Professional Documents
Culture Documents
Chuyên Đề Văn Hóa Ứng Xử Với Phap Luật...
Chuyên Đề Văn Hóa Ứng Xử Với Phap Luật...
1.3.1.Thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay - bức tranh xám màu.84
1.3.2. Các nguyên nhân trực tiếp.......................................................................85
CHƯƠNG 2: SỰ TÁC ĐỘNG CỦA VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG ĐẾN
VĂN HÓA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY.................................................88
2.1. Sự tác động của văn hóa nông nghiệp lúa nước.................................................90
3.1.1. Thanh lọc, tẩy trừ những tiêu cực, lạc hậu của văn hóa truyền thống...122
3.1.1.1. Thay đổi tư duy tiểu nông tùy tiện, chủ quan, cảm tính..................122
3.1.1.2. Thay đổi thói quen ứng xử của văn hóa làng ..................................122
3.1.2. Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại..........................................................125
3.1.2.1. Tạo điều kiện cho sự phát triển ý thức về quyền cá nhân................125
3.1.2.2. Xây dựng ý thức và thói quen sử dụng pháp luật............................126
3.2. Các giải pháp cụ thể và cấp bách.........................................................................127
3.2.1.Xử lý nghiêm minh, triệt để và kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật.127
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và các thiết chế thực thi pháp luật.......128
3.2.3. Đào tạo nguồn nhân lực ngành Luật vừa hồng vừa chuyên…….…….130
3.2.4. Nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật của nhân dân…….....….……….131
KẾT LUẬN………………………………….………………………….…....132
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đặt chúng ta trước nhiều mục tiêu
và nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, trong đó có mục tiêu xây dựng nhà nước pháp
quyền, lấy pháp luật làm nền tảng điều tiết các hành vi cá nhân và các quan hệ xã
hội, hướng đến một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, những năm gần
đây, Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật,
cùng với việc tuyên truyền, phổ biến để pháp luật đi vào đời sống, nhằm từng
bước hình thành nếp sống và thói quen hành xử tôn trọng pháp luật. Nhưng thực
tế cho thấy, văn hóa ứng xử với pháp luật trong xã hội ta hiện nay còn nhiều tiêu
cực, biểu hiện từ các hành vi ứng xử với pháp luật của mỗi cá nhân trong đời
sống hàng ngày cho đến trình độ vận dụng công cụ pháp luật của Nhà nước trong
quản lí xã hội cũng như việc thực thi pháp luật trong thực tế… Hệ quả là, thói
quen không tuân thủ pháp luật, coi thường pháp luật, lách luật, lối ứng xử tùy tiện
với pháp luật… đang tồn tại và biểu hiện rất phổ biến, không chỉ với dân thường
mà ngay cả đối với những cán bộ, công chức trong các cơ quan công quyền; thậm
chí, cả với những người đang nắm giữ cán cân công lý của xã hội. Theo đó là sự
gia tăng đến mức báo động các loại tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật.
Những biểu hiện xuống cấp và suy thoái đạo đức, đặc biệt là “ở một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền” đang là
nỗi bất bình của toàn xã hội. Thực trạng ấy đang từng ngày làm ô nhiễm bầu
không khí tinh thần của xã hội, làm suy giảm đáng kể lòng tin của người dân đối
với tính nghiêm minh của pháp luật, dẫn đến coi thường kỉ cương phép nước. Đó
cũng chính là những biểu hiện của một đời sống văn hóa pháp luật không lành
mạnh, một thái độ ứng xử văn hóa không thượng tôn pháp luật.
1.2. Trong bối cảnh xã hội mà sự vi phạm pháp luật trở nên phổ biến và đáng
báo động như hiện nay, nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
càng đặt ra cấp bách và khẩn thiết hơn bao giờ hết. Trong nhiều bước đi và giải
pháp có tính chiến lược và đồng bộ, cần phải coi việc xây dựng một nền văn hóa
pháp luật tích cực, lành mạnh như một nhiệm vụ có tính nền tảng cần được đưa
lên vị trí ưu tiên trong chiến lược phát triển. Văn hóa pháp luật vừa là một lĩnh
vực biểu hiện của văn hóa xã hội, nhưng cũng đồng thời là sản phẩm của văn hóa
xã hội, chịu sự tác động của các yếu tố xã hội như phương thức sản xuất, các hệ
tư tưởng, văn hóa, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán… Sự hình thành văn
hóa pháp luật của một quốc gia, do vậy, không thể không bị chi phối bởi những
đặc trưng văn hóa truyền thống.Nói cách khác, quá trình hình thành nên một nền
văn hoá pháp luật cũng như thái độ của con người trong việc sử dụng pháp luật
đều có thể tìm thấy nguyên nhân sâu xa trong tập quán sản xuất, nếp sống và
những thói quen sinh hoạt…
Việt Nam là một quốc gia đã có lịch sử cả ngàn năm tồn tại và phát triển trên
nền tảng của phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước tiểu nông và tư tưởng
Nho giáo, nơi mà các chuẩn mực điều chỉnh hành vi của xã hội dựa trên cơ sở
của luật tục hơn là luật pháp, đạo lý hơn là pháp lý, nay chuyển sang công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và xây dựng nền kinh tế thị trường. Đây chính là một lực cản
rất lớn trong quá trình hội nhập, phát triển kinh tế và cao hơn là xây dựng một
nhà nước pháp quyền.Bởi vậy, việc nhận diện văn hóa pháp luật Việt Nam hiện
nay nếu không chỉ ra được những căn nguyên sâu xa từ nền tảng văn hóa truyền
thống đứng sau những hiện tượng tiêu cực trong những hành vi ứng xử với pháp
luật thì khó có thể tìm ra những giải pháp có tính chiến lược để xây dựng một nền
văn hóa pháp luật Việt Nam tích cực, lành mạnh, tạo nền tảng để thực hiện thành
công công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
1.3. Nếu văn hóa được coi là nền tảng, là nội lực của sự phát triển thì văn hóa
pháp luật là nền tảng, là nội lực để thực hiện thành công công cuộc xây dựng nhà
nước pháp quyền trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập toàn
cầu hóa ở nước ta hiện nay. Để mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước
ta được thực hiện thành công, việc xây dựng, tạo lập một nền tảng văn hóa pháp
luật lành mạnh và tích cực đang được đặt ra như một nhiệm vụ cấp thiết. Một
trong những giải pháp có tính nền tảng để thực hiện mục tiêu đó, theo chúng tôi,
phải bắt đầu từ việc giáo dục, trang bị những kiến thức về văn hóa ứng xử với
pháp luật, trước hết cho chính những người hoạt động trong ngành pháp luật, bởi
họ không chỉ có vai trò làm gương, đại diện cho văn hóa ứng xử tích cực đối với
pháp luật, mà quan trọng hơn, họ còn có sứ mệnh “hướng đạo” trong việc xây
dựng một nền văn hóa pháp luật lành mạnh, tích cực trong điều kiện và hoàn
cảnh của nước ta hiện nay. Bởi vậy, trong nhiệm vụ và mục tiêu đào tạo của
trường Đại học Luật, cùng với việc truyền thụ kiến thức pháp lý, không nên, và
không thể coi nhẹ việc giáo dục tình cảm, đạo lý và thái độ ứng xử nhân văn ngay
trong môi trường điều chỉnh của phápluật, bởi lẽ, việc nắm vững và áp dụng đúng
các điều luật không hoàn toàn đồng nghĩa với việc hành xử một cách có văn hóa
với pháp luật.
Với tất cả những lý do đó, chúng tôi thực hiện đề tài này với mục đích trước
hết, và trực tiếp nhất, là trang bị cho sinh viên ngành Luật những kiến thức về
văn hóa ứng xử với pháp luật, giúp họ ý thức được mối quan hệ bản chất giữa
văn hóa với pháp luậtvà lý giải được thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện
naytừ những căn nguyên sâu xa của nền tảng văn hóa truyền thống. Trên cơ sở
đóđể khi ra trường họ biết cách hành xử có văn hóa trong nghề nghiệp, có ý thức
và trách nhiệm trong việc xây dựng một xã hội có nền văn hóa pháp luật tích cực,
lành mạnh để hội nhập và phát triển.
2. Lịch sử vấn đề
Những năm gần đây, khi nhân loại ngày càng ý thức sâu sắc hơn về vai trò
của văn hóa với tư cách là nền tảng của sự phát triển thì các nghiên cứu về văn
hóa đang trở thành một vấn đề được quan tâm đặc biệt. Trong xu thế chung ấy, ở
nước ta, trong hơn một thập niên trở lại đây, việc nghiên cứu văn hóa đã không
chỉ dừng lại ở những nghiên cứu cơ bản như: bản chất của văn hóa, cấu trúc, vai
trò và chức năng của văn hóa, tác động của văn hóa đối với các lĩnh vực của đời
sống xã hội… mà đang có xu hướng ngày càng đi vào chuyên sâu, gắn với các
lĩnh vực ứng dụng thực tiễn như: văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa
thẩm mỹ, văn hóa du lịch, văn hóa kinh doanh… Trong đó, văn hóa pháp luật
cũng là một lĩnh vực nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn cao, thu hút được sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Cho đến nay, đã có khá nhiều hội thảo và công
trình nghiên cứu về văn hóa pháp luật đã được thực hiện và công bố như: Xây
dựng ý thức và lối sống theo pháp luật [60]; Văn hóa pháp luật [48]; Văn hóa tư
pháp [53]; Văn hóa pháp lý với sự nghiệp đổi mới ở nước ta [15]; Xây dựng nhà
nước pháp quyền trong bối cảnh văn hóa Việt Nam [47]; Văn hóa pháp lý Việt
Nam [56].Ngoài ra còn có những bài báo, những cuốn sách chuyên khảo, những
hội thảo khoa học dù không trực tiếp đặt vấn đề nghiên cứu văn hóa pháp luật
như một đối tượng khảo sát độc lập nhưng cũng đã đề cập đến những khía cạnh,
đưa ra những cứ liệu đánh giá về thực trạng của đời sống pháp luật ở nước ta hiện
nay như: vấn đề thực thi pháp luật, hiệu quả của pháp luật, vấn đề giáo dục ý thức
tuân thủ pháp luật,…
Các nghiên cứu trên đây, ở những mức độ khác nhau đã hướng sự quan tâm
vào các vấn đề:
1. Chỉ ra thực trạng và lý giải nguyên nhân trực tiếp tạo nên thái độ ứng xử
với pháp luật trong xã hội ta hiện nay.
2. Phân tích vai trò của việc xây dựng ý thức tôn trọng pháp luật trong công
cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền.
3. Đề xuất các giải pháp để xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật ở
nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, trong số các công trình nghiên cứu trên đây chưa có công trình
nào khảo sát cụ thể về thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay dựa trên
tư liệu là các bài báo được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng
trong khoảng thời gian 3 năm lại nay. Cũng chưa có công trình nào đi sâu nghiên
cứu và lý giải nguyên nhân của thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay
từ sự chi phối của văn hóa truyền thốngnhư một đối tượng nghiên cứu độc lập.
Bởi vậy, đề tài nghiên cứu này sẽ bổ sung thêm những vấn đề nghiên cứu mà
những người đi trước còn bỏ ngỏ, đó là:
- Khảo sát để nhận diện thực trạng tiêu cực của văn hóa pháp luật Việt Nam
hiện nay dựa trên các cứ liệu là những bài báo được đăng tải trên các phương tiện
thông tin báo chí (những tờ báo có uy tín) trong khoảng 3 năm gần đây.
- Nghiên cứu sự tác động, chi phối của các đặc trưng văn hóa truyền thống
đến văn hóa pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vinghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: nhận diện thực trạng tiêu cực trong văn
hóa pháp luậtở Việt Nam hiện nay và lý giải nguyên nhân từ sự chi phối của các
đặc trưng văn hóa truyền thống.
- Giới hạn phạm vi khảo sát thực trạng là những bài báo được đăng tải trên
các tờ báo có uy tín viết về những biểu hiện tiêu cực trong văn hóa ứng xử với
pháp luậttrong thời gian 4 năm trở lại đây.
4. Nhiệm vụ của đề tài
4.1. Chỉ ra và phân tích thực trạng tiêu cực của văn hóa pháp luật ở Việt Nam
hiện nay.
4.2. Lý giải nguyên nhân từ sự chi phối của nền tảng văn hóa truyền thống.
4.3. Từ góc nhìn văn hóa để đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao văn hóa pháp
luật trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên
cứu chủ yếu sau đây:
5.1.Phương pháp thống kê, phân loại:
Để nhận diện thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay, chúng tôi đã sử
dụng phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại trên nguồn cứ liệu là các bài
báođược đăng tải trên các tờ báo in và báo điện tử có uy tín trong khoảng 3 năm
lại nay.Trong số gần 400 bài báoliên quan đến văn hóa ứng xử với pháp luật đã
được sưu tầm, thống kê,chúng tôi đã lựa chọn hơn 200 bài để khảo sát và phân
loại theo các lĩnh vực là những điểm nóng gây nhiều bức xúc trong dư luận, đó
là:
a) Hành vi ứng xử với pháp luật:vi phạm trong lĩnh vực giao thông; trong
quản lý xây dựng; bảo vệ môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm; bạo lực và
“luật rừng” (ở cả hai phía: người dân và công chức trong các cơ quan công
quyền).
b) Hệ thống pháp luật và các thiết chế pháp luật: hệ thốngvăn bản pháp luật;
chất lượng nguồn nhân lực của các cơ quan bảo vệ và thực thi pháp luật; tính hiệu
lực của các thiết chế pháp luật.
5.2. Phương pháp đồng đại: được sử dụng để phân tích, lý giải các nguyên nhân
xã hội đang chi phối đến văn hóa ứng xử với pháp luật của xã hội ta hiện nay.
5.3.Phương pháp lịch đại: được sử dụng để nghiên cứu sự chi phối của các đặc
trưng văn hóa truyền thống đến văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay.
5.4.Phương pháp phân tích, so sánh: được dùng để mổ xẻ, soi xét các nguyên
nhântrực tiếp và gián tiếp chi phối đến các hành vi pháp luậttừ nhiều phía, nhiều
chiều.
5.5. Phương pháp hệ thống: được sử dụng để liên kết, xâu chuỗi các yếu tố trong
sự chi phối, liên đới lẫn nhau trong cả hai tương quan đồng đại và lịch đại.
6. Dự kiến sản phẩm nghiên cứu của đề tài và khả năng ứng dụng
6.1. Đối với nhiệm vụ đào tạo chuyên ngành Luật: sản phẩm nghiên cứu sau khi
nghiệm thu đề nghị được chỉnh lý, bổ sung thành một chương trong nội dung
môn Đại cương văn hóa Việt Nam để giảng dạy cho sinh viên hệ đào tạo cử nhân
Luật. Qua đó để:
6.1.1. Tạo sự gắn kết giữa một môn học thuộc khối kiến thức cơ sở ngành
với kiến thức chuyên ngành Luật, để việc giảng dạy môn Đại cương Văn hóa
Việt Nam thể hiện đặc thù riêng của trường Luật, qua đó nhằm nâng cao tính ứng
dụng thực tiễn của môn học.
6.1.2. Bổ sung thêm những kiến thức về văn hóa pháp luật – một mảng
kiến thức rất cần thiết trong việc hành nghề Luật, nhưng hiện chưa được giảng
dạy trong chương trình đào tạo cử nhân Luật, cụ thể là:
-Trang bị cho sinh viên những tri thức về văn hóa ứng xử với pháp luật
cũng như ý thức một cách sâu sắc về vai trò của văn hóa pháp luật trong việc xây
dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
-Nhận diện được thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay và lý giải
được những căn nguyên của thực trạng ấy từ sự chi phối của các đặc trưng văn
hóa truyền thống, qua đó nhằm gắn kết những tri thức cơ sở ngành với các tri
thức chuyên ngành, giúp sinh viên biết vận dụng những kiến thức về văn hóa
Việt Nam vào việc lý giải những vấn đề trong thực tiễn ứng xử với pháp luật.
-Việc bổ sung những kiến thức về văn hóa pháp luật nhằm góp phần nâng
cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Luật một cách toàn diện, vừa
“hồng”, vừa “chuyên”, bởi những tri thức chuyên sâu về pháp luật không đồng
nghĩa với chất lượng văn hóa trong thái độ ứng xử với pháp luật. Việc giáo dục
văn hóa ứng xử với pháp luật cho sinh viên Luật, vì vậy, trước hết để nâng cao
chất lượng văn hóa trong hành xử pháp lý cho những người hành nghề luật, để họ
góp phần tích cực vào việc xây dựng một xã hội có nền văn hóa pháp luật cao,
không chỉ bằng chính những hành vi mẫu mực của chính mình để “hướng đạo”,
nêu gương, mà quan trọng hơn, họ còn có khả năng phổ biến, giáo dục văn hóa
pháp luật cho nhiều người khác.
6.2. Đối với thực tiễn pháp luật:
Đề tài sau khi hoàn thành sẽ là tài liệu tham khảo cho các cơ quan chịu
trách nhiệm soạn thảo, ban hành các văn bản pháp luật và thực thi pháp luật cũng
như những ai quan tâm tìm hiểu về mối quan hệ giữa văn hóa với pháp luật và
thực trạng của văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay.
7. Cấu trúc của công trình nghiên cứu:
Cấu trúc của công trình nghiên cứu gồm phần mở đầu, phần kết luận và phần nội
dung gồm 3 chương:
Chương 1: Khái niệm văn hóa pháp luật và thực trạng văn hóa pháp luật Việt
Nam hiện nay
Chương 2: Sự tác động của văn hóa truyền thống đến văn hóa pháp luật Việt
Nam hiện nay
Chương 3: Các giải pháp để nâng cao văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay.
Cuối cùng là danh mục tài liệu tham khảo.
CHƯƠNG 1
KHÁI NIỆM VĂN HÓA PHÁP LUẬT
VÀ THỰC TRẠNG VĂN HÓA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
Mang trong mình những giá trị nhân loại, nhưngkhái niệm văn hóakhông tồn
tại nếu không gắn với một chủ thể (cá nhân/cộng đồng) xác định, bởi văn hóa là
sản phẩm của sự ứng xử của con người với một môi trường tự nhiên và xã hội cụ
thể. Trong quá trình tương tác với tự nhiên và xã hội,do nhu cầu tự nhiên để sinh
tồn, con người luôn vừa biếttận dụng những điều kiện thuận lợi, lại vừa biết ứng
phó để thích nghitrong những điều kiện bất lợi.Có thể nói, hành trình sống của
con người là một cuộc đấu tranh quyết liệtgiữa một bên là khát vọngvươn tới sự
hoàn thiệncác giá trị nhân văn,nhân bản (được tiêu chí hóa dựa trên các giá trị
Chân – Thiện – Mỹ) với một bên những nhu cầu bản năng, thực dụngcũng luôn
luôn thường trực. Do vậy, để thích nghi và ứng phó với những điều kiện tự nhiên
và xã hội cụ thể để sinh tồn,văn hóa của một dân tộc luôn bao gồm trong nó tính
hai mặt: tích cực và tiêu cực. Đặc biệt, khi những điều kiện xã hội đã thay đổi mà
những thói quen, lối sống, cách tư duy, ứng xử chưa thay đổi kịp để thích nghi
thì nó sẽ trở thành lực cản đối với sự phát triển, đó là khi nó bộc lộ mặt tiêu cực.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng thừa nhận rằng: Việt Nam có những truyền thống
tốt và cả những truyền thống xấu. Truyền thống tốt là những nét đẹp trong văn
hóa dân tộc, mặc dù nảy sinh trong quá khứ, nhưng hiện nay vẫn còn phù hợp với
chuẩn mực của đời sống xã hội và có tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển của
xã hội. Còn truyền thống xấu là những gì trong di sản văn hoá dân tộc đã trở nên
lạc hậu lỗi thời, không còn phù hợp,đã trở thành lực cản cho sự phát triển của dân
tộc. Truyền thống tốt và truyền thống xấu - hai mặt đối lập này tồn tại đan xen,
chồng chéo, gây những tác động đa chiều, đa diện đến đời sống xã hội. Bởi vậy,
đối với di sản văn hóa truyền thống cần phải có sự đánh giá theo quan điểm lịch
sử, cụ thể và biện chứng đểtránh một cái nhìn lý tưởng hóa, ca ngợi một chiều,
hay ngược lại,là thái độ phủ nhận truyền thống một cách cực đoan. Một cách nhìn
biện chứng về văn hóa truyền thống sẽ cho thấy, cùng một đặc trưng văn hóa
nhưng có thể được xem là tích cực hay tiêu cực tùy thuộc vào từng thời điểm lịch
sử, cụ thể, tùy thuộc vào từng góc nhìn khác nhau.
Nếu “tín nhi hiếu cổ” là tâm thức chung của người phương Đông, thích quay
về ngắm nghía những thành tựu huy hoàng của quá khứ thì người Việt cũng
không là một ngoại lệ. Chúng ta tự hào với những giá trị truyền thống của dân tộc
đã được kết tinh qua hàng ngàn năm lịch sử như lòng yêu nước, tinh thần đoàn
kết tương thân tương ái,ý chí tự lực tự cường, đức tính cần cù, sáng tạo, đức tính
lạc quan, lòng nhân ái, vị tha... Đó là niềm tự hào chính đáng và cần thiết. Song
cũng từ đây, ở nhiều người hình thành thói quen chỉ biết ca tụng một chiều về
“truyền thống tinh hoa”, “đạo lý tốt đẹp” để tự huyễn hoặc mình. Trước thách
thức của công cuộc hội nhập để phát triển, đã đến lúc chúng ta cần nhận thức về
các di sản của truyền thống một cách khách quan, toàn diện và thấu đáo hơn. Bản
lĩnh và sức sống của một dân tộc cũng được chứng tỏ ngay khi chúng ta dám nhìn
thẳng vào sự thật, biết dũng cảm để thừa nhận những nhược điểm, khiếm khuyết
của mình. Bởi “một dân tộc càng mạnh, càng vươn cao về mặt đạo đức, thì nó
càng dũng cảm nhìn vào những mặt non yếu và những thiếu sót của mình bấy
nhiêu. Một dân tộc yếu hèn hoặc già cỗi, tàn tạ đến mức không thể tiến lên được
nữa thì chỉ thích ca tụng mình và chúa sợ nhìn vào những vết thương của mình,
vì nó biết rằng đó là những vết tử thương, rằng thực tại của nó không phải là một
cái gì phấn khởi, rằng nó chỉ có thể tìm thấy những niềm an ủi giả dối trong sự
đánh lừa mình thôi. Một dân tộc vĩ đại, đầy sức sống không như vậy được”.
(Bielinski, dẫn theo: Lê Sơn, Tiếng cười của một trái tim nổi giận, tạp chí Văn
học, số 3/1976). Trên tinh thần ấy, GS Trần Quốc Vượng đề nghị “cho phép
chính thức vạch ra những mặt bất cập của căn tính và tâm thức tiểu nông Việt
Nam trước thách thức của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hoá”.
Hiện nay chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền trên nền tảng của văn
hóa truyền thống với sự chi phối của ba yếu tố hạt nhân, đó là: văn hóa nông
nghiệp lúa nước, Nho giáo và Phật giáo. Bầu khí quyển văn hóa đậm đặc chất
phương Đông này đã tồn tại hàng ngàn năm, thẩm thấu trong mọi lĩnh vực của
cuộc sống, từ kinh tế, chính trị, tư tưởng, đến đạo đức, lối sống, thói quen, tâm lý,
tình cảm, cách tư duy, ứng xử của nhiều thế hệ cha ông cho đến tận ngày nay,
trong đókhông chỉ bao gồm những phẩm chất tinh hoa mà còn cả những cặn bã
cần phải tẩy chay, loại trừ khi nó không còn phù hợp trong điều kiện mới.Do đó,
bên cạnh những giá trị tốt đẹp của truyền thống hiện đang phát huy sức mạnh
trong công cuộc hiện đại hóa đất nước thì lại cũng còn đó không ít những căn
tính tiểu nông, những nhược điểm của truyền thống đang di căn sâu sắc trong tâm
lý cộng đồng dưới dạng những thói quen, tập quán, những nếp suy nghĩ, những lề
thói làm ăn, những cách ứng xử… Đó chính là những trở lực tạo nên sự trì níu
nặng nề cho công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay nói
riêng và công cuộc đổi mới để phát triển nói chung. Bởi vậy, trong phạm vi đề tài
nghiên cứu này, không chỉ dừng lại ở việc nhận diện thực trạng tiêu cực của văn
hóa pháp luật Việt Nam hiện nay, mà chúng tôi sẽ truy tìm về đầu mối cuối cùng
để chỉ ra căn nguyên sâu xa từ nền tảng văn hóa truyền thống đã chi phối đến sự
ứng xử tiêu cực đối với pháp luật của người Việt hiện nay. Đó cũnglàcơ sở cho
việc đề xuất những giải pháp có tính nền tảng để chữa trị từ gốc cho những căn
bệnh xã hội của cả cộng đồng mà xem ra đã đến hồi báo động.
2.1. Sự tác động của văn hóa nông nghiệp lúa nước
Chúng ta xây dựng nhà nước pháp quyền trên nền tảng của một xã hội nông
nghiệp cổ truyền với sự chi phối của nhân tố gốc là phương thức sản xuất nông
nghiệp lúa nước, theo đó, thành phần cư dân tuyệt đại bộ phận là nông dân,sinh
sống trong không gian quần cư là làng xã. Điều kiện đặc thù này đã tồn tại hàng
ngàn năm, đã tạo nên nền tảng văn hóa của dân tộc Việt với những chế định đậm
nét của lối sống nông nghiệp lúa nước, được bảo lưu, làm thành mạch ngầm
xuyên suốt chiều dài không gian và thời gian của dân tộc Việt. Diện mạo của nền
văn hóa nông nghiệp lúa nước biểu hiện qua những đặc trưng có tính trội như:
tính cộng đồng và ứng xử trọng tình;
lối sống tự trị khép kín và thói quen ứng xử“phép vua thua lệ làng”;
tư duy tiểu nông chủ quan, cảm tính và lối ứng xử mềm dẻo, linh hoạt, tùy
tiện, …
Tất cả đãđể lại những dấu ấn sâu sắc trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư
tưởng, đạo đức, tạo nên đến lối sống, thói quen, tâm lý, tình cảm, cách tư duy,
ứng xử của nhiều thế hệ người Việt Nam. Những đặc trưng này của văn hóa
truyền thốnghàm chứa cả mặt tích cực và tiêu cực trong tác động đối với sự phát
triển hiện nay của đất nước, trong đó có văn hóa ứng xử với pháp luật.
2.1.1. Tính cộng đồng
Nói đến văn hóa ViệtNam là nói đến văn hóa làng xã,đó là đơn vị cộng đồng
đóng vai trò nền tảng trong tổ chức xã hội Việt Nam truyền thống. Do vậy, làng
trở thành một không gian văn hóa có vị trí đặc biệt quan trọng, là cái nôi hình
thành nên những đặc trưng bản sắc của văn hóa truyền thống Việt Nam. GS. Trần
Quốc Vượng khẳng định: văn hóa Việt Nam cổ truyền, về bản chất là một nền
văn hóa xóm làng [50, 71].
Đặc trưng nổi trội của văn hóa làng xã Việt Nam là tính gắn kết cộng đồng vô
cùng bền chặt, được hình thành trên nền tảng của hai mối quan hệ:
huyết thống (Một giọt máu đào hơn ao nước lã) và
láng giềng (Bán anh em xa mua lánggiềng gần).
Nếu phương thức sản xuất gốc của người phương Tây là nghề chăn nuôi du
mục, để rồi từ đó hình thành nên lối sống du cư, là cơ sở cho sự hình thành và
phát triển ý thức cá nhân từ rất sớm, thì trái lại, văn hóa Việt Nam (và phương
Đông nói chung) được hình thành trên nền tảng của nghề nông trồng trọt. Phương
thức sản xuất này đòi hỏi cư dân phải ở định cư ổn định, không thích sự di
chuyển, đổi thay, là cơ sở hình thành lối sống đề cao tính cộng đồng. Thêm nữa,
nghề trồng lúa nước phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên (hạn hán, lũ lụt), mà để
chống chọi với tự nhiên thì một vài cá nhân hay một gia đình không gánh vác nổi
(Lụt thì lút cả làng, đắp đê chống lụt thiếp chàng cùng lo). Do sự chi phối của
cuộc sống định cư và phương thức sản xuất khiến cho người Việt, như một đòi
hỏi tự nhiên và tất yếu để sinh tồn, đã hình thành mối gắn kết cộng đồng cao.
Thêm vào đó, do nằm ở vị trí địa lý có tính chiến lược cho nên từ khi lập quốc,
dân tộc Việt đã phải đoàn kết tạo nên sức mạnh để đương đầu với nạn ngoại xâm.
Đây cũng là một đặc điểm làm gia tăng thêm tính cộng đồng của người Việt.
Tính cộng đồng, do vậy, đã in đậm dấu ấn trong tâm lý, tính cách, trong bản sắc
văn hóa Việt Nam, chi phối đến đời sống và các quan hệ ứng xử của người Việt
xưa và nay với cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Không thể phủ nhận mặt tích cực
của tính cộng đồng khi nó tạo nên truyền thống ứng xử tốt đẹp của dân tộc ta, đó
là
tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái,
là sự gắn bó, sẻ chia lúc khó khăn hoạn nạn.
Tuy nhiên, trong bối cảnh quá độ để chuyển sang một xã hội đô thị và công
nghiệp, từ góc nhìn của văn hóa ứng xử với pháp luật, tính cộng đồnglại là tác
nhân gây nên nhiều hệ lụy tiêu cực nhiều hơn là tích cực.
Vậy tính cộng đồng như là một đặc trưng nổi trội của văn hóa truyền thống đã
có ảnh hưởng như thế nào đến văn hóa ứng xử với pháp luật của người Việt hiện
nay?
Trước hết, có thể thấy, mặt trái của tính cộng đồng đó là sự phủ nhận, ức chế
sự phát triển cá tính, kìm hãm vai trò cá nhân. Ý thức về quyền cá nhân vì
vậy không được phát triển, thay vào đó là sự phụ thuộc, sự phục tùng của cá nhân
vào cộng đồng. Có thể nói, trong cuộc đời một người Việt từ nhỏ đến lớn, trước
hết và trên hết là thành viên của cộng đồng (từ cộng đồng nhỏ như gia đình, dòng
họ, phe, giáp, phường, hội đến cộng đồng lớn như làng, nước). Chỉ với tư cách
thành viên của cộng đồng thì con người mới có giá trị. Nói cách khác, thang
bậc giá trị, tư cách của một con người chỉ được xác định trong các quan hệ cộng
đồng với ý thức sâu sắc về bổn phận và trách nhiệm: làm cha, làm mẹ, làm con,
làm anh, làm em, làm bạn, làm bà con, làm dân...
Khi giao lưu với văn hóa Trung Hoa, Nho giáo được tích hợp vào văn hóa
Việt Nam lại càng góp phần làm mờ nhạt tính cá nhân, củng cố thêm tính cộng
đồng và làm sâu sắc thêm ý thức về bổn phận, khiến cho conngười cá nhân chưa
bao giờ được coi là thực thể độc lập với quyền được khẳng định và phát triển
nhân cách, tài năng và chính kiến của mình. Từ góc độ tâm lý, nhiều nhà nghiên
cứu nhận xét: người Việt Nam từ khi biết nói cho đến khi trưởng thành rất ít
xưng “tôi”. Cái tôi của người Việt trong quá khứ chủ yếu được gửi gắm, phó thác
vào “cái ta” và cái “mọi người”, hòa lẫn trong cộng đồng, tan biến vào các quan
hệ xã hội. Ý thức về trách nhiệm, bổn phận bị kiểm soát bởi dư luận, kết tinh
thành đạo lý, thể hiện thành truyền thống. Đó cũng là lý do để nhà nghiên cứu
Phan Ngọc khẳng định: con người Việt Nam là con người “nhân cách luận”, thực
chất cũng là con người của cộng đồng,chứ không phải là con người “cá nhân
luận” như phương Tây.
Chính sự lệ thuộc của cá nhân vào cộng đồng làm cho con người trở nên thụ
động trong các quan hệ, không dám khẳng định bản lĩnh và nhân cách cá nhân,
không dám nhân danh cá nhân để đòi hỏi những quyền lợi chính đáng cho mình.
Sự hạn chế phát triển ý thức cá nhân của một lối sống đề cao tính cộng đồng
vẫn còn để lại dư vị nặng nề trong xã hội hiện đại và gây khó khăn đáng kể cho
việc xây dựng nhà nước pháp quyền, khi mục đích của nhà nước pháp quyền sinh
ra để trước hết và trên hết nhằm đảm bảo các quyền và tự do của cá nhân. Xây
dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam vì vậy đã gặp phải lực cản từ những đặc
điểm của một nền tảng văn hóa mà ở đó con người bị ràng buộc vào vô vàn các
nghĩa vụ, không có chỗ cho sự khẳng định các quyền cá nhân. Đó là nguyên do
giải thích vì sao người Việt Nam hiện nay vẫn chưa thực sự tự giác và chủ động
trong việc sử dụng các quyền cá nhân của mình trong ứng xử với các quan hệ xã
hội và quan hệ pháp luật, mặc dù đã được hiến pháp và pháp luật qui định.
Từ phía nhà nước cũng có thể thấy, các nhà lập phápcủa chúng ta hiện nay khi
hoạch định các chính sách pháp luật ở tầm vĩ môcũng chưa quan tâm thích đáng
đến các quyền và tự do của cá nhân, mà thường chỉ quan tâm đến lợi ích cộng
đồng, sự phụ thuộc của cá nhân vào cộng đồng. Điều này được phản ánh qua
việccác luật phục vụ quản lý nhà nước thường được ưu tiên hơn so với các luật
liên quan đến lợi ích tư nhân. Các văn bản pháp luật ghi nhận các quyền của công
dân nhưng nhiều khi lại thiếu cơ chế thực hiện, khiến cho các quyền lợi hợp pháp
của công dân nhiều khi bị hạn chế bởi chính công quyền. Đó là chưa nói đến một
thực tế là, các cơ quan công quyền vẫn chưa từ bỏ được thói quen hách dịch, sách
nhiễu công dân, hành xử theo kiểu “ban ơn”, khiến cho công dân khi thực hiện
các quyền chính đáng của mình nhưng lại phải qụy lụy, khúm núm trước công
quyền. Bởi vậy, để tạo dựng được thói quen, ý thức về việc pháp luật phục vụ
người dân trong nhà nước pháp quyền thì trước hết phải tạo những điều kiện để
phát triển ý thức cá nhân. Một khi ý thức cá nhân đã được phát triển thì nhà lập
pháp phải hướng các quy định pháp luật về các quyền tự do của con người, của
cá nhân, công dân và đến lượt mình công dân cũng phải chủ động thực hiện các
quyền của mình, với tư cách là của mình mà nhà nước thừa nhận chứ không phải
nhà nước ban cho.
Cũng chính từ lối sống đề cao tính cộng đồng và hạ thấp vai trò cá nhân là
nguyên nhân làm cho con người trở nên
thụ động trong các quan hệ,
ít dám làm và
cũng từ đó cũng không dám chịu trách nhiệm trước cộng đồng và người khác,
từ đó
hình thành tâm lý và thói quen dựa dẫm, ỉ lại.
Tâm lý và thói quen ứng xử này được đúc kết và lưu truyền trong dân gian
qua các câu thành ngữ quen thuộc như: Nó lú có chú nó khôn; Sẩy cha có chú,
sẩy mẹ bú dì;Con dại cái mang…
Tâm lý dựa dẫm, ỉ lại được nâng lên một bước cao hơn là lợi dụng các mối
quan hệ thân quen, họ hàng để tìm kiếm sự che chở, nâng đỡ, mưu cầu lợi ích cá
nhân.Tư tưởng “Một người làm quan, cả họ được nhờ”, “Nhất thân nhì quen tam
thần tứ thế” trở thành một thói quen ứng xử rất phổ biến ở thời kỳ phong kiến,
trong xã hội truyền thống Việt Nam.Hiện nay, mặc dù quan niệm trên đã bị hạn
chế bởi một số điều luật (Luật công chức)nhưng trên thực tế,tư tưởng này vẫn
còn tồn tại rất phổ biến trong suy nghĩ và hành vi của xã hội như một căn bệnh
trầm kha.Thực trạng “con ông cháu cha”,nạn “ô dù”, “chủ nghĩa thân quen”, sự
kéo bè kết cánh dựa trên mối quan hệ huyết thống, bà con, đồng hương… tuy
không tồn tại một cách chính thống và công khai nhưng ai cũng có thể thấy căn
bệnh này đã và đanglà một vấn nạn xã hội, hàng ngày đangâm thầm, âm ỉ tác
động tiêu cực, làm suy giảm sức mạnh của hệ thống cơ quan công quyền, gây nên
nhiều bức xúc trong xã hội.
Chính các mối quan hệ “con ông cháu cha”, “gia đình trị”, “thân quen”, “thần
thế” này đã góp phần làm vô hiệu hóa pháp luật khi người ta kết bè cánh để thực
hiện những hành vi tham nhũng, tiêu cực, thậm chí vi phạm pháp luật ở ngay
chính những người nhân danh bảo vệ và thực thi pháp luật. Khi tiêu cực bị phát
hiện thì người ta lại tìm cách che chắn cho nhau vì sợ “rút dây động rừng”, bởi
vậy các hành vi sai phạm, tiêu cực không bị tố giác, khôngbị truy cứu trách
nhiệm đến nơi đến chốn, không được xử lý nghiêm theo luật pháp, để rồi kết quả
cuối cùng cũng chỉ là “hòa cả làng”.
Tính cộng đồng cũng là căn nguyên sâu xa để lý giải về một thực tế hiện đang
diễn ra rất phổ biến trong các lĩnh vực của đời sống xã hội ta hiện nay. Đó là tình
trạng ứng xử kiểu “cha chung không ai khóc”, “lắm sãi không ai đóng cửa chùa”,
được biểu hiện rất phổ biến trong các hành vi ứng xử hàng ngày, mà biểu hiện cụ
thể là sự thờ ơ, chối bỏ, đùn đẩy trách nhiệm, lãng phí của công.
Có thể nói, trách nhiệm cá nhâncó một vai trò quan trọng trong việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ pháp lý trong các quan hệ pháp luật. Tuy nhiên, trong đời sống
pháp luật ở Việt Nam hiện nay, tính chịu trách nhiệm cá nhân xét cả từ hai phía
người dân và các cơ quan công quyền còn rất thấp, mà nguyên nhân trực tiếp là
do chủ nghĩa bình quân tập thể của cơ chế cũ để lại, nhưng nguyên nhân sâu xa là
do sự cản trở từ lối sống cộng đồng và các hệ lụy của nó trong văn hóa nông
nghiệp truyền thống.
2.1.2. Lối ứng xử nặng tình nhẹ lý
Cuộc sống cộng đồng ở làng xã đã tạo ra sự đoàn kết gắn bó, yêu thương đùm
bọc lẫn nhau, đó là ngọn nguồn của nếp sống “trọng tình” trong truyền thống ứng
xử của người Việt,đó cũng là một nét nổi trội trong đặc trưng văn hóa truyền
thống Việt Nam. Cả cuộc đời và qua nhiều đời, người dân quê Việt Nam chỉ làm
ăn, sinh sống ở làng, mọi người hiểu nhau rành rẽ, thân quen, gắn bó với nhau từ
tấm bé với hai mối quan hệ giằng chéo bền chặt là huyết thống (Một giọt máu
đào hơn ao nước lã) và láng giềng “Bán anh em xa mua láng giềng gần”, “Hàng
xóm láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau”. Yếu tố duy tình - lối sống giàu tình cảm
trọng tình nghĩa là một nét đẹp trong truyền thống của dân tộc. "Vượt lên cả về
không gian, thời gian là đặc điểm duy tình, duy nghĩa, duy cảm của con người
Việt Nam trong mối quan hệ giữa người với người" (Trần Quốc Vượng).Truyền
thống đó tạo ra cuộc sống hoà thuận, lấy tình nghĩa làm đầu; tình cảm trở thành
thước đo giá trị trong mọi hành vi ứng xử của con người.
Vì quan hệ trong làng như một đại gia đình, ở đó lợi ích của một người gắn
với lợi ích của cộng đồng, “phúc cùng hưởng, họa cùng chịu” nên khi có điều gì
không hay xảy ra người ta không muốn “vạch áo cho người xem lưng” để khỏi
“xấu chàng hổ ai”, từ đó đã hình thành nguyên tắc ứng xử tất yếu là phải che
chắn, bảo vệ, “đóng cửa bảo nhau”, “tốt khoe, xấu che”, kể cả việc dung túng cho
lỗi lầm. Cũng vì sự nể nang, sợ mất lòng nhau nên trong ứng xử người ta coi
trọng nguyên tắc “dĩ hoà vi quý”, “chín bỏ làm mười”,“một điều nhịn, chín điều
lành”. Sống trong môi trường mà tình cảm được coi là tiêu chí, là chuẩn mực ứng
xử nên lâu dần hình thành lối sống dễ dàng thỏa hiệp, ứng xử nửa vời, cả nể, ngại
va chạm, thiếu tính quyết đoán kiểu “sư nói cũng phải, vãi nói cũng hay”; “tháng
ba cũng ừ, tháng tư cũng gật”. Khi xẩy ra mâu thuẫn thì dễ dàng tha thứ vì “đánh
kẻ chạy đi không đánh kẻ chạy lại”. Lối ứng xử trọng tình nhẹ lý trở thành
nguyên tắc cơ bản chi phối, điều tiết các mối quan hệ, khiến cho việc xử sự của
con người thường chủ quan, tùy tiện, nặng về cảm tính nên thiếu tính nguyên tắc,
được đúc kết và lưu truyền trong dân gian qua các câu thành ngữ quen thuộc như:
“Một bồ cái lý không bằng một tí cái tình”; “Yêu nhau cau sáu bổ ba, ghét nhau
cau sáu bổ ra làm mười”; “Yêu nhau mọi việc chẳng nề, dẫu trăm chỗ lệch cũng
kê cho bằng”; “Yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng méo”…
Việc xử lý các quan hệ theo tình cảm sẽ dẫn đến thiếu tôn trọng tính nguyên
tắc, tùy tiện là một điều tất yếu. Truyền thống duy tình đã làm cho người ta có thể
có nhiều cách ứng xử khác nhau trong cùng một hoàn cảnh, trong khi đó pháp
luật lại là chuẩn mực chung để điều tiết các mối quan hệ một cách nghiêm khắc
dựa trên tiêu chí khách quan và thống nhất. Bởi vậy, người ta dễ dị ứng với pháp
luật, chỉ coi pháp luật là một giải pháp “cực chẳng đã”. Đó là một lý do khiến cho
pháp luậtbị vô hiệu hóa ngay từ trong suy nghĩ của mỗi cá nhân cho đến hành vi
ứng xử phổ biến của cộng đồng trong xã hội Việt Nam truyền thống.
Cũng do lối sống nông nghiệp quần cư, khép kín sau lũy tre làng cùng với nền
sản xuất nhỏ tự cung tự cấp làm cho người nông dân không có nhiều mối quan hệ
trên diện rộng và phức tạp.Bởi vậy, trong giao tiếp, cư xử hàng ngày cũng như
trong các giao dịch tài sản như vay mượn, mua bán, kể cả với những tài sản có
giá trị, người nông dân thường dựa trên cơ sở của các chuẩn mực đạo đức, tình
cảm và lòng tin trên cơ sở quen biết nhau là chính mà không cần đến các bằng
chứng có tính pháp lý như khế ước, hợp đồng như trong các giao dịch dân sự ở xã
hội tư bản.Nếu có mâu thuẫn, tranh chấp với nhau thì được giải quyết bằng con
đường hòa giải hơn là kiện tụng, trên tinh thần nhường nhịn, cảm thông, “chín bỏ
làm mười”; coi trọng lời xin lỗi hơn là việc bồi thường thiệt hại; cư xử với nhau
trên cơ sở “cái tình” chứ không phải “cái lý”, hoặc hài hòa sao cho “có tình có
lý”. Trường hợp bất đắc dĩ “vô phúc đáo tụng đình” mà phải “đưa nhau đến trước
cửa quan” thì cũng “bên ngoài là lý nhưng trong là tình”.Xét về mặt tích cực,
nguyên tắc ứng xử này giúpbảo vệ các mối quan hệ xã hội thân thuộc, củng cố
tính cộng đồng và tinh thần đoàn kết, ít xảy ra các tranh chấp dân sự, duy trì sự
ổn định của xã hội. Tuy nhiên, hệ quả tiêu cực là pháp luật không còn uy lực
khicái lý bị đẩy xuống hàng thứ yếu so với cái tình.
Không thể phủ nhận rằng, công lý trước hết và trên hết phải xuất phát từ nền
tảng là lòng yêu thương, cho nên hiển nhiên là cái lý không thể đặt trong thế đối
lập với cái tình. Tuy nhiên, trong một xã hội mà nếu cái tình ở vị trí được ưu tiên
hơn, thậm chí lấn át cái lý thì pháp luật tất yếu sẽ không được coi là một công cụ
quan trọng để điều tiết các quan hệ xã hội.Lối ứng xử ấy đối lập hoàn toàn với
tinh thần "thượng tôn pháp luật", một đòi hỏi tất yếu của xã hội văn minh, hiện
đại. Nhưng như đã phân tích ở trên, trong xã hội Việt Nam cổ truyền, cái truyền
thống trọng tình hơn lý đã khiến cho pháp luật không phải là một cách giải quyết
tranh chấp được ưa chuộng. Câu thành ngữ “vô phúc đáo tụng đình” thể hiện thái
độ của người dân coi chuyện ra toà là một cái gì đó ghê gớm, làm tổn hại thanh
danh và sứt mẻ tình cảm vì “một đời kiện, chín đời thù”.Do vậy, các hành vi tố
giác tội phạm gần như không diễn ra mặc dù đó là hành vi phạm tội đã được luật
hình sự quy định. Trong trường hợp này thì người ta còn sợ dư luận hơn cả hình
phạt.Nhu cầu sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền lợi cho mình vì vậy không trở
thành một thói quen ứng xử phổ biến của người dân từ trong nhận thức cho đến
hành vi. Đây là một nguyên nhân dẫn đến tâm lý thờ ơ, né tránh pháp luật, không
xem pháp luậtlà cách giải quyết được ưu tiên, là công cụ bảo vệ quyền lợi cho
mình. Đó cũng là một lý do giải thích vì sao người Việt cho đến ngày nay vẫn
chưa có thói quen tìm đến pháp luật khi xảy ra các tranh chấp dân sựnhư một
hành vi ứng xử phổ biến ở các nước có nền văn hóa pháp luật tích cực.
Trong giai đoạn hiện nay, văn hoá ứng xử "lấy cảm tình làm bản vị" của người
Việt đang là một thách đố gay gắt khi đất nước đang bước vào tiến trình hội nhập
quốc tế mà tinh thần "thượng tôn pháp luật" là điểm tựa của việc thực hiện những
cam kết quốc tế. Ý thức tôn trọng pháp luật và tính chủ động sử dụng pháp luật
với tính cách là yếu tố của văn hoá pháp luật có vai trò cực kỳ quan trọng đối với
cơ chế hành vi của các chủ thể, nhưng đây lại là một trong những điểm yếu lớn
nhất được nhận thấy trong thực tiễn pháp lý ở nước ta hiện nay. Bằng chứng là,
đối với người dân và doanh nghiệp, việc giải quyết các tranh chấpdân sự, kinh tế
không cần đến pháp luật vẫn còn tồn tại ở một bộ phận không nhỏ, bởi số đông
người dân vẫn e dè khi nói đến việc kiện tụng, giải quyết tranh chấp bằng luật
pháp... Rất ít doanh nghiệp có luật sư, chuyên viên pháp chế chuyên trách làm
công tác pháp lý, dự báo các vấn đề pháp lý nảy sinh (ngoại trừ doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài). Luật sư Trần Đình Triển, Trưởng Văn phòng Luật sư Vì
dân nhận xét: “… giới doanh nhân Việt Nam ít có thói quen sử dụng luật sư. Các
doanh nghiệp có thói quen vướng đâu thì “chạy” bằng phong bì, mạnh hơn nhau
bằng cái đó, chứ không phải đưa nhau lên trên bàn để giải quyết đúng - sai bằng
luật pháp, nên các doanh nghiệp không cần thiết phải có bộ phận pháp chế để làm
cố vấn cho họ. Điều này trái ngược hẳn với giới doanh nhân quốc tế”.
2.1.3. Lối sống trọng lệ hơn luật và thói quen ứng xử “phép vua thua lệ
làng”
Để lý giải về thói quen ứng xử “phép vua thua lệ làng” mà hiện nay vẫn còn
diễn ra rất phổ biến ở mọi nơi, mọi lúc trong xã hội, chúng ta phải trở về với căn
nguyên sâu xa từ nền tảng văn hóa làng, nguồn gốc nảy sinh lối sống trọng lệ hơn
luật.
Để phù hợp với phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước, người Việt sống
quần tụ trong không gian làng quê, bao quanh làng là lũy tre và cổng làng, khiến
cho làng nào biết làng ấy. Về kinh tế, mỗi làng tồn tại như một đơn vị kinh tế độc
lập, khép kín, có khả năng tự túc tự cấp nên không có nhu cầu quan hệ giao
thương với bên ngoài. Về tình cảm, các thành viên trong làng đều có quan hệ họ
hàng, nên quan hệ giao lưu tình cảm cũng tự đầy đủ, khép kín trong phạm vi
làng. Về phong tục, mỗi làng có luật tục (lệ làng, hương ước) riêng. Về mặt hành
chính, mỗi làng có bộ máy hành chính tự quản, có vai trò và chức năng giải quyết
mọi việc trong làng. Sự độc lập về không gian địa lý, về kinh tế, về bộ máy hành
chính, về tình cảm, phong tục đã khiến cho mỗi làng tồn tại như một “tiểu vương
quốc”, độc lập trong quan hệ với làng khác và tự quản trong quan hệ với quốc
gia. Chính từ đây đã hình thành lối sống tự trị, khép kín, hướng nội như là một
đặc trưng tiêu biểu của văn hóa làng Việt. Nếu như tính cộng đồng có chức năng
liên kết các thành viên trong cùng một làng (hướng ngoại), thì tính tự trị lại xác
định sự tồn tại độc lập, khép kín giữa làng này với làng khác và tính tự quảncủa
làng so với chính quyền trung ương (hướng nội).
Tính độc lập, tự quản của làng thể hiện ở bộ máy hành chính của mỗi làng có
chức năng giải quyết mọi việc trong nội bộ làng, trong đó Hội đồng Kỳ mục có
chức năng như bộ phận lập pháp; Lý dịch có chức năng như bộ phận hành pháp;
hương ước - luật tục - lệ làng có vai trò như luật pháp. Hội đồng Kỳ mục và Lý
dịch được làng cử ra để điều hành công việc của làng, trông coi việc thuế khóa,
đê điều và mọi việc trị an trong làng. Mỗi làng chỉ cần làm tròn nghĩa vụ nộp sưu
thuế và giao dịch với triều đình, còn mọi việc tự trị trong làng đều do bộ phận
chức dịch của làng điều hành. Phong tục, luật lệ làng nào được người dân làng đó
tuân theo, triều đình thường không can thiệp đến. Tính tự túc tự cấp của nền kinh
tế tiểu nông cùng với bộ máy hành chính tự quản đã khiến cho làng luôn có xu
hướng “ly tâm” với chính quyền trung ương.Mỗi làng tồn tại như một đơn vị
hành chính độc lập, có chức năng tự quản, triều đình không can thiệp đến chuyện
cai trị ở làng xã, do đó các chức dịch trong làng có quyền thao túng mọi việc.
Cũng chính bộ máy tự quản trong chế độ làng xã tự trị này đã sinh ra nạn cường
hào ác bá do những kẻ có thế lực hay giàu có, thường lũng đoạn chính quyền để
áp chế người dân, nên những người dân thấp cổ bé miệng nhiều khi là nạn nhân
của những người thế lực này.Để khống chế và áp bức nông dân, hương ước của
nhiều làng qui định ai đi kiện cáo lên trên mà không thông qua làng thì sẽ bị phạt;
nếu không bằng lòng với việc xử kiện trong làng mà tiếp tục kiện lên trên nhưng
kết quả quan trên xử vẫn như cũ thì sẽ bị phạt nặng hơn và phải chịu các phí tổn
do việc làng phải theo hầu vụ kiện đó. Chính qui định này đã làm thui chột ý
định, triệt tiêu dũng khí đấu tranh trước pháp luật của những người dân vốn đã
“thấp cổ bé họng” lại ít hiểu biết về pháp luật.
Trong suốt cả ngàn năm xây dựng quốc gia tự chủ, mặc dù các triều đại phong
kiến đã xây dựng và thực thi nhiều bộ luật, song bên cạnh đó vẫn duy trì và tôn
trọng các hương ước, lệ làng. Hương ước đa số các làng đều khẳng định: “…
nước có luật nước, làng có hương ước riêng…”, hoặc “nhà nước có pháp luật quy
định, còn dân có điều ước riêng…”.. Bởi vậy, trong xã hội truyền thống Việt
Nam, từ hàng ngàn năm, luật tục, lệ làng đã tồn tại song song với luật phápcủa
nhà nước (Lệ làng / phép nước). Luật tục, lệ làng là công cụ để duy trì bộ máy tự
quản trong tổ chức cộng đồng làng xã, ra đời từ thời Hùng Vương. Theo tiến
trình lịch sử, các luật tục, lệ làng được duy trì, củng cố, bổ sung và hoàn thiện
dần. Đến giữa thế kỉ XV lệ làng được văn bản hóa, gọi là hương ước (hay khoán
ước). Như vậy, hương ước được xây dựng trên cơ sở phong tục, tập quán của
làng xã được “qui phạm hoá” dưới hình thức văn bản, được nhà nước thừa nhận
để trở thành qui tắc xử sự chung của mỗi làng,phản ánh tâm lý, phong tục, tập
quán, nếp sống đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi cư dân trong làng, tạo nên một
áp lực tinh thần bất khả kháng, thành “lệ làng”. Vì thế, luật tục – hương ước – lệ
làng đã ràng buộc mỗi thành viên trong làng vào một nề nếp, qui củ, tạo thành
nếp sống chung ổn định trong không gian khép kín của mỗi làng. Do đó, hương
ước thực chất là một dạng tồn tại của pháp luật rất đặc thù trong chế độ làng xã tự
trị của xã hội Việt Nam truyền thống. Tất cả các làng ở Bắc bộ và phần lớn các
làng ở Trung bộ đều có hương ước. Hiện nay ở Viện Văn hóa dân gian còn lưu
giữ khoảng 5.000 bản hương ước. Mỗi bản có khoảng trên dưới 100 điều qui định
về các mối quan hệ cơ bản của người dân trong cộng đồng làng xã: quan hệ với
nhà nước (nghĩa vụ đóng thuế, đi lính); quan hệ cộng đồng (xóm giềng; hôn
nhân; gia đình; tang ma;…).
Lệ làng tồn tại song song với “phép nước” và được nhà nước thừa nhận như
những văn bản pháp lý.Tuy nhiên, trong khi người dân trong làng ít hiểu về luật
pháp của nhà nướcthì lại rất am hiểu lệ làng và tuân thủ lệ làng một cách nghiêm
ngặt, thậm chí còn coi “Phép vua thua lệ làng”.
Vậy vì sao lệ làng lại có hiệu lực hơn luật pháp của nhà nước?
Có thể chỉ ra các lý do sau đây:
1) Trong trường hợp “phép vua” và “lệ làng” thống nhất với nhau thì trong tổ
chức làng xã đặc thù của Việt Nam, với lối sống và tập tục khác nhau, việc quản
lý xã hội bằng hương ước, lệ làng có nhiều ưu thế hơn luật pháp, cụ thể là:
a) Hương ước, lệ làng là những điều qui ước trên cơ sở sự thống nhất của cư
dân trong làng, gắn với hoàn cảnh, phong tục, tập quán lâu đời và đặc điểm của
từng làng nên rất cụ thể, gần gũi, thiết thực, dễ hiểu, dễ thực hiện, phù hợp với lối
sống đặc thù của mỗi làng. Vì vậy lệ làng ăn sâu vào tâm thức của cư dân trong
làng, được trao truyền một cách tự nhiên từ gia đình đến dòng họ, từ thế hệ này
sang thế hệ khác, được tuân thủ như một quán tính tự nhiên.Trong khi đó, pháp
luật là sản phẩm chủ quan của giai cấp cầm quyền, vừa mang tính áp đặt hành
chính từ trên xuống, lại chỉ dừng lại ở khuôn khổ pháp lý chung cho cả quốc gia
nên không thể áp dụng phù hợp cho mọi nơi, với mọiđối tượngtrong hoàn cảnh
làng xã Việt Nam tự trị và khép kín với lối sống và tập tục khác nhau. Bởi vậy
mặc dù luật pháp về cơ bản là thống nhất với luật tục, nhưng người dân tìm thấy
lợi ích của mình ở các qui tắc cụ thể của làng chứ không phải ở các qui phạm
chung của luật pháp nhà nước.
b) Nếutrong văn bản pháp luật thời phong kiến, tất cả các điều khoản đều gắn
với qui định về mức hình phạt cụ thể, phần nhiều là những hình phạt nặng nề, tàn
khốc, xâm phạm thô bạo, thậm chí là dã man đến thân thể người phạm luật (như
đánh roi, đánh gậy, chém, thắt cổ, thích chữ vào mặt, chặt chân tay…) thì ởhương
ước, lệ làng lại thể hiện tinh thần khoan dung, độ lượng. Bằng chứng là,trong
nhiều trường hợp không ghi mức hình phạt cụ thể đối với người vi phạm, mà thay
vào đó là những lời khuyên răn chung chung, nặng về răn đe, khuyến cáo,
khuyên răn, khuyến thiện. Các hình phạt được qui định phổ biến là phạt tiền,
đánh roi, truất ngôi thứ, tẩy chay các sinh hoạt cộng đồng, hạ uy tín nhằm đánh
vào danh dự, sĩ diện của cá nhân và dòng họ, hoặc hình phạt cao nhất là đuổi khỏi
làng. Đó là sự hoá giải một cách uyển chuyển tính chất khô cứng, lạnh lùng, hà
khắc, đôi khi là tàn bạo của luật pháp nhà nước.
Vì người dân nhìn thấy ở lệ làng khả năng bảo vệ mình, còn luật nước thì đối
lập với mình cho nên, trong con mắt của người dân, lệ làng được trọng hơn luật
nước. Trong khi lệ làng được người dân tự giác tuân thủ thì “phép vua” muốn vào
được làng phải chịu sự “khúc xạ”, do vậy chỉ còn là những hình bóng mờ nhạt,
hiệu lực của nó cũng từ đó mà bị giảm đi rất nhiều.
c) Ngoài ra, một lý do nữa khiến cho người dân trong khi hiểu rất rõ về lệ làng
thì lại ít có điều kiện để tiếp cận với luật pháp, do điều kiện ngày xưa giao thông
đi lại khó khăn, chủ yếu là đi ngựa hay chạy bộ nên các chiếu chỉ do nhà vua ban
ra để đến với người dân cũng phải mất một thời gian khá dài. Trong khi đó
phương tiện thông tin lại rất hạn chế, khó có điều kiện để phổ biến, tuyên truyền
rộng rãi cho dân chúng. Thêm nữa, do mặt bằng dân trí rất thấp, phần lớn là mù
chữ, vì vậy người dân không có điều kiện tiếp cận trực tiếp các văn bản pháp luật
của nhà nước mà phải qua các khâu trung gian nên khó tránh khỏi “tam sao thất
bản”. Tình trạng dân thiếu hiểu biết về pháp luật, “mù luật”, do đó, là hiện tượng
phổ biến trong xã hội phong kiến Việt Nam.
2) Về nguyên tắc, “phép vua” và “lệ làng” không chỉ thống nhất mà còn mâu
thuẫn nhau, bởi lẽ, luật nước luôn có thiên hướng khẳng định sự quản lý (cai trị)
có tính tập trung, thống nhất, hạn chế quyền tự chủ của làng xã. Ngược lại, hương
ước có xu hướng xác lập và củng cố quyền tự chủ, tự quản cộng đồng. Do vậy, về
phương diện hình thức, hương ước luôn được quan niệm là sự biểu hiện quyền
“tự trị” của các làng xã cổ truyền Việt Nam.Luật nước có xu hướng xác lập sự
thống nhất của không gian pháp lý trong phạm vi toàn quốc gia. Hương ước, lệ
làng lại làm gia tăng tính khép kín đối của cuộc sống các làng xã, tạo ra sự chia
cắt không gian pháp lý giữa nước với làng, giữa các làng với nhau. Bởi vậy, nếu
quy định nào của luật nước mà xâm hại đến lợi ích cục bộ của làng xã, đặc biệt
xâm hại đến các lợi ích của các thế lực chức sắc địa phương thì thường bị vô hiệu
hoá và không được tuân thủ.
Như vậy, có thể thấy rằng luật pháp và hương ước, lệ làng “là hai mặt của một
thể chế chính trị pháp lý lưỡng tính phản ánh mối tương quan của sự thống nhất
quốc gia và quyền tự quản của các cộng đồng, làm quân bình sự phát triển của
mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của mỗi một đơn vị làng
xã và của cả quốc gia”, trong đó, “hương ước, lệ làng là môi trường văn hoá pháp
lý đặc thù vừa để phát huy hiệu lực của luật nước và vừa hạn chế luật nước trong
mối quan hệ bảo lưu các nét đặc trưng của lối sống cộng đồng ở một quốc gia
nông nghiệp” [78].
Tóm lại, trong cả hai trường hợp, dù mâu thuẫn hay thống nhất đều có những
căn cứ cho thấy, hương ước, lệ làng là một công cụ để điều chỉnh các mối quan
hệ cộng đồng và quản lý làng xã có hiệu lực hơn luật nước.Với tất cả những thế
mạnh ấy, sự hiện diện của hương ước đã làm mờ nhạt vai trò, thậm chí làm cản
trở khả năng điều chỉnh của luật nước. Trong tổ chức làng xã Việt Nam truyền
thống, hương ước, lệ làng về cơ bản là một hiện tượng văn hoá độc đáo với rất
nhiều các giá trị tích cực đã góp phần giữ gìn kỷ cương, trật tự xã hội, thuần
phong, mỹ tục với các quy định mang tính cách đặc thù của mỗi địa phương. Với
luật lệ riêng, làng xã Việt Nam đã tồn tại như một vương quốc thu nhỏ với sự cố
kết rất bền vững. Hương ước chính là hệ thống giá trị chuẩn mực của làng xã, nó
quy định cung cách ứng xử, lối sống của cá nhân trong làng, tạo nên sự đồng
nhất, mà trước hết là từ trong mỗi dòng họ.
Tuy nhiên, việc quản lý xã hội bằng hương ước, lệ làng đã dẫn đến hệ quả là,
cư dân nông thôn đã từ bao đời quen sống với luật tục mà không quen sống theo
luật pháp. Trong tâm thứcngười dân, phép nước là những gì còn xa lạtrong khi
hằng ngày, hằng giờ họ chỉ đối mặt với lệ làng, với những bổn phận mà lệ làng
đặt ra cho họ. Dần dần điều này tạo ra tâm lý trọng lệ hơn luật.Trong cái không
gian khép kín của làng quêvới đầy rẫy các quy tắc về hệ thống đẳng cấp, ngôi thứ
trong làng, về các hủ tục cưới xin, ma chay, khao vọng, hội hè… đã được giới
chức dịch trong làng lợi dụng để trói buộc người nông dân vào vô số các nghĩa
vụ, trách nhiệm, cấm đoán và hạn chế, tạo nên một lối sống chỉ theo lệ làng, coi
thường luật nước theo đúng ý nghĩa “phép vua thua lệ làng”.
Bên cạnh đó, lệ làng chứa đựng không ít các quy tắc mang tính tiêu cực thể
hiện tư tưởng cục bộ địa phương như “Nhập gia tùy tục”, “Trâu ta ăn cỏ đồng ta”,
“Ta về ta tắm ao ta…”,… sức mạnh của lệ làng cùng với tính chất tư hữu cá nhân
của nền sản xuất nhỏ đã dẫn đến tư duy, lối sống nặng về vun vén cá nhân thực
dụng, thiển cận, kiểu “Đèn nhà ai nấy rạng”, “Ăn cây nào rào cây ấy”, “Ở đình
nào chúc đình ấy”, “Trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”, ít
quan tâm đến lợi ích của người khác, làng khác, và lại càng không quan tâm đến
lợi ích đại cục ở tầm quốc gia. Các thói quen cổ hủ này thẩm thấu vào chiều sâu
của tư duy và ứng xử, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác như một
chuẩn mực đã trở thành “thâm căn cố đế”. Tính cục bộ của văn hóa tiểu nông
khiến cho con người thiếu ý thức xã hội, chỉ quan tâm tới những gì liên quan trực
tiếp đến lợi ích thiển cận của mình “ăn cây nào, rào cây ấy’; “đèn nhà ai nấy
rạng”; “của mình thì giữ bo bo, của người thì để cho bò nó ăn”. Vì vậy, nó là thủ
phạm của sự thờ ơ với lợi ích cộng đồng, cũng là nguyên nhân của tính đố kỵ,
tham lam, bè nhóm, cục bộ, của kiểu tư duy tiểu nông manh mún, nhỏ lẻ, không
có tầm nhìn xa mang tính chiến lược...
Trên đây chúng tôi đã lý giải những nguyên nhân tạo nên lối sống trọng lệ hơn
luật và thói quen không tuân thủ luật pháp của người Việt truyền thống mà những
di hại của nó để lại cho hôm nay còn vô cùng nặng nề.Biểu hiện rõ nhất của tư
duy “Phép vua thua lệ làng”, của lối sống trọng lệ hơn luật hiện nay đó là tư
tưởng cục bộ địa phương, là hiện tượng bè phái, cấu kết, bao che để bênh vực,
bảo vệ quyền lợi cho nhau; đó là tư tưởng chỉ vì lợi ích cục bộ của cái cộng đồng
nhỏ mà không quan tâm đến lợi ích của số đông, của quốc gia.Những tư tưởng và
hành vi ứng xử này đang tồn tại rất phổ biến trong xã hội ta, mà biểu hiện cụ thể
là:
a)Nếu ngày xưa coi trọng lệ làng hơn phép nước thì ngày nay hiện tượng “trên
bảo dưới không nghe”, những hành vi ứng xử coi thường pháp luật, bất chấp
pháp luật vẫn đang diễn ra vô cùng phổ biến trong xã hội ta với rất nhiều những
hình thức biểu hiện khác nhau, không chỉ từ phía người dân mà cả các cơ quan
công quyền. Trong thực tế, nhiều cơ quan nhà nước tự đặt ra các qui tắc riêng,
trên danh nghĩa là cụ thể hóa pháp luật nhưng về thực chất là ngược lại với tinh
thần của pháp luật, hoặc vi phạm pháp luật, gây khó khăn cho công dân trong
việc thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. PGS. TS Nguyễn Đăng
Dung gọi đó là “lệ làng thời hiện đại”[xem: 12].
b) Việc tuyển chọn và bố trí nhân sự trong bộ máy công quyền còn theo “chủ
nghĩa thân quen”, còn nặng tư tưởng “con ông cháu cha”, “Một người làm quan
cả họ được nhờ” [xem: 13].Ảnh hưởng của tư tưởng cục bộ, hẹp hòi, bè phái, của
“chủ nghĩa thân quen” thể hiện rõ nhất trong các quan hệ quyền lực. Sự kéo bè,
kéo cánh, đưa anh em dòng họ và những người thân quen vào cơ quan nhà nước;
lập bè phái, phe nhóm ở địa phương... là những biểu hiện của tưduy cục bộ, hẹp
hòi, vì lợi ích phe nhóm mà làm suy giảm sức mạnh của bộ máy công quyền, làm
hạn chế vai trò của pháp luật, làmảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích chung vì sự
phát triển của xã hội, của đất nước.
Nếu trong nền sản xuất nhỏ tự cung tự cấp, tư tưởng này hình thành như là
một sự thích nghi tối ưu và tất yếu thì ngày nay, khi đất nước bước vào quá trình
hội nhập, chuyển sang một xã hội đô thị và công nghiệp thì những lối sống, thói
quen tư duy ấy của truyền thống đã không còn thích hợp. Không những không
còn thích hợp, nó còn như những tảng đá lớn đang cản đường đi lên của dân tộc
và là nguyên nhân của những hành vi ứng xử tiêu cực. Bởi vậy, để hội nhập và
phát triển cần phải thoát ra khỏi những hạn chế của văn hoá làng xã trên tinh thần
“gạn đục khơi trong”.
2.1.4. Tư duy tiểu nôngtùy tiện, chủ quan, cảm tính
Trải qua hàng ngàn năm tồn tại và phát triển, cho đến nay, về cơ bản, Việt
Nam vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ lực lượng sản xuất còn thấp,
đó cũng chính là cơ sở hình thành tư duy sản xuất nhỏ của người Việt Nam. Cuộc
sống nông nghiệp ở định cư đã đặt con người trong nhiều mối quan hệ phải ứng
xử, từ tự nhiên đến xã hội. Công việc sản xuất nông nghiệp lúa nước phụ thuộc
cùng lúc vào nhiều yếu tố tự nhiênnhư đất đai, nguồn nước, thời tiết, khí hậu...,
khiến cho người nông dân phải:
Trông trời trông đất trông mây
Trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng
(Ca dao)
Trong khi tự nhiên thì lại thay đổi thất thường, “sớm nắng chiều mưa” buộc
con người phải biết ứng phó linh hoạt với từng tình huống cụ thể. Cùng với đó,
cuộc sống cộng đồng lại ràng buộc con người trong nhiều mối quan hệ “dây mơ
rễ má” đan bện chằng chịt, từ láng giềng đến anh em, họ hàng, thông gia… đòi
hỏi con người phải biết ứng xử khéo léo trong từng mối quan hệ. Thực tế ấy đòi
hỏi con người phải có cái nhìn biện chứng trong mối quan hệ tổng hòa giữa các
yếu tố “thiên thời - địa lợi - nhân hòa”, phải biết ứng phó linh hoạt cho phù hợp
với từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Từ đó hình thành kiểu tư duy tổng hợp –
biện chứng và ứng xử mềm dẻo, linh hoạt như là một đặc điểm tiêu biểu của tư
duy và lối sống nông nghiệp. “Về nhận thức, cuộc sống nông nghiệp luôn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau đã khiến con người phải chú trọng tới các mối
quan hệ giữa chúng, dẫn tới lối tư duy biện chứng” [71,17]. Thêm nữa, do tính
chất thời vụ của công việc nhà nông nên thời gian và nhịp sống nông nghiệp
không ổn định và nề nếp, qui củ như lối sống của cư dân công nghiệp. Lúc mùa
vụ thì căng thẳng, khẩn trương, không giờ giấc; ngược lại, lúc nông nhàn thì lại
rỗi rãi, dư thừa thời gian, từ đó tạo nên lối sống tùy tiện, không theo một nguyên
tắc, nề nếp, qui trình có sẵn. Đó là những lý do đó khiến cho “văn hóa Việt Nam
chứa đựng sự kết hợp kỳ diệu của cái ổn định và cái linh hoạt” (Trần Ngọc Thêm,
Cơ sở văn hóa Việt Nam).Trong cuốn Việt Nam văn hóa sử cương, nhà nghiên
cứu Ðào Duy Anh cũng từng nhận xét rằng, người Việt “bắt chước, thích ứng và
dung hòa (...) rất tài”[1, 24]. Còn nhà nghiên cứu Cao Xuân Huythì cho rằng
người Việt “có cái đặc tính mềm mại, uyển chuyển, linh hoạt, lưu động, như
nước. (...) Đó là cái khả năng thích ứng vô hạn của nó (...). Chính cái khả năng
thích ứng (...) là cái tính ưu việt, cái bí quyết sinh tồn của dân tộc ta" [72, 363 –
364].
Như vậy, các học giả, với những cách nói khác nhau, nhưng đều từ quá trình
phát triển của thực tiễn xã hội và nề nếp sinh hoạt mà rút ra kết luận khái quát về
một đặc điểm quan trọng trong bản tính của dân tộc ta. Gần đây, các nhà nghiên
cứu Phan Ngọc, Trần Quốc Vượng, Nguyễn Huệ Chi, Trần Ðình Hượu, v.v…,
trong các công trình nghiên cứuvề văn hóa Việt Nam đều nhấn mạnh tính linh
hoạt, mềm dẻo trong ứng xử như là một đặc điểm nổi bật của người Việt từ xưa
đến nay. Cách tư duy, ứng xử này ăn sâu vào trong tiềm thức cộng đồng,được
đúc kết và lưu truyền trong dân gian qua những câu thành ngữ, tục ngữ như:
“Tùy cơ ứng biến”; “Nhập gia tùy tục”; “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”; “Đi với
Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”; “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”…
Tư duy biện chứng và ứng xử mềm dẻo, linh hoạt, tùy cơ ứng biến hiển nhiên
là có nhiều lợi thế cho sự thích nghi với mọi tình huống xã hội và ứng phó với tự
nhiên trong điều kiện của cuộc sống nông nghiệp khiến con người luôn phải ở
trong tình thế bị động. Tuy nhiên, cũng chính từ đây đã sản sinh ra nhiều hệ lụy
tiêu cực trong thói quen, lối sống và các hành vi ứng xử của người Việt truyền
thống, trước hết, và cũng dễ nhận thấy nhất, đó là lối sống tùy tiện, thiếu tính kỉ
luật, vô nguyên tắc, từ đó dẫn tới tính tư biện trong nhận thức và tuỳ tiện trong
hành động. Đặc điểm này hiển nhiên là không thích hợp với điều kiện phát triển
nền kinh tế thị trường và nhu cầu hội nhập kinh tế hiện nay. Thói quen ứng xử
tùy tiện, thiếu tính kỷ luật, vô nguyên tắc lại càng không thể chấp nhận trong một
xã hội có tổ chức, nề nếp, kỷ cương với nguyên tắc thượng tôn pháp luật, trong
khinhững căn tính tiểu nông này hiện đang di căn rất nặng nề trong một bộ phận
không nhỏ người Việt Nam hiện nay và đang tác động tiêu cực đến thái độ và
hành vi ứng xử với pháp luật. Do việc người ta đã quen với nhiều cách ứng xử
khác nhau trong cùng một hoàn cảnh, nên dẫn đến thói quen “lách luật” mà hiện
nay đang tồn tại phổ biến với nhiều dạng biến tướng khác nhau như: làm ăn gian
dối, tệ nạn hối lộ, đi cửa sau để giải quyết công việc, chạy chức chạy quyền, chạy
án…Đây thực chất là biểu hiện của lối sống coi thường pháp luật, thậm chí vô
hiệu hóa pháp luật ngay từ trong suy nghĩ và hành vi của mỗi người, để rồi lâu
dần trở thành như một thói quen hiện đã được định danh bằng cụm từ “văn hóa
chạy” [65].
Cũng từ lối sống nông nghiệp với tư duy nặng về kinh nghiệm chủ quan, cảm
tính, thói quen tùy tiện, lối sống thiển cận “nước đến chân mới nhảy” nên đã hình
thành ở người Việtkiểu tư duy manh mún, nhỏ lẻ, thiếu tư duy lý luận, không có
tính chiến lược và tầm nhìn xa.Đặc điểm này của văn hóa tiểu nông đã và đang
hiện diện rõ nét trong cách thức điều hành và hoạch định chính sách của các nhà
quản lý của chúng ta hiện nay.Biểu hiện rõ nhất là sự tùy tiện, manh mún, thiếu
định hướng trong việc qui hoạch đô thị, giao thông, khu công nghiệp… kéo theo
những hệ luỵ nặng nề về kinh tế, xã hội và môi trường cho hiện tại và cả mai sau.
Trong lĩnh vực hoạch định chính sách pháp luật và thực thi pháp luật, sự tùy tiện,
chủ quan, cảm tính, sự thiếu đồng bộ và nhất quán trong việc soạn thảo, ban hành
các văn bản pháp luậtcũng như việc tổ chức và thực thi pháp luật đang là những
hạn chế rất lớn, gây nên nhiều tác động tiêu cực đối với đời sống xã hội, làm gia
tăng thói quen hành xử không thượng tôn pháp luật, suy giảm niềm tin vào tính
hiệu lực của pháp luật. Đó là nguyên nhân trực tiếp khiến cho lời tuyên
truyền,kêu gọi “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” hiện chỉ đang là
khẩu hiệu chứ chưa trở thành một thói quen, một văn hoá ứng xử.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong điều kiện phát triển
nền kinh tế thị trường và đẩy mạnh hội nhập quốc tế trước hết đòi hỏi hệ thống
pháp luật phải được xây dựng đồng bộ, thống nhất, hoàn thiện mới có thể hòa
nhập bình đẳng trong sân chơi quốc tế. Vì vậy, khi cái chất tiểu nông với thói
quen, lối sống tùy tiện, vô kỷ luật, với kiểu tư duy manh mún, nhỏ lẻ, thiếu tầm
nhìn chiến lượcđang có sức sống tiềm tàng trong tâm thức mỗi người Việt Nam,
từ nông thôn đến thành thị, từ nông dân đến trí thức, từ thường dân đến quan
chức thì đó không chỉ là những thủ phạm đang níu kéo, cản trở công cuộc xây
dựng nhà nước pháp quyền màcòn làmột rào cản rất lớn đối với đất nước trong
quá trình hội nhập để phát triển.
Bên cạnh những yếu tố văn hóa truyền thống là hệ quả của phương thức sản
xuất nông nghiệp thì Nho giáo và Phật giáo, vốn là những yếu tố văn hóa ngoại
sinh nhưng đã hòa nhập, thẩm thấu vào tầng sâu của bản sắc văn hóa Việt Namđể
cùng làm nên một dòng chảy mang tên “văn hóa Việt”.Bởi vậy, xem xét sự tác
động của văn hóa truyền thống đến văn hóa ứng xử với pháp luật của người Việt
hiện nay không thể bỏ qua sự chi phối của Nho giáo và Phật giáo.
2.2. Sự tác động của tư tưởng Nho giáo
Mỗi thời đại đều có một hệ tư tưởng chính trị, theo đó là những chuẩn mực
đạo đức làm nền tảng cho sự tổ chức xã hội. Dưới chế độ phong kiến tập quyền ở
Trung Hoa cũng như các quốc gia chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn hóa Trung
Hoa, trong đó có Việt Nam, Nho giáo là hệ tư tưởng thống trị xã hội. Hơn 1.000
năm du nhập vào Việt Nam là khoảng thời gian quá đủ để Nho giáo Trung Hoa
để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng văn hóa Việt để từ đó tác động sâu sắc và toàn
diện đến tư tưởng lối sống,cách tư duy và hành vi ứng xử của người Việt.
2.2.1. Nho giáo với tư tưởng trong đạo lý hơn pháp lý
Nho giáo là hệ tư tưởng đề cao vai trò của đạo đức và lễ giáo trong quản lý xã
hội, trái ngược với tư tưởng pháp trị của Pháp gia chủ trương dùng pháp luật để
cai trị xã hội. Nho giáo xem đạo đức là nền tảng cho chính trị, trong đó, “Tam
cương” (quân - thần, phụ - tử, phu- phụ), “Ngũ thường” (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín)
và thuyết “Chính danh” được coi là những nguyên lý thường hằng, bất biến, là
các chuẩn mực đạo đức làm cơ sở để đánh giá hành vi xử sự của con người theo
đúng vị thế xã hội của mình, và đó cũng là nền tảng để xây dựng xã hội thái bình,
trật tự và ổn định. Từ đó Nho giáo chủ trương đề cao đức trị hơn pháp trị trong
đường lối trị nước. Theo Khổng Tử: “Cai trị dân mà dùng mệnh lệnh, đưa dân
vào khuôn phép mà dùng hình phạt thì dân có thể tránh được tội lỗi nhưng không
biết liêm sỉ. Cai trị dân mà dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ thì
dân sẽ biết liêm sỉ và thuận lòng quy phục”[dẫn theo: 47, 109]..Khổng Tử quan
niệm rằng, pháp luật chỉ khiến người ta vì sợ mà không dám làm điều ác. Khi có
thể giấu, có thể tránh được sự trừng phạt thì những kẻ xấu vẫn cứ làm điều ác.
Đức trị thì khác. Khi chuẩn mực đạo đức thành hành vi tự nguyện của dân thì họ
không phạm tội nữa. Không phải vì sợ pháp luật mà sợ xấu hổ trước người khác,
sợ bị cắn rứt lương tâm. Bởi vậy, trong kho tàng lý luận của mình, Nho giáo ít
bàn đến luật pháp và cũng không coi trọng vai trò của luật pháp trong việc trị
nước.
Cũng theo Khổng tử, đạo đức chỉ được củng cố bằng những nghi thức và
những qui tắc trong đời sống, bởi vậy, đức trị còn được bổ sung bằng lễtrị. Trong
Tứ thư và Ngũ kinh của Khổng giáo đầy những lời răn dạy và những qui tắc trong
ứng xử hàng ngày, từ cách thức ăn mặc, nói năng, chào hỏi cho đến thái độ của
bề tôi đối với vua, con cái đối với cha mẹ, vợ đối với chồng. Lễ trị là biện pháp
để thực hiện đức trị.Dùng lễ để tạo thành nề nếp, qui củ trong thói quen, lối sống
một cách tự nhiên, tức là để tạo thành cái bầu không khí đạo đức. Khổng tử dạy
rằng: “Đạo đức nhân nghĩa không có lễ không thành, dạy bảo sửa đổi phong tục
không có lễ không đủ, xử việc phân tranh kiện tụng không có lễ không định, học
làm quan, nhờ thầy, không có lễ không thân, xếp đặt thứ vị trong triều, cai trị
quân lính, đi làm quan, thi hành pháp lệnh không có lễ không thành kính…” [dẫn
theo:73,115]. Như vậy, mục đích của lễ là định ra tôn ti trật tự trong gia đình, xã
hội và quốc gia. Ngoài ra, lễ cũng còn có vai trò tiết chế hành vi của con người:
“Người giàu sang biết lễ thì không dâm tà, không kiêu căng, người bần tiện biết
lễ thì không nản chí, không làm bậy. Người làm vua chúa biết lễ thì mới trị nước,
yên dân. Lễ đối với việc trị nước cũng như cái cân đối với việc nặng, nhẹ, cái dây
đối với việc thẳng, cong, cái qui, cái củ đối với vật tròn, vật vuông vậy” [73,119].
Ưu thế của việc trị nước bằng đức trị - lễ trị so với pháp trị, theo Khổng giáo
là ở chỗ: “Dùng lễ có lợi hơn pháp luật, có thể ngăn cấm được việc chưa xẩy ra,
còn dùng pháp luật thì chỉ để trị cái việc đã rồi, bởi vậy thánh nhân chỉ trọng lễ
chứ không trọng hình” [73, 119].
Tóm lại, Nho giáo tuy không phủ nhận vai trò của pháp luật trong việc giữ gìn
trật tự xã hội, song lại hướng tới nguồn gốc của sự bình an hơn là dùng hình luật
để đe dọa hoặc trừng phạt điều ác khi nó đã xảy ra. Khi xã hội được tổ chức theo
triết lý đức trị, lấy sự tự giáo dục theo “nhân, nghĩa, lễ trí, tín” để làm nguyên tắc
“tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” thì pháp luật bị đẩy xuống hàng thứ yếu
là lẽ hiển nhiên. Cả ngàn năm tồn tại của thể chế nhà nước phong kiến trên nền
tảng của tư tưởng Nho giáo cũng đủ để ăn sâu vào tâm thức cộng đồng về tư
tưởng “trọng đức” hơn “trọng pháp”.
2.2.2. Nho giáo với truyền thống “vô tụng”
Hệ quả của quan điểm đề cao đạo lý hơn pháp lý tất yếu đã hình thành tư
tưởng “vô tụng” trong việc thực hành đường lối trị nước của Nho giáo. Có thể
nói, chủ trương “vô tụng” của Nho giáo được thực thi từ gốc, đó là sự triệt tiêu
quyền cá nhân – cơ sở nảy sinh ý thức phản kháng của con người, và cũng là
nguyên nhân nảy sinh việc kiện tụng.
Suốt hàng ngàn năm lịch sử, với “Tam cương”, “Ngũ thường” và “Thuyết
chính danh”, Nho giáo đã thiết lập và duy trì trong xã hội phương Đông (nói
chung) và Việt Nam (nói riêng) một trạng thái ổn định đến mức trì trệ. Cùng với
truyền thống đề cao tính cộng đồng, con người cá nhân trong xã hội truyền thống
Việt Nam vốn đã bị khuất lấp sau gia đình, họ hàng, làng, nước; thêm vào đó,
Nho giáo đã định hình một chuẩn mực đạo đức xã hội mà ở đó, sự tồn tại của cá
nhân con người đồng nghĩa với các nghĩa vụ trong những quan hệ quyền lực
được sắp xếp theo tôn ti trật tự, bắt đầu từ gia đình, mở rộng ra làng xã cho đến
quốc gia.Nền văn hoá gia trưởng ấy đã cắm rễ rất sâu vào trong máu thịt của mỗi
người, khiến cho khái niệm về cá nhân cũng nhưquyền cá nhân bị lu mờ, thậm
chí bị triệt tiêu. Bởi vậy, cố học giả Trần Đình Hượu cho rằng, con người Việt
Nam là “con người chức năng trong xã hội luân thường… Trong xã hội luân
thường, con người không phải là những cá nhân có thân thể, có dục vọng, có
quyền lợi, có cá tính…” [74, 28-29].Tuy cũng có ý thức về nghĩa vụ tương hỗ
giữa người cai trị và kẻ bị cai trị, song trong tư tưởng trị nước của Nho giáo lại
không có một sự ràng buộc nào (cả về đạo lý lẫn pháp lý) đối với nhu cầu tôn
trọng và bảo vệ tự do cá nhân[xem: 17, 192-193]. Vì vậy, Nho giáo thực chất là
công cụ tư tưởng của bộ máy cai trị phong kiến chuyên quyền nhằmbảo vệ và
duy trì quyền lực với sự phân chia thứ bậc, tôn ti, phân biệt kẻ sang, người hèn,
bắt “kẻ dưới” phải làm tròn bổn phận, phải biết phục tùng người trên; áp đặt ý chí
của quan quyền buộc thần dân phải tuân phục, không được phản biện, càng tuyệt
đối không được chống đối.
Trong thể chế quân chủ phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, tư
tưởng, giáo lí của Nho giáo đã chi phối đến tổ chức bộ máy hành chính và các
nguyên tắc điều hành nó, trong đó vua là người “thay trời hành đạo” cho nên có
quyền lực tối thượng. Vua là người đặt ra pháp luật, là người có quyền cho dân
sống hay bắt dân chết. Khi vua ra sắc lệnh, chiếu, dụ, triều đình và quan lại các
cấp nhất nhất phải thi hành, dù sắc dụ đó đúng hay sai, hợp hay không hợp với
thực tế. Từ đội ngũ quan lại cho đến thần dân phải tuyệt đối tuân lệnh vua; quan
bề dưới phải phục tùng quan bề trên theo tôn ti trật tự. Trong thể chế nhà nước
ấy, không có sự phân quyền rõ rệt giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp;
không có các cơ quan dân cử độc lập với chính quyền để kiểm tra, giám sát. Dân
hầu như không được biết, không được tham gia vào các hoạt động của nhà nước
mà chỉ có nhiệm vụ tuân thủ các quyết định của những người đứng đầu các cấp
chính quyền. Đó là cơ sở tồn tại và duy trì kiểu nhà nước quân chủ nặng tính
quan liêu, chuyên chế, trong đó quan lại đặc quyền đặc lợi, áp bức dân, xa dân và
đối lập với quyền lợi của dân, mà biểu hiện rõ nhất là ở những thời kì xã hội đi
vào suy vong, quan lại tha hóa, biến chất.
Vì không có cơ sở pháp lý nào ràng buộc trách nhiệm của chính quyền đối với
quyền lợi của chúng dân, cũng như nhu cầu tôn trọng và bảo vệ lợi ích cá nhân
nên trong xã hội phong kiến Việt Nam, quan hệ giữa nhà nước và công dân là
quan hệ bất bình đẳng: nhà nước thì có độc quyền áp đặt, còn công dân thì phải
có nghĩa vụ đối với nhà nước. Đó là một xã hội thần dân, trong đó cho ý thức
công dân không có cơ hội phát triển. Không những thế, do quyền lực không bị
kiểm soát bởi pháp luật cho nên đã tạo điều kiện cho sự lộng quyền; ở đó, công lý
thuộc về kẻ mạnh, thuộc về “bề trên”; ở đó, kẻ có quyền có thể tùy tiện bắt người
hay tha người, bỏ tù hay chém giết. Thêm vào đó, do mặt bằng dân trí thấp, pháp
luật lại không có điều kiện để phổ biến rộng rãi nên người dân không am hiểu
pháp luật, bởi vậy khi xử án dân không biết là đúng luật hay không đúng luật, tất
cả đều phụ thuộc vào quan tòa. Như vậy, có thể thấy, cùng với tính cộng đồng
trong văn hóa làng xã, Nho giáo đã góp phần làm mờ nhạt thêm, thậm chí triệt
tiêu quyền cá nhân, ý thức công dân cùng với tinh thần phản kháng của con
người, thay vào đó là tâm lí “thượng tôn quan quyền”.
Hệ quả là, thể chế nhà nước phong kiến cùng với cung cách làm việc của bộ
máy hành chính và đội ngũ quan lại các cấp là một hệ thống quan liêu, cồng
kềnh, xa rời và thậm chí đối lập với quyền lợi của nhân dân. Trong đế chế quyền
lực không được kiểm soát chặt chẽ bởi các qui tắc pháp lý ấy, quan lại được coi
như cha mẹ dân, còn phận dân đenchỉ là “con sâu cái kiến”, chỉ có bổn phận cam
chịu, phục tùng, để rồi sự kiện tụng (họa hoằn lắm nếu có xảy ra) thì cũng chỉ là
“con kiến mà kiện củ khoai”!
Cùng với việc phủ nhận quyền cá nhân và triệt tiêu ý thức phản kháng của con
người, sự tồn tại của hệ thống pháp luật phong kiến với vai trò là công cụ thực thi
quyền lực của giai cấp thống trị cũng là nguyên nhân tạo nên ở người dân tâm lí
“dị ứng” với pháp luật khi họ ý thức được rằng pháp luật không phải để bảo vệ
lợi ích cho mình, và cùng với đó là thái độ thờ ơ, né tránh pháp luật.
Mặc dù trên lý thuyết thì Nho giáo phê phán tư tưởng pháp trị, nhưng trong
thực tế, các triều đại phong kiến Việt Nam lại kết hợp giữa đức trị với pháp trị.
Tuy nhiên, pháp luật thời phong kiến cũng do nhà Nho xây dựng nên, vì vậy luật
pháp của các triều đại phong kiến Việt Nam có chức năng chủ yếu là bảo vệ
quyền lợi của giai cấp thống trị và quyền lợi của dòng họ thống trị. Điều này
được thể hiện rõ trong nội dung và tính chất của các điều luật. Luật pháp qua các
thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn đều được xây dựng trên nguyên tắc phải bảo đảm
quyền uy và sự bền vững của ngôi vua, bởi vua là thiên tử, là con trời, ngôi vua là
tôn nghiêm nhất, không ai có thể xâm phạm được. Trong các tội được xem xét để
miễn giảm hình phạt thì những người có quan hệ thân thích với nhà vua được
quan tâm trước tiên. Thêm nữa, theo quan niệm của Nho giáo, quan tòa và các
đạo luật là những công cụ cần thiết để trừng phạt các loại tội phạm chứ không
cần thiết để điều chỉnh quan hệ giữa những người trung thực. Vì vậy, về cơ bản
các bộ luật của các nhà nước phong kiến Việt Nam là những bộ luật hình
sự.Minh chứng rõ ràng nhất là tên các bộ luật thường có kèm theo chữ “hình”:
LuậtHình thư, Quốc triều Hình luật, Lê triều Hình luật. Trong các bộ luật hình
luật, dù có điều chỉnh về những quan hệ dân sự nhưng vẫn kèm theo chế tài hình
sự. Khi luật pháp đồng nghĩa với hình phạt, mà lại là những hình phạt hà khắc
nên trong con mắt người dân, pháp luật chỉ là công cụ trừng trị. Về tính chất khắc
nghiệt củapháp luật thời Trần, sách Cổ sự sao nói: “Hình pháp nhà Trần rất tàn
khắc, kẻ ăn trộm và kẻ trốn tránh thì bị chặt ngón chân, giao cho người sự chủ
được thỏa ý sự trị, hoặc cho voi giầy chết” [75, 290]. Các mức án thường dùng
nhục hình như thích chữ vào mặt, chặt bàn tay, xẻo thịt… làm cho người phạm
tội phải chịu nhiều khổ nhục. Không những thế, pháp luật còn qui định trách
nhiệm liên đới, một người gây án khiến cả họ phải chịu vạ lây một cách oan
uổng. Với những hình phạt dã man, tàn bạo và bất công như vậy nên từ đó người
dân đã hình thành tâm lý né tránh đối với pháp luật, chống đối pháp luật, sợ hãi
chốn pháp đình, coi đó chỉ là nơi trừng phạt, coi việc phải ra tòa là một việc ghê
gớm, là tai họa, là vạn bất đắc dĩ, là “vô phúc đáo tụng đình” [18, 14]. “Cửa
quan” vì vậy trở thành chốn xa lạ và đáng sợ đối với dân chúng. Đó là lý do
khiến người Việt Nam (cũng như các quốc gia chịu ảnh hưởng của Nho giáo)
không muốn dính dáng đến chuyện kiện tụng. Nếu có xung đột, tranh chấp xảy ra
giữa các cá nhân thì thường được giải quyết bằng con đường hòa giải và thỏa
thuận dựa trên các nguyên tắc đạo đức là chính.
Hơn nữa, vì chủ trương đức trị nên việc sử dụng pháp đình cũng không được
Nho giáo coi trọng. Khổng Tử nói: “Xét xử việc kiện tụng, ta cũng như người.
Tất phải làm cho dân không có việc kiện tụng”[76, 23]. Từ đó Nho giáo khuyến
khích “vô tụng”. Việc kết hợp, lồng ghép giữa đức trị với pháp trị, khiến cho sự
phân cách giữa đạo lý và pháp lý là một ranh giới mờ, nhập nhằng, nhiều khi khó
phân định. Bằng chứng là, trong các bộ luật thời phong kiến Việt Nam, “Tam
cương”, “Ngũ thường” là đạo lý nhưng cũng đồng thời là pháp lý.
Cũng do pháp trị không phải là tư tưởng chủ đạo để quản lý xã hội cho nên
trong xã hội phong kiến Việt Nam, pháp luật vừa thiếu đồng bộ, lạibị áp dụng
một cách tùy tiện, chủ quan, cảm tính, thậm chí còn bị một bộ phận quan lại thao
túng, lũng đoạn.Thêm vào đó, việc khó phân định ranh giới, phạm vi giữa đạo lý
và pháp lý cũng là một nguyên nhân dẫn đến hệ quả là việc xét xử các vụ án
thườngkhông công bằng, khó tránh khỏihiện tượng “tội đồng luận dị” (tội giống
nhau nhưng phán xử lại khác nhau) do tính chất chủ quan, cảm tính, tùy tiện.
Như vậy, suốt cả một chiều dài lịch sử hàng nghìn năm, trên nền tảng Nho giáo,
các triều đại phong kiến Việt Nam đã mặc nhiên coi pháp luật như là công cụ của
công quyền, là hình phạt để cai trị dân chúng khiến cho người dân không nhìn
thấy ở pháp luật sự bảo vệ mình mà lại là sự đối lập với mình.Tất cả những lý do
trên đây đã khiến cho người dân có thái độ nghi ngờ, thiếu tin tưởng vào tính
công bằng và nghiêm minh của pháp luật. Khi pháp luật trong con mắt người dân
không còn đại diện cho công lý, không bảo vệ quyền lợi công bằng và chính đáng
cho dân, thì cùng với đó là tâm lí “dị ứng” với pháp luật, thờ ơ hoặc sợ hãi, né
tránh chốn pháp đình, coi việc sử dụng pháp luật trong các quan hệ xã hội chỉ
làmột giải pháp “cực chẳng đã” khi không thể khác được. Từ đó, thái độ và kinh
nghiệm ứng xử tiêu cực đối với pháp luật được dân gian đúc kết và truyền tụng
qua các câu thành ngữ, tục ngữ đã trở thành quen thuộc như:
- Muốn nói oan làm quan mà nói
- Muốn nói gian làm quan mà nói
- Miệng quan trôn trẻ
- Con kiến mà kiện củ khoai
- Dân kiện quan như trứng chọi đá…
- Nén bạc đâm toạc tờ giấy
- Kim ngân phá luật lệ
- Tiền bạc đi trước, mực thước đi sau
- Được vạ thì má đã sưng
- Được kiện mười bốn quan năm,thua kiện mười lăm quan chẵn
- Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ
- Đã đưa đến trước cửa công,ngoài thì là lý nhưng trong là tình
- Nhất quen, nhì thần, tam thần, tứ thế
- Vô phúc đáo tụng đình
Vì pháp luật không dành cho những phận người “thấp cổ bé họng”, những
“con sâu cái kiến” cho nên người dân đành quay về cố thủ sau luỹ tre làng, bằng
lòng với lệ làng, hương ước tuy giản dị đơn sơ và có phần hoang dã nhưng lại
gần gũi, thân thuộc, và quan trọng hơn là nó phản ánh được ý chí, nguyện vọng
và phù hợp với quyền lợi của họ.
Tóm lại, Nho giáo với tư tưởng trọng đạo lí hơn pháp lí, đề cao đức trị hơn
pháp trị cùng với hàng loạt những hệ lụy của nó, khi tích hợp, thẩm thấu vào văn
hóa bản địa Việt Nam, cùng với thói quen, lối sống cộng đồng, trọng tình nhẹ lí,
trọng lệ hơn luật vốn đã rất nặng nề, lại càng góp phần củng cố thêm thái độ ứng
xử tiêu cực với pháp luật của người Việt. Tư tưởng, giáo lí của Nho giáo dung
hợp với nền tảng văn hóa nông nghiệp lúa nước tiểu nông đã hình thành những tư
tưởng ăn sâu, quện chặt trong tư duy và cách ứng xử của người Việt truyền
thống, đó là lối sống không theo chuẩn mực pháp lý, là thói quen hành xử không
thượng tôn pháp luật. Truyền thống này vẫn còn di căn rất rõ nét trong xã hội
hiện đại, từ người dân cho đến cách hành xử của các cơ quan công quyền [48,
211].
Bước sang thế kỉ XX, ở Việt Nam, với sự diệt vong của chế độ phong kiến và
sự giải thể của nền giáo dục cũ, Nho giáo không còn chỗ dựa để tồn tại và chi
phối như một hệ tư tưởng chính thống. Tuy nhiên cho đến nay, dấu ấn của Nho
giáo vẫn còn luân lạc trong dân gian một cách tự do và phân tán trong những giá
trị văn hóa bền vững để vẫn không thôi chi phối, ảnh hưởng đến cuộc sống của
chúng ta hiện nay, trong đó có văn hóa ứng xử với pháp luật. Những tư tưởng,
tâm lý và thói quen hành xử đã trở thành truyền thống hiện vẫn còn di căn khá
nặng nề trong xã hội ta, được biểu hiện rõ nét trong hành xử quyền lực, khi tinh
thần thượng tôn pháp luật vẫn chưa thực sự được coi trọng, khi thái độ “thượng
tôn quan quyền” vẫn tồn tại khá phổ biến. Bằng chứng là:
a) Trong mối quan hệ ứng xử giữa cơ quan công quyền với người dân, một bộ
phận công chức khi thực thi nhiệm vụ mà nhân dân giao phó vẫn còn thái độ “ban
ơn”, nghĩ mình là bề trên nên hách dịch, ra oai, nhũng nhiễu nhân dân, còn thái
độ ứng xử phổ biến của người dân trước cơ quan công quyền là rụt rè, e ngại,
không chủ động khi thực hiện các quyền chính đáng và hợp pháp của mình. Đó là
lực cản vô hình nhưng tác động của nó thì lại không kém phần sâu sắc và nặng nề
cho công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Nhận xét về
thực trạng này, tác giả Bùi Ngọc Sơn cho rằng: “Chính từ ý thức ấy của Nho giáo
mà quan hệ giữa người dân và các cơ quan công quyền vẫn luôn là mối quan hệ
xin – cho, ban phát chứ không phải mối quan hệ bình đẳng theo quy định pháp
luật. Thậm chí tư tưởng Nho giáo còn khiến người ta chỉ biết phục tùng quyền
lực nhà nước chứ không biết đến vị thế bình đẳng giữa mình và nhà nước. Người
dân Việt Nam vẫn luôn có thói quen “Thượng tôn quan quyền”. Trước công
quyền, trước cán bộ nhà nước, người dân thường có tâm lý sợ, cả nể, ứng xử rụt
rè, không dám nêu lên ý kiến của mình, thích a dua theo người trên, khi quan lại
vi pham đến quyền lợi của mình thì cũng xem như “con kiến kiện củ khoai”. Mặt
khác cũng từ đó mà quan chức cũng thấy được địa vị “bề trên” của mình mà hách
dịch, những nhiễu, gây ảnh hưởng đến quyền lợi nhân dân. Có thể nói ở nước ta
người dân thực hiện quyền như thực hiện nghĩa vụ còn cán bộ Nhà nước khi thực
hiện nghĩa vụ trước dân như là thực hiện quyền [xem: 49, 108].Còn từ phía Nhà
nước, tác giả Võ Khánh Vinh trong bài viết “Mối quan hệ giữa xã hội - cá nhân -
nhà nước trong nhà nước pháp quyền…” nhận xét: “…pháp luật hiện hành đang
đề cao vị trí và lợi ích của nhà nước; cá nhân công dân là đối tượng quản lý của
nhà nước. Điều này thể hiện rõ trong các qui định pháp luật thuộc nhiều ngành
luật khác nhau, khi trong đời sống chính trị - xã hội, quyền lợi của nhà nước được
đặt trước quyền lợi công dân” [76, 8].
Thực tế này cho thấy, công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta
hiện nay phải được bắt đầu từ gốc, đó là phải thay đổi quan niệm, nhận thức của
cả người dân và các cơ quan công quyền về mối quan hệ bình đẳng giữa người
dân và nhà nước.
b) Như một di căn của truyền thống, quan niệm coi pháp luật là công cụ của
giai cấp thống trị, là nơi phản ánh ý chí của giới cầm quyền vẫn còn để lại dư âm
trong tư duy của các nhà làm luật hiện nay, khi pháp luật vẫn còn nặng tính chất
“vị nhà nước” mà chưa thực sự hướng về phía lợi ích của người dân. Trong tâm lí
của người làm luật ởn ước ta từ xưa đến nay vốn vẫn nặng quan niệm cho rằng
luật sinh ra là để quản lý, để cấm đoán chứ không phải là để bảo vệ quyền con
người, nay lại được củng cố hơn khi chúng ta hiện vẫn đề cao tính giai cấp của
pháp luật. Từ đây, thói quen chống đối pháp luật của người dân vốn rất nặng nề
trong truyền thống, nay vẫn tiếp tục đeo bám dai dẳng cũng là điều dễ hiểu. Một
truyền thống được tạo dựng trong cả nghìn năm tất nhiên không dễ dàng mất đi
trong xã hội hiện đại, khi mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền là để chống lại
sự lạm quyền của công quyền để bảo vệ con người. Trong nhà nước pháp quyền,
pháp luật có vai trò tối thượng, nó đứng trên nhà nước để kiểm soát nhà nước, là
công cụ để người dân sử dụng bảo vệ mình, chống lại sự lạm quyền của nhà
nước. Tuy nhiên, việc xây dựng một nhà nước pháp quyền theo đúng nghĩa của
nó vốn rất thuận lợi ở phương Tây trên nền tảng của nền văn hóa đề cao tính cá
nhân thì đối với Việt Nam công cuộc này đã và đang gặp phải những lực cản
không nhỏ từ rất nhiều những hệ lụy của đặc thù của văn hóa phương Đông, trên
nền tảng của tư tưởng chính trị và đạo đức Nho giáo.
c) Vì chịu ảnh hưởng của tâm lý truyền thống nên người dân Việt Nam hiện
nay đa phần vẫn chưa có thói quen tìm đến tòa án để được bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình[xem: 49, 128]. Ngay cả doanh nghiệp là nơi có nhu cầu
cao về pháp luật nhưng vẫn chưa có thói quen làm việc với luật sư trong việc
hoạch định các chính sách, tìm kiếm đối tác hay đảm bảo tính pháp lý trong các
quyết định kinh doanh của mình. Khi có tranh chấp xảy ra thì việc giải quyết
bằng con đường phi tư pháp, thậm chí là phi pháp được coi trọng hơn là tìm đến
tòa án, bởi trong ý thức và thói quen hành xử phổ biến của người Việt hiện nay,
việc khởi kiện tại tòa chỉ là một giải pháp bất đắc dĩ trong nhiều con đường giải
quyết tranh chấp khác. Đặc biệt, sự hiện diện của tòa hành chính hiện nay xem ra
đang có vẻ như là một sự “xa xỉ”, thừa thãi, bởi trong xã hội truyền thống của
người Việt không có chuyện “dân kiện quan”, cho nên hiện nay người dân vẫn
chưa quen, chưa kịp quen, chưa nhìn thấy ở thiết chế dân chủ đó khả năng bảo vệ
mình khi phải đối đầu với nhà nước.
Tóm lại, được nảy sinh và nuôi dưỡng trong môi trường văn hóa nông nghiệp
tiểu nông cùng với tư tưởng Nho giáo và thể chế chính trị của nhà nước quân chủ
quan liêu nên lối sống trọng lệ hơn luật, trọng đức hơn trọng pháp được bảo lưu
lâu bền trong suốt cả hàng ngàn năm phong kiến, ăn sâu vào tâm lý, tư duy, ứng
xử của xã hội, trở thành lực cản không nhỏ đối với mục tiêu xây dựng nhà nước
pháp quyền hiện nay ở nước ta nói riêng cũng như công cuộc hiện đại hóa đất
nước nói chung.
2.3. Phật giáo với tư tưởng hiếu hòa, nhân ái, vị tha
Khác với Nho giáo, Phật giáodu nhập vào nước ta bằng con đường hòa bình
nên đã nhanh chóng bén rễ ngay từ thời Bắc thuộc, để rồi cộng sinh và thẩm thấu
trong văn hóa Việt ở tầng sâu nhất của triết lí sống từ ngàn năm nay.Ngay từ khi
du nhập vào Việt Nam, những giáo lý cơ bản của đạo Phật như: “từ bi hỉ xả”,
“cứu khổ cứu nạn”, “phổ độ chúng sinh”, đưa chúng sinh tới cõi cực lạc, giải
thoát chúng sinh khỏi mọi nỗi khổ, đã sớm được cư dân Việt chấp nhận rộng rãi
và đã nhanh chóng có được chỗ đứng quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần
của người Việt. Trong cuộc hành trình đi tìm hạnh phúc cho con người, Phật giáo
đã ngộ ra rằng, tham – sân – si là cái gốc của khổ đau, bất hạnh nên muốn gạt bỏ
nó để đạt tới hạnh phúc thì người ta phải tiêu diệt ngay từ trong trứng dục vọng
tham - sân - si, là gốc khởi phát của mâu thuẫn,tranh giành. Cùng với đó, Phật
giáo chủ trương triết lý sống Nhân – Quả, bởi dù người ta làm gì thì cũng đều
gieo nguyên nhân, để rồi chính nó sau này sẽ thành kết quả dành cho người đã
gieo. Vì “thiện giả thiện lai”, “ác giả ác báo” cho nên Phật giáo khuyên con
người hãy gieo nhân lành để hái quả thiện. Tư tưởng “nhân quả” của Phật giáo
thấm sâu trong tư duy và hiện diện rõ nét trong hành vi của người Việt, khiến cho
khi làm điều gì người ta cũng luôn chủ trương khuyến thiện trừ ác để tránh “gieo
gió gặt bão”, "chạy trời không khỏi nắng", “ác giả ác báo”, không chỉ trong kiếp
sống hiện tại mà còn cho cả “luân hồi” vì “đời cha ăn mặn đời con khát nước”.Tư
tưởng khoan dung, nhân ái của Phật giáo đã cộng hưởng rất đồng điệu với văn
hóa trọng tình của người Việt nên đã được các thế hệ người Việt tiếp thu một
cách tự nhiên, tự nguyện “như nước mưa thấm vào lòng đất mẹ”, để rồi từ đó
càng tô đậm thêm triết lý sống thương người, lòng nhân ái, vị tha, bao dung trong
lối sống cộng đồng và ứng xử trọng tình vốn đã rất đậm nét trong truyền thống
của dân tộc ta.
Như vậy, với chủ trương gạt bỏ tham – sân – si, làm lành lánh giữ, Phật giáo
đòi hỏi con ngườitrước hết phải tự hòa giải với bản thân mình. Sau khi tự hòa giải
với mình, nghĩa làm dịu lắng, triệt tiêu dục vọng của mình, con người mới có thể
tiến hành hòa giải với người khác. “Chiến đấu với chính mình để nhường nhịn
người khác” - đó làtriết lý sống mà Phật giáo mong muốn đạt tới.Như thế, Phật
giáo với phương châm hòa giải từ mình, tiến đến hòa giải với người khác, rồi hòa
giải với vũ trụ chính là cách tạo ra một môi trường hòa giải rộng lớn bao la để
con người và vạn vật có thể sống cùng nhau một cách tốt lành.
Có thể nói, tư tưởng, giáo lý của Phật giáo ở tầng sâu nhất của triết lý sống đã
góp phần quan trọng trong việc điều chỉnh suy nghĩ, quan điểm nhận thức về
cuộc sống cũng như hành động hằng ngày của con người, góp phần đem lại sự
bình yên cho cuộc sống.Tuy nhiên, từ góc nhìn của văn hóa ứng xử với pháp luật
thì Phật giáo lại cũng không tránh khỏi sự tác động tiêu cực. Bởi trong khi đề
caonhững giá trị sống tốt đẹp, nhân văn để tạo lập sự bình yên, hòa mục cho xã
hội thì lại cũng chính tư tưởng từ bi bác ái của Phâ ̣t giáo đã góp phần làm hạn
chế, thui chột khả năng hành đô ̣ng và đấu tranh của con người khi cần phải bảo
vệ công lý, lẽ phải. Với thuyết “luân hồi”, “quả báo”, Phâ ̣t giáo khuyên con
người tự tiết chế các hành vi của mình bằng thái độ nhường nhịn, cam chịu, thậm
chí cả nhẫn nhục. Điều này lý giải vì sao khi quyền lợi của mình bị xâm hại,
người Viê ̣t Nam thường không đấu tranh đến cùng mà chọn phương pháp im lă ̣ng
và trông chờ nhiều vào quả báo,tin vào sự trừng phạt của lương tâm, của luật Trời
hơn là luậtpháp.Khi những quy tắc ứng xử này đã thành đạo lý, thành truyền
thống thì người ta cũng không mấy quan tâm đến việc nó có phù hợp với pháp
luật hay không.
Trở lên, chúng tôi đã nghiên cứu và chỉ ra những đặc trưng văn hóa truyền
thống đã chi phối đến mặt tiêu cực trongvăn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên,cũng xin được lưu ý rằng,tìm hiểu những tác động của văn hóa truyền
thống đến văn hóa ứng xử với pháp luật hiện nay, đề tài của chúng tôi chỉ giới
hạn trong phạm vi nghiên cứu những tác động tiêu cực, vì vậy những tác động
tích cực của văn hóa truyền thống đến văn hóa ứng xử với pháp luật của người
Việt sẽ không được đề cập đến ở đây.
Nghiên cứu mối quan hệ chi phối giữa văn hóa truyền thống với những gì
đang diễn ra trong hiện tại đã cho chúng ta thấy một cái nhìn ở chiều sâu của sự
kết nối có tính nền tảng giữa văn hóa với pháp luật. Chỉ ra những tác động của
văn hóa truyền thống đối với những mặt tiêu cực trong văn hóa pháp luật Việt
Nam hiện nay sẽ giúp chúng ta có một cái nhìn sâu sắc, khách quan và biện
chứng hơn về mối liên hệ kết nối giữa truyền thống với hiện đại, giữa văn hóa với
pháp luật. Điều đó cho thấy, không phải tất cả những gì thuộc di sản truyền thống
của dân tộc đều là “nguyên liệu” tốt cho việc xây dựng một nền văn hoá pháp
luậttích cực, khi màtrong truyền thống văn hóa của một dân tộc thường không
phải chỉ có những phẩm chất tinh hoa, mà còn tiềm ẩn những mầm mống cản trở
con đường tiến tới văn minh. Bởi vậy, mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam hiện nay còn gặp nhiều khó khăn hơn là thuận lợi, khi nó được xây
dựng trên nền tảng của một nền văn hóa đậm chất phương Đông (với sự tích hợp
giữa lối sống nông nghiệp và tư tưởng Nho giáo, Phật giáo).Truyền thống văn
hóa ấyđược tạo dựng trong cả nghìn năm nên không dễ dàng thay đổi trong xã
hội hiện đại. Từ đây cũng cho thấy, văn hóa thường có sức mạnh hơnlà pháp luật,
bởi con người luôn hành động theo tập quán, theo thói quen, theo những kinh
nghiệm văn hóa của mình. Nói cách khác, văn hóa có khả năng điều chỉnh hành
vi của con người mạnh hơn cả pháp luật [Xem: 2].
Vậy vấn đề đặt ra hiện nay là, làm thế nào để có thể phát huy sức mạnh của
văn hóa trong việc xây dựng một nền văn hóapháp luật tích cực, lành mạnh? Đến
lượt mình, pháp luật phải được xây dựng như thế nào để có thể đi vào cuộc sống
một cách tự nhiên và tất yếu như là văn hóa? Câu trả lời ở đây là, pháp luật chỉ có
thể trở thành văn hóa, được ứng xử như là văn hóa khi nó là hiện thân của những
giá trị nhân văn chứ không phải là những công cụ cưỡng bức mà người ta chỉ
nhìn thấy ở đó sự đối lập với tự do. Nói cách khác, pháp luật chỉ trở thành văn
hóa khi nó có khả năng “làm cho người cầm quyền tăng thêm được tri thức về
những việc họ phải quản lý và làm cho người thừa hành thêm hứng thú khi họ
tuân lệnh” (Montesquieu).
CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO VĂN HÓA PHÁP LUẬT
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Thực trạng văn hóa pháp luật ở nước ta hiện nay cho thấy, công cuộc đổi mới
đang đặt ra nhiều vấn đề, nhưng trong đó việc nâng cao vai trò, hiệu quả của pháp
luật và xây dựng ý thức tôn trọng pháp luật một cách tự giác và phổ biến đang đặt
ra như một yêu cầu bức thiết. Trong giai đoạn hiện nay, có thể nói, văn hóa Việt
Nam đang ở giai đoạn quá độ, giao thời, khủng hoảng giá trị, khi nhiều giá trị
truyền thống đã tỏ ra lỗi thời, trong khi cái mới đang hình thànhnên chưa định
hình những chuẩn mực mới. Do đó hiện tượng xô bồ, đan xen về văn hóa, trong
đó tốt – xấu lẫn lộn, tệ nạn xã hội lan tràn, khó kiểm soát, thậm chí có lúc, có nơi,
cái xấu nổi trội, lấn át cái tốt, đó là một thực trạng xã hội khó tránh khỏi của mọi
thời kì quá độ.Nhận thức được vấn đề có tính qui luật này là điều cần thiết để
chúng ta xác định cho mình một thái độ ứng xử thích hợp, không hoang mang,
nóng vội nhưng cũng không thể thờ ơ, phó mặc. Bởi vậy, để xây dựng một nền
văn hóa pháp luật Việt Nam tích cực, lành mạnh trong bối cảnh hiện nay, theo
chúng tôi, cần phải có những giải pháp toàn diện và đồng bộ, trong đó cần phải
thực hiện đồng thời cả hai nhóm giải pháp, đó là những giải phápmang tính chiến
lược ở tầm vĩ mô để tạo lập nền tảng lâu dài và bền vững, cùng lúc phải có những
giải pháp cụ thể, cấp bách để duy trì kỉ cương phép nước và thiết lập sự ổn định
xã hội để tạo điều kiện cho sự đổi mới và phát triển.
3.1. Các giải pháp nền tảng có tính chiến lược
Trong điều kiện của nước ta, công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền diễn
ra trong bối cảnh văn hóa truyền thống nông nghiệp và tư tưởng Nho giáo với
nhiều yếu tố không thuận lợi.Bởi vậy, để xây dựng ý thức và hành vi, lối sống
thượng tôn pháp luật trong xã hội Việt Nam hiện nay, theo chúng tôi, phải bắt
đầu từsự thay đổi nền tảng văn hóa mà công việc trước tiên là phải thanh lọc để
loại bỏ những đặc trưng văn hóa tiểu nông với những hệ lụy tiêu cực của nó,
đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại để bổ sung cho những thiếu
hụt của văn hóa truyền thống.
3.1.1. Thanh lọc, tẩy trừ những tiêu cực, lạc hậu của văn hóa truyền
thống
3.1.1.1. Thay đổi tư duy tiểu nông tùy tiện, chủ quan, cảm tính
Lối sống tiểu nông chỉ quen ứng phó với những “tình thế” cụ thể, “tùy cơ ứng
biến”, “nước đến chân mới nhảy” nên đã hình thành trong căn tính người
Việtkiểu tư duy manh mún, nhỏ lẻ, thiếu tính logic và hệ thống, không có tính
chiến lược và tầm nhìn xa, cùng với đó là thói quen ứng xử tùy tiện, vô nguyên
tắc, vô kỉ luật. Mặt khác, do nhận thức và tư duy của người sản xuất nhỏ chủ yếu
dựa vào kinh nghiệm, nặng về cảm tính, chủ quan nên hạn chế về năng lực tư duy
lí luận; cách nhận thức và lối suy nghĩ do đó thường giản đơn, đại khái, phiến
diện, thiếu tính khái quát, toàn diện và khoa học, không nhìn ra bản chất, qui luật,
nguyên nhân, nguồn gốc bên trong của sự vật, hiện tượng.Hạn chế này đang hiện
diện rõ nét trong cách thức điều hành và hoạch định chính sách của các nhà quản
lí của chúng ta hiện nay,biểu hiện qua sự tùy tiện, chủ quan, cảm tính, sự thiếu
đồng bộ và nhất quán trong việc soạn thảo, ban hành các văn bản pháp luật cũng
như việc tổ chức và thực thi pháp luật. Đây đang là những hạn chế rất lớn, gây
nên nhiều tác động tiêu cực đối với đời sống xã hội, làm suy giảm niềm tin vào
tính hiệu lực của pháp luật. Bởi vậy, muốn xây dựng một xã hội thượng tôn pháp
luật thì việc thay đổi lối tư duy tiểu nông tùy tiện, chủ quan, cảm tính phải được
quán triệt trước hết với đối tượng là các nhà quản lý, điều hành các chủ trương,
chính sách xã hội ở tầm vĩ mô.
3.1.1.2.Thay đổi thói quen ứng xử của văn hóa làng
Là hệ quả của văn hóa làng với tính tự trị, thói quen ứng xử “phép vua thua lệ
làng” và những hệ quả của nó hiện đang để lại những di chứng khá nặng nề trong
xã hội ta hiện nay, mà ảnh hưởng trực tiếp nhất là ở phương diện quản lý xã hội
từ vĩ mô đến vi mô.Nếu ngày xưa người dân vẫn quen coi trọng “lệ làng” hơn
“phép nước” thì ngày naythói quen ứng xử ấy vẫn còn di căn trong thực tế, đó là
tình trạng các chủ trương, chính sách từ trên xuống bị tiếp nhận sai lệch, hoặc
được vận dụng một cách tùy tiện, thiếu đồng bộ và nhất quán ở các địa phương,
bộ, ngành, vì lợi ích nhóm – một hiện tượng đang diễn rakhá phổ biến hiện nay.
Thực chất đây là biến thái của thói quentrọng lệ hơn luật, coi thường, thậm chí vi
phạm pháp luật mà ta vẫn quen gọi là hiện tượng “trên bảo dưới không nghe”,“là
lệ làng thời hiện đại”, mà hậu quả là gây nên nhiều tác động tiêu cực đối với đời
sống xã hội, làm suy giảm niềm tin vào sức mạnh và tính nghiêm minh của pháp
luật, và cùng với đó là sự gia tăng thói quen hành xử không thượng tôn pháp luật.
Văn hóa làng với lối sống cục bộ địa phương, khép kínđã hình thành ở con
người thói quenchỉ quan tâm tới những gì liên quan trực tiếp đến lợi ích thiển cận
của mình kiểu “ăn cây nào, rào cây ấy”; “đèn nhà ai nấy rạng”; “của mình thì giữ
bo bo, của người thì để cho bò nó ăn”. Đây là nguyên nhân của thái độ thờ ơ, vô
trách nhiệm với lợi ích chung, chỉ lo vun vén cá nhân, phe nhóm, cục bộ một
cách thực dụng, thiển cận.
Ở góc độ quản lý xã hội, việc khắc phục, loại bỏ tư tưởng cục bộ địa phương,
trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cũng đồng nghĩa với việc thay đổi kiểu tư
duy quản lý “gia đình chủ nghĩa”, “đóng cửa bảo nhau”, “nặng tình nhẹ lý”. Khi
quan hệ công việcbị chi phối bởi tình cảm và các mối quan hệ thân quen, thì hệ
lụy của nó mà ai cũng dễ dàng nhận thấy, đó là tệ nạn “con ông cháu cha”,nạn “ô
dù”, “chủ nghĩa thân quen”, sự kéo bè kết cánh dựa trên mối quan hệ huyết
thống, bà con, đồng hương… để tham ô, hối lộ, bao che, nhũng nhiễu…khiến cho
pháp luật nhiều khi bị vô hiệu hóa. Tuy không tồn tại một cách chính thống và
công khai nhưng ai cũng có thể thấy căn bệnh này đã và đanglà một vấn nạn xã
hội, đanghàng ngày âm thầm, âm ỉ tác động tiêu cực, làm suy giảm sức mạnh của
hệ thống công quyền, gây nên nhiều bức xúc trong xã hội[12, 28].Đây thực sự là
những rào cản lớn mà chúng ta không thể không khắc phục, xoá bỏ khi bước vào
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.Bởi vậy, lời cảnh báo của
V.I.Lênin vẫn còn nguyên ý nghĩa khi ông nói rằng “những thói quen, nhất là thói
quen lạc hậu có một sức ỳ ghê gớm cần phải được chúng ta ghi nhớ và giải quyết
thoả đáng”. Bởi vậy, khắc phục được những tệ nạn này cũng chính là minh bạch
hóa các mối quan hệ công quyền, góp phần nâng cao chất lượng cán bộ, công
chức,làm gia tăng sức mạnh của bộ máy công quyền, tạo điều kiện để pháp luật
được thực thi một cách công bằng, minh bạch.
Tóm lại, mặt trái của văn hóa làng và những căn tính tiểu nông đang là một
rào cản rất lớn đối với đất nước trong quá trình hội nhập và phát triển, khi nó
đang hiện hữu như là một phần văn hóa sống trong tiềm thức mỗi người Việt
Nam, từ nông thôn đến thành thị, từ nông dân đến trí thức, từ thường dân đến
quan chức, từ công dân đến cơ quan công quyền.
Nếu trong nền sản xuất nhỏ tự cung tự cấp, tư tưởng này hình thành như là
một sự thích nghi tối ưu và tất yếu thì ngày nay, khi đất nước bước vào quá trình
hội nhập, chuyển sang một xã hội đô thị và công nghiệp thì những lối sống, thói
quen tư duy ấy của truyền thống đã không còn thích hợp. Không những không
còn thích hợp, nó còn như những tảng đá lớn đang cản đường đi lên của dân tộc
và là nguyên nhân của những hành vi tiêu cực.
Tuy nhiên, việc tẩy trừ, đoạn tuyệt với những tàn dư dai dẳng của căn tính
tiểu nông là cả một cuộc hành trình dài khi nó là hệ quả song hành của công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bởi chỉ khi phương thức sản xuất tiểu
nông – cơ sở sản sinh ra nó không còn tồn tại, thay thế vào đó là phương thức sản
xuất công nghiệp với một nền tảng kinh tế - xã hội văn minh, hiện đại thì mới có
thể nói đến một sự đổi thay toàn diện, sâu sắc và triệt để về văn hóa.
Nhìn ra thế giới, có thể thấy, những đổi thay kì diệu của Nhật Bản cần được
xem là bài học kinh nghiệm đáng để chúng ta “nhìn người mà ngẫm đến ta”. Nhật
Bản như những gì chúng ta thấy hiện nay có thể xem là mẫu mực của một xã hội
văn minh, nề nếp, trật tự, kỉ cương, mặc dù xuất phát điểm của họ cũng là một
quốc gia phương Đông, với nền tảng truyền thống là xã hội nông nghiệp có nhiều
điểm khá tương đồng với Việt Nam. Trước khi trở thành một nước công nghiệp
hàng đầu thế giới, Nhật Bản là một nước nông nghiệp với tỉ lệ nông dân trong
tổng dân số tương đương với Việt Nam. Trước thời Minh Trị Duy Tân (1868-
1912), tới 80% dân số Nhật Bản làm nghề nông và lúa là nông sản chính. Bởi
vậy, từ phương thức sản xuất nông nghiệp cũng đã sản sinh ranền văn hóaNhật
Bảnvới nhiều thói quen, tập tụcvà những tệ nạn cũng như các nước kém phát
triển khác. Người Nhật thời đó cũng có quan niệm coi trọng của riêng hơn của
chung. Quan chức, nhân viên nhà nước thời đó cũng hách dịch, cho rằng mình
thuộc tầng lớp tinh túy mà ban phát ân huệ cho dân chúng. Ngược thời gian về
trước nữa, trong các cuốn sách như Phúc ông tự truyện hay Khuyến học của
Fukuzawa Yukichi cũng phản ánh đầy những thói hư tật xấu của người Nhật,
trong đódân chúng ai cũng lo vun vén lợi ích riêng, chính phủ thì tàn bạo, quan
chức thì tham lam v.v…
Tuy nhiên, cuộc cách mạng Minh Trị vớiviệctiếp thu văn hoá và kỹ thuật của
Tây Âu, với những cải cách sâu sắc, toàn diện và triệt để, bắt đầu từ nền tảng
kinh tế,từ nông nghiệp chuyển sang công nghiệp,kéo theo đó là những cải cách
về chính trị, giáo dục, văn hóa, qua hơn nửa thế kỉ đã làm thay đổi từ lối sống đến
nhân cách người Nhật. Chính cuộc cách mạng triệt để bắt đầu từ nhữngnền tảng
kinh tế - xã hội ấy là nguyên nhân khiến nước Nhật trở thành một cường quốc
kinh tếnhư hiện nay. Thiết nghĩ, bài học của nước Nhật rất cần để chúng ta suy
ngẫm và có những chiến lược phát triển phù hợp.
3.1.2. Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để bổ sung, bù đắp những thiếu
hụt của văn hóa truyền thống
Cùng với việc thanh lọc, tẩy trừ những tiêu cực, lạc hậu của văn hóa truyền
thống thì việc tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại để bổ sung, bù đắp
những thiếu hụt của văn hóa truyền thống cũng là một trong những giải pháp
mang tính chiến lược để hướng tới mục tiêu xây dựng một nền văn hóa pháp luật
Việt Nam tích cực, lành mạnh. Vì rằng, mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền
mà chúng ta đang thực hiện là sự vận dụng học thuyết về nhà nước pháp quyền
phương Tây - vốn là sản phẩm của xã hội công nghiệp - vào một xã hội phương
Đông nông nghiệp, do đó, sự không tương thích về văn hóa khiến chúng ta phải
điều chỉnh, bổ sung để hội nhập và phát triển là điều hiển nhiên.
Theo chúng tôi, từ góc nhìn văn hóa pháp luật, những thiếu hụt của nền tảng
văn hóa truyền thống mà chúng ta cần bổ sung, bù đắp đó là:
3.1.2.1. Tạo điều kiện cho sự phát triển ý thức về quyền cá nhân
Trong những đặc trưng của văn hóa nông nghiệp, tính gắn kết cộng đồng cao
là một truyền thống tốt đẹp đã từng làm nên sức mạnh to lớn để dân tộc ta vượt
qua những thử thách, cam go. Nhưng mặt trái của nó là sự phủ nhận vai trò cá
nhân mà hệ quả của nó làlàm cho con người trở nên thụ động trong các quan hệ,
không dám khẳng định bản lĩnh và nhân cách cá nhân,không dám nhân danh cá
nhân để đòi hỏi những quyền lợi chính đáng cho mình. Thêm vào đó, Nho giáo
cũng góp phần tích cực trong việc phủ nhận, triệt tiêu quyền cá nhân.Đó là
nguyên do giải thích vì sao người Việt Nam hiện nay vẫn chưa thực sự tự giác và
chủ động trong việc sử dụng các quyền cá nhân của mình trong ứng xử với các
quan hệ xã hội, mặc dù đã được hiến pháp và pháp luật qui định.
Muốn xây dựng một nền văn hóa pháp luật theo tiêu chí của nhà nước pháp
quyền thì một vấn đề có tính nền tảng là phải thay đổi quan niệm truyền thống về
vai trò cá nhân, theo đó, nhà nước phải tạo những điều kiện thuận lợi để phát
triển ý thức cá nhân, bởi nhà nước pháp quyền chỉ có thể hình thành và tồn tại với
đúng nghĩa của nó trên nền tảng văn hóa đề cao tính cá nhân. Để tạo điều kiện
phát triển ý thức về quyền cá nhân, trước hết, các cơ quan lập pháp và hành pháp
phải coi trọng vấn đề xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật vào việc
bảo vệ quyền con người, quyền cá nhân đồng thời đảm bảo cho việc thực thi như
là một trách nhiệm phải thực hiện chứ không phải ban phát. Đến lượt mình, mỗi
cá nhân cũng phải có ý thức và chủ động thực hiện các quyền của mình mà pháp
luật đã thừa nhận. Trong thực tế hiện nay, xét trên cả hai phương diện, nhà nước
và công dân, đây đang là một điểm yếu, cũng là một sự thiếu hụt do truyền thống
để lại mà chúng ta cần phải bù đắp kịp thời.
3.1.2.2. Xây dựng ý thức và thói quen sử dụng pháp luật trong các hành vi
dân sự
Trong văn hóa truyền thống Việt Nam, từ sự cộng hưởng một cách hòa điệu
giữa văn hóa nông nghiệp (lối sống cộng đồng và ứng xử trọng tình cả nể, bao
che; lối sống tự trị khép kín trọng lệ hơn luật) với tư tưởng Nho giáo (phủ nhận
quyền cá nhân; đề cao đức trị hơn pháp trị; coi pháp luật là công cụ cai trị;
khuyến khích vô tụng) và Phật giáo (đề cao lòng nhân ái bao dung, sự nhẫn nhục,
cam chịu, dĩ hòa vi quí) khiến cho người dân không tin tưởng vào pháp luật,
không coi pháp luật là cách giải quyết được ưu tiên. Nhu cầu sử dụng pháp luật
để bảo vệ quyền lợi cho mình vì vậy không trở thành một thói quen ứng xử phổ
biến của người dân từ trong nhận thức cho đến hành vi. Vai trò của pháp luật
trong xã hội dân sự vì vậy rất mờ nhạt, lâu dần thành truyền thống coithường
pháp luật, thờ ơ với pháp luật, né tránh pháp luật. Đó cũng là một lý do giải thích
vì sao người Việt cho đến ngày nay vẫn chưa có thói quen tìm đến pháp luật khi
xảy ra các tranh chấp dân sự như một hành vi ứng xử tất yếu và phổ biến ở
cácquốc gia phát triển. Nói cách khác,trong tâm thức người dân hiện nay, pháp
luật vẫn không phải là cách giải quyết được ưu tiên. Lối ứng xử ấy đối lập hoàn
toàn với tinh thần "thượng tôn pháp luật", một đòi hỏi tất yếu của xã hội hiện đại,
của nhà nước pháp quyền. Đây thực sự đang là một thách đố gay gắt khi đất nước
đang bước vào tiến trình hội nhập quốc tế với các quan hệ giao lưu được mở
rộng, trong đó tinh thần "thượng tôn pháp luật" là điểm tựa của việc thực hiện
những cam kết quốc tế. Việc khắc phục những hạn chế của truyền thống và xây
dựng ý thức, hành vi tôn trọng pháp luật cũng như tính chủ động sử dụng pháp
luật với tính cách là yếu tố then chốt của văn hoá pháp luật vì vậy có vai trò cực
kỳ quan trọng. Và đòi hỏi này lại càng quan trọng và bức thiết hơn khi đây là một
trong những điểm yếu lớn nhất có thể dễ dàng nhận thấy trong thực tiễn pháp lý ở
nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, muốn xây dựng thói quen sử dụng pháp luật phổ biến trong xã hội
thì phải tạo lập cho người dân niềm tin vào tính công bằng và nghiêm minh của
pháp luật, coi pháp luật là công cụ để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho mình.
Nhưng muốn người dân có niềm tin đối với pháp luật thì cần phải có những giải
pháp cụ thể và cấp bách để xây dựng và hoàn thiện hệ thống thiết chế thực thi
pháp luật vốn đang bộc lộ nhiều yếu kém hiện nay.
3.2. Các giải pháp cụ thể và cấp bách
Để nâng cao văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay, cùng với việc cần đến
những giải pháp có tính nền tảng và một lộ trình thực hiện có tính chiến lược, thì
hiện trạng của văn hóa pháp luật hiện nay đang đòi hỏi phải có những giải pháp
cụ thể và cấp bách mới mong thiết lập lại trật tự xã hội và kỉ cương phép nước.
3.2.1. Xử lý nghiêm minh, triệt để và kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật
Có thể nói, để pháp luật chỉ thực sự là một công cụ có hiệu lực thì cần phải
đòi hỏi sự kết hợp nhiều yếu tố, trong đó, luật pháp phải chặt chẽ, hình phạt đủ
nặng để có sức răn đe, việc thi hành luật pháp đủ nghiêm minh, quan chức các
cấp đủ gương mẫu, bộ máy nhà nước đủ trong sạch. Tất cả những yếu tố này đều
rất quan trọng và cần thiết để thiết lập lại trật tự công lí trong xã hội ta hiện nay.
Tuy nhiên, trong số đó, giải pháp cụ thể và cấp bách nhất hiện nay, theo chúng
tôi, trước hết cần phải có chế tài đủ mạnh để xử phạt nghiêm minh, triệt để và kịp
thời những hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là những hành vi vi phạm của
quan chức, công chức, điều mà lâu nay dư luận đã và đang rất bức xúc. Có như
thế lấy lại niềm tin cho công chúng đối với sự công bằng và nghiêm minh của
pháp luật, mới làm gương cho xã hội noi theo.
Ngay từ thời cổ đại ở phương Đông cách đây hơn hai ngàn năm, Hàn Phi đã
từng khẳng định sứ mạng, quyền uy và sức mạnh của pháp luật: “Pháp luật không
hùa theo người sang. Sợi dây dọi không uốn mình theo cây gỗ cong. Khi đã thi
hành pháp luật thì kẻ khôn cũng không thể từ, kẻ dũng cũng không dám tranh.
Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất
phu. Cho nên điều sửa chữa được sự sai lầm của người trên, trị được cái gian của
kẻ dưới, trừ được loạn, sửa được điều sai, thống nhất đường lối của dân không gì
bằng pháp luật”[dẫn theo: 13]. Câu nói ấy của cổ nhân cách đây đã hơn hai mươi
thế kỉ, vậy mà đến hôm nay vẫn còn là chân lý, và không những thế, đang là một
bài học nóng hổi tính thời sự đối với chúng ta.“Trừng trị cái sai không tránh kẻ
đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất phu”, câu nói ấy không chỉ thể
hiện sức mạnh, quyền uy của pháp luật mà cũng đồng thời phản ánh ý chí và khát
vọng muôn đời của người dân dưới bất cứ thể chế chính trị nào.Bởi vây, V.I
Lênin cũng từng khuyến cáo: “Ở giờ phút chiến đấu quyết liệt, kẻ nào chùn bước
trước tính chất bất di bất dịch của pháp luật thì người đó là kẻ cách mạng tồi”[80,
625]. Mong sao ngày càng bớt đi những “người cách mạng tồi” như thế!
Thực tiễn cho thấy, chỉ ở những quốc gia mà sự vận hành guồng máy xã hội
dựa vào tính nghiêm minh của luật pháp, ở đấy xã hội mới ổn định và phát triển,
kỉ cương phép nước mới được thiết lập, công lý mới được thực thi, và chỉ khi đó
con người mới đạt đến trạng thái phát triển thực sự. Điều đó nói lên vai trò đặc
biệt quan trọng của pháp luật trong việc tạo ra một môi trường pháp lý nghiêm
minh, làm điểm tựa căn bản cho sự vận hành guồng máy xã hội là quan trọng và
bức thiết đến nhường nào. Bởi vậy, câu khẩu hiệu “Sống, làm việc theo Hiến
pháp và pháp luật” sẽ mãi chỉ là khẩu hiệu suông nếu như trước hết, các hành vi
vi phạm không được xử lý một cách kịp thời, triệt để và nghiêm minh.
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và các thiết chế thực thi pháp luật
Những năm gần đây, do yêu cầu của việc quản lý xã hội bằng pháp luật, Đảng
và Nhà nước đã quan tâm đến việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Tuy nhiên, thực trạng chất lượng của hệ thống văn bản pháp luật và các thiết
chế thực thi pháp luật còn nhiều yếu kém, bất cập. Đó là thực trạng văn bản pháp
luật vi phạm pháp luật quá nhiều, văn bản chồng chéo, mâu thuẫn, không rõ
nghĩa, hay thay đổi, không phù hợp với thực tiễn, không có tính khả thi… gây
khó khăn cho cả hai phía: người dân với tư cách là đối tượng chấp hành và các cơ
quan công quyền với tư cách là chủ thể thực thi pháp luật.Cùng với đó, chất
lượng nguồn nhân lực trong các cơ quan thực thi pháp luật cũng còn nhiều bất ổn,
do một bộ phận cán bộ công chức yếu về năng lực chuyên môn, tha hóa về phẩm
chất đạo đức và thiếu tinh thần trách nhiệm, dẫn đến việc xử án còn nhiều oan
sai, tồn đọng, gây mất niềm tin của xã hội vào sự công bằng và tính nghiêm minh
của pháp luật.Bởi vậy trong bề bộn những công việc cấp bách phải làm hiện nay,
theo chúng tôi, việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng hệ thống văn bản pháp
luật, cùng với đó là việc giáo dục, nâng cao năng lực chuyên môn và phẩm chất
đạo đức cho đội ngũ những người thực thi pháp luật nói riêng và bộ máy công
quyền nói chung là những việc làm thiết thực trước mắt để thiết lập lại kỉ cương
phép nước, nâng cao năng lực và hiệu quả của các thiết chế thực thi pháp luật.
Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, khi mà đất nước ta đã là thành viên của
những tổ chức quốc tế thì việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng một nền
tư pháp có chất lượng, trong sạch và hiệu quả cũng như cải cách nền hành chính
quốc gia là điều kiện thiết yếu để chúng ta tối đa hoá các lợi ích của quá trình hội
nhập.Bởi trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, việc giải
quyết tranh chấp pháp lý không còn giới hạn trong phạm vi quốc gia mà bao gồm
cả yếu tố nước ngoài, hơn lúc nào hết, những người cầm cân nảy mực cần phải có
những kiến thức luật pháp sâu rộng để đáp ứng được những yêu cầu đó. Lộ trình
hội nhập kinh tế quốc tế đã được định hướng từ hơn 20 năm nay, tham gia sân
chơi toàn cầu không có cách nào khác chúng ta phải ứng xử theo thông lệ đó. Tất
cả mọi hành vi đều được xem xét dưới các chế tài pháp lý, không chỉ của Việt
Nam mà còn là của thế giới. Công cuộc hội nhập chỉ thành công khi chúng ta
được trang bị đầy đủ kiến thức về luật chơi.
3.
2.3. Đào tạo nguồn nhân lực ngành Luật vừa “hồng” vừa “chuyên”
Về phương diện lý luận, mục tiêu của việc xây dựng nền văn hóa nói chung là
nhằm tạo ra hai nhân tố: môi trường văn hoá và con người văn hoá. Hai nhân tố
này tác động biện chứng lẫn nhau, trong đó nhân tố con người là quyết định, bởi
lẽ hiển nhiên là, có con người văn hóa thì mới có môi trường văn hóa. Do đó, để
xây dựng nền văn hoá pháp luậtViệt Nam tích cực và lành mạnh, một trong
những việc quan trọng cần làm, và có thể làm ngay, theo chúng tôi đó là phải
quan tâm để có những giải pháp cụ thể để xây dựng nguồn lực con người vừa
“hồng” vừa “chuyên” cho ngành luật.
Thực tế những năm vừa qua cho thấy, đội ngũ cán bộ trực tiếp thực thi pháp
luật không những còn thiếu và yếu về năng lực, thiếu ý thức trách nhiệm, mà còn
thiếu cả đạo đức nghề nghiệp. Thực trạng về việc cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền
hạn làm những việc trái với chính sách và pháp luật, xử lý không nghiêm những
trường hợp vi phạm, thậm chí chính bản thân họ cũng vi phạm pháp luật đang
diễn ra ngày càng phổ biến, làm suy giảm nghiêm trọng niềm tin của người dân
đối với những người thực thi công lý nói riêng và đối với pháp luật nói chung.
Người dân hiểu về pháp luật, có thái độ tôn trọng pháp luật hay không trước hết
thông qua sự nhìn nhận, đánh giá về hoạt động của các cơ quan áp dụng pháp
luật. Ở đây, văn hóa ứng xử với pháp luật của các cơ quan pháp luật có vai trò
“hướng đạo” rất quan trọng.Do đó, việc nâng cao chất lượng của các cơ quan
pháp luật cũng như việc xây dựng đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật có chất
lượng, “vừa hồng vừa chuyên” đanglà một đòi hỏi cấp bách hiện nay. Bởi vậy,
theo chúng tôi, trong chương trình đào tạo chuyên ngành luật hiện nay, cùng với
việc chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo tri thức chuyên môn, cần đưa vào
giảng dạy chuyên đề về văn hóa pháp luật cho sinh viên, để sau này khi hành
nghề, họ phải là những tấm gương mẫu mực về hành vi ứng xử với pháp luật. Ở
đây chúng tôi cùng quan điểm với PGS.TS Nguyên Ngọc Điện khi ông cho rằng:
“Cần xây dựng đội ngũ người làm luật như thế nào để, khi tiếp cận với các điều
luật, người ta không phải thấy loáng thoáng đằng sau đó bóng dáng của những
phần tử cơ hội, mang tính cách nhỏ nhen, làm luật theo cung cách của người đi
giăng bẫy để triệt hạ đồng loại. Thay vào đó, phải là hình ảnh những con người
thanh lịch, thông thái, đầy quyền uy nhưng cũng rất bao dung, rộng lượng, đảm
nhận vai trò dẫn đường cho toàn xã hội trong công cuộc kiến tạo trật tự và công
bằng”[78].
3.2.4.Nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật của nhân dân
Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh vẫn chưa thể đem lại hiệu quả cao nếu
những quy định của nó không được mọi người biến thành hành động trong thực
tế. Trước đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở: việc công bố đạo luật
chưa phải là đã xong, mà còn phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện
được tốt, bởi việc giáo dục pháp luật là một trong những công đoạn hết sức quan
trọng. Nó không chỉ giúp nâng cao ý thức pháp luật cho người dân, mà còn tạo ra
khả năng hình thành những nhu cầu, tình cảm, những chuẩn mực mới, đồng thời,
góp phần củng cố ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đạo đức, ngăn chặn các biểu
hiện xâm phạm lợi ích chính đáng của người khác, khuyến khích những hành vi
hợp pháp và hợp đạo lý.
Trong điều kiện thực tế của nước ta hiện nay, việc giáo dục, tuyên truyền,
phổ biến pháp luậtcàng có tầm quan trọng đặc biệt trong việc nâng cao trình độ
văn hoá pháp luật và năng lực pháp lý thực tiễn của công dân. Hiện nay ở nước
ta, chính sách của Nhà nước về phát triển thông tin và phổ biến, giáo dục pháp
luật chưa đồng bộ và nhất quán. Thông tin pháp luật kém cập nhật, cát cứ, chưa
tập trung. Các văn bản quy phạm pháp luật chưa được đăng tải đầy đủ trên công
báo và các phương tiện thông tin đại chúng trong khi văn bản pháp luật của
chúng ta lại thay đổi thường xuyên. Việc tuyên truyền phổ biến pháp luật còn
mang nặng tính hình thức nên pháp luật ít đến với người dân và khó đi vào thực
tiễn.
Bởi vậy, để nâng cao hiểu biết về pháp luật cho người dân, cần tạo điều kiện
thuận lợi để nhân dân - những người chịu tác động của một quyết sách sắp ban
hành cần có cơ hội để đóng góp ý kiến hoặc tham gia vào quá trình ra quyết định,
đó là giải pháp hữu hiệu nhất để người dân hiểu biết về pháp luật và tự giác chấp
hành pháp luật. Việc tăng cường tính công khai và dân chủ trong quá trình xây
dựng pháp luật là một trong những giải pháp cần thiết để không những đưa “pháp
luật gần hơn với cuộc đời” mà còn góp phần nâng cao sự hiểu biết của người dân
về pháp luật, đó là điều kiện để người dân tự giác tuân thủ pháp luật.
KẾT LUẬN
1. Trong tiến trình hội nhập và phát triển, Việt Nam đang nỗ lực để thực hiện
các mục tiêu kinh tế - xã hội nhằm hiện đại hóa đất nước, trong đó xây dựng nhà
nước pháp quyền được xác định là một mục tiêu quan trọng. Nhưng một thực
trạng đáng báo động là văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay đang bộc lộ nhiều
tiêu cực, biểu hiện từ các hành vi ứng xử với pháp luật của cá nhân trong đời
sống hàng ngày cho đến trình độ vận dụng công cụ pháp luật của Nhà nước trong
quản lí xã hội cũng như việc thực thi pháp luật trong thực tế… Hệ quả là, thói
quen không tuân thủ pháp luật, coi thường pháp luật, lách luật, lối ứng xử tùy tiện
với pháp luật… đang tồn tại và biểu hiện rất phổ biến, không chỉ với dân thường
mà ngay cả đối với những cán bộ, công chức trong các cơ quan công quyền; thậm
chí, cả với những người đang nắm giữ cán cân công lý của xã hội. Theo đó là sự
gia tăng đến mức báo động các loại tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật.
Những biểu hiện xuống cấp và suy thoái đạo đức, đặc biệt là “ở một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền” đang là
nỗi bất bình của toàn xã hội. Thực trạng ấy đang từng ngày làm ô nhiễm bầu
không khí tinh thần của xã hội, làm suy giảm đáng kể lòng tin của người dân đối
với tính nghiêm minh của pháp luật, dẫn đến coi thường kỉ cương phép nước. Đó
cũng chính là những biểu hiện của một đời sống văn hóa pháp luật không lành
mạnh, một thái độ ứng xử văn hóa không thượng tôn pháp luật.
2. Thực trạng tiêu cực của văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay có nguyên
nhân trực tiếp là do hệ thống các thiết chế pháp luật chưa hoàn thiện, còn nhiều
hạn chế, bất cập, việc thực thi pháp luật chưa được thực hiện nghiêm minh nên
người dân không tin tưởng vào pháp luật, né tránh pháp luật, tìm cách lách luật
hoặc thờ ơ với pháp luật. Tuy nhiên, đằng sau những nguyên nhân trực tiếp ấy là
sự chi phối của những nguyên nhân sâu xa từ nền tảng văn hóa truyền thống, đó
là tư duy tiểu nông tùy tiện, chủ quan, cảm tính, là lối ứng xử mềm dẻo, linh hoạt,
vô nguyên tắc; đó là lối sống trọng lệ hơn luật, trọng tình hơn lý, dĩ hòa vi quí,
trọng đức trị hơn pháp trị…Tư tưởng, giáo lí của Nho giáo, Phật giáohòa hợp
đồng điệu với nền tảng văn hóa nông nghiệp lúa nước tiểu nông đã hình thành
những tư tưởng ăn sâu, quện chặt trong tư duy và cách ứng xử của người Việt
truyền thống, đó là lối hành xử không theo chuẩn mực pháp lý, là thói quen
không thượng tôn pháp luật. Truyền thống này vẫn còn di căn rất rõ nét trong xã
hội hiện đại, là nguyên nhân sâu xa chi phối cách hành xử của xã hội, từ người
dân cho đến các cơ quan công quyền. Đó là nhữnglực cản không nhỏ đối với mục
tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay ở nước ta nói riêng cũng như công
cuộc hiện đại hóa đất nước nói chung.
3. Đểxây dựng một nền văn hóa pháp luật Việt Nam tích cực, lành mạnh, làm
nền tảng cho việc thực hiện thành công mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền
ở nước ta hiện nay, theo chúng tôi, cần phảithực hiện đồng thời hai nhóm giải
pháp:những giải pháp cụ thể, cấp bách và những giải pháp có tính chiến lược lâu
dài.
3.1.Với nhóm giải pháp cụ thể, cấp bách, điều cần thiết trước hết hiện nay là
phải có hình thức xử lý nghiêm minh, triệt để và kịp thời những hành vi vi phạm
pháp luật; cùng với đó là việc củng cố năng lực của hệ thống pháp luật và các
thiết chế thực thi pháp luật để tạo lập niềm tin của người dân đối với pháp luật.
3.2.Cùng với những giải pháp cụ thể, cấp bách, cần phải có những giải pháp
mang tính chiến lược để tạo lập nền tảng lâu dài và bền vững, đó là: một mặt phải
thanh lọc, tẩy trừ những đặc trưng văn hóa truyền thống đã trở thành tiêu cực, lạc
hậu, cản trở sự phát triển; mặt khác, phải biết tiếp thu những tinh hoa văn hóa
nhân loại để bù lấp những thiếu hụt của văn hóa truyền thống.Đó cũng chính là
thực hiện mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, và cũng là điều kiện nền tảng để xây dựng và phát triển nền văn hóa pháp
luật Việt Nam ngang tầm thế giới./.
1.Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Hội nhà văn, 2000
2.Nguyễn Trần Bạt, Ảnh hưởng củavăn hóa đối với pháp luật
(Nguồn:chungta.com)
3.Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, NXB TP Hồ Chí Minh, 2004.
4.Nguyễn Quốc Chấn, Huỳnh Khái Vinh, Văn hóa các dân tộc Việt Nam
thống nhất mà đa dạng, NXB Chính trị Quốc gia, 2002
5.Khang Thức Chiêu, Cải cách thể chế văn hóa, NXB Chính trị Quốc gia,
1996
6.Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (đồng chủ biên), Giá trị truyền
thống trước những thách thức của toàn cầu hóa, NXB Chính trị Quốc gia,
2002.
7.Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, NXB tư
pháp, 2007
8.Bùi Xuân Đính, Nhà nước và pháp luật thời phong kiến Việt Nam, NXB tư
pháp, 2005
9.Bùi Xuân Đính, 101 truyện pháp luật thời xưa, NXB Thanh niên, 1999
10.Phan Đại Doãn, Mấy vấn đề văn hóa làng xã việt nam trong lịch sử, NXB
Chính trị Quốc gia, 2004
11.Lê Đăng Doanh, Tính truyền thống và yêu cầu đổi mới trong thiên niên kỷ
mới (in trong: Một góc nhìn của trí thức), NXB Trẻ, 2001
12.Nguyễn Đăng Dung, Một xã hội làng xã, Tạp chí Nghiên cứu luật pháp, số
11/ 2003,
13.Nguyễn Đăng Dung, Bùi Ngọc Sơn, Lệ làng xưa và “lệ làng” nay, Tạp chí
Cộng sản, số 28/2003,
14.Phạm Đức Dương, Từ văn hóa đến văn hóa học, Nxb văn hóa, 2002
15.Trần Ngọc Đường, Văn hóa pháp lý với sự nghiệp đổi mới ở nước ta, Tạp
chí Luật học, 2003
17.Francis Fukuyama, Giá trị châu Á sau cuộc khủng hoảng châu Á, (in
trong: Dân chủ, kinh tế thị trường và phát triển,Nxb. Thế giới, HN, 2002.
18.Vũ Minh Giang, Xây dựng lối sống theo pháp luật nhìn từ góc độ lịch sử
truyền thống, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3/1993
19.Trần Văn Giàu, Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, NXB
TP HCM, 1993
20.Phạm Minh Hạc, Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên), Về phát triển văn hóa và
xây dựng con người thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị
Quốc gia.
21.Nguyễn Duy Hinh, Văn minh Đại Việt, NXB VHTT, 2005
22.Phan Đăng Thanh, Trương Thị Hòa, Mấy vấn đề về quản lý nhà nước và
củng cố pháp quyền trong lịch sử Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, 1998
23.Samuel Huntington, Sự va chạm của nền văn minh, NXB Lao động, 2005
24.Nguyễn Văn Huyên, Hội nhập văn hóa và vấn đề giữ gìn bản sắc dân tộc,
trong sách “Việt Nam trong thế kỷ XX”, Nxb Chính trị quốc gia, 2002
25.Trần Văn Khê, Suy tư về vấn đề “phát triển văn hóa”, in trong sách Việt
Nam trong thế kỷ XX, 2002
26.Học viện CTQG HCM - Khoa văn hóa XHCN, Văn hóa dân tộc trong quá
trình mở cửa ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, 1996
27.Trần Ngọc Khuê, Xu hướng biến đổi tâm lý xã hội trong giai đoạn chuyển
sang nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia,
1998
28.Đạo đức nghề nghiệp luật sư,Kỷ yếu hội thảo, NXB Chính trị Quốc gia,
1998
29.Nguyễn Duy Lãm (Chủ biên), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, NXB
Giáo dục, 1996
30.Thanh Lê, Văn hóa với đời sống xã hội, NXB Khoa học Xã hội, 1998
31.Đỗ Long, Tâm lý học dân tộc - Nghiên cứu và thành tựu, NXB Khoa học
Xã hội, 2001
32.Lê Vương Long, Văn hóa pháp lý VN trong xu thế toàn cầu hóa, Tạp chí
Nghiên cứu pháp luật,
34.Montesquieu, Tinh thần pháp luật (người dịch: Hoàng Thanh Đạm), NXB
Giáo Dục, 1996
35.Phạm Duy Nghĩa, Gia tài 60 năm luật học (in trong Bay cùng đànsếu),
NXB Trẻ, 2005
36.Phạm Duy Nghĩa, Nơi doanh nhân tìm đến công lý, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, số 3/2003
37.Phạm Duy Nghĩa, Góp phần tìm hiểu văn hóa pháp luật,Tạp chí Khoa học
ĐHQGHN, Kinh tế - Luật, 24 (2008) 1-8
38. Nguyễn Thế Nghĩa, Mấy vấn đề về văn hóa và phát triển, trong sách Văn
hóa và phát triển ở thành phố Hồ Chí Minh.
39.Phan Ngọc, Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, NXB VHTT, 1994
40.Phan Ngọc, Bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB VHTT, 1998
41.Phan Ngọc, Sự tiếp xúc văn hóa Việt Nam, NXB VHTT
42.Nhiều tác giả, Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam, NXB Văn hóa
dân tộc, 1999
43.Nguyễn Hồng Phong, Văn hóa chính trị Việt Nam - Truyền thống và hiện
đại, NXB VHTT, 1998
44.Lương Hồng Quang, Dân trí và sự hình thành văn hóa cá nhân, NXB
VHTT, 1999
45.Hồ Sĩ Quý, Tìm hiểu về văn hóa và văn minh, NXB Chính trị Quốc gia,
1999
46.Hồ Sĩ Quý, Về giá trị và giá trị châu Á, NXB Chính trị Quốc gia, 2005
47.Bùi Ngọc Sơn, Xây dựng nhà nước pháp quyền trong bối cảnh văn hóa
Việt Nam, NXB tư pháp, 2004
48.Đại học Luật Hà Nội,Văn hóa pháp luật và phát triển văn hóa pháp luật ở
nước ta hiện nay, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, 2001.
49.Trần Thành, Tư tưởng đẳng cấp, quyền lực, đầu óc địa vị, tâm lý hiếu danh
của đạo đức phong kiến và ảnh hưởng của nó trong cán bộ quản lý hiện
nay ở nước ta, in trong: Ảnh hưởng của đạo đức phong kiến trong cán bộ
lãnh đạo quản lý của Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, 2001
50.Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB TP HCM, 1997
51.Hồ Đắc Thọ,Lệ làng Việt Nam trong tâm thức dân gian, NXB VHTT, 2003
54.Chu Khắc Thuật, Nguyễn Văn Thủ (Chủ biên), Văn hóa lối sống với môi
trường, NXB VHTT, 1998
55.Đỗ Lai Thúy, Từ cái nhìn văn hóa, NXB Văn hóa dân tộc, 1999
56.Lê Đức Tiết, Văn hóa pháp lý Việt Nam, NXB tư pháp, 2005
57.Tọa đàm khoa học/Trung tâm nghiên cứu tâm lý dân tộc, Tâm lý người
Việt Nam nhìn từ nhiều góc độ, NXB TP HCM, 2000
58.Hoàng Trinh, Vấn đề văn hóa và phát triển, NXB Chính trị Quốc gia, 1996
59.Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận nhà nước pháp luật,
NXB Tư pháp, 2007
60.Đào Trí Úc (chủ biên), Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật, 1995
61.Viện Tâm lý học, Tính cộng đồng, tính cá nhân và "cái tôi" của người Việt
Nam hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, 2002
62.Viện Triết học, Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa, NXB Chính trị Quốc gia, 2001
63.Nguyễn Quốc Việt, Bảo lưu các giá trị truyền thống trong quá trình hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay (in trong Nhà nước và pháp
luật Việt nam trước thềm thế kỉ XXI), NXB Công An Nhân Dân, 2002
64.Huỳnh Khái Vinh, Những vấn đề văn hóa Việt Nam đương đại, KHXH,
2000
65.Võ Khánh Vinh, Mối quan hệ giữa xã hội - cá nhân - nhà nước trong nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2
-2003
66.Trần Quốc Vượng, Đổi mới việc nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lenin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.In trong Một góc nhìn của tri thức, NXB Trẻ và Tạp
chí Tia sáng, 2001
67.Văn hóa trong phát triển và toàn cầu hóa, Trung tâm Khoa học Xã hội và
Nhân văn Quốc gia, 1996
68.Văn kiện Hội nghị lần thứ V, Ban chấp hành Trung ương khóa VIII,
Nxb.Chính trị quốc gia, 1998
69.Hồ Chí Minh toàn tập (tập III), NXB Chính trị Quốc gia, 1995
70.Chuyên đề Văn hóa tư pháp, Thông tin khoa học pháp lý, 7/2001,
71. Lê Huy Hoà - Phạm Đức Nhuận tuyển chọn và giới thiệu. Văn hoá Việt
Nam truyền thống và hiện đại. NXB Văn hoá, Hà Nội, 2000
72. Cao Xuân Huy, Tư tưởng phương Ðông - gợi những điểm nhìn tham
chiếu, NXB. Văn học, Việt Nam, 1995.
73. Trần Trọng Kim, Nho giáo, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2003.
74. Trần Đình Hượu, Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, NXB, Văn
hóa, 1996.
75. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, tập II, NXB. KHXH
76. Du Vinh Căn, Tổng quan tư tưởng pháp luật Nho gia, bản dịch của Viện
Khoa học Xã hội – Học viện hành chính Quốc gia, 2002.
77. Võ Khánh Vinh: Mối quan hệ giữa xã hội - cá nhân - nhà nước trong nhà
nước pháp quyền…, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2 -2003.
78.V.I Lênin, Toàn tập, Tập 36 ,NXB Tiến bộ Matxcơva 1978
79.Lê Minh Thông, Luật nước và hương ước lệ làng trong đời sống pháp lý
của các cộng đồng làng xã Việt Nam, VNH3, TB7 851
1. Ý thức chấp hành luật giao thông kém do đâu?, Bùi Văn Kiên, TiềnPhong
2. Mãi lộ ở cửa ngõ TPHCM, Bùi Văn Phước, Người Lao động, 8 và
9122009
3. Bắt đầu từ nhà chức trách công, Nguyễn Ngọc Điện, Sài Gòn Tiếp thị,
04/09/2009
4. Văn hóa giao thông nhìn từ hai phía, Nguyễn Hữu Nguyên, Pháp luật
TP.HCM, 26/3/2010
5. Không thể chần chừ trong xử lý, PGS.TS NGUYỄN NGỌC ĐIỆN, Tuổi
trẻ, 4/12/2010
6. Lờn thuốc”vì xử phạt không nghiêm, Khánh Yên, Tuổi trẻ, 04/05/2010
7. Cao ốc Pacific: Phớt lờ tất cả, xử lý ầu ơ, Chi Mai, Tuổi trẻ, 18/02/2008
8. “Tha" cho tầng hầm cao ốc Pacific: Cao ốc khác xây lố tầng hầm cũng
phải "tha", Pháp luật TPHCM, 28/02/2010
9. Kêu gào đòi lấp 2,5 tầng hầm cao ốc Pacific mới là trái luật, Pháp luật
TPHCM, 28/02/2010
10. Đừng để luật nước thua kẻ vi phạm, Pháp luật TPHCM, 25/02/2010
11. Pháp luật đã quy định "giết" thì phải "giết", sao lại "tha"?, Pháp luật
TPHCM, 25/02/2010
12. Xin đừng ngụy biện, "Tha" như thế khác nào khuyến khích vi phạm?, Pháp
luật TPHCM, 25/02/2010
13. Cao ốc Pacific: 2,5 tầng hầm xây lố được tha, Pháp luật TPHCM,
21/02/2010
14. Cao ốc Pacific: vì sao xây sai phép lại được tồn tại? Chi Mai, Tuổi Trẻ,
02/03/2010
15. Hố tử thần”tại TPHCM: Nại đủ lý do chối trách nhiệm?Lao Động,
01/11/2010
16. Né trách nhiệm“hố tử thần”, Nguyên Mi, Thanh Niên, 9/12/2010
17. Đùn đẩy trách nhiệm“hố tử thần”, Huy Thịnh, TP, 8/11/2010
18. Hố tử thần”và“hố trách nhiệm” Hạ Nguyên, Dân Trí, 29/10/2010
19. Hố tử thần”ở TPHCM:Cần xử lý hình sự?Hưng Nguyên, Gia Đình,
17/11/2010
20. Hố tử thần” và “hố đen” trách nhiệm, Minh Quân, SGTT, 2/12/2010
21. Xử lý vụ Vedan “giết” sông Thị Vải: "Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay",
Hồng Lê Thọ, Sức khỏe và đời sống, 3/11/2008
22. Sông Thị Vải "bệnh" nặng nhiều năm, dân kêu cứu vô vọng!Thái Thiện,
Vietnamnet, 20/9/2008
23. Độc giả phẫn nộ với Vedan và thanh tra môi trường”, Vietnamnet,
17/9/2008
24. Vedan và căn bệnh thường ngày của các cơ quan nhà nước”, Vũ Minh
Trực, Vietnamnet, 20/9/2008
25. Vụ Vedan: Trách nhiệm của cơ quan quản lý tới đâu? Vietnamnet,
21/9/2008
26. Nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự và Vedan”, Đinh Thế Hưng,
Vietnamnet, 18/09/2010.
27. Quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm: chưa yên tâm”, Trần
Toàn, Sài Gòn Giải Ppóng, 18/02/2008
28. Quốc hội giám sát vệ sinh an toàn thực phẩm: Người ít, tiền thiếu, trách
nhiệm...cha chung”, Lê Kiên, Pháp Luật, 19/6/2009
29. Doanh nghiệp bất chính "lờn" thuốc, người dân lãnh đủ”, Đức Cường, báo
Nông nghiệp Việt Nam,24/11/2009
30. An toàn vệ sinh thực phẩm: thực tế đáng sợ”, Ngọc Lan, Thời báo kinh tế
Sài Gòn, 10/6/2009
31. Cao điểm vệ sinh an toàn thực phẩm: Đừng chỉ đánh trống, bỏ dùi!”, Lam
Nguyên, VNMedia, 14/4/2010
32. Lại chuyện an toàn thực phẩm”, Kim Sơn, Tuổi trẻ, 13/8/2007
33. Xử lý vi phạm an toàn thực phẩm: Có chế tài nhưng không "dám" phạt?
Hương Lan, Đời sống pháp luật, 29/02/2009
34. Người tiêu dùng có quá nhiều mối lo, Trúc Giang, Tuổi trẻ, Thứ hai,
20/12/2010.
35. Đòi nợ bằng luật rừng, Tấn Chính, CA TP.HCM, 10/4/2010
36. Để dẹp bỏ luật rừng, Nguyễn Quang A, Tuổi trẻ, 15/6/2007
37. Hành xử theo kiểu luật rừng”, Khánh Tuệ, Đất Việt, 21/01/2010
38. Dùng “luật rừng” thay luật tòa”, Khoa Lâm, Pháp Luật Việt Nam,
01/10/2010
39. Hình như đã hình thành "luật rừng" trong một bộ phận học sinh”, Cấn
Cường, Dân trí, 27/10/2010
40. Qua các vụ nữ sinh đánh nhau: "Luật rừng" đang thâm nhập vào trường
học?”, Hoa Hạ, Đời sống pháp luật, 28/10/2010
41. Đánh ghen, bà chánh án TAND tỉnh “đại náo” quán karaoke, Nguyễn
Triều Tân Tiến, Báo Người lao động,Thứ bảy, 29 Tháng ba 2008
42. Công lý và các quan toà, Huy Đức, Sài Gòn tiếp thị Online, Thứ tư,
14/01/2009
43. Khi chuẩn mực ứng xử không phải là luật”,06/05/2007Thời báo Kinh tế
Sài Gòn
44. Phó trưởng Công an xã "làm việc" với dân bằng...đấm,xaluan.com,
18/12/2008
45. Điều chuyển công tác khác đối với một trung tá CSGT,Báo Lao động, ngày
2.2.2010
46. Công an đánh dân: Hệ quả của việc bao che có hệ thống, Lao Động,
12/9/2007
47. Dân "tố" công an hành hung người phải nhập viện, Bee.net.viettnam
08/11/2010
48. Ứng xử theo luật rừng”,Lê Thanh Phong, Báo Lao động, Thứ sáu,
10/04/2009
49. Để dẹp bỏ “luật rừng”, Nguyễn Quang A, Việt Báo, Thứ 6, 15 Tháng 6/
2007
50. Dẹp bỏ“luật rừng”, GS Tương Lai, Tuổi trẻ, 12 Tháng sáu 2007
51. Xã hội có tổ chức đang bị thử thách?Nguyễn Ngọc Điện, Vietnamnet, Thứ
năm, 09/09/2010
52. Con người hung dữ hay xã hội bất minh?”, Lê Minh Tiến,Thời báo Kinh tế
Sài Gòn,Chủ nhật, 28/03/2010.
53. Cứ “lót tay” việc mới “chạy””, vietnamnet.vn, 14/10/2010.
54. Khi các quan tòa phạm tội, Nguyễn Tấn, Thời báo Kinh tế Sài Gòn,
14/7/2009.
55. Chạy án chạy ai, Nguyễn Đức Mậu,Báo Lao động, Thứ bảy, 01/04/2006
56. Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao Nguyễn Văn Hiện trả lời trước Quốc
hội, Trường Uy, Báo Tuổi trẻ thứ 3, ngày 28 tháng 11 năm 2006.
57. Phận dân và luật nước, Sáu Nghệ, Tiền Phong, Thứ bảy, 30/10/2010.
58. Chính quyền tắc trách, dân khiếu kiện suốt 11 năm, Tùng Quang, Sài Gòn
Tiếp thị.VN
59. 16 năm đi kiện cơ quan điều tra, Vũ Mai, VNExpress, 12/8/2008
60. Lâm Đồng – Những bản án “kỳ lạ” của bà thẩm phán Phan Thị Lệ
ThuỷCATP.HCM ra ngày 6/9/2008
61. Thách thức dư luận và pháp luật”Lê Thanh Phong Tuổi trẻ, Thứ ba,
31.8.2010
62. Cán cân công lý đã lệch?,Bùi Quang Minh, Chungta.com, Thứ năm,
10/12/2009
63. Văn hóa chạy, Diệp Văn Sơn, báo Người Lao động, 28/07/2006
64. Còn bao nhiêu những vụ án oan sai đau lòng, Quỳnh Chi, RFA,
23/11/2010
65. Nghĩ về số phận những người bị bắt oan… Tamnhin.net, 17/12/2010,
66. Xử oan và sửa sai, Nguyễn Quang Thân, Phụ nữ Online, 2/07/2010
67. Sự “vô nghĩa" của pháp luật!”,Lê Thanh Phong Báo Lao động, Thứ tư,
23/04/2008.
68. Thi hành án: nan giải trước thách thức của...đương sự,Huy Anh, Báo Pháp
luật VN, 15/04/2010.
69. Sự "vô nghĩa" của pháp luật!Lê Thanh Phong, Báo Lao động, Thứ tư,
23/04/2008.
70. Văn bản pháp luật năm 2005: Sai 30%, Cẩm Văn Kình, Tuổi trẻ, Thứ bảy,
27 Tháng năm 2006
71. Kiểu sai làm khổ dân! Quốc Phong, Tuoitre Online, 04 Tháng sáu 2006
72. Hàng ngàn văn bản có dấu hiệu vi phạm pháp luật, V.Hùng, Tuổi trẻ, Thứ
năm, 23/12/2010
73. Nhà nước pháp quyền và loạn công văn,Tư Giang, Sài Gòn Tiếp thị, ngày
25.01.2010
74. Phép tắc nhìn từ hai phía, Sài Gòn Tiếp thị.VN – Diệp Văn Sơn
75. Ứng xử nửa vời và “nỗi lo ba gác”, TS Nguyễn Ngọc Điện, 22/12/2008,
Sài Gòn Tiếp Thị Online
76. Văn hóa ứng xử của người làm luật, Nguyễn Ngọc Điện, Tạp chí Tia sáng,
19/02/2008
77. Điều luật gây dị ứng: Cấm xe thô sơ ba, bốn bánh: Một quyết định gây
lúng túng cả hai phía, Diệp Văn Sơn, Sài Gòn Tiếp thị, 11/01/2010.