chất vẫn là sự xác nhận về tính hợp pháp, xác
thực của mảnh đất được đem làm tài sản thế chấp. Trong quá
trình thẩm định các dự án đầu tư, năng lực và trình độ của
cán bộ cũng chưa đáp ứng được yêu cầu nên các ngân hàng
thường chỉ lựa chọn hình thức thế chấp tài sản mà đặc biệt là
đất đai nhằm đảm bảo an toàn nguồn vốn chứ chưa đạt được
ý nghĩa ngân hàng là một nhà đầu tư.
Phân biệt đối xử giữa các DN nhà nước với các DN tư
nhân cũng làm hạn chế khả năng tiếp cận nguồn vốn của các

155
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

DN, đặc biệt là trong hệ thống các ngân hàng TM. Các ngân
hàng có thể đã đánh giá mức độ an toàn cao hơn khi cho DNNN
vay vốn. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ thẩm định các dự án tín
dụng cũng thường có sự thiên lệch về hai loại hình DN này.

Bảng 2.14: Những khó khăn DN gặp phải khi vay tiền từ các tổ chức
tín dụng

S Tỷ lệ đánh giá điểm (%)


Điểm
ố (1 - Ít khó khăn; 5 - Rất khó khăn)
Nguyên nhân trung
T
1 2 3 4 5 bình
T
Thủ tục hành
1 8,96 9,98 15,58 26,88 38,59 3,76
chính phức tạp
Phân biệt đối xử
2 giữa DNNN và 11,67 7,82 17,74 25,44 37,34 3,69
DN ngoài NN
Điều kiện cho vay
của ngân hàng quá
3 9,24 7,26 9,94 29,42 44,14 3,92
chặt chẽ đối với
khu vực tư nhân
Lãi suất cho vay
4 của ngân hàng quá 10,25 11,32 24,91 30,15 23,36 3,45
cao
Chi phí vay vốn
5 không chính thức 20,63 16,67 24,59 25,74 12,38 2,92
quá lớn
Hệ thống sổ sách
6 kế toán của DN 25,58 19,14 24,51 21,47 9,30 2,70
không đầy đủ

156
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

Thiếu năng lực


xây dựng dự án,
7 22,66 19,25 24,36 18,23 15,5 2,85
phương án trả nợ
vốn vay
DN không đủ tài
8 sản thế chấp để 17,58 15,25 14,56 17,03 35,58 3,38
vay vốn
9 Nguyên nhân khác 25,0 20,83 19,44 9,72 25,00 2,89

Nguồn: Kết quả khảo sát DN


Như đã đề cập, các DN khi mới gia nhập thị trường
thường gặp phải vấn đề thiếu vốn. Đồng thời lượng tài sản
của các DN này không lớn. Hình thức vay vốn theo tín chấp
ít được áp dụng; hình thức vay vốn bằng thế chấp đất đai, tài
sản là chủ yếu đối với những DN này. Với nguồn tài sản và
đất đai hạn chế thì khó khăn trong tiếp cận vốn vay là điều
dễ hiểu.
Trong những hình thức vay vốn kinh doanh từ ngân
hàng được đề cập, có 90,53% số DN sử dụng hình thức thế
chấp để vay vốn, 10,87% số DN sử dụng hình thức tín chấp,
5,77% số DN sử dụng hình thức bảo lãnh; số còn lại là các
DN sử dụng các hình thức vay vốn khác. Thế chấp nhà cửa
đất đai là hình thức phổ biến nhất để các DN vay vốn ngân
hàng, 98,6%, tiếp theo sau là hình thức thế chấp máy móc
thiết bị, chứng khoán với tỷ lệ lần lượt là 15,79% và 0, 79%.
Liên quan đến hình thức bảo lãnh tín dụng, 9,29% số
DN trả lời là đã từng được bảo lãnh, so với tỷ lệ 90,71% số
DN trả lời là chưa bao giờ được một cá nhân, hay tổ chức nào
đứng ra bảo lãnh tín dụng.

157
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Về mức cho vay, nhiều DN cho rằng hạn mức cho


vay của các ngân hàng chưa đáp ứng được nhu cầu vay
vốn. Bên cạnh đó, thời gian cho vay vốn chủ yếu là vay
ngắn hạn và trung hạn. Các dự án đầu tư dài hạn thường
kèm theo tính rủi ro cao cho các ngân hàng nên hình thức
này ít được chú trọng.
2.2. Tác động của chính sách phát triển thị trường
và mặt hàng
a. Tiếp cận thông tin và dịch vụ kinh doanh
Mức độ tiếp cận thông tin là một trong những yếu tố rất
quan trọng thể hiện môi trường kinh doanh. DN muốn tuân
thủ pháp luật thì phải tiếp cận được những quy định pháp luật
và chính quyền phải có trách nhiệm thông tin cho DN về
những quy định pháp lý này. Mặt khác, sự minh bạch thông
tin sẽ làm giảm các chi phí giao dịch, tạo môi trường kinh
doanh bình đẳng giữa các DN. Thực tế cho thấy, hiện nay vẫn
còn tồn tại những DN hoạt động thông qua việc môi giới,
cung cấp những thông tin thuộc chính sách nhà nước mà lẽ ra
những thông tin này thì các DN đều phải được tiếp cận. Bên
cạnh đó cũng nhiều DN hoạt động dựa trên lợi thế của những
thông tin này.
Đối với việc tiếp cận thông tin về các văn bản luật, thủ
tục hành chính có liên quan, kết quả khảo sát cho thấy vẫn
còn nhiều DN khó khăn cho việc tiếp cận những thông tin
này bằng hình thức trực tiếp đối với các cơ quan chức năng.
Rất nhiều DN phải tiếp cận bằng cách tự tìm kiếm thông qua
các nguồn thông tin khác.

158
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

Bảng 2.15: Mức độ tiếp cận thông tin về các văn bản luật, thủ tục
hành chính

Tỷ lệ đánh giá điểm (%)


Điểm
Số Tiêu chí tiếp cận
(1 - Không thể; 5 - Rất dễ dàng) trung
TT thông tin
bình
1 2 3 4 5
Đăng ký kinh
1 1,20 3,61 9,64 45,78 39,75 4,19
doanh
Đất đai và mặt
2 6,49 16,88 24,68 25,97 25,97 3,48
bằng KD
Xây dựng, quản
3 7,81 18,75 21,88 18,75 32,82 3,50
lý xây dựng
4 XNK 7,02 8,77 24,56 22,81 36,84 3,74
Thuế, phí và lệ
5 2,63 14,47 34,21 32,89 15,79 3,45
phí
Điều kiện sử
6 2,50 10,00 22,50 36,25 28,75 3,79
dụng lao động
7 Sở hữu trí tuệ 3,64 14,55 16,36 12,73 52,72 3,96
Quản lý thị trường,
8 cạnh tranh, quảng 2,90 10,14 20,29 17,39 49,28 4,00
cáo
Tài nguyên môi
9 4,69 9,38 18,75 28,13 39,06 3,88
trường
Vệ sinh, an toàn
10 3,77 1,89 20,75 16,98 56,60 4,21
thực phẩm
An toàn phòng
11 4,23 5,63 23,94 21,13 45,07 3,97
cháy chữa cháy
Nguồn: Kết quả khảo sát DN

159
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Các lĩnh vực đất đai; xây dựng và quản lý xây dựng;
XNK; thuế và lệ phí; điều kiện lao động, sử dụng lao động;
Sở hữu trí tuệ là những lĩnh vực mà còn nhiều DN cảm thấy
khó tiếp cận các văn bản, thủ tục hành chính thông qua cách
tiếp cận trực tiếp với các cơ quan chức năng. Điều này có thể
do cơ chế và các kênh cung cấp thông tin từ những cơ quan
chức năng có liên quan chưa tốt.
Đối với lĩnh vực về đăng ký kinh doanh, nhìn chung
các DN đều cho rằng việc tiếp cận thông tin về văn bản pháp
luật, thủ tục hành chính theo cách tiếp cận trực tiếp với cơ
quan chức năng là dễ dàng và rất dễ dàng. Sự tiếp cận dễ
dàng các thông tin về pháp luật tạo điều kiện cho các DN
giảm chi phí thu thập thông tin cũng như tuân thủ pháp luật.
Đối với các thông tin về kế hoạch, quy hoạch và chính
sách thì sự tiếp cận các thông tin này bằng cách tiếp cận trực
tiếp với cơ quan chức năng là tương đối khó. Tuy vậy, có tỉ lệ
khá lớn các DN cho rằng những thông tin này vẫn có thể tiếp
cận được mặc dù không dễ dàng. Nhiều DN đã lựa chọn hình
thức tiếp cận thông tin bằng cách tự tìm kiếm bằng nhiều
nguồn khác.

Bảng 2.16: Mức độ tiếp cận thông tin về kế hoạch, chính sách

Tỷ lệ đánh giá điểm (%)


Điểm
Số Tiêu chí tiếp cận
(1 - Không thể; 5 - Rất dễ dàng) trung
TT thông tin
bình
1 2 3 4 5
Kế hoạch sử dụng
1 18,18 23,38 11,69 6,49 40,26 3,27
ngân sách
Chiến lược phát
2 triển kinh tế-xã 12,99 19,48 18,18 7,79 41,56 3,45
hội

160
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

Kế hoạch phát
3 triển kinh tế-xã 14,29 15,58 23,38 7,79 38,96 3,42
hội 5 năm
Kế hoạch phát
4 triển kinh tế-xã 10,53 14,47 21,05 10,53 43,42 3,62
hội hàng năm
Kế hoạch phát
5 5,06 15,19 25,32 13,92 40,51 3,70
triển KTTN
Các quyết định,
6 chỉ thị của UBND 6,25 12,5 26,25 13,75 41,25 3,71
Tỉnh
Kế hoạch phát triển
7 8,97 14,1 26,92 7,69 42,30 3,60
cơ sở hạ tầng
Quy hoạch, kế
8 11,54 17,95 17,95 7,69 44,87 3,56
hoạch sử dụng đất
Quy định, chính
9 8,86 11,39 20,25 16,46 43,04 3,73
sách ưu đãi đầu tư
Những thay đổi
liên quan đến lệ
10 6,49 14,29 28,57 14,29 36,37 3,60
phí, chính sách
thuế

Nguồn: Kết quả phỏng vấn sâu các DN

Trong thực tiễn hoạt động SXKD, các thông tin về


pháp luật, thủ tục hành chính và những chiến lược, kế hoạch,
chính sách kinh tế vĩ mô có vai trò hết sức quan trọng. DN
không biết hoạt động có vi phạm pháp luật hay không; khi
thực hiện việc tuân thủ pháp luật không rõ là những thủ tục

161
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

hành chính như thế nào. Điều này có thể tạo sự rủi ro pháp lý
và làm tăng chi phí giao dịch trong kinh doanh.
Việc xây dựng kế hoạch, chiến lược kinh doanh nếu
không phù hợp với định hướng, kế hoạch và chính sách vĩ mô
của nhà nước, địa phương có thể dẫn đến sai lầm cho DN.
Chiến lược kinh doanh, đầu tư của DN đòi hỏi phải có sự ổn
định trong một thời gian tương đối dài (thường là 3 năm) nên
định hướng, kế hoạch và chính sách vĩ mô của nhà nước, địa
phương là căn cứ hết sức quan trọng, đặc biệt khả năng dự
đoán trước sự thay đổi của những yếu tố này. Khi việc tiếp
cận các thông tin này khó khăn thông qua các cơ quan chức
năng thì các DN phải sử dụng các hình thức khác. Những
hình thức này có thể đem lại sự rủi ro về tính chính xác, và
thậm chí là những thông tin nhiễu. Sự rủi ro trong kinh doanh
do không dự đoán trước những thay đổi về chính sách hoặc
thiếu thông tin đối với các chính sách của nhà nước, địa
phương có thể dẫn đến DN không dám đầu tư dài hạn.
Kết quả khảo sát cho thấy các DN đánh giá rất cao về
vai trò của mối quan hệ cá nhân giữa DN đối với các công
chức nhà nước trong việc tiếp cận thông tin. Chỉ có khoảng
20% cho rằng mối quan hệ cá nhân là không cần thiết. Phải
chăng nếu DN nào không có mối quan hệ cá nhân thì họ sẽ bị
thiệt thòi khi tiếp cận các thông tin này mà đáng lẽ ra họ cần
phải được cung cấp hoặc tiếp cận dễ dàng, bình đẳng như các
DN khác.

162
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

Bảng 2.17: Vai trò của quan hệ cá nhân với các công chức để tiếp cận
thông tin về chính sách, thủ tục

Tỷ lệ đánh giá điểm (%)


Quan hệ cá Điểm
nhân với các (1 - Không cần thiết; 5 - Rất quan trọng) bình
công chức quân
1 2 3 4 5

Tỷ lệ DN lựa
23,75 23,75 21,25 11,25 20,00 100,00
chọn

Nguồn: kết quả phỏng vấn sâu các DN


Có thể thấy sự tiếp cận thông tin của DN về pháp luật,
chính sách vẫn còn nhiều hạn chế. Điều này do một số
nguyên nhân chủ yếu sau: Chưa có cơ chế và hình thức cung
cấp, công bố thông tin hiệu quả, minh bạch; Các văn bản
pháp luật, chính sách của nhà nước quá nhiều, phức tạp và
hay thay đổi. Nhiều khi chính các công chức nhà nước cũng
không nắm rõ hết sự thay đổi; Hành xử của cán bộ trong các
cơ quan này chưa tốt, chưa đứng trên quan điểm phục vụ DN
nên khi DN cần thông tin thì không cung cấp. Điều này cũng
không loại trừ hình thức bưng bít thông tin để nhằm mục đích
cá nhân.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy nhu cầu về cung cấp
thông tin của DN là rất lớn cả về các thông tin pháp luật,
chính sách nhà nước cũng như các thông tin phục vụ DN
trong quá trình hoạt động SXKD.

163
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Bảng 2.18: Nhu cầu cung cấp thông tin

Nhu cầu Nhu cầu thành lập


Về DN Về pháp luật
cung cấp mạng thông tin DN
thông tin Có Không Tổng Có Không Tổng Có Không Tổng

Tỷ lệ nhu
93,03 6,97 100,00 91,29 8,71 100,00 93,72 6,28 100,00
cầu DN (%)

Nguồn: Kết quả khảo sát DN


Có tới 94% DN trả lời có nhu cầu thành lập mạng
thông tin DN. Thông tin qua mạng sẽ giúp cho DN có được
thông tin nhanh nhất và giảm các chi phí về thời gian đi lại.
Việc áp dụng hình thức thông tin này có thể khắc phục được
những vấn đề tồn tại về tiếp cận thông tin hiện nay. Tuy vậy,
qua khảo sát các DN tư nhân lại cho thấy có tới 32% DN
chưa có máy vi tính và cũng chỉ có 31,5% có máy tính và kết
nối internet. Trong số những người trả lời phỏng vấn thì chỉ
có 25,75% là có thường xuyên lên mạng để tìm kiếm thông
tin. Yếu và thiếu ứng dụng công nghệ thông tin của các DN
không chỉ hạn chế khả năng tiếp cận thông tin như đã nêu
trên mà còn hạn chế tăng năng suất lao động do công nghệ
thông tin đem lại.
Việc chia sẻ thông tin thị trường và hỗ trợ sản xuất giữa
các DN khác chủ sở hữu với nhau rất hạn chế. Các nhà đầu tư
ĐTNN trên thực tế ít quan tâm đến phát triển các DN hỗ trợ
nội địa. Ngược lại các DN nội địa vì nhiều lý do khác nhau,
trong điều kiện SXKD của mình, khó tiếp cận với các DN
ĐTNN. Vai trò dẫn dắt của các Hiệp hội nghề nghiệp trong
vấn đề này chưa thực sự nổi rõ.

164
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

Bảng khảo sát cũng hỏi ý kiến đánh giá của các DN về
nguồn cung cấp trong nước để tìm ra những hạn chế, khó
khăn dẫn đến việc DN không sử dụng nguồn cung cấp trong
nước. Nhìn chung nguồn cung cấp đầu vào được các DN
đánh giá ở mức trên trung bình (lớn hơn 3 trên thang điểm 5).
Việc đánh giá được thực hiện trên 4 tiêu chí về số lượng, chất
lượng, thời gian giao hàng và công nghệ. Kết quả cho thấy
không có sự khác biệt lớn giữa các tiêu chí. Tiêu chí được
đánh giá thấp nhất là công nghệ (3,11) và được đánh giá cao
nhất là số lượng (3,45) cũng không chênh lệch nhiều. Tuy
nhiên, mức độ đánh giá khá chênh lệch giữa các DN, thể hiện
qua lệch chuẩn cao, đặc biệt là đối với thời gian giao hàng.
Như vậy, có thể thấy trình độ của các DN Việt Nam chênh
lệch nhiều. Nếu các nhà cung cấp nỗ lực đổi mới và đầu tư thì
hoàn toàn có thể đáp ứng được yêu cầu khách hàng.

Bảng 2.19: Đánh giá của DN về nguồn cung cấp trong nước

Loại doanh nghiệp Khả Khả Khả Trình Khác


năng năng năng độ
đáp đáp đáp công
ứng ứng ứng nghệ
về số về thời
lượng chất gian
lượng giao
SP hàng
GT trung bình 3.47 3,32 3,34 3,14 3,30
DN trong
Số lượng 637 643 628 583 44
nước
Độ lệch chuẩn 1.102 1,091 1,156 0,970 0,823

165
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

GT trung bình 3.37 3,00 3,06 2,97 3,00


DN
Số lượng 160 163 160 145 15
ĐTNN
Độ lệch chuẩn 0.973 1,042 1,083 0,967 0,000
GT trung bình 3,45 3,25 3,28 3,11 3,23
Chung Số lượng 797 806 788 728 59
Độ lệch chuẩn 1,076 1,086 1,144 0,969 0,725

Nguồn: Kết quả khảo sát


b. Xúc tiến thương mại
Hoạt động xúc tiến TM là một trong những hạn chế đối
với các DN CNHT. Những khó khăn như không có điều kiện
trưng bày, giới thiệu và quảng cáo SP; thiếu cán bộ có năng
lực và tính chuyên nghiệp. Phần lớn các DN cũng chưa xây
dựng được thương hiệu. Kết quả khảo sát cho thấy có tới
60% DN thực hiện hoạt động xúc tiến TM chưa tốt. Đồng
thời đây cũng là nguyên nhân mà có tới 84% DN có nhu cầu
cần đẩy mạnh hoạt động xúc tiến TM.
Đối với việc thực thi các quy định về khuyến mại, hầu
hết các DN cho rằng các văn bản pháp luật của nhà nước là rõ
ràng, đầy đủ. Việc tiếp cận thông tin các văn bản này dễ dàng
và thân thiện từ cơ quan chức năng. Cán bộ thực thi công vụ
là chấp nhận được về trình độ, thái độ làm việc. Đây cũng là
lĩnh vực mà các DN khi thực hiện các thủ tục cần thiết không
mất các khoản chi phí không chính thức. Thời gian thực hiện
các thủ tục tương đối nhanh.
Đối với các hoạt động quảng cáo TM thông qua các
hình thức quảng cáo thông thường như pano, apphíc, băng
rôn,... cũng có được sự đánh giá tích cực từ các DN. Thời

166
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

gian thực hiện các thủ tục xin cấp phép quảng cáo đều được
các DN đánh giá là hợp lý và tốn ít thời gian. Chi phí không
chính thức cho việc thực hiện các thủ tục này không đáng kể
và chấp nhận được. Cán bộ thực thi công vụ được DN đánh
giá là chấp nhận được về trình độ, thái độ làm việc. Tuy
nhiên, việc tiếp cận thông tin trực tiếp về văn bản pháp luật
của nhà nước trong lĩnh vực quảng cáo còn có một số DN cho
là chưa thực sự dễ dàng và thân thiện.
Tổ chức hội chợ, triển lãm TM do các DN đầu mối
đứng ra thực hiện, tuy nhiên tính chuyên nghiệp và chất
lượng chưa cao. Sự hỗ trợ của chính quyền đối với việc tổ
chức các hoạt động xúc tiến TM ở nước ngoài còn rất hạn
chế. Tự bản thân DN thì chưa đủ khả năng thực hiện các hoạt
động này. Các kiến nghị của DN trong lĩnh vực xúc tiến TM
chủ yếu liên quan đến sự hỗ trợ của nhà nước đối với hoạt
động này hướng tới thị trường xuất khẩu. Các DN tư nhân
quy mô nhỏ, không có khả năng thực hiện các hoạt động xúc
tiến TM tại nước ngoài.
2.3. Tác động của chính sách xuất nhập khẩu và các
công cụ của chính sách xuất nhập khẩu
a. Thủ tục xuất nhập khẩu
Cùng với sự mở cửa nền kinh tế, các chính sách của
nhà nước trong hoạt động XNK đã có nhiều đổi mới, tạo sự
thông thoáng cho các DN. Đã có thời kỳ hoạt động XNK là
sân chơi, đặc quyền riêng của một số DN nhà nước thì đến
nay DN tư nhân đã được tham gia hoạt động XNK trực tiếp.
Các thủ tục hải quan được giảm bớt và cải tiến nhiều trong
các khâu thực hiện thủ tục hành chính. Những cải cách này
đã góp phần làm giảm đáng kể gánh nặng hành chính đối với

167
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

DN và khuyến khích nhiều DN tư nhân có khả năng tham gia


vào hoạt động này.
Kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn các DN cho rằng
cải cách trong các thủ tục XNK đã làm giảm thời gian thực
hiện các thủ tục hành chính và thời gian thực hiện thủ tục liên
quan đến XNK là hợp lý.

Bảng 2.20: Tỉ lệ DN đánh giá về thủ tục đăng ký mã số thuế xuất


khẩu và các thủ tục liên quan đến XNK

Tỷ lệ đánh giá điểm (%)


Điểm
Số (1 - Không tốt; 5 - Rất tốt)
Hải quan trung
TT
bình
1 2 3 4 5
Thủ tục đăng ký
1 9,04 9,04 15,06 43,98 22,89 3,63
mã số xuất khẩu
Thủ tục liên
2 13,75 11,25 16,25 37,5 21,25 3,41
quan đến XNK

Nguồn: Kết quả khảo sát DN


Tuy vậy, thời gian làm thủ tục hải quan vẫn còn có tới
gần 40% DN cho là chưa hợp lý, tốn nhiều thời gian. Tốn
nhiều thời gian làm thủ tục XNK một phần cũng do các DN
tư nhân có quy mô nhỏ, XNK không thường xuyên nên chưa
có đội ngũ chuyên trách để thực hiện các thủ tục.
Bên cạnh những cải cách thủ tục hải quan làm giảm
thời gian thực hiện các thủ tục cho DN thì nhiều DN cũng
cho rằng những cải cách này cũng góp phần đáng kể trong
việc giảm sự phiền hà và điều kiện phát sinh tiêu cực đối với
cán bộ hải quan. Nhiều phản ảnh của DN đã được ngành tiếp
thu và điều chỉnh, chẳng hạn một số quy định xử phạt DN

168
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

trong việc phân luồng tự động không hợp lý như chậm nộp
thuế đã được sửa đổi.
Chi phí không chính thức trong việc thực hiện các thủ
tục hải quan trước đây đã từng là vấn đề nổi cộm đối với
ngành hải quan thì đến nay đã được cải thiện đáng kể. Tuy
vậy, vẫn còn tới 1/3 DN cho rằng khoản chi phí này quá
nhiều, còn là gánh nặng đối với DN. Chi phí không chính
thức cho việc xin các giấy phép XNK có khả quan hơn khi
chỉ có 10% DN cho là còn mất nhiều.
Đối với hàng nhập khẩu, từ ngày 1/10/2004 hải quan đã
áp dụng giá tính thuế nhập khẩu theo hợp đồng, hoá đơn mua
hàng. bảng giá tối thiểu chỉ có tính chất tham khảo. Thực tế
cho thấy, việc áp giá trị tính thuế nhiều khi không theo quy
định này mà do hải quan áp đặt. Những mặt hàng có tính chất
nhạy cảm, khó xác định giá trị hay xảy ra tình trạng này. Bên
cạnh đó, việc áp mã tính thuế nhập khẩu cũng là vấn đề mà
nhiều DN cho là có sự tuỳ tiện của cán bộ hải quan.
Đối với hàng hoá xuất khẩu, các thủ tục hải quan là
tương đối thuận lợi và các DN không gặp nhiều vướng mắc.
Đây cũng là chủ trương chung của nhà nước về khuyến khích
xuất khẩu. Xin chứng nhận xuất xứ hàng hoá (C/O) trước đây
cũng mất khá nhiều thời gian, phức tạp. Đến nay, việc cấp
giấy chứng nhận này đã được cải thiện, tạo điều kiện thuận
lợi cho các DN.
Nguyên nhân cơ bản dẫn đến những tồn tại trong lĩnh
vực hải quan lại được các DN cho rằng đó là do hạn chế của
cán bộ thực thi công vụ. Các quy định pháp luật, thủ tục hành
chính cũng như việc tiếp cận các thông tin này cũng còn hạn
chế nhưng không nhiều. Có tới trên 35% DN đánh giá trình

169
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

độ cán bộ chưa chuyên nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu
đổi mới. Mức độ tuân thủ pháp luật và tinh thần trách nhiệm,
thái độ làm việc của cán bộ còn chưa cao, vẫn còn tình trạng
bồi dưỡng cho cán bộ khi làm các thủ tục hải quan.
Trong thời gian tới, các DN đề xuất một số kiến nghị
chủ yếu liên quan đến hoạt động XNK:
- Về thông tin cung cấp: Các DN CNHT do hạn chế về
năng lực tài chính và do hoạt động XNK của các DN CNHT
chưa thường xuyên, thường không có cán bộ chuyên trách
làm các thủ tục XNK mà chủ yếu vẫn là kiêm nhiệm, nên
không nắm vững được các quy định và thủ tục hành chính.
Một phần nữa là do cán bộ của các DN CNHT chủ yếu làm
việc theo kinh nghiệm và ít tiếp xúc với các văn bản quy định
pháp luật. Vì vậy, các DN CNHT rất cần được thông tin về
các văn bản pháp luật đang áp dụng và mới ban hành như luật
hải quan, quy định về lệ phí hải quan, luật thuế XNK, biểu
thuế XNK, luật TM về sản xuất, buôn bán, gia công hàng hoá
với nước ngoài, các nghị định và thông tư hướng dẫn, các
quy định và thủ tục xin cấp phép trong lĩnh vực XNK, thủ tục
miễn, giảm hoàn thuế liên quan đến XNK.
- Về cách thức cung cấp thông tin: Các thông tin cần
được cập nhật thường xuyên và đưa công khai lên trang Web
theo cách thức dễ hiểu và dễ tra cứu cho đối tượng là các DN
CNHT. Ngoài ra tại nơi làm các thủ tục này cần có các biểu
mẫu sẵn cùng những hướng dẫn cụ thể để cho các DN dễ hiểu
và thực hiện theo yêu cầu.
- Về đơn giản hoá thủ tục hành chính và tính chịu trách
nhiệm cần phải: Rút ngắn thời gian xin các giấy phép, làm
thủ tục hải quan và các hoạt động thanh kiểm tra trong lĩnh

170
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

vực XNK; Quy định rõ về thanh tra, kiểm tra, kiểm hoá, kiểm
soát hàng hoá XNK, xác nhận khối lượng hàng hoá thực xuất
công khai để DN biết; Minh bạch thủ tục hoàn thuế; Thông
báo trực tiếp đến DN những thay đổi trong luật và các quy
định liên quan trong lĩnh vực XNK để DN biết và thực hiện
đúng và đồng thời cũng hạn chế được các chi phí không
chính thức do thiếu thông tin và thiếu hiểu biết về thủ tục.
b. Công cụ thuế
Nhà nước đã bổ sung nhiều chính sách và đẩy mạnh cải
cách hành chính trong lĩnh vực thuế. Nhìn chung các chính
sách này đã phát huy tác dụng tích cực trên nhiều mặt như
thúc đẩy hạch toán kinh doanh trong các DN, thực hiện tốt
việc sử dụng hoá đơn chứng từ, khuyến khích xuất khẩu, đẩy
mạnh đầu tư và góp phần thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh. Kết
quả nghiên cứu cũng đã khẳng định được tính tích cực của
các chính sách này.
Gánh nặng hành chính trong việc lập các báo cáo thuế
thu nhập DN, thuế VAT, miễn giảm thuế và các báo cáo phục
vụ công tác thanh kiểm tra thuế đã giảm đi nhiều. Hầu hết các
DN cho rằng chi phí về mặt thời gian lập các báo cáo thuế thu
nhập DN, thuế VAT, thanh kiểm tra thuế là hợp lý và tốn ít
thời gian. Đặc biệt, chi phí thời gian lập báo cáo thuế thu
nhập DN có tới gần 90% DN cho là hợp lý, còn thuế VAT
cũng được đánh giá khá cao với 85% DN cho là hợp lý.
Đánh giá về các văn bản pháp luật và một số hoạt động
của các cơ quan chức năng trong quản lý thuế cho thấy, các
mẫu biểu sử dụng trong báo cáo các loại thuế là tương đối rõ
ràng và dễ hiểu. Tuy vậy, các văn bản, quy định pháp luật về
thuế còn chưa rõ ràng và đầy đủ. Bên cạnh đó, sự thay đổi

171
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

các chính sách thuế của nhà nước chưa được thông tin kịp
thời đến DN làm cho việc tuân thủ những quy định này chưa
tốt. Nhiều khi chính sự thiếu thông tin về chính sách đã làm
DN hiểu là cán bộ thuế hành xử tuỳ tiện hoặc áp đặt họ.
Đánh giá về cán bộ thực thi công vụ, nhiều DN cho
rằng trình độ chuyên môn; tinh thần trách nhiệm, thái độ làm
việc; và mức độ tuân thủ pháp luật thực thi công vụ của cán
bộ chưa cao. Các DN cho rằng cán bộ tại cấp chi cục có trình
độ, thái độ làm việc không cao như đối với các cán bộ của
Cục. Những DN thuộc Cục thuế quản lý đều có đánh giá cao
về năng lực và thái độ làm việc của cán bộ.
Đánh giá về các mức thuế suất, đa phần các DN cho
rằng mức thuế thu nhập DN hiện nay là cao (65,6% DN). Với
mức thuế suất này, các DN thường phải tìm nhiều cách để
giảm phần thu nhập chịu thuế. Hiện tượng mua hoá đơn, khai
tăng chi phí là rất phổ biến trong các DN. Thuế tài nguyên,
thuế tiêu thụ đặc biệt cũng có tới hơn 30% DN cho là các suất
thuế này còn cao.
Về chi phí không chính thức, một số DN cho rằng vẫn
phải chi phí các khoản chi phí không chính thức khi thực hiện
các nghĩa vụ thuế. Tuy vậy, các chi phí không chính thức
không lớn và phần lớn DN cho là hợp lý hoặc mất ít. Cũng
cần lưu ý là khoản chi phí không chính thức này bao gồm cả
những chi phí mà DN bỏ ra để hợp lý hoá các chứng từ.
Về các vướng mắc, khó khăn trong lĩnh vực thuế, hầu
hết DN đều cho rằng họ gặp nhiều khó khăn khi thực hiện các
nghĩa vụ về thuế thu nhập DN, thuế VAT.
- Thuế VAT: Nhiều DN than phiền về việc hoàn thuế
quá chậm, làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của DN.

172
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

Có trường hợp DN tới 1 năm mới được hoàn thuế với số tiền
hàng trăm triệu đồng. DN nộp chậm thì bị phạt theo theo mức
lãi suất 0,1%/ngày chậm nộp trên số tiền thuế chậm nộp.
Trong khi đó lại chưa có quy định đối với trường hợp chậm
trễ trong hoàn thuế của cơ quan hay cán bộ thuế.
Luật thuế VAT hiện nay được quy định theo 2 phương
pháp: khấu trừ và trực tiếp. DN mua hàng của đơn vị khác
theo phương pháp trực tiếp thì không được khấu trừ thuế đầu
vào. Do vậy, tạo sự bất hợp lý vì đơn vị cung cấp theo
phương pháp trực tiếp đã nộp thuế thì DN mua hàng phải
được khấu trừ phần thuế này.
- Thuế thu nhập DN: Hầu hết các DN cho rằng việc tạm
tính thuế thu nhập đầu năm còn bất cập. Thông thường DN bị
áp đặt mức thuế thu nhập và năm sau cao hơn năm trước.
Trên cơ sở mức thuế kế hoạch, hàng quý DN phải tạm nộp
phần thuế thu nhập này. Theo quy định, thuế thu nhập DN
được tính theo kết quả hoạt động kinh doanh thực tế của DN
trong năm. Nếu việc tính thuế thu nhập DN đã nộp thấp hơn
số phải nộp sau khi quyết toán thuế thì DN phải nộp bổ sung
là hợp lý. Nếu DN thua lỗ hoặc kết quả kinh doanh không đạt
mức phải nộp thuế theo kế hoạch thì phần thuế này được kết
chuyển sang năm sau. Thực chất, đây là khoản tiền DN nộp
thuế trước và rõ ràng ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn.
Mặt khác, đã là kế hoạch thì phải căn cứ vào kế hoạch kinh
doanh của DN chứ không thể áp đặt mức thuế theo chủ quan
của cơ quan thuế.
Để cải thiện tốt hơn trong lĩnh vực quản lý thuế, các
DN đã đưa ra một số kiến nghị chủ yếu: Mức thuế thu nhập
DN tạm tính nên căn cứ theo đề xuất kế hoạch kinh doanh

173
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

của DN. Các DN mới thành lập thì việc dự đoán về kết quả
hoạt động kinh doanh là rất khó khăn; Cần có các hình thức
thông tin chính sách đến DN, đặc biệt là các chính sách mới
ban hành; Nâng cao năng lực và cải thiện thái độ làm việc
của cán bộ thuế, nhất là cán bộ cấp cơ sở.
2.4. Tác động của từng nhóm chính sách thương mại
đến từng ngành công nghiệp hỗ trợ
Nếu phân tích theo loại hình sở hữu của DN, có thể
nhận thấy một số khác biệt nhỏ trong đánh giá của DN. Nhìn
chung, DN ĐTNN và DN Nhà nước đánh giá cao hơn về tác
động của các chính sách Nhà nước. Trong khi đó, khu vực tư
nhân, đáng lẽ cần nhận được sự hỗ trợ cao nhất của Nhà nước
thì lại đánh giá tác động này ở mức thấp nhất. Đi sâu vào
từng chính sách, có thể nhận thấy sự khác biệt chủ yếu ở
chính sách hỗ trợ tài chính và thu hút vốn. Điều này có thể
giải thích do các DN ĐTNN có lợi thế về vốn, các DN Nhà
nước dễ tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng trong khi các DN
tư nhân thường không có khả năng vay vốn do không có tài
sản thế chấp.
Phân tích theo từng ngành CNHT thì ngành cơ khí
và dệt may được đánh giá cao nhất, thấp nhất là ô tô.
Tuy nhiên, mức chênh lệch giữa các ngành này không
lớn. Điều này khá tương đồng với đánh giá về cơ hội và
tiềm năng phát triển CNHT tại Việt Nam. Theo đó,
ngành dệt may cũng được đánh giá cao nhất về cả cơ hội
và tiềm năng phát triển, trong khi ngành ô tô vẫn bị đánh
giá thấp nhất.

174
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

Hình 2.9: Tác động của từng nhóm CSTM đến từng ngành CNHT
3
2.5
2
1.5
1
0.5
0
Đánh giá chung CS thương nhân CS TT & MH CS XNK

CN ô tô CN dệt may CN da giày CN cơ khí CN điện tử

Nguồn: Kết quả khảo sát DN


Kết quả điều tra cho thấy, các DN được phỏng vấn
đánh giá mức độ tác động của các chính sách tới việc thúc
đẩy phát triển CNHT ở ta còn khiêm tốn, phần lớn các mảng
chính sách đều xếp ở mức trung bình. Điều này có thể giải
thích được khi nhìn lại danh mục các chính sách đã ban hành,
chúng ta thấy hiện nay chỉ có quy hoạch tổng thể phát triển
CNHT nói chung, chưa được cụ thể.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG THỰC TRẠNG CHÍNH
SÁCH THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở VIỆT NAM
1. Thành tựu
1.1. Những thành tựu của chính sách thương mại
trong việc phát triển công nghiệp hỗ trợ
Một là, CSTM đã có tác dụng xóa bỏ cơ chế bao cấp về
cơ bản, chuyển sang cơ chế thị trường: Sự đổi mới chính sách

175
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

thương nhân, chính sách mặt hàng và cơ chế, chính sách khác
có liên quan đã từng bước tạo dựng môi trường kinh doanh
thông thoáng và thuận lợi; hàng hóa được tự do mua bán;
thương nhân được tự do hoạt động theo pháp luật và các quy
luật của kinh tế thị trường. Thị trường cạnh tranh cũng bắt đầu
xuất hiện với cường độ và qui mô ngày càng lớn hơn. Các loại
độc quyền tạo ra từ cơ chế cũ từng bước bị phá vỡ và xóa bỏ.
Các phương thức kinh doanh, phương thức mua bán ngày càng
đổi mới, phong phú và linh hoạt hơn. Hoạt động điều hoà cung
cầu, điều tiết thị trường ngày càng tiến bộ và đã mang lại kết
quả tích cực. Thị trường đã có tác động tích cực đối với sản
xuất, từng bước đưa sản xuất gắn với thị trường.
Hai là, Hình thành thị trường thống nhất, ổn định và
thông suốt trên cả nước: Thị trường thành thị từng bước tiếp
cận với các hình thức tổ chức TM văn minh, hiện đại, bước
đầu đã thể hiện được vai trò trung tâm và đầu mối giao lưu
kinh tế, phát luồng bán buôn. Thị trường nông thôn từng
bước phát triển và mở rộng với sự đa dạng của loại hình
thương nhân thuộc các thành phần kinh tế, đóng vai trò quan
trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội.
Ba là, Hàng hóa, dịch vụ ngày càng phong phú, đa
dạng, nhiều mặt hàng có khả năng cạnh tranh khá: Nhờ đẩy
mạnh sản xuất, cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng và giảm
giá thành, phù hợp với thị hiếu và tập quán tiêu dùng, từ chỗ
khan hiếm đến nay, nhiều mặt hàng của chúng ta đã dư thừa
để xuất khẩu, nhiều mặt hàng có khả năng cạnh tranh khá trên
cả thị trường trong nước và quốc tế.
Bốn là, Kết cấu hạ tầng TM ngày càng phát triển theo
hướng văn minh, hiện đại: Các hình thức kinh doanh tiên tiến

176
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

như Trung tâm TM, siêu thị và cửa hàng tự phục vụ, hội chợ
- triển lãm TM, trung tâm giao dịch hàng hóa... đang hình
thành và phát triển ở khu vực thành thị cũng như ở các vùng
kinh tế trọng yếu.
Năm là, Phát triển được một đội ngũ thương nhân đông
đảo và đa dạng, trình độ quản lý kinh doanh và chất lượng
đội ngũ lao động trong các DN ngày càng được cải thiện.
Nhiều DN nhà nước đã quan tâm hơn đến việc mở rộng và
củng cố mạng lưới kinh doanh theo các kênh phân phối và tiêu
thụ hàng hóa, đổi mới phương thức hoạt động, phát triển kinh
doanh và mở rộng thị phần ở thị trường nội địa.
Sáu là, Quản lý nhà nước về TM từ trung ương đến địa
phương đã có sự đổi mới bước đầu cả về tư duy, nội dung và
phương pháp quản lý. Hành lang pháp lý cho lưu thông hàng
hóa và hoạt động của thương nhân ngày càng được bổ sung
và hoàn thiện. Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính
sách liên quan đến mặt hàng kinh doanh (qui định những mặt
hàng, dịch vụ cấm kinh doanh, mặt hàng, dịch vụ kinh doanh
có điều kiện và hạn chế kinh doanh), cơ chế chính sách đối
với các chủ thể kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế
(quyền lợi, nghĩa vụ, tổ chức, quản lý của các loại hình
thương nhân v.v...) và đối với các hình thức tổ chức kinh
doanh (qui định về tổ chức, quản lý chợ, siêu thị, trung tâm
TM v..v....). Bên cạnh chính sách chung cho các loại hình
thương nhân, đã có chính sách hỗ trợ cho các DNNVV. Hoạt
động của các Sở TM đã từng bước chuyển từ chỗ chỉ chú ý
thực hiện chức năng chủ quản DN trực thuộc sang chỗ tập
trung vào việc hướng dẫn và tổ chức thực hiện chính sách và
luật pháp, cung cấp thông tin, đẩy mạnh xúc tiến TM và tạo

177
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

điều kiện thuận lợi cho các DN thuộc mọi thành phần kinh tế
phát triển kinh doanh trên thị trường nội địa. Trật tự, kỷ
cương trên thị trường được khôi phục đáng kể; hoạt động
buôn lậu, kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng và các
hành vi gian lận TM khác bước đầu bị kiềm chế, góp phần
bảo vệ sự tăng trưởng của sản xuất, hiệu quả của kinh doanh
TM và lợi ích của người tiêu dùng.
Bảy là, Cơ bản đã xoá bỏ được cơ chế kế hoạch hoá tập
trung bao cấp trong hoạt động SXKD, xuất khẩu, nhập khẩu.
Xây dựng được một hành lang pháp lý cho hoạt động sản
SXKD, nhập khẩu vận hành theo cơ chế thị trường. Từ đó đã
khơi dậy được mọi tiềm năng sức sáng tạo, tính chủ động của
các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế
để phát triển xuất khẩu.
Tám là, Thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết định
số 12/2011/QĐ-TTg ngày 24/02/2011 về chính sách phát
triển một số ngành CNHT. Quyết định này được đánh giá là
một bước đột phá cho ngành CNHT, đã đưa ra các cơ chế,
chính sách ưu đãi với các ngành CNHT, trong đó CSTM
cũng là nội dung hết sức quan trọng. Tuy rằng, đây chưa phải
là những văn bản mang tính pháp lý cao nhưng cũng khẳng
định một vấn đề về sự nhận thức, mức độ quan tâm của
Chính phủ với vai trò của CNHT, nó sẽ là căn cứ để Chính
phủ sẽ có những chính sách mạnh mẽ hơn nhằm phát triển
ngành này.
1.2. Sự tác động của những thành tựu về chính sách
thương mại trong việc phát triển công nghiệp hỗ trợ
Những thành tựu trên của CSTM cũng đã tác động tích
cực cho sự phát triển CNHT. Theo đánh giá, ngành CNHT

178
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

Việt Nam hiện nay đã thành công ở lĩnh vực sản xuất xe máy
và điện gia dụng. Nhìn chung, CNHT Việt Nam đã phục vụ
tích cực cho sản xuất tiêu dùng nội địa; chất lượng linh kiện
chế tạo được nâng cao dần theo hướng chuyên môn hóa, một
số DN đã có định hướng tham gia vào dây chuyển sản xuất
mang tính toàn cầu của tập đoàn nước ngoài. Gần đây, xu thế
chuyển dịch sản xuất hướng vào xuất khẩu đã kích thích
CNHT mở ra khả năng xuất khẩu SP thông qua SP lắp ráp
sau cùng.
Ngày 27/4/2009 khu CNHT số 1 của Việt Nam tại Bắc
Ninh đã được khởi công xây dựng với sự giúp đỡ của Nhật
Bản. Đây được coi là một bước đi quan trọng trong quá trình
phát triển CNHT ở Việt Nam và có nhà nghiên cứu đánh giá
là “nhân tố quyết định vận mệnh nền CN của quốc gia”(4).
Nhờ dự án này, nhiều DN CNHT đã tìm đến đầu tư tại Việt
Nam. Trước mắt, phía Nhật Bản đã cam kết sẽ đưa 50
DNNVV với tổng vốn đầu tư trực tiếp khoảng 100 triệu USD
vào đầu tư, nhằm hỗ trợ các tập đoàn CN của Nhật Bản đang
hoạt động tại Việt Nam cũng như góp phần vào việc tăng
cường thu hút các ngành công nghệ cao vào Việt Nam. Tiếp
theo sẽ sẽ tiếp tục lựa chọn địa điểm phát triển thêm 4 khu
CNHT khác, tổng diện tích sàn nhà xưởng của 5 khu CNHT
này vào khoảng 50.000m2. Có thể nói, ngành CNHT Việt
Nam tuy chậm nhưng cũng đang dần từng bước phát triển và
đạt được những kết qua ban đầu tích cực.

(4)
Phan Đăng Tuất – Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược chính sách
công nghiệp.

179
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

2. Hạn chế
2.1. Những hạn chế của chính sách thương mại
trong việc phát triển công nghiệp hỗ trợ
Một là, Sự phát triển của thị trường nội địa còn mang
nặng tính tự phát, thiếu tính bền vững; các mô hình tổ chức
thị trường thích hợp chậm được xác lập và triển khai thực
hiện. Nhìn chung, trên thị trường nội địa chưa xác lập được
các mô hình tổ chức hoạt động TM có tính hệ thống, tính liên
kết cao và ổn định, gắn bó với sản xuất, bám sát với tiêu
dùng, phù hợp với dung lượng thị trường của từng địa bàn,
bảo đảm lưu thông thông suốt và ngày càng mở rộng, bảo
đảm mua bán thuận lợi và ngày càng phát triển theo hướng
văn minh, hiện đại. Mối liên kết giữa lưu thông với sản xuất,
giữa các khâu, các công đoạn trong quá trình lưu thông hàng
hóa, giữa các loại hình tổ chức và các thành phần kinh tế hoạt
động trong lĩnh vực lưu thông, dựa trên cơ sở hài hoà về lợi
ích chưa được xác lập một cách hợp lý. Các hình thức tổ chức
kinh doanh TM như chợ, trung tâm TM, trung tâm bán buôn
và bán lẻ, siêu thị... chậm được quy hoạch và triển khai.
Hai là, Thương nhân tuy đông nhưng chưa mạnh, năng
lực và vị thế của đa số DN còn yếu. Phần lớn DN TM thuộc
loại DNNVV, vốn ít, mạng lưới cơ sở vật chất, kỹ thuật nhỏ
bé và nghèo nàn, công nghệ quản lý, kinh doanh lạc hậu và
thiếu các chiến lược phát triển kinh doanh. Thương nghiệp
quốc doanh chưa làm tốt chức năng điều hoà cung - cầu và
điều tiết giá cả những mặt hàng trọng yếu. Điểm yếu nhất của
DN Nhà nước nói chung, thương nghiệp quốc doanh nói
riêng là hiệu quả hoạt động nhìn chung còn thấp, chưa tương

180
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

xứng với quy mô vốn và lao động, cũng như yêu cầu phát
triển kinh tế của đất nước.
Ba là, Thể chế quản lý về lưu thông hàng hóa và thị
trường nội địa chưa hoàn chỉnh: Công tác dự báo cung cầu và
giá cả chưa đáp ứng tốt yêu cầu chỉ đạo điều hành điều tiết về
lưu thông hàng hóa ở thị trường nội địa cũng như nhu cầu của
DN và của người sản xuất, nhất là của nông dân trong việc
định hướng SXKD. Chậm triển khai và đôi khi còn thiếu
thiếu kiên quyết trong việc thực hiện một số giải pháp ổn
định thị trường, giá cả ở tầm vĩ mô; Thiếu những qui định cụ
thể về cơ chế, chính sách phát triển các mô hình tổ chức thị
trường và các kênh lưu thông. Cơ chế, chính sách khuyến
khích phát triển kết cấu hạ tầng TM chưa đủ tầm, chưa thu
hút được nhiều vốn đầu tư của các DN; Chính sách hiện hành
chưa giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của thương nhân,
chưa hỗ trợ thương nhân hoạt động một cách hiệu quả, phù
hợp với điều kiện mới. Một số chính sách về tài chính, tín
dụng, đất đai chưa thực sự công bằng giữa DN nhà nước và
DN thuộc các thành phần kinh tế khác; Trật tự thị trường và
văn minh TM vẫn còn nhiều tồn tại và bức xúc, kỷ cương,
pháp luật trong kinh doanh còn bị vi phạm, tình trạng buôn
lậu, gian lận TM, kinh doanh hàng giả, hàng không bảo đảm
chất lượng, hàng không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho con
người và môi trường sống còn khá phổ biến, gây thiệt hại cho
nhà nước, cho người sản xuất và người tiêu dùng. Công tác
kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chế độ, chính sách và pháp
luật trong kinh doanh giữa ngành TM với các ngành hữu quan
trong nhiều trường hợp còn chưa đồng bộ, thiếu chặt chẽ và
thống nhất.

181
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Bốn là, Quy mô xuất khẩu của nước ta xét cả về tổng


kim ngạch xuất khẩu lẫn bình quân đầu người vẫn còn nhỏ
hơn so với các nước trong khu vực. Do chủng loại hàng xuất
khẩu vẫn còn đơn điệu, kết quả xuất khẩu của nước ta phụ
thuộc chủ yếu vào một số mặt hàng chủ lực. Cơ cấu hàng
xuất khẩu mới dịch chuyển theo chiều rộng là chính, chưa đi
nhiều về chiều sâu, chưa hình thành những ngành CN có khả
năng gắn kết cao để cùng hướng về xuất khẩu và tạo ra giá trị
gia tăng cao trong chuỗi giá trị của các SP xuất khẩu. Nhiều
ngành hàng, kể cả những ngành hiện đang giữ vị trí quan
trọng trong xuất khẩu như may mặc, giày dép vẫn còn phụ
thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu. Ngoài một số ít mặt
hàng có sức cạnh tranh tương đối khá như gạo, cà phê, nhân
điều, hạt tiêu... phần lớn các mặt hàng của ta vẫn có khả năng
cạnh tranh thấp, thậm chí rất yếu trên thị trường thế giới. Đây
là những nguyên nhân làm cho tăng trưởng của xuất khẩu dù
cao nhưng chưa bền vững.
Năm là, Thị trường xuất khẩu của ta chưa được tiến
hành trên thế chủ động: Quá trình chuyển dịch thị trường chủ
yếu mới chỉ là sự tự thích ứng của các DN trước những thay
đổi đột biến của tình hình mà chưa có định hướng dài hạn,
dựa chủ yếu vào một số thị trường châu Á và Hoa Kỳ với
mức độ phục thuộc còn lớn hơn mức đã phục thuộc vào Liên
Xô và Đông Âu những năm trước; Nhiều thị trường mới giàu
tiềm năng chưa được quan tâm khai thác; Hàng hoá Việt Nam
mất dần chỗ đứng trên các thị trường Liên Xô cũ và các nước
Đông Âu.
Sáu là, Mặc dù hệ thống khung khổ pháp lý điều chỉnh
hoạt động XNK đã được bổ sung, sửa đổi qua thời gian

182
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

nhưng vẫn bộc lộ nhiều hạn chế: Quyền kinh doanh xuất,
nhập khẩu của thương nhân còn bị hạn chế, còn lệ thuộc vào
mặt hàng trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; Việc
quy định một số mặt hàng chỉ có các DN đầu mối được kinh
doanh xuất, nhập khẩu tạo nên sự không công bằng giữa các
DN, tạo vị thế độc quyền cho một số DN ảnh hưởng đến môi
trường cạnh tranh của nền kinh tế; Danh mục hàng cấm nhập
khẩu chưa rõ ràng, chưa phù hợp với thực tế, gây khó khăn
cho các cơ quan quản lý và DN khi nhập khẩu; Chưa xây
dựng đầy đủ các tiêu chuẩn kỹ thuật chất lượng và chế độ
kiểm tra đối với hàng nhập khẩu để bảo hộ sản xuất trong
nước, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng phù hợp với các quy
định của WTO. Trong thực tế khi các DN nhập khẩu những
mặt hàng không nằm trong danh mục phải có giấy phép, Hải
quan cửa khẩu vẫn yêu cầu họ xuất trình giấy phép. Một số
mặt hàng được bảo hộ khá cao bằng biện pháp phi thuế như
thép xây dựng, ôtô... đã gây hiện tượng trì trệ, cửa quyền tác
động xấu đến môi trường cạnh tranh của hàng sản xuất trong
nước, làm giảm nguồn thu cho ngân sách từ thuế nhập khẩu
và ảnh hưởng đến cả lợi ích người tiêu dùng.
Bảy là, Trong thu hút ĐTNN chúng ta cũng vấp phải
sự cạnh tranh khốc liệt và nguy cơ sẽ suy giảm ĐTNN nếu
chúng ta không có những chính sách và biện pháp cải thiện
môi trường đầu tư mạnh mẽ làm tăng tính hấp dẫn hơn hẳn
so với các nước trong khu vực. Xu hướng hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực hiện nay tạo sức ép buộc ta phải tiến
hành tự do hoá, mở cửa để hội nhập mạnh hơn và nhanh hơn
để tránh nguy cơ VN bị tụt hậu và chịu những thua thiệt của
người đi sau.

183
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Tám là, Thực hiện các cam kết song phương khu vực
và quốc tế: Đòi hỏi ta phải nhanh chóng điều chỉnh lại cơ cấu
sản xuất và đầu tư của nền kinh tế, nâng cao năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế, của các DN và của hàng hoá và dịch
vụ. Tuy nhiên việc triển khai thực hiện các cam kết khu vực
và quốc tế của Việt Nam nhìn chung còn thụ động, không ít
các DN còn tư tưởng kéo dài sự bảo hộ. Nếu không chủ động
hội nhập, những DN cạnh tranh yếu, làm ăn không có hiệu
quả sẽ bị thua lỗ, phá sản gây thiệt hại lớn về kinh tế và kéo
theo nhiều hệ luỵ cho xã hội.
Chín là, Ngày càng có xu hướng các nước ít sử dụng
những biện pháp bảo hộ đơn giản như áp đặt lệnh cấm, hạn
chế số lượng, áp đặt thuế suất nhập khẩu cao. Thay vào đó, các
nước áp dụng biện pháp bảo hộ tinh vi hơn, với những lý do
chính đáng như để bảo vệ ngành sản xuất trong nước trước
những hành động TM không lành mạnh. Trong thời gian qua,
ta cũng bắt đầu vấp phải những rào cản như vậy với rất nhiều
vụ kiện bán phá giá từ nhiều nước khác nhau, đẩy ta vào thế
rất bị động.
Mười là, Việc áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường
trong hoạt động TM, đã gây cho các DN Việt Nam một số
khó khăn trong quá trình tiếp cận thị trường của các nước
phát triển. Rất ít DN xuất khẩu của Việt Nam hiểu và nắm
vững về các quy định trong Hiệp định môi trường đa phương
(MEA), quy định của WTO về môi trường. Các DN xuất
khẩu hiện nay chủ yếu chỉ chủ động thực hiện tiêu chuẩn môi
trường trong TM thông qua việc áp dụng hệ thống quản lý
chất lượng ISO 14000. Tuy nhiên, do chi phí để áp dụng hệ
thống này khá lớn, ảnh hưởng đến chi phí kinh doanh, nên

184
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

chỉ có một số DN xuất khẩu lớn mới có đủ khả năng tài chính
đáp ứng yêu cầu hệ thống quản lý chất lượng này để xuất
khẩu vào các thị trường có yêu cầu môi trường cao như Nhật
Bản, Hoa Kỳ, EU.
2.2. Sự tác động của những hạn chế về chính sách
thương mại trong việc phát triển công nghiệp hỗ trợ
a. Số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong khu vực
này còn rất nhỏ
Các DN này chủ yếu là các DNNVV, thuộc sở hữu nhà
nước, vẫn còn thói quen bao cấp nên rất thụ động trong việc
tìm kiếm khách hàng và “ngại” đổi mới. Các DN lắp ráp và
sản xuất SP cuối cùng muốn hoạt động phải tự tìm đến họ.
Trong ngành CN ô tô, theo Bộ Công thương, hiện nay
Việt Nam có tới 50 DN lắp ráp ô tô, nhưng chỉ có trên 60 DN
cung cấp linh kiện, quá thấp so với con số 385 DN ở
Malaysia và 2.500 DN ở Thái Lan. Trong khi các DN đưa ra
khoảng 35 loại xe ô tô, năm nào cũng có những mẫu xe mới,
mỗi xe có khoảng 30.000 chi tiết thì số lượng nhà cung cấp ở
trong nước còn quá nhỏ bé. Theo tính toán, một DN ô tô phải
cần tối thiểu 20 nhà cung cấp các loại linh kiện khác nhau.
Nhưng trên thực tế, thời gian qua, các DN lắp ráp ô tô chỉ có
2-3 nhà cung cấp linh kiện trong nước. Do vậy, nhiều DN
phải phụ thuộc vào nguồn linh kiện nhập khẩu.
Theo kinh nghiệm của Nhật Bản thì khu vực hạ nguồn
phải hình thành được 4 cấp bậc sản xuất với hàng nghìn DN
tham gia vào quá trình. Trong đó, nhiều nhất là các DN cung
cấp nguyên vật liệu, tiếp đến là các DN nhỏ, các DN lớn vừa và
DN rất lớn cung cấp linh kiện. Theo đó, nhà cung cấp ở Việt
Nam mới chỉ dùng lại ở cấp 2 với khả năng đáp ứng hạn chế về
cả số lượng và chất lượng.

185
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Trong số này, các DNNN chiếm phần lớn nhất. Các DN


này trước đây là các xí nghiệp cơ khí hóa chất nay chuyển đổi
hoạt động sang lĩnh vực sản xuất SP CNHT cho lắp ráp ô tô,
chủ yếu cung cấp cho các DNNN khác tho mô hình khép kín.
Một số DN hỗ trợ có hiệu quả cho CN sản xuất xe máy nội địa
cũng mở rộng loại hình sản xuất, kinh doanh sang lĩnh vực hỗ
trợ cho lắp ráp ô tô. Còn lại là các DN tư nhân mới hình thành
và một số cơ sở được các liên doanh sản xuất, lắp ráp ô tô đầu
tư nhằm cung cấp cho quá trình sản xuất của mình.
CNHT Việt Nam còn yếu do các DN vẫn mạnh ai nấy
làm. Trong khi đó, đối với sản xuất phải chuyên môn hóa sâu
và hợp tác rộng mới đem lại hiệu quả cao nhất. Nhiều DN do
chưa tính toán được mức lợi nhuận so với chi phí đầu tư nên
cũng chưa thực sự vào cuộc. Một thực tế nữa là, trong số DN
Việt Nam làm CNHT rất ít các DN cung ứng linh kiện. Hiện
nay chủ yếu là các nhà cung ứng linh kiện Nhật Bản đang đầu
tư vào Việt Nam, tiếp theo là các DN Đài Loan, cuối cùng là
các DN Việt Nam. Điều này khiến giới đầu tư Nhật Bản đang
làm ăn tại Việt Nam lo lắng khi mà họ không thể đặt hàng
các linh phụ kiện tại thị trường nội địa, như các đối thủ đang
hoạt động tại Thái Lan, Malaysia, hay Philipines. Một nghiên
cứu của tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) cho
thấy phần lớn những linh kiện do DN Việt Nam cung cấp chỉ
bao gồm những mặt hàng sơ chế như vật liệu đóng gói, quần
áo đồng phục, giày, găng tay … còn các linh kiện như khuôn,
linh kiện thành hình nhựa thì phần lớn đều phải nhập khẩu.
Các DN trong lĩnh vực CNHT gặp khó khăn về vốn và
kỹ thuật cũng như đầu ra trong điều kiện quy mô thị trường
quá nhỏ. Luôn tồn tại một khoảng cách quá lớn giữa yêu cầu
về chất lượng SP, giá bán cũng như thời hạn giao hàng của
các DN nước ngoài so với khả năng đáp ứng của các DN

186
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

Việt Nam. Đây có lẽ là khó khăn lớn nhất của nhiều


DNNVV hoạt động trong ngành CNHT. Khó khăn này càng
tăng lên khi không có những hỗ trợ cần thiết từ phía các cơ
quan chức năng về kỹ thuật, công nghệ cho các công ty linh
kiện, phụ tùng Việt Nam. Hệ thống các trung tâm kiểm soát
và kiểm định chất lượng linh kiện, phụ tùng gần như không
có ở nhiều địa phương hoặc nếu có thì cũng hoạt động cực
kỳ kém hiệu quả.
Việc ưu đãi thuế cho các DN CNHT không chỉ khuyến
khích các nhà đầu tư mà còn tăng khả năng cạnh tranh về giá
của các nhà lắp ráp, khuyến khích chuyên môn hóa sản xuất
một số linh kiện nhất định có khả năng xuất khẩu. Tuy vậy,
những chính sách ưu đãi này ở Việt Nam chưa rõ ràng, đa
phần các chính sách ưu đãi thuế của Việt Nam lại hướng vào
các ngành công nghệ cao hay các dự án ở vùng sâu, vùng xa,
chứ chưa quan tâm đến các DN CNHT trong và ngoài nước.
b. Chất lượng của các sản phẩm của các doanh
nghiệp sản xuất trong ngành công nghiệp hỗ trợ rất thấp
và kém ổn định
Nhiều DN ĐTNN đã cất công tìm khắp cả nước mà hầu
như không thấy DN nào của Việt Nam sản xuất linh phụ kiện
đáp ứng được yêu cầu. SP CNHT chủ yếu do DNNN hoặc do
các hộ kinh doanh cá thể sản xuất, chất lượng kém và giá
thành cao (vì công nghệ lạc hậu, khó khăn về vốn, trình độ
quản lý kém…) nên chỉ tiêu thụ được trong nội bộ các DNNN.
Ngay chỉ là con ốc-vít đơn giản, nhưng SP của nhiều nhà cung
ứng Việt Nam thiết kế thô, xấu, ngược lại có DN thiết kế đẹp
thì chất lượng nguyên liệu không bảo đảm, dễ bị gỉ sét, biến
dạng. Công ty Daihatsu đã từng sang Việt Nam tìm kiếm nhà
cung cấp ốc-vít, nhưng khảo sát tới 64 DN mà không lựa chọn
được nhà cung cấp nào đạt tiêu chuẩn quốc tế. Canon cũng

187
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

phải mất một thời gian dài mới tìm được nhà cung cấp tại Việt
Nam, song 90% trong số đó lại là DN có vốn ĐTNN.
Ngay cả khi đã chọn được nhà cung cấp linh phụ kiện
tại Việt Nam, các DN ĐTNN cũng chưa hoàn toàn yên tâm vì
chất lượng SP không đồng đều, chất lượng lô hàng sau kém
hơn lô hàng trước. Chính điều đó khiến các công ty e ngại đối
với các nhà cung cấp của Việt Nam.
Trong những năm qua số DN Việt Nam sản xuất linh
kiện phụ tùng có tăng lên, nhưng năng lực cũng chỉ dừng lại ở
mức độ sản xuất các chi thiết, linh kiện có kích cỡ lớn, cồng
kềnh và công nghệ đơn giản chứ chưa sản xuất được những SP
tinh vi. Theo nhiều DN sản xuất và lắp ráp có vốn ĐTNN,
ngành CNHT muốn phát triển phải đáp ứng được ba yếu tố:
Chất lượng, giao hàng đúng hẹn và giá cả hợp lý. Hiện nay rất
hiếm DN Việt Nam đáp ứng được cả ba yếu tố trên.
c. Tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành công nghiệp của
Việt Nam là rất thấp
Một số ngành như dệt may, da giày, điện tử … đều phải
nhập nguyên liệu từ nước ngoài. Do vậy, họ luôn phải phụ
thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, không thể chủ động
được hoạt động sản xuất, kinh doanh, giá trị gia tăng của các
DN chỉ đạt 10%, một con số quá thấp so với các nước có
ngành CNHT phát triển khác.
Theo báo cáo của JETTRO, tỷ lệ nội địa hóa ở các DN
Nhật Bản tại Việt Nam là thấp nhất, ở mức 26,5% so với hơn
40% của các nước khác trong khu vực, như Malaysia và Thái
Lan tỷ lệ này là trên 45%. Các DN ĐTNN rất muốn phối hợp
với các nhà cung cấp trong nước để giảm chi phí sản xuất,
nâng cao sức cạnh tranh của SP, nhưng rất khó có thể tìm được
nhà cung cấp thích hợp.

188
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

3. Nguyên nhân của các hạn chế


3.1. Thiếu cơ sở kinh tế để hình thành chính sách
thương mại nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ
Cơ sở kinh tế là một căn cứ rất quan trọng, là điều kiện
cần để thuyết minh cho sự cần thiết và lựa chọn chính sách.
Trong một thời gian dài CNHT chưa nhận được sự quan tâm
đúng mức của các cơ quan quản lý nhà nước. CNHT mới chỉ
được nhắc đến trong vài năm trở lại đây trước sức ép của các
nhà ĐTNN và những cam kết hội nhập; VN cũng chưa có đầy
đủ khái niệm mang tính pháp lý đối với các ngành CNHT và
chưa có một đầu mối chính thức để thực thi một cách có hiệu
quả các biện pháp thúc đẩy các ngành CNHT phát triển. Vì
thế các DN trong nước không mặn mà với việc đầu tư vào
ngành CNHT dù đầu ra đã có. Hầu hết các chính sách hỗ trợ
chưa thể hiện rõ những căn cứ kinh tế cho việc đề xuất chính
sách; chưa khắc phục những hạn chế của thị trường như thị
trường dịch vụ phát triển kinh doanh cho các DN CNHT chưa
phát triển. Nhà nước cần có sự hỗ trợ hoặc cung cấp những
hàng hoá có tính chất công cộng như cung cấp thông tin về
thị trường xuất khẩu do chi phí mà từng DN nhỏ bỏ ra để tiến
hành thu thập xử lý thông tin cao hơn hiệu quả mà thông tin
mang lại cho một DN nhưng sẽ thấp hơn hiệu quả mang lại
cho nhiều DN. Các chính sách kinh tế vẫn còn đưa ra nhiều
mục tiêu và sự hỗ trợ phát triển DN CNHT chưa được xác
định một cách rõ ràng.
Một trong số những điểm hạn chế cơ bản của các chính
sách hỗ trợ phát triển DN CNHT là thiếu thông tin về chiến
lược kinh doanh của các DN CNHT và chưa hướng đến đáp
ứng nhu cầu cần được hỗ trợ của các DN. Nhìn chung các
chính sách hỗ trợ phát triển DN CNHT vẫn thiếu thông tin về

189
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

tình hình hoạt động và nhu cầu của các DN CNHT. Trong
hầu hết các chương trình và đề án hỗ trợ phát triển DN
CNHT chưa có chương trình nào phát biểu một cách cụ thể
và trực tiếp vào việc khắc phục những hạn chế của các DN
CNHT hoặc nâng cao năng lực cạnh tranh cho các DN CNHT
thông qua các hình thức hỗ trợ mà chính sách sẽ triển khai.
Tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế chưa được sử dụng trong
việc đề xuất và lựa chọn chính sách hỗ trợ. Hầu hết các chính
sách hỗ trợ chưa xác định rõ được hiệu quả kinh tế ròng mà
chính sách hỗ trợ sẽ mang lại. Xác định rõ cơ sở kinh tế của
chính sách hỗ trợ chỉ là điều kiện cần nhưng chưa phải là điều
kiện đủ để triển khai một chính sách. Mỗi chính sách cần phải
đảm bảo rằng những mục tiêu chính sách sẽ đạt được một
cách hiệu quả, tức là chính sách phải mang lại hiệu quả kinh
tế ròng cho xã hội. Hiệu quả kinh tế ròng đòi hỏi rằng các
chính sách hỗ trợ phải mang lại lợi ích xã hội thông qua các
tác động cộng hưởng, tức là các kết quả đạt được về đầu tư,
việc làm, thu nhập thông qua các tác động cộng hưởng sẽ
phải cao hơn mức mà khu vực tư nhân có thể đạt được khi
không có sự hỗ trợ. Cuối cùng chính sách hỗ trợ phải chứng
tỏ rằng kết quả mang lại phải cao hơn chi phí mà xã hội bỏ ra.
3.2. Thiếu chính sách cụ thể nhằm khuyến khích
phát triển doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ
Việt Nam chưa có những chính sách cụ thể trong lĩnh
vực CNHT mà chỉ có những chính sách phát triển CN nói
chung. Mặc dù Quy hoạch CNHT đã được ban hành, nhưng
những đề xuất chính sách trong bản quy hoạch nói trên chưa
được thể chế hoá, các văn bản quy phạm pháp luật về phát

190
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

triển CNHT vẫn đang trong quá trình dự thảo, chưa được
ban hành.
Đối tượng được hưởng trợ giúp của các chính sách hỗ
trợ vẫn còn chung chung và rộng chưa cụ thể cho một đối
tượng là DN CNHT. Tiêu chuẩn để lựa chọn đối tượng trợ
giúp sẽ góp phần rất quan trọng vào việc đạt được hiệu quả
kinh tế của chính sách hỗ trợ. Một số chính sách gần như hỗ
trợ tất cả các đối tượng hoạt động trong nhiều lĩnh vực. Để
chính sách hỗ trợ mang lại hiệu quả cao thì mỗi chính sách hỗ
trợ cần định hướng vào một đối tượng DN cụ thể
Các chính sách hỗ trợ DN chưa phân định rõ được mối
quan tâm chính là nâng cao tính cạnh tranh cho các DN
CNHT với mục tiêu xoá đói giảm nghèo và tạo việc làm nói
chung. Đối với các chính sách xoá đói giảm nghèo, tạo việc
làm, tăng thu nhập thì mối quan tâm trước tiên là các vấn đề
xã hội, sau đó mới xét đến các khía cạnh về kinh tế và tài
chính. Cách tiếp cận này sẽ không phù hợp với các chính
sách hỗ trợ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho DN bởi
vì trọng tâm của các chính sách hỗ trợ nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh cho DN thì yêu cầu trước tiên phải xuất phát
từ hiệu quả kinh tế rồi mới xem xét đến các yêu cầu về mặt
xã hội. Chính vì vậy mà hiệu quả kinh tế chưa được coi là
tiêu chuẩn quan trọng trong việc lựa chọn đối tượng trợ giúp.
Hỗ trợ mọi đối tượng DN CNHT hoạt động trong nhiều
ngành nghề với ngân sách hỗ trợ hạn hẹp tỏ ra không khả thi
và hiệu quả mang lại không cao. Các nỗ lực hỗ trợ cần phải
đặt ra những mục tiêu có tính khả thi cao, và được quản lý,
giám sát và phối hợp một cách đồng bộ và chặt chẽ. Các
chính sách hỗ trợ chưa xác định đối tượng được hưởng hỗ trợ
một cách cụ thể nhằm phát huy hiệu quả hỗ trợ một cách cao

191
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

nhất. Các chính sách hỗ trợ vẫn còn dàn trải chưa thể hiện rõ
được mức độ ưu tiên của chính sách hỗ trợ. Ví dụ chính sách
khuyến khích, hỗ trợ DN đổi mới công nghệ, nâng cao sức
cạnh tranh của SP hàng hoá chưa xác định được vị thế cạnh
tranh hiện tại của các DN CNHT trong một số ngành SP ưu
tiên phát triển cho nên sự hỗ trợ chưa thực sự mang lại kết
quả như mong muốn. Một số ví dụ minh chứng cho điều này
là các báo cáo đánh giá tổng kết về tác động của các chính
sách hỗ trợ phát triển DN CNHT của các sở ban ngành với tư
cách là các cơ quan giám sát thực hiện chính sách ở thời điểm
hiện nay vẫn khẳng định rằng sức cạnh tranh của các DN
CNHT vẫn chưa được cải thiện đáng kể và vẫn còn rất thấp.
Do đối tượng hỗ trợ được xác định rất rộng cho nên
phương thức hỗ trợ của các chính sách mới chỉ dừng lại ở sự
hỗ trợ một phần kinh phí tương đối nhỏ cho một số hoạt động
nhất định cho nên chưa tạo nên được sự chuyển biến có tính
chất căn bản trong hoạt động của các DN CNHT. Ví dụ chính
sách khuyến khích xuất khẩu về thực chất là trợ cấp cho một
số DN xuất khẩu chứ chưa thực sự góp phần làm cải thiện
năng lực cạnh tranh của các DN xuất khẩu. Những chính sách
hỗ trợ mang tính chất đại trà như vậy thường không bền vững
và hiệu quả mang lại không cao. Các chính sách phát triển
DN CNHT trong tương lai cần hướng đến phát triển những
nhân tố cấu thành của năng lực cạnh tranh.
Do mục tiêu của các chính sách hỗ trợ được xác định
rộng, bao hàm nhiều đối tượng và sự hỗ trợ mang tính chất
trợ cấp trực tiếp với khoản tiền hỗ trợ cho từng đơn vị không
lớn cho nên khó có thể xác định được tác động của chính
sách hỗ trợ đến việc cải thiện hiệu quả kinh doanh của các
DN CNHT với độ tin cậy cao.

192
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

Mặc dù đã có một số chính sách phát triển DNNVV


nhưng còn thiếu những chính sách thúc đẩy mối liên kết giữa
các DN. Do đó, các DNNVV của Việt Nam được thành lập
nhưng khó tham gia vào mạng lưới sản xuất, cả trong và
ngoài nước. Kinh nghiệm của nước ngoài cho thấy, trong giai
đoạn đầu, cần xây dựng những DN giữ vai trò “neo” và các
quy định bắt buộc phải thuê ngoài (outsourcing) để các
DNNVV có điều kiện tiếp cận thị trường trong giai đoạn đầu.
Chính sách hỗ trợ và bảo lãnh tín dụng đầu tư của Việt
Nam tuy đã có nhưng còn mang tính chất đơn lẻ, chưa có sự
gắn kết rộng rãi quyền lợi của các bên (khách hàng, tổ chức
tín dụng, Nhà nước…) nên chưa tạo ra sự yên tâm vay vốn
đầu tư của DN. Chính vì thế, nhiều DNNVV chưa sẵn sàng
có những đầu tư dài hạn cho công nghệ, máy móc thiết bị để
nâng cao chất lượng SP, đáp ứng nhu cầu khác hàng.
Ưu đãi về thuế hay sự hỗ trợ về tài chính là những công
cụ chính sách cơ bản góp phần thúc đẩy CNHT, nó không chỉ
khuyến khích các nhà đầu tư mà còn tăng khả năng cạnh
tranh về giá của các nhà lắp ráp, khuyến khích chuyên môn
hóa sản xuất một số linh kiện nhất định có khả năng xuất
khẩu. Tuy vậy, những chính sách ưu đãi này ở Việt Nam
chưa rõ ràng, đa phần các chính sách ưu đãi thuế của Việt
Nam lại hướng vào các ngành công nghệ cao hay các dự án ở
vùng sâu, vùng xa, chứ chưa quan tâm đến các DN CNHT
trong và ngoài nước.
Chính sách phát triển các khu, cụm CN vẫn chỉ tập
trung vào số lượng, thiếu quy hoạch đồng bộ trên phạm vi cả
nước. Các khu, cụm CN thường mang tính chất đa ngành,
chưa phát huy được sự tương tác giữa các DN cùng ngành,
cùng lĩnh vực trong khu/cụm CN. Nhiều khu CN được bố trí

193
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

cạnh nhau (trên địa bàn 2 giáp ranh) nhưng không có sự khác
biệt nên dẫn đến tình trạng cạnh tranh thu hút nhà đầu tư.
Các chính sách hỗ trợ phát triển DN CNHT chưa được
đặt trong khuôn khổ phân tích chuỗi giá trị để xác định các cơ
hội nâng cao hiệu quả hoạt động của các DN CNHT kết hợp
với sự hỗ trợ của Nhà nước. Vì vậy các chính sách hỗ trợ
phát triển DN CNHT vẫn còn lẻ tẻ, phân tán ít có tác động
đáng kể đến việc cải thiện hiệu quả hoạt động của các DN. Ví
dụ, một số chính sách khuyến khích hỗ trợ DN đổi mới công
nghệ, nâng cao sức cạnh tranh của SP hàng hoá bằng cách trợ
cấp một phần kinh phí sau khi các DN đã được cấp chứng
nhận quản lý chất lượng hoặc sau khi đã đăng ký bảo hộ nhãn
hiệu SP và kiểu dáng CN, hoặc hỗ trợ về đào tạo cán bộ quản
lý cho DN khó rất có thể tìm ra được mối liên hệ trực tiếp đến
việc cải thiện hiệu quả kinh doanh của DN.
3.3. Các khó khăn về quy mô cầu
Thị trường Việt Nam cho các nhà lắp ráp đặc biệt là các
nhà sản xuất ô tô còn quá nhỏ. Hơn nữa, mức độ tăng trưởng
của thị trường nội địa thấp. Với quy mô thị trường quá nhỏ,
nhiều DN lớn trong nước đã tỏ ra e ngại khi được đề nghị trở
thành về tinh của các tập đoàn lớn. Nguyên nhân là do học
phải bỏ vốn lớn ra đầu tư nâng cấp thiết bị dây chuyền cho phù
hợp với yêu cầu chất lượng, trong khi chưa thấy hiệu quả trước
mắt. Các nhà ĐTNN cũng ít quan tâm đầu tư vào CNHT.
3.4. Thiếu thông tin giữa các nhà sản xuất Việt
Nam và các nhà đầu tư nước ngoài
Một nguyên nhân nữa bắt nguồn từ tình trạng thiếu các
kênh thông tin giữa các DN ĐTNN/nhà lắp ráp, và giữa các
công ty nội địa có khả năng với các tập đoàn lớn bên ngoài,

194
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011

đặc biệt là các tập đoàn của Nhật Bản. Bên cạnh đó là việc
thiếu cơ sở dữ liệu hoàn chỉnh, đầy đủ và chính xác về các
công ty nội địa, các công ty ĐTNN, các nhà lắp ráp và thiếu
thông tin về các liên kết khác nhau giữa các nhà lắp ráp và các
công ty cung cấp linh kiện trong nước. Chính vì vậy các nhà
sản xuất phải rất khó khăn trong việc tìm kiếm đơn vị cung cấp
linh kiện và dịch vụ hỗ trợ cho mình cũng như DN phải vất vả
trong việc tìm kiếm đầu ra cho SP. Điều này gây lãng phí
nhiều thời gian và cơ hội của DN cả trong và ngoài nước.
3.5. Hạn chế trong việc phối hợp tổ chức thực hiện
chính sách
Quá trình hoạch định chiến lược phát triển CN thiếu sự
tham gia của cộng đồng kinh doanh và cơ chế phối hợp chặt
chẽ giữa các Bộ. Quá trình hoạch định chính sách ở VN gần
như chỉ thuộc phạm vi của Chính phủ, sự tham gia của các nhà
tài trợ là rất nhỏ. Bên cạnh đó, điều đó dẫn đến sự chậm chễ
trong việc chuẩn bị các chi tiết triển khai thực hiện, do không
có ngân sách cần thiết, do thiếu nhân lực và thiết bị, do thiếu
sự ủng hộ từ cộng đồng kinh doanh và do thiếu khả năng cũng
như sự quan tâm cần thiết của các Bộ ngành có trách nhiệm
giải quyết những vấn đề này.
Hầu hết các chương trình, chính sách hỗ trợ phát triển
DN CNHT đều đã có quy chế hoạt động rõ ràng và công
khai. Tuy nhiên, có nhiều đầu mối là các sở ban ngành cùng
triển khai các hoạt động trợ giúp phát triển DN CNHT nhưng
sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng vẫn chưa được nhịp
nhàng ăn khớp. Các hoạt động trợ giúp các DN ngoài nhà
nước được lồng ghép trong các hoạt động thường xuyên của
các sở ban ngành chức năng và số liệu về chi phí lương và
các chi phí hoạt động của các bộ phận có liên quan đến các

195
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

hoạt động trợ giúp phát triển DN CNHT chưa được tách riêng
ra trong ngân sách hoạt động chung của đơn vị cho nên chưa
ước tính được các chi phí quản lý chương trình - chính sách
chiếm tỷ lệ bao nhiêu phần trăm trong tổng số tiền hỗ trợ trực
tiếp đến với các DN. Vì vậy chưa có đủ nguồn số liệu để kết
luận về chất lượng của công tác điều hành. Trong thời gian
tới, cần lưu giữ số liệu về phân bổ kinh phí hoạt động và quỹ
thời gian làm việc của cán bộ cho từng chương trình cụ thể để
có thể tiến hành so sánh và đánh giá hiệu quả và mức độ cải
thiện trong chất lượng điều hành. Theo thông lệ, công tác
điều hành được đánh giá là đạt hiệu quả khi ngân sách chi
cho bộ máy điều hành chiếm tỷ lệ thấp hơn 5% trong tổng
kinh phí hỗ trợ đến với DN.
Các báo cáo tổng kết đánh giá của các Bộ ban ngành về
các chính sách hỗ trợ phát triển DN CNHT đều nêu lên một
số điểm hạn chế chung của các chính sách hỗ trợ, đó là: các
quy định vẫn còn thiếu đồng bộ và chồng chéo, thủ tục hành
chính vẫn còn rườm rà, sự phối hợp giữa các cơ quan chức
năng chưa được chặt chẽ, các chứng từ thủ tục tài chính quá
chặt chẽ, phức tạp mất nhiều thời gian. Một tỷ lệ không nhỏ
các DN CNHT có biết đến các chương trình hỗ trợ nhưng do
thủ tục hành chính vẫn còn thiếu công khai minh bạch và mất
thời gian cho nên vẫn là một trở ngại đáng kể cho các DN
CNHT tiếp cận với các chính sách hỗ trợ cho nên vẫn có
nhiều DN vẫn chưa thực sự quan tâm đến các chính sách hỗ
trợ. Một lý do của sự chồng chéo trong các chính sách hỗ trợ
phát triển DN CNHT là do chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu
chung về tình hình hoạt động của các DN CNHT, vì vậy
thông tin về tình hình hoạt động và nhu cầu của các DN
CNHT ít được thường xuyên cập nhật, khó tránh khỏi tình
trạng chồng chéo trong việc đề xuất các chính sách hỗ trợ.

196
CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI NHẰM PHÁT
TRIỂN CNHT Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020
I. BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC ẢNH
HƯỞNG ĐẾN HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THƯƠNG
MẠI NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở
VIỆT NAM
1. Bối cảnh quốc tế
Theo dự báo, GDP toàn cầu sẽ tăng trung bình
3,5%/năm trong thời kỳ 2006-2020, tỷ trọng GDP toàn cầu,
phần châu Á chiếm khoảng 35% năm 2005 sẽ tăng lên 45%
vào năm 2020 và sẽ có nhiều biến động ảnh hưởng đến quan
điểm xây dựng và hoàn thiện CSTM của Việt Nam trong thời
gian tới:
Thứ nhất, hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế trên quy mô toàn cầu còn tiếp tục ảnh hưởng
nghiêm trọng tới phát triển kinh tế của các quốc gia và trong
khoảng thời gian ngắn chưa thể phục hồi, phát triển. Các
luồng vốn đầu tư ĐTNN, ODA và vốn đầu tư gián tiếp sẽ có
xu hướng chậm lại.
Thứ hai, xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá TM, phân công
lao động quốc tế tiếp tục phát triển cả về chiều rộng và chiều
sâu. Xu hướng này, mở ra cơ hội xuất khẩu lớn hơn cho hàng
hoá, dịch vụ của các nước, nhất là các nước đang phát triển
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

trong đó có Việt Nam, nhưng cũng tạo ra áp lực cạnh tranh


rất lớn.
Thứ ba, kinh tế thế giới chuyển từ phát triển theo
chiều rộng sang chiều sâu, từ kinh tế vật thể sang kinh tế tri
thức, từ thị trường hàng hóa là chủ yếu sang thị trường dịch
vụ là chủ yếu.
Thứ tư, tình hình chính trị, an ninh thế giới và khu
vực tiềm ẩn những diễn biến phức tạp, khó lường. Ngoài
ra, các nguy cơ dịch bệnh trên diện rộng đe doạ đến tính
mạng con người và hoạt động kinh tế, xã hội cũng không
thể xem thường.
Thứ năm, các nước có xu hướng tìm đến những thoả
thuận kinh tế, TM song phương (BTA) hoặc khu vực (FTA)
để tìm kiếm thêm cơ hội tăng trưởng, xuất khẩu. Mặc dù vậy,
các BTA, FTA cũng không thể thay thế được mô hình đa
phương của WTO, nhất là trong việc giúp các quốc gia nhỏ
khỏi chịu nhiều thua thiệt trước các nước lớn.
Thứ sáu, tranh chấp trong TM quốc tế có xu hướng biến
đổi trong khi các rào cản TM ngày càng gia tăng dưới các
hình thức ngày càng tinh vi, khắc nghiệt hơn.
Thứ bảy, tài nguyên thiên nhiên, nhất là những nguồn
tài nguyên không thể tái tạo ngày càng khan hiếm, trong khi
để tăng trưởng kinh tế, đòi hỏi nhu cầu đầu vào lớn hơn, nguy
cơ tiềm ẩn của khủng hoảng hoặc thiếu hụt nguyên, nhiên
liệu, dẫn tới các đợt tăng giá hàng hóa trên thế giới ...
Thứ tám, những thay đổi về sức mạnh của các đồng
tiền chủ chốt trên thế giới như Đôla Mỹ, Euro, Yên, cũng
như chính sách tiền tệ của các nền kinh tế lớn sẽ ảnh

198
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

hưởng tới nền kinh tế thế giới, nhất là với các nền kinh tế
đang phát triển.
Thứ chín, TM điện tử nói chung và các phương thức
giao dịch điện tử nói riêng tiếp tục phát triển mạnh mẽ, đòi
hỏi cơ chế, chính sách TM và kết cấu hạ tầng về TM điện tử
của nước ta cần được xây dựng, hoàn thiện trong những
năm tới.
2. Bối cảnh trong nước
Trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội 2001-2010, Việt Nam đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi,
vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, đạt được những thành
tựu quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển,
bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình.
Nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược 2001-2010 đã được
thực hiện, đạt bước phát triển mới cả về lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất. Kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình
quân 7,26%/năm. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh
CN hoá, hiện đại hóa và nâng cao chất lượng cuộc sống của
nhân dân. Trong khoảng thời gian cuối thực hiện Chiến lược
2001-2010, với những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng
hoảng tài chính - kinh tế khu vực và toàn cầu, nền kinh tế
Việt Nam cũng đã gặp phải một số khó khăn. Tuy nhiên, về
trung hạn, với sự ổn định về chính trị, sự gia tăng niềm tin
của các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư lớn của nước
ngoài, cùng với việc tiếp tục đẩy mạnh các biện pháp cải
cách, tái cơ cấu nền kinh tế, tăng cường tính minh bạch và
hiệu quả, hiệu lực thực thi pháp luật, nhờ đó tạo môi trường
tốt thu hút đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy tăng trưởng

199
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

kinh tế, TM. Trong dài hạn, khi Việt Nam trở thành một nền
kinh tế mở hoàn toàn, muốn đạt được các mục tiêu tăng
trưởng và giảm nghèo đã đặt ra, cần phải thực hiện cải cách
mạnh mẽ công tác xây dựng, điều chỉnh, bổ sung luật, cơ chế,
chính sách, trong đó có luật, cơ chế, chính sách TM theo
hướng vừa phải thông thoáng, khuyến khích các thành phần
kinh tế tham gia phát triển, vừa phải quản lý tốt thị trường và
tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế trong nước vươn lên
đứng vững trên thị trường.
Ngoài những mặt tích cực đã nêu trên, còn có những
nhân tố ảnh hưởng tiêu cực đến việc hoạch định, triển khai
thực hiện chính sách, như: (i) Nguồn tài nguyên thiên nhiên
hữu hạn và đang cạn dần, các vấn đề về môi trường, giáo
dục, thất nghiệp, phân hoá giàu nghèo trong xã hội... là mối
đe doạ không nhỏ đối với sự phát triển bền vững của nền
kinh tế; (ii) Những biến động khó lường của thời tiết, thiên
tai dịch bệnh, môi trường có thể tác động bất lợi tới hoạt
động của nền kinh tế và đời sống nhân dân; (iii) Tình trạng
tham nhũng, quan liêu, thủ tục hành chính rườm rà chậm
được đẩy lùi sẽ là cản trở không nhỏ đối với việc thực thi
các cơ chế, CSTM, hoạt động sản xuất, kinh doanh và nhiều
mặt khác của nền kinh tế - xã hội.
Trở thành một thành viên chính thức của WTO, đòi hỏi
Việt Nam tiếp tục thực hiện hoàn thiện CSTM quốc tế một
cách nhất quán. WTO rà soát CSTM quốc tế theo thể chế, về
các công cụ tác động trực tiếp tới nhập khẩu, xuất khẩu.
WTO cũng rà soát CSTM quốc tế của các quốc gia theo
ngành hàng. Mặc dù, khung phân tích CSTM quốc tế không
thay đổi song mức độ giải quyết (cả về nội dung và cách

200
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

thức) sẽ thay đổi. Việt Nam sẽ trực tiếp chịu tác động từ kết
quả của vòng đàm phán Doha. Việc các nước phát triển sử
dụng những biện pháp kỹ thuật và hành chính vẫn là một thực
tế. Tuy nhiên, Việt Nam có thể được hưởng lợi từ các yêu cầu
thực thi của các nước đang phát triển đối với các nước phát
triển về các vấn đề như nông nghiệp, dệt may, chống bán phá
giá, biện pháp kiểm dịch động thực vật và vệ sinh an toàn
thực phẩm, đối xử đặc biệt với các nền kinh tế nhỏ. Các lịch
trình cam kết mà Việt Nam đang và sẽ tham gia bao gồm lịch
trình thực hiện chương trình AFTA và chương trình ASEAN
mở rộng, lịch trình thực hiện APEC, lịch trình thực hiện Hiệp
định TM Việt Nam - Hoa Kỳ, lịch trình thực hiện cam kết
trong WTO.
Trong khi đó, thị trường nội địa tiếp tục phát triển
mạnh với nhiều sự thay đổi về chất theo hướng văn minh,
hiện đại hơn và cạnh tranh cao hơn. Có thể dự báo xu hướng
vận động như sau: (i) Tiếp tục phát triển cả chiều rộng và
chiều sâu, từng bước hình thành các tập đoàn, tổng công ty có
tầm cỡ; (ii) Hình thành một thị trường cạnh tranh thực sự và
ngày càng quyết liệt. (iii) Thu hẹp khoảng cách giữa các
vùng, miền của đất nước trên các khía cạnh quy mô, trình độ,
tốc độ phát triển, cơ cấu và giá cả hàng hóa, dịch vụ (iv) Quá
trình hội nhập thị trường nội địa với thị trường khu vực và thế
giới là một xu thế khách quan, là điều kiện và động lực mạnh
mẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước. Những xu
hướng này đòi hỏi chúng ta cần chủ động xúc tiến quá trình
tự do hóa TM, tự do hóa đầu tư có tính toán chiến lược, bước
đi khẩn trương, thích hợp.

201
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

II. DỰ BÁO NHU CẦU PHÁT TRIỂN CÔNG


NGHIỆP HỖ TRỢ CỦA VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020
Mục tiêu tổng quát trong chiến lược phát triển kinh tế,
xã hội 2011 - 2020 đã được Đại hội XI của Đảng thông qua
chỉ rõ: “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Nền kinh tế sẽ xuất
hiện những ngành công nghiệp, những sản phẩm công nghiệp
chủ lực đòi hỏi phát triển CNHT cho các ngành đó. Mặt khác
do toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế thì công nghiệp
nước ta phải hội nhập công nghiệp thế giới nên sẽ có sự
chuyển dịch sản xuất và công nghệ, sự tham gia chuỗi giá trị
toàn cầu để Việt Nam phát triển CNHT. Do vậy, phát triển
CNHT ngày càng trở nên bức thiết, để dự báo nhu cầu phát
triển CNHT, có thể xem xét trên một số nội dung: (i) CNHT
là động lực của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước và là nền tảng cho việc phát triển bền vững các ngành
CN chủ lực của Việt Nam trong giai đoạn đến 2020. Do đó
cần được chú trọng phát triển; (ii) Việc phát triển CNHT phải
được tiến hành có chọn lọc, dựa trên tiềm năng, thế mạnh so
sánh của Việt Nam và phân công lao động quốc tế, với công
nghệ tiên tiến, có tính cạnh tranh cao, ban đầu gắn liền với
mục tiêu nội địa hoá các SP CN chủ lực, sau phấn đấu trở
thành một bộ phận trong dây chuyền sản xuất quốc tế của các
công ty, tập đoàn đa quốc gia; (iii) CNHT cần được phát triển
theo hướng phát huy tối đa năng lực đầu tư của các thành
phần kinh tế, đặc biệt là của các đối tác chiến lược - các công
ty, tập đoàn đa quốc gia; (iv) Phát triển CNHT cần phù hợp
với những xu thế, đặc thù riêng của từng chuyên ngành CN
và của từng đối tác chiến lược.

202
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

1. Đối với ngành cơ khí chế tạo


Ngành CNHT cơ khí đến năm 2020 được dự kiến sẽ: (i)
Tập trung phát triển phục vụ sản xuất - lắp ráp các SP cơ khí
trọng điểm, ban đầu chủ yếu thay thế nhập khẩu, sau hướng
tới xuất khẩu và gắn liền với việc phục vụ các ngành khác
kinh tế quốc dân khác; (ii) Tham gia chủ động, tích cực và có
chọn lọc vào quá trình phân công lao động quốc tế. Phát triển
không khép kín, tăng cường chuyên môn hoá và hợp tác trên
cơ sở phát huy các tiềm năng và lợi thế của các cơ sở sản
xuất cơ khí; (iii) Tăng cường khuyến khích, thu hút ĐTNN
vào các quá trình sản xuất công nghệ cao, vào những khâu cơ
bản Việt Nam còn yếu kém như đúc, rèn, tạo phôi lớn, nhiệt
luyện, xử lý bề mặt kim loại, sản xuất chi tiết quy chuẩn chất
lượng cao.
Từ đó xác định một số chỉ tiêu cụ thể về nhu cầu phát
triển của CNHT ngành cơ khí. Đối với phôi rèn, thường là
bán thành phẩm của khâu gia công cơ khí có thể chiếm tới
60% giá thành sản xuất. Ước tính nhu cầu phôi rèn của thị
trường Việt Nam hiện nay khoảng 180.000 tấn/năm, phôi đúc
vào khoảng 250.000 tấn/năm. Các cơ sở đúc rèn lớn hiện nay
chủ yếu tập trung ở phía Bắc (Hà Nội, Thái Nguyên, Hải
Phòng...) và số ít tại thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Nai.
Năng lực đáp ứng về đúc khoảng 45%, về rèn khoảng 30%.
Trên thực tế do nhiều nguyên nhân nên sản lượng chỉ đạt
chưa tới 25% nhu cầu. Luyện kim bột được dùng để sản xuất
các chi tiết chính xác như bạc trục, bánh răng trong các hộp
số, trong sản xuất dụng cụ cắt... và mới được Việt Nam áp
dụng ở quy mô nghiên cứu, sản xuất thử. Hiện nhu cầu cả
nước về các SP luyện kim bột được đánh giá vào khoảng

203
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

10.000 tấn/năm. Các chi tiết quy chuẩn như vòng bi, lò xo
cũng như bu lông - đai ốc chất lượng cao hiện phải nhập khẩu
với tỷ lệ lớn. Nhu cầu của cả nước về các SP bu lông - đai ốc
khoảng 27.000 - 30.000 tấn, năng lực sản xuất chỉ vào
khoảng 14.000 - 16.000 tấn, trong đó SP đạt tiêu chuẩn Việt
Nam chiếm sấp sỉ 60%.
Dự báo nhu cầu các SP phôi và các chi tiết quy chuẩn
được các chuyên gia xây dựng căn cứ theo dung lượng thị
trường hiện tại và tốc độ tăng trưởng CN trong từng giai đoạn
đến 2020 như sau:
STT Loại 2015 2020

1 Phôi đúc (tấn/năm) 500.000 650.000

2 Phôi rèn (tấn/năm) 350.000 500.000

3 Bu lông - đai ốc (tấn/năm) 45.000 55.000

Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển ngành CN giai đoạn
đến năm 2015, tầm nhìn 2020.
2. Đối với ngành điện tử - tin học
Ngành điện tử - tin học hiện phát triển rất nhanh với
vòng đời SP ngắn. Do đó khó tiên lượng được chính xác nhu
cầu các SP CNHT trong giai đoạn đến 2020, dẫn đến việc dự
báo chủ yếu mang tính định hướng thông qua nhu cầu thực tế
của các công ty có vốn ĐTNN và các DN sản xuất lắp ráp
điện tử trong nước. Vì vậy có thể nêu một số chủ trương tác
động đến nhu cầu của ngành: (i) Trong giai đoạn đến 2015,
phải tạo được một số các cơ sở sản xuất, nghiên cứu, đào tạo
có thể có tác động cấu trúc lại ngành, chuyển dần từ lắp ráp
đơn giản sang thiết kế, nghiên cứu phát triển SP mới; (ii)

204
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

Tranh thủ cơ hội, tập trung tạo các điều kiện thuận lợi nhất để
thu hút vốn đầu tư và công nghệ mới của các công ty/tập
đoàn đa quốc gia tích tụ sản xuất hỗ trợ theo hướng xuất
khẩu; (iii) Xây dựng ngành CNHT cho CN điện tử - tin học
theo xu hướng không khép kín và phấn đấu tham gia vào
chuỗi sản xuất và cung ứng linh phụ kiện của thế giới và khu
vực; (iv) Nuôi dưỡng và hỗ trợ phát triển các DN, đặc biệt là
các DNNVV trong công tác nghiên cứu phát triển SP mới,
chuyển giao và ứng dụng công nghệ mới, xây dựng đội ngũ
có trình độ cao để tăng sức cạnh tranh...
Từ đó xác định một số chỉ tiêu cụ thể về nhu cầu phát
triển của CNHT ngành điện tử - tin học. Các SP CNHT
ngành điện tử - tin học chủ yếu là mạch in, màn hình, đế
mạch in, vi mạch bán dẫn, các bộ cảm biến, các linh kiện,
phụ tùng cho thiết bị viễn thông, thiết bị truyền dẫn, hệ thống
bán dẫn tích hợp cao, quang điện tử, vi điều khiển, các thiết
bị SoC (System on-a chip), IC thông minh dựng cho thẻ,
những SP tín hiệu hỗn hợp, những vi mạch có bộ nhớ nhanh,
bộ nhớ STRAM... Bình quân giai đoạn 2006-2010, tăng
trưởng xuất khẩu khoảng 20%/năm, trong khi đó nhập khẩu
gần như không thay đổi. Dự kiến nhu cầu XNK linh kiện điện
tử - tin học trong các năm tiếp theo như sau:
STT Chỉ tiêu Đơn vị 2020
1 Nhu cầu nhập khẩu Tr. USD 1.700
2 Kim ngạch xuất khẩu Tr. USD 12.100

Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển ngành CN giai đoạn
đến năm 2015, tầm nhìn 2020.

205
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Nhu cầu về các SP CNHT:


STT Loại Đơn vị 2020

1 Các SP chi tiết nhựa (tấn/năm) 6.000-7.000


Điện tử gia dụng: vỏ tivi, điều
2 (tấn/năm) 4.000-4.200
hoà, máy giặt, nồi cơm điện…
Điện tử tin học: vỏ máy tính, vỏ
3 bàn phím, chuột, máy in, điện (tấn/năm) 2.000.-2500
thoại…
4 Linh phụ kiện bằng nhựa khác (tấn/năm) 400
Khuôn sử dụng cho đúc các linh
5 (bộ/năm) 70-80
kiện nhựa
6 Vỏ, khung sắt (tấn/năm) 2.500

Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển ngành CN giai đoạn đến
năm 2015, tầm nhìn 2020.
3. Đối với ngành sản xuất và lắp ráp ô tô
Dự báo nhu cầu các SP CNHT cho sản xuất và lắp ô tô
tải và xe khách được xây dựng dựa trên Chiến lược và quy
hoạch phát triển ngành sản xuất và lắp ráp ô tô Việt Nam đến
2015, tầm nhìn 2020: (i) Trong giai đoạn đầu sẽ tập trung
phục vụ cho việc lắp ráp các SP chính là xe tải và xe vận
chuyển hành khách nhiều chỗ ngồi, có gắn kết với việc đáp
ứng nhu cầu xe vận tải quân sự, xe dự trữ quốc gia. Ban đầu
đi từ việc tổ chức sản xuất các chi tiết hỗ trợ thông dụng, có
thể sử dụng cho nhiều mác xe, sau đó tiến tới nội địa hóa các
chi tiết chức năng của hệ động lực - động cơ, gồm hệ truyền
động, hộp số, cầu xe và cuối cùng là động cơ; (ii) Thu hút
đầu tư của các đối tác chiến lược nước ngoài để phát triển hệ
thống sản xuất CNHT cho việc lắp ráp các loại xe du lịch,
nâng dần tỷ lệ nội địa hoá. Ban đầu có thể bằng cách đầu tư

206
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

chiều sâu phát triển các cơ sở sản xuất CNHT của ngành sản
xuất và lắp ráp ô tô hiện có. Sau đó, tuỳ theo dung lượng thị
trường sẽ phát triển sản xuất phụ tùng thay thế và dần gia
nhập vào dây chuyền sản xuất phụ tùng, phụ kiện cho các
hãng, tập đoàn sản xuất ô tô quốc tế; (iii) Các công
nghệ mới cần được lựa chọn ứng dụng với tiêu chuẩn đảm
bảo không lạc hậu tối thiểu sau 15 năm, giai đoạn 2010-2015,
xây dựng và củng cố thương hiệu SP, tiến tới xuất khẩu một
số SP CNHT ngành ô tô, giai đoạn 2015-2020, phấn đấu các
SP CNHT ngành ô tô tải và xe khách đạt phần lớn các quy
định của tiêu chuẩn quốc tế.
Từ đó xác định một số chỉ tiêu cụ thể về nhu cầu phát
triển của CNHT ngành sản xuất và lắp ráp ô tô. Nhu cầu các
SP CNHT chủ yếu trong nước:
STT Loại Đơn vị 2015 2020
1 Cabin xe tải Ch/năm 78.000 92.000
2 Khung xe tải Ch/năm 78.000 92.000
3 Khung xe khách Ch/năm 31.500 56.000
4 Vỏ xe khách Ch/năm 31.500 56.000
5 Hệ thống treo xe tải Ch/năm 78.000 92.000
6 Hệ thống treo xe khách Ch/năm 31.500 56.000
Động cơ theo các nhóm công
7 Ch/năm 78.500 103.600
suất
8 Cầu, các đăng, hộp số Bộ/năm 133.900 98.600
9 Hệ thống lái và cầu trước Hệ/năm 109.500 109.500
Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển ngành CN giai đoạn đến
năm 2015, tầm nhìn 2020

207
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Nhu cầu các SP CNHT của ngành sản xuất và lắp ráp ô
tô có thể tham gia xuất khẩu như sau:
STT Loại Đơn vị 2015 2020

1 Nhựa dẻo hoá học tấn/năm 0 4.500

2 Kính và hỗn hợp vô cơ tấn/năm 2.360 8.150

3 Vải tấn/năm 310 2.900

4 Cao su tấn/năm 18.100 41.500

Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển ngành CN giai đoạn
đến năm 2015, tầm nhìn 2020
4. Đối với ngành dệt - may
Dự báo nhu cầu của các SP CNHT cho ngành dệt - may
được xây dựng dựa trên chiến lược và quy hoạch phát triển
ngành dệt may đến 2015, tầm nhìn 2020 đã được phê duyệt:
(i) Nội địa hoá một số SP CNHT theo hướng thay thế nhập
khẩu để nâng cao tính chủ động trong sản xuất và khả năng
cạnh tranh, giảm giá thành; (ii) Tập trung cao cho việc thu
hút đầu tư sản xuất vải trong nước. Đồng thời lựa chọn phát
triển một số nhóm SP CNHT chủ yếu phù hợp với tiềm năng,
khả năng công nghệ trong nước; (iii) CNHT dệt - may cần có
sự phối hợp liên ngành, khuyến khích các thành phần kinh tế
tham gia sản xuất các SP CNHT ngành dệt - may, đặc biệt là
các nhà ĐTNN; (iv) Hình thành 3 trung tâm (khu, cụm CN
tập trung) nguyên phụ liệu dệt may ở phía Bắc và phía Nam
và miền Trung; (v) Phát triển sản xuất một số các loại hoá
chất, chất trợ cho ngành dệt may như các chất làm mềm; các

208
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

loại chất giặt, tẩy; các loại hồ dệt có nguồn gốc tinh bột; hồ
hoàn tất tổng hợp.
Từ đó xác định một số chỉ tiêu cụ thể về nhu cầu phát
triển của CNHT ngành dệt may như sau:
STT Sản phẩm Đơn vị 2015 2020

Nhu cầu về vải dệt:

1 Vải dệt thoi (triệu m2) 1.800 2.000


Tỷ lệ đáp ứng nhu cầu
2 (%) 39,00 40,61
vải dệt
3 Vải dệt kim (triệu sp) 300 400

4 SP may (triệu sp) 1.500 1.800

5 Tỷ lệ nội địa hoá may (%) 60 70


Nhu cầu tiêu thụ xơ sợi:
6 Xơ sợi PP nghìn tấn 1.700 2.740
7 Xơ sợi PE nghìn tấn 380 600
8 Sợi các loại nghìn tấn 859 1.380
Nhu cầu hoá chất:
9 H/C nhuộm nghìn tấn 12.141 23.377
10 Chất trợ nghìn tấn 26.182 50.412
11 Hóa chất nghìn tấn 123.311 237.426
Nhu cầu các SP cơ khí dệt - may:
Cọc sợi, suốt sắt, suốt
cao su, nồi, khuyên,
12 (tấn/năm) 780 1.200
bánh răng, trục truyền
động..
Các phụ tùng go, khung
13 (tấn/năm) 520 800
go máy dệt, cam máy

209
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

STT Sản phẩm Đơn vị 2015 2020


dệt...
Các phụ tùng cho thiết
14 (tấn/năm) 650 1.000
bị nhuộm hoàn tất
15 Các phụ tùng khác... (tấn/năm) 390 600
Các thiết bị máy kéo
16 sợi, dệt vải, nhuộm (tấn/năm) 1.950 3.000
thông thường.
Các thiết bị hỗ trợ
17 (tấn/năm) 1.560 2.400
khác...
Nhu cầu phụ liệu may:
18 Cúc nhựa Tr. chiếc 15.673 24.113
19 Mếx không dệt Tr. mét 154 237
20 Mếx dệt Tr. mét 146 225
21 Nhãn Tr. chiếc 4.008 6.166
22 Băng chun Tr. mét 2.880 4.430
23 Băng gai Tr. mét 205 316
24 Khóa kéo Tr. mét 1.086 1.670
25 Băng dệt Tr. mét 397 611

Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển ngành CN giai đoạn
đến năm 2015, tầm nhìn 2020
5. Đối với ngành da - giầy
Dự báo nhu cầu các SP CNHT cho ngành da - giầy
được xây dựng dựa trên Quy hoạch tổng thể phát triển ngành
Da - Giầy Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025:
(i) Tăng cường khâu thiết kế mẫu, phát triển thị trường để
giảm bớt dần tình trạng sản xuất gia công; (ii) Tập trung đầu
tư cho khâu sản xuất mẫu, khuôn phom để hỗ trợ cho các cơ

210
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

sở sản xuất da - giầy phát triển; (iii) Nhanh chóng sắp xếp và
phát triển lĩnh vực sản xuất vật liệu da và giả da, cung cấp
nguyên liệu cho sản xuất giày dép xuất khẩu; (iv) Tập trung
đầu tư bổ sung máy móc thiết bị ở khâu trau chuốt hoàn tất,
nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật và quản lý nhằm khai
thác tốt hơn năng lực thuộc da hiện có, nâng cao chất lượng
SP và đa dạng hoá các mặt hàng da thuộc; (v) Giảm thiểu tình
trạng ô nhiễm môi trường trong sản xuất thuộc da như di dời
các DN và cơ sở thuộc da ô nhiễm hiện đang tồn tại trong dân
cư, ứng dụng các công nghệ tiên tiến, không gây ô nhiễm;
(vi) Tập trung đầu tư phát triển thị trường và tổ chức các cơ
sở sản xuất mẫu, khuôn mẫu, phom hỗ trợ cho ngành sản xuất
dày dép.
Từ đó xác định một số chỉ tiêu cụ thể về nhu cầu phát
triển của CNHT ngành da - giầy. Đến năm 2020, tổng SP
giầy dép các loại dự kiến đạt 1,6 tỉ đôi, vali, cặp, túi, ví các
loại đạt gần 300 triệu chiếc, da thuộc cứng đạt 63 nghìn tấn....
Kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành năm 2015 là 9,1 tỉ
USD, năm 2020 là 14,5 tỉ USD và năm 2025 đạt 21 tỉ USD.
Tỷ lệ nội địa hoá các loại SP toàn ngành năm 2015 đạt 60-
65%, năm 2020 đạt 75-80 % và năm 2025 đạt 80-85%.
Nhu cầu về nguyên phụ liệu cho ngành da - giầy:
STT Nguyên vật liệu Đơn vị 2015 2020
1 Da Tr. sqft 120 150
2 Giả da Tr. yard 120 150
3 Vải các loại Tr. yard 200 250
4 Đế giày Nghìn tấn 700 1.000
5 Keo tổng hợp Tấn 13.000 15.000

211
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

STT Nguyên vật liệu Đơn vị 2015 2020


6 Phụ liệu Tấn 120.000 150.000
7 Hóa chất (cho SX da thuộc) Tấn 12.000 15.000
8 Da muối (trong nước) Tấn 50.000 70.000

Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển ngành CN giai đoạn đến
năm 2015, tầm nhìn 2020
III. QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƯỚNG CỦA VIỆC
HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI NHẰM
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở VIỆT NAM
1. Quan điểm của việc hoàn thiện chính sách thương
mại nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam
Quan điểm về hoàn thiện CSTM nhằm phát triển
CNHT trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế cần bao gồm
những nội dung sau:
Thứ nhất, hoàn thiện CSTM lấy phát triển CNHT làm
mục tiêu để giảm nhập siêu, tiến tới cân bằng cán cân
thương mại và CSTM phải trở thành động lực để phát triển
CNHT.
Sự yếu kém của CNHT cũng góp phần vào thâm hụt
cán cân TM của Việt Nam. Khi các nhà cung cấp trong nước
không có, hoặc không đủ, các DN chính buộc phải tìm kiếm
nguồn cung cấp từ nước ngoài. Chính điều này dẫn đến tình
trạng “nhập để xuất” trong sản xuất CN, càng đẩy mạnh xuất
khẩu thì nhu cầu về đầu vào cho sản xuất càng tăng mạnh dẫn
đến tình trạng nhập siêu của Việt Nam. Hoàn thiện CSTM
phát triển CNHT là một trong các hoạt động góp phần đẩy
mạnh tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của

212
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

Việt Nam. Thông qua việc hoàn thiện CSTM phát triển
CNHT trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, các DN Việt
Nam sẽ gia tăng khả năng tiếp cận thị trường và khả năng
cạnh tranh trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, việc hoàn
thiện CSTM phát triển CNHT sẽ tạo điều kiện tăng cường
gắn kết sự phối hợp giữa các cấp, các ngành và cộng đồng
DN. Việc chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng gia tăng
xuất khẩu những mặt hàng chế biến, chế tạo và những mặt
hàng có giá trị gia tăng cao và việc quản lý nhập khẩu (kiềm
chế nhập siêu) sẽ góp phần tăng trưởng kinh tế và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam.
Ngược lại, để phát triển CNHT rất cần hệ thống các
chính sách đồng bộ của Nhà nước, trong đó CSTM được coi
là động lực thúc đẩy quan trọng. CSTM tác động mạnh mẽ
đến quá trình tái sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, quy
mô và phương thức tham gia của nền kinh tế mỗi quốc gia
vào phân công lao động quốc tế và TM quốc tế. Nó có vai trò
to lớn trong việc khai thác triệt để lợi thế so sánh của nền
kinh tế trong nước, phát triển các ngành sản xuất, trong đó có
CNHT đến quy mô tối ưu … CSTM cũng tạo điều kiện cho
việc mở rộng giao lưu hàng hoá và xuất khẩu, tạo ra nhu cầu
cạnh tranh với hàng nhập khẩu, bắt buộc các DN trong nước
phải giảm chi phí, tăng năng suất, nâng cao chất lượng SP và
có sức cạnh tranh tốt hơn. CSTM cũng tác động đồng bộ
cùng các chính sách khác đến việc tạo lập môi trường vĩ mô
ổn định, cơ sở hạ tầng tốt, lực lượng lao động có trình độ, hệ
thống tài chính nhạy bén, khuyến khích việc tiếp nhận công
nghệ mới và thúc đẩy cạnh tranh. Đặc biệt, hiện nay ngành
Thương mại và ngành Công nghiệp do cùng Bộ Công

213
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Thương quản lý nên việc phối hợp các chính sách sẽ thuận lợi
hơn rất nhiều.
Thứ hai, hoàn thiện CSTM phát triển CNHT phải trên
quan điểm chủ động gắn liền với mục tiêu công nghiệp hóa -
hiện đại hoá và và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của
nước ta. Phải tập trung đầu tư vào một số ngành cụ thể của
CNHT có hiệu quả sau đó mở rộng sang các ngành CNHT
cụ thể khác.
CSTM phát triển CNHT là một bộ phận không thể tách
rời trong hệ thống chính sách kinh tế xã hội của đất nước.
Hoạt động XNK và hội nhập kinh tế quốc tế chỉ là một trong
19 định hướng về phát triển các lĩnh vực, ngành tại Việt
Nam. Việc hoàn thiện CSTM phát triển CNHT do đó phải
được gắn kết chặt chẽ với các chính sách kinh tế - xã hội,
đặc biệt là chính sách CN. Việc chủ động hoàn thiện CSTM
phát triển CNHT liên quan tới các hàng loạt các vấn đề như
nhận thức, trách nhiệm của các bên liên quan; và cả việc huy
động và sử dụng các nguồn lực cần thiết. Việc chủ động
hoàn thiện CSTM phát triển CNHT thể hiện ở nhận thức về
mối quan hệ giữa tự do hoá TM và bảo hộ mậu dịch trong
quá trình hoàn thiện CSTM phát triển CNHT cho phù hợp
với bối cảnh của Việt Nam; hoàn thiện các công cụ thuế
quan và phi thuế quan cho từng ngành, từng lĩnh vực, từng
hàng hoá cụ thể, và chủ động tổ chức phối hợp hoàn thiện
chính sách. Việc chủ động hoàn thiện CSTM phát triển
CNHT còn thể hiện ở việc chủ động đưa ra các nội dung và
đề xuất cách thức giải quyết các vấn đề trong các quan hệ
song phương và trong các tổ chức khu vực và quốc tế mà
Việt Nam tham gia. Nhận thức của lãnh đạo và các cấp thực

214
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

thi được thể hiện bằng tầm nhìn và chương trình hành động.
Các chương trình hành động về hoàn thiện CSTM cũng cần
được gắn chặt chẽ với các nguồn lực về trang thiết bị, tài
chính, con người.
Mặt khác, hoàn thiện CSTM phát triển CNHT phải gắn
với việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đảm bảo khai
thác được lợi thế của nước đi sau trong hội nhập kinh tế quốc
tế. Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN
vào năm 1995, thành viên chính thức của APEC vào năm
1998, ký Hiệp định TM Việt Nam - Hoa Kỳ vào năm 2000
và trở thành thành viên của WTO vào năm 2007. So với các
nước ở khu vực Đông Á thì Việt Nam là nước đi sau trong
hội nhập kinh tế quốc tế. Là nước đi sau, Việt Nam vừa bất
lợi (bỏ qua những cơ hội trong quá khứ) nhưng cũng vừa có
lợi (rút kinh nghiệm từ quá khứ và khai thác được các cơ hội
đang tới). Để đảm bảo khai thác lợi thế của nước đi sau, các
quốc gia phải có những chuẩn bị về mặt tinh thần như tự tin
là khai thác tốt các lợi thế của nước đi sau, thay đổi nhận
thức về cách thức hoàn thiện CSTM phát triển CNHT ở các
bên liên quan đến việc hoạch định và thực hiện chính sách.
Lợi thế này thể hiện ở việc đúc rút kinh nghiệm trong hoàn
thiện chính sách và khai thác các ưu đãi mà Việt Nam có thể
được hưởng từ việc mở rộng hợp tác song phương, tham gia
các tổ chức khu vực và quốc tế. Ngoài ra, trong quá trình hội
nhập quốc tế, Việt Nam phải đảm bảo tuân thủ các nguyên
tắc chung, thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ thành viên của
các tổ chức khu vực và quốc tế mà Việt Nam tham gia nhưng
không bó buộc trong một lịch trình nhất định. Việt Nam phải
đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc như (i) không phân biệt đối

215
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

xử thông qua thực hiện quy chế tối huệ quốc (MFN) và
nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT); (ii) nguyên tắc về TM tự
do hơn (ngày càng giảm dần các biện pháp can thiệp vào
TM); (iii) nguyên tắc về tính có thể dự đoán và đảm bảo
minh bạch hoá quá trình thiết kế và thực thi chính sách; (iv)
đảm bảo cạnh tranh công bằng; (v) khuyến khích phát triển
và cải cách kinh tế. Các quyền lợi về thâm nhập thị trường,
tham gia đàm phán và các nghĩa vụ như mở cửa thị trường,
báo cáo tình hình thực hiện cắt giảm các biện pháp can thiệp
vào TM, đầu tư cần phải được thực hiện. Việt Nam phải điều
chỉnh chính sách cho phù hợp với luật chơi chung trong các
tổ chức đó. Việc quán triệt quan điểm này sẽ đảm bảo đáp
ứng yêu cầu của các tổ chức khu vực, quốc tế và chủ động
tận dụng được các cơ hội từ hội nhập kinh tế quốc tế. Việc
đàm phán thay đổi hoàn toàn lịch trình thực hiện cam kết là
điều không nên làm và khó có thể được chấp nhận. Việt Nam
cần xác định thái độ tuân thủ nhưng không bó buộc trong các
lịch trình thực hiện bởi vì những mốc thời gian là mục tiêu
chung và các quốc gia được quyền chủ động đề xuất việc cắt
giảm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan tại các cuộc
đàm phán cũng như có những linh hoạt trong một khuôn khổ
nhất định khi thực hiện (lộ trình cho từng mặt hàng, từng
lĩnh vực cụ thể).
Thứ ba, hoàn thiện CSTM phát triển CNHT phải đảm
bảo sự tham gia của không chỉ các cơ quan quản lý nhà
nước (hoạch định và thực thi chính sách) mà cả các đối
tượng khác như cộng đồng DN và giới nghiên cứu. Sự tham
gia của các thành phần này thể hiện bằng việc chia xẻ trách
nhiệm, nguồn lực và lợi ích trong việc hoàn thiện CSTM.
Nội dung hoàn thiện CSTM phát triển CNHT (đã được nêu

216
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

ra ở trên) bao gồm hoàn thiện cách tiếp cận CSTM; hoàn
thiện các công cụ của CSTM; tăng cường liên kết TM - CN
và phối hợp hoàn thiện CSTM. Các cơ quan quản lý nhà
nước và cộng đồng DN phải chia sẻ trách nhiệm và nguồn
lực trong quá trình này. Việc chia xẻ trách nhiệm, nguồn lực
và lợi ích cụ thể như thế nào giữa các bên cần được làm rõ
trong quá trình hoàn thiện chính sách.
Việc hoàn thiện CSTM phát triển CNHT đòi hỏi các
nhà hoạch định chính sách khả năng phân tích, đánh giá các
cơ hội thị trường, đánh giá điểm mạnh và điểm yếu của quốc
gia mình trong mối quan hệ với các quốc gia khác.
2. Định hướng của việc hoàn thiện chính sách thương
mại nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam
Thứ nhất, tập trung theo hướng hoàn thiện CSTM vào
những ngành CNHT đã được xác định là trọng tâm, trọng
điểm cần phát triển trong thời gian tới, đó là CNHT các
ngành: cơ khí chế tạo, điện tử - tin học, sản xuất và lắp ráp ô
tô, dệt - may, da - giầy. Các ngành này đã được lựa chọn để
khuyến khích phát triển của Việt Nam thể hiện qua quyết
định số 12/2011/QĐ-TTg về chính sách phát triển một số
ngành CNHT và quyết định số 34/2007/QĐ-BCT phê duyệt
“Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành CNHT của Việt
Nam đến năm 2010, tầm nhìn 2020”.
Thứ hai, hoàn thiện CSTM nhằm phát triển CNHT theo
hướng thiết thực đóng góp vào mục tiêu đến năm 2020, Việt
Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
và các mục tiêu chiến lược phát triển CNHT đã xác định
trong bản quy hoạch. Để đạt được điều này, CSTM phát triển
CNHT cần chú ý thu hút vốn ĐTNN, đặc biệt trong giai đoạn

217
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

đầu, khu vực có vốn ĐTNN với ưu thế về vốn, công nghệ và
đặc biệt là thị trường sẽ là cầu nối trong những với mạng lưới
sản xuất khu vực và thế giới. CSTM cần chú ý không chỉ thu
hút mà còn phải gắn kết giữa khu vực có vốn ĐTNN và khu
vực trong nước.
Thứ ba, CSTM phải chú trọng xây dựng và nâng cao uy
tín của SP CNHT cả ở thị trường trong nước và thị trường
quốc tế, thông qua các biện pháp giám sát và quản lý chất
lượng hàng hoá xuất khẩu theo tiêu chuẩn quốc tế, khuyến
khích các doanh nghiệp cải tiến mẫu mã, đóng gói, bao bì
đồng thời tích cực tuyên truyền, quảng bá ở nước ngoài; Tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất hàng xuất
khẩu đạt các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế như ISO 9000, ISO
14000, HACCP... nhằm xoá bỏ những rào cản kỹ thuật do các
nước phát triển đặt ra.
Thứ tư, CSTM phải theo hướng thúc đẩy khả năng tham
gia xuất khẩu của các DN Việt Nam, đặc biệt là các DNNVV.
Xuất phát từ vai trò của các DNNVV như là yếu tố tiềm năng
quan trọng giúp tăng trưởng xuất khẩu của các nước đang
phát triển nói chung và của Việt Nam nói riêng. Thời gian
trước mắt vẫn cần đẩy mạnh xuất khẩu của các doanh nghiệp
lớn nhưng bên cạnh đó, phải tập trung mọi nỗ lực của Nhà
nước và toàn xã hội hỗ trợ các DNNVV tham gia xuất khẩu,
nâng phần đóng góp của DNNVV trong xuất khẩu tương ứng
với tiềm năng của khu vực này. Ngoài ra, CSTM phải tăng
cường các hoạt động xúc tiến xuất khẩu ở nước ngoài đi đôi
với việc cải tiến khả năng cung cấp cho xuất khẩu ở trong
nước và đẩy nhanh tốc độ quốc tế hoá các doanh nghiệp trong
nước. Tăng cường cử cán bộ tổ chức các hoạt động xúc tiến

218
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

TM ở nước ngoài, khuyến khích các doanh nghiệp mở đại


diện thường trú, văn phòng liên lạc, đại diện uỷ thác, công ty
liên doanh trước mắt là ở các thị trường trọng điểm và các
trung tâm thương mại lớn của thế giới như Mỹ, Nhật bản,
EU, Trung Quốc... để phát triển thị trường xuất khẩu. Triển
khai xây dựng các Trung tâm thương mại Việt nam ở nước
ngoài, tích cực tuyên truyền, quảng bá các sản phẩm và dịch
vụ Việt Nam cũng như hình ảnh về một đất nước Việt Nam
an toàn, một đối tác thương mại tin cậy. Mặt khác, công tác
xúc tiến xuất khẩu cần phải quan tâm hơn nữa tới việc phát
triển năng lực cung ứng hàng hoá và dịch vụ cho xuất khẩu
thông qua việc tăng cường năng lực nghiên cứu, triển khai,
năng lực thiết kế và chế tạo sản phẩm, phát triển sản phẩm
mới, đổi mới trình độ khoa học và công nghệ để tăng năng
suất và nâng cao chất lượng sản phẩm. Đồng thời, công tác
xúc tiến xuất khẩu còn phải chú ý giúp hoàn thiện cơ cấu tổ
chức và nâng cao năng lực quản lý của các DN thông qua các
dịch vụ hỗ trợ về đào tạo và dịch vụ thuận lợi hoá thương mại
để DN có khả năng khả năng cạnh tranh tổng thể, biết điều
chỉnh mình để thích ứng với sự thay đổi phương thức kinh
doanh cũng như đáp ứng được sự trông đợi của thị trường về
một nhà cung cấp cạnh tranh...
Thứ năm, xây dựng CSTM phát triển CNHT một cách
đồng bộ, nhất quán, trên cơ sở thể chế phù hợp, đảm bảo tính
thực tiễn, khả thi, phục vụ tốt nhu cầu của DN CNHT. Các
CSTM này đảm bảo tính nhất quán và xuyên suốt từ chiến
lược, quy hoạch đến chính sách, thể hiện quyết tâm và ổn
định trong chính sách. Điều này đòi hỏi vai trò của CNHT và

219
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

sự cần thiết của CSTM nhằm phát triển CNHT được khẳng
định trong các văn kiện mang tính định hướng dài hạn.
Thứ sáu, CSTM tạo điều kiện phát triển được hệ thống
các mối liên kết DN, bao gồm liên kết giữa DN CNHT của
Việt Nam với DNCN chính (của Việt Nam và nước ngoài) và
liên kết giữa các DN CNHT, bao gồm: (i) Liên kết giữa
CNHT trong nước và CN chính trong nước thông qua việc
lựa chọn và phát triển các DNCN chủ đạo trong nước; (ii)
Liên kết giữa CNHT trong nước với CN chính nước ngoài
thông qua thành lập các khu kinh tế mở; (iii) Liên kết giữa
CNHT trong nước với CNHT nước ngoài thông qua cơ chế
hợp tác của hiệp hội; (iv) Liên kết giữa các DN CNHT trong
nước thông qua chia sẻ thông tin, nguồn nhân lực.
IV. GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN CHÍNH
SÁCH THƯƠNG MẠI NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG
NGHIỆP HỖ TRỢ
1. Hoàn thiện văn bản, chiến lược cấp quốc gia nhằm
phát triển công nghiệp hỗ trợ
1.1. Bổ sung chính sách ưu tiên phát triển công nghiệp
hỗ trợ trong hệ thống văn bản, chiến lược của Việt Nam
Hiện nay trong hệ thống luật pháp nước ta vẫn chưa có
định nghĩa về CNHT. Nếu so sánh với các nước trong khu
vực như Nhật Bản thì từ năm 1949, Nhật Bản đã có đạo luật
hỗ trợ về vấn đề này, năm 1956 - 1958 thêm 2 đạo luật và
Hàn Quốc cũng ban hành đạo luật chứ không phải là các loại
văn bản. Đến năm 2007, Thủ tướng chính phủ đã chỉ thị Bộ
Công Thương xây dựng nghị định về CNHT nhưng đến tháng
2/2011 mới ra được quyết định số 12/2011/QĐ-TTg về chính

220
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

sách phát triển một số ngành CNHT. Trong dự thảo quyết


định 12, Bộ Công Thương đã đưa ra nhiều ưu đãi cụ thể, tuy
nhiên sau đó đã không được đưa vào, kết quả là cho ra một
quyết định rất chung chung.
Bởi vậy vấn đề đầu tiên đặt ra là Chính phủ cần phải
xây dựng một định nghĩa mang tính pháp lý về các ngành
CNHT, làm cơ sở cho việc xây dựng một khuôn khổ chính
sách phù hợp và đảm bảo tính khả thi của các chính sách này
trong chiến lược phát triển ngành các CNHT. Đồng thời,
trong quá trình hoạch định chính sách, Chính phủ cần phối
hợp chặt chẽ với các Bộ và DN liên quan, cần đưa ra những
nội dung hỗ trợ mạnh mẽ, hiệu quả đối với sự phát triển của
CNHT Việt Nam về cơ sở hạ tầng, về thuế, về các chính sách
tài chính, về thông tin và sự hợp tác quốc tế trên bình diện
quốc gia…
Trong Chiến lược phát triển TM, Chiến lược phát triển
XNK, các văn bản quản lý Nhà nước về TM cũng nên bổ
sung các nội dung ưu tiên phát triển CNHT.
Định hướng này làm cơ sở để đầu tư phát triển ngành
và điều chỉnh, bổ sung các chính sách có liên quan, thể hiện
qua các quy hoạch tổng thể phát triển từng ngành CN. Điều
quan trọng trong quy hoạch này là phải phân tích toàn diện
các quan hệ liên ngành và đưa ra quan điểm hợp lý trong việc
xử lý các quan hệ đó. Cần xác định loại nguyên phụ liệu nào
có thể nhập khẩu từ các nước có công nghệ tiên tiến hơn,
hoặc theo các quan hệ kinh tế ổn định trước đó, còn loại
nguyên liệu nào cần và có thể đầu tư trong nước thì nên tập
trung vốn và chuyên giao công nghệ để nâng cao khả năng
cạnh tranh của SP khi xuất khẩu ra nước ngoài.

221
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, để tận dụng hiệu
quả các nguồn lực còn hạn hẹp, việc phát triển CNHT không
nên thực hiện theo cách dàn trải cho tất cả các ngành, mà cần
phải phân chia thành các nhóm ngành để xác định hướng đi
thích hợp với những trong tâm trong từng giai đoạn phát
triển. Đồng thời, Chính phủ cần có các chính sách xác định rõ
các lĩnh vực cần được ưu tiên phát triển CNHT. Chẳng hạn
như hiện nay các lĩnh vực như cán thép, đúc, xử lý nhiệt và
chế tạo là những lĩnh vực còn tương đối lạc hậu, nên có thể
tập trung phát triển CNHT trong những lĩnh vực này.
1.2. Hoàn thiện chiến lược phát triển các ngành
(nhóm sản phẩm) công nghiệp hỗ trợ trên cơ sở phân loại
khả năng cạnh tranh
Giải pháp này liên quan trực tiếp đến đổi mới công tác
quy hoạch phát triển CNHT (và rộng hơn là đổi mới vai trò
của Nhà nước trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế). Nhà
nước tập trung nghiên cứu tầm nhìn dài hạn trên cơ sở những
dự báo có luận cứ khoa học, làm rõ những cơ hội và thách
thức, điểm mạnh, điểm yếu của nền kinh tế và từng nhóm SP
để đưa ra những khuyến nghị có tính chất định hướng cho
các chủ thể đầu tư. Trên cơ sở đó, Nhà nước tập trung nguồn
lực và sự nỗ lực của mình vào bảo đảm cho xã hội những
hàng hóa công cộng và tạo môi trường thuận lợi thu hút các
nguồn lực phát triển các hàng hóa thông thường.
Để thực hiện các bảo hộ sản xuất CNHT phù hợp với
các quy định của WTO, định hướng đầu tư phát triển sản
xuất CNHT phải cụ thể hóa chủ trương “hướng mạnh về xuất
khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu” những SP trong nước
sản xuất có hiệu quả. Theo đó:

222
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

Thứ nhất, tập trung phát triển các SP trong nước có lợi
thế cạnh tranh cả trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế
từ khai tác các lợi thế so sánh của đất nước và của từng vùng
lãnh thổ về nhân lực, tài nguyên và truyền thống nghề nghiệp.
Thứ hai, phát triển có chọn lọc một số SP có tiềm lực
cải thiện lợi thế cạnh tranh, trong đó có các ngành công nghệ
cao, với sự trợ giúp của Nhà nước trong khuôn khổ các cam
kết quốc tế và quy định của WTO.
Thứ ba, tập trung đầu tư phát triển một số SP (bộ phận,
chi tiết sản phẩm) để tham gia vào “chuỗi giá trị toàn cầu”
trên cơ sở thiết lập quan hệ với các đối tác thích hợp, chủ
yếu là các tập đoàn xuyên quốc gia có mạng sản xuất và
phân phối toàn cầu.
1.3. Tăng cường phối hợp trong việc xây dựng chính
sách thương mại và chính sách công nghiệp nhằm phát
triển công nghiệp hỗ trợ
Những tin tức về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam thường xuyên được truyền tải tới cộng đồng
DN qua nhiều phương tiện truyền tin khác nhau (báo chí, hội
thảo, hội nghị, gặp mặt, trao đổi kinh nghiệm,...). Tuy nhiên,
những vấn đề đặt ra cho việc triển khai thực hiện để vừa
đảm bảo phù hợp với các cam kết quốc tế, vừa đạt được các
mục tiêu CN hoá của Việt Nam, đòi hỏi sự phối hợp hoàn
thiện chính sách từ các đơn vị khác nhau (trong và ngoài Bộ
Công Thương). Đối tượng mục tiêu cho việc nâng cao nhận
thức về vai trò của việc phối hợp này bao gồm các cơ quan
quản lý bộ ngành, các cơ quan được phân công triển khai
thực hiện cam kết và cộng đồng DN. Lãnh đạo cao cấp của
Việt Nam đã nhìn rõ những hạn chế trong việc phối hợp

223
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

hoạch định và triển khai thực hiện chính sách và có hàng


loạt chỉ đạo về sự phối hợp giữa các bộ ngành. Tuy nhiên,
kết quả đạt được về việc phối hợp hoàn thiện CSTM nói
riêng việc hoàn thiện chính sách nói chung còn chưa được
như mong đợi. Vấn đề là nhận thức về sự cần thiết của việc
phối hợp hoàn thiện đã có nhưng mức độ quyết liệt trong
chỉ đạo thực hiện công việc này còn chưa đủ, công việc này
cần được đưa vào như một nội dung họp giao ban thường
kỳ giữa các thành viên chính phủ. Việc làm tương tự được
thực hiện tại các bộ ngành, cộng đồng DN.
Để đảm bảo thực hiện được điều này, tại mỗi cấp cần
có một bộ phận làm công tác rà soát, tổng hợp và lên kế
hoạch cho việc thực hiện phối hợp hoàn thiện chính sách.
Các nội dung, lịch trình và điều kiện phối hợp hoàn thiện
CSTM phát triển CNHT cần được đệ trình lên Chính phủ
thông qua cơ quan đầu mối phối hợp là Bộ Công Thương.
Cùng với việc có một khái niệm pháp lý thống nhất về
CNHT, điều quan trọng hơn là cần có chiến lược quốc gia
nâng cao nhận thức từ chính phủ đến các cơ quan quản lý và
các DN về CNHT, nhất là vị thế của các ngành sản xuất kỹ
thuật cao. Cần phải xác định một cách rõ ràng CNHT không
phải là ngành CN “phụ”, các ngành CN xương sống thậm chí
sẽ không thể phát triển được nếu không có CNHT.
Chính phủ cần nhận diện lại vấn đề và tham gia tích
cực vào cuộc chơi này hơn nữa bằng cách lập ra một cơ quan
đầu mối cho các DN cung cấp chi tiết linh kiện. Trên thực tế,
nước láng giềng Thái Lan đã làm rất tốt việc này trong thời
kỳ công nghiệp hóa của họ. Họ đã có một cơ quan nhà nước
luôn theo dõi việc hỗ trợ DNNVV để “chui” vào các hãng

224
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

chính. Trong khi ở nước ta thì vẫn chưa có một cơ quan nào
phụ trách công việc này.
1.4. Điều chỉnh hợp lý lộ trình tự do hóa đối với các
ngành chế tạo sản phẩm thay thế nhập khẩu
Thực hiện hợp lý chính sách “nội địa hóa” với các biện
pháp hỗ trợ cần thiết. Một mặt tạo áp lực trực tiếp với các nhà
sản xuất hạ nguồn tìm và trợ giúp các nhà sản xuất trong
nước đáp ứng yêu cầu của mình; mặt khác, không đưa các
DN hạ nguồn vào thế bế tắc dẫn đến đình đốn sản xuất, mất
thị trường. Chính sách này cần phải được đi kèm với chính
sách hạn chế nhập khẩu SP hoàn chỉnh và các nguyên, phụ
liệu nằm trong danh sách phải được “nội địa hóa”.
Thực hiện chiến lược phát triển thị trường nội địa. Nhà
nước cần tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi cho DN
trong nước phát triển thị trường nội địa, quan tâm giải quyết
các vướng mắc, giảm đến mức thấp nhất có thể hiện tượng
buôn lậu, trốn thuế, áp dụng linh hoạt tỷ lệ nội địa hóa trong
việc phát triển các ngành CN phù hợp với cam kết thương
mại của Việt Nam. Chính phủ cần căn cứ vào điều kiện và
khả năng thực tế của đất nước để có lộ trình nội địa hóa hợp
lý, không thể “vẽ vời” ra những con số thiếu thực tế trong
điều kiện nhân, vật lực và trình độ khoa học công nghệ của
Việt Nam còn hạn chế. Chẳng hạn, với ngành CNHT còn
hoang sơ như thế, việc đề ra mục tiêu cho các DN ô tô đến
năm 2010 nội địa hóa trên 50% là chuyện không tưởng. Mặt
khác, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặt ra vấn đề về
cách thức hỗ trợ các nhóm DN, các ngành hướng vào xuất
khẩu và cách thức hỗ trợ các ngành thay thế nhập khẩu.

225
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Những nội dung như cách điều chỉnh biểu thuế ngành CN
điện tử, ngành thép, chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt đối với
ngành ô tô và quản lý nhập khẩu ô tô cũ cần được đưa vào
như những ưu tiên trong việc xem xét lộ trình tự do hoá các
ngành chế tạo.
Đây là công việc liên quan tới hàng loạt các đơn vị
như Bộ CN, Bộ Bưu chính Viễn thông, Bộ Tài chính, Bộ
Công Thương, Bộ Khoa học Công nghệ, các hiệp hội ngành
hàng (Hiệp hội thép, Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt
Nam, Hiệp hội điện tử) và các DN. Các đơn vị này phải tạo
ra các diễn đàn, các nhóm làm việc chung để thống nhất
một lộ trình và cách thức triển khai thực hiện rõ ràng trong
dài hạn. Bên cạnh đó, Chính phủ nên hỗ trợ các hoạt động ở
các ngành hỗ trợ theo cách tiếp cận lấy DN làm trung tâm.
Để đảm bảo thực hiện được điều này, tất cả các đơn vị liên
quan kể trên cần đưa ra các lý do và dẫn chứng xác đáng
cho lập luận về lộ trình tự do hoá mà đơn vị mình đề xuất.
Các học giả cũng nên được mời tham gia vào thảo luận
chính sách để tăng luận cứ khoa học cho các thoả thuận
đạt được giữa các đơn vị.
2. Hoàn thiện chính sách thương nhân nhằm phát
triển công nghiệp hỗ trợ
2.1. Tạo điều kiện thuận lợi về các thủ tục hành chính
khi tham gia vào hoạt động kinh doanh
Trước đòi hỏi của thực tế và để thúc đẩy thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ kinh tế - xã hội, nhất là trong bối cảnh
Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức TM thế giới, Chính
phủ đã ban hành quyết định số 30, ngày 10/01/2007 phê
duyệt đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực

226
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

quản lý nhà nước. Ðề án này được triển khai nhằm bảo đảm
sự thống nhất, đồng bộ, đơn giản, công khai, minh bạch của
thủ tục hành chính; tạo sự thuận lợi cho cá nhân, tổ chức và
DN trong tiếp cận và thực hiện thủ tục hành chính; nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, nâng cao tính chuyên
nghiệp của bộ máy hành chính và thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội; góp phần phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Ðồng
thời, tạo điều kiện cho nhân dân giám sát việc thực hiện thủ
tục hành chính tại các cơ quan hành chính các cấp. Ðây được
coi là bước đột phá trong tiến trình cải cách thủ tục hành
chính ở nước ta.
Ðể thực hiện tốt đề án, rút kinh nghiệm việc cải cách
thủ tục hành chính cũng như công tác cải cách hành chính
nhiều năm qua, tham khảo những kinh nghiệm cải cách
thành công của nhiều quốc gia trên thế giới trong lĩnh vực
cải cách thể chế, cần đưa ra cách làm mới trong việc triển
khai thực hiện:
- Đặt ra kết quả rõ ràng, bước đi cụ thể, phương pháp
tiếp cận khoa học, tổ chức bộ máy thực hiện chuyên trách và
gắn với công tác thi đua - khen thưởng, đánh giá, đề bạt, bổ
nhiệm cán bộ.
- Nâng cao nhận thức của toàn bộ đội ngũ cán bộ, công
chức trong hệ thống, đặc biệt là người đứng đầu. Kết hợp các
biện pháp truyền thông nhằm làm tốt công tác tư tưởng của
đội ngũ cán bộ, công chức để hiểu rõ mục đích, ý nghĩa, lợi
ích của đề án đối với từng cán bộ, với cơ quan và cộng đồng.
- Tăng cường các biện pháp chỉ đạo, rút kinh nghiệm từ
thực tiễn, không làm cầm chừng, không làm theo kiểu hô hào

227
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

mà phải coi đây là nhiệm vụ chính trị thường xuyên của


ngành, địa phương. Ðề cao trách nhiệm của người đứng đầu.
Xác định sự cần thiết của công tác kiểm tra, đôn đốc việc
thực hiện tại các bộ, địa phương nhằm bảo đảm chất lượng và
tiến độ thực hiện.
- Cần tăng cường gắn kết nhiệm vụ thực hiện với việc
đổi mới, nâng cao chất lượng bộ máy hành chính, nâng cao
tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức và nhiệm
vụ hiện đại hóa nền hành chính cũng như nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội của bộ, ngành, địa phương.
- Huy động người dân và DN tham gia vào quá trình
thực hiện đề án để tạo sự đồng thuận cao của toàn xã hội. Cải
cách thủ tục hành chính được xác định là một nhiệm vụ
chung của toàn bộ hệ thống cơ quan hành chính các cấp, của
cá nhân, tổ chức và cộng đồng DN. Cần biến tinh thần chung
tay cải cách thủ tục hành chính thành hiện thực mới có thể
mang lại kết quả toàn diện, triệt để như mục tiêu đặt ra ban
đầu của đề án.
2.2. Xây dựng các khu công nghiệp hỗ trợ và vườm
ươm các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ
Các khu CNHT, nơi thu hút DN ĐTNN sản xuất phụ
trợ là bước đi đầu tiên cần được quan tâm ưu đãi để tạo ra lực
lượng sản xuất CNHT và năng lực cung ứng của nền CN.
Tuy nhiên, sau một thời gian, mục tiêu của Việt Nam là
chuyển giao công nghệ kỹ thuật từ các DN ĐTNN này sang
DN nội địa. Do đó, ngay từ ban đầu, Việt Nam cần xây dựng
hệ thống các DN nội địa chuyên cung ứng cho các DN
ĐTNN trong các khu CNHT. Bên cạnh đó, để có nguồn cung
ứng lâu dài, chính phủ cần có các vườn ươm DN CNHT

228
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

chuyên ươm tạo và cung ứng DN sản xuất cho các lĩnh vực
CNHT khác nhau, các DN trong mô hình này vẫn cung ứng
cho các công ty bên ngoài, và cao nhất, có thể cung ứng cho
các tập đoàn đa quốc gia cũng như xuất khẩu. Các bước triển
khai chi tiết như sau:
Bước 1: Xây dựng các khu CNHT để thu hút các lớp
phụ trợ cao là các DN ĐTNN chuyên cung ứng cho các tập
đoàn đa quốc gia đang có mặt ở Việt Nam. Vì đặc thù của
CNHT là phụ thuộc mạnh vào các nhà lắp ráp, Chính phủ cần
có chương trình xây dựng các khu CNHT với sự tham gia của
các tập đoàn đa quốc gia chi nhánh ở Việt Nam. Chỉ khi có
sự hợp tác này, các khu CNHT mới có thể được lấp đầy bởi
các nhà cung ứng. Ngoài ra, nên có các khu CNHT dành
riêng cho các tập đoàn lớn để kêu gọi các nhà cung ứng của
họ, như Canon, Toyota…với các chính sách ưu đãi về thuế
thuê đất, thuế DN, thời gian thuê, trang thiết bị ban đầu…
Bước 2: Thu hút các DN nội địa vào các khu CNHT
này, định hướng các nhà đầu tư trong nước hướng đến việc
cung ứng cho các nhà cung ứng ĐTNN trong các khu CNHT.
Bước 3: Sau quá trình chuyển giao công nghệ, trợ giúp
để các DN nội địa trong các khu CNHT có thể cung ứng trực
tiếp linh kiện sản phẩm cho các tập đoàn đa quốc gia trong
nước và xuất khẩu linh kiện ra nước ngoài.
Như vậy, đặc thù của các khu CNHT là chủ yếu thu hút
các DNNVV, kể cả đầu tư nước ngoài cũng là các DN có quy
mô loại này. Vì vậy, các khu CNHT cần cung cấp hạ tầng đầy
đủ cho các nhà đầu tư, bao gồm hệ thống nhà xưởng, điện
nước hoàn chỉnh trong công trình, hệ thống xử lý môi trường,
và các dịch vụ mềm khác, nhưng với diện tích tối thiểu để chi

229
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

phí thấp nhất. Và tiếp theo, để đảm bảo sự phát triển lâu dài,
bền vững cần tiếp tục:
Bước 4: Tạo dựng các Cụm liên kết ngành, các DN
Việt Nam có năng lực hạn chế nên quy mô sản xuất thấp, cần
có mô hình tập hợp và phân công sản xuất ngay trong các DN
nội địa này, nhằm góp phần gia tăng năng lực cung ứng nội
địa. Các DN nội địa tham gia CLKN này hầu hết là DNNVV,
có thể nằm xa nhau, không bị giới hạn về địa lý hay không
gian, nhưng quan trọng là cần có phân chia và liên kết theo
các công đoạn sản xuất. Việc tạo dựng các cụm liên kết
ngành nên giao cho các địa phương, dù vậy, mô hình này
không nên phát triển tràn lan mà cần tập trung vào các địa
phương đã có tích tụ tập trung CN: Hà Nội và các tỉnh phụ
cận, TP Hồ Chí Minh và các tỉnh phụ cận. Như vậy, CLKN
sẽ là nơi cung ứng về số lượng và chuyên môn hóa các DN
CNHT, đồng thời tận dụng được lao động nông thôn và các
lợi thế về chi phí, theo từng địa phương, khu vực. Tập hợp
của các cụm liên kết theo các ngành cung ứng hoặc theo các
ngành hạ nguồn như vậy sẽ giúp nâng cao năng lực cung ứng
của các ngành CNHT, dần dần cung ứng được hệ thống DN
nội địa đầu tư vào các khu CNHT và nhận chuyển giao từ các
DN ĐTNN sản xuất SP CNHT.
Bước 5: Xây dựng hệ thống vườn ươm DN CNHT:
Những năm gần đây, khu vực đô thị ở Việt Nam có sự gia
tăng đột biến số lượng DN thành lập mới. Tuy nhiên, có thể
thấy tỷ trọng DN mới thành lập tập trung vào các ngành dịch
vụ, tài chính, tư vấn, thương mại, buôn bán. Các ngành nghề
sản xuất thường có tỷ trọng gia tăng thấp, chưa kể đến các

230
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

nhà máy DN đóng cửa. Sản xuất CNHT lại có đặc điểm quan
trọng là đòi hỏi thâm dụng vốn, thâm dụng công nghệ kỹ
thuật, với trình độ nhân lực cao, có thể khẳng định đây là
các ngành khó để khởi sự kinh doanh so với các ngành
thương mại, dịch vụ. Như vậy, để đáp ứng nhu cầu về
CNHT, thiết lập được hệ thống cung ứng cho các ngành,
rất cần một biện pháp mạnh mẽ và có gốc rễ nền tảng về
phát triển DN ngay từ những bước đi ban đầu. Do chưa có
các chính sách cụ thể, mô hình phù hợp, cũng như mục tiêu
hoạt động rõ ràng, nhiều vườn ươm hoạt động rất khó khăn
do được hình thành chủ quan, không trên cơ sở nghiên cứu
nhu cầu và định hướng thị trường. Điểm quan trọng khác
nữa là các DN sau khi ươm tạo khó sống sót do hết được
nguồn tài trợ. Nhược điểm này có thể được khắc phục với
mô hình vườn ươm DN CNHT.
Mục tiêu cụ thể của các vườn ươm DN CNHT là xây
dựng hệ thống DNNVV sản xuất hỗ trợ cho các ngành CN,
đặc biệt là các ngành chế tạo cơ bản, tập trung sản xuất các
linh kiện kim loại và linh kiện nhựa. Vườm ươm DN này sẽ
tạo ra môi trường thuận lợi cho DNNVV, cũng như các DN
mới khởi nghiệp thông qua việc hỗ trợ họ vượt qua khó khăn
trong những năm đầu kinh doanh. Ươm tạo DN trong lĩnh
vực CN thâm dụng công nghệ, như: ô tô, xe máy, cơ khí, cơ
điện tử, phần mềm…; thông qua các dịch vụ đào tạo, tư vấn
và văn phòng, nhà xưởng kết hợp với các tiện ích cần thiết
cho CNHT, tư vấn xây dựng nhà xưởng, kỹ thuật, mạng lưới
tiêu thụ, chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng, tổ chức sản xuất,

231
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

chuyên gia kỹ thuật, kết nối với các nhà cung ứng lớp cao
hơn, các nhà lắp ráp, các tập đoàn đa quốc gia.
Hệ thống các vườn ươm này sẽ đáp ứng nhu cầu CNHT
của các ngành CN, các Cụm liên kết ngành, các khu CNHT
trên phạm vi cả nước. Thời gian ươm tạo khoảng từ 2-3 năm
với nhiều hỗ trợ cho từng hạng mục riêng biệt và các DN
được lựa chọn sẽ được miễn phí đào tạo, được thực hành
ngay trong các xưởng sản xuất của vườn ươm theo công nghệ
hiện đại cho khách hàng.
Các hạng mục chính của vườn ươm DN CNHT bao
gồm:
- Khu ươm tạo: Khu ươm tạo dành cho các DN sản xuất
phụ trợ được lựa chọn trong các lĩnh vực sản xuất linh kiện
cơ khí, nhựa, với diện tích nhà xưởng không lớn.
- Khu hỗ trợ: Khu này có thể bao gồm: trung tâm kiểm
định chất lượng linh kiện; sàn giao dịch nguyên vật liệu và
phòng trưng bày vật tư, chi tiết linh kiện; trung tâm thiết kế
mẫu; khu máy móc cho thuê; khu nghiên cứu và triển khai;
khu phát triển phần mềm.
- Khu hành chính và hạ tầng khác: Khu này có toà nhà
hành chính của vườn ươm bao gồm hệ thống văn phòng, các
phòng họp chung, các phòng hội thảo, các phòng đào tạo; các
công ty cung cấp dịch vụ phát triển kinh doanh, các dịch vụ
ngân hàng tài chính… hỗ trợ các DN CNHT trong vườn ươm.
Sự tham gia của các tập đoàn đa quốc gia và các bên
vào vườn ươm không chỉ hỗ trợ các DN đang có mặt tại vườn
ươm mà cả các DN cung ứng bên ngoài, vì vườn ươm lúc này

232
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

trở thành một trung tâm liên quan đến SP CNHT, nơi tất cả
các DN có liên quan có thể sử dụng các dịch vụ và thông tin
mà vườn ươm cung cấp. Đó có thể coi là “điểm gặp gỡ” giữa
cung và cầu trong sản xuất linh phụ kiện.
2.3. Nâng cao khả năng tiếp cận đất đai và tính ổn
định trong sử dụng đất đối với các doanh nghiệp công
nghiệp hỗ trợ
Quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất: (i) Quy hoạch đất
sử dụng cho mục đích SXKD cần cụ thể và chi tiết hơn nữa;
(ii) Rà soát việc giao đất, thu hồi đất của các tổ chức, cá
nhân; bổ sung nguồn quỹ đất cho các DN tư nhân; (iii) Tiếp
tục triển khai lập quy hoạch và xây dựng cơ chế chính sách
đối với các khu CN nhỏ và vừa ở các huyện để tạo điều kiện
cho các DN thuê đất.
Đền bù và giải phóng mặt bằng: Nâng cao vai trò của
các cấp chính quyền cơ sở trong đền bù và giải phóng mặt
bằng. Cần thống nhất quan điểm nhà nước là người có đất
cho thuê và DN là người thuê đất. Khi đã có mặt bằng thì mới
tiến hành các thủ tục cho thuê đất. Hạn chế hình thức DN tự
thoả thuận với người dân. Sự hỗ trợ đền bù của DN nên tiến
hành thông qua các cơ quan chức năng. Cần quy định rõ thời
gian tối đa để thực hiện các công việc này của các cơ quan
chức năng.
Xem xét giá thuê đất trong các khu CN, xây dựng cơ
chế hỗ trợ về giá thuê đất đối với các DN tư nhân, đặc biệt là
các DNNVV.
Thời hạn thuê và giao đất cần xem xét đến đặc thù của
mỗi lĩnh vực SXKD. Thời hạn thuê đất đủ dài có tác dụng

233
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

khuyến khích DN đầu tư vốn nhiều hơn, đặc biệt là vốn cố


định. Bên cạnh đó, các vấn đề về môi trường, phát triển bền
vững mới có thể áp dụng hiệu quả.
Xây dựng quy chế phối hợp giữa các ngành để giải
quyết việc giao đất, thuê đất, cấp chứng nhận quyền sử dụng
đất cho DN với thủ tục và quy trình nhanh gọn, thuận lợi.
2.4. Hoàn thiện chính sách đầu tư thúc đẩy phát
triển công nghiệp hỗ trợ
Ngoài việc Nhà nước cần tạo môi trường hấp dẫn thu
hút ĐTNN, nên bổ sung các chính sách ưu đãi việc đầu tư
phát triển CNHT xuất phát từ thực tế là đầu tư vào khu vực
CNHT, vì đây là những ngành ra đời sau, có những khó khăn
và phức tạp hơn đầu tư vào khu vực hạ nguồn. Các chính
sách ưu đãi đầu tư này bao gồm: ưu đãi tín dụng, ưu đãi nhập
khẩu nguyên, phụ liệu, thuế thu nhập DN, VAT… Để phân
bổ có trọng điểm các nguồn vốn hạn chế đối với những khu
vực kinh tế thực sự có hiệu quả cho sự phát triển nền kinh tế
quốc dân, cần phải nâng cao khả năng cấp tín dụng cho
DNNVV (năng lực kinh doanh, tăng cường quy chế, hoàn
thiện hạ tầng), và đồng thời với nó là đưa ra những ưu đãi về
chính sách kết hợp giữa tín dụng và chính sách hỗ trợ cho
CNHT: tín dụng ưu đãi kết hợp giữa chế độ bảo đảm tín dụng
và bù lãi suất đối với ngành CNHT; cho vay bảo đảm tín
dụng/bù lãi suất đối với ngành CNHT thông qua sự hợp tác
với thẩm định viên DNNVV, với văn phòng kiểm toán; tăng
cường khả năng của ngân hàng hỗ trợ cho ngành CNHT
thông qua các khoản vay hai bước của JBIC.

234
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

2.5. Về chính sách đào tạo cán bộ và nguồn nhân lực


- Tăng cường đào tạo lực lượng kỹ sư có trình độ trung
và cao cấp. Việt Nam thiếu lực lượng kỹ sư có trình độ trung
cấp đến cao cấp. Số lượng kỹ sư tốt nghiệp đại học được
tuyển dụng có đủ năng lực có thể đáp ứng các nhu cầu về các
nhu cầu về quản lý rất thiếu. Một phần của thực trạng này là
việc đào tạo thực hành khoa học và kỹ thuật trong các trường
đại học còn rất yếu. Thực trạng đó chỉ ra rằng cần phải cải
cách triệt để đào tạo đại học theo cả hai hướng, đó là phần
cứng (bằng trang thiết bị) và phần mềm (chương trình đào tạo
và phương thức giảng dạy), và có một khối lượng lớn kỹ sư
có thể làm việc trong các ngành CNHT. Các chương trình
liên thông giữa các trường đại học và các tổ chức học thuật,
ví dụ như chương trình thực tập ngắn hạn, cần phải có hiệu
quả để sinh viên có điều kiện nâng cao kỹ năng thực hành và
có thái độ đúng đắn với môi trường làm việc của một DN sản
xuất. Bên cạnh đó, việc mở rộng các trường cao đẳng kỹ
thuật và các trung tầm đào tạo nghề là điều hết sức cần thiết.
- Đào tạo quản lý ở bậc trung cấp. Hiện nay, Việt Nam
thiếu một thế hệ có thể làm quản lý ở bậc trung cấp. Các DN
nước ngoài thường khó tìm được những người quản lý bậc
trung cấp có đủ khả năng làm việc. Thông qua các chương
trình đào tạo, thông qua học việc dài hạn, các nhà quản lý
theo yêu cầu nghề nghiệp cần được lựa chọn từ số sinh viên
tốt nghiệp các trường đại học. Hiệu quả của các chương trình
này sẽ cao hơn rất nhiều nếu chính phủ đứng ra tổ chức các
khóa học nhằm tăng cường trình độ quản lý ở bậc trung cấp.

235
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

3. Hoàn thiện chính sách thị trường và mặt hàng


nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ
3.1. Kích cầu cho sự phát triển doanh nghiệp công
nghiệp hỗ trợ
Với quy mô thị trường nhỏ như hiện tại, nhiều chuyên
gia trong ngành cho rằng nội địa hóa là một bài toán khó cho
các DN nếu không tìm hướng xuất khẩu. Trong bản tư vấn
cho Bộ Công Thương mới đây, Viện Nghiên cứu chiến lược
CN Nhật Bản cho rằng, Việt Nam nên trở thành một cơ sở
xuất khẩu một số loại linh kiện. Việt Nam nên tận dụng các
liên doanh đang có mặt để thu hút đầu tư vào sản xuất các
cấu phần và linh kiện chuyên biệt. Ví dụ: trong ngành da, đúc
hay rèn, Việt Nam rất có lợi thế do có đội ngũ nhân công tay
nghề cao và chi phí lao động thấp.
Nhà nước có thể trợ giúp các DN CNHT nâng cao năng
lực cạnh tranh thông qua các hoạt động nghiên cứu khoa học
và công nghệ nhằm sản xuất những SP có thể đáp ứng tốt
nhất yêu cầu của thị trường trong và ngoài nước.
Định hướng chính sách kích cầu cho sự phát triển
DNHT trong nước bằng cách tạo điều kiện cho các đối tượng
này tham gia cung cấp linh kiện bộ phận cho vào lĩnh vực
phát triển hạ tầng bao gồm cả đường xá, cầu cảng, nhà ở
trong nước. Muốn vậy trước hết cần phát huy nội lực (vốn,
nhân lực tri thức trong nước) để phát triển các công trình hạ
tầng. Trường hợp nội lực không thể mới suy nghĩ tới sử dụng
những nguồn hỗ trợ từ bên ngoài. Bài học kinh nghiệm từ các
nước cho thấy, Hàn Quốc, Trung Quốc … chỉ dùng vốn hỗ
trợ trong thời gian đầu của quá trình phát triển, sau đó nhiều
công trình cầu đường, cao ốc hoàn toàn phát triển bằng vốn

236
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

và sức các DN trong nước. Quá trình tham gia cung cấp và
xây dựng những công trình đó đã tạo ra sức cạnh tranh cho
các DN trong nước.
3.2. Hoàn thiện danh mục mặt hàng phát triển công
nghiệp hỗ trợ
Trong nền kinh tế kế hoạch trước đây, các DN nhận
được rất ít đơn đặt hàng sản xuất từ cấp trên nên họ không
cần mở rộng sản xuất bằng nỗ lực của mình. Thậm chí ngay
cả bây giờ, rất nhiều DNNVV chỉ thụ động làm các đơn đặt
hàng có sẵn chứ không nỗ lực tìm kiếm khách hàng mới cho
SP của mình. Để phát hiện ra các DN có tiềm năng hoạt động
cao trong số các DN trong nước, chúng ta cần phải thiết lập
một hệ thống phổ biến thông tin DN chính thức và xây dựng
các mạng lưới thông tin nội bộ DN. Để làm được việc này,
các thông tin và dịch vụ hỗ trợ của Phòng TM và CN Việt
Nam (VCCI), của Công đoàn Hiệp hội CN và TM (UAIC),
và của Trung tâm xúc tiến TM và đầu tư (ITPC) cần được
thúc đẩy mạnh hơn. Hơn nữa, cũng cần tăng số lượng hội chợ
TM nhằm tìm kiếm các đối tác kinh doanh cho DN trong
nước và DN ĐTNN.
Đây là công việc không chỉ của Bộ Công Thương mà
cả các bộ ngành khác và đặc biệt là các hiệp hội ngành
hàng. Việt Nam phải sẵn sàng đương đầu với các tranh
chấp TM. Việt Nam không thể tránh khỏi việc tham gia vào
các tranh chấp TM như trợ cấp, chống bán phá giá, biên tính
thuế,... khi gia tăng hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó,
các tranh chấp TM còn được sử dụng như một phần trong
số các công cụ gây ảnh hưởng chính trị từ các nước lớn.
Việt Nam cần làm nhiều việc để chủ động giảm thiểu tác

237
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

động tiêu cực của các tranh chấp này. Bộ Công Thương đã
đưa ra biện pháp về “chủ động nghiên cứu các cơ chế giải
quyết tranh chấp trong khuôn khổ ASEAN, WTO”.
Tuy nhiên, việc chủ động nghiên cứu này mới chỉ là
một trong số các biện pháp để thúc đẩy xuất khẩu. Cụ thể là
Bộ Công Thương cần xây dựng một hệ thống thông tin về
các biện pháp phi thuế, về phá giá và chống bán phá giá; xây
dựng cơ chế cảnh báo về khả năng tranh chấp hay bị kiện
phá giá và chống bán phá giá (trực thuộc Bộ TM), dự kiến
những mặt hàng có khả năng bị các quốc gia bạn hàng áp
dụng các biện pháp phi thuế, đặc biệt là kiện phá giá; xây
dựng cách thức tận dụng có hiệu quả các thủ tục điều tra và
giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO cũng như thủ
tục ở các quốc gia bạn hàng. Chẳng hạn, khi bị áp dụng
thuế chống bán phá giá, quốc gia bị áp thuế có thể tăng giá
hàng hoá của mình để chịu mức thuế chống bán phá giá
thấp hơn ở giai đoạn xem xét lại hành vi phá giá. Việc Nam
cũng cần tích cực tham gia vào các diễn đàn của các nước
đang phát triển để xây dựng một cơ chế chống bán phá giá
chặt chẽ hơn trong khuôn khổ WTO.
Bộ Công Thương cũng cần cập nhật danh mục các
mặt hàng Việt Nam có khả năng bị áp dụng các biện pháp
phi thuế hay có khả năng xảy ra tranh chấp TM. Số liệu
về các vụ kiện phá giá cho thấy những ngành bị kiện nhiều
nhất là kim loại thường; hoá chất; cao su và nhựa; máy móc
và thiết bị điện tử; dệt may; giấy; đá, xi măng, thuỷ tinh,
gốm sứ; các SP chế tạo; khoáng sản; thuốc lá, dấm ăn và đồ
uống. Khi lập danh sách ngành hàng và mặt hàng có khả
năng bị áp dụng các biện pháp phi thuế, bị kiện phá giá

238
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

hay dễ xảy ra tranh chấp TM, Chính phủ cần thiết phải dựa
trên thực tiễn Việt Nam song không thể tách rời với thực tế
áp dụng và thủ tục áp dụng các biện pháp ở từng quốc gia.
Về mặt lý thuyết, Việt Nam hoàn toàn có thể tính toán được
khả năng bị áp đặt các biện pháp phi thuế hay bị kiện cho
mỗi mặt hàng. Các yếu tố như chi phí của nước thứ ba,
mức độ ảnh hưởng của các chính trị gia, mức giá có thể bị
các DN ở các quốc gia xuất khẩu là những thông tin cần thu
thập để phục vụ công tác dự báo. Để xây dựng được danh
mục ngành hàng và mặt hàng Việt Nam có khả năng bị áp
dụng các biện pháp phi thuế quan, Bộ Công Thương cần rà
soát theo quốc gia và theo ngành cũng như theo tình hình sản
xuất và ngoại thương của Việt Nam.
Công tác tuyên truyền phải đảm bảo chuẩn bị về mặt
tinh thần cũng như nguồn lực từ các bên liên quan tới quá
trình hoàn thiện CSTM phát triển CNHT tại Việt Nam. Các
bên liên quan như các bộ, các UBND, các hiệp hội và các DN
cần nhận thức được sự cần thiết phải phối hợp và tham gia
phối hợp vào việc điều chỉnh CSTM phát triển CNHT ở Việt
Nam. Chương trình xúc tiến TM trọng điểm quốc gia, chẳng
hạn, sẽ thành công hơn nếu thông tin được chia sẻ rộng rãi tới
tất cả các DN và giải pháp thực hiện xúc tiến được đưa ra từ
chính các DN tham gia xuất khẩu chứ không phải từ một số cá
nhân làm công tác quản lý nhà nước.
Bộ Công Thương nên phối hợp với các hiệp hội
ngành hàng và các cơ quan xúc tiến TM của nước ngoài
hướng dẫn và đào tạo các DN xuất khẩu những vấn đề liên
quan đến thủ tục xuất khẩu vào thị trường nước ngoài, các
biện pháp phi thuế quan được áp dụng ở thị trường nước

239
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

ngoài cũng như thủ tục giải quyết tranh chấp về các biện
pháp phi thuế quan trong khuôn khổ WTO. Tài liệu giảng
dạy và tham khảo có thể lấy từ trang web của WTO và các
cơ quan quản lý TM và các cơ quan quản lý ngành ở các
nước lựa chọn. Đội ngũ giảng viên nên là kết hợp giữa
chuyên gia nước ngoài và chuyên gia Việt Nam. Chính phủ
cần giữ vị trí chủ động trong việc lựa chọn chuyên gia chứ
không nên hoàn toàn dựa vào sự giới thiệu của các tổ
chức quốc tế.
Các hiệp hội ngành hàng cần phối hợp với các bộ
ngành hoàn thiện cơ sở dữ liệu thông tin về các thị trường,
ngành hàng và các rào cản TM ở các thị trường được lựa
chọn. Tài liệu tham khảo và thông tin cập nhật có thể tìm
thấy trên mạng từ trang web của các tổ chức quốc tế và các
cơ quan nghiên cứu, quản lý của nước ngoài như WTO, Bộ
Công Thương Trung Quốc, Bộ Ngoại giao Nhật Bản, các cơ
quan quản lý và nghiên cứu TM của Hoa Kỳ, Canada, EU,
Nam Phi. Dữ liệu thông tin về thị trường, ngành hàng và
các rào cản TM nên được xây dựng bằng tiếng Việt
và tiếng Anh. Các tình huống kiện phá giá, các vấn đề liên
quan cần được chia theo ngành, theo quốc gia áp dụng và
ưu tiên theo đặc thù của nền ngoại thương Việt Nam.
Chẳng hạn, thời gian trước mắt, các thông tin liên quan
đến các vụ kiện dệt may, giày dép cần được ưu tiên thu
thập. Cơ quan thu thập thông tin và các DN Việt Nam cần
lưu ý rằng việc nắm bắt và có đầy đủ thông tin về các vụ
kiện trong cùng ngành cũng như những lập luận của các
bên trong vụ kiện là sự chuẩn bị cần thiết để sẵn sàng
đương đầu với các tranh chấp TM trong thời gian tới. Hiện

240
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

nay, Việt Nam đã có Trung tâm thông tin TM trực thuộc


Bộ Công Thương. Các cơ quan khác như Phòng TM và
CN, các Bộ và Hiệp hội cũng có các trung tâm làm công
tác thu thập và xử lý thông tin song không có một cơ sở dữ
liệu nào của Việt Nam chuyên phục vụ cho Nhà nước và
các DN về các thị trường, ngành hàng và các rào cản TM ở
các thị trường được lựa chọn.
Hệ thống thông tin về thị trường, ngành hàng và rào
cản như trên cần đảm bảo tính dễ dàng truy cập đối với đối
tượng sử dụng. Đối tượng sử dụng không những chỉ là các
DN trực tiếp xuất khẩu mà cả các tổ chức hỗ trợ DN. Tính
dễ dàng truy cập thể hiện ở việc DN hay các tổ chức hỗ trợ
DN không mất thời gian để xác định nội dung và phạm vi
thông tin mà mình cần ở một kênh nhất định. Để làm được
điều này, hai hoạt động sau đây cần được cơ quan xây dựng
cơ sở dữ liệu chú ý: (i) thường xuyên truyền tải vắn tắt nội
dung và phạm vi thông tin tới các DN và tổ chức quan tâm
thông qua các bản tin thường kỳ hay các hình thức truyền
tin khác; (ii) liên tục mở rộng đối tượng sử dụng cơ sở dữ
liệu thông qua việc quảng bá về cơ sở dữ liệu và cơ quan
cung cấp cơ sở dữ liệu; (iii) đảm bảo việc có được và xử lý
thông tin phản hồi (về chất lượng và tính đầy đủ của cơ sở
dữ liệu, phản hồi về tính dễ dàng truy cập của cơ sở dữ liệu,
phản hồi về các thông tin bổ sung để cập nhật vào cơ sở dữ
liệu) từ các đối tượng sử dụng; (iv) đảm bảo nguồn lực, đặc
biệt là con người và tài chính, cho công việc vận hành hệ
thống cơ sở dữ liệu này.

241
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Đối với đối tượng sử dụng hệ thống thông tin (DN và


các tổ chức hỗ trợ DN), công việc đòi hỏi sự hợp tác của
DN là chủ động đặt hàng về thông tin và đưa ra những yêu
cầu trợ giúp cụ thể khi tiếp cận thị trường thế giới.
DN và các tổ chức hỗ trợ cũng cần tích cực tham
gia vào các diễn đàn trao đổi về thâm nhập thị trường, về
rào cản TM đối với từng mặt hàng. Chẳng hạn, những hoạt
động của Hiệp hội dệt may và Hiệp hội thuỷ sản của Việt
Nam trong thời gian vừa qua có thể là những ví dụ tốt trong
việc xây dựng hệ thống thông tin ngành hàng, thông tin về
thị trường và rào cản TM. Mặc dù ban đầu các hiệp hội này
tương đối bị động với những phản ứng từ thị trường Hoa
Kỳ, Liên minh châu Âu song khi mà nhận thức của Chủ
tịch hiệp hội và các thành viên đã rất rõ ràng rằng các
DN trong ngành cần hợp tác để vượt qua các rào cản và
trở ngại và nâng cao năng lực cạnh tranh thì việc trao đổi
thông tin, hợp tác nâng cao năng lực đã trở nên rất tích cực
chủ động. Hàng loạt các diễn đàn trao đổi, các yêu cầu về
thông tin thị trường đã được DN chủ động đặt hàng với hiệp
hội. Mối liên kết giữa hai hiệp hội với các DN trong
ngành và các cơ quan quản lý nhà nước đã ngày càng chặt
chẽ hơn. Chủ tịch hiệp hội là những người năng động và
trực tiếp gắn kết lợi ích với ngành. Tuy nhiên, việc duy trì
cơ chế trao đổi thông tin, tiến tới xây dựng hệ thống cơ sở
dữ liệu như đề cập tới ở trên còn chưa đạt yêu cầu bởi vì
còn thiếu sự đảm bảo về nguồn lực thực hiện.
Hiện nay, các khía cạnh pháp lý về quản lý chất lượng
SP do cơ quan Tiêu chuẩn và Chất lượng (STAMEQ) thuộc
Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành. Việc quản lý tiêu

242
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

chuẩn, kiểm định chất lượng và phân tích mẫu do Trung tâm
Quản lý và Kiểm định chất lượng (QUATEST) thực hiện
dưới sự chỉ đạo của STAMEQ tại Hà Nội, Đà Nẵng và Tp.
Hồ Chí Minh. Việc quản lý và kiểm tra chất lượng SP là một
trong nhiều chức năng quan trọng của chính phủ trong việc
phát triển các ngành CNHT và tăng cường khả năng cạnh
tranh của chúng. Vì thế, năng lực của QUATEST cần phải
được cải thiện.
QUATEST cần tăng cường hoạt động của mình nhằm
giúp các DN trong nước nhận thức được tầm quan trọng của
chất lượng SP. Hiện nay, hầu hết các DN Việt Nam chỉ coi
việc kiểm tra chất lượng SP là trách nhiệm với người sử dụng
SP của họ khi những sai sót của SP được phát hiện. Quan
niệm này cần phải thay đổi trước khi họ có thể trở thành nhà
cung cấp của các DN có vốn ĐTNN.
Bên cạnh đó, việc hỗ trợ kỹ thuật dài hạn rất cần thiết
nhằm thay đổi tư tưởng cố hữu của một số DN trong nước về
chất lượng. Đào tạo ngắn hạn không phải là cách làm có hiệu
quả đối với vấn đề này. Tuy nhiên, chi phí cho việc hỗ trợ dài
hạn vượt quá sức các DN tư nhân. Việc làm thiết thực nhất là
tổ chức các chương trình chính thức và thường xuyên hơn
cho các DN với sự tham gia của nhiều chuyên gia đến từ các
nước có nền CNHT phát triển như Nhật Bản, Đài Loan.
3.3. Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại
Ngoài việc đẩy mạnh cải cách hành chính, trong đó tập
trung vào đơn giản hoá các thủ tục hành chính, cần ưu tiên
thực hiện các biện pháp sau đây:

243
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

- Nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp của các hội
chợ, triển lãm TM. Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến
khích các DN tăng cường hoạt động này tại các trung tâm
kinh tế của cả nước, nhằm nâng cao thương hiệu của từng
DN cũng như hình ảnh quốc gia.
- Chú trọng các hoạt động xúc tiến TM hướng tới xuất
khẩu, đặc biệt là các hoạt động hội chợ, triển lãm TM tại
nước ngoài. Hỗ trợ các DN tham gia những hoạt động này.
- Từng bước xây dựng thương hiệu cho những SP đặc
thù trên thị trường trong nước và quốc tế.
4. Hoàn thiện chính sách và các công cụ của chính
sách về xuất nhập khẩu nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ
4.1. Tiếp tục minh bạch hóa và vận dụng linh hoạt
công cụ thuế quan
Bộ Tài chính cần vận dụng linh hoạt biên độ thay đổi
thuế để tạo sự thuận lợi cho hàng hóa của Việt Nam. Việc
vận dụng linh hoạt biểu thuế là hành động phù hợp với các
nguyên tắc và quy định của WTO. Trong khuôn khổ WTO,
các quốc gia cần thực hiện bảo hộ đơn giản thông qua thuế.
Việc áp dụng thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thay đổi
biên thuế trong trường hợp khẩn cấp, thuế chống trợ cấp
và bán phá giá là không vi phạm với WTO. Hệ thống thuế
của Việt Nam đang được thay đổi theo hướng hội nhập
kinh tế quốc tế. Điều này thể hiện ở những cam kết và thực
hiện cam kết của Việt Nam trong AFTA, hiệp định TM Việt
Nam - Hoa Kỳ, điều chỉnh hệ thống thuế cho phù hợp với
các quy định của WTO, cũng như những thay đổi, điều chỉnh
thuế gián tiếp (thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế VAT). Tuy

244
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

nhiên, để thuế quan thực sự là một công cụ của CSTM


phát triển CNHT trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế,
Việt Nam không những cần đảm bảo sự nghiêm túc trong
thực hiện các cam kết mà còn phải biết vận dụng linh hoạt
công cụ này. Bộ Tài chính có thể xem xét vận dụng kinh
nghiệm của Thái Lan như áp mức thuế cao đối với hàng
hóa nhập khẩu trong một số trường hợp khẩn cấp hay khi
có yêu cầu từ các hiệp hội, các bộ ngành khác. Chẳng hạn,
việc vận dụng linh hoạt biểu thuế Việt Nam, nếu áp dụng
theo kinh nghiệm của Thái Lan, có thể giải quyết được
những vấn đề về nhập khẩu thép kém chất lượng.
Trên thực tế, biểu thuế XNK do Bộ Công Thương
đảm nhận trọng trách đề xuất song việc thực hiện do Tổng
cục Hải quan tiến hành. Theo ngành dọc, Bộ Tài chính là
cơ quan cấp trên của Tổng cục Hải quan do đó việc vận
dụng linh hoạt công cụ thuế quan nên do Bộ Tài chính chủ
động thực hiện. Hiện tại, toàn bộ 123 Điều của Luật cạnh
tranh có hiệu lực từ ngày 01/07/2005 chưa có quy định về
việc đề xuất các biện pháp này. Toàn bộ 324 Điều của Luật
TM (sửa đổi) được Quốc hội thông qua ngày 14/ 0 6/2005
cũng chưa có quy định về việc đề xuất các biện pháp này.
Điều 22 trong Pháp lệnh về chống trợ cấp hàng hoá nhập
khẩu vào Việt Nam do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông
qua ngày 20/08/2004 cho phép Bộ trưởng Bộ TM được áp
dụng thuế chống trợ cấp tạm thời sau sáu mươi ngày kể từ
ngày có quyết định điều tra đối với các hàng hoá nhập
khẩu bị khiếu nại là có trợ cấp. Tuy nhiên, công việc tiếp
theo liên quan tới việc áp dụng mức thuế tạm thời này như
thế nào thì chưa được quy định cụ thể. Do đó, để đảm bảo
thực hiện giải pháp này, Bộ Công Thương và Bộ Tài chính

245
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

cần ban hành thông tư liên bộ hướng dẫn các hiệp hội,
DN thực hiện. Nội dung ban hành trong thông tư này cần
bao gồm thủ tục và các tình huống mà Bộ Tài chính tiến
hành điều chỉnh khẩn cấp một mức thuế đối với mặt hàng
nhất định.
Bộ Tài chính, các bộ ngành và các hiệp hội tiếp tục
thực hiện minh bạch hóa thông tin về cắt giảm, điều chỉnh
thuế và phối hợp với cộng đồng DN để tăng tính dự đoán
được trong việc điều chỉnh thuế. Đây là những nội dung
được ưu tiên trong số các giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh
hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Các văn bản mới nhất
về những điều chỉnh thuế cần được tiếp tục đưa lên các
trang web của Quốc hội, Bộ Tài chính, Bộ Công Thương,
Tổng cục Hải quan và các hiệp hội. Tiếp theo, việc áp dụng
và điều chỉnh các loại thuế gián tiếp như thuế tiêu thụ đặc
biệt, thuế lợi nhuận cần được rà soát để đảm bảo phục vụ
mục tiêu phát triển của ngành. Bên cạnh đó, công tác tuyên
truyền cho việc điều chỉnh thuế cần được quan tâm. Các
hiệp hội cần đóng vai trò là cầu nối giữa các bộ ngành và
DN để đảm bảo nguyên tắc lấy DN làm trung tâm trong
quá trình hoàn thiện công cụ thuế quan. DN cần có những
diễn đàn trao đổi với các cơ quan liên quan về việc điều
chỉnh thuế không phải sau khi việc điều chỉnh đã thực hiện
mà cả trước và trong quá trình lên kế hoạch và thực hiện
việc điều chỉnh. Để đảm bảo thực hiện giải pháp này, các
hiệp hội phải chủ động đề xuất các diễn đàn và hình thức
trao đổi với Bộ Tài chính, Bộ TM, Bộ CN và các bộ ngành
liên quan. Các bộ ngành cần tích cực tham gia; đảm bảo có

246
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

phân công trách nhiệm cho các bộ phận liên quan; và tiến
hành theo dõi đánh giá công tác phối hợp này.
4.2. Sử dụng một cách hệ thống một số công cụ phi
thuế quan
Bộ Công Thương nên là cơ quan chủ trì hệ thống hóa
các biện pháp đang được các cơ quan khác nhau sử dụng
như Bộ Kế hoạch Đầu tư và Bộ Tài chính (mua sắm của
chính phủ), Ngân hàng Phát triển (tín dụng xuất khẩu), các
bộ ngành khác (các biện pháp hành chính). Bên cạnh đó,
Bộ Công Thương cần phối hợp với Bộ Tài chính, các bộ
ngành và cộng đồng DN chủ động tăng cường sử dụng
nhiều hơn và sử dụng có lựa chọn một số công cụ phi thuế
quan như hạn ngạch thuế quan, các khoản mua sắm của
chính phủ, giấy phép nhập khẩu.
Trong khuôn khổ của WTO, các quốc gia thành viên
được quyền sử dụng hạn ngạch thuế quan. Bộ Công
Thương cần xem xét sử dụng nhiều hơn công cụ này, đặc
biệt khi đã trở thành thành viên của WTO. Sự khác biệt giữa
mức thuế trong và ngoài hạn ngạch rất lớn (thường là gấp
đôi). Mặt hàng được áp dụng hạn ngạch thuế quan là những
mặt hàng mà quốc gia sử dụng mong muốn bảo hộ. Chẳng
hạn, theo công bố của Nhóm rà soát CSTM phát triển
CNHT của WTO thì Hoa Kỳ áp dụng hạn ngạch thuế quan
cho nhiều mặt hàng nông nghiệp, thuỷ sản và dệt may. Thái
Lan áp dụng hạn ngạch thuế quan cho 23 nhóm hàng nông
nghiệp. Số mặt hàng nằm trong diện điều chỉnh hạn ngạch
thuế quan tương đối lớn (1,9% ở Hoa Kỳ và 1% ở Thái
Lan). Tất nhiên, với những cam kết trong AFTA, hạn ngạch
thuế quan sẽ không áp dụng với các thành viên ASEAN. Do

247
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

đó, khi áp dụng công cụ này, Việt Nam nên lựa chọn những
ngành mà Việt Nam có lợi thế so sánh hiện hữu và khả
năng cạnh tranh trong ASEAN nhưng không có lợi thế so
sánh hiện hữu và khả năng cạnh tranh khi thực hiện TM
với thế giới. Việc tăng cường sử dụng công cụ hạn ngạch
thuế quan trong khuôn khổ kết hợp CSTM quốc tế và chính
sách ngành sẽ biến công cụ này thành một biện pháp hữu
hiệu của CSTM phát triển CNHT của Việt Nam trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, việc quyết định
sử dụng hạn ngạch thuế quan cho mặt hàng nào không thể
chỉ phụ thuộc vào một tính toán về lợi thế so sánh hiện
hữu đơn giản bởi vì chỉ số này chỉ mang tính tham khảo và
chưa phản ánh đầy đủ việc gia tăng hay kiềm chế tự do
hoá, yếu tố chính sách của các chính phủ hay nỗ lực của
DN. Do đó, khi quyết định lựa chọn mặt hàng thực hiện áp
dụng hạn ngạch thuế quan, Bộ Công Thương cũng cần dựa
trên phương pháp chuyên gia và thực hiện lấy ý kiến từ
DN trong ngành.
Một thực tế ở Việt Nam là ngày càng hạn chế sử dụng
giấy phép nhập khẩu và lệnh cấm nhập khẩu. Lý do được
đưa ra là các quy định này không phù hợp với các quy định
của WTO và các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Tuy nhiên, kinh nghiệm thế giới cho thấy không quốc gia
nào bỏ hoàn toàn hai công cụ này. Malaysia thậm chí tăng
cường việc cấp giấy phép nhập khẩu khi đã trở thành
thành viên của WTO. Việt Nam không nên vận dụng kinh
nghiệm “tăng cường” này của Malaysia nhưng cũng không
nên loại bỏ hoàn toàn việc cấp giấy phép nhập khẩu, đặc
biệt là khi Việt Nam cần tiếp tục bảo hộ một số ngành
trong nước. Các mặt hàng nên được áp dụng giấy phép

248
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

nhập khẩu và lệnh cấm nhập khẩu bao gồm một số mặt hàng
nguyên vật liệu như thép xây dựng và tiêu dùng như hoa
quả, thực phẩm, đồ chơi trẻ em.
Các thành viên của WTO vận dụng việc sử dụng
giấy phép và lệnh cấm với nhiều lý do như bảo vệ ngành
CN, bảo vệ sức khoẻ, môi trường, bảo vệ lợi ích của người
tiêu dùng, bảo vệ các di sản và truyền thống văn hoá.
Để sử dụng hiệu quả việc cấp giấy phép nhập khẩu,
Bộ Công Thương cần phối hợp với Bộ CN, các bộ chuyên
ngành, và cộng đồng DN. Bên cạnh đó, Việt Nam có thể
xem xét kinh nghiệm của Thái Lan về việc tạm thời cấm
nhập khẩu một mặt hàng khi hàng hoá nhập khẩu cạnh tranh
gay gắt với hàng hoá trong nước. Đề nghị về tạm thời cấm
việc nhập khẩu cần thiết phải dựa trên yêu cầu đưa ra từ
các bộ, cơ quan ngang bộ chuyên ngành, hiệp hội và cộng
đồng DN. Các bộ ngành, hiệp hội DN và các DN có thể
vận dụng triệt để các quy định trong Pháp lệnh chống bán
phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam, Luật TM, Luật
cạnh tranh. Hai vấn đề cần giải quyết là bổ sung những quy
định cần thiết cho các văn bản quy phạm pháp luật đã có
và hướng dẫn việc vận dụng những quy định này.
Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu như chính sách
tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, chính sách thưởng kim ngạch,
thưởng thành tích đang được sửa đổi tại Việt Nam trong
thời gian vừa qua cho phù hợp với các quy định liên quan
đến trợ cấp xuất khẩu và TM liên quan đến đầu tư
(TRIMs) và yêu cầu của đối tác trong quá trình đàm phán
gia nhập WTO. Hiệp định trợ cấp và các biện pháp đối
kháng trong khuôn khổ WTO phân loại trợ cấp xuất khẩu

249
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

thành ba loại: trợ cấp bị cấm (trợ cấp đèn đỏ); trợ cấp
không thể bị kiện (trợ cấp đèn xanh); và trợ cấp có thể bị
kiện (trợ cấp đèn vàng). Chính sách về hỗ trợ lãi suất,
thưởng xuất khẩu thuộc loại trợ cấp bị cấm trong khuôn khổ
WTO nên trong tương lai không thể tiếp tục áp dụng.
Việc hỗ trợ các hoạt động TM (xúc tiến TM) được coi là
các loại trợ cấp đèn vàng. Tuy nhiên, khi trở thành thành
viên của WTO, Việt Nam có thể được hưởng chế độ ưu đãi
(tiếp tục duy trì các khuyến khích xuất khẩu) vì là nước
đang phát triển có GNP bình quân đầu người dưới 1000
đôla Mỹ một năm. Chế độ ưu đãi sẽ huỷ bỏ với một mặt
hàng nào đó sẽ huỷ bỏ khi kim ngạch xuất khẩu mặt hàng
đó có được coi là có khả năng cạnh tranh xuất khẩu, cụ
thể là thị phần chiếm ít nhất 3,25% TM thế giới trong hai
năm liên tiếp. Chẳng hạn, ngành dệt may đã phải chấp
nhận việc huỷ bỏ quy định nhận hỗ trợ từ Bộ Tài chính để
phát triển ngành trong quá trình đàm phán song phương với
Hoa Kỳ về việc gia nhập WTO của Việt Nam. Trên thực tế,
những khoản hỗ trợ xúc tiến TM được lấy từ nguồn tiền do
DN nộp phí quota hàng năm.
Những quy định về mua sắm của Chính phủ cần được
xem như một công cụ của CSTM phát triển CNHT. Luật
TM của Việt Nam hiện không có quy định về mua sắm của
Chính phủ mà những quy định này được thể hiện trong
Luật đấu thầu. Việc đưa các quy định về mua sắm vào
trong Luật Đấu thầu hoàn toàn phù hợp với thực tiễn TM
quốc tế. Trong khuôn khổ WTO, các quy định về mua sắm
của Chính phủ sẽ bị coi là hàng rào phi thuế quan nếu tạo
ra sự phân biệt đối xử giữa hàng hoá trong nước và hàng

250
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

hoá nhập khẩu. Tuy nhiên, đối với các nước đang thực hiện
CN hoá, các quy định về mua sắm của Chính phủ có thể
là một công cụ tốt để Chính phủ hỗ trợ khu vực sản xuất
trong nước. Hoa Kỳ đi tiên phong trong việc kêu gọi minh
bạch hoá các quy định về mua sắm của Chính phủ song
cũng cho phép dành một biên độ ưu tiên nhất định cho các
nhà sản xuất trong nước so với các nhà sản xuất nước
ngoài. Việc sử dụng các quy định về mua sắm của Chính
phủ như là một công cụ của CSTM phát triển CNHT cần
thể hiện trên hai nội dung. (i ) thực hiện tốt các quy định
của Luật đấu thầu, trong đó đặc biệt chú ý tới việc thực
hiện minh bạch hoá các quy định này. (ii) Chính phủ khẳng
định tạm thời chưa tham gia vào Hiệp định mua sắm Chính
phủ trong khuôn khổ WTO. Các quy định về mua sắm
của Chính phủ hiện đã tuân thủ tương đối tốt Luật đấu thầu
cũng như các quy định khác của Nhà nước. Tuy nhiên, để
sử dụng có định hướng, liên bộ (Bộ Công Thương, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư) cần thực hiện các biện pháp quán triệt,
tuyên truyền thông qua các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến
thức về hội nhập kinh tế quốc tế (dành cho cán bộ quản lý
và DN) và thông qua các biện pháp khác (diễn đàn trao đổi,
hội thảo).
Bộ Công Thương nên mở rộng đối tượng chủ trì chương
trình xúc tiến TM trọng điểm quốc gia bao gồm cả DN tư
nhân, DN có vốn ĐTNN. Việc Thủ tướng Chính phủ ban
hành quyết định số 279/2005/QĐ-TTg ngày 03/11/2005 về
xây dựng và thực hiện Chương trình xúc tiến TM quốc gia
sẽ tạo điều kiện cho DN VN về thông tin cũng như một số
chi phí trong nghiên cứu thị trường nước ngoài. Hiện tại,

251
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

các đơn vị chủ trì chương trình bao gồm: “các tổ chức xúc
tiến TM Chính phủ thuộc các bộ, cơ quan ngang bộ; các tổ
chức phi chính phủ; các Hiệp hội ngành hàng, Phòng
TM&CN VN, Hội các nhà DN trẻ VN; Tổng công ty ngành
hàng”. Quyết định này cũng nêu rõ rằng: “việc thực hiện
chương trình nhằm mang lại lợi ích cho cộng đồng DN,
không nhằm mục đích lợi nhuận”. Tuy nhiên, hai quy định
như trên sẽ hạn chế sự tham gia của cộng đồng DN và hiệu
quả hoạt động. Về mặt nguyên tắc, hai quy định này đảm
bảo việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn của Chính phủ vào xúc
tiến TM song chưa thực sự phù hợp với thực tiễn VN.
Trong một số ngành hàng, các hiệp hội hoạt động rất
tốt nhưng cũng có những ngành hàng vai trò của hiệp hội
rất mờ nhạt. Một số DN Việt Nam, vì mục đích lâu dài của
công ty hoặc vì lợi nhuận, có thể sử dụng tốt nguồn tài
chính này của Chính phủ để thực hiện các chương trình mà
Chính phủ đề ra nhằm hỗ trợ DN. Điều này cũng phù hợp
với chủ trương của Chính phủ về khuyến khích sự tham gia
của các thành phần kinh tế nói chung và sự tham gia của
các thành phần kinh tế vào công tác xúc tiến TM nói riêng.
Tuy nhiên, thực tế là các chương trình xúc tiến TM sử
dụng nguồn vốn nhà nước mới chỉ do khối nhà nước thực
hiện mà chưa mở rộng việc thực hiện cho các đối tượng
ngoài khu vực nhà nước. Cơ sở để lựa chọn người thực hiện
là bản kế hoạch do các đối tượng đề xuất và khả năng thực
hiện kế hoạch. Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế
và Bộ Công Thương sẽ đánh giá việc thực hiện chương
trình theo một trình tự, thủ tục và tiêu chí thống nhất. Nếu
triển khai theo cách này, Bộ Công Thương, các Sở Công
Thương, và các hiệp hội sẽ công bố mục tiêu và các phạm vi

252
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

dự kiến của công tác xúc tiến TM tới các DN, tổ chức, cá
nhân thuộc mọi thành phần kinh tế. Để tránh thất thoát
nhưng cũng tránh tạo các thủ tục phiền hà trong triển khai
thực hiện, các thủ tục về đăng ký, trình bày kế hoạch, giải
trình các vấn đề liên quan và các tiêu chí đánh giá cần được
tuân thủ nghiêm ngặt. Các tiêu chí nên được xem xét (theo
thứ tự quan trọng) là (i) đầu ra của bản kế hoạch (hội chợ,
website, báo cáo thị trường, các khoá đào tạo, hội thảo); (ii)
các tác động dự kiến (số lượng DN thâm nhập được vào thị
trường mới, số lượng DN mở rộng thị trường, năng lực của
cán bộ nhân viên, năng lực cạnh tranh của ngành...); (iii) số
lượng DN được hưởng lợi từ chương trình; (iv) năng lực
thực hiện của tổ chức. Bên cạnh đó, công tác theo dõi việc
thực hiện cũng như thường xuyên rút kinh nghiệm cần được
đưa vào như một nội dung hoạt động bắt buộc của tất cả các
DN, tổ chức và cá nhân tham gia vào chương trình xúc tiến
TM trọng điểm.
5. Tăng cường phối hợp hoàn thiện chính sách
thương mại phát triển công nghiệp hỗ trợ giữa các bộ
ngành và cộng đồng doanh nghiệp
Phối hợp nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện cơ chế,
chính sách đối với DN CNHT: (i) Nghiên cứu xây dựng, bổ
sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật có
liên quan, từng bước hoàn thiện môi trường pháp lý, tạo điều
kiện thuận lợi cho các DN CNHT thành lập, sản xuất, kinh
doanh theo quy định của pháp luật; (ii) Nghiên cứu, rà soát
đánh giá các cơ chế, chính sách cụ thể có liên quan đến DN
CNHT để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới cơ chế, chính
sách nhằm tháo gỡ khó khăn cho DN phát triển; (iii) Phối hợp

253
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

xây dựng và triển khai quy hoạch, kế hoạch, chương trình


phát triển DN CNHT, phát triển SP xuất khẩu và thay thế
nhập khẩu, đầu tư cải tiến công nghệ, thiết bị, đưa tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất, cải thiện và bảo vệ môi
trường; (iv) Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới
chính sách hỗ trợ tiêu thụ SP, phát triển thị trường trong và
ngoài nước, xây dựng thương hiệu cho SP CNHT.
Phối hợp tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy phạm
pháp luật, cơ chế, chính sách đối với DN CNHT: (i) Phối hợp
trong việc cung cấp thông tin cho các phương tiện thông tin
đại chúng, chỉ đạo cơ quan ngôn luận của hai bên phổ biến,
tuyên truyền Luật DN, các văn bản quy phạm pháp luật, cơ
chế, chính sách có liên quan; (ii) Phối hợp trong việc cung
cấp thông tin về thị trường, hoạt động XNK, về môi trường
đầu tư trong và ngoài nước, về chuyển giao và ứng dụng công
nghệ tiên tiến; (iii) Phối hợp trong việc cung cấp thông tin,
tổng kết kinh nghiệm quản lý, tuyên truyền các điển hình tiên
tiến của các DN CNHT.
Phối hợp nghiên cứu, xây dựng mô hình DN CNHT: (i)
Phối hợp điều tra, khảo sát tình hình hoạt động của các DN,
tổ chức bộ máy, phương thức quản lý, nghiên cứu xây dựng
mô hình phù hợp với đặc thù của các địa phương và với định
hướng phát triển của ngành công thương; (ii) Phối hợp
nghiên cứu, tổ chức học tập kinh nghiệm của nước ngoài
trong việc phát triển DN; (iii) Phối hợp bồi dưỡng, đào tạo
phát triển nguồn nhân lực cho các DN CNHT; (iv) Phối hợp
xây dựng kế hoạch điều tra, khảo sát, đánh giá thực trạng đội
ngũ doanh nhân, công nhân lành nghề, thợ thủ công ngành
nghề truyền thống, xác định rõ nhu cầu đào tạo để có định

254
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

hướng bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực cho các DN
CNHT; (v) Tạo điều kiện trong công tác xây dựng kế hoạch,
biên soạn giáo trình, tài liệu và thực hiện các hoạt động bồi
dưỡng, đào tạo nâng cao năng lực quản lý và lao động của
các DN CNHT; (vi) Tạo điều kiện thuận lợi để các DN CNHT
được tham gia nhiều hơn vào các chương trình đào tạo nâng cao
năng lực quản lý, nâng cao tay nghề trong sản xuất và nghiệp vụ
thương mại, XNK nhằm thực hiện hiệu quả hai chương trình về
xúc tiến thương mại và khuyến công quốc gia.
Phối hợp trong việc xây dựng chương trình, dự án có
liên quan đến phát triển DN CNHT: (i) Phối hợp, tạo điều
kiện để các hiệp hội tham gia các chương trình, dự án phát
triển DN sản xuất, kinh doanh SP CNHT, đặc biệt là các hoạt
động liên quan đến chương trình xúc tiến thương mại và
chương trình khuyến công quốc gia; (ii) Phối hợp hỗ trợ và
tạo điều kiện thuận lợi cho các DN CNHT trong việc tiếp
cận, chuyển giao công nghệ mới, kỹ thuật tiên tiến áp dụng
vào sản xuất, kinh doanh; giúp DN tham gia các hội chợ,
triễn lãm giới thiệu hàng hóa, SP, tìm kiếm thị trường trong
nước và xuất khẩu; (iii) Phối hợp nghiên cứu xây dựng cơ
chế nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện cho các DN CNHT tham gia
các đề án bảo vệ môi trường, sản xuất sạch hơn, vệ sinh an
toàn thực phẩm, tiết kiệm năng lượng, chuyển giao công
nghệ, cải tiến trang thiết bị kỹ thuật, cải tiến phương thức
quản lý DN, phát triển cụm, điểm CN địa phương ….
Phối hợp mạnh hoạt động hợp tác quốc tế: (i) Phối hợp
xây dựng và triển khai các chương trình, đề án nhằm tranh
thủ nguồn lực hợp tác quốc tế, sự hỗ trợ của các tổ chức quốc
tế, các đối tác nước ngoài nhằm mục tiêu phát triển DN

255
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

CNHT; (ii) Chính phủ tạo điều kiện thuận lợi cho các DN
CNHT được tham gia các chương trình của Nhà nước về việc
tổ chức để khảo sát, học tập kinh nghiệm của nước ngoài về
quản lý, phát triển DN.
Và cuối cùng, để có cơ chế phối hợp tốt, mỗi bộ,
ngành nên cử một hoặc một nhóm cán bộ chuyên trách để
tham gia vào việc thực hiện và hoàn thiện CSTM phát triển
CNHT của Việt Nam. Sau thời gian 10 năm, nhóm làm
việc chuyên trách này có tiếp tục tồn tại hay không phụ
thuộc vào hoàn cảnh và nhu cầu của Việt Nam. Bên cạnh đó,
Việt Nam cần xây dựng các nhóm làm việc chuyên trách
tương tự về chính sách CN và các chính sách khác. Việc
xây dựng các nhóm làm việc sẽ giúp tăng cường nhận thức
và sự phối hợp giữa các bộ, ngành, hiệp hội trong việc hoàn
thiện CSTM phát triển CN ở Việt Nam.
6. Khuyến nghị đối với các doanh nghiệp
6.1. Nâng cao nhận thức về vai trò và vị trí của công
nghiệp hỗ trợ
Các DNNN (chủ thể chính trong lĩnh vực này) từ trước
đến nay thường hoạt động theo kiểu trọn gói từ đầu đến cuối.
Do đó, họ hầu như không có khái niệm về ngành CNHT.
Chính vì sản xuất trọn gói nên hiệu quả sản xuất của các DN
không cao, do cần rất nhiều vốn đầu tư và họ buộc phải đầu
tư dàn trải, hiệu quả thấp, giảm khả năng cạnh tranh của SP.
Trong khi đó, việc sản xuất theo hướng chuyên môn hóa,
song hành với nó là sự phát triển của các ngành CNHT, cho
phép các DN đầu tư vốn hiệu quả hơn, giá thành và chất
lượng SP cạnh tranh hơn, đồng thời chủ động hơn trong việc
mua nguyên vật liệu, linh kiện, phụ kiện đầu vào phục vụ cho

256
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

sản xuất. Các DN cần nhận thức được điều này và các công
ty hoạt động trong ngành CNHT chỉ nên chọn, tham gia vào
một lĩnh vực sản xuất. Bên cạnh đó, các biện pháp hỗ trợ tài
chính cho CNHT cần phải được bổ sung vào các chương
trình tài chính cho DNNVV.
Các DN CNHT cần cam kết tuân thủ các tiêu chuẩn
quốc tế về chất lượng, an toàn, môi trường, sở hữu trí tuệ;
tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, chuyên môn hóa các quy
trình đòi hỏi kỹ thuật cao và huy động các đầu vào khác từ
bên ngoài.
6.2. Chủ động trong việc lựa chọn sản phẩm và tìm
kiếm thị trường
Một điều tưởng chừng như “ngược đời” vẫn đang diễn
ra ở Việt Nam. Các DN ĐTNN thường phải vất vả tìm kiếm
nhà cung ứng các SP CNHT đạt tiêu chuẩn cho mình chứ
không phải DNPT chủ động liên hệ với khách hàng. Để phát
triển hiệu quả CN nói chung và CNHT nói riêng, các nhà
quản lý DN và công nhân Việt Nam cần phải thay đổi tư duy
theo hướng năng động trong việc học hỏi và hoạt động
marketing. Các DN Việt Nam cần chủ động hơn nữa trong
việc lựa chọn SP để sản xuất cũng như tìm kiếm khách hàng
thị trường cho đầu ra của mình.
Trong điều kiện Việt Nam hầu hết là các DNNVV, để
chủ động liên hệ với khách hàng mà không mất nhiều chi phí
cho việc tìm kiếm đối tác, việc tăng cường sử dụng TM điện
tử là rất cần thiết. Hoạt động này nhằm quảng bá, giới thiệu
SP của mình không chỉ đối với một nhóm khách hàng và thị
trường định hướng tới, mà thông qua đó, những khách hàng
có nhu cầu có thể tự liên hệ, tìm đến mua sản phẩn của DN.

257
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Điều này mang lại hiệu quả cao và có tính chất lâu dài đối với
chiến lược phát triển của từng DN.
6.3. Chủ động trong việc tạo mối liên kết với các
doanh nghiệp khác
Tăng cường liên doanh, liên kết với nhà ĐTNN. Các
DN cần đa dạng hóa hợp tác, liên doanh liên kết với các nhà
ĐTNN và Việt Nam nhất là với các DNNVV của Nhật với
trình độ kỹ thuật cao và bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực
này để cung ứng các linh kiện, SP CNHT, tiếp nhận sự hỗ trợ
công nghệ từ nước ngoài. Xu thế chung của thế giới là sự
phân công lao động quốc tế ngày càng chi tiết. Vì vậy chỉ có
đa dạng hóa liên doanh liên kết, hợp tác đầu tư thì các DN
Việt Nam mới trở thành một mắt xích trong dây chuyền sản
xuất toàn cầu. Từ trước đến này chúng ta mới quan tâm đến
liên doanh thông qua việc góp vốn đầu tư, gia công SP đơn
giản, đã đến lúc chúng ta phải coi trọng liên doanh, liên kết
dưới dạng đối tác chiến lược, DN vệ tinh, chuyển nhượng bản
quyền, thương hiệu.
Sự phát triển các CNHT rất đa dạng và nhiều cấp bậc,
một mình các DN Việt Nam không thể kỳ vọng bao hàm hết.
Việt Nam cần thu hút đầu tư của các DN CNHT nước ngoài ở
nhiều trình độ công nghệ, không chỉ chú trọng bậc cao nhất
mà phải cả các bậc vừa phải, có khoảng cách công nghệ với
DN trong nước không quá xa. Nếu chỉ chú trọng các DN
Nhật có trình độ công nghệ sản xuất cao, thì khó tạo ra cầu
nối liên kết qua hoạt động sản xuất, kinh doanh với các DN
trong nước vì khoảng cách công nghệ quá lớn. Để lấp khoảng
cách trình độ công nghệ giữa các DN Nhật Bản và Việt Nam,

258
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

cần thu hút các DN nước ngoài khác có trình độ công nghệ
mức trung gian.
Ngoài ra, việc đầu tư vào sản xuất SP CNHT rủi ro
khôn lường. Nhiều trường hợp các công ty đầu tư tiền bạc,
công sức, thời gian vào việc mua sắm dây chuyển, trang, thiết
bị mới để sản xuất linh kiện, nhưng sản xuất ra nhà lắp ráp lại
không mua, SP khi đó chẳng biết bán cho ai. Chính vì vậy,
giữa nhà sản xuất và lắp ráp cần phải có cam kết như cung
cấp tư vấn, thiết bị, kỹ thuật của chính hãng … để nhà cung
cấp linh kiện có niềm tin về vốn.
Hình thành mối quan hệ cùng có lợi (Win - Win).
Trước mắt, việc sản xuất những chi tiết quan trọng, đòi hỏi
kỹ thuật gia công cao ở Việt Nam sẽ do các DN có vốn nước
ngoài đảm nhận. Sau đó, trong tương lai, công việc đó sẽ
chuyển sang cho các DN Việt Nam. Về những chi tiết tương
đối dễ gia công, chế tạo, các DN Việt Nam có thể đảm nhận
ngay. Điều này hỗ trợ cho các DN Việt Nam phát triển trình
độ kỹ thuật của mình, sẵn sàng đơn nhận chuyển giao kỹ
thuật từ các DN có vốn nước ngoài. Riêng đối với những chi
tiết có số lượng gia công ít, sản xuất trong nước không kinh
tế, thì nên nhập khẩu, còn khi số lượng gia tăng, sản xuất
trong nước kinh tế hơn, thì sẽ tiến hành nội địa hóa và phân
chia công việc như đã nêu ở trên. Để cả DN Việt Nam và DN
có vốn nước ngoài cùng phát triển, sự hợp tác (gắn kết, chia
sẻ công nghệ) là cực kỳ quan trọng và việc hình thành mối
quan hệ đôi bên cùng có lợi (Win - Win) sẽ mang lại sự phát
triển bền vững.
Cần có một hiệp hội DN CNHT. Cần có một tổ chức
hiệp hội DN CNHT thực sự do tự các DNPT tập hợp nhau lại

259
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

và tổ chức lên. Hiệp hội này sẽ hoạt động vì lợi ích của các
DN, làm cầu nối giữa các DN với nhau, tương tác hỗ trợ nhau
nâng cao trình độ công nghệ sản xuất. Chính phủ không phải
là người đứng ra tổ chức hiệp hội này, mà chỉ hỗ trợ trong
việc dỡ bỏ những quy định, rào cản đối với việc hình thành
và hoạt động hiệp hội của các DN.
Nếu có được một hiệp hội thực sự từ tự thân các DN
lập nên, hiệp hội sẽ thu thập thông tin, tổ chức những hoạt
động phục vụ lợi ích các thành viên. Hiệp hội như vậy mới
nắm bắt sâu sát tình hình thực tế, hiểu được những vướng
mắc và giúp DN đưa kiến nghị tới các cơ quan hữu quan.
Hiệp hội có thể đóng vai trò đảm bảo tài trợ hợp pháp
trong các hợp đồng của các nhà cung cấp với các công ty lớn
và chuyển cho nhà cung cấp các thông tin về giá chuẩn và các
cơ hội kinh doanh thay thế.
6.4. Đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Các DN cần chú ý công tác đào tạo tay nghề cho đội
ngũ lao động và bồi dưỡng trình độ chuyên môn cho cán bộ,
chuyên viên kỹ thuật nhằm nâng cao hàm lượng chất xám
trong SP, đẩy mạnh liên kết giữa nhà trường và DN. Trong
điều kiện hạn chế của đào tạo trong nước, các DN cần có
chính sách đào tạo cán bộ ở nước ngoài kết hợp với hoạt
động khảo sát thị trường về lâu dài.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng việc đào tạo nhân lực
dàn trải trên mọi lĩnh vực cũng như phát triển sản xuất tất cả
mọi linh kiện và nguyên vật liệu cho một SP có thể dẫn tới sử
dụng lãng phí thời gian và tài nguyên. Các DN Việt Nam nên
chọn cách tiếp cận chọn lọc và tập trung trong việc đào tạo
nguồn nhân lực, đầu tư đào tạo vào những lĩnh vực mà Việt
Nam đang thiếu và yếu.

260
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

6.5. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng doanh


nghiệp vào quá trình hoàn thiện chính sách thương mại
phát triển công nghiệp hỗ trợ
Khi trở thành thành viên của WTO, sự tham gia của
DN và các hiệp hội DN vào quá trình hoàn thiện CSTM cần
được thay đổi. Nhà nước không thể hỗ trợ trực tiếp cho DN
mà phải thông qua các hiệp hội để thực hiện các chương trình
xúc tiến TM, chương trình hỗ trợ nghiên cứu, phát triển,...
Tại Việt Nam, cách thức DN tham gia vào quá trình hoạch
định chính sách cũng cần được tăng cường.
Các DN tham gia rất có hiệu quả vào quá trình hoàn
thiện CSTM ở Thái Lan, Malaysia và Hoa Kỳ. Thực tiễn Việt
Nam cho thấy, Việt Nam hiện đã có sự tham gia của khu
vực DN vào quá trình hoạch định và hoàn thiện chính sách
song tồn tại dưới các hình thức khác nhau như gặp mặt Thủ
tướng với DN, gặp mặt Bộ trưởng với DN, thư trao đổi giữa
Bộ trưởng với DN và DN với Bộ trưởng, các cuộc hội thảo,
đào tạo do các bộ, ngành và hiệp hội chuyên ngành tổ chức.
Tuy nhiên, kết quả thu được từ các kênh này không hệ
thống và không hướng đích. Trong quá trình hoàn thiện
CSTM, Việt Nam rất cần sự tham gia của DN, đặc biệt là
khu vực DN ngoài nhà nước. Những DN này cần được mời
thường xuyên tới các cuộc họp lấy ý kiến từ các kết quả
nghiên cứu và gợi ý chính sách cho Bộ Công Thương và các
bộ ngành khác.
Các DN ở các công đoạn sản xuất khác nhau có
những mong muốn khác nhau từ chính sách của chính phủ.
Tất nhiên, chính phủ không thể đi theo để đáp ứng toàn bộ
các nhu cầu này. Để giải quyết vấn đề này, vai trò của các
hiệp hội ngành hàng rất cần được phát huy. Các hiệp hội là

261
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

người đại diện cho DN và giúp đỡ chính phủ trong việc


hoạch định và thực hiện CSTM phát triển CNHT. Chính
phủ cần mạnh dạn và chủ động phát huy vai trò của các
hiệp hội bằng cách đặt hàng các vấn đề cần giải quyết và
yêu cầu hiệp hội tuyên truyền và lấy ý kiến, đề xuất giải
quyết từ toàn bộ các hội viên và thành viên trong ngành.
Chủ tịch hiệp hội cần là những người có kinh nghiệm trong
ngành, có uy tín với chính phủ và các DN trong ngành và
chấp nhận di chuyển nhiều để trực tiếp lắng nghe ý kiến từ
các DN khác nhau và từ các cấp quản lý khác nhau.

262
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện.........Việt nam đến năm 2020

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Bộ Công Thương, Hiệp hội Da - Giày Việt Nam
(1999, 2007). Quy hoạch tổng thể phát triển ngành da - giầy
Việt Nam đến năm 2010.
2. Bộ Công Thương, Hiệp hội Da - Giày Việt
Nam (2007). Chiến lược phát triển khoa học công nghệ
ngành da - giày Việt Nam giai đoạn đến năm 2015.
3. Bộ Công Thương, Hiệp hội Da - Giày Việt
Nam (2008). Chiến lược phát nguồn nhân lực ngành da
- giầy Việt Nam giai đoạn đến năm 2015.
4. Bộ Công Thương, Quy hoạch phát triển Dệt
may Việt Nam đến năm 2020
5. Ichikawa, Kyoshiro (2004). "Xây dựng và tăng
cường ngành CNHT tại Việt Nam". Cục xúc tiến Ngoại
thương Nhật Bản tại Hà Nội (Báo cáo điều tra).
6. Tổng Công ty Da - giày Việt Nam (2002). Giảm chi
phí sản xuất các sản phẩm thuộc ngành da - giày Việt Nam
nhằm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, đáp ứng yêu
cầu hội nhập. Hà Nội.
7. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 12/2011/QĐ-
TTg ban hành ngày 24/02/2011 của Chính phủ về chính sách
phát triển một số ngành CNHT.

263
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

NHÀ XUẤT BẢN CÔNG THƯƠNG


Trụ sở: 46 Ngô Quyền, Hoàn Kiếm, Hà Nội
Điện thoại: 04 3 8260835 Fax: 04 3 9340599
E-mail: nxbct@moit.gov.vn

Chịu trách nhiệm xuất bản:


Giám đốc
ĐỖ VĂN CHIẾN

Tổng biên tập


ĐẶNG THỊ NGỌC THU

Biên tập: Lê Đức Linh


Chế bản: Nguyễn Sinh
Sửa bản in: Ngân Hà
Trình bày bìa: Lê Xuân Hùng

In : 2000 Cuốn ,khổ 14,5 x 20,5 cm tại Công ty Cổ phần In Hà Nội

Số đăng ký kế hoạch xuất bản : 720-2012/CXB/04-133/CT

Số Quyết định xuất bản : 40 /QĐ-NXBCT ngày 23 tháng 10


năm 2012

In xong và nộp lưu chiểu tháng 10 năm 2012

264

You might also like