« Home « Kết quả tìm kiếm

Chính Sách Đối Ngoại Trung Quốc Từ Góc Độ Lý Luận Quan Hệ Quốc Tế


Tóm tắt Xem thử

- Nghiên cứu chính sách đối ngoại Trung Quốc từ góc độ Lý luận Quan hệ quốc tế By The Observer17/06/2014 Tác giả: Đỗ Thị Thủy* Mặc dù Trung Quốc là một nền văn minh lâu đời và đã có các mối quan hệ, giao lưu quốc tế từ rất sớm nhưng cho đến nay có thể nói chưa có một trường phái lý thuyết về QHQT nào của riêng Trung Quốc được trình bày một cách bài bản, logic, và có ảnh hưởng như các học thuyết của phương Tây (chủ nghĩa hiện thực, tự do, Mác - xít).
- Việc nghiên cứu chính sách đối ngoại của Trung Quốc trước đây thường dựa trên nghiên cứu lịch sử và kinh nghiệm hành vi của nước này.
- Từ khi nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời, nền tảng lý luận cơ bản của CSĐN Trung Quốc được xác định là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông.
- Tuy nhiên, nhiều học giả (đặc biệt là các học giả phương Tây) cũng cho rằng việc áp dụng các thuyết phương Tây truyền thống ngoài mô hình Mác- xít như chủ nghĩa hiện thực hay chủ nghĩa tự do cũng làm sáng tỏ nhiều vấn đề trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc.
- Và trong khi các học giả Trung Quốc vẫn không ngừng tìm tòi một ―lý thuyết QHQT mang màu sắc Trung Quốc‖, có thể thấy rằng những lý luận trong giới nghiên cứu chính trị quốc tế về Trung Quốc đã và đang có ảnh hưởng lớn đến CSĐN đương đại của nước này.
- Nền tảng lý luận kinh điển của Trung Quốc Nghiên cứu cơ sở lý luận CSĐN của Trung Quốc không thể bỏ qua việc nghiên cứu những lý luận kinh điển của các học giả c đại Trung Quốc mà vẫn ít nhiều ảnh hưởng đến tư duy đối ngoại Trung Quốc hiện nay.
- Mặc dù các triết lý này ít đề cập đến quan hệ của Trung Quốc với thế giới bên ngoài mà phần nhiều giải thích nền chính trị phong kiến nội bộ của Trung Quốc thời bấy giờ nhưng nếu xét đến diện tích khng lồ và tình trạng phân tán của Trung Quốc lúc đó, có thể thấy Trung Quốc gần như một hệ thống QHQT thu nhỏ gồm các bang quốc tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau.
- Nói như Lucian Pye, ―Trung Quốc là một nền văn minh dưới lốt của một quốc gia‖.[1] Vì vậy, những lý luận triết học nội bộ của các học giả thời kỳ này có thể được hiểu và mở rộng thành lý luận về thế giới của Trung Quốc.
- Triết học thời kỳ này để lại hai di sản tư tưởng quan trọng về khái niệm, thiết kế và vận hành trật tự xã hội trong thế giới của người Trung Quốc.
- Đặc biệt, quan niệm về bản chất con người bộc lộ tư tưởng đối lập của hai trường phái ni trội nhất: Nho giáo (Confucianism) và Pháp gia (Legalism).
- Vì thế, đối với những người theo Nho giáo, dùng đức để trị quốc (đức trị) sẽ mang lại hoà bình và hạn chế chiến tranh xung đột bởi vì nó khai thác phần tốt đẹp nhất của con người.
- Những quan điểm của phái Pháp gia cũng gần tương tự như những tư tưởng của các bậc tiền bối của chủ nghĩa hiện thực như Thucydices, Machiavelli hay Hobbes về bản chất con người, về chiến tranh và quyền lực.
- Thậm chí, rất nhiều học giả cho rằng, cân bằng quyền lực là yếu tố chủ yếu nhất để duy trì sự tồn tại của hệ thống các vương quốc thời Trung Quốc c đại.
- Hai thời kỳ kinh điển của Trung Quốc là Xuân Thu và Chiến quốc đã ghi lại sự hưng thịnh và suy vong của các quốc gia và có rất nhiều ví dụ minh hoạ về việc các quốc gia chơi trò cân bằng quyền lực như thế nào để đảm bảo sự tồn tại, bảo vệ, củng cố và mở rộng bờ cõi.
- Tư tưởng cân bằng quyền lực có thể được thấy trong những từ như Bá, Minh và Hội.
- Kết hợp với chiến lược ―viễn giao cận công‖ (yuanjiao jingong), nước Tần đã chiến thắng các nước còn lại và trở thành người thống nhất Trung Quốc.
- ―Hợp tung – liên hoành‖ và ―viễn giao cận công‖ là hai di sản quan trọng trong suy nghĩ chiến lược của Trung Quốc,[2] điển hình là chiến lược ―cân bằng quyền lực‖ và chọn đồng minh của Trung Quốc trong chiến tranh lạnh.
- Bao trùm toàn bộ Trung Quốc thời c đại là niềm tin rằng thế giới là hoà bình và hoà hợp, cho rằng có một sự hoà hợp tự nhiên giữa các thế lực của trời và đất và đưa ra hình ảnh toàn bộ thế giới như một cộng đồng.
- Tuy nhiên, tư tưởng này cho rằng để đạt được sự hoà hợp trong một thế giới đại đồng như thế thì con người phải tuân thủ trật tự đúng mực trong năm mối quan hệ quan trọng: phu phụ (vợ - chồng), phụ tử (cha -con), huynh- đệ (anh em), bằng hữu (bạn bè) và quân - thần (vua - tôi).
- Tất cả các quan hệ chính trị đều phải tuân theo những chuẩn mực này ở các cấp độ tại gia đình, trong quốc gia và trên thế giới (tề gia, trị quốc, bình thiên hạ).
- Nhiều học giả Trung Quốc cho rằng Trung Quốc chia xẻ rất nhiều lý luận lý tưởng với các học thuyết khác trên thế giới ở khái niệm này: đối với thuyết tự do của Mỹ là ‗hoà bình dân chủ,‘ đối với trường phái Anh là ‗xã hội quốc tế‘ và đối với lý thuyết của Trung Quốc là ‗đại đồng‘ (sự hoà hợp vĩ đại của thế giới).[3] Đây là một trong những cơ sở quan trọng để chủ tịch Hồ Cẩm Đào xây dựng các khái niệm ―xã hội hài hoà‖ và ―thế giới hài hoà‖ gần đây.
- Các trường phái lý luận về CSĐN của Trung Quốc trong Chiến tranh lạnh Cho đến thập kỷ 60, nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Trung Quốc được chia thành ba trường phái: truyền thống/lịch sử.
- Từ cuối những năm 60 cho đến hết thập kỷ 70 các trường phái tam giác chiến lược và chính trị nội bộ chiếm ưu thế do những phát triển tương ứng trong chính sách đối nội và đối ngoại của Trung Quốc.[4] Trường phái lịch sử truyền thống bao gồm phần lớn là các sử gia tìm hiểu chính sách đối ngoại của Trung Quốc mới thành lập dựa trên những di sản quá khứ của nước này (là một nước lớn, lịch sử văn minh lâu đời, 100 năm sỉ nhục quốc gia).
- Ví dụ như sử gia Mỹ Fairbank cho rằng ―tìm hiểu một cường quốc như Trung Quốc mà không xem xét lịch sử, đặc biệt là truyền thống chính sách đối ngoại thì thực là mù quáng‖ hay như Chih Y Shih rằng ―cho dù môi trường đã biến đi nhanh chóng, hệ thống tín ngưỡng truyền thống như Nho giáo, đạo Lão, và Phật giáo vẫn là cơ sở chủ yếu cho CSĐN của Trung Quốc.‖[5] Theo trường phái này, biến số giải thích cơ bản trong hành vi đối ngoại của Trung Quốc là sự tiếp tục của truyền thống lấy Trung Quốc làm trung tâm cũng như dựa trên những kinh nghiệm và khái niệm hoá thế giới bên ngoài, đặc biệt là với phương Tây của Trung Quốc.
- Theo đó, quan niệm của Nho giáo về một ―thiên hạ‖ thống nhất dưới sự cai trị của ―thiên tử‖ thừa mệnh trời cai trị thần dân trong đó Trung Quốc đóng vai trò là ―vương quốc trung tâm‖ hiểu thế giới theo một trật tự thứ bậc (hierarchy) gồm ba tầng lớp: Trung Quốc ở vị trí cao nhất, ở giữa là các nước láng giềng của Trung Quốc mà đa số chịu ảnh hưởng của nho giáo đóng vai trò là ―các nước ngoại vi‖ trong hệ thống triều cống cho Trung Quốc và ở mức thấp nhất là phương Tây – ―những kẻ man di.‖[6] Gánh nặng lịch sử (the burden of greatness) này rõ ràng là tạo áp lực rất lớn đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc.
- Nói như học giả Trung Quốc Tang Shiping ―từ Tôn Dật Tiên cho đến Hồ Cẩm Đào, mục tiêu quốc gia này là điều duy nhất không thay đi.‖[7] Khi chiến tranh Triều Tiên n ra, cách tiếp cận truyền thống bị thách thức bởi trường phái ý thức hệ Mác- xít/ tư tưởng Mao Trạch Đông.
- Một số học giả cho rằng cơ sở lý luận CSĐN của Trung Quốc là chủ nghĩa Mác -Lêni n (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử), thể hiện rõ nét qua việc Trung Quốc ngả về phía Liên Xô và tham gia vào phong trào cộng sản quốc tế chống lại đế quốc phương Tây (chẳng hạn như tham gia vào chiến tranh Triều Tiên, hỗ trợ Việt Nam chống Mỹ…) trong giai đoạn đầu của chiến tranh lạnh.
- Trong khi đó, một số khác cho rằng tư tưởng Mao Trạch Đông hay nói cách khác là vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Trung Quốc, mới là nguyên tắc vận hành chủ yếu của CSĐN Trung Quốc.
- Cách tiếp cận này nhấn mạnh đến tư tưởng và vai trò của cá nhân Mao trong việc hoạch định chính sách đối ngoại của Trung Quốc.[8] Theo trường phái này, các ý tưởng nảy sinh từ cách mạng là một nguồn quan trọng trong CSĐN của Trung Quốc và các nước cộng sản nói chung bao gồm học thuyết đấu tranh giai cấp của Mác, luận điểm về chủ nghĩa đế quốc của Lênin và học thuyết về mặt trận thống nhất, nhất biên đảo hay thuyết ba thế giới của Mao.
- Nhiều học giả cho rằng học thuyết của Mao mang tính cấp tiến và cách mạng hơn Liên Xô thể hiện qua tư tưởng ‗không thoả hiệp‘với chủ nghĩa đế quốc và ―xuất khẩu cách mạng‖ ra phạm vi thế giới khiến các nước tư bản lo sợ (như ở Bắc Triều Tiên, Việt Nam, Indonesia, Malaysia.
- Và cũng chính điều này dẫn đến việc Mao không tán thành tư tưởng ―chung sống hoà bình‖ với phương Tây của Khruschev – mầm mống quan trọng dẫn đến phân liệt và xung đột Xô -Trung sau này.
- Những tư tưởng Mác - xít góp phần quan trọng trong việc định hình cách hiểu của Mao nói riêng và Trung Quốc nói chung về trật tự thế giới và cấu trúc của hệ thống thế giới trong thời gian đầu CH ND Trung Hoa thành lập.
- Tuy nhiên, chúng đã được phát triển và độc lập hơn khi Trung Quốc tách khỏi Liên Xô, nếu không nói là công khai cạnh tranh ảnh hưởng và lý luận với nước này.
- Mao xếp các nước Á, Phi, Âu thành một khối trung lập và các nước tư bản và châu Âu như một vùng trung lập khác trong thế giới hai cực.[9] Hai thuyết này về sau được phát triển thành học thuyết ba thế giới được Mao chính thức đưa ra năm 1974, theo đó thế giới thứ nhất bao gồm 2 siêu cường Mỹ - Xô, thế giới thứ hai bao gồm Châu Âu, Nhật, Úc và Canada trong khi thế giới thứ ba bao gồm các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, các nước kém phát triển nhất và các nước thuộc địa cũ.
- Trong mô hình này Trung Quốc được xếp là một nước XHCN và một phần của thế giới thứ ba, chống lại bá quyền của Liên Xô và Mỹ.
- Có thể thấy, dù có những khác biệt trong cách tiếp cận giữa trường phái truyền thống hay trường phái Mácxít- Mao, cả hai đều chia xẻ lập luận rằng nhân tố cơ bản trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc là chính bản thân Trung Quốc dù là một nước truyền thống hay nước cộng sản.
- Nói cách khác, Trung Quốc là một trường hợp hoàn toàn khác biệt và phải được hiểu theo cách đặc thù riêng của nó.
- Nhưng có lẽ thách thức lớn nhất đối với lập luận một Trung Quốc khác biệt đến từ thuyết hiện thực/hệ thống.
- Thay vì xem xét Trung Quốc qua lăng kính lịch sử đế chế hay dựa trên chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông, một số học giả áp dụng các quan điểm của chủ nghĩa hiện thực phương Tây về sức mạnh, lợi ích quốc gia và kiềm chế chiến lược khi nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Trung Quốc nhất là cách hành xử của nước này trong những tình huống khủng hoảng (chiến tranh Triều Tiên, khủng hoảng eo biển Đài Loan, chiến tranh Việt Nam, xung đột biên giới với Ấn Độ, Liên Xô, Việt Nam.
- Trường phái này cho rằng các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc cũng giống như những người đồng nhiệm của họ ở phương Tây, phải xem xét đến khía cạnh sức mạnh kinh tế, quân sự của những kẻ thù hay đồng minh siêu cường của họ.
- Điều này theo họ là khá rõ ràng khi Trung Quốc có những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại, như ngả về Liên X ô trong giai đoạn đầu rồi sau đó là cải thiện quan hệ với Mỹ – những điều chỉnh mà ít ra cho thấy yêu cầu cấp bách chiến lược phải thay đi do có những thay đi cơ bản trong môi trường bên ngoài của Trung Quốc.[10] Nhà hiện thực Allen Whiting lập luận rằng cách hành xử của Trung Quốc trong khủng hoảng cũng giống như bất kỳ quốc gia nào khác và rằng nhân tố ý thức hệ hay tham vọng đế chế của nước này không phải là nhân tố quan trọng trong quyết định dùng vũ lực của Trung Quốc.
- Ngoài ra, trường phái này cũng cho rằng CSĐN của Trung Quốc mang tính duy lý nếu xét đến hệ tư tưởng chủ đạo của Trung Quốc là CN Mác - Lênin mang màu sắc Trung Quốc của Mao.
- Mặt khác, do chỉ có một số ít lãnh đạo Trung Quốc tham gia vào quá trình hoạch định chính sách đối ngoại, nhiều nhà phân tích kết luận rằng có sự thống nhất và đồng thuận trong giới tinh hoa của Trung Quốc hơn là những gì chúng ta nghĩ.
- Điều này hoàn toàn phù hợp với lập luận của chủ nghĩa hiện thực rằng chính sách đối ngoại của quốc gia là đơn nhất và duy lý.
- Một nhánh của chủ nghĩa hiện thực bao gồm các nhà hiện thực mới như William Tow, Robert H.
- Ross lại tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của cấu trúc hệ thống (tam giác chiến lược Mỹ -Xô-Trung) đến chính sách đối ngoại của Trung Quốc.
- Nói như nhà hiện thực William Tow, CSĐN của Trung Quốc trong chiến tranh lạnh chịu ảnh hưởng nhiều nhất của tư tưởng cân bằng quyền lực và lấy quốc gia làm trọng trong các vấn đề chính trị và an ninh quốc tế.[11] Trung Quốc đã chống cự lại việc mà họ cho là nỗ lực của 2 siêu cường nhằm kiềm chế Trung Quốc và đã khắc phục sự yếu kém chiến lược tương đối của mình bằng cách i) khai thác tiềm năng dân số khng lồ, ii) kéo dài và trong một số trường hợp là xuất khẩu tinh thần cách mạng của mình và iii) đối đầu với các siêu cường hay đồng minh của họ trong những tình huống chiến tranh hạn chế (Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam, xung đột ở Campuchia.
- Dần dần với thời gian, Trung Quốc đã phát triển các nguồn lực quân sự và kinh tế đủ mạnh để ngăn chặn Mỹ và Liên Xô lôi kéo Trung Quốc trực tiếp vào một cuộc chiến tranh lớn.
- Trong suốt chiến tranh lạnh, Trung Quốc không chấp nhận sự cạnh tranh sức mạnh toàn cầu chỉ là một trò chơi tng số bằng không giữa các siêu cường trong đó số phận của Trung Quốc phó mặc cho kết quả của cuộc đấu tranh giành quyền lực Đông - Tây.
- Trong một số thời kỳ hoà hoãn sau đó, Trung Quốc đã cố tìm kiếm quyền lực và ảnh hưởng từ cả hai siêu cường bằng cách chơi con bài địa chính trị và tạo lập một phạm vi ảnh hưởng độc lập của riêng mình.
- Điều này tạo nên một tam giác chiến lược Mỹ -Trung- Xô trong những năm cuối chiến tranh lạnh và nhiều khi Trung Quốc đã chiếm vị trí có lợi nhất trong tam giác đó (pivot position) như trong những năm 80.
- Các học giả phương Tây đều thống nhất rằng từ một vị trí chiến lược khá bất lợi, Trung Quốc đã có thể vươn lên thách thức bá quyền bằng cách gián đoạn ngả về Liên Xô và Mỹ mà không hề cam kết vĩnh viễn với bất kỳ khối nào (một chiến thuật được gọi là ―không liên kết ‗lệch.
- tilted nonalignment‖).[12] Việc Trung Quốc chọn ngả về bên nào ở thời điểm nào tuỳ thuộc vào việc Trung Quốc xem siêu cường nào là mối đe doạ với họ hơn vào thời điểm đó – logic rất giống với tư tưởng ‗cân bằng mối đe doạ‘ của nhà hiện thực mới Stephen Walt đề ra.[13] Một số phát triển lý luận mới của Trung Quốc sau chiến tranh lạnh nước mà họ xem là mối đe doạ lớn nhất của mình‖.
- [19] Xem thêm Hiền Lương và Đỗ Thủy, ―Những điều chỉnh trong chiến lược an ninh Đông Á của Trung Quốc sau chiến tranh lạnh‖ Nghiên cứu quốc tế , (3/2006).
- [24] Chẳng hạn như cho đến năm 1966 Trung Quốc không tham gia vào t chức quốc tế nào mà đến nay đã là thành viên của hơn 50 t chức khu vực và quốc tế

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt