Professional Documents
Culture Documents
COM
Trong bản tin có sử dụng hình ảnh và các bài dịch từ các tạp chí nổi tiếng
Physics World, Nature Physics, New Scientist, cùng một số tạp chí khác.
Nội dung
‘Bằng chứng tốt nhất’ cho vật chất tối từ trung tâm Dải Ngân hà ................................... 1
Các nam châm phân tử sắp thẳng hàng mang lại những bộ nhớ từ tốt hơn ..................... 2
Các hành tinh cỡ Trái đất có lẽ phổ biến hơn chúng ta nghĩ ........................................... 4
Diode ‘kim loại-chất cách điện-kim loại” hiệu suất cao ................................................... 5
Vì sao cần cải tiến hệ SI? ............................................................................................ 6
Phát hiện sao neutron nặng nhất từ trước đến nay ....................................................... 7
Ảnh: Đối mặt ............................................................................................................. 9
Các thiên hà xoắn ốc khổng lồ có kiềm hãm sự hình thành những đám sao trẻ? ............ 10
10 năm Trạm Vũ trụ Quốc tế ..................................................................................... 11
Fluorographene: Chất cách điện mỏng nhất thế giới .................................................... 13
Positronium tán xạ giống như một hạt tích điện .......................................................... 14
Phi thuyền Cassini tự động chuyển sang chế độ standby ............................................. 15
Lắng nghe âm thanh đất trượt .................................................................................. 16
LHC cho dừng proton và chuyển sang pha hoạt động mới ........................................... 17
Tạo ra plasma lỗ đen trong phòng thí nghiệm ............................................................ 18
Cứng hơn kim cương 17% ........................................................................................ 20
Trung Quốc công bố các ảnh chụp mặt trăng ............................................................. 21
Phát hiện hai loại đá mặt trăng mới ........................................................................... 22
Kính thiên văn vũ trụ James Webb phải chờ đến 2015 ................................................. 22
LHC đã trông thấy những sự kiện ZZ đầu tiên ............................................................. 23
Sức bền của graphene nằm ở chỗ khiếm khuyết của nó .............................................. 24
Tìm kiếm sự sống trên sao Hỏa ................................................................................. 25
Phản hydrogen bị bẫy tại CERN ................................................................................. 27
Biến thông tin thành năng lượng ............................................................................... 29
Graphene cho hiệu ứng Faraday rõ nét ...................................................................... 30
Vũ trụ sơ khai "khát" điện tích ................................................................................... 32
Các nhà vật lí ATLAS phát hành... album .................................................................... 33
Thế giới lượng tử kì lạ, nhưng chẳng thể kì lạ hơn ...................................................... 33
Các nhà vật lí Đức điều chế thành công “siêu photon” ................................................. 35
Quan sát trực tiếp bầu khí quyển của siêu Trái đất ..................................................... 37
Các nhà thiên văn học sử dụng Mặt trăng trong nỗ lực bắt các hạt năng lượng cao ....... 39
Bí mật về sự phơi sáng của kim cương 40 .................................................................. 40
Loại cao su chịu nhiệt tốt .......................................................................................... 41
Các hạt mới cho thấy liên hệ giữa vật chất tối và các phản hạt hay lẫn tránh ................ 42
Giai điệu của sóng hấp dẫn ....................................................................................... 44
Các thí nghiệm ở LHC mang lại cái nhìn mới mẻ về vũ trụ sơ khai ................................ 45
Tàu thăm dò Cassani phát hiện bầu khí quyển chứa ô-xi và cac-bon đi-ôxit ở vệ tinh Rhea
của Thổ tinh ........................................................................................................... 47
Tốc độ hình thành của các ngôi sao ........................................................................... 48
Thiên hà tiên nữ được tạo thành từ sự va chạm các thiên hà ....................................... 49
Siêu tụ graphene phá vỡ kỉ lục lưu trữ ....................................................................... 50
Các thiên hà đôi cho biết phân bố của vật chất tối và dạng hình học của vũ trụ ............ 51
Không tìm thấy các lỗ đen nhẹ .................................................................................. 52
Tạo ra miền cấm trên graphene ................................................................................ 53
Bóc trần "đường rò" vướng víu lượng tử ..................................................................... 54
Lần đầu tiên tìm thấy hành tinh từ một thiên hà khác ................................................. 55
Sự thừa thải tia gamma
‘Bằng chứng tốt nhất’ cho vật chất
Hồi năm ngoái, Hooper và Goodenough đã so sánh
tối từ trung tâm Dải Ngân hà quang phổ Fermi của các tia gamma với một mô hình
máy tính đơn giản của vật chất tối, và đề xuất rằng sự
dư thừa sự tia gamma phát ra từ tâm thiên hà có thể là
bằng chứng của sự phân hủy vật chất tối. Vào lúc ấy,
các nhà nghiên cứu khác không bị thuyết phục vì có
những nguồn gốc khả dĩ khác cho tín hiệu trên, thí dụ
như các photon năng lượng cao va chạm với chất khí
giữa các sao. Tuy nhiên, trong phân tích mới nhất của
họ, Hooper và Goodenough đã cố gắng xoa dịu những
mối quan ngại này, họ sử dụng một phương pháp luận
phức tạp hơn nhiều để khảo sát các thành phần đặc
biệt cấu thành nên phông nền của các tia gamma.
Vệ tinh Fermi trên quỹ đạo xung quanh Trái đất. (Ảnh: NASA
E/PO, Đại học Sonoma State, Aurore Simonnet)
Khối lượng nhẹ này một phần là cái làm cho phép Trong khi đó, Michael Kuhlen, một nhà lí thuyết vật
phân tích trên đáng tin cậy. Trong nhiều năm, các nhà chất tối tại trường Đại học California ở Berkeley, thì
vật lí nghiên cứu về thí nghiệm DAMA ở Italy khẳng tin rằng có “khả năng hợp lí” lí giải vì sao chương
định đã tìm thấy các WIMP đang va chạm với hạt trình Fermi đã rút lại các kết luận về sự dư thừa tia
nhân sodium-iodide, còn những người đang nghiên gamma. “Nhất định họ có nghĩ về nó, nhưng có lẽ chỉ
cứu tại chương trình CoGeNT ở Mĩ thì công bố không là vì họ không thể tự thuyết phục bản thân mình rằng
dứt khoát những tín hiệu WMIP tương tự đến từ các họ đã hiểu đầy đủ hành trạng của thiết bị nghiên cứu,
máy dò germanium – và nhiều người tin rằng cách duy hay các phông nền, hay các loại nguồn thiên văn vật lí
nhất để dung hòa những tín hiệu này là giả định một khả dĩ có thể tạo ra tín hiệu trên”, ông nói.
hạt WMIP có khối lượng chừng 8 GeV.
Những Kulen bổ sung thêm: “Thật ra, họ chỉ mới thử
“Cho đến khi tôi nhìn thấy bài báo mới nhất này từ khuấy nước trong tách, và để cho những người khác
Hooper và Goodenough, tôi thuộc về nhóm nghĩ tới xem xét nghiêm túc khả năng là Fermi có thể đã phát
kịch bản WIMP nhẹ”, phát biểu của Alex Murpht, một hiện ra một tín hiệu phân hủy vật chất tối. Đây là một
nhà thiên văn vật lí hạt cơ bản đang nghiên cứu thí điều tốt đẹp thôi”.
nghiệm vật chất tối ZEPLIN-III ở Mĩ. “Nhưng nay tôi
đã thấy bài báo, và tôi bắt đầu suy nghĩ – hừm, có thể Bản thảo của bài báo trên có tại arXiv: 1010.2752.
lắm. Có lẽ hiện nay chúng ta nên khảo sát những
phương pháp khác để xác nhận hoặc bác bỏ đề xuất Nguồn: physicsworld.com
này”. Tác giả: Jon Cartwright
Ngày: 29/10/2010
lĩnh vực điện tử học spin đang phôi thai – lĩnh vực
Các nam châm phân tử sắp thẳng trong đó các dụng cụ điện tử khai thác spin của một
electron đồng thời với điện tích của nó. Những dụng
hàng mang lại những bộ nhớ từ cụ như vậy có sức thu hút lớn vì chúng có khả năng
tốt hơn nhỏ hơn và hiệu quả năng lượng hơn so với các mạch
điện tử truyền thống.
Các nhà nghiên cứu ở châu Âu vừa thành công trong
việc chế tạo ra các nam châm phân tử có khả năng Các nam châm đơn phân tử là những chất liệu thuận từ
nhận lấy một hướng ưu tiên trên một bề mặt bằng có khả năng chuyển sự từ hóa của chúng giữa hai
vàng. Kết quả trên là một tiến bộ quan trọng đối với trạng thái, từ “spin lên” sang “spin xuống” chẳng hạn.
Các nhà nghiên cứu đã liên kết bốn ion sắt đồng phẳng
bằng cách thêm hai phân tử liên kết mới trích xuất từ
trialcohol có dạng hình học thích hợp để liên kết các
ion tại các đầu đối diện nhau của mặt phẳng sắt. Một
sự sắp xếp như vậy có nghĩa là phân tử sắt đó có tính
ổn định cao.
Hồi năm ngoái, Roberta Sessoli thuộc trường Đại học Khi đó, đội nghiên cứu nhận thấy cách thức các nam
Florence và các đồng nghiệp ở Modena và Paris đã châm phân tử tự định hướng chúng lên trên bề mặt
chứng minh được rằng các đám gồm bốn nguyên tử vàng có thể điều khiển bằng cách thay đổi chiều dài và
sắt (Fe4) hợp nhất vào trong cấu trúc của một phân tử tính dẻo của chuỗi alkyl. Chẳng hạn, khi chiều dài
phức có thể duy trì bộ nhớ từ của chúng khi đính chuỗi giảm từ 9 xuống còn 5 nguyên tử carbon, thì các
chúng bằng phương pháp hóa học lên trên một bề mặt phân tử buộc phải liên kết với bề mặt thông qua một
vàng. Nay, cũng đội nghiên cứu vừa nói đã tiến thêm cái “kẹp mỏ sấu” và do đó nhận lấy một sự sắp hàng
một bước nữa trong nghiên cứu của mình với việc ưu tiên. Khi các phân tử đã canh thẳng hàng, chúng
thao tác hóa học trên những phân tử Fe4 này để tự định biểu hiện các vòng từ trễ rộng hơn và có một tác dụng
hướng chúng theo một chiều ưu tiên trên bề mặt vàng. nhớ tốt hơn, với các dấu hiệu chui hầm lượng tử rõ rệt.
Từ tính của các phân tử trên được nghiên cứu bằng
ánh sáng synchrotron. “Công trình của chúng tôi chứng tỏ rằng một phương
pháp đa ngành, kết hợp hóa học tổng hợp, vật lí thực
Sự chui hầm lượng tử cộng hưởng nghiệm và sự mô phỏng lí thuyết, là cần thiết đối với
ngành khoa học nano tiến bộ”, Sessoli nói. “Mặc dù
Kết quả mới trên cho phép các nhà nghiên cứu lần đầu các ứng dụng cho công nghệ này sẽ không thể thấy
tiên quan sát sự chui hầm lượng tử cộng hưởng của sự trong tương lai gần vì nhiệt độ làm việc thấp của các
từ hóa ở các nam châm đơn phân tử trên một bề mặt. nam châm đơn phân tử, nhưng loại nghiên cứu cơ bản
Sự chui hầm lượng tử, một quá trình nhờ đó các hạt này lát đường cho các công nghệ gốc spin trong tương
lượng tử có thể đi xuyên qua các rào cản năng lượng lai”.
bình thường không thể vượt qua đối với các vật thể cổ
điển, là một hiện tượng khá tinh vi. Nó có thể dễ dàng Công trình của các nhà khoa học công bố trên số ra
bị phá hỏng bởi các tác động bên ngoài – thí dụ, qua tuần này của tạp chí Nature.
các mối nối cần thiết để kết nối các nam châm bằng
phương pháp điện tử bên trong các dụng cụ thực tế. Nguồn: physicsworld.com
Tác giả: Belle Dumé
Ngày: 29/10/2010
Hầu như cứ một trong bốn ngôi sao kiểu Mặt trời là có Thông tin này, từ các trường hợp đã được xác nhận lẫn
chứa một hành tinh cỡ Trái đất, đó là theo các nhà trường hợp được suy luận ra, đã được sử dụng để mô
nghiên cứu người Mĩ. Kết quả của họ nêu ra các nghi phỏng xác suất của các hành tinh kế cận là một hàm
vấn về các mô hình lâu nay của sự hình thành hành của khối lượng của một hành tinh. Hóa ra định luật lũy
tinh cho rằng khó tìm thấy các hành tinh khối lượng thừa phù hợp tốt nhất với dữ liệu trên, ngụ ý rằng khối
thấp ở gần ngôi sao bố mẹ của chúng, ngụ ý rằng các lượng của hành tinh càng nhỏ, thì khả năng nó tồn tại
hệ sao như hệ mặt trời của chúng ta có thể phổ biến càng lớn. Điều này cho thấy “sa mạc hành tinh” không
hơn chúng ta nghĩ từ trước đến nay. Kết quả trên còn phải là xứ khô cằn khốc liệt như trước đây mường
cho rằng sứ mệnh Kepler của NASA, hiện đang săn tượng. “Các quan sát của chúng tôi không phù hợp với
lùng các hành tinh giống Trái đất, có thể phát hiện hơn các dự đoán lí thuyết. Giờ chúng tôi biết rằng vũ trụ có
250 “thế giới địa cầu đáng tin cậy”. nhiều hành tinh cỡ Trái đất hơn là các hành tinh cỡ
Mộc tinh”, Marcy nói. Định luật lũy thừa của ông dự
Sự đông đúc của những thế giới ngoài hành tinh đã đoán xác suất cho một ngôi sao kiểu mặt trời có một
biết, tổng cộng gần 500 hành tinh đã được phát hiện ra hành tinh cỡ Trái đất là 23% - gần bằng một phần tư.
kể từ giữa thập niên 1990, hiện đang nghiêng về phía Các kết quả đã công bố trên tạp chí Science.
các hành tinh cỡ Mộc tinh dễ phát hiện hơn, đang quay
gần ngôi sao chủ của chúng. Chỉ những tiến bộ công Tuy nhiên, nghiên cứu trên bị hạn chế, bởi công nghệ
nghệ gần đây mới cho phép tìm kiếm các hành tinh có hiện nay, chỉ với các hành tinh mô phỏng có bán kính
khối lượng cỡ Trái đất. Nhưng các mô hình hiện có quỹ đạo chưa tới một phần tư khoảng cách Mặt trời-
của sự hình thành hệ mặt trời tiên đoán một “sa mạc Trái đất. Vì thế, kết quả của Marcy có thể vẫn hứa hẹn
hành tinh” ở gần ngôi sao: thiếu vắng các hành có khối trong cuộc săn lùng “anh em song sinh” của Trái đất:
lượng bằng 1-300 lần Trái đất và chu kì quỹ đạo chưa một hành tinh cỡ Trái đất đang quay trong quỹ đạo
tới 50 ngày. Nay, một đội gồm các nhà thiên văn học, bằng khoảng cách Trái đất-Mặt trời. “Các mô hình
trong đó có Geoff Marcy tại trường đại học California hiện nay cho thấy đa số các hành tinh hình thành ở
ở Berkeley, đang thách thức sự hiểu biết được chấp cách xa ngôi sao của chúng; bạn sẽ tìm thấy nhiều
nhận này. hành tinh hơn ở những chu kì quỹ đạo lớn hơn”, theo
Coel Hellier, một nhà nghiên cứu hành tinh ngoại tại
“Đây là lần đầu tiên người ta đo được tỉ lệ các ngôi trường đại học Keele. “Nghiên cứu này dự đoán một
sao có các hành tinh nhỏ hơn”, Marcy, thường được xác suất 23% tìm thấy các hành tinh khối lượng cỡ
Tìm kiếm một Trái đất thứ hai Trong khi đó, một cặp nghiên cứu ở Mĩ và Thụy Sĩ đã
bắt tay vào nghiên cứu một đối thủ Trái đất một cách
Tuy nhiên, chỉ với việc một hành tinh có khối lượng chi tiết hơn. Kevin Heng tại trường ETH Zurich và
gần bằng Trái đất, thì không nhất thiết có nghĩa là nó Steven Vogt tại trường đại học California đã mô
giống Trái đất. “Các hành tinh với khối lượng cỡ vài phỏng vòng tuần hoàn khí quyển trên Gliese 581g,
lần Trái đất có thể khác về mặt lượng với các hành một “siêu Trái đất” phát hiện ra vào năm 2009. Công
tinh khối lượng một Trái đất. Chúng có thể lớn hơn bố các kết quả của họ trong một bài báo đăng trên
nhiều, có khả năng giống như các tiểu Hải vương tinh, website bản thảo arXiv, các nhà nghiên cứu trên cho
với rất nhiều nước và ít đá”, Marcy cảnh báo. rằng những vị trí đặc biệt thích hợp cho sự sống tùy
thuộc vào hành tinh đó có bị khóa thủy triều hay
Nhưng các kết quả sơ bộ từ kính thiên văn vũ trụ không và sự nguội đi do bức xạ xảy ra nhanh như thế
Kepler của NASA, thiết bị đo bán kính của một hành nào ở cấp độ toàn cầu.
tinh thay cho khối lượng của nó, đang tỏ ra có triển
vọng. “Nhiều ứng cử viên hành tinh của Kepler dường Nguồn: physicsworld.com
như có bán kính nhỏ, phù hợp với nghiên cứu của Tác giả: Colin Stuart
chúng tôi; sau hết thảy, chúng có thể giống với Trái Ngày: 28/10/2010
đất. Đội nghiên cứu dự đoán rằng kính thiên văn
Kepler có thể tìm thấy 120-260 “thế giới ngoài hành
Khám phá trên, mới công bố trực tuyến trên tạp chí
Diode ‘kim loại-chất cách điện-kim chuyên nghiệp Advanced Materials (Các vật liệu tiên
loại” hiệu suất cao tiến), lần đầu tiên trình bày việc chế tạo một diode
“kim loại-chất cách điện-kim loại” hiệu suất cao.
Các nhà nghiên cứu tại trường đại học bang Oregon
vừa giải được một câu đố trong ngành khoa học vật
“Các nhà nghiên cứu đã cố gắng làm công việc này
liệu cơ bản đã làm lao tâm khổ lực các nhà khoa học
trong hàng thập kỉ qua, cho đến nay vẫn mãi không
kể từ thập niên 1960, và có thể hình thành cơ sở cho
thành công”, theo lời Douglas Keszler, một vị giáo sư
một phương pháp mới tiếp cận điện tử học.
hóa học danh tiếng tại trường đại học Oregon và là
một trong các nhà nghiên cứu khoa học vật liệu hàng
đầu của nước Mĩ. “Các diod chế tạo với các phương
pháp khác trước đây luôn có hiệu suất thấp và chất
lượng không cao”.
Các viên chức ở trường đại học Oregon cho biết, một
bằng sáng chế đã được cấp cho công nghệ mới trên.
Các công ti, các cơ sở công nghiệp mới và công ăn
việc làm công nghệ cao cuối cùng có thể ra đời từ sự
Ảnh chụp một diode MIM bất đối xứng phản ánh một tiến bộ tiến bộ này.
quan trọng trong ngành khoa học vật liệu có thể dẫn tới các sản
phẩm điện tử tốc độ cao hơn và giá thành thấp hơn. (Ảnh: Đại
học bang Oregon)
Trong nghiên cứu mới, các nhà khoa học và kĩ sư tại Nguồn: PhysOrg.com
trường đại học Oregon mô tả việc sử dụng một “lớp Ngày: 29/10/2010
tiếp xúc kim loại vô định hình” làm một công nghệ
Các đơn vị nghe có vẻ khó hiểu – vậy thì kỉ niệm Về cơ bản, chúng được định nghĩa theo các đối tượng
cái gì chứ? vật chất. Cho nên nếu đơn vị gán cho khối lượng,
chẳng hạn, thì nó có thể thay đổi theo thời gian qua sự
Hệ đơn vị quốc tế, thường được biết tới nhiều hơn với tác động của môi trường, và chúng ta sẽ không biết
tên gọi tắt là SI, được thiết lập vào năm 1960 tại một được. Nhưng kể từ năm 1983, từng đơn vị SI một đã
hội nghị ở Paris. Hội nghị đã thống nhất một chuẩn được định nghĩa bằng những hằng số tự nhiên, phổ
quốc tế cho các đơn vị cốt lõi, thí dụ như mét để đo quát. Mét bây giờ được định nghĩa là quãng đường
chiều dài. Điều này có ý nghĩa lớn đối với lĩnh vực ánh sáng đi được trong chân không trong
Đối với những việc như cân đong hàng tạp phẩm, Nguồn: New Scientist
những chiếc cân là đủ tốt rồi. Nhưng những công nghệ Tác giả: Alison George
mới hơn như các hệ thống định vị qua vệ tinh đòi hỏi Ngày: 31/10/2010
độ chính xác cao. Thí dụ, hai vệ tinh cần phải đồng bộ
hóa hết sức chính xác mới có thể định vị một điểm
chính xác bên trong một tòa nhà. Và vào năm 2015,
“Chúng tôi rất may mắn với hệ này. Pulsar đang quay
nhanh cho chúng tôi một tín hiệu để theo dõi trên suốt
quỹ đạo, và quỹ đạo đó hầu như hoàn toàn nhìn ngang.
Ngoài ra, ngôi sao lùn trắng đặc biệt có khối lượng lớn
đối với một ngôi sao thuộc loại này. Sự kết hợp độc
nhất vô nhị này là cho sự trễ Shapiro mạnh hơn nhiều
và do đó dễ đo hơn”, phát biểu của Scott Ransom
thuộc NRAO.
Mặc dù ban đầu nó sẽ chỉ tham gia trong các thử nghiệm chức năng, nhưng các nâng cấp cuối cùng có thể cho phép
rô bôt thực hiện mục đích thực sự của nó – giúp các nhà du hành đi bộ ngoài không gian trong những công việc khó
khăn bên ngoài trạm vũ trụ.
Với Chiến tranh Lạnh kết thúc, một thỏa thuận Mĩ-
Nga kết hợp Trạm Vũ trụ Tự do và Trạm Hòa bình 2
theo kế hoạch của Nga thành ISS.
20/11/1998
06/12/1998
NASA từ bỏ mọi hi vọng sản xuất thêm các tên lửa 21/05/2000
Saturn V đồ sộ, loại tên lửa đã đưa các nhà du hành
Apollo lên mặt trăng. Kết quả là họ đã hủy bỏ trạm vũ Tàu con thoi vũ trụ Atlantis đến thăm, chuẩn bị cho
trụ lớn mà họ đã lên kế hoạch xây dựng làm kế vị cho việc bắt đầu lắp ráp trạm trở lại.
Skylab. Với Skylab gần như đã hoàn tất, công trình
trạm vũ trụ bước vào một thời kì gián đoạn kéo dài. 26/07/2000
25/01/1984 Zvezda – Mô đun Dịch vụ, ban đầu chế tạo làm mô
đun lõi của Trạm Hòa bình 2 – kết nối với trạm.
Trong bài phát biểu trước Quốc hội, tổng thống
Ronald Reagan tuyên bố: “Tối nay, tôi đang chỉ đạo
10/02/2001 06/04/2003
Mô đun thí nghiệm Destiny đến nơi. Thể tích bên Một bộ phận tên lửa cũ bay qua gần trạm, khiến phi
trong ISS lúc này đã vượt quá thể tích trạm Hòa bình. hành đoàn của trạm phải tạm rút lui sang tàu cứu hộ
Soyuz để tránh trường hợp va chạm.
23/03/2001
28/07/2005
Người Nga bất đắc dĩ cho hạ cánh trạm Hòa bình, loại
bỏ đối thủ cạnh tranh duy nhất của ISS. Tàu Discovery thực hiện chuyến bay tàu con thoi đầu
tiên kể từ sau sự tổn thất của tàu Columbia. (Chuyến
23/04/2001 bay tiếp theo không diễn ra trong một năm sau đó, do
các trục trặc liên tục với bọt nhiên liệu trào ra từ bể
Canadarm 2, cánh tay rô bôt của trạm, đến trên tàu con chứa nhiên liệu ngoài của tàu con thoi trong lúc
thoi Endeavour. Đây là bộ phận phi Nga-Mĩ đầu tiên, phóng).
bổ sung tương đối sớm do nhu cầu triển khai lắp ghép
sau này. 26/11/2006
30/04/2001 Một anten trên tàu hàng Tiến bộ M-58 bị vướng với
đầu mô đun Zvezda của trạm trong lúc neo đậu. Cuối
Dennis Tito trở thành du khách vũ trụ đầu tiên đến cùng nó đã được các nhà du hành tháo ra với các công
thăm ISS, trước sự phản đối kịch liệt của NASA. cụ cắt vào hôm 22/02.
15/07/2001 11/02/2008
Mô đun khóa không khí Quest Joint, một mô đun áp Mô đun Columbus – bộ phận ISS chính của châu Âu –
lực đóng vai trò lối vào và lối ra cho các chuyến đi bộ, đến nơi. Được thiết kế làm một phòng thí nghiệm cho
đến nơi. ISS giờ đã nặng hơn trạm Hòa bình. sinh học, sinh lí học, vật lí chất lưu và các thí nghiệm
khác, nó có đủ chỗ cho ba thành viên phi hành đoàn
21/07/2001 làm việc cùng một lúc.
biết. Là một chất dẫn điện, nó dẫn điện tốt như đồng
Fluorographene: Chất cách điện vậy. Những nỗ lực gần đây nhất của họ đã đưa đến
mỏng nhất thế giới một chất liệu dẫn xuất mới bền và ổn định hơn cả
graphene gốc, nhưng nó không dẫn điện: đó là
Những tính chất nổi trội của graphene và Teflon vừa
fluorographene.
được kết hợp lại với nhau trong một chất liệu mới bởi
bàn tay các nhà đoạt giải Nobel vật lí năm nay.
Bản thân graphene là một lớp đơn nguyên tử của chất
liệu graphite, chất thường thấy trong bút chì. Ở cấp độ
phân tử, nó có một cấu trúc phẳng dạng xốp tổ ong
gồm các hình lục giác liên kết với các nguyên tử
carbon tại các nút mạng. Các đám mây electron phân
tán khắp phía trên và phía dưới của các bề mặt, đó là
nguyên do vì sao chất liệu này lại dẫn điện tốt như
vậy.
Các tác giả hình dung rằng fluorographene sẽ được sử Trong quá trình thực thi dự án, các cá nhân lãnh đạo là
dụng trong điện tử học, nhưng họ hiểu rằng “đối với các tên tuổi đạt giải Nobel, nhưng rõ ràng cuộc sống
các ứng dụng điện tử thực tế thì chất lượng điện tử làm việc trong nhóm không thay đổi gì nhiều lắm.
phải có sự cải tiến. Chúng tôi hi vọng có thể sớm thu “Mặc dù cuộc sống mới có nhiều bận rộn, song hai vị
được sự cải tiến này. Một số ứng dụng điện tử có thể giáo sư vẫn làm việc rất gần gũi với tất cả thành viên
có của fluorographene là sử dụng nó làm rào cản trong nhóm và tham gia rất nhiều trong công việc
đường hầm và là chất cách điện chất lượng cao hoặc nghiên cứu từng ngày”, Raveendran-Nair nói.
chất liệu rào cản cho điện tử học hữu cơ”. Những lĩnh
vực ứng dụng khác cũng có khả năng. Thí dụ, là một Nguồn: PhysOrg.com
chất bán dẫn khe rộng hoàn toàn trong suốt với ánh Ngày: 04/11/2010
Trên toàn thế giới, nhiều nghìn người chết mỗi năm là Bộ dẫn sóng âm cùng với vỏ bảo vệ và một máy đo độ nghiêng.
kết quả của lở đất và nhiều nghìn người khác phải li (Ảnh: Dixon et al.)
tán nhà cửa và sống trong cảnh màn trời chiếu đất. Ở
những nước giàu có, nguy cơ thiệt hại về người có nhỏ Nhưng các nhà nghiên cứu ở Anh tin rằng họ có thể
hơn nhưng tác động đối với môi trường xây dựng tiêu mang lại một hệ thống ghi âm xác thực hơn qua một
tốn hàng tỉ đô la để tái thiết mỗi năm, và nó còn có thể cải tiến hấp dẫn đối với kĩ thuật trên. Thay vì đặt các
phá hỏng hệ thống giao thông vận tải. Trong một nỗ bộ cảm biến âm trực tiếp trên bờ dốc, họ đặt các
lực nhằm hạn chế mối nguy cơ toàn cầu này, Liên hiệp microphone của mình bên trong các ống thép chứa đầy
quốc đã đề ra một chiến lược, trong đó có kế hoạch chất liệu dạng hạt. Khi đó, nếu bờ dốc bắt đầu trượt,
xúc tiến phát triển các hệ thống cảnh báo sớm. thì âm thanh tạo ra bởi chất liệu dạng hạt đang xô đẩy
có tần số cao hơn âm thanh phát ra bởi đất đá xung
Một phương pháp theo dõi nguy cơ trực tiếp là trang quanh. Các ống thép tác dụng như bộ dẫn sóng để
bị cho mỗi bờ dốc một dải microphone và “lắng nghe” khuếch đại âm thanh.
các mức độ ồn tăng lên khi đất đá bắt đầu chuyển
mình. Trở ngại đối với phương pháp này là các tần số Để kiểm tra dụng cụ của mình, đội nghiên cứu đứng
tương đối thấp đi cùng với các chuyển động trượt dốc đầu là Neil Dixon tại trường Đại học Loughborough
cỡ lớn cũng có thể sinh ra bởi một số nguồn phát đã thực hiện một loạt thử nghiệm tại Hollin Hill, một
mang tính môi trường khác – dẫn tới một số cảnh báo vùng hoạt động lở đất ở miền bắc nước Anh. Bằng
sai không thể chấp nhận được. cách so sánh các phép đo của họ với các phép đo lở
đất truyền thống thực hiện với một máy đo độ
nghiêng, đội của Dixon cho biết họ đã tìm thấy mối
Trong quá trình này, sắt giữ một vai trò quan trọng.
Mặc dù nó không dồi dào trong vũ trụ như các nguyên
tố nhẹ hơn – chủ yếu là hydrogen và helium – nhưng
nó hấp thụ và phát xạ tia X tốt hơn nhiều. Do đó, các
photon phát ra cũng có năng lượng cao hơn, tương
ứng với bước sóng ngắn hơn (hay một “màu” khác),
so với photon phát ra của các nguyên tử nhẹ hơn.
Tên lửa Trường Chinh 3C mang phi thuyền Hằng Nga 2, đang Phi thuyền mặt trăng đầu tiên của họ, phóng lên hồi
rời bệ phóng ở trung tâm phóng tàu vũ trụ ở tỉnh Tứ Xuyên, hôm tháng 10 năm 2007, đã ở trên quỹ đạo được 16 tháng.
01/10/2010.
Bắc Kinh hi vọng mang một mẫu đá mặt trăng về trái
Ban quản lí chương trình vũ trụ Trung Quốc cho biết, đất vào năm 2017, với một sứ mệnh có người lái dự
các bức ảnh chụp bề mặt chị Hằng, do thủ tướng Ôn kiến khoảng năm 2020.
Gia Bảo giới thiệu, do phi thuyền không người lái
Hằng Nga 2 chụp hồi cuối tháng trước. Nguồn: AFP, PhysOrg.com
Ngày: 08/11/2010
Nguồn: PhysOrg.com
Tác giả: Miranda Marquit
Ảnh: Wikipedia Ngày: 09/11/2010
Nay sự kiện đầu tiên như vậy tại LHC đã được trông
thấy bởi CMS – một trong hai cỗ máy dò hạt khổng lồ,
đa mục đích, của cỗ máy va chạm lớn nhất thế giới.
CMS gồm các lớp máy cảm biến hạt xếp đồng tâm,
đặt bên trong và vòng quanh vòng ống của một nam
châm siêu dẫn 4 Tesla. Bất kì boson Z nào sinh ra bởi
các va chạm proton-proton tại tâm của ống với thời
gian sống ngắn ngủi đều được phát hiện bởi hệ thống
thiết bị bao xung quanh. Tuy nhiên, các muon tồn tại
đủ lâu để đi khỏi điểm va chạm và truyền xuyên qua
tất cả các bộ cảm biến bên trong. Sau đó, chúng
chuyển động qua một số lớp chứa đầy chất khí, để lại
vết tích của chúng qua sự ion hóa chất khí này. Các
hạt tích điện đang chuyển động bị bẻ cong bởi một từ
trường, nên từ độ cong của quỹ đạo của các muon,
người ta tính ra được xung lượng của chúng.
Mặt cắt của máy dò hạt CMS, với vết tích của bốn muon, những
hạt duy nhất rời khỏi phần trong máy dò. Ba trong số bốn vết đi
xuyên qua một số hoặc toàn bộ các bộ cảm biến chứa đầy chất Dữ liệu CMS, thu được trong những giờ đầu tiên sáng
khí, ở phía ngày của máy dò (màu đỏ trên hình), trong khi vết còn ngày 24 tháng 9, tiết lộ rõ ràng vết tích của bốn muon
lại được nhận ra bởi một bộ cảm biến đặt tại một đầu của CMS. (xem hình). Và khối lượng của những muon này,
Xung lượng rất cao của các muon được thể hiện bởi đường đi nhóm lại thành hai cặp, mang lại các giá trị cho khối
gần như thẳng của các vết của chúng. (Ảnh: CMS)
lượng của hạt Z vừa vặn trên 92 GeV, một con số rất
gần với khối lượng Z đã biết. Thành viên nhóm hợp
Được tin là cái mang lại khối lượng cho mọi hạt khác,
tác CMS, Tommaso Dorigo thuộc trường Đại học
boson Higgs là mảnh cuối cùng còn thiếu của Mô hình
Padova ở Italy, bày tỏ sự vui mừng trước kết quả trên,
Chuẩn của ngành vật lí hạt cơ bản. Người ta kì vọng
đó. Tính đến nay, các nhà khoa học vật liệu đã thành
Sức bền của graphene nằm ở chỗ công trong việc khâu vá các tấm graphene lại với
khiếm khuyết của nó nhau, tạo thành những tấm đủ lớn để nghiên cứu các
ứng dụng có thể có. Giống như khi chắp vá các mảnh
Trên website của Giải thường Nobel có hình minh họa
vải với nhau có thể tạo ra sự yếu ớt, mảnh mai, nơi
một con mèo nằm trên chiếc võng bằng graphene. Mặc
từng miếng một giao nhau, các khiếm khuyết có thể
dù chỉ là tưởng tượng, nhưng hình ảnh trên mang lại
làm yếu đi “đường ranh giới” nơi các tấm graphene
sức thu hút đối với graphene, chất liệu có bề dày đúng
gặp nhau – ít nhất đó là cái mà các kĩ sư đã nghĩ tới.
một nguyên tử, là chất liệu mỏng nhất và bền nhất
từng được tạo ra từ trước đến nay.
Nhưng nay các kĩ sư tại trường Đại học Brown và Đại
học Texas–Austin vừa phát hiện thấy đường ranh giới
Một trở lại lớn đối với việc hiện thực hóa các tiềm
đó không làm tổn hại đối với sức bền của chất liệu
năng của graphene nằm ở chỗ chế tạo ra một bề mặt
mang danh thần kì này. Thật ra, đường ranh giới đó
đủ lớn để “à ơi” chú mèo lí thuyết đang ngủ ngon lành
Kết quả trên có thể thúc đẩy sự phát triển các tấm
graphene lớn hơn dùng trong điện tử học, quang học
và các ngành công nghiệp khác.
Các kĩ sư đã bắt tay vào tìm hiểu nguyên do. Sử dụng Nguồn: Đại học Brown, PhysOrg.com
các phép tính nguyên tử học, họ phát hiện thấy độ Ngày: 11/11/2010
nghiêng góc nơi các tấm gặp nhau – đường ranh giới -
Sau các sứ mệnh Viking, sự nhất trí chung trong giới Phòng thí nghiệm Khoa học Hỏa tinh, dự kiến phóng
khoa học là sự lạnh lẽo, bức xạ, sự khô cằn và các yếu lên vào năm 2011, được thiết kế chuyên dụng để tìm
kiếm bằng chứng rằng môi trường Hỏa tinh đã từng có
Bản tin Vật lý tháng 12/2010 25
khả năng dung dưỡng sự sống trên hành tinh đỏ. Tuy nóng các mẫu nghiên cứu của nó, cho nên nó có thể
nhiên, một số nhà khoa học cho rằng chiến lược thám gây ra một phản ứng hóa học giữa perchlorate và bất
hiểm sao Hỏa như thế nên tập trung vào tìm kiếm bản kì chất hữu cơ nào khác có mặt, do đó, làm phá hủy
thân sự sống – sự sống “hiện hành” hoặc đang hoạt các chất hữu cơ đó.
động ngày nay, hoặc đang ngủ yên nhưng vẫn còn
sống. Sự phát hiện trong thời gian gần đây về khí methane
trên sao Hỏa còn làm hồi sinh khả năng có sự sống
trong quá khứ hoặc sự sống thậm chí đang hiện hữu
ngay bên dưới lớp bề mặt, vì sự sống là một trong
những thủ phạm chủ yếu sinh ra methane trên Trái đất.
Chúng tôi kêu gọi một kiến trúc dài hạn của Chương
trình Thám hiểm sao Hỏa tổ chức theo ba mục tiêu
chính với mức độ ưu tiên như sau: tìm kiếm sự sống
hiện hữu, tìm kiếm sự sống trong quá khứ, và thu gom
mẫu vật mang về”, Fairen nói.
Các nhà nghiên cứu hình dung ra các con tàu thám
hiểm nhắm tới những nơi mà sự sống có thể được tìm
So sánh Phòng thí nghiệm Khoa học sao Hỏa (MSL) và Xe Thám
thấy, và mang theo các thiết bị có thể cung cấp bằng hiểm sao Hỏa. Xe thám hiểm MSL có chiều dài gấp đôi (khoảng
chứng không thể chối cãi – thí dụ như các vi khuẩn 2,8m) và nặng gấp bốn lần xe thám hiểm Spirit và Opportunity.
thật sự - cho sự có mặt hoặc không có mặt của sự Ảnh: NASA
sống. Chẳng hạn, các sứ mệnh rô bôt tìm kiếm các bào
tử, sự sống ngủ đông hoặc các chất thải hữu cơ có thể “Công nghệ đã sẵn sàng rồi”, Fairen nói. “Chúng ta
khoan đào một vài yard xuống các lớp đất giàu băng chỉ cần một xung lực mới và nhiều tham vọng hơn”.
được che chắn khỏi mức độ bức xạ cao ở bề mặt và sử
dụng kính hiển vi để khảo sát các kết quả của chúng. Nguồn: Astrobio.net, PhysOrg.com
Tác giả: Charles Q. Choi
Ngày: 11/11/2010
cung cấp các manh mối quan trọng để trả lời những
Phản hydrogen bị bẫy tại CERN câu hỏi như tại sao có nhiều vật chất hơn phản vật chất
trong vũ trụ ngày nay.
Các nhà vật lí tại CERN ở Geneva lần đầu tiên vừa bắt
giữ và lưu trữ các nguyên tử phản vật chất trong một Phản hydrogen là phiên bản phản vật chất của nguyên
khoảng thời gian đủ lâu để nghiên cứu các tính chất tử hydrogen và gồm một positron – hay phản electron
của nó một cách chi tiết. Tại thí nghiệm ALPHA của – và một phản proton. Theo Mô hình Chuẩn của ngành
phòng thí nghiệm trên, đội khoa học đã làm chủ được Vật lí Hạt cơ bản, thì các mức năng lượng của phản
việc bắt giữ 38 nguyên tử phản hydrogen trong khoảng hydrogen sẽ giống hệt như của hydrogen. Bất kì sai
170 mili giây. Công việc tiếp theo cho các nhà nghiên lệch nào về phổ này cũng có thể giúp các nhà vật lí
cứu là đo phổ năng lượng của các nguyên tử đó, từ đó
Mặc dù việc tạo ra các positron và phản proton tương Khi đó, các nhà nghiên cứu ALPHA phát hiện ra các
đối dễ dàng, nhưng việc tại ra phản hydrogen thì khó nguyên tử trên bằng cách tắt bẫy điện từ đi và cho
khăn hơn nhiều. Dạng thức này của phản vật chất phản hydrogen tự do phân hủy với vật chất xung
không được tách li mãi cho đến năm 1995 – cũng quanh. Kết quả của quá trình này là tạo ra một vài hạt
trong các thí nghiệm tại CERN. Việc thu giữ nó trong tích điện trong đó có các pion, những hạt này được
thời gian đủ lâu để nghiên cứu một cách chi tiết còn phát hiện ra bởi một dải máy dò hạt đặt xung quanh
khó khăn hơn nữa. Nhưng với việc có thể bắt giữ các bẫy. Tóm lại, đội khoa học đã nhìn thấy 38 sự kiện
nguyên tử phản hydrogen trong thời gian 170 mịli phân hủy phù hợp với sự giải phóng phản hydrogen bị
giây, các thành viên của đội ALPHA, gồm các nhà bẫy trong thời gian 170 mili giây.
nghiên cứu đến từ 14 trường việc thuộc 7 quốc gia
khác nhau, nay đã có thể hướng tới nghiên cứu các Tìm kiếm sự vi phạm CPT
mức năng lượng nguyên tử của nó.
Bước tiếp theo cho các nhà nghiên cứu là sử dụng
phản hydrogen để nghiên cứu một phép biến đổi lượng
tử cơ bản gọi là hoạt động điện tích-chẵn lẻ-thời gian
(CPT). Khi áp dụng một biến đổi CPT cho một hệ vật
lí, thì xảy ra ba hiện tượng: mỗi hạt bị biến đổi thành
phản hạt của nó; mỗi tọa độ không gian bị phản xạ sao
cho trái trở thành phải, trên trở thành dưới và phía
trước trở thành phía sau; còn thời gian thì bị đảo
chiều.
Masaki Sano, một nhà vật lý làm việc tại đại học
Tokyo và các đồng sự đã chứng minh một hạt có thể
"leo trên một thang xoắn" mà không cần năng lượng
thêm vào để "đẩy" chúng. Thay vào đó, mỗi nấc thang
sẽ được thực hiện dựa trên thông tin về vị trí của hạt
tại thời điểm đó. Như vậy, theo phát biểu của Sano,
"thông tin đã được chuyển hóa thành năng lượng".
Sơ đồ mô tả sự quay Faraday trong graphene. Ánh sáng tới truyền theo trục z (cũng là hướng của
từ trường ngoài B), và phân cực theo hướng Y. Ảnh: Alexey Kuzmenko.
Sự phân cực của ánh sáng có thể bị quay đi một góc có thể được ứng dụng trong các thiết bị bật tắt ánh
6 độ khi nó truyền qua một lớp graphene đặt trong từ sáng (switch light) bằng điện trường hoặc từ trường.
trường, theo ghi nhận của một nhóm các nhà vật lý
quốc tế. Tính chất mới này của graphene là không Thực tế, sự phân cực của ánh sáng bị quay đi khi
mong đợi vì góc quay lớn thường xảy ra với các vật truyền qua một môi trường với sự có mặt của từ
liệu có bề dày lớn hơn nhiều. Các nhà khoa học tin trường không có gì là lạ. Vì ánh sáng phân cực tròn
rằng, đặc tính mới được khám phá này của graphene phải và trái có vận tốc truyền khác nhau nên khi cho
ánh sáng phân cực thẳng truyền qua một môi trường
Mô hình chuẩn của vật lý hạt đã miêu tả rất tốt thế giới các hạt cơ bản và các tương tác giữa chúng dựa trên 3 lực:
yếu, mạnh và điện từ. Nhưng không hiểu sao, lực hấp dẫn vẫn lẫn trốn mô hình này.
Giải Nobel năm 1979 được trao cho Abdus Salam, Sheldon Glashow và Steven Weinberg do đã thống nhất được
tương tác điện từ và tương tác yếu thành tương tác điện yếu. Hệ quả của thống nhất này là việc phát hiện ra các
guage boson W và Z truyền tương tác. Các thí nghiệm năm 1983 đã tìm thấy các hạt này trong va chạm proton-phản
proton.
Vào năm 2004, Frank Wilczek, David Gross và David Politzer giành được giải Nobel cho khám phá chỉ ra rằng các
hạt tương tác bởi lực mạnh có cường độ giảm khi chúng trở nên gần nhau hơn (tính tiệm cận tự do). Trong cơ học
lượng tử, khoảng cách bé cũng đồng nghĩa với việc cần có năng lượng lớn, như các photon có bước sóng rất ngắn,
mới có thể thăm dò được ở cự ly này.
Điều này cho thấy, trong giai đoạn sơ khai của vũ trụ, có năng lượng rất lớn, lực mạnh có vị thế giảm đi rõ rệt so với
hiện nay. Vì ở giai đoạn này, cường độ của các lực mạnh, yếu và điện từ là như nhau.
Năm 2006, Wilczek và Sean Robinson ở Viện công nghệ Massachusett, chỉ ra rằng lực điện từ cũng trở nên yếu hơn
ở năng lượng cao nhưng chỉ với sự hiện diện của lực hấp dẫn, lực không hiện diện trong mô hình chuẩn (Phys. Res.
Lett, DOI: 10.1103/PhysRevLett.96.231601). Tuy nhiên, một lỗ hổng trong tính toán, khiến cho ý tưởng này vẫn còn
đang gây tranh cãi. "Chúng tôi đã bỏ qua một số tính toán cồng kềnh nặng tính toán học," Wilczek cho biết.
Nhưng mới đây, David Toms ở Đại học Newcastle, Anh quốc, đã thực hiện lại các tính toán trên chặt chẽ hơn và
cũng thu được kết quả giống như vậy. Với sự hiện diện của lực hấp dẫn, điện tích, đặc trưng cho cường độ tương tác
Phát kiến này liên hệ mật thiết với nỗ lực thống nhất bốn lực cơ bản vào một bức tranh tương tác duy nhất. "Chúng ta
đã tiến được một bước," Wilczek cho biết.
Máy gia tốc LHC tại CERN đặt gần Geneva có thể cung cấp bằng chứng thực nghiệm cho ý tưởng này, nhưng sẽ chỉ
xảy ra nếu vũ trụ có nhiều hơn các chiều đã biết (3 chiều không gian và 1 chiều thời gian). Vì trong không thời gian
4 chiều, các điện tích chỉ tiến đến không tại thang năng lượng vượt quá giới hạn thực nghiệm có thể trên trái đất.
BEC đầu tiên được tạo ra vào năm 1995 bằng cách Số lượng photon tới hạn
làm lạnh một đám mây nguyên tử rubidium đến gần
không độ tuyệt đối và ngày nay những ngưng tụ như Khi cường độ laser tăng lên, thì số lượng photon bên
vậy được sử dụng thường xuyên để nghiên cứu nhiều trong hộp quang tăng lên và sự phân bố năng lượng
hiện tượng lượng tử đa dạng. Tuy nhiên, một vài nhà rộng duy trì cho đến khi số lượng photon đạt tới
vật lí đã bắt đầu nghĩ tới việc tạo ra một BEC từ boson khoảng 60.000. Ở trên giá trị ngưỡng này, theo Weitz,
phổ biến nhất trong vũ trụ - đó là photon. Đấy là vì các chất khí photon đủ đậm đặc cho một BEC hình thành
photon dễ dàng sinh ra hay bị phá hủy khi chúng – giống hệt như một giọt chất lỏng ngưng tụ bên trong
tương tác với vật chất khác, khiến người ta rất khó làm một chất khí.
lạnh một số lượng photon nhất định để chúng hình
thành một ngưng tụ. Đội nghiên cứu biết được BEC đã hình thành vì một
cực đại lớn trong phổ năng lượng photon hiện ra ngay
Nhưng nay Martin Weitz cùng các đồng nghiệp tại phía trên năng lượng ngưỡng đó. Cực đại này tương
trường Đại học Bonn ở Đức vừa nghĩ ra một phương ứng với một số lượng lớn photon xếp vào trạng thái
pháp tách li và làm lạnh photon. Mặc dù họ không thể năng lượng thấp nhất của hộp quang. Khi cường độ
bắt giữ một số lượng photon nhất định, nhưng con số laser tăng thêm nữa, thì số lượng photon trong BEC
đó thăng giáng quanh một giá trị trung bình, cho phép đạt tới hàng triệu.
tập hợp photon đó được mô tả đặc trưng bằng lí thuyết
BEC thông thường.
Đội nghiên cứu đã bắt giữ các photon của họ giữa hai
chiếc gương lõm đặt cách nhau tối đa 1,5 µm. Khoảng
cách này định rõ bước sóng tối đa – hay năng lượng
tối thiểu – của một photon bị giam cầm theo chiều dọc
bên trong hộp quang giữa hai gương. Hộp quang chứa
đầy một chất nhuộm được giữ ở nhiệt độ phòng – và
điều quan trọng là năng lượng nhiệt của chất nhuộm
đó vào khoảng 1% năng lượng của photon.
Sự thiếu vắng một dấu hiệu như vậy sẽ đưa nghiên Tuy nhiên, một vài nhà nghiên cứu cũng cảnh báo.
cứu của Bean đi theo một hướng khác. "Một quang "Việc quan sát được thực hiện thông qua bầu khí
phổ không có gì đặc biệt nói với chúng ta rằng, có khả quyển của Trái đất, là đối tượng khó chịu của các nhà
năng bầu khí quyển sẽ rất đặc. Trái ngược với bầu khí thiên văn," Carole Haswell, một nhà nghiên cứu ngoại
quyển phồng to, bầu khí quyển của hành tinh này khá hành tinh tại Đại học mở cho biết. "Việc họ đang làm
mỏng và dày đến nổi chúng ta không thể nhìn xuyên sẽ trở nên rất khó khăn, những lỗi nhỏ mang tính hệ
qua được, giống như Kim tinh hay vệ tinh Titan của thống sẽ mang đến ảnh hưởng lớn trong kết quả thu
Thổ tinh," Bean giải thích. được. Cách tốt nhất, chắc chắn và cũng đáng phấn
khích là kiểm tra nó ngoài không gian, như dùng kính
Hubble," bà cho biết thêm.
David Sing, một nhà nghiên cứu khí quyển của các
ngoại hành tinh tại Đại học Exeter cũng đồng tình với
quan điểm này. "Chúng ta có một số nghiên cứu quan
phổ gọi là 'các hành tinh nóng kiểu Thổ tinh' nhưng
đây là lần đầu tiên một hành tinh kiểu địa cầu được đo
đạc," ông cho biết. "Đây là một bước tiến quan trọng
trong việc đạt đến mục đích cuối cùng là tìm kiếm một
hành tinh giống Trái đất có dấu hiệu của sự sống."
Ứng cử viên chính cho hóa chất phổ biến trong bầu Nghiên cứu được đăng trên Nature 468 669.
khí quyển này là hơi nước: GJ 1214b quá gần sao chủ
đển nổi nó có thể bị bay hơi nhanh chóng. Bean tin Theo Colin Stuart (physicsworld.com)
Kính thiên văn vô tuyến không thể bắt được các nơ-
tri-nô, nhưng các nhà khoa học cũng cho biết, tập hợp
các ăn-ten nhìn qua rìa Mặt trăng của VLA có thể bắt
được các tín hiệu va chạm dưới dạng sóng vô tuyến
được phát ra khi có va chạm giữa các nơ-tri-nô và vật
chất trên Mặt trăng. Kỉ thuật này được sử dụng lần đầu
tiên vào năm 1995 và một vài lần sau đó, nhưng vẫn
chưa có ghi nhận nào về hiện tượng này. Các quan sát
mới nhất ở VLA có độ nhạy chưa từng thấy trước đây,
được hi vọng sẽ cải thiện tình hình.
"Các quan sát của chúng ta mang lại một giới hạn trên
mới, vẫn chưa phải là nhỏ nhất, cho lượng nơ-tri-nô
mà chúng ta mong đợi," Mutel cho biết. "Giới hạn này
giúp loại trừ mọt số mô hình về nơ-tri-nô đến từ các
(Ảnh: Đài quan sát thiên văn Quốc gia Hoa kỳ) quầng tinh trong Dải Thiên hà." Để kiểm tra các mô
hình khac, cần phải có các kính thiên văn nhạy hơn
Nhóm nghiên cứu dùng các thiết bị điện tử được thiết nữa.
kế vì mục đích chuyên biệt cho các kính thiên văn vô
tuyến ở VLA(Very Large Array-hệ thống 27 kính "Một số kỉ thuật mà chúng ta phát triển được cho việc
thiên văn cỡ lớn đặt gần nhau ở Bang New Mexico, quan sát phải được mang vào các kính thiên văn vô
Mỹ) với các đầu nhận sóng vô tuyến mới, rất nhạy. tuyến thế hệ kế tiếp, giúp tăng độ nhạy cho các nghiên
Trước tiên, họ kiểm tra lại hệ thống bằng một khinh cứu sắp tới đây," Mutel cho biết thêm. "Khi phát triển
khí cầu nhỏ, đặc biệt sử dụng khí hê-li bay ngang qua khả năng dò tìm các hạt này, chúng ta sẽ mở ra một
VLA. cánh cửa mới trong việc quan sát vũ trụ và thách thức
hiểu biết của chúng ta về nền vật lý thiên văn đương
Trong 200 giờ quan sát, Ted Jaeger, Robert Mutel và đại."
Kenneth Gayley cùng làm việc tại Đại học Iowa
không bắt được bất cứ một hạt nơ-tri-nô năng lượng Theo physorg.com
Khám phá bí mật để tạo ra những viên kim cương lấp lánh
(Ảnh: iStockphoto/Simfo)
Qua nhiều thế kỉ, các nhà buôn đá quý đã biết cách
làm sáng các viên kim cương bằng việc mài chúng với
các viên bi sắt trộn lẫn với các mảnh kim cương. Chưa
thể lý giải được tại sao cách làm này lại hiệu quả đến
vậy, nhưng kinh nghiệm cho thấy công việc này sẽ
tiến triển tốt hơn nếu kim cương được trộn theo góc
xác định so với các viên bi.
Các nhà khoa học đã bắt đầu nghiên cứu các ống nano
cac-bon từ 20 năm qua vì vật liệu này có nhiều tính
chất rất đáng chú ý như khả năng kéo căng lớn và dẫn
điện rất tốt. Mới đây, Ming Xu thuộc AIST ở Tsukuba
và các cộng sự đã khám phá một tính chất ngoài mong
đợi của các ống này-tính đàn nhớt trên một miền nhiệt
độ rất rộng.
Vật liệu đàn nhớt hành xử giống như chất lỏng đậm Các kết nối ngẫu nhiên tạo nên khả năng đàn nhớt tuyệt vời của
đặc (ví dụ, mật ong) nhưng lại đàn tính cao, như các loại cao su mới. Ảnh: (Science)
miếng cao su. Một ví dụ về loại vật liệu như vậy là các
bọt po-li-me-được ứng dụng rộng rãi trong các nút bịt Nhóm của Xu bắt đầu bằng việc cho kết tủa các chất
lỗ tai, chúng có thể thay đổi hình dạng thích hợp khi xúc tác kim loại lên một loại si-li-con làm nền. Lớp
gắn vào tai và trở lại nguyên dạng khi gở chúng ra. xúc tác này đặt nền móng cho việc phát triển các ổng
Tính đàn nhớt được tìm thấy trong nhiều loại vật liệu, nano từ một nguồn cac-bon, chẳng hạn như ê-ti-len.
như các loại po-li-me bán tinh thể vô định hình, vật Một giọt nước (100-200 pm) được thêm vào làm tăng
liệu sinh học, tinh thể và thậm chí một số hợp kim. độ dài cho các ống nano và tạo thành các ống dài.
Các kết nối ngẫu nhiên Các ống nano cac-bon thường được làm dài theo kỉ
thuật này, nhưng bằng cách xử lý vừa phải chất xúc
Loại cao su mới được làm từ một hệ thống ngẫu nhiên tác, các nhà nghiên cứu đã thành công trong việc giảm
kết nối giữa các ống nano cac-bon tường đơn, tường mật độ của các ống nano và tạo thành một hệ thống
hiệu ứng hút hấp dẫn lên vật chất thông thường, nhưng
Các hạt mới cho thấy liên hệ giữa các nhà vật lý vẫn chưa tìm thấy bằng chứng trực tiếp
vật chất tối và các phản hạt hay về đối tượng này và do vậy, chưa thể biết được nó tạo
thành từ cái gì. Ngược lại, phản vật chất có thể tạo ra
lẫn tránh và nghiên cứu một cách dễ dàng trong phòng thí
nghiệm. Tuy nhiên, Mô hình chuẩn của vật lý hạt vẫn
Các nhà vật lý tại Mỹ và Canada vừa đề xuất một hạt chưa thể giải thích được tại sao phản vật chất lại hiếm
cơ bản mới có thể giúp giải đáp hai khúc mắt quan đến vậy.
trọng của vật lý hiện đại: bản chất của vật chất tối và
tại sao vật chất lại chiếm ưu thế đến vậy so với phản
vật chất?
Vật chất tối là loại vật chất chưa được biết đến nhiều, Các thiết bị dò SuperKamiokande nằm sâu dưới lòng đất 1 km và
chiếm khoảng 80% tổng lượng vật chất của vũ trụ. được thiết kế để tìm kiếm bằng chứng về các phân hủy
proton(Ảnh: Đại học Tokyo)
Mặc dù, sự tồn tại của nó có thể nhận thấy thông qua
Hạt X cũng cho phép vi phạm đối xứng CP nhưng Matthew Buckley ở Fermilab cho biết, sự chuyển
theo cách mà tác giả Kris Sigurdson của Đại học hướng bất ngờ sang mối liên hệ giữa vật chất tối và sự
Columbia gọi là mẫu phân hủy "âm dương" (hai đối bất đối xứng baryon do những thí nghiệm gần đây
cực trong Thuyết Ngũ hành). Theo cách này, chênh trong việc dò tìm vật chất tối. Mặc dù mô hình WIMP
lệch về độ phổ biến của kênh phân hủy của hạt X dự đoán các hạt vật chất tối có khối lượng vào khoảng
thành nơ-trôn so với kênh phản hạt X thành phản nơ- 100GeV, nhưng các thí nghiệm lại cho thấy khối
trôn tương đương với chênh lệch về độ phổ biến của lượng của các hạt này là vào khoảng 7-8 GeV.
kênh phân hủy phản hạt X thành phản Y và phản Φ so
với kênh hạt X thành Y và Φ. Trong khi hầu hết các Với khối lượng dự kiến lớn như vậy, rõ ràng WIMP
hạt đều bị hủy bởi phản hạt của chúng trong vũ trụ sơ không phải là một ứng cử viên phù hợp. Trong khi,
khai, sự phân bố của các kênh phân rã sẽ ưu tiên vật các thí nghiệm gần đây càng ủng hộ cho liên hệ giữa
chất nhìn thấy và các hạt phản vật chất tối tạo nên vũ vật chất tối và sự bất đối xứng baryon, cũng là lý do
trụ. mà Buckley tin rằng, vấn đề này xứng đáng được quan
tâm hơn trong tương lai.
Tìm kiếm các phân hủy proton
Xem thêm trên Phys. Rev. Lett. 105 211304.
Nhóm nghiên cứu cũng đang tìm cách "bắt" các phản
Y và phản Φ. Không giống như các hạt nặng tương tác Tác giả: Kate McAlpine
yếu(WIMPs) chiếm ưu thế trong các lý thuyết về vật
chất tối, các phản Y và phản Φ không phân hủy với Theo physicsworld.com
"Sóng hấp dẫn sẽ làm cho các "nút bần" dao động,
nhưng chỉ là một lượng rất nhỏ," Glenn de Vine, đồng
tác giả của bài báo mới đây ở JPL cho biết. "Bạn tôi
từng nói rằng, nó nhẹ như một quả bóng nhỏ cao su
nảy trong bồn tắm."
Đội ngủ JPL đã dành sáu năm để làm công tác kỉ thuật
Mô phỏng vị trí của LISA trong việc đo sóng hấp dẫn. (Ảnh: cho LISA, bao gồm thiết bị có tên gọi máy đo pha,
ESA) dùng để tinh chỉnh các máy dò la-de. Một trong những
vấn đề chính của hệ thống này cũng vừa hoàn tất,
Kết quả được nêu trong một bài báo với sự cho phép
xuất bản của liên phòng thí nghiệm ATLAS và được
đăng trên Tạp chí khoa học Physical Review Lette. Bài
báo của CMS cũng gửi đăng sau đó, và kết quả của tất
cả các thí nghiệm này sẽ được báo cáo tại hội thảo vào
thứ Ba ngày 2 tháng 12 tại CERN. Các dữ liệu va
chạm ion nặng sẽ tiếp tục được thu thập cho tới ngày 6 Mặt cắt của "máy nhồi hạt" ATLAS, thiết bị tạo ra món súp
tháng 12. quark-gluon mới đây. (Ảnh:CERN)
"Thật phấn khích khi biết các thí nghiệm này mang lại "Với các va chạm hạt nhân, LHC trở thành chiếc máy
kết quả nhanh như thế nào, nó gắn liền với một vật lý lý tưởng chế tạo 'Vụ nổ lớn'," người phát ngôn của
rất phức tạp," giám đốc nghiên cứu của CERN Sergio ALICE Jürgen Schukraft cho biết. "Trong một số hoàn
Bertolucci cho biết. "Các thí nghiệm phải cạnh tranh cảnh, hỗn hợp quark-gluon trông giống như chất lưu lý
nhau đế được xuất bản trước, nhưng khi gộp chung tưởng được quan sát thấy ở RHIC, nhưng chúng ta
chúng sẽ mang lại bức tranh hoàn chỉnh và vượt qua cũng lờ mờ nhìn thấy được điều gì đó mới mẻ."
được những trở ngại do các kết quả riêng lẻ mang lại.
Đó là một ví dụ đẹp cho việc cạnh tranh và hợp tác trở Các thí nghiệm ATLAS và CMS sử dụng các máy dò
thành chìa khóa quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu hạt cực mạnh, có khả năng đo đạc ở năng lượng lớn
này." hiếm thấy. Điều này cho phép chúng đo đạc được các
chùm hạt bắn ra từ va chạm. Các chùm hạt được tạo ra
Một trong những mục đích ban đầu của chương trình gồm quark và gluon, là các thành phần cơ bản cấu tạo
chạy ion chì tại CERN là tạo ra vật chất tại thời điểm nên hạt nhân nguyên tử. Trong va chạm proton, các
khởi thủy của vũ trụ. Ngược trở lại, các phản ứng hạt chùm hạt bắn ra theo cặp, theo hai hướng ngược nhau
nhân diễn ra trong vũ trụ nhìn thấy như hiện nay có (bảo toàn động lượng). Tuy nhiên, trong va chạm các
thể không tồn tại: vũ trụ quá nóng và hỗn loạn để các ion nặng, các chùm hạt tương tác hỗn loạn với môi
quark có thể liên kết với nhau nhờ gluon để tạo thành trường đặc nóng xung quanh. Điều này dẫn đến một
proton và neutron, những viên đá đặt nền móng cho dấu hiệu rất khác, được biết đến dưới hiện tượng tôi
các nguyên tố. Thay vào đó, các hạt cơ bản này sẽ "tự tia, khi đó, năng lượng của chùm tia đã giảm đi đôi
do rong chơi" trong món súp plasma quark-gluon. chút, trong khi cường độ tương tác với môi trường
Vượt lên trên những khó khăn, việc tạo ra và nghiên ngày một tăng. Tôi tia là công cụ hữu hiệu trong việc
cứu hỗn hợp plasma này sẽ mang lại cái nhìn sâu sắc nghiên cứu các hành vi của plasma một cách chi tiết.
vào sự tiến hóa của vũ trụ sơ khai, đặc tính tự nhiên
của lực mạnh trong việc kết hợp quark và gluon thành "ATLAS là thí nghiệm đầu tiên cho thấy các quan sát
proton, neutron và việc thống nhất các nguyên tố vào trực tiếp về hiện tượng tôi tia," người phát ngôn của
Bảng tuần hoàn. ATLAS Fabiola Gianotti cho biết. "Khả năng tuyệt
vời của ATLAS trong việc xác định năng lượng của
Khi các ion chì va chạm ở LHC, chúng tập trung đủ các chùm tia giúp chúng ta quan sát thấy sự mất cân
năng lượng trong một miền nhỏ để tạo ra các giọt vật bằng về mặt năng lượng của mỗi cặp tia tạo thành, vì
chất ở thời điểm sơ khai, mà dấu hiệu của sự hiện diện một trong số chúng hầu như bị hấp thụ hoàn toàn bởi
này là biên độ trải rộng của các tín hiệu đo được. Các môi trường. Với kết quả lý thú này, Sự cộng tác được
bài báo ALICE tập trung vào sự tăng đột ngột của các vinh danh cùng với sự hăng hái và nổ lực tuyệt vời của
hạt được tạo ra do va chạm so với các thí nghiệm các nhà khoa học trẻ."
trước đó, và xác nhận plasma nóng tạo ra ở LHC hành
xử như một chất lỏng có độ nhớt rất thấp (chất lưu lý "Thật khó tưởng tượng khi nhìn thấy thời khắc bắt đầu
tưởng), phù hợp với các quan sát trước đó được thực của thời gian, mặc dù ở thang cực bé và các điều kiện
hiện trong va chạm RHIC ở Brookhaven. tới hạn," phát ngôn viên của CMS Guido Tonelli cho
biết. "Từ những ngày đầu tiên của va chạm ion chì, sự
diện của bầu khí quyển giàu ô-xit là phụ hợp với các
Tàu thăm dò Cassani phát hiện quan sát trước đó bởi kính thiên văn Hubble và những
bầu khí quyển chứa ô-xi và cac- bằng chứng Galileo về lớp băng trên các vệ tinh
Europe và Ganymede của Mộc tinh. Tuy nhiên, đây là
bon đi-ôxit ở vệ tinh Rhea của Thổ lần đầu tiên sự hiện diện của ô-xy được tìm thấy ở một
tinh hành tinh hay vệ tinh của nó.
Vệ tinh này chuyển động trên quỹ đạo cách Thổ tinh
Vệ tinh Rhea của Thổ tinh. (Ảnh: NASA) 527 000km và chịu tác dụng của từ trường của hành
tinh này. Các bức xạ trong bầu khí quyển giàu từ tính
Khi bay qua Rhea, vệ tinh lớn thứ hai của Thổ tinh, này được cho là nguyên nhân phá vở các liên kết hóa
tàu thăm dò Cassini của NASA thông báo đã tìm thấy học của băng trên bề mặt và tạo nên bầu khí quyển.
lớp khí quyển mỏng chứa 70% ô-xi và 30% còn lại là
cac-bon đi-ôxit, hiện đang chống đỡ sự phân tích hóa Lãnh đạo của nhóm nghiên cứu cho biết, việc tìm thấy
học của lớp băng phủ đầy trên bề mặt vệ tinh này. ô-xy trong bầu khí quyển của một vệ tinh bị bao phủ
bởi băng đá và không bức xạ có thể cho thấy mức độ
Các nhà khoa học tại Mỹ, Anh và Đức tham gia phân phổ biến của đối tượng loại này trong vũ trụ, miễn
tích số liệu được gửi về từ tàu Cassini cho biết, sự hiện là khối lượng của vệ tinh (hoặc hành tinh) đủ lớn để
Nhà thiên văn học SAO Charlie Lada, cùng với hai
cộng sự đề xuất một góc nhìn mới cho câu hỏi này
trong bài báo vừa cho đăng trong Tạp chí Thiên văn.
Các nhà khoa học này kiểm tra sự hình thành sao
trong 11 khu vực thiên văn đang có sự hình thành sao.
Các miền này có sự khác nhau rõ rệt về khối lượng
của các ngôi sao, dao động trong khoảng từ 800 đến
100 000 khối lượng của hệ mặt trời.
Tốc độ tạo thành sao trong những miền này cũng rất
khác nhau, từ vài sao mỗi triệu năm đến cả ngàn sao
mỗi triệu năm, như các quan sát hồng ngoại cho biết.
Nhưng các đám mây càng nặng lại không nhất thiết
phải có tốc độ tạo thành sao lớn. Thực tế, đám mây
nặng nhất, tinh vân California, thật sự có tốc độ hình
thành sao rất chậm với năng suất tối thiểu. Những
Vì có mật độ vật chất lớn nên tinh vân California khá chậm chạp miền có năng suất lớn nhất lại nằm giữa các đám mây
trong việc "sinh" sao! (Ảnh: Caltech, Palomar Observatory, "nhẹ" nhất.
Digitized Sky Survey)
Các nhà thiên văn đã tìm thấy chìa khóa dùng để tiên
Các ngôi sao vẫn tiếp tục được tạo thành trên bầu trời,
đoán tốc độ hình thành sao là mật độ vật chất của các
khi những đám mây khí và bụi khổng lồ len lõi giữa
đám mây vượt trên giá trị tới hạn (là mật độ vật chất
các sao tập hợp lại dưới tác dụng của lực hấp dẫn. Quá
cần thiết để các sao có thể tạo thành). Họ ước lượng
trình này dần đi vào ổn định (ngôi sao hình thành) khi
mật độ này bằng cách kiểm tra sự thay đổi độ sáng (độ
sự đốt cháy hạt nhân bắt đầu.
mờ) của ánh sáng nhìn thấy và gần hồng ngoại khi
truyền qua các đám mây. Qua nhiều năm, nhiều tiên
Việc giải đáp những gì đang diễn ra trên kia và
đoán đã được đưa ra (như tổng khối lượng của đám
nguyên nhân do đâu là một lĩnh vực nghiên cứu đầy
mây) nhưng kết quả mới thu được cung cấp bằng
sôi động của thiên văn hiện đại. Nó cũng là chiếc chìa
chứng chắc chắn hơn cả về tầm quan trọng của mật độ
khóa giúp hiểu được cách thức tạo thành các hành
trong việc tiên đoán tốc độ hình thành của các sao.
tinh, các ngôi sao chiếu sáng như thế nào hay cách mà
vũ trụ sớm tạo ra các nguyên tố căn bản cần cho sự
Theo physorg.com
Các siêu tụ điện, hay chính xác hơn là các tụ điện lớp
đôi hay các tụ điện hóa, có thể tích trữ nhiều điện
lượng hơn so với các tụ thông thường rất nhiều. Một
đặc tính quan trọng của các siêu tụ là khoảng cách
giữa các bản tụ rất hẹp, cho phép một lượng điện tích
lớn có thể lưu trữ trong miền thể tích nhỏ bé này.
Thiệt bị vừa được chế tạo bởi Bor Jang làm việc ở
Viện kỉ thuật Nano đặt tại Mỹ và các cộng sự. Nó có
các điện cực làm từ graphene pha lẫn 5wt% chất Siêu
P (chất acetylene màu đen, có tác dụng như chất trợ
dẫn, wt%: phần trăm theo trọng lượng-ND) và 10wt%
chất keo PTFE. Vì là tấm cac-bon chỉ với bề dày một
nguyên tử nên graphene là vật liệu dẫn điện rất tốt,
bền vững và dễ uốn dẻo.
Các nhà nghiên cứu phủ lớp hồ này lên bề mặt các cổ
góp điện và sắp xếp các tụ điện cỡ đồng xu vào một
hộp nhỏ. Lớp tiếp xúc giữa điện cực và chất điện phân
được làm từ chất Celguard-3501, trong khi dung dịch
điện phân là một hóa chất có tên gọi EMIMBF4.
Nhóm nghiên cứu, bao gồm các nhà khoa học đến từ
Angstron Materials, nước Mỹ và Đại học công nghệ
Dalian, Trung Quốc hiện đang làm việc cật lực để cải
tiến khả năng tích trữ của thiết bị này. "Mục đích của
chúng tôi là tạo ra một siêu tụ điện có thể tích trữ
(a) Ảnh chụp của kính hiển vi điện tử của các lớp graphene cong nhiều năng lượng như các pin ion li-ti (với cùng trọng
và (b) ảnh chụp TEM của các lớp graphene phẳng có những chổ lượng) nhưng lại có thể nạp điện trong vòng chưa đầy
chồng lên nhau. (Ảnh: Nano Lett.) hai phút," Jang cho biết.
Các nhà nghiên cứu ở Mỹ vừa chế tạo thành công một "Mặc dù tiết diện bề mặt lớn (có thể đạt đến 2
siêu tụ điện dựa trên graphene có khả năng tích trữ 675m2/g) nhưng điện dung của các siêu tụ này khó đạt
điện năng không thua kém so với các loại thông đến 550F/g vì các tấm graphene có xu hướng tụ đống
thường như pin ni-ken hi-đrua, nhưng quá trình sạc lại với nhau," Jang giải thích." Chúng tôi đang cố gắng
hoặc phóng điện của sản phẩm mới này chỉ diễn ra khắc phục trở ngại này bằng cách phát triển một
trong vài phút, thậm chí vài giây. Thiết bị vừa chế tạo hướng mới ngăn cản các tấm graphene chạm vào
Như đã biết trước đây, các nhà thiên văn không thể đo
trực tiếp khoảng cách, và do đó hình dạng của các
thiên thể vì chúng ở cách xa chúng ta. Thay vì vậy, họ
tiến hành đo mức độ dài thêm của bước sóng ánh sáng
mà các thiên thể bức xạ khi các bức xạ này đến với
chúng ta. Đây là phương pháp đo độ dịch chuyển đỏ,
nó cho biết các thiên thể chuyển động ra xa chúng ta
nhanh như thế nào.
Họ cũng tính toán giá trị của cường độ năng lượng tối Xem thêm trên Nature 468 539.
và nhận thấy nó đến từ hằng số vũ trụ, đại lượng mà
Einstein thêm vào phương trình trường của mình để vũ Tác giả: Edwin Cartlidge
trụ trở nên tĩnh. Nếu điều này được thừa nhận, lực đẩy
sẽ không đổi trong suốt quá trình tiến hóa của vũ trụ Theo physicsworld.com
và tương ứng với năng lượng chân không, được định
hình từ cơ học lượng tử.
Các ngôi sao có khối lượng không nhỏ hơn 8 lần khối
lượng Mặt trời sẽ bùng nổ như các Siêu tân tinh vào
trước khi kết thúc sự sống của chúng. Nếu phần lõi
còn lại nặng cỡ hai đến ba lần khối lượng Mặt trời, thì
chúng sẽ biến thành sao nơ-tron. Nếu phần lõi này
nặng hơn, chúng sẽ tạo thành lỗ đen.
Việc "sửa lỗi" sẽ làm tăng khả năng hoạt động của
graphene, tạo ra sự liên kết với các nguyên tử khác.
"Bề mặt graphene thường khá trơ," Banhart giải thích,
"nhưng những khuyết điểm dạng vòng năm cạnh hay
bảy cạnh sẽ làm tăng hoạt tính của nó. Chúng tôi quan
sát thấy sự tăng khả năng hoạt động hóa học ở
graphene."
Trong thực tiễn, điều này có thể được thực hiện bằng
Bóc trần "đường rò" vướng víu cách biểu diễn các phép đo bằng hai hạt lượng tử tách
lượng tử biệt.
Một nhóm vật lý quốc tế, bao gồm các nhà khoa học Đa số thí nghiệm kiểm tra (thí nghiệm Bell-Bell's
làm việc tại Đại học Queensland, đã tiến gần đến một tests) đều phù hợp với các nguyên lý của cơ học lượng
"đường rò" (loop-hole) trong một thí nghiệm giải thích tử, nhưng các nhà nghiên cứu vẫn nghi ngờ về giá trị
một trong những hiện tượng kỳ lạ nhất của khoa học, của những kiểm nghiệm này do nhận thấy sự tồn tại
sự vướng víu lượng tử. của các "đường rò" như đường rò dò tìm hạt (detection
loophole-không phải tất cả các hạt đều dò tìm được),
Vướng víu lượng tử là một hiện tượng lượng tử liên đường rò địa phương (locality loophole-hệ quả của
kết giữa hai hạt (như photon chẳng hạn) theo cách, cứ một phép đo có thể ảnh hưởng đến hệ quả của một
làm thay đổi trạng thái của một hạt thì lập tức ảnh phép đo khác), hoặc tính tùy ý trong việc lựa chọn các
hưởng đến hạt kia một cách tức thời, thậm chỉ khi đường rò (the freedom of choice loophole-sự lựa chọn
chúng cách nhau cả năm ánh sáng. trong tập hợp các đường rò ảnh hưởng hoặc bị ảnh
hưởng bởi các ẩn biến của các cặp hạt).
"Mặc dù thành công vang dội của cơ học lượng tử, sự
đầy đủ về mặt thực nghiệm của hiện tượng vẫn chưa
được chứng minh sau hơn 75 năm," tiến sĩ Alessandro
Fedrizzi hiện đang làm việc tại chuyên nghành toán và
vật lý tại đại học Queensland cho biết.
Theo EPR, tồn tại một vài biến số khác (ẩn biến-
hidden variable, như cách gọi của 3 tác giả trên) dùng
để giải thích các kết quả chẳng mấy trực quan của thực
nghiệm liên quan đến các hạt vướng víu.
Năm 1964, John Bell đưa ra bất đẳng thức Bell làm cơ
sở cho việc kiểm tra sự tồn tại của các ẩn biến này.
Trong nghiên cứu mới đây, được đăng tải trực tuyến
Trong một thí nghiệm, bất đẳng thức này chứng tỏ trên chuyên san của Viện hàn lâm khoa học Hoa Kỳ
rằng các tương quan lượng tử có thể mạnh hơn khi (PNAS) vào ngày 1/11/2010, một nhóm nghiên cứu đã
được giải thích bằng lý thuyết ẩn biến địa phương dẫn ra một thí nghiệm Bell nhằm thu gọn hai đường rò
được đưa ra trước đó bởi EPR.
Bản tin Vật lý tháng 12/2010 54
trong số đó: địa phương và, lần đầu tiên, sự tùy ý chọn Các tác giả đi đến kết luận, thí nghiệm này là gần nhất
lựa. với thí nghiệm Bell đường rò-(lựa chọn đường rò) tự
do (loophole-free Bell's test) được thực hiện tới đây.
Các nhà nghiên cứu sắp đặt các photon vướng víu ở
hai đảo thuộc Đại Tây Dương. Họ tiến hành đo đạc "Chúng ta sẽ tiếp tục theo đuổi thí nghiệm Bell đường
cẩn thận vị trí và số sự kiện bức xạ photon, tập hợp rò-tự do và có thể thành công trong thời gian tới," tiến
các lựa chọn (được tạo bởi những cái sinh số lượng tử- sĩ Fedrizzi cho biết.
quantum number generator) và các phép đo (được tiến
hành bởi những cái chuyển quang điện tốc độ cao). "Tuy nhiên, việc đạt đến gần sự tự do chọn lựa các
đường rò sẽ làm giảm uy thế của những lý thuyết cổ
Với bốn phép đo dài 600 giây trên khoảng cách điển hiện đang dùng để giải thích cơ học lượng tử và
144km, các nhà nghiên cứu đếm được 19.917 cặp là bước tiến căn bản trong việc nắm bắt vấn đề này
photon vướng víu, vi phạm bất đẳng thức Bell. trong khoa học."
Theo Physorg.com
"Sự hòa trộn vũ trụ này (giữa thiên hà nhỏ và dải Ngân
hà chúng ta) mang lại một hành tinh ngoại thiên
hà(extragalactic-xem thêm trên wikipedia.com)," như
phát biểu của Rainer Klement, cũng là thàhn viên của
nhóm nghiên cứu tại Viện Max Planck.
Cùng với nguồn gốc không rõ ràng của nó, ngôi sao
Nguồn: ESO/L Calçada chủ này còn gây lúng túng cho giới khoa học vì nó
chứa một vài nguyên tố nặng hơn hi-đrô và hê-li hơn
Nặng hơn Mộc tinh 1,25 lần, hành tinh vừa được tìm bất cứ ngôi sao có hành tinh nào được tìm thấy trước
thấy cách trái đất 2300 năm ánh sáng đang quay quanh đây. Phổ ánh sáng cho thấy lượng sắt trong nó vào
một ngôi sao già đang phồng lên (Mặt trời của chúng khoảng một phần trăm lượng sắt có trong Mặt trời.
ta cũng sẽ trải qua giai đoạn này) và nhẹ hơn Mặt trời
đôi chút. Johny Setiawan làm việc tại viện Max Planck Hành tinh này được hình thành từ đĩa bụi và khí dôi ra
về thiên văn tại Heidelberg, nước Đức và các đồng sau khi tạo thành sao chủ. Trong lý thuyết hình thành
nghiệp đã tìm thấy hành tinh này bởi lực hấp dẫn của hành tinh đang có ưu thế hiện nay, gọi là sự tích tụ lõi,
chúng làm xê dịch ngôi sao chủ. các hạt bụi tập trung lâu ngày tạo thành đá, một vài vật
Trong bản tin có sử dụng hình ảnh và các bài dịch từ các tạp chí nổi tiếng
Physics World, Nature Physics, New Scientist, cùng một số tạp chí khác.