Professional Documents
Culture Documents
Bản Tin Vật Lý tháng 11 - 2010 - Vinh danh giải Nobel
Bản Tin Vật Lý tháng 11 - 2010 - Vinh danh giải Nobel
COM
Trong bản tin có sử dụng hình ảnh và các bài dịch từ các tạp chí nổi tiếng
Physics World, Nature Physics, New Scientist, cùng một số tạp chí khác.
Nội dung
"Cho những thí nghiệm mang tính đột phá về chất liệu graphene hai chiều"
Sinh năm: 1958, Sochi, Nga Sinh năm: 1974, Nizhny Tagil, Nga
Nơi làm việc hiện nay: Đại học Manchester, Nơi làm việc hiện nay: Đại học Manchester,
Ẩn sau Giải thưởng Nobel Vật lý của năm nay là một đồng. Là một chất dẫn nhiệt, nó dẫn nhiệt tốt hơn
lớp bong mỏng của carbon thông thường, lớp này chỉ mọi chất liệu đã biết khác. Nó hầu như hoàn toàn
dày một nguyên tử. Andre Geim và Konstantin trong suốt. Carbon, cơ sở của mọi dạng sống đã biết
Novoselov đã chứng tỏ rằng carbon ở một dạng phẳng trên trái đất, một lần nữa khiến chúng ta thật bất ngờ.
như vậy có các tính chất ngoại hạng phát sinh từ thế
giới lượng tử vốn kì dị nhưng đầy bí ẩn. Geim và Novoselov đã trích ra graphene từ một
miếng graphite, chất liệu tìm thấy trong các thỏi bút
Graphene là một dạng carbon. Là một chất liệu hoàn chì thông thường. Sử dụng băng dính kiểu bình
toàn mới – nó không những mỏng nhất mà còn bền thường, họ đã thu được lớp carbon bong ra với bề dày
nhất nữa. Là một chất dẫn điện, nó dẫn điện tốt như chỉ một nguyên tử. Kì công này được thực hiện vào
chất liệu bền nhất từng được biết tới, bền hơn thép
khoảng 100 lần. Vì một tấm graphene chỉ dày một
nguyên tử, cho nên nó còn trong suốt, và do đó, có thể
giữ vai trò nhất định trong sự phát triển của công nghệ
hiển thị điện tử trong tương lai.
Một số đặc điểm hấp dẫn nhất của chất liệu này, nhìn
từ quan điểm của các ứng dụng tương lai, phải kể đến
các tính chất điện của nó. Dòng điện chảy nhanh qua
graphene mà không bị thất thoát bao nhiêu năng
lượng. Đặc điểm này, cùng với thực tế là nó tương đối
dễ chế tạo, biến graphene thành một ứng cử viên để
thay thế hoặc cải tiến các mạch tích hợp có đầy trong
các máy vi tính của chúng ta ngày nay. Mạch điện tử
này thường được chế tạo trên những miếng silicon
chạm khắc nhỏ xíu chứa hàng tỉ transistor, mỗi
transistor có thể tác dụng như một công tắc, lần lượt, ở
vị trí ON hoặc OFF, có thể đặt là 0 hoặc 1 trong lôgic
nhị phân mà các máy tính sử dụng để lưu trữ và xử lí
thông tin. Các chip graphene có thể rẻ hơn, nhanh hơn,
và dễ chế tạo hơn các chip silicon.
Graphene là một kiểu tấm cấu tạo từ các nguyên tử cacbon liên
Một thứ đang làm chậm việc sử dụng graphene trong
kết với nhau theo kiểu hình lục giác tuần hoàn. Về cơ bản, nó là
chất liệu hai chiều đầu tiên từng được chế tạo. ngành điện tử là vì nó là một chất dẫn điện quá tốt. Để
hoạt động như một công tắc, một transistor cần phải
Việc là mảnh vật chất mỏng nhất thế giới chỉ là một tắt và mở thật nhanh. Các chất bán dẫn thường được
trong nhiều tính năng đặc sắc của graphene. Nó còn là sử dụng trong transistor, do bản chất của chúng, có
tính chất lưng chừng giữa dẫn điện và không dẫn điện.
Geim và Novoselov, cùng các đồng nghiệp của họ, đã Nói thêm ngoài lề một chút, với việc công bố giải
khám phá ra graphene bằng một phương pháp rất thưởng vinh quang của năm nay, Andre Geim đã trở
khiêm tốn. Họ lấy một miếng băng dính và dán nó lên thành một trong số ít nhà khoa học có cả hai giải
một miếng graphite, chất liệu dùng làm ruột bút chì. thưởng: Giải Nobel và giải Ig-Nobel. Ig-Nobel là một
Băng dính làm tróc ra những mảng cacbon dày nhiều loại giải thưởng Nobel ngược; chúng được trao một
lớp. Nhưng bằng cách dùng đi dùng lại miếng băng phần để cho vui và một phần để khiến người ta suy
dính, các mảng cacbon ngày một mỏng hơn có thể nghĩ. Geim đã giành một giải Ig-Nobel hồi năm 2000
được bóc ra, trong đó có một số mảng cuối cùng chỉ cho việc nâng các chú ếch lên bằng từ trường. Công
dày có một lớp. Các ảnh chụp hiển vi đã xác nhận cái trình này không có gì ma quái, mà chỉ hơi lạ một chút.
mắt người không thể nhìn thấy.
Trong khi đó, Geim và các nhà nghiên cứu khác kì
Graphene đôi khi được sánh với các ống nano cacbon, vọng tìm được nhiều ứng dụng khác cho graphene.
về cơ bản là những miếng graphene cuộn lại thành Ngoài công dụng trong việc chế tạo các chất liệu hay
hình ống hút. Cả hai đều là chất dẫn nhiệt và dẫn điện trong điện tử học, graphene còn có thể là cơ sở cho
rất tốt. Cả hai đều khá bền. các bộ cảm biến hóa chất và cho các máy phát ra ánh
sáng trong ngưỡng terahertz. Loại bức xạ này, với tần
"Graphene là nền tảng cơ sở của mọi cấu trúc nano số khoảng một nghìn tỉ chu trình mỗi giây, là thứ khó
cacbon, bao gồm ống nano cacbon, fullerene, và vân tạo ra. Nó có thể là quan trọng, là một công cụ ghi ảnh
vân, và nó đã trở thành chén thánh đối với cộng đồng mới vì cơ thể con người trong suốt ở tần số này, khiến
nghiên cứu trong nhiều năm qua”, phát biểu của cho loại sóng ánh sáng này có ích cho ngành an ninh
Mildred Dresselhaus, một nhà vật lí tại Viện Công hoặc cho các máy quét y khoa.
nghệ Massachusetts và là một chuyên gia về những
dạng thức khác nhau này của cacbon. “Thật tuyệt là Nguồn: PhysOrg.com
Chương trình Hằng Nga, đặt tên theo vị thần mặt trăng
của người Trung Quốc, được xem là một nỗ lực nhằm
đưa chương trình thám hiểm vũ trụ của Trung Quốc
sánh ngang với Mĩ và Nga.
Phi thuyền mặt trăng đầu tiên, phóng lên vào tháng 10
năm 2007, đã bay trong quỹ đạo trong 16 tháng.
“Phương pháp của chúng tôi mang lại một cách tạo ra
những nguyên tử cần thiết đó để chế tạo loại máy tính
này, và hiện nay đã có thể đưa hàng chục nguyên tử bị
giữ lại hoặc bị bẫy mỗi lúc”.
Công trình nghiên cứu này công bố trên tạp chí khoa
Sự bẫy nguyên tử rubidium 85 là kết quả của một dự án nghiên cứu 3
năm do Quỹ Nghiên cứu, Khoa học và Công nghệ tài trợ, và đã thúc đẩy
học Nature Physics.
niềm đam mê trên khắp thế giới đối với nền khoa học mới sẽ phát sinh từ
đột phá trên. Tiến sĩ Andersen cho biết trong vòng ba tuần thí
nghiệm đầu tiên bẫy thành công nguyên tử rubidium,
Một đội gồm bốn nhà nghiên cứu ở Khoa vật lí thuộc các thí nghiệm mới trước đây không nghĩ là có thể đã
trường Đại học Otago, đứng đầu là tiến sĩ Mikkel F. được triển khai.
Andersen, đã sử dụng một công nghệ làm lạnh bằng
laser để làm chậm đi đến mức kịch tính một nhóm Bước tiếp theo là thử và tạo ra một “trạng thái vướng
nguyên tử rubidium 85. Sau đó, họ sử dụng một chùm víu” giữa các nguyên tử, một loại cộng hưởng nguyên
laser, hay “nhíp quang học”, để tách li và giữ một tử tồn tại xuyên khoảng cách.
nguyên tử - tại đó có thể được chụp ảnh qua một kính
hiển vi. “Chúng ta cần tạo ra sự truyền thông tin giữa các
nguyên tử trong đó chúng có thể cảm nhận lẫn nhau,
sao cho khi chúng ở xa nhau chúng vẫn bị vướng víu
Một đề xuất đã được nêu ra bởi các nhà khoa học tại
trường Đại học Bang Washington. Tờ Discovery
News tường thuật triển vọng của cánh buồm mặt trời
khổng lồ - và tiềm năng của nó như sau:
Theo tính toán của đội nghiên cứu, 300 m dây đồng,
Ảnh minh họa: plus.maths.org
gắn với một máy thu rộng 2 m và một cánh buồm 10
m, sẽ phát điện đủ dùng cho 1000 hộ gia đình.
Phát biểu trước các đại biểu tại Hội nghị Khoa học
Hành tinh châu Âu ở Rome mới đây, Poncy cho biết
Ảnh minh họa tàu cao tốc của Trung tâm Vũ trụ Thales Alenia ông cùng các đồng nghiệp của mình đã chứng minh
(Ảnh: Trung tâm Vũ trụ Thales Alenia) tính khả thi của các tàu cao tốc dữ liệu bằng cách thực
hiện các phép tính cơ học quỹ đạo. Ông cho biết họ đã
Các vệ tinh nghiên cứu các vật thể hành tinh tương đối tính ra được một con tàu cao tốc dữ liệu có thể đi tới
gần, thí dụ như Mặt trăng và Hỏa tinh, có thể truyền Europa, sau khi gia tốc bằng vài lần bay qua gần Mặt
dữ liệu trở về Trái đất khá nhanh chóng thông qua trời, trong thời gian khoảng sáu năm, và sau đó mất
đường truyền vô tuyến. Tuy nhiên, các sứ mệnh quan khoảng ba năm để đưa nó vào quỹ đạo thích hợp có
sát những hành tinh ở xa hơn gặp phải khó khăn vì sự thể thực hiện một chuyến bay ngang qua Trái đất. Như
tắt dần 1/r2 ở sóng vô tuyến truyền đi những khoảng ông trình bày, con số ba năm đó đúng là hợp lí hơn
cách xa này, khiến cho tín hiệu yếu đi đến mức sự nếu so với chừng 50 năm thực hiện bằng công nghệ vô
Cần có vải buồm bền Việc phát triển các tàu cao tốc dữ liệu có khả năng mất
khoảng 20 năm và chi phí từ 100 triệu đến 200 triệu
Cơ quan Vũ trụ Nhật Bản hiện nay đã có một phi bảng Anh. Poncy cho biết sự ủng hộ của chính phủ sẽ
thuyền đẩy đi bằng cánh buồm mặt trời, gọi là là thiết yếu; mặc dù công ti của ông đã có kiến nghị
IKAROS, lái về hướng Kim tinh. Tuy nhiên, theo xin tài trợ của Cơ quan Vũ trụ châu Âu (ESA). Phát
Poncy, một vài rào cản kĩ thuật cần phải được vượt biểu với physicsworld.com, giám đốc khoa học và
qua để làm cho các cánh buồm mặt trời thích hợp cho thám hiểm rô bôt của ESA, David Southwood, đã mô
tàu cao tốc dữ liệu. Đó là sự phát triển một chất liệu tỉ tả các con tàu cao tốc dữ liệu là “một khái niệm hấp
trọng nhỏ nhưng bền vững để chế tạo cánh buồm – dẫn”, nhưng nó là một khái niệm “cho ngày mốt chứ
một khả năng là mạng lưới dệt từ ống nano cacbon. không phải ngày mai”.
Trong số những thách thức khác là làm thế nào bung
dù những cánh buồm khổng lồ 150 x 150 m trong Nguồn: physicsworld.com
Các phân tử siêu chảy còn có thể dùng làm “tủ lạnh
nano”, thực thể bao xung quanh và làm lạnh từng phân
tử protein. Các nguyên tử helium siêu chảy đã được sử
dụng cho mục đích này nhưng, không giống như các
nguyên tử, các phân tử có thể uốn cong và duỗi thẳng,
mang lại những phương pháp mới để thao tác với các
Một số chất lỏng không có ma sát (Ảnh: Don Farral/Getty)
protein làm lạnh.
Để khảo sát xem các phân tử có thể siêu chảy hay
không, Robert McKellar thuộc Trung tâm Nghiên cứu Nguồn: New Scientist
Minh họa một sao neutron và một sao quark lạ thể hiện kích cỡ tương đối và các quark thành phần. (Ảnh: CXC/M Weiss)
Năng lượng cần thiết để biến đổi một sao neutron giải phóng các quark up và down bị giam cầm bên
thành cái gọi là một sao lạ có thể phát sinh từ các hạt trong các neutron. Một số trong những quark này khi
vật chất tối đang phân hủy. Đó là kết luận của một đó sẽ tự nhiên biến đổi thành quark lạ, tạo ra một vùng
nghiên cứu mới của các nhà vật lí ở Tây Ban Nha, vật chất lạ gọi là một strangelet. Nếu, như đã được giả
Anh và Mĩ, họ đề xuất rằng cơ chế biến đổi này có thể thuyết hóa, vật chất lạ thật ra bền hơn vật chất hạt
là một phương thức tốt để đặt ra một giới hạn dưới lên nhân thông thường, thì nó sẽ tồn tại ở một năng lượng
khối lượng của các hạt nặng tương tác yếu (WIMP), thấp hơn. Năng lượng dôi dư giải phóng bởi sự biến
một ứng cử viên hàng đầu cho vật chất tối. đổi vật chất thông thường thành vật chất lạ khi đó sẽ
làm phóng thích thêm nhiều quark up và quark down
Một khi nhiên liệu hạt nhân của chúng đã đốt hết, các nữa, dẫn tới sự hình thành nhiều strangelet hơn.
ngôi sao dưới một khối lượng nhất định sẽ co lại thành
sao neutron. Những vật thể hết sức đậm đặc này chứa Kết quả là một quá trình phi mã có khả năng biến đổi
hầu như toàn neutron, sự co lại do hấp dẫn buộc các toàn bộ một ngôi sao neutron thành vật chất lạ trong
proton và electron phải hợp nhất lại. Tuy nhiên, người vòng một giây hoặc chưa tới một giây. “Sao neutron là
ta cho rằng, với một số nguồn năng lượng bổ sung cho giả bền, giống như một người đứng trên mép núi vậy”,
trước, các sao neutron có thể biến đổi thành các sao lạ, giải thích của Joseph Silk ở trường đại học Oxford,
những vật thể gồm toàn vật chất lạ - một món súp gồm một thành viên trong nhóm nghiên cứu. “Giống hệt
các quark lên (up), down (xuống) và lạ (strange). một cú đá nhẹ có thể đẩy một người rời khỏi mép đá
và rơi xuống vực núi, chỉ một chút năng lượng nhỏ là
Ý tưởng là việc bổ sung thêm năng lượng này cho một đủ để biến đổi một sao neutron thành một sao lạ”.
thể tích có giới hạn nhất định của sao neutron sẽ làm
Phương pháp mới tìm các kiếm các hạt WMIP Nguồn: physicsworld.com
Tiểu hành tinh 65 Cybele hơi lớn hơn tiểu hành tinh
24 Themis – đối tượng của bài báo đầu tiên của đội.
Cybele có đường kính 290 km. Themis có đường kính
200 km. Cả hai nằm trong cùng một vùng thuộc vành
đai tiểu hành tinh giữa Hỏa tinh và Mộc tinh.
Bài báo tường thuật kết quả mới này của họ sẽ được
đăng trên tạp chí châu Âu "Astronomy and
Astrophysics."
Ảnh: Gabriel Pérez, Instituto de Astrofisica de
Canarias, Tây Ban Nha Campins là một chuyên gia về tiểu hành tinh và sao
chổi. Ông đã thu hút sự chú ý với bài báo công bố trên
Hai đội nghiên cứu đã làm mưa gió trên các tờ báo ở tạp chí Nature trình bày bằng chứng đầu tiên của nước
Mĩ hồi tháng 4 rồi với việc trưng bày bằng chứng đầu đóng băng và các phân tử hữu cơ trên tiểu hành tinh
tiên của nước đóng băng và các phân tử hữu cơ trên 24 Themis. Ông còn làm việc trong vài sứ mệnh khoa
một tiểu hành tinh nay lại phát hiện thấy tiểu hành tinh học với NASA và Cơ quan Vũ trụ châu Âu.
65 Cybele cũng có chứa nước.
Nguồn: Đại học Trung Florida, Physorg.com
“Khám phá này cho thấy vùng này của hệ mặt trời của
chúng ta chứa nhiều nước hơn người ta lường trước”,
Vũ trụ đã trải qua một làn sóng nhiệt ban đầu cách đây
hơn 13 tỉ năm trước khi năng lượng từ những ngôi sao
khối lượng lớn sơ khai làm ion hóa hydrogen lạnh lẽo
giữa các sao do Big Bang để lại. Thời kì này thật ra
được gọi là thời kì ion hóa trở lại vì ban đầu các hạt
nhân hydrogen ở trong một trạng thái ion hóa, không
bao lâu sau Big Bang.
Ảnh minh họa hệ hành tinh ngoài hệ mặt trời quay xung quanh Họ tường thuật việc tìm ra một hành tinh có kích cỡ
ngôi sao Kepler-9. Các nhà thiên văn đã phát hiện ra một hành chỉ khoảng 1,5 bán kính trái đất, khiến nó là một trong
tinh cỡ trái đất trong hệ này. Ảnh: NASA, Kepler, T. Pyle những hành tinh ngoài hệ mặt trời nhỏ nhất từng được
Dữ liệu mới có tính cách mạng đối với các nhà thiên biết đến. Tuy nhiên, hành tinh này quay một vòng
văn đang cố gắng tìm hiểu hệ mặt trời và các hành tinh xung quanh ngôi sao của nó (một “năm” của nó) chỉ
của nó đã phát triển như thế nào, nay với hàng trăm mất 1,5924 ngày, vì thế nó ở rất gần ngôi sao của nó,
mẫu để mà phân tích thay vì chỉ một mẫu (hành tinh nóng và hoàn toàn không giống trái đất. Tuy nhiên, nó
của chúng ta). Khi các kĩ thuật tìm kiếm được cải tiến tiêu biểu cho một bước phát triển quan trọng hướng
và trau chuốt, các nhà khoa học sục sạo tìm các hành đến tìm kiếm những hành tinh nhỏ. Không giống như
tinh giống trái đất: những hành tinh có khối lượng và những khám phá khác mới đây (như việc khám phá ra
kích cỡ ngang như Trái đất, và nằm cách ngôi sao chủ một hành tinh ở trong vùng ở được, nhưng lớn hơn
của chúng một cự li sao cho nước ở thể lỏng (cái gọi là Trái đất nhiều lần), hành tinh mới này đủ nhỏ để người
“vùng ở được”, vì nước lỏng là thiết yếu cho sự sống ta tăng thêm kì vọng và hứng thú cho việc sớm tìm ra
như trước nay chúng ta biết). những trái đất khác ngoài hệ mặt trời.
Phi thuyền Kepler đã được phóng lên hồi tháng 3/2009 Nguồn: Trung tâm Thiên văn Vật lí Harvard-
để nghiên cứu các hành tinh ngoài hệ mặt trời. Một Smithsonian, PhysOrg.com
trong những mục tiêu chính của nó là dò tìm các hành
Tuy nhiên, các nhà khoa học không hiểu trọn vẹn
những cấu trúc nano nào gây ra những điểm nóng tốt
nhất hoặc làm thế nào tạo ra các chất SERS có sự tăng
cường đồng đều trên những diện tích lớn. Đây là vì đa
số các hệ SERS đã nghiên cứu trước đây đều dựa trên
các cấu trúc nano ngẫu nhiên, chúng có các tính chất
biến thiên từ thí nghiệm này sang thí nghiệm khác. Sự
không đồng nhất này còn làm cho việc so sánh định
lượng giữa lí thuyết và thí nghiệm tỏ ra khó khăn.
Đội của Dicko phát hiện thấy các protein có dồi dào
bên trong sâu tằm, với nồng độ lên tới 400 mg/ml.
Thật không may, với nồng độ này, các protein biểu
hiện rất ít tương tác, thay vì thế lại tạo ra một cấu trúc
xoắn ốc đặc với bán kính xoay khoảng 90 nm. Tuy
nhiên, tình huống thay đổi khi các nhà nghiên cứu pha
loãng dung dịch tơ với nước, làm cho các protein mở
nếp đến 130 nm và bắt đầu kết hợp thành những sợi tơ
có trật tự.
Ảnh: Hội Hóa học Hoàng gia
“Đây là một nồng độ cao khác thường để cho các
Các bí ẩn của sức bền phi thường của tơ tằm có thể protein giữ được sự ổn định khuếch tán trong toàn
được hé lộ bởi các thí nghiệm tán xạ neutron đang dung dịch”, Dicko nói. “Lạ lùng hơn, khi nồng độ
được thực hiện ở Pháp. Những kết quả ban đầu cho giảm xuống, các protein bắt đầu giãn ra và chảy đi,
thấy con tằm quay tơ của chúng trong một quá trình có cho đến khi cuối cùng chúng co cụm lại với nhau –
vẻ hoàn toàn trái ngược với cái người ta trông đợi. Ở đây là quá trình ngược với cái chúng tôi trông đợi”.
góc độ gia dụng, các kết quả trên có thể cung cấp một
số gợi ý thực tiễn cho những ai đang phân vân không Kết quả là nước giữ một vai trò quan trọng trong việc
biết giặt giũ các sản phẩm tơ tằm của mình như thế mang lại sức bền cho tơ có những gợi ý cho những ai
nào. đang sở hữu các sản phẩm tơ tằm. “Việc sấy khô tơ có
thể làm thoát hết hơi ẩm và làm yếu sợi vải trong quần
Là một chất liệu tao nhã, nhưng tơ tằm hết sức bền, nó áo bằng tơ tằm, làm cho chúng dễ bị hỏng hơn”, giải
có suất căng có thể sánh với thép – những tính chất kết thích của Phil Callow, một trong các nhà nghiên cứu,
hợp đó khiến tơ tằm là một sản phẩm đáng khao khát. làm việc tại ILL. Tuy nhiên, Callow cho biết nếu như
Nhưng mặc dù đã và đang có mặt trong các sản phẩm ai đó đã phạm sai lầm là sấy khô chiếc áo bằng tơ tằm,
dệt sang trọng trong hàng thế kỉ qua, quá trình tạo tơ thì họ có thể đưa nó trở về điều kiện ban đầu bằng
bên trong cơ thể sâu tằm vẫn còn là cái gì đó bí ẩn, với cách nhẹ nhàng cho nó hút hơi nước.
các nhà khoa học khác nhau đề xuất những lời giải
thích khác nhau. Callow cho biết neutron được dùng để khảo sát tơ tằm
vì chúng có các lợi thế so với những thí nghiệm nhiễu
Một trong những hạn chế thực tế khi nghiên cứu tơ xạ khác, thí dụ như tia X, những thí nghiệm có thể làm
tằm là tại bất kì một thời điểm nào cho trước, mỗi con hỏng mẫu đang nghiên cứu. Ông tiết lộ, Dicko sắp trở
sâu tằm chỉ có những lượng nhỏ tiền protein của tơ lại ILL vào tháng 12 tới để tiếp tục nghiên cứu này,
bên trong cơ thể của nó. Vì thế, mọi chương trình bằng cách khảo sát các tác động của sự biến thiên
khoa học nghiên cứu tơ tằm đòi hỏi phải bảo dưỡng nhiệt độ lên sự sinh tơ.
những số lượng lớn sâu tằm sau khi thận trọng trích ra
các mẫu tơ. Lường trước những khó khăn này, các Nguồn: physicsworld.com
nghiên cứu tơ trước đây đã sử dụng các protein tơ “tái
sinh”, thu được bằng cách phá vỡ kén tằm với hàm
lượng muối cao rồi trộn lẫn các mẫu với nhau.
Cac nhà khoa học, đứng đầu là tiến sĩ Steve Leone, “Những công cụ mới này sẽ đưa chúng ta đến khảo sát
một chuyên gia về laser cực nhanh và mới đây là cơ sở động lực học electron trong các chất liệu và các
người nhận được quỹ hỗ trợ của Cơ quan An ninh chất bán dẫn, và có thể giúp chúng ta tìm hiểu và giảm
Khoa học và Công nghệ Quốc gia, đã sử dụng một bớt các quá trình thất thoát electron để chế tạo các
xung ánh sáng tử ngoại cực ngắn, xung kéo dài m150 dụng cụ điện tử, như pin mặt trời chẳng hạn, hiệu quả
atto giây (một atto giây là một phần tỉ tỉ của một giây), hơn, và mang việc xử lí dữ liệu điện tử đến mức cao
để bắt giữ và chụp ảnh chuyển động của các electron nhất của nó”.
hóa trị, lần đầu tiên.
Nguồn: PhysOrg.com
Nghiên cứu về các chuyển động electron như thế này
là cái người ta kì vọng sẽ cho phép các nhà khoa học
Brodwin cùng các đồng nghiệp theo dõi đối tượng của
họ trong 200 độ vuông dữ liệu đầu tiên thu thập từ
Ảnh hồng ngoại/quang học màu tượng trưng của một đám thiên Kính thiên văn Nam Cực (SPT). SPT hiện đang hoàn
hà lớn nằm cách Trái đất 7 tỉ năm ánh sáng. Đám này có khối tất cuộc khảo sát sóng mili mét tiên phong của nó trên
lượng bằng 800 nghìn tỉ Mặt trời. Góc nhìn là 4 x 4 phút cung một mảng trời rộng, bao quát 2500 độ vuông.
(Ảnh: NASA/JPL-Caltech/M. Brodwin/J. Mohr (LMU Munich)
Họ đang săm tìm các đám thiên hà khổng lồ, sử dụng
“Đây là một trong những đám thiên hà khối lượng lớn
hiệu ứng Sunyaev-Zel'dovich – sự nhiễu nhỏ của bức
nhất từng được tìm thấy ở khoảng cách này”, phát biểu
xạ nền vi sóng vũ trụ (tàn dư của Big Bang, đến từ
của Mark Brodwin, một nhà thiên văn tại Trung tâm
mọi hướng). Những sự nhiễu như vậy sinh ra bức xạ
Thiên văn vật lí Harvard-Smithsonian. Brodwin là
nền đi qua một đám thiên hà lớn.
người đứng đầu nhóm tác giả của bài báo công bố phát
hiện trên, đăng trên tạp chí Astrophysical Journal.
Khảo sát theo hiệu ứng này có những lợi thế đáng kể
so với những kĩ thuật tìm kiếm khác. Nó có tác dụng
Độ lệch đỏ là số đo cho biết một vật thể ở xa đang
đối với các đám thiên hà rất xa cũng như với các đám
chuyển động ra xa như thế nào do sự giãn nở của vũ
láng giềng, cho phép các nhà thiên văn tìm ra các đám
trụ. Nằm trong chòm sao phương nam Pictor (Thợ
rất hiếm, xa xôi, và khối lượng lớn. Ngoài ra, nó còn
sơn), đám thiên hà trên có độ lệch đỏ z = 1,07. Giá trị
mang lại các phép đo rất chính xác của khối lượng của
này cho biết nó nằm cách chúng ta 7 tỉ năm ánh sáng,
những đám này, điều quan trọng để làm sáng tỏ bản
nghĩa là chúng ta thấy nó xuất hiện cách đây 7 tỉ năm
chất của năng lượng tối.
rồi, khi mà vũ trụ mới bằng nửa nửa tuổi của nó ngày
nay và hệ mặt trời của chúng ta còn chưa tồn tại.
Một khi tìm thấy đám thiên hà xa xôi này, đội khoa
học đã nghiên cứu nó với Ma trận Camera Hồng ngoại
trên Kính thiên văn vũ trụ Spitzer để định vị các theien
hà bên trong đám. Các quan sát chi tiết của tốc độ của
những thiên hà này với kính thiên văn Magellan ở
Chile chứng tỏ đám thiên hà trên thật sự khổng lồ.
Ảnh chụp quang học của đám thiên hà mới được tìm thấy thể
hiện sự mờ đi và nhạt ra như thế nào của những thiên hà này do
khoảng cách xa của chúng. Góc nhìn là 4 x 4 phút cung (Ảnh:
CTIO/J. Mohr (LMU Munich)
Nguồn: PhysOrg.com
Các nhà nghiên cứu nhận thấy năng lượng nhiệt truyền
que khe trống nhỏ xíu đó vượt quá bức xạ Planck một
lượng c2/v2 = 1010 (trong đó c là tốc độ ánh sáng, và v
là tốc độ âm thanh). Theo các phép đo của họ, điều
này có nghĩa là nguyên tử cuối cùng tại chóp nhọn
nano tiêu tán nhiệt nhanh hơn 1010 lần lúc bình thường
bằng cách tạo ra các phonon bên trong vàng. Và, trái
với các giả thuyết trước đây, sự truyền nhiệt không
phải do đầu nhọn phát bức xạ vào chân không.
Altfeder cùng các đồng nghiệp thu được kết quả của
họ bằng cách thiết lập một ngưỡng điện áp giữa đầu
nhọn hiển vi “nóng” và bề mặt lạnh. Sau đó, các nhà
Sơ đồ thể hiện một tích ảnh dao động nhiệt (ảo ảnh nhiệt), do nghiên cứu ghi lại dòng điện tạo ra bởi các electron
điện trường của đầu nhọn STM gây ra trên bề mặt mẫu. (Ảnh: truyền qua khe trống. Vì các electron này bị ảnh
Igor Altfeder) hưởng trực tiếp bởi các dao động nhiệt trong cả hai
chất liệu, nên một số đo của dòng điện này có thể
Nhiệt có thể được dẫn qua một khe chân không cỡ dùng để tính ra nhiệt độ của điểm đỉnh của đầu nhọn.
nano mét – đó là điều tưởng như không thể nhưng nay “Thựt tế nhiệt độ này gần như khớp với nhiệt độ của
có thể làm được. Theo các nhà nghiên cứu tại Phòng mẫu cho chúng tôi biết rằng năng lượng thoát ra từ
nghiên cứu Không quân ở Ohio, Mĩ, thì nhiệt được điểm đỉnh của đầu nhọn ở một tốc độ hết sức nhanh”,
truyền qua một hiệu ứng gọi là “sự chui hầm phonon”, Altfeder nói.
trong đó các dao động phân tử lượng tử hóa, gọi là các
phonon, dường như đi xuyên qua vùng cấm. Kết quả Theo đội nghiên cứu, sự chui hầm phonon bị chi phối
trên có thể quan trọng cho việc cải tiến các dụng cụ bởi điện trường nằm giữa hai vật. Những điện trường
nhiệt điện và cho các mạch điện tử cấp độ nano trong này làm cho đầu nhọn hiển vi và “tích ảnh” của nó bên
tương lai. trong một mẫu dao động đồng bộ với nhau. Nói cách
khác, điện trường tại điểm đỉnh đầu nhọn làm cho các
Nhiệt trao đổi giữa hai vật thông qua sự dẫn thường electron trong lớp trên cùng của bề mặt vàng dao động
chỉ có thể xảy ra khi các vật tiếp xúc với nhau. Quá ở cùng tốc độ đó.
trình này xảy ra khi các phonon – các lượng năng
lượng dao động – được truyền từ vật nóng hơn sang Công trình này, đăng tải trên tạp chí Physical Review
vật lạnh hơn. Cho đến nay, sự truyền nhiệt như thế Letters, làm củng cố cho các nghiên cứu lí thuyết gần
được cho là không thể xảy ra giữa những vật không đây của Mika Prunnila và Johanna Meltaus thuộc
tiếp xúc đặt trong chân không, vì chân không là vùng Trung tâm Nghiên cứu Kĩ thuật VTT của Phần Lan dự
cấm đối với các phonon, theo như lời giải thích của đoán sự chui hầm phonon giữa các chất liệu áp điện.
Igor Altfeder, một thành viên đội nghiên cứu. Trong một thông cáo báo chí của Hội Vật lí Hoa Kì có
trích dẫn lời của Prunnila nói rằng nghiên cứu mới
Đội nghiên cứu người Mĩ nay đã làm người ta thay đổi trên có thể có các ứng dụng trong ngành điện tử học
nhận thức này bởi việc thật sự đo được dòng nhiệt nano, và trong các dụng cụ khai thác năng lượng từ
giữa đầu nhọn platinum-iridium cỡ nano của một kính các gradient nhiệt độ.
hiển vi quét chui hầm (STM) giữ ở nhiệt độ phòng và
một bề mặt lạnh bằng vàng. Hai vật cách nhau bởi một Nguồn: physicsworld.com
“Đây là lần đầu tiên người ta quan sát thấy hiện tượng
Ảnh: NASA/CXC/M.Weiss
như thế này và khám phá trên để lại câu hỏi là không
biết cơ chế cấp năng lượng trong trường hợp này có
Các pulsar, hay sao neutron, là tàn dư co lại của các
gốc gác từ đâu”, tiến sĩ Zane nói.
ngôi sao khối lượng lớn. Mặc dù tính trung bình chúng
có đường kính chỉ khoảng 30 km, nhưng chúng có từ
Một câu hỏi quan trọng là một sự mất cân bằng cỡ bao
trường bề mặt cực mạnh, gấp hàng tỉ lần từ trường của
nhiêu là có thể duy trì được giữa từ trường mặt và từ
Mặt trời của chúng ta.
trường bên trong. SGR 0418 mang lại một trường hợp
thử nghiệm quan trọng.
Loại pulsar mạnh nhất có từ trường bề mặt mạnh hơn
50-1000 lần so với mức bình thường và phát ra những
“Nếu như các quan sát Chandra và các vệ tinh khác
tia lửa tia gamma và tia X cường độ mạnh. Các sao từ
đẩy giới hạn từ trường mặt xuống thấp hơn nữa, thì
(hay sao nam châm) đã được các nhà thiên văn học đặt
các nhà lí thuyết có lẽ phải đào sâu thêm để tìm một
tên, và người ta nghĩ từ trường khổng lồ của chúng là
lời giải thích cho vật thể khó hiểu này”, theo lời tiến sĩ
nguồn gốc tối hậu cho các đợt bùng phát tia gamma.
Nanda Rea, Institut de Ciencies de l'Espai (ICE-CSIC,
IEEC) ở Barcelona, người lãnh đạo nhóm nghiên cứu
Các nghiên cứu lí thuyết cho biết trong các sao từ, từ
trên.
trường nội thật ra mạnh hơn từ trường mặt, một tính
chất có thể làm biến dạng lớp vỏ và lan tỏa ra phía
Nguồn: PhysOrg.com
ngoài. Sự phân hủy của từ trường dẫn tới sự sản sinh
sự phát xạ tia X đều đều và bùng phát qua việc làm
nóng lớp vỏ sao neutron hoặc sự gia tốc của các hạt.
Để tìm hiểu các hạt nano lớn lên như thế nào, các nhà
khoa học cần thật sự quan sát được chúng đang hoạt
động. Vấn đề là kính hiển vi điện tử, phương pháp
thông dụng dùng để nhìn xuống cấp độ nguyên tử của
các hạt nano, đòi hỏi có chân không. Nhưng nhiều loại
tinh thể nano lại lớn lên trong môi trường chất lỏng –
và chân không trong kính hiển vi điện tử khiến yêu
cầu này không thể thực hiện được. Một màng mỏng
đặc biệt cho phép một lượng chất lỏng nhỏ xíu được
phân tích trong một kính hiển vi điện tử, nhưng nó vẫn
hạn chế các nhà nghiên cứu với một lớp chất lỏng chỉ
dày 100 nm, khác đáng kể so với các điều kiện thực tế
trong sự tổng hợp hạt nano.
Trong nghiên cứu hiện nay, đội khoa học chế tạo các
dải ruy băng nano bằng graphene, sử dụng một kĩ
thuật chế tạo kiểu mặt nạ dây nano. Bằng cách đo sự
thăng giáng độ dẫn, hay “sự nhiễu” của các electron
trong các dải ruy băng nano graphene, các nhà nghiên
cứu đã trực tiếp khảo sát tác dụng của sự giam cầm
lượng tử trong những cấu trúc này. Họ đã lập bản đồ
cấu trúc dải điện tử của những dải ruy băng nano
graphene này bằng một phương pháp khảo sát điện có
Ảnh một tấm graphene lơ lửng, chụp với TEAM 0.5 tại Trung tâm sức mạnh lớn. Phương pháp này có thể áp dụng cho
Quốc gia Kính hiển vi Điện tử thuộc Phòng thí nghiệm Berkeley, nhiều chất liệu nano khác, trong đó có các dụng cụ
cho thấy từng nguyên tử carbon (màu vàng) trên mạng tinh thể
điện tử gốc graphene.
hình tổ ong.
Triển vọng của graphene nằm ở tính đơn giản của cấu “Thật ngạc nhiên là chúng tôi đã quan sát được một
trúc của nó – một mạng lưới “mong manh” của các mối tương quan rõ ràng như vậy giữa sự nhiễu và cấu
nguyên tử carbon chỉ dày một lớp nguyên tử. Tấm vật trúc dải của các vật liệu nano graphene này”, phát biểu
liệu này giam cầm các electron trong một chiều không của tác giả Guangyu Xu, một nhà vật lí tại trường Đại
gian, buộc chúng chạy trong một mặt phẳng. Sự giam học California, Los Angeles. “Công trình này củng cố
cầm lượng tử như vậy mang lại các tính chất điện tử, mạnh cho sự hình thành dải con gần như một chiều
cơ học và quang học xuất sắc, vượt xa cái mà silicon trong các dải ruy băng nano graphene, trong đó
và các chất bán dẫn truyền thống khác mang lại. Ngoài phương pháp của chúng tôi hóa ra có sức mạnh lớn
ra, nếu các electron của graphene bị giam cầm trong hơn nhiều so với phép đo độ dẫn”.
hai chiều không gian, kiểu như một dải ruy băng nano,
Nguồn: PhysOrg.com
Ngay cả trong những lĩnh vực khoa học cơ bản nhất, bạn cũng không thể nào làm việc nếu không có những nỗ lực
đương đầu với các rủi ro, thách thức. Bạn phải mở rộng tầm nhìn, bạn phải chấp nhận thử thách – đây là công việc
thú vị đấy. Bạn không nên xem khoa học là một bước nữa ở nơi này hay một bước nữa ở nơi kia.
Nhưng ông có nghĩ liệu các nhà khoa học có luôn luôn xét đến quan điểm này khi mà họ còn có những thứ khác để
lo lắng, thí dụ như tìm nguồn trợ cấp cho nghiên cứu tiếp theo của họ?
Điều đó chỉ đúng phần nào thôi. Nhưng phần lớn là các nhà khoa học tự áp đặt cho bản thân mình thôi. Chúng ta có
thể thấy có quá nhiều nhà khoa học có tư tưởng bảo thủ và đôi khi còn xúc động thái quá khi bị phản biện. Cái thật
sự mới trong khoa học không thể là những hệ quả lô gic của cái chúng ta đã biết... mà đó là bước lô gic tiếp theo. Tôi
không muốn xem nhẹ phương pháp từ-trên-xuống trong khoa học, nhưng tôi thấy thú vị hơn nếu như chúng ta nêu ra
những câu hỏi mới một cách táo bạo.
Ông có nhận nguồn cảm hứng từ các nhà khoa học nhất định nào đó không?
Einstein là nguồn cảm hứng rất lớn – đặc biệt ở cái cách ngoan cố của ông. Ông có quan điểm riêng của ông về cơ
học lượng tử - mà theo các hệ quả của nó thì hóa ra là không đúng. Chẳng có câu hỏi nào về điều đó. Nhưng ông vẫn
trụ vững trên đó vì ông tin vào nó. Loại ngoan cố như thế là quan trọng trong khoa học, vì đôi khi những người khác
mới là sai lầm. Sự phê bình của Einstein đối với vật lí lượng tử đã truyền cảm hứng cho nghiên cứu cơ bản, mở ra
hướng đi đến thông tin lượng tử và điện toán lượng tử.
Ông dự đoán như thế nào cho tương lai của cơ học lượng tử với vai trò là một lí thuyết?
Vậy ông tiếp cận câu hỏi đó như thế nào? Có phải qua các thí nghiệm tưởng tượng thuần túy hay là có một phương
pháp thực tiễn hơn?
Vâng, có một thứ chắc chắn là mọi nan đề và nghịch lí mà người ta dự đoán thật ra có trong phòng thí nghiệm và
việc ngừng phát triển các khái niệm có thể cho phép họ tránh được những thứ như vậy.
Lí thuyết trên sẽ không đổ vỡ theo xu hướng mà người ta muốn cơ học lượng tử đổ vỡ. Chẳng hạn, nó không nằm ở
chỗ các vật thể vĩ mô to lớn. Nhưng nó có thể nằm ở chỗ sự hấp dẫn lượng tử. Người ta đã cố gắng đi lượng tử hóa
sự hấp dẫn trong 80 năm qua, kể từ thập niên 1930. Một số trí tuệ lỗi lạc nhất của nền văn minh của chúng ta đã cố
gắng nhiều nhưng không thành công. Điều đó cho tôi thấy có lẽ, vì lí do gì đó, cơ bản là chúng ta không nêu ra được
những câu hỏi thích hợp.
Còn điện toán lượng tử thì sao – ông nghĩ khi nào chúng ta sẽ thấy những cỗ máy có thể thực hiện các phép tính có
ích?
Vâng, tất nhiên, rất khó mà dự báo trước. Nhưng nó có thể mang lại một hướng đi vượt ra khỏi các giới hạn của định
luật Moore [định luật mô tả số lượng transistor có thể đặt vào một mạch tích hợp tăng gấp đôi sau chừng mỗi hai
năm]. Đối với sự điện toán lượng tử, nó tùy thuộc vào số lượng qubit mà chúng ta có thể xử lí trong các thí nghiệm.
Đa số mọi người nói chúng ta cần khoảng 40-50 để có một chiếc máy tính lượng tử có sức thu hút. Hiện nay, chúng
ta đang ở mức độ khoảng 10, với sự điện toán lượng tử ion, cho nên sẽ mất khoảng 15-20 năm nữa. Thật không tệ
lắm đâu; chúng ta không bị tụt hậu cho lắm.
Ông có thể nói đôi điều về nghiên cứu riêng của ông trong lĩnh vực điện toán lượng tử không?
Chúng tôi đang nghiên cứu sự điện toán quang lượng tử, nó chỉ làm việc với các photon thôi. Vấn đề với các photon
là chúng nhanh quá. Chúng chỉ xuất hiện trong thiết bị trong một khoảng thời gian rất ngắn – một vài nano giây – và
vì thế bạn phải xử lí chúng thật nhanh mới được. Và hiện nay, chúng tôi không có các detector có hiệu suất đủ cao để
xử lí các photon đó. Nhưng trên nguyên tắc, sự điện toán quang lượng tử có thể triển khai trên quy mô rộng.
Ông từng nói trước đây rằng cái kích thích ông nghĩ tới điện thoại di động là với một chiếc máy tính lượng tử đang
xây dựng. Ông còn muốn thấy những ứng dụng tiềm năng nào khác nữa không?
Tôi nói lên điều này có phần mỉa mai nhằm hi vọng khích lệ những người trẻ tuổi có trí tuệ dũng cảm. Bạn phải đặt
ra những mục tiêu với tham vọng không đáy. Đó là nơi những công nghệ hoàn toàn mới sẽ xuất hiện mà chúng ta
không bao giờ dự báo trước được. Hãy nhìn trường hợp laser. Khi nó được phát minh ra [cách đây 50 năm], không ai
dự báo trước hai ứng dụng thông dụng nhất mà chúng ta thấy ngày nay – máy hát đĩa và máy quét tính tiền ở siêu thị.
Chẳng ai dự báo trước điều này – đó là con đường các phát minh vẫn ra đời.
Trong đời mình, tôi đã từng thấy những thứ không thể tin nổi. Tôi vẫn nhớ cái ngày chúng tôi nhìn thấy chiếc máy
tính khoa học đầu tiên của chúng tôi tại viện nghiên cứu – chuyện xảy ra cách nay phải 25-30 năm rồi, hay đại khái
là chừng ấy năm. Có một nhóm trong số chúng tôi đã ngồi ở đó suốt cả buổi chiều để nhấn các phép tính và chúng
tôi hoàn toàn bị kích động bởi chuyện này.
Ông cũng nói ông muốn trẻ con được tiếp xúc với cơ học lượng tử khi còn nhỏ tuổi. Sao thế?
Tôi đã nói điều này nhiều năm rồi và tôi nghĩ tôi nên làm như vậy. Tôi muốn gặp những người có suy nghĩ theo
hướng này, họ sẽ giúp tôi cho bọn trẻ tiếp xúc rất sớm với vật lí lượng tử. Rõ ràng bạn không thể nói với chúng về
các trạng thái lượng tử và không gian Hilbert, nhưng một cách có thể làm như vậy là có các hiện tượng lượng tử
được mô phỏng trên máy vi tính. Nó có thể là một trò chơi hoạt động theo các nguyên lí của cơ học lượng tử, chứ
không theo các nguyên lí của cơ học cổ điển. Và chúng ta có thể xem bọn trẻ có khả năng chơi với nó không, mặc dù
chúng không biết cái gì nằm ẩn sau nó.
Hoặc tôi đang nghĩ tới việc đơn giản là cho chúng xem các hiện tượng trên máy vi tính, thí dụ như mô phỏng của các
thí nghiệm rất đơn giản. Có lẽ nếu bọn trẻ chơi được với những trò này, thì chúng có thể phát triển một kiểu trực giác
rất khác.
Nguồn: physicsworld.com
Kính thiên văn vũ trụ Spitzer của NASA vừa tìm thấy phần nóng nhất của một hành tinh xa xôi, tên gọi là Andromedae b,
không nằm ngay bên dưới ngôi sao chủ của nó như trông đợi. Ảnh: NASA/JPL-Caltech
Hành tinh khí khổng lồ trên, tên gọi là upsilon Astrophysical Journal. “Rõ ràng chúng ta hiểu về
Andromedae b, quay gần xung quanh ngôi sao của nó, năng lượng tính khí quyển của các Mộc tinh nóng kém
với một mặt luôn sôi sùng sục dưới nhiệt lượng lớn hơn cái chúng ta nghĩ chúng ta đã hiểu”.
của ngôi sao. Nó thuộc về một họ hành tinh gọi tên là
các Mộc tinh nóng, gọi như vậy vì cấu tạo chất khí,
kích cỡ lớn, và nhiệt độ như thiêu như đốt của chúng.
Nhưng kết quả mới lại có thể đưa lí thuyết này vào
nghi vấn. Sử dụng Spitzer, một đài thiên văn hồng
ngoại, các nhà thiên văn nhận thấy đốm nóng của
upsilon Andromedae b bị rỗng một lỗ lớn đến 80 độ. Biểu đồ từ Kính thiên văn vũ trụ Spitzer của NASA thể hiện cách
Về cơ bản, đốm nóng đó nằm trên mặt của hành tinh thức các nhà thiên văn định vị một đốm nóng trên một hành tinh
thay vì nằm trực tiếp dưới ánh chói của ngôi sao. khí khổng lồ xa xôi tên gọi là upsilon Andromedae b – và biết
rằng nó nằm không đúng chỗ. Ảnh: NASA/JPL-Caltech/UCLA
“Chúng tôi thật sự chẳng trông đợi tìm thấy một đốm
nóng với một lỗ rỗng lớn như vậy”, phát biểu của Ian Các kết quả trên là một phần của một lĩnh vực đang
Crossfield, tác giả đứng đầu bài báo mới trình bày phát triển của khoa học khí quyển hành tinh ngoại, đã
khám phá trên, đăng trên số sắp phát hành của tạp chí được đi tiên phong bởi Spitzer hồi năm 2005, khi nó
Người ta có nghĩ hệ trên sẽ xuất hiện sáng nhất khi Nguồn: JPL/NASA, PhysOrg.com
hành tinh ở ngay bên dưới ngôi sao, nhờ đó cho thấy
Đội khoa học đã có thể chụp những hình ảnh trực tiếp
đầu tiên của các đơn cực từ khó nắm bắt trên cùng với
các dây Dirac gắn liền với chúng ở nhiệt độ phòng.
Ảnh thể hiện 12 micro mét x 12 micro mét của siêu chất liệu từ
nhân tạo, trong đó các đơn cực từ có thể nhìn thấy tại mỗi đầu
Ảnh minh họa các đơn cực từ biểu diễn dưới dạng những quả cầu
của các dây Dirac, nhìn thấy dưới dạng các vạch tối. Các vùng
lớn nằm tại các đầu dây Dirac. Các lưỡng cực được biểu diễn
tối tương ứng với các hòn đảo từ nơi sự từ hóa bị đảo ngược.
dạng các quả tạ từ tích và dây Dirac tương ứng với một dây tạ bị
(Ảnh: Viện Paul Scherrer)
đảo lộn thể hiện bằng màu đen.
Theo các kết quả công bố trên tờ tạp chí khoa học Các thí nghiệm cho thấy trực tiếp làm thế nào cực bắc
hàng đầu Nature Physics vào hôm 17 tháng 10 năm và cực nam phân tách với nhau trong một trường
2010, thì các nhà khoa học đã có thể chụp ảnh trực ngoài, tạo ra dây Dirac trên đường đi của chúng, “một
tiếp các đơn cực từ bằng cách sử dụng bức xạ tia X thực tế mà chúng tôi có thể giải thích trong khuôn khổ
cường độ cao phát ra từ Nguồn Sáng Thụy Sĩ tại Viện một mô hình lí thuyết”, theo lời nghiên cứu sinh hậu
Paul Scherrer. tiến sĩ Remo Hügli, người cùng với giáo sư Braun xây
dựng lí thuyết cho thí nghiệm trên.
“Một đơn cực từ một hạt ‘giả định’ là một nam châm
có duy nhất một cực từ”, theo nhà vật lí lí thuyết, giáo Khi các nhà nghiên cứu khảo sát cách các đơn cực từ
sư Hans-Benjamin Braun ở Khoa Vật lí, trường Đại di chuyển, họ nhận thấy mỗi lần họ tăng từ trường đặt
học College Dublin (UCD), người cùng lãnh đạo vào thì chúng kích thích một đợt thác đảo ngược từ
nghiên cứu trên với tiến sĩ Laura Heyderman thuộc hóa của những hòn đảo từ liền kề, giống như một hàng
Viện Paul Scherrer ở Thụy Sĩ. domino bị đổ. Những loại thác lở này không chỉ hạn
chế với các hệ từ, mà ngoài các đối tác băng và tuyết
“Một số lí thuyết quan trọng nhất giải thích vật chất của chúng, chúng còn có thể tự biểu hiện trong cát,
lượng tử hành xử như thế nào trong vũ trụ xây dựng trong những trận động đất, và trong sự khủng hoảng
trên sự tồn tại của chúng, nhưng chúng đã lãng tránh thị trường chứng khoán.
sự ghi ảnh trực tiếp kể từ khi lần đầu tiên chúng được
hình thành trên lí thuyết hồi thập niên 1930”. Nghiên cứu trên, do Tổ chức Khoa học Ireland và Tổ
chức Khoa học quốc gia Thụy Sĩ tài trợ, cuối cùng có
thể hỗ trợ các nhà khoa học trong việc tìm hiểu cách
Trái với sự trông đợi ban đầu, các va chạm RHIC cho
thấy các hạt trong món súp quark và gluon hành xử
như thể chúng ở trong một chất lỏng. Sẽ thật thú vị khi
chứng kiến xem hành trạng này có xuất hiện tại các
nhiệt độ cao hơn của LHC hay không, theo lời nhà
nghiên cứu Peter Steinberg ở Brookhaven.
Nhưng ban đầu các nhà thiên văn không thể bác bỏ
khả năng rằng vật thể trên có thể thực chất có màu đỏ
và ở gần Trái đất hơn nhiều, ví dụ một ngôi sao lùn
nâu trong thiên hà của chúng ta. Camera Hubble
không được trang bị khả năng đo phổ ánh sáng chi tiết
cần thiết để phân biệt giữa những khả năng như vậy.
Nay, các nhà nghiên cứu tiếp tục thực hiện với kính
thiên văn 8,2 m tại Đài thiên văn Nam châu Âu ở
Chile, cho thấy vật thể trên nằm xa bên ngoài Dải
Ngân hà. Ánh sáng của nó có vẻ như hơn 13,1 tỉ năm
tuổi, khiến nó là vật thể xa xôi nhất từng được xác Thiên hà xa xôi, tên gọi là UDFy-38135539, xuất hiện dưới dạng
nhận tính cho đến nay. một đốm mờ nhạt bên trong vòng trong màu đỏ trong ảnh này,
chụp bởi Kính thiên văn vũ trụ Hubble. (Ảnh: NASA/ESA/G
Illingworth/UCO/Đài thiên văn Lick/UCSC/Đội HUDF09)
Độ lệch đỏ cao
Sương mù nguyên thủy
Một đội đứng đầu bởi Matt Lehnert ở Đài thiên văn
Paris, Pháp, đã sử dụng kính thiên văn Hubble nhìn
Khoảng cách cực xa của thiên hà mới này – đặt tên là
vào vật thể trên trong 16 giờ để đo phổ ánh sáng của
UDFy-38135539 – cung cấp các gợi ý về cách thức
nó. Những chỗ lồi và lõm trong quang phổ - tương
sương mù nguyên thủy bị xua tan để làm cho vũ trụ
ứng với ánh sáng phát ra hoặc bị hấp thụ - có một cực
trong suốt hơn đối với ánh sáng. Phần lớn ánh sáng
đại tại bước sóng 1,16 micro mét. Đội nghiên cứu nói
sao trong vài trăm triệu năm đầu tiên của sự tồn tại của
cực đại trên có khả năng nhất là do ánh chói của chất
vũ trụ nhanh chóng bị hấp thụ bởi chất khí hydrogen
khí hydrogen nóng từ một thiên hà ở xa gây ra. Ánh
tràn khắp vũ trụ.
sáng ban đầu có bước sóng 0,122 micro mét nhưng
trong hành trình đến với Trái đất, nó đã bị kéo giãn ra.
Các nguyên tử hydrogen này cuối cùng phân li thành
các proton và electron cấu thành của chúng – một quá
trình gọi là sự ion hóa trở lại – bởi các nguồn bức xạ
Sơ đồ thí nghiệm dùng để phát hiện ra cái tương tự bức xạ Hawking. Xung laser vào tập trung vào một mẩu silic nóng chảy và các photon
được thu gom ở góc 90o so với các xung tới. (Ảnh: Daniele Faccio)
Đó là một trong những ý tưởng tinh tế nhất của Zealand, người không có liên quan trong nghiên cứu
Stephen Hawking: tiên đoán năm 1974 rằng các lỗ đen trên.
không hoàn toàn đen, mà phát ra một dòng bức xạ đều
đặn. Sự xác nhận thực nghiệm của bức xạ Hawking có Cội nguồn ở cơ học lượng tử
lẽ sẽ mang đến cho nhà vũ trụ học người Anh 68 tuổi
này một Giải Nobel Vật lí. Nhưng đáng tiếc, không Lí thuyết của Hawkign bắt nguồn từ nguyên lí bất định
một ai có thể phát hiện ra một tín hiệu lỗ đen vì nó quá trong cơ học lượng, nguyên lí cho chúng ta biết rằng
yếu so với bức xạ nền của vũ trụ. các cặp hạt liên tục thoắt ẩn thoắt hiện, kể cả trong
chân không. Đa phần thời gian thì những hạt này hủy
Tuy nhiên, cơ hội giành giải Nobel của Hawking có lẽ lẫn nhau hầu như ngay khi chúng vừa sinh ra, nhưng
đang tăng lên, nhờ một bài báo sẽ sớm công bố trên điều này sẽ không còn đúng tại rìa của một lỗ đen, nơi
tạp chí Physical Review Letters. Trong công trình này, được gọi là chân trời sự cố, tại đó sự hấp dẫn trở nên
các nhà vật lí người Italy mô tả cái nhiều người tin là mạnh đến mức kể cả ánh sáng cũng chẳng thoát ra
phép đo đầu tiên của bức xạ Hawking phát ra từ một được. Thành ra nếu một cặp hạt sinh ra ở hai phía
“cái tương tự” lỗ đen trong phòng thí nghiệm. điểm này, thì một hạt sẽ bị nuốt vào lỗ đen, còn hạt kia
thì thoát ra ngoài – và hạt thoát ra này sẽ trở thành bức
Nghiên cứu trên đã khuấy lên một cuộc tranh cãi về xạ Hawking.
cái thật sự cấu thành nên bức xạ Hawking, và bằng
chứng trên cơ sở phòng thí nghiệm như thế có thể giúp Vì hiện nay, người ta không thể quan sát bức xạ
đưa Hawking thành một đối thủ nặng kí cho Giải Hawking đối với các lỗ đen thực tế, nên trong thời
Nobel hay không. gian gần đây, các nhà vật lí đã chuyển sang khảo sát
những cái tương tự lỗ đen trong phòng thí nghiệm có
“Chúng ta không có bất kì bằng chứng quan sát nào từ thể bắt chước hành trạng của các đối tác thiên văn vật
các lỗ đen thiên văn vật lí về sự tồn tại của hiệu ứng lí của chúng. Một loại tương tự như thế sử dụng laser
Hawking, và sẽ cực kì khó khăn để chúng ta có được để mô phỏng một chân trời sự cố, vì ánh sáng cường
một bằng chứng như vậy, cho nên bất kì phương pháp độ cao có thể làm biến đổi chiết suất của một môi
nào xác nhận được tiên đoán của Hawking cũng có trường, đại lượng chi phối tốc độ truyền ánh sáng. Nói
tầm quan trọng rất lớn đối với cộng đồng khoa học”, đơn giản thì việc chiếu một laser cường độ mạnh qua
phát biểu của Matt Visser, một chuyên gia về các vật thủy tinh tạo ra một đỉnh chiết suất: bất kì photon nào
tương tự hấp dẫn tại trường Đại học Wellington, New ở phía trước đỉnh này thì có thể truyền về phía trước,
còn những photon ở đằng sau và cố gắng truyền về
Một quả cầu thủy tinh 10 micron dìm trong một tinh thể lỏng lyotropic
chromonic (Ảnh: Israel Oleg Lavrentovich, Israel Lazo và Oleg Pishnyak)
Những biến dạng này cho phép các hạt đẩy đi trong điện trường ngoài.
(Ảnh: Oleg Lavrentovich, Israel Lazo và Oleg Pishnyak)
Các sai lệch là sự biến dạng của các định hướng phân tử bên trong tinh thể
lỏng. (Ảnh: Oleg Lavrentovich, Israel Lazo và Oleg Pishnyak)
Nguồn: physicsworld.com
Các kết quả của LRO có giá trị đối với sự cân nhắc
trong tương lai về các địa điểm xây dựng căn cứ Mặt
trăng rô bôt và có người điều khiển. Do sự định hướng
của Mặt trăng so với Mặt trời, cho nên có những vùng
bóng tối vĩnh cửu trong các đáy hố va chạm, nhưng
cũng có những ngọn núi và vành hố hầu như luôn nằm
trong ánh nắng mặt trời, chúng sẽ cho phép lắp đặt và
vận hành các hệ thống cấp điện mặt trời. Việc phát
hiện ra nước đóng băng và các tài ngueyen khác trong
vùng trên còn có thể giảm bớt nhu cầu vận chuyển tài
nguyên từ Trái đất lên cho các nhà du hành sử dụng.
“Việc phát hiện ra thủy ngân trong đất là bất ngờ lớn
nhất, đặc biệt khi nó có độ dồi dào ngang như nước
mà LCROSS đã phát hiện ra”, theo lời Kurt
Những cú va chạm cứng làm bắn tung các mảnh vỡ ra sang bên Retherford, một thành viên của đội LAMP. “Tính độc
(trái), còn những cú va chạm mềm mang lại cột vật chất vọt lên
cao (phải). Ảnh: Đại học Brown/Peter H. Schultz và Brendan
hại của nó có thể mang đến thử thách cho sự thám
Hermalyn, NASA/Ames Vertical Gun Range. hiểm có con người”.
Do Viện nghiên cứu Tây Nam phát triển, LAMP sử dụng một
Vệ tinh Cảm biến và Quan sát Miệng hố Mặt trăng Từ
phương pháp mới lạ để săm soi vào bóng tối của những vùng
xa (LCROSS), phóng lên cùng với LRO, đã cố ý lao bóng đêm vĩnh viễn trên Mặt trăng. Quang phổ kế tử ngoại này
vào bề mặt chị Hằng hôm 9 tháng 10 năm 2009, trong quan sát bề mặt chị hằng phía ban đêm, sử dụng ánh sáng phát ra
khi các thiết bị LRO thì quan sát. Khoảng 90 s sau khi từ không gian lân cận (và các ngôi sao), cái nhận chìm mọi vật
LCROSS chạm vào Mặt trăng, LRO bay ngang qua thể trong không gian trong một ánh le lói dịu nhẹ. Ánh le lói
Lyman-alpha này không thể nhìn thấy đối với mắt người, nhưng
túm bụi do cú va chạm làm dâng lên, còn Dự án Lập
có thể nhìn thấy đối với LAMP khi nó phản xạ khỏi Mặt trăng.
Bản đồ Lyman Alpha (LAMP) và các thiết bị khác thì Các phân tích sự phát xạ, cùng với các thiết bị LRO khác, giúp
thu thập dữ liệu. Sử dụng những dữ liệu này, các thành xác định các tính chất của bề mặt chị hằng.
viên đội LAMP cuối cùng đã xác nhận sự hiện diện
của các chất khí hydrogen phân tử, carbon monoxide Sau các quan sát va chạm LCROSS, LAMP tiếp tục nghiên cứu
và thủy ngân nguyên tử, cùng với những lượng nhỏ các tính chất phản xạ tử ngoại và thành phần của bề mặt chị hằng
calcium và magnesium, cũng ở dạng khí. và thành phần của khí quyển mặt trăng. Kể từ kết luận của Ban
giám đốc Các hệ thống Thám hiểm của NASA, Ban giám đốc Sứ
mệnh Khoa học đã quyết định giám sát các nghiên cứu có chiều
“Chúng ta đã có các gợi ý từ đất đá Apollo và các mô sâu hơn đối với các thiết bị khoa học. Trong nghiên cứu khoa
hình rằng các chất dễ bay hơi mà chúng ta thấy trong học, LAMP sẽ chuyển sang đánh giá chi tiết hơn bầu khí quyển
túm bụi va chạm đã và đang được thu gom ở gần các của Mặt trăng và tính biến thiên của nó.
vùng cực của Mặt trăng”, theo lời tiến sĩ Randy
Gladstone, nhà nghiên cứu LAMP chính, thuộc Viện Nguồn: PhysOrg.com
Nghiên cứu Tây Nam ở San Antonio. “Giờ thì chúng
ta đã có sự xác nhận”.
Thay vì khảo sát nước tuôn xuống bể, đội khoa học Các kính thiên văn của chúng ta không đủ nhạy để xác
khảo sát cái xảy ra khi một dòng dầu nhớt chạm trúng nhận điều này, nhưng các thí nghiệm tương đương như
một cái bể rỗng. Khi họ đặt đầu kim trên đường đi của thí nghiệm của Rousseaux có thể giúp làm sáng tỏ cơ
dầu khi nó lan ra từ điểm va chạm, nó tạo ra một nhiễu chế vật lí của sự phát xạ, cho đến nay cơ chế đó vẫn
loạn hình chữ V (xem hình). còn chưa rõ.
Góc của chữ V phụ thuộc vào tốc độ tương đối của Nguồn: New Scientist
chất lỏng và mọi gợn sóng trên bề mặt của nó. Khi đội
Tin tức rằng đến nay hãng Sony mới quyết định ngừng
sản xuất có thể khiến nhiều người bất ngờ, vì họ cho Một sản phẩm đã định hình phong cách trẻ trong thập niên 1980
rằng sự phát triển của iPod và thậm chí máy hát CD đã
đưa Walkman vào viện bảo tàng lịch sử khoa học từ Nhu cầu máy hát cassette ở Nhật hiện nay chỉ hạn chế
lâu rồi. với một số ít người dùng lớn tuổi.
Theo một nữ phát ngôn viên của hãng, Sony đã ngừng Sony sẽ tiếp tục sản xuất máy cassette Walkman ở
sản xuất máy hát nhạc di động kiểu băng cassette ở Trung Quốc để cung cấp cho người dùng nước ngoài,
Nhật Bản hồi tháng 4 rồi và sẽ bán hết số máy còn bao gồm Mĩ, châu Âu và một số nước châu Á. Nhãn
trong kho. Kể từ lần ra mắt đầu tiên của sản phẩm vào hiệu Walkman tiếp tục được giữ lại là một phần trong
tháng 7 năm 1979, Sony đã bán ra 220 triệu máy hát chiến lược phát triển thị trường điện thoại di động của
Walkman trên thị trường toàn cầu. hãng.
Là một dụng cụ được chế tạo lần đầu tiên vào năm Hồi đầu năm nay, Sony cũng đã tuyên bố ngừng sản
1978 bởi người kĩ sư hãng Sony, Nobutoshi Kihara, xuất đĩa mềm 3,5 inch.
cho đồng chủ tịch hãng Sony Akio Morita, người
muốn có thể nghe nhạc opera trong những chuyến bay Nguồn: AFP, PhysOrg.com
xuyên Thái Bình Dương thường xuyên của mình.
Hai tuần trước, Salazar đã phê duyệt nhà máy sản xuất
tháp gió lớn nhất thế giới trong khu công nghiệp
Pueblo, Colorado, nhà máy do công ti Đan Mạch
Cánh đồng mặt trời phát điện ở Chicago, Illinois. Vestas Wind Systems quản lí.
“Nhà máy điện mặt trời Blythe sẽ gồm bốn nhà máy Hồi đầu tuần trước, Salazar cũng vừa kí giấy phép cho
250 MW, xây dựng trên những ốc đảo nằm trong sa cánh đồng năng lượng gió lớn đầu tiên ở ngoài khơi
mạc Mojave rực nắng”, Thư kí Bộ Nội vụ Ken Salazar bang New Jersey.
cho biết.
Nguồn: AFP, PhysOrg.com
“Khi hoàn thành, dự án sẽ phát ra đến 1000 MW năng
lượng... Điện năng đó đủ để cấp cho 750.000 hộ dân
trung bình ở Mĩ và biến Blythe thành cơ sở điện mặt
trời lớn nhất thế giới”.
“In là một phần quan trọng của quá trình trên”, Rogers
nói. “Chúng tôi đã phát triển kĩ thuật đó đến một mức
độ tinh vi rất cao, và hiện nay chúng tôi đã thu được
Ma trận kết hợp gồm các LED và các bộ dò quang tạo thành
hiệu quả hơn 99% và độ chính xác khoảng một
găng tay có thể cho bạn biết đầu ngón tay của bạn đang chạm micron”.
gần bao nhiêu so với vật tiếp xúc. Nói chung, các dụng cụ như
thế cho phép các bộ cảm biến cự li làm việc trong nước muối, Trong khi các chất hữu cơ phát quang có thể về căn
nước xà phòng, và thủy dịch trong cơ thể sinh vật. (Ảnh: John bản làm đơn giản hóa quá trình chế tạo LED trên một
Rogers)
chất nền dẻo, nhưng các chất hữu cơ có những nhược
điểm khác nữa. “Độ sáng của chúng không thể sánh
Các diode phát quang – hay LED – đã được ứng dụng
với các LED vô cơ, và việc gói gọn chúng để tránh
trong đèn tín hiệu giao thông, màn hình ti vi và các
phô ra trước các mức độ ẩm và oxygen là cực kì khó
bóng đèn hết sức hiệu quả năng lượng. Và có thể
khăn”, Rogers giải thích.
chẳng bao lâu nữa nó còn được dùng trong các công
nghệ y khoa như làm găng tay cảm biến cự li, chỉ phẫu
thuật và các máy theo dõi dòng tĩnh mạch, nhờ sự nỗ
lực của đội nghiên cứu quốc tế, đứng đầu là John
Rogers ở trường đại học Illinois, Urbana Champaign.
Giống như việc sản xuất LED thông thường, việc chế
tạo dụng cụ bắt đầu bằng cách cho lắng một chồng
gồm các lớp hợp chất bán dẫn lên trên một chất nền.
Các lớp dưới và trên, tương ứng, có sự dư thừa và
thiếu electron, và kẹp giữa chúng là một lớp chỉ dày
vài nano mét, gọi là một giếng lượng tử. Khi thiết lập
một điện áp trên toàn bộ cấu trúc, các electron và các
đối tác dương của chúng, gọi là các lỗ trống, bị lái vào
giếng, tại đó chúng kết hợp với nhau để phát ra ánh
sáng.
Ánh sáng phát ra từ một ma trận 6x6 LED không bị ảnh hưởng
bởi sự kéo căng xung quanh một ngòi bút chì. (Ảnh: John Rogers)
Các nhà vật lí cho rằng “hiệu ứng điện-từ tô pô” – nhờ
đó một điện trường có thể cảm ứng một sự phân cực
từ và một từ trường có thể cảm ứng một sự phân cực
Hằng số cấu trúc tinh tế có thể xác định bằng cách đo góc quay
Kerr (ΘK) và góc quay Faraday (ΘF) trong một chất cách điện tô điện – có thể xảy ra trong một số chất liệu tô pô học.
pô (lớp màu xanh lá cây). (Ảnh: Hội Vật lí Hoa Kì) Ngoài ra, cơ sở tô pô học của hiệu ứng cũng đồng
nghĩa là phản ứng của chất liệu trước các trường điện
Một họ vật liệu mới khám phá ra gọi là “chất cách từ đặt vào bị lượng tử hóa theo đơn vị của α.
điện tô pô” có thể giúp các nhà vật lí thu được những
phương pháp mới để xác định ba hằng số vật lí cơ bản Làm quay ánh sáng tới
– tốc độ ánh sáng (c); điện tích của proton (e); và hằng
số Planck (h). Đó là khẳng định của một đội gồm các Để đo hiệu ứng trên, Zhang và các đồng nghiệp đề
nhà vật lí ở Mĩ, họ vừa đề xuất một thí nghiệm mới để xuất một thí nghiệm, theo đó ánh sáng được chiếu lên
đi hằng số cấu trúc tinh tế (α), đó là một hàm của h, c một màng mỏng chất cách điện tô pô và đo lấy các góc
và e, bằng cách cho ánh sáng tán xạ từ một chất liệu quay Kerr và Faraday. Góc quay Kerr là sự dịch
như thế. Các chất cách điện tô pô khác thường ở chỗ chuyển hướng phân cực của ánh sáng phản xạ so với
dòng điện chảy tốt trên bề mặt của chúng, nhưng sự phân cực của ánh sáng tới. Góc quay Faraday là sự
không chảy qua lòng khối chất của chúng. dịch chuyển hướng phân cực của ánh sáng truyền qua.
Phép đo mới do Shou-Cheng Zhang cùng các đồng Cả hai hiệu ứng đều liên quan đến sự tương tác giữa
nghiệp tại trường đại học Stanford và các nhà nghiên ánh sáng và vật chất trong sự có mặt của từ trường.
cứu tại trường đại học California ở Santa Barbara và Các nhà vật lí đã suy luận ra một công thức đề xuất
đại học Maryland đề xuất. Mặc dù có nhiều phương rằng trong một chất cách điện tô pô, một kết hợp nhất
pháp khác xác định α, nhưng kĩ thuật của họ là định của các góc quay Kerr và góc quay Faraday bị
phương pháp duy nhất liên quan đến việc đo lường lượng tử hóa theo những bội số nguyên của hằng số
một hiện tượng được lượng tử hóa theo đơn vị của α. cấu trúc tinh tế.
Trên nguyên tắc, điều này có nghĩa là nó có thể mang
lại một định nghĩa đo lường rất chính xác của α. Bước tiếp theo là thử đi đo hiệu ứng này – và Zhang
cho biết ba phòng thí nghiệm độc lập hiện đang thử đo
Một phương pháp mới xác định h, c và e khi đó có thể hiệu ứng trong các chất liệu thực tế.
thu được bằng cách kết hợp giá trị của α với số đo
lượng tử từ thông và lượng tử độ dẫn điện trong các Công trình công bố trên tạp chí Phys. Rev. Lett. 105
chất, cả hai đều phụ thuộc vào h và e. 166803.
Đội nghiên cứu cũng nhận được thêm 100.000 USD từ Họ viết: “Một hành trình một chiều có người lái lên
phía NASA. Hỏa tinh sẽ không là một dự án có thời hạn cố định
như trong chương trình Apollo, mà bước đầu tiên là
xác lập sự có mặt vĩnh viễn của con người trên hành
tinh đỏ”.
Ảnh minh họa căn cứ Hỏa tinh, nơi các nhà du hành sẽ phải học
cách tự tồn tại.
Và ông cho biết ông tin rằng sứ mệnh này sẽ đến thăm
các vệ tinh của Hỏa tinh trước, ở đó các nhà khoa học
có thể tiến hành thám hiểm hành tinh đỏ với công
nghệ rô bôt từ xa. Ông khẳng định con người có thể
đặt chân lên các vệ tinh của Hỏa tinh vào năm 2030.
Viết trên tạp chí Vũ trụ học, các nhà khoa học Dirk
Schulze-Makuch và Paul Davies cho biết viễn cảnh Ảnh minh họa Phi thuyền Bách niên, phi thuyền sẽ mang các nhà
du hành đi chinh phục những hành tinh khác.
Các nhà khoa học thừa nhận rằng một sứ mệnh khoa
học như vậy có thể vấp phải sự phản đối của công
chúng, vì người ta sẽ nghĩ rằng các nhà tiên phong
chinh phục sao Hỏa là bị bỏ rơi hoặc bị tế thân cho
khoa học.
Xe tự hành thám hiểm sao Hỏa, Spirit của NASA, làm việc trên Khi chúng tôi dịch bài này, trên trang chủ của tạp chí
bề mặt hành tinh đỏ. Một ngày nào đó, loài người sẽ có thể làm Daily Mail, số người đồng ý liều lĩnh cho một chuyến
việc cùng với các thiết bị thăm dò rô bôt như thế này. đi quả cảm lên Hỏa tinh chỉ chiếm có 33%. Còn bạn,
bạn có sẵn sàng cho một chuyến đi một đi không trở
Tuy nhiên, để đạt tới mục tiêu đó, không chỉ đòi hỏi lại như vậy hay không?
sự hợp tác quốc tế, mà còn cần đến tinh thần thám
hiểm và đương đầu với rủi ro, thách thức của những Nguồn: Daily Mail
Các nhà vật lí đặc biệt quan tâm đến cái xảy ra với
một xung ánh sáng khi nó truyền qua một ma trận như
thế ở những vận tốc khác nhau ttrong sự có mặt của
một khiếm khuyết. Nếu ánh sáng bị tán xạ bởi chỗ
khiếm khuyết, thì có nghĩa là quá trình tiêu hao năng
lượng đã xảy ra. Nếu các xung ánh sáng đi qua chỗ
Những hình ảnh cho thấy sự khác biệt giữa chế độ siêu chảy khiếm khuyết mà không thay đổi hình dạng của nó
(trái) của ánh sáng và chế độ xoáy (phải), xảy ra ở trên vận tốc (tức là không bị mất tính kết hợp), thì không có sự tiêu
ngưỡng. Ảnh: Leboeuf và Moulieras. hao năng lượng và ánh sáng đó có chuyển động siêu
chảy. Qua các tính toán của họ, các nhà vật lí trên đã
Trong nghiên cứu mới của họ công bố trên một số ra chứng minh rằng, đối với những vận tốc thấp nhất
mới đây của tạp chí Physical Review Letters, Patricio định, chuyển động ngang của ánh sáng là siêu chảy
Leboeuf và Simon Moulieras ở trường đại học Paris- với sự tiêu hao bằng zero. Khi vận tốc tăng lên, các
Sub và CNRS giải thích rằng sự siêu chảy là khả năng quá trình tiêu hao xảy ra làm hỏng mất tính kết hợp
của một chất lỏng chuyển động mà không bị cản trở, của các dao động của ánh sáng, và sự siêu chảy bị phá
hay độ nhớt zero. Một chất lỏng hành xử giống như vỡ.
một chất siêu chảy chỉ dưới một vận tốc tới hạn nhất
định; ở trên vận tốc tới hạn này, sự siêu chảy biến mất. Trong tương lai, các nhà vật lí trên dự tính nghiên cứu
Được chứng minh thông dụng nhất ở helium lỏng, sự thêm nữa các chi tiết cụ thể của ánh sáng siêu chảy, thí
siêu chảy xảy ra khi helim bị làm lạnh và một số dụ như nó có quan hệ như thế nào với một lí thuyết
nguyên tử helium đã đạt tới năng lượng khả dĩ thấp lượng tử cơ bản của ánh sáng và nó liên quan như thế
nhất của chúng. Tại đây, các hàm sóng lượng tử của nào với ngưng tụ Bose-Einstein. Họ dự báo rằng
những nguyên tử này bắt đầu chồng chất nên chúng chuyển động siêu chảy là một tính chất chung của ánh
tạo thành một ngưng tụ Bose-Einstein, trong đó tất cả sáng tồn tại trong nhiều kịch bản đa dạng, và nó không
các nguyên tử hành xử như một nguyên tử lớn vậy, và bị hạn chế với ma trận bộ điều sóng đã đề xuất ở đây.
bản chất lượng tử của chúng hiển hiện ở cấp độ vĩ mô. Ánh sáng siêu chảy có thể còn có các ứng dụng trong
sự tối ưu hóa sự truyền ánh sáng.
Trước đây, các nghiên cứu về chuyển động siêu chảy
của ánh sáng không làm sáng tỏ bằng chứng rõ ràng “Một ứng dụng dễ thấy liên quan với sự truyền tín
nào của sự tồn tại của một vận tốc tới hạn siêu chảy. hiệu trong sự có mặt của sự nhiễu”, Leboeuf nói. “Một
Mặc dù một số thí nghiệm gần đây đã quan sát thấy sự
Hệ SI mới sẽ định rõ giá trị thống nhất chung của bảy hằng
số, theo các kết quả của một phân tích mới công bố bởi
CODATA (Ủy ban Dữ liệu Khoa học và Công nghệ) của
mọi dữ liệu có liên quan. Các giá trị cố định của các hằng
số khi đó sẽ xác định mọi đơn vị cơ bản. Thí dụ, ampere sẽ
được định nghĩa chính thức theo điện tích của một proton,
kelvin (nhiệt độ) được định nghĩa theo hằng số Boltzmann,
và mol theo hằng số Avogadro.Tuy nhiên, trước khi hệ SI
hiệu chỉnh hoàn thiện, cần có thêm các thí nghiệm để thu
được các giá chính xác hơn cho một số hằng số, đặc biệt là
các hằng số Planck, Avogadro và Boltzmann.
Trong hệ SI hiện nay, không chỉ đơn vị của khối lượng Nguồn: NIST, PhysOrg.com
mới phụ thuộc vào kilogram. Các định nghĩa của
Mặc dù thoạt nhìn trông chúng thật khéo léo và to tát, nhưng đa số các ý tưởng khoa học mới lạ
hóa ra là sai lầm. Nhưng trong vài trường hợp lại xảy ra điều ngược lại. Khi lần đầu tiên được đề
xuất, chúng hóa ra không những đúng mà còn làm chuyển biến thế giới. Trong một thời đại khi
mà sự tài trợ cho nghiên cứu không dễ gì kiếm được, 10 ý tưởng này đóng vai trò một sự nhắc nhở
kịp lúc về giá trị của khoa học thuần túy không chỉ theo nghĩa làm thỏa mãn trí tò mò của chúng
ta, mà cuối cùng còn vì những ứng dụng thực tiễn vô tận của nó.
Ý tưởng đúng nằm trong tay kẻ lừa gạt? (Ảnh: Paul Hobson/FLPA)
Kammerer đã không được biết tới với các thí nghiệm của ông về con cóc bà mụ, Alytes obstetricans (xem
ảnh), một loài lưỡng cư bất thường bắt cặp và đẻ trứng trên đất khô. Bằng cách giữ các con cóc trong điều kiện khô,
nóng bất thường, ông buộc chúng giao phối và để trứng trong nước. Chỉ một vài quả trứng nở con, nhưng con cái của
những cuộc hôn nhân dưới nước này cũng gây giống trong nước. Kammerer kết luận đây là bằng chứng của sự di
truyền Lamacrk – quan điểm (ngày nay được biết là không đúng) rằng các đặc điểm cần thiết trong quãng đời của
một cá nhân có thể di truyền cho con cái của nó.
Tháng 8 năm 1926, Kammereer bị chỉ trích là gian lận trên các trang báo Nature (Vol 118, trang 518). Sáu
tuần sau đó, ông đã tự sát. Câu chuyện buồn phần lớn bị quên lãng cho đến năm 1971, khi Arthur Koestler cho xuất
bản một tập sách khẳng định rằng các thí nghiệm của nhà sinh học trên có thể đã bị can thiệp bởi chính quyền phát
xít. Kammerer là một người theo chủ nghĩa xã hội, ông dự tính xây dựng một học viện ở Liên Xô, khiến ông trở
thành mục tiêu của phong trào quốc xã đang phát triển ở Vienna khi ấy.
Rồi vào năm ngoái, nhà sinh học Alex Vargas thuộc trường Đại học Chile ở Santiago đã xem xét lại công
trình của Kammerer. Theo Vargas, Kammerer không phải là kẻ gian lận, mà ông đã tình cờ phát hiện ra sự biểu sinh
(Journal of Experimental Zoology B, vol 312, trang 667). “Kammerer có phương pháp tiếp cận đúng”, Vargas nói,
ông hi vọng rằng các thí nghiệm con cóc một ngày nào đó sẽ được lặp lại.
Ngày nay, chúng ta biết rằng các kiểu di truyền thuộc loại mà Kammerer khẳng định đã quan sát thấy có thể
là do sự biểu sinh. Quá trình này là trọng tâm nghiên cứu của sinh học phân tử, và vô số loại thuốc hoạt động trên nó
đã được phát triển. Nó đã được khám phá bất kể đến Kammerer – nhưng có lẽ chúng ta sẽ không phải chờ đợi những
loại thuốc đó lâu như vậy nếu như ông đã được lịch sử nhìn nhận nghiêm túc.
Tương lai kĩ thuật số có từ quá khứ lâu rồi (Ảnh: Steve Horrell/SPL)
Mặc dù vào lúc ấy, ông đã không nhận ra nó, nhưng năm 1937, kĩ sư người Anh Alec Reeves đã thiết lập nền
tảng cho các mạng viễn thông kĩ thuật số hiện đại. Van điều khiển (ống chân không) khi ấy đang ở trong thời kì
hoàng kim của nó, các máy vi tính kĩ thuật số vẫn còn là tương lai nhiều năm phía trước, và transistor thì một thập
niên nữa mới ra đời.
Năm 1927, những cuộc gọi điện thoại thương mại xuyên đại dương đã có thể thực hiện bằng các máy điện
thoại vô tuyến. Vào đầu những năm 1930, Reeves đã giúp phát triển các radio cao tần có thể mang tải vài cuộc gọi
cùng lúc, nhưng những cuộc gọi này chồng chất với nhau, tạo ra một tín hiệu nhiễu khó hiểu.
Khi ấy, Reeves nhận ra rằng việc biến đổi những biểu diễn dạng tương tự này của giọng nói thành một chuỗi
xung kiểu như điện báo có thể tránh được sự chồng chất rắc rối đó. Ông đã thiết kế các mạch điện để đo cường độ
của giọng nói của từng người 8000 lần trong một giây và gán cho cường độ tín hiệu đó là một trong 32 mức. Mỗi
mức khi đó được biểu diễn bằng một chuỗi năm chữ số nhị phân. Miễn là máy thu có thể phân biệt chuỗi nhị phân 1
với chuỗi nhị phân 0, thì nó có thể biến đổi chuỗi xung trở lại thành giọng nói.
Đó là trên lí thuyết. “Khi ấy, chẳng có công cụ nào có sẵn có thể biến nó thành sản phẩm kinh tế”, ông đã viết
như vậy hơn 25 năm sau này. Công ti chủ quản của ông, ITT, đã đăng kí bằng sáng chế điều biến mã xung, nhưng
chưa bao giờ kiếm được một xu nào trước khi bằng phát minh đó hết hiệu lực vào thập niên 1950.
Reeves là người có tầm nhìn xa trông rộng, ông thường nói: “Những điều tôi nói sắp xảy ra thì thường là đúng,
nhưng tôi chưa bao giờ nói đúng chính xác là khi nào cả”. Có lẽ ông nghĩ ông thật sự nhìn thấy tương lai. Ông đã
nghiên cứu tâm linh học và tin rằng ông đang cảm nhận các tín hiệu ở dạng mã Morse gửi đến từ những thế giới
khác.
Các nhà điều hành ITT cuối cùng đã bố trí ông vào chức danh nghiên cứu mạo hiểm tại Phòng thí nghiệm
Chuẩn Viễn thông ở Harlow, Essex. Trong vai trò đó, ông đã lập một nhóm để nghiên cứu công nghệ truyền thông
bằng laser, và nhiệt tình ủng hộ cho công trình nghiên cứu do Charles Kao lãnh đạo, cái đã mang đến mạng lưới cáp
quang mang tải các tín hiệu ánh sáng điều biến mã xung đi khắp thế giới ngày nay.
Nguồn: New Scientist
Trong bản tin có sử dụng hình ảnh và các bài dịch từ các tạp chí nổi tiếng
Physics World, Nature Physics, New Scientist, cùng một số tạp chí khác.
73