Professional Documents
Culture Documents
HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT - LƯU QUANG VŨ
HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT - LƯU QUANG VŨ
LƯU QUANG VŨ
POET17
2. Tác phẩm
a. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
● Vận dụng sáng tạo tích truyện dân gian để xây dựng tình huống kịch độc
đáo và gửi gắm vấn đề nhức nhối của cuộc sống hiện đại.
● Viết năm 1981, công diễn lần đầu năm 1984 và gặt hái được thành công
lớn.
● Đoạn trích thuộc cảnh VII và đoạn kết của vở kịch.
b. Bố cục
● Phần 1 (từ đầu đến “Vợ Trương Ba bước vào”): Cuộc đối thoại giữa hồn
Trương Ba và xác hàng thịt.
● Phần 2 (tiếp đó đến “Không cần!”): Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và
những người thân trong gia đình.
● Phần 3 (còn lại): Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba, Đế Thích và quyết
định cuối cùng của hồn Trương Ba.
● Xây dựng tình huống, xung đột kịch độc đáo, hấp dẫn.
● Đối thoại kịch đậm chất triết lý, giàu kịch tính, tạo nên chiều sâu ý nghĩa
cho vở kịch.
● Hành động kịch của nhân vật phù hợp với tính cách, hoàn cảnh, góp phần
thúc đẩy tình huống, xung đột kịch phát triển.
● Nghệ thuật độc thoại nội tâm giúp nhân vật bộc lộ tính cách và quan niệm
về lẽ sống đúng đắn.
IV. Lời bình của các tác giả khác về tác phẩm:
● “Đây là vở diễn đạt tới số phận văn hóa, ngôn ngữ quốc tế, là một đỉnh cao
của sân khấu kịch”, PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái.
● “Sáng tạo văn học của Lưu Quang Vũ, về bản chất chính là những truy vấn
và đối thoại không ngừng về nhân sinh, lịch sử, đất nước, con người từ góc
nhìn văn hóa và tinh thần nhân bản. Bằng tài năng và sức lao động đến mức
phi thường, Lưu Quang Vũ đã truyền năng lượng và khát vọng đổi mới của
ông đến hàng triệu người, tạo nên hiệu ứng nghệ thuật hết sức to lớn. Đó
là hạnh phúc không dễ gì có được của bất cứ người nghệ sĩ nào”,
PGS.TS.Nguyễn Đăng Điệp.
● PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái nhận định: “Lưu Quang Vũ đã táo bạo đẩy
những nhân vật kịch hiện đại của mình vào sự lột xác, sự trăn trở nghĩ suy,
sự sám hối đến quyết liệt đặng tìm cách giải quyết những vấn đề văn hóa
đang ráo riết đặt ra cho sự phát triển xã hội Việt Nam hiện đại.”
V. Liên hệ ngoài:
● Khát vọng của hồn Trương Ba là khát vọng vươn đến cái chân thực, cái
toàn vẹn tuyệt đối và sẵn sàng chấp nhận cái chết để bảo toàn, để vươn đến
cái tuyệt đối đó. Ở góc độ này, hồn Trương Ba đứng cao hơn cả Đế Thích
bởi đã dũng cảm nói lên tiếng nói bảo vệ chân lý cao quý của con người:
sự trung thực, bảo vệ sự trọn vẹn nhân cách, trọn vẹn giá trị nhân sinh.
Bằng cái chết của mình, hồn Trương Ba trở nên bất tử. Đấy là một nghịch
lý, nhưng đấy cũng chính là con đường phục hưng của những giá trị nhân
văn.
● Được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình, sống
trọn vẹn, hài hoà giữa thể xác và tâm hồn còn quý giá hơn. Con người phải
luôn luôn đấu tranh với nghịch cảnh, chống lại sự tầm thường, dung tục để
hoàn thiện nhân cách.
● So sánh bi kịch bị tha hóa của Chí Phèo (Chí Phèo-Nam Cao) và Trương
Ba (Hồn Trương Ba - Lưu Quang Vũ).
Tuy hai tác phẩm ra đời trong những hoàn cảnh xã hội - lịch sử khác nhau
nhưng tất thảy đều đề cập đến những bi kịch của con người, trong đó có bi
kịch tha hóa.
● Với Chí Phèo: qua lời chửi của Chí, ta thấy thái độ phẫn uất thương tâm
của tác giả. Hắn đã từng mơ ước được sống bằng hai bàn tay lao động của
mình với “một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”.
Thế nhưng cuộc đời đã không đối xử công bằng, bị đối xử tàn bạo nên Chí
Phèo đã phản kháng lại bằng sự hung tàn. Trước năm 1945, đa phần các
tác phẩm sẽ đưa con người đến ngõ cụt của số phận.
● Với Hồn Trương Ba: Trương Ba là người nông dân chăm chỉ, khéo léo,yêu
thương vợ con, chiều quý các cháu, tốt bụng với hàng xóm láng giềng, yêu
cây cỏ… Từ khi vào xác của anh hàng thịt, Trương Ba nhận ra sự tha hóa
của bản thân. Sự thay đổi của hồn Trương Ba trong thời gian trú ngụ ở xác
hàng thịt càng ngày càng rõ nét. Sau năm 1945, các tác phẩm sẽ được tác
giả mở ra cho một lối thoát đồng cảm.
● Nguyễn Minh Châu: “Có một số khá đông con người bây giờ đang sống
trong một cái thế rất chông chênh giữa một câu nói lịch sử và một câu nói
gắt bẳn (...). Và trong từng con người luôn luôn có tiếng gọi thì thầm
“Đừng nói thế, đừng làm thế!” Rồi lại một lời thúc giục khác: “Cứ nói
bừa đi! Cứ làm bừa đi!”.