You are on page 1of 9

Chương 5: Kết luận

1. Một số gợi ý chính sách xóa đói giảm nghèo

Thực hiện mục tiêu, chính sách xóa đói giảm nghèo là chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước ta quan tâm trong những năm qua nhằm cải thiện đời sống vật chất và tình thân
của người nghèo, góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch về mức thu nhập giữa thành
thị và nông thôn, các khu vực kinh tế, các nhóm dân tộc theo giới tính chủ hộ, và các
nhóm thu nhập. Theo Điều 2 Nghị định số 07/2021/NĐ-CP ngày 27/01/2021, Chính phủ
đã thay đổi quy định về chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021-2025, tổ chức thực hiện các
chính sách giảm nghèo, an sinh xã hội đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát
nghèo từ ngày 1/1/2021. Dưới đây là một số gợi ý chính sách, theo chủ trương của Chính
phủ.

1.1 Chiều y tế

Theo kết quả nghiên cứu, so với các chiều khác, tỷ lệ hộ gia đình thiếu hụt ở chiều y
tế vẫn còn khá cao, với mức đóng góp vào tổng thiếu hụt chung là 44%. Vì vậy, chính
phủ luôn đề ra những chính sách để giúp các hộ gia đình giảm nghèo ở chiều này. Ngành
BHXH Việt Nam đã và đang tập trung thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp để phát triển
đối tượng tham gia BHYT, BHXH tự nguyện. Tham khảo các số liệu và báo cáo của
chính phủ, cho tới nay, tỷ lệ bao phủ BHYT tiếp tục có bước tăng trưởng ấn tượng với
khoảng 88 triệu người tham gia, chiếm 90,85% dân số, tăng 25,6% so năm 2015. Diện
bao phủ BHYT đã tập trung vào các nhóm, như: nhóm người lao động tham gia BHYT
đạt hơn 90%; nhóm hưu trí, mất sức lao động, bảo trợ xã hội đạt 100%, với khoảng 3,2
triệu người; nhóm được ngân sách nhà nước hỗ trợ (hộ cận nghèo, học sinh, sinh viên đạt
xấp xỉ 100% và khoảng 18 triệu người tham gia theo hộ gia đình). Theo đánh giá của các
chuyên gia, nếu tại một số quốc gia có nền kinh tế phát triển, để đạt mục tiêu BHYT toàn
dân phải mất từ 40 đến 80 năm thì đến năm 2025, Việt Nam đạt 95% dân số tham gia
BHYT theo tinh thần Nghị quyết số 20-NQ/TW là hoàn toàn khả thi.

1
Tuy nhiên, qua giám sát của Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội cho thấy, số
người tham gia BHYT tuy tăng cao, nhưng thực tế đa phần là nhóm đối tượng được ngân
sách nhà nước hỗ trợ. Việc phát triển chính sách BHYT và chăm sóc sức khỏe nhân dân
cũng chưa đồng đều giữa các vùng, miền, khu vực. Tại một số nơi điều kiện kinh tế - xã
hội khó khăn như miền núi, vùng sâu, vùng xa vẫn chưa đạt yêu cầu về chăm sóc sức
khỏe nhân dân; chất lượng dịch vụ y tế chưa cao, dẫn đến sự chênh lệch về quyền lợi
được hưởng của người tham gia. Thế nên, Chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách thúc đẩy
phát triển về mặt y tế như chính sách thông tuyến khám, chữa bệnh BHYT tuyến tỉnh có
hiệu lực từ ngày 1-1-2021 là động lực để thúc đẩy người dân tham gia BHYT bền vững.
Khi người dân được thuận lợi hơn trong khám, chữa bệnh, chất lượng dịch vụ y tế được
nâng lên sẽ là yếu tố quan trọng để người dân tin tưởng và tham gia BHYT, góp phần đạt
mục tiêu BHYT toàn dân. Đồng thời, theo bài “Hướng tới mục tiêu bao phủ sức khỏe
toàn dân”, một số giải pháp được đề ra để thực hiện mục tiêu này là: ngành BHXH cần
phối hợp chặt chẽ với Bộ Y tế, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và chính quyền địa
phương để đề xuất những giải pháp hỗ trợ người dân tham gia BHYT, giúp những đối
tượng này có những thuận lợi ban đầu khi tham gia BHYT; nâng cao nhận thức của người
dân ý thức chia sẻ cộng đồng và cơ hội có nguồn tài chính vững chắc phòng khi không
may mắc bệnh; Tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ giám định đối với
BHXH các tỉnh phố và các cơ sở KCB BHYT, kịp thời phát hiện và ngăn chặn các hình
thức lạm dụng BHYT cũng như các trường hợp người bệnh BHYT không được đảm bảo
quyền lợi tối đa. Bên cạnh đó, nhà nước cũng hỗ trợ mức đóng BHYT đối với những
nhóm đối tượng như: người nghèo, người dân tô ̣c thiểu số sinh sống tại các vùng khó
khăn, vùng đă ̣c biê ̣t khó khăn, Trẻ em dưới 6 tuổi, người có công với cách mạng, thân
nhân người có công với cách mạng, đối tượng bảo trợ xã hô ̣i, cựu chiến binh, người đã
hiến mô, bô ̣ phâ ̣n cơ thể… đều được ngân sách nhà nước hỗ trợ 100% mức đóng bảo
hiểm y tế. Còn với học sinh sinh viên, người thuô ̣c hô ̣ gia đình câ ̣n nghèo, người thuô ̣c hô ̣
gia đình nông nghiê ̣p, lâm nghiê ̣p, ngư nghiê ̣p, diêm nghiê ̣p được nhà nước hỗ trợ từ 30 -
70% mức đóng bảo hiểm y tế. Còn với đối tượng tham gia BHYT theo hình thức hộ gia
đình thì mức đóng BHYT cũng được giảm dần từ thành viên thứ hai.

2
1.2 Chiều giáo dục

Giáo dục có vai trò rất quan trọng đối với con người, có giáo dục con người sẽ có trí
tuệ, kỹ năng để làm một việc nào đó. Tuy nhiên tỷ lệ thiếu hụt về chiều giáo dục trên cả
nước vẫn còn cao (7,04%.) Đảng và Nhà nước ta luôn đặt giáo dục lên hàng đầu, vì vậy
công tác giảm nghèo về giáo dục cũng được cấp ủy, chính quyền quan tâm chỉ đạo, tổ
chức thực hiện và đã đạt được những kết quả quan trọng. Thực hiện Nghị quyết số
80/NQ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2011 của Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền
vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020, Đảng và Nhà nước đã thực hiện những chính
sách về hỗ trợ giảm nghèo ở chiều giáo dục: Thực hiện có hiệu quả chính sách miễn,
giảm học phí, hỗ trợ học bổng, trợ cấp xã hội và hỗ trợ chi phí học tập đối với học sinh
nghèo ở các cấp học, nhất là bậc mầm non. Qua đó, Nhà nước cũng tiếp tục thực hiện
chính sách tín dụng ưu đãi đối với học sinh, sinh viên, nhất là sinh viên nghèo; thực hiện
chính sách ưu đãi thu hút đối với giáo viên công tác ở địa bàn khó khăn; khuyến khích
xây dựng và mở rộng “Quỹ khuyến học”; đặc biệt ưu tiên đầu tư trước để đạt chuẩn cơ
sở trường, lớp học ở các xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Ngoài ra, những chủ
trương giảm nghèo bền vững còn được thể hiện ở nhiều văn kiện khác của Đảng và được
cụ thể hóa bởi hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước. Luật Giáo dục năm 2019 do
Quốc hội ban hành quy định miễn học phí cho học sinh cấp trung học cơ sở theo lộ trình;
các nhóm đối tượng sinh viên, học sinh nghèo được miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí
học tập dạy nghề. Thủ tướng ban hành Quyết định 1722/QĐ-TTg ngày 02/9/2020 phê
duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 gồm
các nội dung: Chương trình 135 về hỗ trợ đầu tư công trình trường, lớp học đạt chuẩn
cho các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, các thôn bản đặc biệt khó khăn. Đảng và Nhà
nước ta phấn đấu đến năm 2020 đạt 100% xã có mạng lưới trường mầm non, phổ thông,
trung tâm học tập cộng đồng đủ để đáp ứng nhu cầu học tập và phổ biến kiến thức cho
người dân; 80% số xã có cơ sở vật chất trường học đạt chuẩn nông thôn mới.

1.3 Chiều nhà ở

3
Tỷ lệ hộ gia đình thiếu hụt ở chiều nhà ở khá thấp với mức đóng góp vào tổng thiếu
hụt chung chỉ 8%. Việc đảm bảo an toàn trong quá trình sử dụng nhà ở là một vấn đề vô
cùng quan trọng và cần thiết, nếu một ngôi nhà không đạt chất lượng có thể sẽ gây thiệt
hại lớn về tài sản và cả con người. Thế nên, phát triển nhà ở xã hội là một chiến lược lớn
mang ý nghĩa nhân văn. Báo cáo của Bộ LĐ-TB&XH cho biết, năm 2019, ngân sách
Trung ương đã xây dựng hơn 19.000 căn nhà ở cho các đối tượng chính sách. Tuy nhiên,
theo số liệu tổng hợp của Bộ Xây dựng, nhu cầu nhà ở trên toàn quốc giai đoạn 2011-
2030 là khoảng 440 nghìn căn hộ, nhưng đến nay mới chỉ thực hiện được trên 30% kế
hoạch. Để giải được bài toán nhà ở xã hội về lâu dài cần tháo gỡ khó khăn của người mua
và chủ đầu tư hiện nay. Về phía người mua, nên thống nhất những quy định về lãi suất
cho vay cũng như thời hạn được vay mua nhà ở xã hội. Đối với các doanh nghiệp, cần
xem xét lại các quy định pháp luật khi thực hiện đầu tư dự án nhà ở xã hội. Rút gọn các
thủ tục hành chính và thời gian phê duyệt dự án. Bên cạnh đó là các chương trình tín
dụng hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn ưu đãi để đầu tư xây dựng nhà ở xã hội. Để cải thiện
hiệu quả các chính sách nhà ở xã hội đòi hỏi phải có số liệu thống kê chính xác nhu cầu
thực tế, rà soát các quy định để xác định đúng đối tượng cần hỗ trợ, đảm bảo thực hiện
thành công mục tiêu an sinh xã hội của Đảng, Nhà nước. Đẩy mạnh phân khúc nhà ở xã
hội cho thuê cũng là một trong những định hướng quan trọng, góp phần giải quyết khó
khăn về nhà ở cho người thu nhập thấp… Trong giai đoạn tiếp theo, Thủ tướng Chính
phủ đã phê duyệt chủ trương đầu tư dự án “Xây dựng chính sách tổng thể nhà ở xã hội tại
Việt Nam trong giai đoạn 2021-2030” tại Quyết định 848/QĐ-TTg ngày 12/7/2018, do
Chính phủ Hàn Quốc viện trợ không hoàn lại. Dự án được thực hiện trong 3 năm với mục
tiêu nâng cao quyền có nhà ở của các hộ có thu nhập thấp tại khu vực đô thị và công nhân
khu công nghiệp thông qua việc nghiên cứu, đề xuất cải thiện chính sách nhà ở xã hội tại
Việt Nam trong giai đoạn 2021-2030 nhằm góp phần sửa đổi Luật Nhà ở hiện nay. Với
những giải pháp này, hy vọng, thời gian tới mục tiêu xây dựng nhà ở cho người thu nhập
thấp ở khu vực đô thị sẽ được cải thiện theo hướng hiệu quả hơn. Tại Quyết định số
460/QĐ-UBDT về việc ban hành chương trình hành động thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2025, đối với vấn đề

4
nhà ở, dự án được đề ra cho nhóm này là giải quyết tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản
xuất, nước sinh hoạt; quy hoạch, sắp xếp, bố trí, ổn định dân cư ở những nơi cần thiết. Để
thực hiện những dự án trên, cán bộ, ngành, địa phương cần rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây
dựng các chính sách cần thiết như chính sách hỗ trợ đất ở, cải thiện nhà ở, đất sản xuất,
nước sinh hoạt; chính sách đầu tư sắp xếp hộ dân di cư tự phát, hộ sinh sống ở rừng
phòng hộ xung yếu, rừng đặc dụng, khu vực hay xảy ra thiên tai, lũ ống, lũ quét, sạt lở
đất vào khu tái định cư. Bên cạnh việc đề ra các chính sách, các bộ, ngành, địa phương
cũng cần tăng cường quản lý, chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra quá trình thực hiện các chương
trình, dự án, chính sách dân tộc hiệu lực trong giai đoạn 2021-2025. Tiếp tục đẩy mạnh
công tác nắm tình hình địa bàn vùng DTTS và miền núi; công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật; thông tin, tuyên truyền, vận động đồng bào DTTS hợp tác thực hiện các dự án.

1.4 Chiều điều kiện sống

Theo kết quả nghiên cứu, tỷ lệ thiếu hụt chiều điều kiện sống cả nước (14.82%), cao
thứ 2 trong tổng 5 chiều, thế nên, giải pháp giảm nghèo cho chiều này luôn được nhà
nước quan tâm. Từ năm 2015 đến năm 2019, nhà nước đã chi ngân sách 1.274 tỷ đồng hỗ
trợ tiền điện hàng tháng cho hộ nghèo và EVN cũng có những chương trình hỗ trợ lắp
đặt, sửa chữa hệ thống điện miễn phí cho hộ nghèo, hộ cận nghèo ở 1 số tỉnh phía Bắc.
Thế nên, cơ quan chức năng từ Trung ương đến địa phương, cần nắm rõ tình hình điều
kiện sống của người dân, và có các đề xuất, kế hoạch đề xuất cấp điện, đồng thời chú
trọng đẩy nhanh tiến độ các công trình truyền tải điện đặc biệt là về các địa phương miền
núi, vùng sâu vùng xa. Song, Chính phủ cần quan tâm đến thông tư Quy định thực hiện
chính sách hỗ trợ tiền điện cho người nghèo, đã được thực hiện năm 2018, song đến thời
điểm hiện tại, cần có những bổ sung, quy định, đối tượng được hỗ trợ, và hối thúc các cấp
địa phương thực hiện, vì sau 2 năm, đối tượng và ngưỡng đánh giá đối tượng hộ nghèo đã
thay đổi để tránh tình trạng sai và sót đối tượng được hỗ trợ. Đồng thời, năm 2019, Bộ
Công thương đã khởi động “Chương trình thúc đẩy phát triển điện mặt trời mái nhà Việt
Nam”, mục tiêu đến cuối năm 2025 có 100.000 hệ thống điện mặt trời, song Ngân hàng
Tái thiết Đức cũng đã hỗ trợ nguồn vốn viện trợ không hoàn lại 14.5 triệu euro và mức hỗ

5
trợ của nhà nước là 6-9 triệu đồng cho từng hộ. Sử dụng điện mặt trời sẽ giúp người dân
tiết kiệm, giảm bớt chi phí điện hàng tháng, và tận dụng tối ưu năng lượng thiên nhiên.

Trong 3 chỉ số được dùng để đánh giá chiều điều kiện sống, tỷ lệ hộ gia đình chưa
được sử dụng nước sạch trên cả nước là thấp nhất (1,44%), tuy nhiên, đến thời điểm hiện
tại nguồn nước người dân sử dụng xuất hiện nhiều vấn đề như: nhiễm phèn, nhiễm mặn,
hay nước bị ô nhiễm do chất thải công nghiệp,... Thế nên, nâng cấp hệ thống xử lý, lọc
nước, rửa mặn, khử chua,... để người dân được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh và đạt
chuẩn là nhiệm vụ cấp thiết trong những năm sắp tới. Cơ quan, công ty cấp thoát nước
thường xuyên có các đợt kiểm tra chất lượng nước dùng của hộ gia đình đặc biệt các hộ
gia đình đang ở diện cận nghèo, hộ nghèo. Thực tế, một số tỉnh miền Tây Nam Bộ, sau
khi nhận được báo cáo, thông tin từ người dân và các cấp chính quyền đã có các mạnh
thường quân trên cả nước ủng hộ, lắp đặt hệ thống máy lọc nước cho người dân ở đây.
Các cấp chính quyền cần đẩy mạnh việc kêu gọi mạnh thường quân, hỗ trợ thủ tục, giám
sát, kiểm tra chất lượng các chương trình thiện nguyện, mang nước sạch về địa phương
cũng như rửa mặn, rửa phèn.

Theo kết quả nghiên cứu, hộ gia đình xây được nhà nhưng vẫn chưa có nhà vệ sinh
hợp chuẩn, và cả các hộ chưa có nhà ở hợp chuẩn cũng chưa xây được nhà vệ sinh, vậy
nên, trước tiên, người dân cần xây được nhà, và xây nhà vệ sinh hợp chuẩn đồng thời các
hộ gia đình cần nâng cấp nhà vệ sinh của mình. UBND các tỉnh cũng đã có các chính
sách hỗ trợ người dân xây nhà vệ sinh đúng chuẩn. Tuy nhiên, chuẩn nhà vệ sinh chưa
được người dân quan tâm đến, nhất là các hộ gia đình đã có nhà vệ sinh chưa đạt chuẩn,
và đây cũng chưa là mối quan tâm lớn của các hộ gia đình nên cơ quan chính quyền địa
phương cần thực hiện các chương trình, buổi tuyên truyền về việc hộ gia đình cần phải có
nhà vệ sinh hợp vệ sinh, nâng cao ý thức của chủ hộ. Tiếp tục phát huy các chính sách hỗ
trợ người dân xây nhà vệ sinh đúng chuẩn, và thực hiện một cách sát sao và phù hợp với
thực tế từng hộ gia đình.

6
1.5 Chiều tiếp cận thông tin

Trong kết quả nghiên cứu của nhóm với ngưỡng thiếu hụt đã đề ra, các hộ gia đình
trên cả nước có tỷ lệ thiếu hụt 0,0% tại chiều tiếp cận thông tin. Cả nước đã đảm bảo cơ
bản việc tiếp cận thông tin. Song vẫn còn những hạn chế tồn tại ở DTTS như vẫn còn
người chưa nghe và nói được tiếng phổ thông, nguồn tin chính thống chưa cao, đường
truyền tại nhiều vùng DTTS không ổn định,... Chính phủ nên hỗ trợ tích cực, tạo điều
kiện cho địa phương có cơ sở vật chất về phương tiện và đường truyền như internet và
sống truyền hình.

Đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách và xử
lý trách nhiệm tập thể, cá nhân có hành vi sai phạm, lợi dụng chính sách. Chính quyền địa
cần thực hiện tốt các công tác tuyên truyền qua loa phát thanh phường, xã hằng ngày và
vận động, hỗ trợ người dân người dân thường xuyên cập nhật tin tức, thời sự với nguồn
đáng tin để nâng cao dân trí, nâng cao đời sống tin thần văn hóa và thông tin kịp thời về
chính sách của Đảng và Nhà nước.

Nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước nên tại lĩnh vực thông tin, tuyên truyền
vùng DTTS và miền núi đang trên đà phát triển nhanh. Từ năm 2016 đến năm 2018, đã
chuyển phát 18 loại ấn phẩm báo, tạp chí với số lượng 51,2 triệu tờ, đài Truyền hình Việt
Nam (kênh VTV5) sản xuất và phát sóng hầu hết các ngày trong tuần, gồm 22 thứ tiếng
DTTS, năm 2017, đã xuất bản gần 100 đầu sách với khoảng 250.000 bản, phục vụ đồng
bào DTTS. Mạng điện thoại di động phủ sóng khắp địa bàn miền núi và có hơn 16.000
điểm giao dịch bưu chính viễn thông, đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt trong mọi
tình huống.

1.6 Chiều thu nhập

Thu nhập bình quân đầu người của cả nước không đều nhau, có sự chênh lệch giữa
nhóm DTTS và DTĐS. Đồng thời có khoảng cách thu nhập giữa thành thị, nông thôn và
6 khu vực kinh tế. Song tỷ lệ nghèo về chiều thu nhập của cả nước còn cao 8,09% (năm
2016). Để giảm nghèo về chiều thu nhập và thu hẹp khoảng cách giữa các khu vực, tại

7
các địa phương nên quyết tâm, thực hiện đồng bộ, có sự giám sát và kỷ luật Chương trình
mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn
2021-2030  hướng đến mục tiêu phát triển bền vững và phát huy lợi thế, tiềm năng của
vùng và tinh thần tự lực của đồng bào DTTS. Các cơ quan chuyên ngành cần tiếp tục
chuyển đổi mạnh mẽ các chính sách hỗ trợ trực tiếp mang tính chất “cho không” sang
chính sách tạo cơ hội cho DTTS tự vươn lên thoát nghèo, cải thiện đời sống. Cụ thể như
chính sách cho không về nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt của Chính Phủ với các hộ
DTTS nghèo về đời sống khó khăn. Sau quá trình thực hiện, Bà Bế Thị Hồng Vân – Phó
vụ trưởng Vụ chính sách dân tộc khẳng định: các hộ gia đình vẫn ở vị trí bị động, vẫn
tiếp tục dựa vào sự hỗ trợ tiếp tục của Chính Phủ, chưa có ý thức cùng Chính Phủ duy trì
sự hỗ trợ đó. Do đó, nên tạo cơ hội để các hộ gia đình ở vị trí chủ động, như thành lập các
ngân hàng chính sách tạo điều kiện cho nhân dân vay vốn với lãi suất thấp, nhằm hỗ trợ
người dân có điều kiện về tài chính bản thân và gia đình. Cụ thể, Ngân hàng chính sách
xã hội đã cho 1,4 triệu hộ DTTS vay 45.194 tỷ đồng (chiếm 24,7% tổng dư nợ), bình
quân dư nợ 01 hộ là 30,5 triệu đồng (bình quân toàn quốc là 27 triệu đồng/hộ) để phát
triển sản xuất, tăng thu nhập. Tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2017 ở các huyện nghèo giảm
xuống còn dưới 40% (giảm khoảng 5% so với cuối năm 2016)

Vì điểm chung của các hộ nghèo là khó khăn về điều kiện địa lý, phương tiện đi
lại, nhận thức, trình độ giáo dục và đặc biệt sự bấp bênh trong thu nhập. Nên Chính phủ
cần có chính sách hỗ trợ mang tính ổn định thu nhập cho người dân, DTTS. Từ năm 2016
đến năm 2018, Chương trình 135 đã đầu tư 9.106 công trình và duy tu, bảo dưỡng 3.295
công trình. Tập huấn cho 103 ngàn người, dạy nghề cho 720 ngàn người DTTS, góp phần
giúp con em tìm kiếm việc làm. Tỷ lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn giảm 3-4%.
Song Chính Phủ nên chú trọng lĩnh vực nông nghiệp (phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời
tiết) như phát triển về mảng bảo hiểm nông nghiệp, tạo thị trường bao tiêu đầu ra, xây
dựng các quy định về sản xuất nông nghiệp có hiệu quả như VietGap, cánh đồng mẫu,
nhằm hạn chế tính bất ổn định của lĩnh vực thế mạnh của đất nước. Cuối cùng nên đẩy

8
mạnh hiệu quả việc quản lý của các cấp, chính quyền địa phương, nhằm đảm bảo các
chính sách nhà nước được thực hiện đúng.

You might also like