You are on page 1of 79

BÀI TẬP GIỮA KỲ

1. Các trào lưu XHCN không tưởng (trước Marx) – Đóng góp và hạn chế
2. Quốc tế I và cuộc đấu tranh về đường lối
3. Công xã Paris (1871) – Một nhà nước kiểu mới
4. Quốc tế II và cuộc đấu tranh chống các trào lưu của chủ nghĩa cơ hội
5. Liên Xô – Nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới
6. Quốc tế cộng sản – Quốc tế III (1919 – 1943)
7. Phong trào công nhân châu Âu (1919 – 1923) – Những bài học lịch sử
8. Hội nghị quốc tế các đảng cộng sản và công nhân (1957, 1960, 1969)
9. Vai trò của hệ thống các nước chủ nghĩa xã hội đối với phong trào giải phóng
dân tộc (từ sau Chiến tranh thế giới II) 
10. Khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực – Những hậu quả đối
với phong trào công nhân và cộng sản quốc tế
11. Trào lưu “chủ nghĩa xã hội dân chủ” trong phong trào công nhân hiện nay –
Những đóng góp và hạn chế 1.

BÀI TẬP KẾT THÚC MÔN HỌC


HỌC THUYẾT VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI: SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN TỪ
MARX - ENGELS ĐẾN LENIN

THÔNG TIN VỀ THỜI HẠN LÀM BÀI, YÊU CẦU BÀI LÀM:
- Bài thi giữa kỳ và bài thi hết môn từ 5 - 10 trang (không dưới 5 trang, không trên
10 trang)
- Nộp bài cho lớp trưởng tối ngày 09.1.2022
Sinh viên làm bài: Thái Vũ Hoà – MSSV 1956040057

ĐỀ TÀI
(8) Hội nghị quốc tế các đảng cộng sản và công nhân (1957, 1960, 1969)
Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và Đảng Công nhân (tháng 11-1957) tại
Matxcơva (Nga)
Vào cuối những năm 50, phong trào cách mạng thế giới có những bước phát
triển mới, nhưng đồng thời lại xuất hiện những diễn biến phức tạp. Trong
tình hình ấy, Hội nghị các Đảng Cộng sản và Đảng Công nhân quốc tế họp
tháng 11-1957 tại Matxcơva (Nga) có ý nghĩa quan trọng, đưa ra nhiều nhận
định quan trọng về lí luận, đường lối chiến lược, sách lược, củng cố phong
trào cộng sản quốc tế.
Vào cuối những năm 50, phong trào cách mạng thế giới có những bước phát triển
mới, nhưng đồng thời lại xuất hiện những diễn biến phức tạp: trong khi phong trào
giải phóng dân tộc phát triển như vũ bão thì phong trào công nhân lại tạm thời lắng
xuống ở các nước tư bản phát triển và đặc biệt, trong những năm 1956 - 1957, ở
một số nước xã hội chủ nghĩa đã xảy ra một loạt những cuộc khủng hoảng chính trị
với những sai lầm trong đường lối cải tạo XHCN và xây dựng cơ sở vật chất của
CNXH. Những sai lầm này đã tạo điều kiện cho kẻ thù lợi dụng chống lại CNXH,
mà tiêu biểu là cuộc bạo động ở Hunggari năm 1956.
Lợi dụng các nghị quyết của Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô về việc xóa
bỏ hậu quả của tệ sùng bái cá nhân để phá hoại sự thống nhất của các Đảng Cộng
sản và công nhân, ở một số Đảng Cộng sản, bọn xét lại hữu khuynh cũng ra sức
hoạt động, lợi dụng việc chống sùng bái cá nhân để bôi nhọ tất cả những thành quả
của việc xây dựng XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu, đòi xét lại nguyên lí cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Như thế, nhiều vấn đề quan trọng đang đặt ra trước
phong trào cộng sản quốc tế trong khi. Cục Thông tin quốc tế - cơ quan tiếp xúc
duy nhất giữa các Đảng Cộng sản và công nhân, đã chấm dứt hoạt động từ tháng 4-
1956.
Trong tình hình ấy, Hội nghị các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế họp tháng
11-1957 tại Matxcơva có ý nghĩa quan trọng đối với việc củng cố phong trào cộng
sản quốc tế. Trước tiên, đại biểu của 12 Đảng Cộng sản và Đảng Công nhân các
nước XHCN đã họp riêng và nhất trí với bản Tuyên bố Matxcơva năm 1957 (trừ
Nam Tư). Sau đó đại biểu của 65 Đảng Cộng sản và Đảng Công nhân họp và ra
bản Tuyên bố hòa bình gửi nhân dân toàn thế giới.
Hội nghị năm 1957 đã thảo luận tình hình thế giới và đưa ra nhiều nhận định quan
trọng về lí luận, đường lối chiến lược và sách lược của phong trào cộng sản quốc
tế.
Hội nghị cho rằng vấn đề nóng hổi của tình hình chính trị thế giới là vấn đề chiến
tranh và hòa bình, rằng cùng tồn tại hòa bình là nguyên tắc căn bản của nền chính
trị thế giới. Hội nghị khẳng định nhiệm vụ trước tiên của các Đảng Cộng sản là đấu
tranh cho hòa bình.
Hội nghị thừa nhận sự đa dạng các hình thức quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội, khả năng thực hiện cách mạng XHCN bằng con đường hòa bình và
giành chính quyền không cần nội chiến. Hội nghị nhấn mạnh những quy luật cơ
bản của cách mạng XHCN (9 quy luật) trên cơ sở kinh nghiệm của cách mạng
Nga, song cũng kêu gọi các đảng cầm quyền phải áp dụng những kinh nghiệm đó
sao cho phù hợp với những điều kiện dân tộc - quốc gia riêng của họ, đồng thời
chống các biểu hiện cực đoan, coi thường hay thổi phồng những điều kiện đó.
Hội nghị ra Tuyên ngôn hòa bình kêu gọi các Đảng Cộng sản, các lực lượng dân
chủ, tiến bộ hợp tác với các nước XHCN trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân sinh, dân chủ và CNXH, khẳng định sự trung thành với chủ nghĩa
Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, lên án những biểu hiện của chủ nghĩa xét
lại trong một số Đảng Cộng sản ở một số nước.
Tuy trong Tuyên bố Matxcơva năm 1957 đã có sự thỏa hiệp (trước hết là giữa các
Đảng Cộng sản lớn), nhưng những bất đồng về đường lối giữa một số đảng vẫn tồn
tại và có chiều hướng gia tăng.
Sự bất đồng, mâu thuẫn giữa Đảng Cộng sản Liên Xô và Nam Tư bắt đầu từ cuối
những năm 40. Khi Khơrutxốp lên nắm quyền lãnh đạo Đảng và Nhà nước thay
Xtalin, ông muốn trở lại quan hệ bình thường với Nam Tư, vì thế, Nam Tư đến
tham dự Hội nghị 1957 ở Matxcơva (mặc dù trước đó 9 năm Đảng Cộng sản Nam
Tư bị khai trừ ra khỏi Cục Thông tin quốc tế). Khi đứng ở vị trí cao của cơ quan
lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Khơrutxốp đề ra đường lối mới trong xây dựng
CNXH, ông phát hiện ra những sai lầm trước đó trong công cuộc xây dựng CNXH,
tệ sùng bái cá nhân, sự thiếu dân chủ trong xây dựng chủ nghĩa xã hội v.v… Trong
đối ngoại, ông chủ trương hoà hoãn với Nam Tư và tìm sự ủng hộ của Trung Quốc.
Từ Hội nghị Ianta (2-1945), Mao Trạch Đông vốn đã bất đồng với Liên Xô trên
nhiều mặt. Mao Trạch Đông chống lại Liên Xô và không tán thành việc đi theo
đường lối của Liên Xô, ông chủ trương dựa vào Mĩ để tiến.
Nhưng lúc đó xảy ra cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953) mà Trung Quốc
không thể đứng ngoài, vì thế mâu thuẫn giữa Mĩ và Trung Quốc trở nên gay gắt,
sau đó mâu thuẫn này dần dần dịu đi. Trong bối cảnh đó, Khơrutxốp chủ trương
nếu Trung Quốc ủng hộ Liên Xô thì Liên Xô sẽ phổ biến vũ khí nguyên tử cho
Trung Quốc. Quan hệ Trung Quốc - Liên Xô về cơ bản tốt đẹp lên. Năm l950, Mao
Trạch Đông đi thăm Matxcơva và hiệp ước Xô - Trung được kí kết ngày 14-2-
1950. Ngay sau khi Xtalin mất, việc Khơrutxốp đi thăm Trung Quốc (10-1954) và
kí kết trả lại các công ty hỗn hợp Xô –Trung cho Trung Quốc (12-10-1954) - các
công ty này được thành lập những năm 1950 - 1951, cho thấy mối bang giao giữa
hai nước xã hội chủ nghĩa lớn nhất ngày càng tốt đẹp lên.
Tháng 10 và tháng 11-1956, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tán thành thái độ của
Liên Xô đối với sự kiện 1956 ở Hunggari. Tháng 11-1956, Mao Trạch Đông và
đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tới dự Hội nghị các Đảng Cộng sản ở
Matxcơva năm 1957.
Kết quả của mối quan hệ tốt đẹp này là một bản tuyên bố giữa các Đảng Cộng sản
đã được đưa ra. Mặc dù bản tuyên bố còn nhiều điểm thỏa hiệp, nhưng dẫu sao đây
cũng là sự thống nhất của phong trào cộng sản trong bối cảnh thế giới đầy phức
tạp.
Sau hội nghị Matxcơva (1957), quan hệ Xô - Trung lại dần dần trở nên nguội lạnh.
Biểu hiện trước hết là thái độ khác nhau đối với Mĩ. Tuy kí vào văn kiện của Hội
nghị Matxcơva, nhưng Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc từ mùa xuân năm
1960 bắt đầu tuyên bố không đồng tình với đường lối chung của phong trào cộng
sản quốc tế do Hội nghị Matxcơva năm 1957 đề ra.
Còn đại biểu của “Liên đoàn những người cộng sản Nam Tư” không kí vào văn
kiện và Tuyên bố của Hội nghị 1957 và đưa ra đường lối riêng của mình. Đoàn đại
biểu Nam Tư cho rằng việc phân chia thế giới thành hai phe là giả tạo và sự chia
cắt Đức và Triều Tiên là kết quả của quan điểm đó; rằng mỗi nước đều có đường
lối của mình, không nhất thiết phải rập khuôn theo Liên Xô; và Nam Tư đã đề ra
đường lối của mình (mà thời kỳ đó người ta gọi là "chủ nghĩa cộng sản quốc gia'').
Trong đường lối của mình, trước hết Nam Tư cho rằng tập thể hóa nông nghiệp là
tự hủy diệt nền nông nghiệp của mình, việc quản lí doanh nghiệp giao cho công
đoàn, trong công nghiệp hóa không nhất thiết phải phát triển công nghiệp nặng, cứ
hợp tác với Mĩ trong khi vẫn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải xây dựng một nền
dân chủ XHCN và pháp chế xã hội chủ nghĩa theo đúng nghĩa của nó.
Quan điểm này là biểu hiện của sự bất đồng trong phong trào cộng sản quốc tế.
Theo Nghị quyết của Hội nghị Matxcơva năm 1957, tháng 9 - 1958, tạp chí
''Những vấn đề hòa bình và chủ nghĩa xã hội'' đã ra số đầu tiên, được xuất bản bằng
34 thứ tiếng và phát hành ở 145 nước trên thế giới. Tạp chí đã đóng góp vào việc
xây dựng lí luận Mác - Lênin để đấu tranh chống hệ tư tưởng tư sản, vào việc trao
đổi kinh nghiệm giữa những người cộng sản và công nhân trên cơ sở chủ nghĩa
Mác - Lênin
 
Theo "Lịch sử thế giới hiện đại", Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2009

Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và Đảng Công nhân (tháng 11-1960) tại
Matxcơva (Nga)
Chỉ ba năm sau Hội nghị Matxcơva năm 1957, đã có nhiều biến đổi quan trọng
diễn ra trên thế giới và trong phong trào cộng sản quốc tế. Cách mạng Cuba thắng
lợi (1959) đưa Cuba gia nhập phe XHCN, làm cho hệ thống XHCN mở rộng sang
cả Tây bán cầu. Phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ ở châu Á, châu
Phi và Mĩ Latinh, nhiều quốc gia non trẻ giành được độc lập dân tộc ở những mức
độ khác nhau, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân tan rã từng mảng lớn.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân sau một số năm tạm lắng nay lại bùng
nên mạnh mẽ.
Các lực lượng đế quốc tăng cường tấn công vào cách mạng. Đối với các nước xã
hội chủ nghĩa châu Âu, họ thực hiện ''chiến lược diễn biến hòa bình''; còn đối với
Cuba và Việt Nam thì bao vây, khiêu khích hoặc xâm lược và thực hiện chủ nghĩa
thực dân trá hình ở khu vực Á - Phi - Mĩ Latinh.
Các lực lượng phản động ở nhiều nước đã mở cuộc tiến công vào các Đảng Cộng
sản. Năm 1959, Đảng Cộng sản Achentina bị cấm hoạt động. Năm1960, Đảng
Cộng sản Marốc cũng bị cấm. Những người cộng sản bị đàn áp khốc liệt ở Mĩ, Tây
Ban Nha, Bồ Đào Nha, Cộng hòa Liên bang Đức, Italia, Hi Lạp, Iran, Gioocđani,
Irắc, Paragoay, Achentina, Xu đăng… Trong tình hình như thế, những thế lực cơ
hội, xét lại đang nắm quyền ở một số Đảng Cộng sản lại đưa ra đường lối ''chung
sống hòa bình'', thỏa hiệp giai cấp vô nguyên tắc và trong phong trào cộng sản
quốc tế lại xuất hiện một trào lưu mới hết sức nguy hại – chủ nghĩa giáo
điều và chủ nghĩa biệt phái.
Trong bối cảnh lịch sử này, Hội nghị đại biểu của 81 Đảng Cộng sản và công nhân
họp ở Matxcơva vào tháng 11-1960. Đây là hội nghị lớn nhất từ trước đến nay của
phong trào cộng sản quốc tế.
Hội nghị Matxcơva năm 1960 đã khẳng định và kế thừa những nội dung cơ bản
của bản Tuyên bố năm 1957, phát triển và bổ sung thêm một số luận điểm quan
trọng.
Hội nghị đã phân tích tình hình quốc tế và những vấn đề cơ bản của thế giới, đưa ra
khái niệm về “thời đại hiện nay”, xác định nhiệm vụ hàng đầu của các Đảng Cộng
sản và công nhân là bảo vệ và củng cố hòa bình ngăn chặn bọn đế quốc hiếu chiến
phát động chiến tranh thế giới mới, tăng cường đoàn kết phong trào cộng sản đấu
tranh cho hòa bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Trong bản Tuyên bố Matxcơva năm 1960, Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và công
nhân quốc tế tuy gạt bỏ những quan điểm “tả khuynh cực đoan” của Mao Trạch
Đông về ''chủ nghĩa đế quốc là con hổ giấy'', về khả năng tiến hành một cuộc chiến
tranh thế giới mới để lật đổ hoàn toàn chủ nghĩa đế quốc, về mâu thuẫn chủ yếu
của thế giới là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và phong trào giải phóng dân tộc
v.v…, nhưng nhìn chung vẫn chưa có những đánh giá khoa học và khách quan về
thời đại và thế giới.
Trong văn kiện này có nhiều luận điểm mâu thuẫn nhau, thể hiện sự chắp vá, nhân
nhượng về quan điểm giữa các đảng tham dự Hội nghị. Đối với một số người,
trong văn kiện này có nhiều luận điểm của chủ nghĩa xét lại, và một số người khác
lại cho rằng có nhiều luận điểm giáo điều, tả khuynh.
Chính vì vậy, Hội nghị Matxcơva năm 1960 thực tế không thống nhất được về tư
tưởng, lí luận và chiến lược hoạt động của phong trào cộng sản quốc tế. Từ năm
1960 đến 1969 là thời kì đầy phức tạp của phong trào công nhân. Những bất đồng
và mâu thuẫn trong nội bộ phong trào công nhân quốc tế, đặc biệt giữa Liên Xô và
Trung Quốc (sau hai Hội nghị năm 1957 và 1960), không dịu đi mà ngày càng
trầm trọng, công khai. Những cuộc tranh luận gay gắt và bất đồng giữa hai đảng
này xoay quanh các vấn đề lí luận, đường lối chung của phong trào cộng sản quốc
tế đã dân đến sư phân liệt thực sự của phong trào cộng sản thành hai phái. Hai đảng
lớn, hai nước lớn tranh nhau vì vị trí trung tâm cách mạng, công kích lẫn nhau:
đảng nào cũng muốn nắm độc quyền chân lí và tranh nhau vai trò lãnh đạo các
nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản quốc tế. Sự phân liệt và sự tập hợp
lực lựợng của hai đảng lớn này ngày càng trở nên ráo riết, công khai. Một số Đảng
Cộng sản ở một số nước cũng bị chia rẽ về tổ chức thành hai đảng theo hai khuynh
hướng nói trên.
Mâu thuẫn giữa hai Đảng Cộng sản Liên Xô và Trung Quốc đã nảy nở từ 1945,
được dịu bớt đi vào những năm 50. Nhưng từ sau Hội nghị Matxcơva (1957), mối
quan hệ giữa hai đảng trở nên xấu đi.
Mâu thuẫn Xô - Trung ngày càng căng thẳng, đã dẫn tới xung đột biên giới giữa
Liên Xô và Trung Quốc vào tháng 4 và tháng 5-1962. Cuối tháng 2 và đầu tháng 3-
1963, “Nhân dân nhật báo” Bắc Kinh công bố 4 bài báo chỉ trích Khơrutxốp. Ngày
15-6-1963, Đại sứ Trung Quốc ở Matxcơva trao cho cho lãnh đạo Liên Xô một bức
thư 25 điểm nêu tất cả những vấn đề là Đảng Cộng sản Trung Quốc từ chối không
nhân nhượng đối với Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong bức thư có đoạn nói rằng:
“Không có đảng cấp trên, không có quốc gia cấp trên trong phe xã hội chủ nghĩa”.
Từ mâu thuẫn giữa hai đảng đã chuyển sang mâu thuẫn giữa hai nhà nước. Từ
những bài báo luận chiến đã chuyển sang xung đột bằng vũ lực. Đỉnh điểm bất hòa
giữa hai đảng là cuộc xung đột đổ máu giữa hai nước Xô - Trung mùa xuân 1969
và từ đó hai bên đã coi nhau như thù địch.
 
 
Theo "Lịch sử thế giới hiện đại", Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2009
Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và Đảng Công nhân (tháng 5-1969) tại
Matxcơva (Nga)
Sau năm 1960, tình hình phong trào cộng sản và công nhân ngày càng phức
tạp. Trong bối cảnh đó, Hội nghị quốc tế lần thứ ba các Đảng Cộng sản và
Đảng Công nhân đã diễn ra ở Matxcơva (Nga) vào mùa hè 1969 nhằm đề ra
đường lối, củng cố sự thống nhất phong trào cộng sản quốc tế và các lực lượng
chống đế quốc. Hơn 10 Đảng Cộng sản, trong đó có Đảng Cộng sản Trung
Quốc, không tham gia hội nghị. Do tập trung cho công cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng không có mặt ở Hội nghị
này.
Sau Hội nghị Matxcơva năm 1960, hoạt động lí luận và thực tiễn của các Đảng
Cộng sản và công nhân được tăng cường hơn trước. Tuy nhiên, trong phong trào
cộng sản quốc tế, trên những vấn đề cơ bản của cách mạng thế giới trong thời đại
hiện nay vẫn tồn tại những bất đồng sâu sắc và vẫn tiếp tục diễn ra cuộc đấu tranh
gay gắt giữa những người theo chủ nghĩa Mác - Lênin với những người theo chủ
nghĩa xét lại và chủ nghĩa giáo điều biệt phái. Mâu thuẫn và bất đồng trầm trọng
nhất là giữa hai đảng, hai nhà nước lớn trong phe xã hội chủ nghĩa.
Đảng Cộng sản Trung Quốc tuyên bố ''những kiến nghị về đường lối chung của
phong trào cộng sản quốc tế” trong đó thể hiện những quan điểm không tán thành
với Tuyên bố Matxcơva năm 1957 và 1960 về những vấn đề quốc tế và thời đại.
Đồng thời cho rằng trung tâm cách mạng thế giới đã chuyển sang châu Á, và Trung
Quốc mới xứng đáng là đội tiên phong của phong trào cộng sản thế giới; không
phải hệ thống XHCN là nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người mà
cuộc đấu tranh giải phóng của các nước Á - Phi - Mĩ Latinh mới là lực lượng quyết
định quá trình cách mạng thế giới; chiến tranh thế giới tất yếu sẽ xảy ra và là con
đường để thủ tiêu chủ nghĩa đế quốc thế giới; hình thức đấu tranh vũ trang là hình
thức duy nhất cách mạng và phải phát động cả ở các nước có phong trào giải
phóng dân tộc cũng như các nước tư bản chủ nghĩa, v.v... 
Những quan điểm “tả” của Trung Quốc đã gây nên những tổn thất cho cách mạng
Trung Quốc và cách mạng thế giới, như sự tổn thất nặng nề của cách mạng
Inđônêxia và Đảng Cộng sản Inđônêxia năm 1965, sự tàn phá của cuộc “cách
mạng văn hóa” ở Trung Quốc trong những năm 1966 - 1969, sự tha hóa biến chất
của một số Đảng Cộng sản ở Đông Nam Á, v.v…
Ở Đông Âu, các Đảng Cộng sản cầm quyền tuy giành được nhiều thắng lợi trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng vẫn tiếp tục phạm những sai lầm thiếu
sót trong đường lối, gây nên sự bất ổn về chính trị ở trong nước (như trường hợp ở
Tiệp Khắc năm 1968).
Trong bối cảnh đó, Hội nghị quốc tế lần thứ ba của 75 Đảng Cộng sản và công
nhân đã diễn ra ở Matxcơva vào mùa hè 1969 để đề ra đường lối, củng cố sự thống
nhất phong trào cộng sản quốc tế và các lực lượng chống đế quốc. Hơn 10 Đảng
Cộng sản, trong đó có Đảng Cộng sản Trung Quốc, không tham gia hội nghị. Do
tập trung cho công cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Đảng Cộng sản Việt
Nam cũng không có mặt ở Hội nghị này.
Hội nghị Matxcơva thông qua văn kiện: “Những nhiệm vụ đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc trong giai đoạn hiện tại và sự thống nhất hành động của các Đảng
Cộng sản, công nhân và tất cả các lực lương chống đế quốc”. Văn kiện đã phân
tích tình hình thế giới, những đặc điểm nổi bật trong sự phát triển của chủ nghĩa đế
quốc thế giới, chiến lược và sách lược của chúng, và nhận định trong hiện nay chủ
nghĩa đế quốc vẫn là kẻ thù nguy hiểm của nhân dân thế giới. Vì vậy, cần phải
đoàn kết tất cả các lực lượng của phong trào cộng sản và chống đế quốc.
Văn kiện tổng kết của Hội nghị nhận định rằng: “Loài người đã bước vào một phần
ba cuối cùng của thế kỉ này trong hoàn cảnh cuộc đấu tranh lịch sử giữa các lực
lượng tiến bộ và phản động, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc diễn ra
gay gắt. Vũ đài của cuộc đấu tranh ấy là toàn thế giới, trên tất cả các lĩnh vực chủ
yếu của đời sống xã hội - kinh tế, chính trị, hệ tư tưởng, văn hóa”. Văn kiện chỉ rõ
hiện nay đã có những điều kiện thực tế để giải quyết những vấn đề quan trong nhất
của thời đại vì lợi ích của hòa bình dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị nhận định rằng hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới là lực lượng quyết định
của phong trào chống đế quốc toàn thế giới. Cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống đối
lập tùy thuộc những thành tựu và sự đoàn kết của hệ thống XHCN thế giới.
Phương hưóng chính trong việc đoàn kết hệ thống XHCN là quán triệt trong cuộc
sống những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa. Do vậy, vấn đề bảo
vệ chủ nghĩa xã hội là nghĩa vụ quốc tế của những người cộng sản.
Hội nghị nhận định rằng trong các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là
động lực chính của cuộc đấu tranh cách mạng, của toàn bộ phong trào dân chủ và
chống đế quốc. Đồng thời, các Đảng Cộng sản ở khu vực này cần chú ý đến những
khả năng cách mạng to lớn của giai cấp nông dân lao động, giới trí thức tiến bộ,
thanh niên và đề ra những biện pháp thu hút các lực lượng ấy tham gia cuộc đấu
tranh chung chống chủ nghĩa đế quốc.
Hội nghị cũng đánh giá vai trò ngày càng tăng của phong trào chống đế quốc của
các dân tộc Á - Phi - Mĩ latinh trong quá trình cách mạng thế giới.
Hội nghị đã ra ''Lời kêu gọi nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Lênin'', trong đó
nhấn mạnh sự trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng mọi thắng lợi của
phong trào cộng sản. Hội nghị Matxcơva năm 1969 cũng phê phán đường lối của
Đảng Cộng sản Trung Quốc, tiếp tục kế thừa và phát triển nhiều luận điểm của hai
hội nghị trước đây về thời đại, về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản, phong trào
giải phóng dân tộc, về sự thay đổi tương quan lực lượng trên thế giới ngày càng có
lợi cho phía các lực lượng cộng sản, cách mạng và tiến bộ, đề ra đường lối
chung:các Đảng Cộng sản thống nhất hành động với mọi lực lượng tiến công
mạnh mẽ hơn chống chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động và chiến
tranh. Hội nghị thừa nhận có những bất đồng sâu sắc trong nội bộ phong trào cộng
sản quốc tế, song hi vọng rằng sự bất đồng này được khắc phục bằng con đường
hợp tác, thảo luận, trao đổi ý kiến và thống nhất hành động chống chủ nghĩa đế
quốc trên diễn đàn quốc tế.
Từ những năm 1970 trở về sau, nhiều Đảng Cộng sản trưởng thành hơn và đã tự
giải quyết các vấn đề tư tưởng, lí luận, đường lối chiến lược, sách lược hoạt động
của mình. Vì vậy, thời kì các hội nghị quốc tế các đảng như trước cũng không còn
nữa. Dựa trên các văn kiện hội nghị quốc tế những năm 1957, 1960 và 1969, gần
50 đảng trong giai đoạn này đã thông qua cương lĩnh mới hoặc sửa đổi cương lĩnh,
điều chỉnh chiến lược và sách lược hoạt động của mình. Đầu những năm 60, các
Đảng Cộng sản cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa đề ra và thực hiện chiến
lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Các Đảng Cộng sản ở các nước tư bản phát triển thống nhất các lực lượng dân chủ
rộng rãi chống chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, chống chạy đua vũ trang hạt
nhân, vì hòa bình, dân chủ và tiến lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường cách mạng
hay con đường đấu tranh nghị viện.
Các Đảng Cộng sản ở khu vực Á, Phi, Mĩ Latinh xác định nhiệm vụ chủ yếu trước
mắt của mình là đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chống chế độ độc tài củng cố
độc lập dân tộc, xóa bỏ chế độ thực dân dưới các hình thức, phát triển đất nước
theo con đường dân chủ, tiến bộ theo định hướng phi tư bản chủ nghĩa.
Trong những năm 60 và 70, phong trào cộng sản quốc tế ngày càng phát triển đa
dạng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trước những biến đổi không ngừng của điều
kiện thực tế. Chính sự không chú ý đầy đủ đến sự khác biệt và đa dạng, sự thiếu
thông cảm, hiểu biết lẫn nhau là một nguyên nhân khách quan chủ yếu của những
bất đồng trong quan điểm, lí luận của phong trào cộng sản quốc tế. Để khắc phục
những bất đồng, điều quan trọng không phải chỉ là ''đấu tranh chống chủ nghĩa xét
lại'', ''kiên trì bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin chống những luận
điểm, nguyên tắc kinh viện chỉ dừng lại ở trình độ lí luận, tư tưởng những năm 50 -
60 và trước đó mà còn phải chống cả chủ nghĩa giáo điều ''thâm căn cố đế và phát
triển liên tục, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, đổi mới toàn diện hoạt động của các
Đảng Cộng sản cho ngang tầm và phù hợp với những đòi hỏi và biến đổi của thực
tế cuộc sống trong từng quốc gia, từng dân tộc, từng thời kỳ cụ thể.
 
Theo "Lịch sử thế giới hiện đại", Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2009

Hội nghị của các Đảng Cộng sản và Công nhân


 
một hình thức duy trì quan hệ ý thức hệ và chính trị giữa các đảng Cộng sản và công nhân từ các nước
khác nhau, và là một phương tiện phối hợp hoạt động của họ. Các hội nghị của các đảng cộng sản và
công nhân đã được tổ chức kể từ khi Quốc tế Cộng sản bị giải tán, và đặc biệt là từ cuối những năm
1950.
Trong điều kiện ngày nay, có bốn phương tiện chính để duy trì liên lạc và liên lạc giữa các đảng cộng sản
và công nhân: hội nghị quốc tế, các cuộc họp khu vực, đàm phán song phương, hội nghị khoa học và hội
nghị chuyên đề có sự tham dự của những người mácxít từ các nước.
Hội nghị quốc tế . Các Hội nghị Quốc tế của các Đảng Cộng sản và Công nhân, được tổ chức tại
Mátxcơva vào các năm 1957, 1960 và 1969, có ý nghĩa rất quan trọng trong lịch sử của phong trào cộng
sản quốc tế. Trong số các văn kiện chương trình được các hội nghị Mátxcơva thông qua có Tuyên bố
của Hội nghị đại biểu các đảng cộng sản và công nhân các nước xã hội chủ nghĩa (1957), Tuyên bố của
Hội nghị đại biểu các đảng cộng sản và công nhân (1960) ), và các nhiệm vụ ở giai đoạn hiện tại của
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và hành động thống nhất của các đảng cộng sản và công nhân
và tất cả các lực lượng chống chủ nghĩa đế quốc (1969).
Các văn kiện chương trình này đã góp phần quan trọng vào việc phát triển lý luận Mác - Lê-nin về một số
vấn đề lớn như đặc điểm và nội dung của tiến trình cách mạng thế giới trong thời đại hiện nay, nguyên
tắc hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa, phương tiện phòng chống chiến tranh thế giới. , sự phát
triển của cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng các hình thức hòa bình và phi nhân đạo, và tập trung cuộc
tấn công chủ yếu của giai cấp công nhân các nước tư bản phát triển chống lại các tổ chức độc quyền và
chống lại toàn bộ hệ thống chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, vốn bảo vệ lợi ích của các tổ chức độc
quyền. . Các văn kiện chương trình do các hội nghị Mát-xcơ-va ban hành cũng góp phần quan trọng vào
lý luận Mác - Lê-nin về nhiệm vụ của cách mạng dân chủ chống đế quốc; sự phát triển của các nước giải
phóng theo đường lối phi tư bản chủ nghĩa; sự hình thành một dòng duy nhất chống đế quốc bằng sự
hợp nhất của cuộc đấu tranh của các dân tộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, phong
trào cách mạng của giai cấp công nhân ở các nước tư bản, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các
dân tộc bị áp bức và các phong trào dân chủ nói chung; và những hệ quả kinh tế, xã hội của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ.
Các hội nghị ở Mátxcơva đã xác định quan điểm chủ yếu của phong trào cộng sản quốc tế trong
giai đoạn phát triển hiện nay, cũng như đường lối chung của các đảng cộng sản và công nhân trong cuộc
đấu tranh vì hòa bình, dân chủ, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hội nghị đã đề ra các hình thức liên
lạc và hợp tác giữa các bên huynh đệ, phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Tuyên bố năm 1957 nêu rõ:
“Sau khi trao đổi ý kiến, những người tham gia hội nghị kết luận rằng trong điều kiện hiện nay, ngoài các
cuộc gặp giữa các nhân vật hàng đầu và trao đổi thông tin lẫn nhau trên cơ sở song phương, cần thiết
phải tổ chức các hội nghị rộng hơn, nếu cần Các đảng cộng sản và công nhân, để thảo luận những vấn
đề cấp bách, trao đổi kinh nghiệm, làm quen với nhau về quan điểm và lập trường,Programmnye
dokumenty bor'by za mir, demokratiiu i sotsializm , 1961, tr. 20).
Các văn kiện của các hội nghị Mátxcơva nêu rõ các nguyên tắc liên hệ giữa các Đảng Cộng sản và công
nhân trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, những nguyên tắc quan trọng nhất là trung thành với chủ nghĩa
Mác - Lê-nin; sự thống nhất về tư tưởng dựa trên chủ nghĩa Mác - Lê-nin; và chủ nghĩa quốc tế vô sản,
bao gồm cả việc quan tâm đến việc thực hiện mọi biện pháp có thể để đoàn kết phong trào cộng sản,
phối hợp đấu tranh chung vì các mục tiêu chung, và việc mỗi đảng cộng sản kiên quyết chấp hành các
đánh giá và kết luận chung về nhiệm vụ chung của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và vì hòa
bình, dân chủ, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Một nguyên tắc khác về mối quan hệ giữa các Đảng
cộng sản và công nhân là tính độc lập và bình đẳng của mỗi đảng theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin - nghĩa
là mỗi bên xây dựng chính sách căn cứ vào điều kiện cụ thể của nước mình, theo nguyên tắc của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, chịu trách nhiệm trước giai cấp công nhân và nhân dân khó khăn của nước mình và
phong trào công nhân và cộng sản quốc tế. Cũng trong số các nguyên tắc về mối quan hệ giữa các đảng
cộng sản và công nhân là việc chấp hành nghiêm chỉnh các chuẩn mực của chủ nghĩa Lênin về xây dựng
đảng và sinh hoạt đảng; một cuộc đấu tranh kiên cường chống lại mọi hình thức của chủ nghĩa cơ hội, cả
cánh hữu và “cánh tả”, chống lại chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa giáo điều; việc giải quyết các tranh chấp
giữa các Đảng Cộng sản thông qua hiệp thương và các cuộc gặp gỡ đồng tình; và từ chối cho phép hoạt
động bè phái trong hàng ngũ của phong trào cộng sản. Tuyên bố năm 1960 nêu rõ:sđd ., tr. 82–83). Văn
kiện cuối cùng của Hội nghị Quốc tế các Đảng Cộng sản và Công nhân năm 1969 ghi nhận tầm quan
trọng đặc biệt của việc củng cố sự đoàn kết của phong trào cộng sản thế giới: “Nhiệm vụ quốc tế của mọi
bên là thúc đẩy bằng mọi cách có thể việc cải thiện các quan hệ và sự phát triển của tin cậy lẫn nhau
giữa các bên, có những nỗ lực mới góp phần củng cố khối đoàn kết của phong trào cộng sản quốc
tế. Phân tích tập thể về thực tế cụ thể thúc đẩy việc tăng cường sự thống nhất này ”( Mezhdunarodnoe
Soveshchanie kommunisticheskikh i rabochikh partii: Dokumenty i materialy , Moscow, 1969, p. 328).
Một cuộc họp của đại diện của 45 đảng cộng sản và công nhân ở Budapest vào tháng 9 năm 1970 tập
trung vào những vấn đề hiện tại trong cuộc đấu tranh chống đế quốc.

Các nước xã hội chủ nghĩa. Hội nghị thường kỳ của đại diện các đảng cộng sản và công nhân của các
nước xã hội chủ nghĩa là cần thiết vì các nước này đóng một vai trò đặc biệt trong phong trào cộng sản,
và các đảng phải đối mặt với một số vấn đề đặc thù của các nước này. Một hội nghị đại biểu của các
Đảng Cộng sản và công nhân của các nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức tại Mátxcơva từ ngày 14 đến
16 tháng 11 năm 1957, trước hội nghị quốc tế của các đại biểu của các đảng Cộng sản và công nhân, và
có sự tham dự của các đại biểu của các Đảng Cộng sản và công nhân Albania, Bulgaria, Trung Quốc,
Tiệp Khắc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH), Cộng hòa Dân chủ Đức (CHDC Đức), Hungary,
Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Ba Lan, Rumania , và Liên
Xô. Các đại biểu đã xem xét những vấn đề cấp bách trong quan hệ quốc tế và trong cuộc đấu tranh vì
hòa bình và chủ nghĩa xã hội, cũng như những vấn đề về quan hệ giữa các Đảng Cộng sản. Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản và Công nhân của các nước xã hội chủ nghĩa, được thông qua tại hội nghị năm
1957, đã trở thành một văn kiện chương trình quan trọng trong phong trào cộng sản quốc tế. Hội nghị đại
diện các đảng cộng sản và công nhân của các thành viên Hội đồng tương trợ kinh tế (COMECON) đã
được tổ chức tại Mátxcơva từ ngày 20 tháng 5 đến ngày 23 tháng 5 năm 1958. Đại diện của Trung Quốc,
VNDCCH và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân. của Hàn Quốc tham gia theo lời mời, cũng như đại diện của
Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, nước tham gia COMECON vào năm 1962.
Vào ngày 2-3 / 2/1960, tại Mátxcơva đã diễn ra Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và công nhân của
các nước xã hội chủ nghĩa châu Âu để thảo luận và trao đổi kinh nghiệm phát triển nông nghiệp. (Đại
diện của Đảng Công nhân Triều Tiên và Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ đã tham gia hội nghị,
nhưng Liên đoàn những người Cộng sản Nam Tư không cử đại diện.) Một cuộc họp gồm đại diện của
các Đảng Cộng sản và công nhân của các nước xã hội chủ nghĩa đã được tổ chức tại Bucharest vào
ngày 24 tháng 6 năm 1960. Liên đoàn những người Cộng sản (Nam Tư) không có đại diện. Các đại biểu
đã trao đổi ý kiến về các vấn đề cấp bách trong quan hệ quốc tế và tái khẳng định lòng trung thành với
các nguyên tắc trong Tuyên ngôn của các Đảng Cộng sản và Công nhân của các nước xã hội chủ nghĩa
và Tuyên ngôn về Hòa bình, các văn kiện được thông qua tại các Hội nghị ở Mátxcơva năm 1957. Vào
ngày 6–7 tháng 6 năm 1962, một hội nghị của đại diện các đảng cộng sản và công nhân của các nước
COMECON đã được tổ chức tại Mátxcơva. (Albania không cử đại diện. Vào đầu những năm 1960, Đảng
Cộng sản Trung Quốc và Đảng Công nhân Albania đã ngừng tham gia vào các hoạt động chung của các
đảng Cộng sản của các quốc gia xã hội chủ nghĩa.) Hội nghị đã thông qua các nghị quyết nhằm thiết lập
sự chặt chẽ hơn về kinh tế, khoa học và hợp tác công nghệ giữa các nước xã hội chủ nghĩa và tạo điều
kiện thuận lợi hơn nữa cho việc mở rộng và phát triển đúng đắn phân công lao động quốc tế xã hội chủ
nghĩa. Tiến độ thực hiện các nghị quyết của hội nghị năm 1962 đã được xem xét tại Mátxcơva vào ngày
24–26.1963, tại một hội nghị gồm các bí thư đầu tiên của các ủy ban trung ương của các đảng cộng sản
và công nhân và nguyên thủ quốc gia của các nước COMECON. Các khía cạnh khác nhau của hoạt
động COMECON đã được thảo luận. Một cuộc họp của các nhà lãnh đạo của các Đảng Cộng sản và
công nhân của các nước COMECON đã được tổ chức vào ngày 7 tháng 7 năm 1966, tại Bucharest. Các
đại biểu bày tỏ ý định nỗ lực trong tương lai vì sự phát triển hợp tác lẫn nhau, phù hợp với các nguyên
tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng chủ quyền và lợi ích quốc gia, cùng có lợi và đồng tình, ủng hộ lẫn
nhau. Các ý kiến về nhiều vấn đề trong các vấn đề quốc tế đã được trao đổi trong các cuộc gặp và hội
đàm tổ chức tại Mátxcơva từ ngày 17 tháng 10 đến ngày 22 tháng 10 năm 1966, bởi các nhà lãnh đạo
của các Đảng Cộng sản và công nhân và các nguyên thủ quốc gia của các nước xã hội chủ nghĩa
( Bulgaria, Cuba,
Tình hình Trung Đông được các thành viên tham dự cuộc họp gồm các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản và
công nhân và nguyên thủ các nước xã hội chủ nghĩa (Bungari, Tiệp Khắc, CHDC Đức, Hungary, Ba Lan,
Rumania, Liên Xô và Nam Tư). Một tuyên bố được thông qua tại cuộc họp đã lên án hành động xâm
lược của Israel đối với các nước Ả Rập và yêu cầu Israel ngừng ngay lập tức các hoạt động quân sự và
rút quân đội Israel ra ngoài giới hạn đình chiến được thiết lập bởi các thỏa thuận được ký kết vào cuối
Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948– 49. Tình hình phát triển ở Trung Đông đã được xem xét tại một hội
nghị khác được tổ chức ở Budapest vào ngày 11-12 tháng 7 năm 1967, với sự tham dự của các nhà lãnh
đạo của các đảng anh em và nguyên thủ quốc gia của các nước xã hội chủ nghĩa (Bulgaria, Tiệp
Khắc, CHDC Đức, Hungary, Ba Lan, Liên Xô và Nam Tư). Hội nghị đã lên án gay gắt chính sách hiếu
chiến của giới cầm quyền Israel, lưu ý rằng sự ủng hộ chính của họ đến từ các thế lực của chủ nghĩa đế
quốc ở Hoa Kỳ. Ngoài ra, hội nghị tuyên bố ủng hộ vững chắc các quốc gia Ả Rập thân thiện và cuộc đấu
tranh chính nghĩa của họ nhằm loại bỏ hậu quả của hành động xâm lược của Israel, đồng thời kêu gọi rút
quân ngay lập tức khỏi các lãnh thổ mà họ đã chiếm giữ. Những người tham gia hội nghị tuyên bố rằng
họ đã chuẩn bị sẵn sàng để hỗ trợ các dân tộc Ả Rập bằng mọi cách có thể. hội nghị tuyên bố ủng hộ
vững chắc các quốc gia Ả Rập thân thiện và cuộc đấu tranh chính nghĩa của họ nhằm loại bỏ hậu quả
của hành động xâm lược của Israel, đồng thời kêu gọi rút quân ngay lập tức khỏi các lãnh thổ mà họ đã
chiếm giữ. Những người tham gia hội nghị tuyên bố rằng họ đã chuẩn bị sẵn sàng để hỗ trợ các dân tộc
Ả Rập bằng mọi cách có thể. hội nghị tuyên bố ủng hộ vững chắc các quốc gia Ả Rập thân thiện và cuộc
đấu tranh chính nghĩa của họ nhằm loại bỏ hậu quả của hành động xâm lược của Israel, đồng thời kêu
gọi rút quân ngay lập tức khỏi các lãnh thổ mà họ đã chiếm giữ. Những người tham gia hội nghị tuyên bố
rằng họ đã chuẩn bị sẵn sàng để hỗ trợ các dân tộc Ả Rập bằng mọi cách có thể.
Các vấn đề chính trong phát triển kinh tế và chính trị và hợp tác đã được thảo luận tại Dresden vào ngày
23 tháng 3 năm 1968, bởi các nhân vật hàng đầu trong các đảng Cộng sản và công nhân và chính phủ
của các nước xã hội chủ nghĩa (Bulgaria, Tiệp Khắc, CHDC Đức, Hungary, Ba Lan, và Liên Xô). Những
vấn đề hiện nay trong các vấn đề quốc tế và trong phong trào cộng sản và công nhân thế giới đã được
xem xét tại một cuộc họp tổ chức ở Mátxcơva ngày 8 tháng 5 năm 1968, với sự tham dự của các nhân
vật hàng đầu trong các đảng cộng sản và công nhân của các nước xã hội chủ nghĩa (Bungari, CHDC
Đức, Hungary, Ba Lan và Liên Xô). Vào ngày 14-15 tháng 7 năm 1968, các nhà lãnh đạo của chính phủ
và các đảng cộng sản và công nhân của các nước xã hội chủ nghĩa (Bulgaria, CHDC Đức, Hungary, Ba
Lan và Liên Xô) đã gặp nhau tại Warsaw, nơi họ trao đổi ý kiến về các vấn đề trong quan hệ quốc tế và
duy trì hòa bình và an ninh ở châu Âu, cũng như các vấn đề của phong trào cộng sản thế giới và diễn
biến các sự kiện ở Tiệp Khắc. Một hội nghị của các đảng cộng sản và công nhân của các nước xã hội
chủ nghĩa (Bulgaria, Tiệp Khắc, CHDC Đức, Hungary, Ba Lan và Liên Xô) đã được tổ chức tại Bratislava
vào ngày 3 tháng 8 năm 1968. Các đại biểu đã thảo luận về các cách thức củng cố và phát triển quan hệ
hợp tác huynh đệ giữa các nhà nước xã hội chủ nghĩa. Các nhà lãnh đạo Đảng và nhà nước của các
nước xã hội chủ nghĩa (Bulgaria, Tiệp Khắc, CHDC Đức, Hungary, Ba Lan, Rumania, Liên Xô) đã gặp
nhau tại Mátxcơva, từ ngày 3 đến ngày 4 tháng 12 năm 1969,
Các ý kiến về những vấn đề hiện nay trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản đã được
trao đổi vào ngày 24-25 tháng 2 năm 1970, tại Sofia trong cuộc họp của đại diện các đảng cộng sản và
công nhân của các nước xã hội chủ nghĩa (Bulgaria, Tiệp Khắc, CHDC Đức, Hungary, Cộng hòa Nhân
dân Mông Cổ, Ba Lan, Rumania và Liên Xô). Các đại biểu đã trao đổi thông tin về các biện pháp được
thực hiện ở nước mình để kỷ niệm 100 năm ngày sinh của V.I.Lê-nin.
Đại diện của Bulgaria, Tiệp Khắc, CHDC Đức, Hungary, Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, Ba Lan và Liên
Xô đã tham dự cuộc gặp thân thiện giữa lãnh đạo các Đảng Cộng sản và công nhân các nước xã hội chủ
nghĩa tại Crimea vào ngày 2.1971. Các đại biểu đã đề cập đến những câu hỏi hiện tại liên quan đến sự
phát triển của phong trào cộng sản thế giới, cũng như các vấn đề về chính sách đối ngoại mà hai bên
cùng quan tâm. Họ nhấn mạnh tầm quan trọng to lớn của Chương trình Hòa bình được thông qua tại Đại
hội lần thứ 24 của CPSU và tái khẳng định sự ủng hộ của họ đối với các dân tộc Đông Dương và Ả Rập
đấu tranh chống xâm lược. Họ cũng bày tỏ sự lo ngại về cuộc khủng bố chống lại Đảng Cộng sản và các
tổ chức dân chủ khác ở Sudan.
Các nhà lãnh đạo của các Đảng Cộng sản và công nhân của các nước xã hội chủ nghĩa (Bungari, Tiệp
Khắc, CHDC Đức, Hungary, Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, Ba Lan, Rumania và Liên Xô) đã gặp nhau
tại Crimea vào ngày 31 tháng 7 năm 1972. Đã có một cuộc họp. trao đổi ý kiến về quá trình xây dựng xã
hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa và việc phát triển hơn nữa quan hệ hợp tác toàn diện giữa các quốc
gia xã hội chủ nghĩa.
Các nhà lãnh đạo của các đảng cộng sản và công nhân của các nước xã hội chủ nghĩa (Bungari, Tiệp
Khắc, CHDC Đức, Hungary, Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, Ba Lan, Rumania và Liên Xô) đã gặp nhau
tại Crimea vào ngày 30-31 tháng 7 năm 1973. Thành phần tham dự trao đổi thông tin liên quan đến hoạt
động của các đảng của họ và sự phát triển của các quốc gia xã hội chủ nghĩa của họ. Cũng đã có một
cuộc trao đổi ý kiến rộng rãi về các vấn đề quốc tế cấp bách. Hội nghị ghi nhận những thành công trong
chính sách yêu chuộng hòa bình của các nước thuộc khối thịnh vượng chung xã hội chủ nghĩa, thể hiện
ở việc Việt Nam kết thúc chiến tranh, sự công nhận đầy đủ về mặt pháp lý của CHDC Đức trên bình diện
quốc tế, vị thế quốc tế của Cuba, và khai mạc Hội nghị về An ninh và Hợp tác ở Châu Âu. Hội nghị Bí thư
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản và công nhân các nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức tại
Mátxcơva từ ngày 18-19 tháng 12 năm 1973, với sự tham dự của đại diện các nước Bulgaria, Cuba, Tiệp
Khắc, CHDC Đức, Hungary. , Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, Ba Lan, Rumania và Liên Xô. Các đại biểu
đã trao đổi kinh nghiệm về công tác tư tưởng của đảng và thảo luận những câu hỏi cấp bách về cách làm
sâu sắc hơn sự hợp tác về tư tưởng giữa các đảng huynh đệ trong điều kiện đương đại.
Hội nghị Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản và công nhân các nước xã hội chủ nghĩa
được tổ chức tại Mátxcơva từ ngày 22 đến 23 tháng 1 năm 1974, với sự tham dự của đại diện các nước
Bulgaria, Cuba, Tiệp Khắc, CHDC Đức, Hungary, Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, Ba Lan, Rumania và
Liên Xô. Các đảng phái huynh đệ đại diện tại hội nghị đã trao đổi thông tin về kinh nghiệm của họ đối với
các vấn đề xây dựng đảng hiện nay và về thực tiễn giải quyết các vấn đề đó. Một hội nghị bí thư các ủy
ban trung ương của các đảng cộng sản và công nhân của các nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức tại
Praha vào ngày 4–5,1975 tháng 3 và có sự tham dự của đại diện các nước Bulgaria, Cuba, Tiệp Khắc,
CHDC Đức, Hungary, Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, Ba Lan, Rumania và Liên Xô.
Vào ngày 18 tháng 3 năm1975, tại Budapest đã diễn ra cuộc họp của các nhà lãnh đạo của các Đảng
Cộng sản của các nước xã hội chủ nghĩa đã tham gia Đại hội lần thứ XI của Đảng Công nhân Xã hội Chủ
nghĩa Hungary (Bungari, Tiệp Khắc, CHDC Đức, Hungary, Ba Lan, và Liên Xô). Các đại biểu đã thảo
luận các câu hỏi liên quan đến kỷ niệm 30 năm đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức và xem xét một số vấn
đề quốc tế hiện nay và các câu hỏi gắn với phong trào cộng sản thế giới. Bí thư các ủy ban trung ương
của Đảng Cộng sản và công nhân và các phó nguyên thủ quốc gia của các nước COMECON đã tổ chức
các cuộc họp tại Mátxcơva vào các ngày 10–12 tháng 9 và 9 tháng 10 năm 1975. Các cuộc họp dành
cho các nhiệm vụ đào sâu và nâng cao hợp tác kinh tế, khoa học và công nghệ giữa các thành viên của
COMECON. Vào ngày 9 tháng 12 năm 1975, tại Warszawa đã diễn ra cuộc họp của lãnh đạo các Đảng
Cộng sản của các nước xã hội chủ nghĩa đã tham gia Đại hội lần thứ bảy của Đảng Công nhân thống
nhất Ba Lan (Bulgaria, Tiệp Khắc, CHDC Đức, Hungary, Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, Ba Lan, và Liên
Xô). Các nhà lãnh đạo của các đảng huynh đệ đã trao đổi ý kiến về các câu hỏi về việc phát triển hơn
nữa quan hệ hợp tác giữa các quốc gia xã hội chủ nghĩa và thảo luận về các vấn đề quốc tế hiện nay. Sự
chú ý tập trung vào các cách thức áp dụng các nguyên tắc và điều khoản của Đạo luật cuối cùng của Hội
nghị về An ninh và Hợp tác ở Châu Âu, đã được ký kết tại Helsinki. Ngày 26 tháng 1 năm 1976, tại
Warszawa, các đồng chí Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản và công nhân các nước xã hội chủ nghĩa
(Bungari, Cu Ba, Tiệp Khắc, CHDC Đức, Hunggari, Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, Ba Lan, Rumania và
Liên Xô) đã tổ chức một hội nghị về các câu hỏi quốc tế và ý thức hệ. Các đại biểu đã thảo luận những
câu hỏi cấp bách về công tác tư tưởng và chính trị, có tính đến những vấn đề của giai đoạn hiện nay của
cuộc đấu tranh giành lấy sự sâu sắc của quốc tế và kết quả của Hội nghị châu Âu. Ngày 4 tháng 3 năm
1976, tại Mátxcơva đã diễn ra cuộc gặp Trưởng đoàn các Đảng Cộng sản và công nhân một số nước xã
hội chủ nghĩa (Bungari, Cu Ba, Tiệp Khắc, VNDCCH, CHDC Đức, Hunggari, Nhân dân Mông Cổ. Cộng
hòa, Ba Lan, Rumania và Nam Tư), đã tham gia Đại hội lần thứ hai mươi lăm của CPSU. Trong số
những người tham gia cuộc họp có LI Brezhnev, Tổng thư ký Ủy ban Trung ương của CPSU; các đồng
chí Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng; các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng; và các đồng chí Bí thư Trung ương Đảng CPSU.
Các nhà lãnh đạo của các Đảng Cộng sản và công nhân của các nước xã hội chủ nghĩa cũng đã gặp
nhau tại các phiên họp quan trọng nhất của các cơ quan lãnh đạo của COMECON và Hiệp ước Warsaw
(1955).
Các nước Châu Âu . Kể từ cuối năm 1950, các hội nghị đại biểu của các Đảng Cộng sản và công nhân
của các nước châu Âu đã được tổ chức thường xuyên.
Đại diện của 15 đảng Cộng sản và công nhân châu Âu đã gặp nhau tại một hội nghị ở Berlin vào tháng 6
năm 1958. (Các đại biểu được cử bởi các đảng Cộng sản và công nhân của Áo, Bỉ, Tiệp Khắc, Đan
Mạch, Cộng hòa Liên bang Đức [FRG], Pháp , CHDC Đức, Anh, Ý, Luxembourg, Hà Lan, Na Uy, Ba Lan,
Thụy Điển và Thụy Sĩ.) Các câu hỏi liên quan đến cuộc đấu tranh vì hòa bình và an ninh quốc tế trên lục
địa Châu Âu đã được thảo luận. Một hội nghị của đại diện các Đảng Cộng sản của các nước trong Cộng
đồng Than và Thép Châu Âu (ECSC) và Thị trường chung đã được tổ chức tại Brussels vào ngày 1–
2.1959. Các đại biểu đã thảo luận về vấn đề thống nhất hành động của các tổ chức chính trị và công
đoàn của giai cấp công nhân và các lực lượng dân chủ khác trong cuộc đấu tranh chống lại các chính
sách của ECSC và Thị trường chung. Tháng 11 năm 1959 tại Rô-ma đã diễn ra cuộc họp quốc tế của 17
Đảng Cộng sản của các nước tư bản Châu Âu (Áo, Bỉ, Đan Mạch, FRG, Phần Lan, Pháp, Anh, Hy Lạp,
Ý, Luxembourg, Hà Lan, Na Uy, Bồ Đào Nha, San Marino, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ và Thụy Điển). Các đại
biểu đã thảo luận những vấn đề về sự đoàn kết của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh vì hòa bình,
vì sự phát triển và bảo vệ nền dân chủ, và vì hạnh phúc của nhân dân lao động. Họ cũng thông qua Lời
kêu gọi của các Đảng Cộng sản của Các nước Tư bản Châu Âu cho Tất cả Nhân dân Lao động, cho Tất
cả các Đảng viên Dân chủ.
Vào ngày 4 đến ngày 6 tháng 3 năm 1963, tại Brussels đã diễn ra cuộc họp của đại diện các Đảng Cộng
sản từ sáu quốc gia Thị trường chung và Vương quốc Anh. Tuyên bố được thông qua tại cuộc họp này
kêu gọi tăng cường cuộc đấu tranh chung của các dân tộc chống lại các chính sách độc quyền và vì hòa
bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. Một cuộc họp khác của đại diện các đảng Cộng sản của sáu quốc gia Thị
trường chung được tổ chức tại Oostende (Bỉ) vào ngày 1 đến ngày 2 tháng 12 năm 1964. Các bên tham
gia đã đạt được thỏa thuận về việc phát triển các hành động chung và hỗ trợ cuộc đấu tranh nhằm thực
hiện các yêu cầu xã hội và dân chủ . Các Đảng Cộng sản quyết định đẩy mạnh các hoạt động của mình
trong cuộc đấu tranh giải trừ quân bị, cuộc đấu tranh chống lại các lực lượng hạt nhân đa phương và việc
sở hữu các dạng vũ khí hạt nhân khác của quân đội Tây Đức,
Một hội nghị của 19 đảng cộng sản và công nhân của các nước tư bản châu Âu được tổ chức tại
Brussels vào ngày 1 đến ngày 3 tháng 6 năm 1965. (Các đại biểu được cử bởi các đảng Cộng sản và
công nhân của Áo, Bỉ, Síp, Đan Mạch, FRG, Phần Lan , Pháp, Anh, Hy Lạp, Ireland, Ý, Luxembourg, Hà
Lan, Bắc Ireland, Na Uy, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ và Tây Berlin.) Hội nghị tập trung vào các
vấn đề an ninh châu Âu và tình đoàn kết với cuộc đấu tranh giải phóng của người Việt Nam Mọi
người. Vào ngày 9-11 tháng 5 năm 1966, tại Vienna, các Đảng Cộng sản Tây Âu đã tổ chức hội nghị với
sự tham dự của đại diện Áo, Bỉ, Síp, Đan Mạch, FRG, Phần Lan, Pháp, Hy Lạp, Ý, Luxembourg, Na Uy,
Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Tây Berlin. Hội nghị dành cho việc phát triển một chương trình đấu
tranh của nhân dân lao động chống lại bọn độc quyền. Các đại biểu bày tỏ sự ủng hộ đối với việc triệu
tập hội nghị của các Đảng Cộng sản Châu Âu.
Các đảng cộng sản và công nhân châu Âu đã tổ chức hội nghị về các vấn đề an ninh châu Âu tại Karlovy
Vary vào ngày 24-26 tháng 4 năm 1967. Hội nghị có sự tham gia của các đại diện từ Áo, Bỉ, Bulgaria,
Síp, Tiệp Khắc, Đan Mạch, FRG, Phần Lan , Pháp, CHDC Đức, Anh, Hy Lạp, Hungary, Ireland, Ý,
Luxembourg, Bắc Ireland, Ba Lan, Bồ Đào Nha, San Marino, Tây Ban Nha, Thụy Điển (tư cách quan sát
viên), Thụy Sĩ, Liên Xô và Tây Berlin. Hội nghị Karlovy Vary là một trong những cuộc họp quan trọng nhất
của các Đảng Cộng sản và công nhân của các nước xã hội chủ nghĩa và tư bản ở châu Âu. Tuyên bố Vì
Hòa bình và An ninh ở châu Âu được hội nghị thông qua đã phân tích tình hình quốc tế, chỉ ra những
nguồn gốc của nguy cơ chiến tranh và vạch ra một chương trình chi tiết cho cuộc đấu tranh vì hòa
bình. Hội nghị nhấn mạnh mối đe dọa do chính sách của đế quốc Mỹ và chủ nghĩa quân phiệt Tây Đức
gây ra ở châu Âu, đồng thời xác định chương trình hành động nhằm thay thế các khối đối lập bằng một
hệ thống an ninh tập thể dựa trên các nguyên tắc chung sống hòa bình giữa các quốc gia có hệ thống xã
hội khác nhau. Hội nghị cũng ra tuyên bố chống Mỹ xâm lược Việt Nam và cuộc đảo chính quân sự ngày
21/4/1967 ở Hy Lạp.
Các ý kiến về các vấn đề an ninh tập thể và hòa bình trên lục địa Châu Âu đã được trao đổi tại cuộc họp
của đại diện các Đảng Cộng sản và công nhân các nước Châu Âu ở Mátxcơva vào ngày 14-15 tháng 1
năm 1970. Hội nghị có sự tham dự của đại diện Bỉ , Bulgaria, Síp, Tiệp Khắc, Đan Mạch, FRG, Phần Lan,
Pháp, CHDC Đức, Anh, Hy Lạp, Hungary, Ireland, Ý, Bắc Ireland, Na Uy, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Rumania,
San Marino, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Thổ Nhĩ Kỳ, Liên Xô, Tây Berlin và Nam Tư.
Một hội nghị đại biểu của các Đảng Cộng sản và công nhân của các nước tư bản ở Châu Âu được tổ
chức tại Paris vào ngày 15 tháng 5 năm 1970. Các đại biểu được cử bởi các Đảng Cộng sản và công
nhân của Áo, Bỉ, Đan Mạch, FRG, Phần Lan, Pháp, Anh, Hy Lạp, Ireland, Ý, Luxembourg, Bồ Đào Nha,
San Marino, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Tây Berlin. Sau khi thảo luận về tình hình gây ra ở
Đông Dương do Mỹ gây hấn với Campuchia và Lào, các đại biểu tham dự hội nghị đã thông qua các nghị
quyết kêu gọi tăng cường viện trợ cho các nạn nhân của xâm lược.
Tại Luân Đôn vào ngày 21 tháng 9 năm1970, đã diễn ra cuộc họp của đại diện các Đảng Cộng sản và
công nhân của các nước tư bản Tây Âu (Síp, FRG, Pháp, Anh, Hy Lạp, Ireland, Ý, Hà Lan, và Tây Ban
Nha). Những người tham gia đã thông qua một nghị quyết kêu gọi tổ chức hội nghị các Đảng Cộng sản
Tây Âu vào tháng 1 năm 1971. Tại một cuộc họp của các đại biểu của các Đảng Cộng sản và công nhân
Châu Âu ở Mátxcơva từ ngày 20 đến 21 tháng 10 năm 1970, đã có một cuộc trao đổi về ý kiến về các
câu hỏi liên quan đến cuộc đấu tranh cho an ninh châu Âu. (Đại diện do các đảng Cộng sản và công
nhân của Áo, Bỉ, Bulgaria, Síp, Tiệp Khắc, Đan Mạch, FRG, Phần Lan, Pháp, CHDC Đức, Anh, Hy Lạp,
Hungary, Ireland, Ý, Luxembourg, Ba Lan, Bồ Đào Nha cử đi , Rumania, San Marino, Tây Ban Nha, Thụy
Điển,
Một hội nghị của các Đảng Cộng sản của các nước tư bản châu Âu tại Luân Đôn vào ngày 11 đến ngày
13 tháng 1 năm 1971, với sự tham dự của các đại biểu từ Áo, Bỉ, Đan Mạch, FRG, Phần Lan, Pháp, Anh,
Hy Lạp, Ireland, Ý, Hà Lan, Na Uy, Tây Ban Nha, Thụy Điển và Thụy Sĩ. Các đại biểu đã thảo luận về
những vấn đề đang đối đầu với cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân các nước tư bản châu Âu, với sự
phát triển của các hiệp hội độc quyền xuyên quốc gia. Vào ngày 12 đến ngày 13 tháng 8 năm 1971, tại
Copenhagen đã diễn ra một hội nghị của đại diện các Đảng Cộng sản Đan Mạch, Anh, Ireland và Na
Uy. Các đại biểu đã thảo luận về các câu hỏi liên quan đến kế hoạch gia nhập Cộng đồng Kinh tế Châu
Âu của các nước họ.
Các đảng cộng sản và công nhân châu Âu đã tổ chức Hội nghị đoàn kết các dân tộc Việt Nam vào ngày
27 tháng 7 năm 1972, tại Paris. Hội nghị có sự tham dự của các phái đoàn đến từ các Đảng Cộng sản và
công nhân của Áo, Bỉ, Bulgaria, Cyprus, Tiệp Khắc, Đan Mạch, FRG, Phần Lan, Pháp, CHDC Đức, Anh,
Hy Lạp, Hungary, Ý, Luxembourg, Hà Lan ( tư cách quan sát viên), Na Uy, Ba Lan, Bồ Đào Nha,
Rumania, San Marino, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Liên Xô, Tây Berlin và Nam Tư. Hội nghị đã
thông qua bản tuyên ngôn đoàn kết với nhân dân Việt Nam.
Vào ngày 21–22.1973, đại diện của 27 đảng Cộng sản và công nhân châu Âu đã gặp nhau tại Mátxcơva
để xem xét các vấn đề trong việc làm của những người trẻ tuổi. Cuộc họp có sự tham gia của đại diện
các nước Áo, Bỉ, Bulgaria, Síp, Tiệp Khắc, Đan Mạch, FRG, Phần Lan, Pháp, CHDC Đức, Anh, Hy Lạp,
Hungary, Ireland, Ý, Luxembourg, Na Uy, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Rumania, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy
Sĩ, Thổ Nhĩ Kỳ, Liên Xô, Tây Berlin và Nam Tư. Các đoàn đã trao đổi kinh nghiệm làm việc của thanh
niên, cũng như ý kiến về sự tham gia rộng rãi hơn của thế hệ trẻ vào phong trào vì an ninh và hợp tác
châu Âu, trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, vì hòa bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Từ năm 1973 đến tháng 1 năm 1974, các Đảng Cộng sản và công nhân của các nước tư bản châu Âu đã
tổ chức một số cuộc họp để chuẩn bị cho hội nghị dự kiến vào tháng 1 năm 1974. Tại cuộc họp trù bị ở
Stockholm vào ngày 27 đến 28 tháng 9 năm1973, một nghị quyết ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân
Chile đã được thông qua. Một cuộc họp trù bị khác được tổ chức tại Copenhagen vào các ngày 16–
17,1973 tháng 10. Các vấn đề liên quan đến cuộc khủng hoảng tiền tệ đã được xem xét tại một cuộc họp
ở ngoại ô Paris của St.-Denis vào ngày 26 đến 27 tháng 11 năm 1973. Chủ đề của cuộc họp trù bị được
tổ chức tại Rome vào cùng ngày là nội dung và các hình thức mới của đấu tranh của công nhân và quần
chúng bình dân ở các nước tư bản châu Âu. Các cuộc họp trù bị tiếp theo được tổ chức vào ngày 17-18
tháng 12 năm 1973, tại Rome; vào ngày 8-9 tháng 1 năm 1974, ở Essen (những vấn đề về tình trạng của
những người lao động xa lạ ở các nước tư bản châu Âu); và vào ngày 11 đến ngày 13 tháng 1 năm
1974, tại Geneva (câu hỏi về tình trạng của giới trí thức ở các nước tư bản châu Âu).
Một hội nghị của các đảng cộng sản và công nhân của các nước tư bản châu Âu được tổ chức tại
Brussels vào ngày 26-28 tháng 1 năm 1974, và có sự tham dự của các phái đoàn từ Áo, Bỉ, Síp, Đan
Mạch, FRG, Phần Lan, Pháp, Anh. , Hy Lạp, Ireland, Ý, Luxembourg, Hà Lan (tư cách quan sát viên), Bồ
Đào Nha, San Marino, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Thổ Nhĩ Kỳ và Tây Berlin. Những người tham
gia đã thảo luận về các câu hỏi liên quan đến sự trầm trọng của cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tư
bản; tương lai của cuộc đấu tranh của các Đảng Cộng sản vì tiến bộ xã hội, dân chủ, độc lập dân tộc,
hòa bình và chủ nghĩa xã hội; và cách thức tăng cường đấu tranh vì sự đoàn kết của giai cấp công nhân
và các lực lượng dân chủ. Hội nghị đã thông qua các tuyên bố bày tỏ tình đoàn kết với nhân dân Việt
Nam và Chile, đồng thời đánh giá tình hình khủng hoảng năng lượng ở các nước thuộc hệ thống tư bản
chủ nghĩa. Hội nghị Brussels đã thông qua Tuyên bố chính trị, trong đó mô tả tình hình kinh tế xã hội và
chính trị đang xấu đi ở Tây Âu và xác định đường lối hoạt động chính của các Đảng Cộng sản của các
nước tư bản châu Âu trong giai đoạn hiện nay.
Vào ngày 22-23 tháng 6 năm 1974, một cuộc họp của đại diện các Đảng Cộng sản và công nhân của các
nước tư bản châu Âu đã được tổ chức tại Paris, trong khuôn khổ các sáng kiến chung do hội nghị
Brussels đề ra. Những người tham gia cuộc họp ở Pa-ri quyết định tổ chức hội nghị về địa vị và vai trò
chính trị xã hội của phụ nữ ở các nước tư bản '. Vào ngày 28-29 tháng 9 năm 1974, các Đảng Cộng sản
của các nước tư bản châu Âu đã tổ chức hội nghị tại Luxembourg để chuẩn bị cho hội nghị về địa vị của
phụ nữ trong xã hội tư bản. Một phiên làm việc của các Đảng Cộng sản và công nhân của các nước tư
bản châu Âu đã được tổ chức tại Düsseldorf vào ngày 1 tháng 10 năm 1974. Đại diện của Đan Mạch,
FRG, Phần Lan, Pháp, Hy Lạp, Ý, Luxembourg, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thổ Nhĩ Kỳ, và Tây Berlin trao
đổi thông tin về việc thực hiện các nghị quyết của hội nghị Brussels. Vào ngày 16–18 tháng 10 năm 1974,
một cuộc họp tham vấn của các đảng Công nhân và Cộng sản Châu Âu đã được tổ chức tại Warsaw. Có
sự tham dự của các phái đoàn đến từ Áo, Bỉ, Bulgaria, Síp, Tiệp Khắc, Đan Mạch, FRG, Phần Lan, Pháp,
CHDC Đức, Anh, Hy Lạp, Hungary, Ireland, Ý, Luxembourg, Na Uy, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Rumania, San
Marino, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Thổ Nhĩ Kỳ, Liên Xô, Tây Berlin và Nam Tư. Các đại biểu nhất
trí về sự cần thiết và hiệu quả của việc chuẩn bị cho việc triệu tập một hội nghị của các Đảng Cộng sản
và công nhân châu Âu về cuộc đấu tranh vì hòa bình, an ninh, hợp tác và tiến bộ xã hội ở châu Âu.
Một cuộc họp trù bị cho hội nghị của các đảng cộng sản và công nhân châu Âu đã được tổ chức tại
Budapest vào ngày 19–21 tháng 12 năm 1974. Các đại diện được cử bởi các đảng Cộng sản của Áo, Bỉ,
Bulgaria, Síp, Tiệp Khắc, Đan Mạch, FRG, Phần Lan, Pháp, CHDC Đức, Anh, Hy Lạp, Hungary, Ireland,
Ý, Luxembourg, Na Uy, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Rumania, San Marino, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ,
Thổ Nhĩ Kỳ, Liên Xô, Tây Berlin và Nam Tư. Những người tham gia đã thảo luận về các câu hỏi chính trị
và thực tiễn liên quan đến việc chuẩn bị cho hội nghị của các đảng cộng sản và công nhân châu Âu, trình
bày quan điểm của họ về chương trình nghị sự, đồng ý thành lập một ủy ban soạn thảo và tán thành đề
xuất tổ chức hội thảo về các vấn đề liên quan đến hội nghị. Các bên có đại diện tại cuộc họp trù bị ủng hộ
việc triệu tập hội đàm thượng đỉnh sớm nhất có thể về giai đoạn kết thúc của Hội nghị An ninh và Hợp
tác ở châu Âu, và họ nhấn mạnh lại nguyện vọng đoàn kết và thống nhất của tất cả các lực lượng dân
chủ và tiến bộ ở châu Âu. Các phiên họp của ủy ban soạn thảo chuẩn bị cho hội nghị của các đảng Cộng
sản và công nhân châu Âu được tổ chức vào các ngày 17–19 tháng 2, 8–10 tháng 4, 9–10 tháng 10 và
17–19 tháng 11 năm 1975, và vào các ngày 13–22 tháng 1, 16–18 tháng 3 và 4–6,1976 tháng 5.
Đại diện của các Đảng Cộng sản của các nước tư bản châu Âu đã gặp nhau tại Düsseldorf từ ngày 28
tháng 2 đến ngày 1 tháng 3 năm 1975. (Cuộc họp diễn ra trước một hội nghị trù bị ở Düsseldorf vào ngày
31 tháng 1 năm 1975.) Chủ đề là cuộc khủng hoảng trong công nghiệp ô tô của các nước tư bản châu
Âu, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và vị trí của các Đảng cộng sản. Đại diện đã được cử đi bởi
các Đảng Cộng sản của Áo, Bỉ, Đan Mạch, FRG, Pháp, Anh, Ý, Tây Ban Nha, Thụy Điển và Thổ Nhĩ
Kỳ. Vào ngày 19–21 tháng 4 năm 1975, tại Rome đã diễn ra cuộc họp của các đảng Công nhân và Cộng
sản Châu Âu về tình hình đương đại và triển vọng hợp tác kinh tế ở Châu Âu. Đại diện của 28 Đảng
Cộng sản, bao gồm cả CPSU, đã tham dự.
Các đảng cộng sản và công nhân của các nước tư bản châu Âu đã tổ chức hội nghị về các vấn đề nông
nghiệp vào ngày 20–22 tháng 5 năm 1975, tại Paris. (Hội nghị, trước đó là cuộc họp trù bị tại Paris vào
ngày 10 tháng 1 năm 1975, có sự tham dự của đại diện các Đảng Cộng sản Áo, Bỉ, Đan Mạch, FRG,
Phần Lan, Pháp, Hy Lạp, Ý, Luxembourg, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ và Thổ Nhĩ Kỳ.) Một cuộc
làm việc của đại diện các đảng cộng sản và công nhân của các nước tư bản châu Âu đã được tổ chức tại
Paris vào ngày 10 tháng 12 năm 1975, và có sự tham dự của các phái đoàn từ Bỉ, Đan Mạch, FRG, Phần
Lan, Pháp, Anh, Hy Lạp, Ý, Hà Lan, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Thổ Nhĩ Kỳ và Tây Berlin. Phiên
họp được dành cho kết quả của việc thực hiện các khuyến nghị của hội nghị tháng 1 năm 1974 và các
sáng kiến được nêu ra tại cuộc họp làm việc vào tháng 10 năm 1974 ở Düsseldorf. Ngày 15 tháng 3 năm
1976, đại diện các Đảng Cộng sản và công nhân của một số nước tư bản (Áo, Bỉ, Đan Mạch, FRG,
Pháp, Hy Lạp, Ý, Na Uy, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển và Thổ Nhĩ Kỳ) đã tổ chức một phiên trù
bị ở Bruxelles về việc tổ chức một cuộc họp bàn cách chống lại chính sách tư bản lớn và bảo vệ lợi ích
của nhân dân lao động.
Đã có 16 hội nghị và cuộc họp của các Đảng Cộng sản Bắc Âu (Đan Mạch, Phần Lan, Na Uy và Thụy
Điển). Các câu hỏi chính được thảo luận là tình hình kinh tế và chính trị của các nước Bắc Âu; cuộc đấu
tranh cho hòa bình, cho việc triệu tập Hội nghị An ninh và Hợp tác ở Châu Âu, và chống lại các nước
phía bắc gia nhập Cộng đồng Kinh tế Châu Âu; và tình hình trong phong trào cộng sản quốc tế.
Châu Mỹ . Đã có một số hội nghị của đại diện các Đảng Cộng sản và công nhân châu Mỹ. Từ ngày 23
tháng 11 đến ngày 28 tháng 11 năm 1964, đã diễn ra hội nghị đại biểu của các đảng cộng sản và công
nhân Mỹ Latinh, với các phái đoàn từ Argentina, Bolivia, Brazil, Chile, Colombia, Costa Rica, Cuba, Cộng
hòa Dominica. , Ecuador, El Salvador, Guatemala, Honduras, Mexico, Nicaragua, Panama, Paraguay,
Peru, Uruguay và Venezuela. Hội nghị đã đưa ra các khuyến nghị nhằm phát triển sự ủng hộ lẫn nhau và
tăng cường cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc Mỹ Latinh và tình đoàn kết của họ với nhân dân
Cuba. Các đại biểu đã thông qua nghị quyết Vì sự thống nhất của Phong trào Cộng sản Quốc tế.
Một hội nghị của các Đảng Cộng sản Mỹ Latinh đã được tổ chức tại Santiago vào tháng 11 đến tháng 12
năm 1969. Một loạt các câu hỏi đã được xem xét, bao gồm tình hình trong phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế và ở các nước tham gia hội nghị (Argentina, Bolivia, Brazil, Chile, Colombia, Cộng hòa
Dominica, Ecuador, Mexico, Paraguay, Peru, Uruguay và Venezuela).
Tại cuộc họp của các Đảng Cộng sản Argentina, Bolivia, Brazil, Chile, Paraguay, Peru và Uruguay vào
tháng 9 năm 1971, đã có một cuộc trao đổi thông tin và ý kiến về các vấn đề của Mỹ Latinh, và đặc biệt là
các khu vực phía nam của nó. Những người tham gia kêu gọi tất cả những người yêu nước đoàn kết đấu
tranh chống lại hiểm họa đế quốc. Vào tháng 9 năm 1973, tại đây đã diễn ra hội nghị đại diện các đảng
cộng sản của các nước thuộc lưu vực sông La Plata (Argentina, Bolivia, Brazil, Paraguay và
Uruguay). Những người tham gia đã đưa ra lập trường chung cho các Đảng Cộng sản về việc giải quyết
các câu hỏi ảnh hưởng đến lợi ích của người dân nước họ.
Các hội nghị của Đảng Cộng sản và công nhân các nước Trung Mỹ được tổ chức vào tháng 7 năm 1961,
tháng 9 năm 1962, tháng 2 năm 1964, tháng 9 năm 1965, tháng 6 năm 1967, tháng 11 năm 1969, tháng
6 năm 1971, tháng 5 năm 1972 và tháng 5 năm 1974. Các đại biểu do Cộng sản cử đi và các đảng công
nhân của Costa Rica, El Salvador, Guatemala, Honduras và Nicaragua. Đảng Cộng sản Mexico đã có
mặt tại hầu hết các hội nghị Trung Mỹ. Đảng Nhân dân Pa-na-ma có mặt tại các hội nghị bắt đầu từ năm
1965. Các hội nghị nhấn mạnh sự cần thiết phải có hành động chung của tất cả các đơn vị của phong
trào cộng sản thế giới trong cuộc đấu tranh chống lại chính sách hiếu chiến của đế quốc Mỹ; sự cần thiết
phải tăng cường viện trợ cho nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến đấu chống lại sự xâm lược của Mỹ; và
tầm quan trọng của việc phát triển tình đoàn kết với nhân dân Cuba, cũng như với các dân tộc Ả Rập,
nạn nhân của sự xâm lược của Israel. Ngoài ra, các hội nghị Trung Mỹ kêu gọi tăng cường đoàn kết với
các dân tộc Mỹ Latinh đang đấu tranh chống phản động. Vào tháng 1 năm 1974, các Đảng Cộng sản
Trung Mỹ và Mexico đã gửi một thông điệp tới Ủy ban Trung ương của CPSU về việc kỷ niệm 50 năm
ngày mất của V.I Lenin.
Vào ngày 9–13 tháng 6 năm 1975, một hội nghị của các Đảng Cộng sản của các nước Mỹ Latinh và
Caribe đã diễn ra tại Havana. Đại diện được cử đi bởi các Đảng Cộng sản Argentina, Bolivia, Brazil,
Chile, Colombia, Costa Rica, Cuba, Cộng hòa Dominica, Ecuador, El Salvador, Guadeloupe, Guatemala,
Guyana, Haiti, Honduras, Martinique, Mexico, Nicaragua, Panama, Paraguay, Peru, Puerto Rico,
Uruguay và Venezuela. Các quan sát viên đã được cử bởi các Đảng Cộng sản của Canada và Hoa
Kỳ. Hội nghị thể hiện sự đoàn kết nhất trí của các Đảng Cộng sản Mỹ Latinh và thông qua tuyên bố phân
tích tình hình quốc tế và Mỹ Latinh.
Các nước Ả Rập .Các hội nghị của đại diện các Đảng Cộng sản của các nước Ả Rập đã trở thành một
truyền thống. Tại cuộc họp tháng 8 năm 1959 của đại diện các Đảng Cộng sản Algeria, Maroc và Tunisia
đã có sự trao đổi ý kiến về điều kiện của các nước này, cũng như các nhiệm vụ chung. Vào tháng 4 năm
1964, đã có một cuộc họp của đại diện các Đảng Cộng sản Iraq, Jordan, Lebanon và Syria. Những người
tham gia đã thông qua tài liệu Về sự méo mó của các nhà lãnh đạo Trung Quốc và hoạt động lật đổ, chia
rẽ của họ, cũng như Tuyên bố về câu hỏi thống nhất của các nước Ả Rập. Một cuộc họp của đại diện của
những người Cộng sản ở Maghrib và Mashriq được tổ chức vào tháng 12 năm 1964. Những người tham
gia, đại diện cho các đảng Cộng sản của Algeria, Iraq, Jordan, Lebanon, Morocco, Syria, Sudan và
Tunisia,
Trong hội nghị tháng 4 năm 1966 của đại diện các Đảng Cộng sản của các nước Ả Rập (Iraq, Jordan,
Lebanon và Syria), đã có một cuộc trao đổi ý kiến về tình hình thế giới Ả Rập và cuộc đấu tranh của các
dân tộc Ả Rập chống lại chủ nghĩa đế quốc và chống lại giải phóng hoàn toàn và tiến bộ. Hội nghị đã kêu
gọi những người Cộng sản trên toàn thế giới đoàn kết trên cơ sở đường lối chung được xây dựng trong
các văn kiện của các hội nghị quốc tế năm 1957 và 1960.
Vào tháng 5 năm 1967, đại diện của các Đảng Cộng sản của các nước Ả Rập đã tổ chức một hội nghị
với sự tham dự của các phái đoàn từ Algeria, Iraq, Jordan, Lebanon, Morocco, Syria và Tunisia. Trong
cuộc thảo luận của họ về tình hình đương đại trong thế giới Ả Rập, những người tham gia đã xem xét
các vấn đề liên quan đến nguyện vọng hiếu chiến của giới cầm quyền Israel và những người ủng hộ đế
quốc Mỹ của họ, cũng như các vấn đề liên quan đến các vấn đề quốc tế quan trọng nhất. Hội nghị đã
thông qua một nghị quyết đặc biệt nhân kỷ niệm 50 năm Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại,
nhấn mạnh rằng “tất cả những thắng lợi mà các dân tộc Ả Rập giành được trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa đế quốc và phản động, tất cả những chuyển biến tiến bộ quan trọng trong thế giới Ả Rập, gắn
bó chặt chẽ với chiến thắng Tháng Mười vĩ đại và sự viện trợ to lớn mà Liên Xô dành cho các nước Ả
Rập ”. Hội nghị tháng 7 năm 1968 của các Đảng Cộng sản các nước Ả Rập có sự tham dự của đại diện
các nước Algeria, Iraq, Jordan, Lebanon, Morocco, Sudan, Syria và Tunisia. Các đại biểu đã thảo luận về
các nhiệm vụ cấp bách của phong trào dân tộc Ả Rập trong việc loại bỏ hậu quả của hành động xâm
lược của Israel.
Các câu hỏi liên quan đến tình hình ở Iraq, Jordan và Sudan, cũng như phong trào kháng chiến của
người Palestine, đã được xem xét tại các hội nghị của đại diện các Đảng Cộng sản Ả Rập vào ngày 18
tháng 9 năm 1970 (Jordan, Lebanon và Syria); vào giữa tháng 1 năm 1971 (Iraq, Jordan, Lebanon, và
Syria); và vào tháng 7 năm 1971 (Iraq, Jordan, Lebanon và Syria). Những nỗ lực của chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực phản động nhằm chia rẽ hàng ngũ của phong trào giải phóng dân tộc Ả Rập đã bị lên
án. Các hội nghị cũng khẳng định sự cần thiết của việc tăng cường tình hữu nghị Ả Rập-Liên Xô, cũng
như sự hợp tác và phối hợp hành động giữa các Đảng Cộng sản của các nước Ả Rập.
Hội nghị tháng 9 năm 1973 của các đảng Cộng sản và công nhân các nước Ả Rập có sự tham dự của
đại diện Algeria, Iraq, Jordan, Lebanon, Sudan và Syria. Các đại biểu đã thảo luận về các câu hỏi liên
quan đến cuộc đấu tranh chống lại sự xâm lược của Israel và sự đoàn kết chống đế quốc của các dân
tộc Ả Rập, và họ xác định một số nhiệm vụ cấp bách mà phong trào giải phóng Ả Rập phải đối mặt trong
giai đoạn cách mạng dân chủ. Họ khẳng định quyết tâm tiến hành cuộc đấu tranh quyết định chống chủ
nghĩa Mao và hoạt động lật đổ của giới lãnh đạo Bắc Kinh, đồng thời đấu tranh không ngừng nghỉ để
củng cố sự đoàn kết, thống nhất của phong trào cộng sản thế giới, trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
chủ nghĩa quốc tế vô sản, và sự liên hiệp của phong trào giải phóng dân tộc với các nước thuộc khối
thịnh vượng chung xã hội chủ nghĩa và các lực lượng tiến bộ khác trên thế giới. Một hội nghị gồm đại
diện của các Đảng Cộng sản Iraq, Jordan, Lebanon và Syria đã được tổ chức vào tháng 11 năm 1973 về
tình hình Trung Đông và nhiệm vụ của những người Cộng sản trong giai đoạn hiện nay. Thông cáo
chung do hội nghị đưa ra nhấn mạnh tầm quan trọng của tình hữu nghị Ả Rập-Liên Xô và vai trò của Liên
Xô trong việc hỗ trợ cuộc đấu tranh chính nghĩa của các nước Ả Rập.
Hội nghị tháng 4 năm 1975 của các đảng Cộng sản và công nhân các nước Ả Rập (Algeria, Iraq, Jordan,
Liban, Maroc, Sudan, Syria và Tunisia) đã thảo luận về những câu hỏi cấp bách trong phong trào giải
phóng dân tộc Ả Rập, cũng như những câu hỏi liên quan đến phong trào cộng sản thế giới và cuộc đấu
tranh của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Các nhiệm vụ liên quan đến
việc hoàn thành các cuộc cách mạng dân chủ dân tộc ở các nước Ả Rập đã được xác định. Hội nghị ghi
nhận sự cần thiết của việc thường xuyên cảnh giác chống lại âm mưu của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa
phục quốc và phản động. Nó lên án vai trò lật đổ của chủ nghĩa Mao trong các phong trào cộng sản và
giải phóng dân tộc trên thế giới, đồng thời kêu gọi một cuộc họp quốc tế khác của các đảng cộng sản và
công nhân.
Hội nghị lý luận quốc tế .Các hội nghị lý luận quốc tế của Các Mác được tổ chức thường xuyên. Đã có
nhiều hội nghị như vậy, bao gồm hội nghị quốc tế nhân kỷ niệm 30 năm Đại hội lần thứ bảy của
Comintern (Praha, tháng 10 năm 1965), hội thảo khoa học quốc tế về chủ đề “ý nghĩa quốc tế của Cách
mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại” ( Mátxcơva, ngày 28-31 tháng 3 năm 1967), hội nghị lý luận
quốc tế về chủ đề “ý nghĩa lịch sử của Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại” (Praha, ngày 22–
24.1967), và phiên họp khoa học về chủ đề “Chủ nghĩa Mác và những vấn đề của phong trào cách mạng
thế giới ”(Mátxcơva, 18/5/1968), nhân kỷ niệm 150 năm ngày sinh của K. Marx.
Đã có những hội nghị lý luận quốc tế về nhiều chủ đề khác nhau, bao gồm “Chủ nghĩa Lênin và hiện tại”
(Praha, ngày 19–21 tháng 11 năm 1969), “sự lớn mạnh của vai trò của chủ nghĩa Lênin trong thời đại
hiện nay và sự phê phán chủ nghĩa chống cộng sản” (Mátxcơva, Ngày 19–23 tháng 1 năm 1970), “Chủ
nghĩa Lênin và tiến trình cách mạng thế giới” (Moscow, ngày 24-26 tháng 2 năm 1970), và “Friedrich
Engels và phong trào cộng sản” (Praha, ngày 1–2,1970 tháng 7).
Các hội nghị lý thuyết và khoa học quốc tế đã được dành cho nhiều dịp khác nhau. Một hội nghị được tổ
chức tại Berlin vào ngày 12 đến ngày 13 tháng 11 năm 1970, để kỷ niệm 150 năm ngày sinh của F.
Engels. Kỷ niệm 100 năm Công xã Paris là chủ đề của các hội nghị khoa học quốc tế tại Praha vào ngày
12–13.1970 và tại Paris vào ngày 06–9.1971.
Vào tháng 1 năm 1972 tại Mátxcơva đã diễn ra một hội nghị chuyên đề quốc tế về chủ đề “các quá trình
hội nhập trong hệ thống chủ nghĩa tư bản đương đại” và vào ngày 28–29.1971, tại Praha đã có một cuộc
trao đổi ý kiến về “Những người cộng sản và những đặc điểm mới trong phong trào thanh niên của các
nước tư bản ”. Một hội nghị lý luận quốc tế đã được tổ chức tại Praha vào ngày 5–7 tháng 4 năm 1972,
về chủ đề “Phép biện chứng của quốc tế và dân tộc trong hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới”. Vào ngày
13–17 tháng 6 năm 1972, tại Sofia đã diễn ra một hội nghị quốc tế nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh của
G. Dimitrov. Một hội thảo khoa học và lý luận về “giai đoạn mới trong phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước châu Á và châu Phi và vấn đề đoàn kết giữa các lực lượng chống đế quốc” được tổ chức vào ngày
27–29.1972, tại Praha, và một hội nghị lý luận quốc tế dành riêng cho kỷ niệm 50 năm thành lập Liên
bang Xô Viết được tổ chức vào ngày 5-7 tháng 7 năm 1972, tại cùng một thành phố. Vào ngày 15-16
tháng 3 năm 1973, tại Berlin đã diễn ra một hội nghị lý luận quốc tế tập trung vào chủ đề “sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân và tiến trình cách mạng thế giới đương đại” và nhân kỷ niệm 125 năm
ngàyTuyên ngôn Cộng sản .
Vào ngày 6–8 tháng 5 năm 1974, một hội nghị khoa học và lý thuyết về các vấn đề của giới trẻ được tổ
chức tại Praha. Một hội nghị lý luận quốc tế về chủ đề “liên minh các nước xã hội chủ nghĩa và phong
trào giải phóng dân tộc” đã diễn ra vào ngày 5–7–1974, tại Baghdad. Nó có sự tham dự của đại diện các
Đảng Cộng sản, công nhân và phong trào giải phóng dân tộc của các nước châu Á và châu Phi. Một hội
nghị khoa học và lý thuyết về chủ đề “giai đoạn cạnh tranh hiện nay giữa hai hệ thống thế giới” đã được
tổ chức vào ngày 18-19 tháng 6 năm 1974, tại Praha, và một hội nghị lý luận quốc tế về chủ đề “những
vấn đề đương đại của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và triển vọng đối với sự phát triển của nó ”được tổ
chức vào ngày 12–14 tháng 11 năm 1974, tại Sofia. Hội thảo khoa học nhân kỷ niệm 40 năm Đại hội lần
thứ VII và tập trung vào chủ đề “Phong trào cộng sản đội tiên phong đấu tranh vì hòa bình, chủ nghĩa xã
hội và giải phóng dân tộc” diễn ra vào ngày 4-7 tháng 7 năm 1975, tại Matxcova. Vào ngày 25-27 tháng
11 năm 1975, tại Praha đã diễn ra hội nghị lý luận quốc tế với chủ đề “Học thuyết của Lênin về chủ nghĩa
đế quốc và những đặc điểm của giai đoạn hiện nay của cuộc khủng hoảng chung của chủ nghĩa tư bản”.
Việc đại biểu của các đảng cộng sản và công nhân tham dự đại hội của các đảng anh em đã trở thành
một phương tiện quan trọng để nghiên cứu kinh nghiệm của phong trào cộng sản quốc tế, củng cố mối
quan hệ quốc tế và sự thống nhất về tư tưởng và chính trị giữa những người cộng sản. Đại hội lần thứ
hai mươi bốn của CPSU (tháng 3 đến tháng 4 năm 1971) có 102 đoàn đại biểu tham dự và Đại hội lần
thứ hai (tháng 2 đến tháng 3 năm 1976) có 103 đoàn đại biểu của các đảng xã hội chủ nghĩa cộng sản và
công nhân, dân chủ dân tộc và cánh tả. Đại hội lần thứ mười (tháng 4 năm 1971) và lần thứ mười một
(tháng 3 đến tháng 4 năm 1976) của Đảng Cộng sản Bungari có sự tham dự của 74 và 103 đoàn đại
biểu, và các Đại hội lần thứ mười bốn (tháng 5 năm 1971) và 15 (tháng 4 năm 1976) của Đảng Cộng sản
Tiệp Khắc lần lượt là 58 và 86 đoàn.
Các cuộc họp và đàm phán song phương đã được phát triển rộng rãi trong phong trào cộng sản. Kể từ
Hội nghị Quốc tế của các Đảng Cộng sản và Công nhân năm 1969, có tới 600 cuộc họp và đàm phán
song phương được tổ chức mỗi năm giữa các Đảng Cộng sản khác nhau. CPSU đang tích cực phát triển
mối quan hệ huynh đệ với các đảng Cộng sản và công nhân. Trong khoảng thời gian giữa các kỳ đại hội
lần thứ hai mươi tư và hai mươi lăm của CPSU, Liên Xô đã được hơn 550 phái đoàn đảng phái đến từ
các nước phi xã hội chủ nghĩa đến thăm. Trong thời gian này, CPSU đã cử hơn 150 phái đoàn ra nước
ngoài, theo lời mời của các đảng phái huynh đệ.
Sự tiếp xúc đa dạng giữa các đảng theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và sự lên án quyết liệt, của đa số họ, đối
với người Trung Quốc và các thành phần “phải” và “tả” khác, chứng tỏ lòng trung thành của các đảng
theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin đối với các ý tưởng của chủ nghĩa quốc tế vô sản. và sự cần thiết quan
trọng của hành động chung của những người Cộng sản; chúng cũng giúp củng cố sự đoàn kết của
phong trào Cộng sản, thúc đẩy sự phát triển của một đường dây phối hợp cho phong trào, và làm phong
phú các hình thức và phương thức hợp tác giữa các đảng huynh đệ trong điều kiện đương đại.
Thông tin cơ bản về các hội nghị quốc tế của các Đảng cộng sản và công nhân năm 1957, 1960 và
1969 . HỘI NGHỊ NĂM 1957. Vào ngày 16-19 tháng 11 năm 1957, một hội nghị đại biểu của các đảng cộng
sản và công nhân đã diễn ra tại Mátxcơva. Có sự tham dự của các phái đoàn đến từ 64 quốc gia:
Albania, Algeria, Argentina, Australia, Áo, Bỉ, Bolivia, Brazil, Bulgaria, Canada, Ceylon, Chile, Trung
Quốc, Colombia, Costa Rica, Cuba, Tiệp Khắc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ( VNDCCH), Đan Mạch,
Cộng hòa Dominica, Ecuador, Cộng hòa Liên bang Đức (FRG), Phần Lan, Pháp, Cộng hòa Dân chủ Đức
(CHDC Đức), Anh, Hy Lạp, Guatemala, Honduras, Hungary, Ấn Độ, Indonesia, Iraq, Israel, Ý, Nhật Bản,
Jordan, Luxembourg, Malaya, Mexico, Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, Maroc, Hà Lan, New Zealand, Na
Uy, Panama, Paraguay, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Peru, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Rumania,
San Marino , Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ,
Các đại biểu đã thảo luận về những câu hỏi cấp thiết gắn với tình hình quốc tế đương đại. Văn kiện chính
được hội nghị năm 1957 thông qua là Tuyên ngôn về Hòa bình (xem ấn phẩm Programmnye dokumenty
bor'by za mir, demo-kratiiu, isotsializm , Moscow, 1961).
1960 HỘI NGHỊ. Hội nghị đại biểu các đảng cộng sản và công nhân tháng 11 năm 1960 có sự tham dự của
các phái đoàn đến từ 81 quốc gia, bao gồm Albania, Algeria, Argentina, Australia, Austria, Belgium,
Bolivia, Brazil, Bulgaria, Burma, Canada, Ceylon, Chile, China. , Colombia, Costa Rica, Cuba, Síp, Tiệp
Khắc, VNDCCH, Đan Mạch, Cộng hòa Dominica, Ecuador, El Salvador, FRG, Phần Lan, Pháp, CHDC
Đức, Anh, Hy Lạp, Guadeloupe, Guatemala, Haiti, Honduras, Hungary , Ấn Độ, Indonesia, Iran, Iraq,
Ireland, Israel, Ý, Nhật Bản, Jordan, Lebanon, Luxembourg, Malaya, Martinique, Mexico, Cộng hòa nhân
dân Mông Cổ, Maroc, Nepal, Hà Lan, New Zealand, Nicaragua, Bắc Ireland, Na Uy , Panama, Paraguay,
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Peru, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Réunion, Rumania, San Marino,
Tây Ban Nha, Sudan,
Trong số các câu hỏi được thảo luận tại hội nghị có trao đổi kinh nghiệm và thảo luận về những vấn đề
hiện nay trong phát triển quốc tế đương đại và phong trào cộng sản đối với cuộc đấu tranh vì hòa bình,
dân chủ, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Các văn kiện chính được hội nghị thông qua là Tuyên ngôn
của các Đảng Cộng sản và Công nhân và Lời kêu gọi các dân tộc trên thế giới (trong Programmnye
dokumenty bor'by za mir, demokratiiu i sotsializm , Moscow, 1961).
HỘI NGHỊ 1969. Hội nghị quốc tế về đại diện các đảng cộng sản và công nhân ngày 15–17.1969, được tổ
chức tại Mátxcơva, với sự tham dự của các phái đoàn từ Algeria, Argentina, Australia, Áo, Bỉ, Bolivia,
Brazil, Bulgaria, Canada, Ceylon, Chile, Colombia, Costa Rica, Cyprus, Tiệp Khắc, Đan Mạch, Cộng hòa
Dominica, Đông Pakistan, Ecuador, El Salvador, FRG (Đảng Cộng sản Đức), Phần Lan, Pháp, CHDC
Đức, Anh, Hy Lạp, Guadeloupe , Guatemala, Guyana, Haiti, Honduras, Hungary, Ấn Độ, Iran, Iraq,
Ireland, Israel, Ý, Jordan, Lebanon, Lesotho, Luxembourg, Martinique, Mexico, Cộng hòa nhân dân Mông
Cổ, Maroc, Nicaragua, Nigeria, Bắc Ireland, Na Uy , Panama, Paraguay, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Triều Tiên, Peru, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Puerto Rico, Cộng hòa Nam Phi, Réunion, Rumania, San Marino,
Tây Ban Nha, Sudan, Thụy Sĩ, Syria, Tunisia, Thổ Nhĩ Kỳ, Liên Xô, Mỹ, Uruguay và Venezuela. Hai đảng
ngầm cũng cử đại diện. Đảng Cộng sản Cuba và Đảng Cộng sản cánh tả Thụy Điển đã cử các quan sát
viên đến trình bày quan điểm của họ. Có tổng cộng 75 đảng cộng sản và công nhân đã có mặt tại hội
nghị.
Các đại biểu đã thảo luận về nhiệm vụ của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc trong giai đoạn hiện
nay cũng như sự đoàn kết hành động giữa các Đảng cộng sản và công nhân, đoàn kết các lực lượng
chống đế quốc và kỷ niệm 100 năm ngày sinh của V.I.Lê-nin. . Các văn kiện chính được hội nghị thông
qua là Nhiệm vụ của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc trong giai đoạn hiện nay và sự đoàn kết
hành động của các đảng cộng sản và công nhân cũng như của tất cả các lực lượng chống đế quốc, Lời
kêu gọi bảo vệ hòa bình và Diễn văn về Kỷ niệm một trăm năm ngày sinh của Vladimir Il'ich Lenin. Hội
nghị đưa ra lời kêu gọi các dân tộc trên thế giới— “Độc lập, Tự do và Hòa bình cho Việt
Nam!” (xem Dokumenty Mezhdunarodnogo Sovesh-chaniia kommunisticheskikh i rabochickh partii,
Moskva, 5–17 iunia 1969g., Mátxcơva, 1969).

BÁO CÁO CỦA 81 BÊN CỘNG ĐỒNG VÀ CÔNG NHÂN

HỌP TẠI MOSCOW, Liên Xô


1960

Nguồn: Tuyên bố của Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và Công nhân tại Mátxcơva,
Liên Xô, 1960 . New York: New Century Publishers, 1961. Phiên
âm và đánh dấu HTML:   Juan Fajardo, cho marxists.org, tháng 4 năm 2010.

 
LƯU Ý CHO NGƯỜI ĐỌC
PAMPHLET NÀY chứa nội dung đầy đủ và được ủy quyền trong Tuyên bố của 81
Đảng Cộng sản và Công nhân họp tại Moscow, Liên Xô, vào tháng 11 năm 1960,
Tuyên bố, được ban hành vào ngày 5 tháng 12, đã tạo ra một sự chấn động thế giới
và được thảo luận rộng rãi trên báo chí và đài phát thanh. Tuy nhiên, tại Hoa Kỳ,
chỉ có New York Times in toàn bộ tuyên bố [1] , mặc dù bản dịch thô thiển và trái
phép, có nhiều sai sót. Văn bản này được tái bản từ tháng 1 năm 1961 của nguyệt
san Marxist, CHÍNH TRỊ [2] , và được xuất bản dưới dạng sách nhỏ như một dịch
vụ công cộng vì sự quan tâm rộng rãi và mạnh mẽ của nó đối với việc phân tích
tình hình thế giới hiện nay và các quan điểm. cho tương lai.X
 
 

Tuyên bố của 81 Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lê nin

 
Đại diện của 81 Đảng Cộng sản và Công nhân đã cùng nhau tham vấn trong một
thời gian dài vào tháng 11 năm 1960. Vào ngày 5 tháng 12 năm 1960, các Đảng
này đã nhất trí thông qua một Tuyên bố; tài liệu lịch sử này được in đầy đủ ở các
trang sau trong một bản dịch được ủy quyền. — Người biên tập.
 
Đại diện các Đảng Cộng sản và Công nhân đã thảo luận tại Hội nghị này những
vấn đề cấp bách của tình hình quốc tế hiện nay và của cuộc đấu tranh sâu rộng hơn
nữa vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Cuộc họp đã thể hiện sự thống nhất về quan điểm giữa các đại biểu về các vấn đề
được thảo luận. Các Đảng Cộng sản và Công nhân đã nhất trí tái khẳng định lòng
trung thành với Tuyên ngôn và Tuyên ngôn Hòa bình được thông qua năm 1957.
Các văn kiện chương trình sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin này đã xác định lập
trường cơ bản của phong trào Cộng sản quốc tế đối với những vấn đề quan trọng
hơn của thời đại chúng ta và đóng góp rất lớn biện pháp hướng tới đoàn kết những
nỗ lực của các Đảng Cộng sản và Công nhân trong cuộc đấu tranh để đạt được các
mục tiêu chung. Họ vẫn là ngọn cờ và kim chỉ nam hành động cho toàn bộ phong
trào Cộng sản quốc tế.
Quá trình diễn biến trong ba năm qua đã chứng tỏ tính đúng đắn của việc phân tích
tình hình quốc tế và triển vọng phát triển thế giới được nêu trong Tuyên ngôn và
Tuyên ngôn hòa bình, đồng thời là lực lượng khoa học to lớn và vai trò đắc lực của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin sáng tạo.
Kết quả chủ yếu của những năm này là sự phát triển nhanh chóng về sức mạnh và
ảnh hưởng quốc tế của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, quá trình tan rã mạnh
mẽ của hệ thống thuộc địa dưới tác động của phong trào giải phóng dân tộc, sự
tăng cường đấu tranh giai cấp trong thế giới tư bản. , và sự suy giảm và mục nát
liên tục của hệ thống tư bản thế giới. Tính ưu việt của các lực lượng của chủ nghĩa
xã hội so với chủ nghĩa đế quốc, của lực lượng hòa bình so với lực lượng chiến
tranh, ngày càng trở nên rõ nét hơn trên trường thế giới.
Tuy nhiên, chủ nghĩa đế quốc, có ý định duy trì các vị trí của mình, phá hoại việc
giải trừ quân bị, tìm cách kéo dài chiến tranh lạnh và làm trầm trọng thêm nó, và
vẫn kiên trì chuẩn bị một cuộc chiến tranh thế giới mới. Tình hình đó đòi hỏi phải
có những nỗ lực chung và hành động kiên quyết hơn nữa của các nước xã hội chủ
nghĩa, giai cấp công nhân quốc tế, phong trào cả nước chống đế quốc, các nước
yêu chuộng hòa bình, yêu chuộng hòa bình, nhằm ngăn chặn chiến tranh, bảo đảm
cuộc sống bình yên cho nhân dân. . Nó đòi hỏi phải củng cố hơn nữa mọi lực lượng
cách mạng trong cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
 
Thời đại của chúng ta, mà nội dung chủ yếu là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội do Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại khởi
xướng, là thời kỳ đấu tranh giữa hai hệ thống xã hội đối lập, là thời của các cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa và các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thời kỳ tan
rã của chủ nghĩa đế quốc, về việc xóa bỏ hệ thống thuộc địa, thời kỳ quá độ của
nhiều dân tộc hơn con đường xã hội chủ nghĩa, về sự thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi thế giới.
Đặc điểm cơ bản của thời đại chúng ta là hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đang
trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội.
Sức mạnh và sự bất khả chiến bại của chủ nghĩa xã hội đã được chứng minh trong
những thập kỷ gần đây trong những trận chiến kinh hoàng giữa thế giới mới và
cũ. Những nỗ lực của đế quốc và lực lượng xung kích của họ - chủ nghĩa phát xít -
để kiểm tra quá trình phát triển lịch sử bằng vũ lực đã kết thúc thất bại. Chủ nghĩa
đế quốc tỏ ra bất lực trong việc ngăn chặn các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
châu Âu và châu Á. Chủ nghĩa xã hội trở thành một hệ thống thế giới. Những kẻ đế
quốc cố gắng cản trở sự tiến bộ kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa, nhưng âm
mưu của chúng đã bị thất bại. Những kẻ đế quốc đã làm tất cả khả năng của mình
để duy trì chế độ chiếm hữu nô lệ thuộc địa, nhưng hệ thống đó đang tan rã. Khi hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ, tình hình quốc tế
thay đổi ngày càng có lợi cho các dân tộc đấu tranh vì độc lập, dân chủ và tiến bộ
xã hội.
Ngày nay, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới và các lực lượng đấu tranh chống
chủ nghĩa đế quốc, cải tạo xã hội xã hội chủ nghĩa sẽ quyết định nội dung chủ yếu,
xu thế chủ yếu và những nét chính của sự phát triển lịch sử của xã hội. Dù chủ
nghĩa đế quốc có thực hiện những nỗ lực nào thì cũng không thể ngăn cản bước
tiến của lịch sử. Đã tạo cơ sở đáng tin cậy cho những thắng lợi quyết định hơn
nữa của chủ nghĩa xã hội. Sự thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội là tất yếu.
Quá trình phát triển của xã hội đã chứng minh dự đoán đúng của Lê-nin rằng các
nước đi lên chủ nghĩa xã hội thắng lợi sẽ tác động chủ yếu đến sự phát triển của
cách mạng thế giới bằng công cuộc xây dựng kinh tế của họ. Chủ nghĩa xã hội đã
đạt được những tiến bộ mang tính xây dựng chưa từng có về sản xuất, khoa học,
công nghệ và hình thành cộng đồng người mới tự do, trong đó những yêu cầu về
vật chất và tinh thần của họ ngày càng được thoả mãn. Không còn xa nữa khi tỷ
trọng sản xuất thế giới của chủ nghĩa xã hội sẽ lớn hơn của chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản sẽ bị đánh bại trong lĩnh vực quyết định của nỗ lực con người,
lĩnh vực sản xuất vật chất.
Sự củng cố và phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa có ảnh hưởng ngày càng
lớn đến cuộc đấu tranh của các dân tộc ở các nước tư bản chủ nghĩa. Bằng sức
mạnh nêu gương của mình, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đang cách mạng hóa
tư duy của nhân dân lao động ở các nước tư bản; nó đang truyền cảm hứng cho họ
đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản, và đang tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc
chiến đó. Ở các nước tư bản, các lực lượng đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc,
vì dân chủ và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, đang ngày càng phát triển về số
lượng và sức mạnh.
Hệ thống tư bản thế giới đang trải qua một quá trình tan rã và suy tàn dữ
dội. Những mâu thuẫn của nó đã thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa tư bản độc
quyền thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Bằng cách siết chặt sự kìm kẹp
của các tổ chức độc quyền đối với đời sống của dân tộc, chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước kết hợp chặt chẽ quyền lực của các tổ chức độc quyền với quyền
lực của nhà nước nhằm cứu chế độ tư bản chủ nghĩa và tăng lợi nhuận của giai cấp
tư sản đế quốc đến mức tối đa bằng cách bóc lột. giai cấp công nhân và cướp bóc
của một bộ phận lớn dân cư.
Nhưng dù có dùng những biện pháp nào thì giai cấp tư sản độc quyền cũng không
thể giải cứu được chủ nghĩa tư bản. Lợi ích của một số ít công ty độc quyền mâu
thuẫn không thể hòa giải với lợi ích của toàn dân tộc. Đối kháng giai cấp và dân
tộc, mâu thuẫn bên trong và bên ngoài của xã hội tư bản ngày càng gay gắt. Những
nỗ lực nhằm chống đỡ những trụ cột đã suy tàn của chủ nghĩa tư bản bởi chủ nghĩa
quân phiệt đang làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn này.
Chưa bao giờ mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở các nước tư
bản chủ nghĩa lại gay gắt như hiện nay. Chủ nghĩa tư bản ngày càng cản trở việc sử
dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại vào lợi ích của tiến bộ xã
hội ngày càng nhiều. Nó biến những khám phá thiên tài của con người chống lại
chính nhân loại bằng cách biến chúng thành những phương tiện chiến tranh hủy
diệt ghê gớm.
Sự bất ổn của kinh tế tư bản ngày càng lớn. Mặc dù sản xuất ở một số nước tư bản
đang tăng lên ở mức độ này hay mức độ khác, nhưng mâu thuẫn của chủ nghĩa tư
bản ngày càng gay gắt trên phạm vi quốc gia cũng như quốc tế. Một số nước tư bản
đang phải đối mặt với nguy cơ của những biến động kinh tế mới trong khi vẫn
đang vật lộn với hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế vừa qua. Tính chất vô
chính phủ của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng rõ rệt. Sự tập
trung tư bản giả định là những chiều hướng chưa từng có, và lợi nhuận độc quyền
và siêu lợi nhuận đang tăng lên. Tư bản độc quyền đã tăng cường mạnh mẽ sự bóc
lột của giai cấp công nhân dưới những hình thức mới, trên hết là thông qua tăng
cường lao động. Tự động hóa và "hợp lý hóa" dưới chủ nghĩa tư bản mang lại cho
nhân dân lao động nhiều tai họa hơn nữa. Chỉ bằng một cuộc đấu tranh kiên cường,
giai cấp công nhân ở một số nước mới thực hiện thắng lợi một số yêu cầu bức thiết
của mình. Tuy nhiên, ở nhiều nước tư bản, mức sống vẫn còn thấp hơn trước chiến
tranh. Bất chấp những lời hứa của giai cấp tư sản, việc làm đầy đủ chỉ được cung
cấp ở một số nước tư bản, và chỉ là tạm thời. Sự thống trị của các công ty độc
quyền ngày càng gây tổn hại đến lợi ích của đông đảo quần chúng nông dân và một
bộ phận lớn của giai cấp tư sản vừa và nhỏ. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, kể cả
một số khu vực kinh tế kém phát triển hơn vẫn còn tồn tại, nơi mà tình trạng đói
nghèo của quần chúng nhân dân còn kinh khủng, và hơn thế nữa, những khu vực
này tiếp tục mở rộng. mức sống vẫn còn thấp hơn trước chiến tranh. Bất chấp
những lời hứa của giai cấp tư sản, việc làm đầy đủ chỉ được cung cấp ở một số
nước tư bản, và chỉ là tạm thời. Sự thống trị của các công ty độc quyền ngày càng
gây tổn hại đến lợi ích của đông đảo quần chúng nông dân và một bộ phận lớn của
giai cấp tư sản vừa và nhỏ. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, kể cả một số khu vực
kinh tế kém phát triển hơn vẫn còn tồn tại, nơi mà tình trạng đói nghèo của quần
chúng nhân dân còn kinh khủng, và hơn thế nữa, những khu vực này tiếp tục mở
rộng. mức sống vẫn còn thấp hơn trước chiến tranh. Bất chấp những lời hứa của
giai cấp tư sản, việc làm đầy đủ chỉ được cung cấp ở một số nước tư bản, và chỉ là
tạm thời. Sự thống trị của các công ty độc quyền ngày càng gây tổn hại đến lợi ích
của đông đảo quần chúng nông dân và một bộ phận lớn của giai cấp tư sản vừa và
nhỏ. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, kể cả một số khu vực kinh tế kém phát triển hơn
vẫn còn tồn tại, nơi mà tình trạng đói nghèo của quần chúng nhân dân còn kinh
khủng, và hơn thế nữa, những khu vực này tiếp tục mở rộng. Sự thống trị của các
công ty độc quyền ngày càng gây tổn hại đến lợi ích của đông đảo quần chúng
nông dân và một bộ phận lớn của giai cấp tư sản vừa và nhỏ. Ở các nước tư bản
chủ nghĩa, kể cả một số khu vực kinh tế kém phát triển hơn vẫn còn tồn tại, nơi mà
tình trạng đói nghèo của quần chúng nhân dân còn kinh khủng, và hơn thế nữa,
những khu vực này tiếp tục mở rộng. Sự thống trị của các công ty độc quyền ngày
càng gây tổn hại đến lợi ích của đông đảo quần chúng nông dân và một bộ phận
lớn của giai cấp tư sản vừa và nhỏ. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, kể cả một số khu
vực kinh tế kém phát triển hơn vẫn còn tồn tại, nơi mà tình trạng đói nghèo của
quần chúng nhân dân còn kinh khủng, và hơn thế nữa, những khu vực này tiếp tục
mở rộng.
Những sự thật này một lần nữa bác bỏ những lời dối trá mà các nhà tư tưởng tư sản
và những người theo chủ nghĩa xét lại đã lan truyền đến hậu quả là chủ nghĩa tư
bản hiện đại đã trở thành "chủ nghĩa tư bản của nhân dân", rằng nó đã thiết lập một
cái gọi là "nhà nước phúc lợi" có khả năng khắc phục tình trạng vô chính phủ về
sản xuất và khủng hoảng kinh tế và đảm bảo phúc lợi cho tất cả những người đang
làm việc.
Quá trình phát triển không đồng đều của chủ nghĩa tư bản đang liên tục làm thay
đổi cán cân lực lượng giữa các nước đế quốc. Phạm vi thống trị của chủ nghĩa đế
quốc càng hẹp thì sự đối kháng giữa các thế lực đế quốc càng mạnh. Vấn đề thị
trường trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Các tổ chức liên quốc gia mới được thành
lập theo khẩu hiệu “hội nhập” thực sự dẫn đến sự đối kháng và đấu tranh giữa các
nước đế quốc gia tăng. Đó là những hình thức phân chia mới của thị trường tư bản
thế giới giữa các tổ hợp tư bản lớn nhất, của sự thâm nhập của các nước đế quốc
mạnh hơn vào nền kinh tế của các đối tác yếu hơn của họ.
Sự suy tàn của chủ nghĩa tư bản đặc biệt rõ rệt ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, quốc
gia chủ nghĩa đế quốc ngày nay. Tư bản độc quyền của Hoa Kỳ rõ ràng là không
thể sử dụng tất cả các lực lượng sản xuất theo lệnh của nó. Quốc gia giàu có nhất
trong số các nước tư bản phát triển trên thế giới - Hợp chủng quốc Hoa Kỳ - đã trở
thành vùng đất của tình trạng thất nghiệp kinh niên đặc biệt lớn. Việc gia tăng hoạt
động dưới công suất trong ngành công nghiệp đã trở thành thường xuyên ở quốc
gia đó. Bất chấp sự gia tăng đáng kể của các khoản chiếm dụng quân sự, vốn đạt
được với mức sống của người dân lao động, tốc độ tăng sản xuất đã giảm trong
những năm sau chiến tranh và hầu như không cao hơn mức tăng dân số. Các cuộc
khủng hoảng sản xuất quá mức đã trở nên thường xuyên hơn. Một nước tư bản
phát triển nhất đã trở thành một nước méo mó nhất, kinh tế quân sự hóa. Hơn bất
kỳ quốc gia tư bản nào khác, Hoa Kỳ rút cạn sự giàu có của châu Á, và đặc biệt là
châu Mỹ Latinh, kìm hãm sự tiến bộ của họ. Sự thâm nhập của tư bản Mỹ vào châu
Phi ngày càng nhiều. Chủ nghĩa đế quốc Mỹ trở thành kẻ bóc lột quốc tế lớn nhất.
Đế quốc Mỹ tìm cách đưa nhiều quốc gia vào quyền kiểm soát của chúng, bằng
cách chủ yếu dựa vào chính sách của các khối quân sự và "viện trợ" kinh tế. Họ
cũng vi phạm chủ quyền của các nước tư bản phát triển. Giai cấp tư sản độc quyền
thống trị ở các nước tư bản phát triển hơn đã liên minh với Mĩ. chủ nghĩa đế quốc,
hy sinh chủ quyền của nước mình, mong được đế quốc Mỹ hỗ trợ để đè bẹp lực
lượng cách mạng giải phóng, tước đoạt quyền tự do dân chủ của nhân dân lao động
và cản trở cuộc đấu tranh vì tiến bộ xã hội của quần chúng nhân dân. Chủ nghĩa đế
quốc Mỹ lôi kéo các nước đó vào cuộc chạy đua vũ trang, với chủ trương chuẩn bị
một cuộc chiến tranh xâm lược mới và tiến hành các hoạt động lật đổ chống lại các
nước xã hội chủ nghĩa và các nước trung lập.
Các trụ cột của hệ thống tư bản chủ nghĩa đã trở nên mục nát đến mức giai cấp tư
sản đế quốc cầm quyền ở nhiều nước không còn có thể tự mình chống lại các lực
lượng dân chủ và tiến bộ đang đạt được về quy mô và sức mạnh. Các đế quốc
thành lập các liên minh quân sự - chính trị dưới sự lãnh đạo của Mỹ để chống lại
phe xã hội chủ nghĩa và bóp nghẹt các phong trào giải phóng dân tộc, giai cấp công
nhân và xã hội chủ nghĩa. Những diễn biến quốc tế trong những năm gần đây đã
cung cấp nhiều bằng chứng mới về thực tế rằng chủ nghĩa đế quốc Mỹ là bức
tường thành chính của phản ứng thế giới và là hiến binh quốc tế, rằng nó đã trở
thành kẻ thù của các dân tộc trên toàn thế giới.
Hệ thống các khối quân sự do Hoa Kỳ thiết lập đang bị suy yếu do cuộc đấu tranh
đang diễn ra giữa các thành viên của họ và kết quả của cuộc đấu tranh mà người
dân đang tiến hành để xóa bỏ các khối này. Đế quốc Mỹ tìm cách củng cố các khối
hiếu chiến làm cho nhân dân ngày càng phản kháng. Hoa Kỳ vẫn là lực lượng kinh
tế, tài chính và quân sự chính của chủ nghĩa đế quốc hiện đại, mặc dù tỷ trọng của
nó trong nền kinh tế tư bản đang giảm dần. Đế quốc Anh và Pháp đang ra sức
ngoan cố để giữ vững lập trường. Các công ty độc quyền của Tây Đức và Nhật
Bản, đã hồi phục sức mạnh và có mối liên hệ chặt chẽ với các công ty độc quyền
của Mỹ, đang đẩy mạnh mở rộng. Các công ty độc quyền của Tây Đức, khi theo
đuổi chính sách đế quốc của họ,
Các dân tộc đang vươn lên với quyết tâm chống chủ nghĩa đế quốc ngày càng
cao. Một cuộc đấu tranh lớn đang diễn ra giữa lực lượng lao động và tư bản, dân
chủ và phản động, tự do và chủ nghĩa thực dân. Thắng lợi của cuộc cách mạng
bình dân ở Cu Ba đã trở thành tấm gương sáng cho các dân tộc ở Mỹ Latinh. Một
phong trào chống thực dân vì tự do và độc lập dân tộc đang mở rộng không thể
cưỡng lại ở châu Phi. Cuộc khởi nghĩa dân tộc chống đế quốc ở Iraq đã thành công
rực rỡ. Một phong trào mạnh mẽ của nhân dân chống lại sự phụ thuộc của quân đội
Nhật-Mỹ, vì hòa bình, dân chủ và độc lập dân tộc, đang diễn ra ở Nhật Bản. Những
hành động mạnh mẽ của quần chúng nhân dân ở Ý để bảo vệ nền dân chủ thể hiện
ý chí kiên cường của nhân dân lao động. Cuộc đấu tranh cho dân chủ, chống lại
chế độ phản động của quyền lực cá nhân, đang thu hút động lực ở Pháp. Đã có
những cuộc bãi công lớn của giai cấp công nhân ở Mỹ, Argentina, Uruguay, Chile,
Ấn Độ, Anh, Canada, Bỉ và các nước tư bản khác. Những hành động của người Da
đen ở Hoa Kỳ vì các quyền cơ bản của họ được cho là có tính chất quần
chúng. Ngày càng có nhiều mong muốn đoàn kết các lực lượng quốc gia chống lại
chế độ độc tài phát xít ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, và phong trào dân chủ đang
phát triển mạnh mẽ ở Hy Lạp. Các chế độ quân sự chuyên chế đã bị lật đổ ở
Colombia và Venezuela, một đòn giáng mạnh vào các chính phủ bù nhìn thân Mỹ
ở Hàn Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ. Một phong trào dân tộc - dân chủ, nhằm chống lại đế
quốc Mỹ và bọn lừa bịp của chúng, đang phát triển ở miền Nam Việt Nam và
Lào. Người dân Indonesia đang loại bỏ các vị trí kinh tế mà những kẻ đế quốc vẫn
giữ ở đất nước đó, đặc biệt là các vị trí do thực dân Hà Lan nắm giữ. Phong trào
quần chúng bảo vệ hòa bình ngày càng sôi nổi ở khắp các châu lục. Tất cả những
điều này là bằng chứng cụ thể cho thấy làn sóng chống đế quốc, giải phóng dân
tộc, chống chiến tranh và đấu tranh giai cấp đang lên cao hơn bao giờ hết.
Một giai đoạn mới đã bắt đầu trong sự phát triển của cuộc khủng hoảng chung
của chủ nghĩa tư bản.Điều này được thể hiện qua sự thành công của chủ nghĩa xã
hội ở một nhóm lớn các nước châu Âu và châu Á chiếm một phần ba nhân loại, sự
phát triển mạnh mẽ của các lực lượng đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội trên toàn thế
giới và sự suy yếu dần vị trí của các đế quốc trong cuộc cạnh tranh kinh tế với chủ
nghĩa xã hội; sự trỗi dậy mới to lớn của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và sự
tan rã ngày càng gia tăng của hệ thống thuộc địa; sự bất ổn ngày càng tăng của toàn
bộ hệ thống kinh tế thế giới của chủ nghĩa tư bản; mâu thuẫn gay gắt của chủ nghĩa
tư bản do sự lớn mạnh của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước và chủ nghĩa
quân phiệt; mâu thuẫn ngày càng gia tăng giữa các tổ chức độc quyền và lợi ích
của toàn dân tộc; sự cắt giảm của chế độ dân chủ tư sản và xu hướng áp dụng các
phương thức chính quyền chuyên quyền và phát xít; và khủng hoảng sâu sắc về
chính trị và hệ tư tưởng tư sản. Giai đoạn này được phân biệt bởi thực tế là nó diễn
ra không phải do hậu quả của chiến tranh thế giới, mà là trong điều kiện cạnh tranh
và đấu tranh giữa hai hệ thống, sự thay đổi ngày càng tăng trong cán cân lực lượng
có lợi cho chủ nghĩa xã hội, và một dấu hiệu làm trầm trọng thêm mọi mâu thuẫn
của chủ nghĩa đế quốc. Nó diễn ra vào thời điểm mà cuộc đấu tranh thành công của
các lực lượng yêu chuộng hòa bình nhằm mang lại và thúc đẩy hòa bình chung
sống đã ngăn chặn được bọn đế quốc phá hoại hòa bình thế giới bằng những hành
động hung hãn của chúng và trong bầu không khí đấu tranh ngày càng sôi nổi của
đông đảo quần chúng nhân dân. của nhân dân vì dân chủ, giải phóng dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. nhưng trong điều kiện cạnh tranh và đấu tranh giữa hai hệ thống,
cán cân lực lượng có lợi cho chủ nghĩa xã hội ngày càng thay đổi, và mâu thuẫn
của chủ nghĩa đế quốc ngày càng trầm trọng hơn rõ rệt. Nó diễn ra vào thời điểm
mà cuộc đấu tranh thành công của các lực lượng yêu chuộng hòa bình nhằm mang
lại và thúc đẩy hòa bình chung sống đã ngăn chặn được bọn đế quốc phá hoại hòa
bình thế giới bằng những hành động hung hãn của chúng và trong bầu không khí
đấu tranh ngày càng sôi nổi của đông đảo quần chúng nhân dân. của nhân dân vì
dân chủ, giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội. nhưng trong điều kiện cạnh tranh
và đấu tranh giữa hai hệ thống, cán cân lực lượng có lợi cho chủ nghĩa xã hội ngày
càng thay đổi, và mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc ngày càng trầm trọng hơn rõ
rệt. Nó diễn ra vào thời điểm mà cuộc đấu tranh thành công của các lực lượng yêu
chuộng hòa bình nhằm mang lại và thúc đẩy hòa bình chung sống đã ngăn chặn
được bọn đế quốc phá hoại hòa bình thế giới bằng những hành động hung hãn của
chúng và trong bầu không khí đấu tranh ngày càng sôi nổi của đông đảo quần
chúng nhân dân. của nhân dân vì dân chủ, giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Tất cả các lực lượng cách mạng đang tập hợp để chống lại sự áp bức và bóc lột của
đế quốc. Các dân tộc đang xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản,
phong trào cách mạng của giai cấp công nhân ở các nước tư bản, cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc của các dân tộc bị áp bức và phong trào dân chủ nói chung —
những lực lượng to lớn của thời đại chúng ta đang hòa thành một dòng điện hùng
mạnh làm suy yếu và tiêu diệt hệ thống đế quốc chủ nghĩa trên thế giới. Các nhân
tố trung tâm của thời đại chúng ta là giai cấp công nhân quốc tế và sự sáng tạo
chính của nó, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Họ là những người tha thiết thắng
lợi trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, dân chủ, giải phóng dân tộc, chủ nghĩa xã hội
và tiến bộ của con người.
 

II

Một giai đoạn mới đã bắt đầu trong quá trình phát triển của hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới. Liên Xô đang thực hiện thành công công cuộc xây dựng xã hội
cộng sản chủ nghĩa toàn diện. Các nước khác của phe xã hội chủ nghĩa đang đặt
nền móng thành công của chủ nghĩa xã hội, một số nước đã bước vào thời kỳ xây
dựng xã hội xã hội chủ nghĩa phát triển.
Hệ thống xã hội chủ nghĩa nói chung đã ghi được những thắng lợi quyết
định. Những thắng lợi này biểu thị sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lê-nin; chúng
cho tất cả các dân tộc đang chịu sự thống trị của tư bản thấy rõ rằng một xã hội dựa
trên nền tảng khoa học này sẽ mở ra những cơ hội to lớn cho sự phát triển đầy đủ
nhất của kinh tế và văn hóa, mang lại một mức sống cao và một cuộc sống hòa
bình và hạnh phúc cho Mọi người.
Nhân dân Liên Xô thực hiện thành công Kế hoạch phát triển kinh tế 7 năm đang
nhanh chóng xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa cộng sản. Khoa học
Xô Viết đã mở ra một kỷ nguyên hầu như mới trong sự phát triển của nền văn
minh thế giới; nó đã khởi đầu cho việc khám phá không gian vũ trụ, cung cấp bằng
chứng ấn tượng về sức mạnh kinh tế và kỹ thuật của phe xã hội chủ nghĩa. Liên Xô
là quốc gia đầu tiên trong lịch sử vạch rõ con đường dẫn đến chủ nghĩa cộng sản
cho toàn nhân loại. Đó là tấm gương tiêu biểu nhất, là bức tường thành mạnh mẽ
nhất đối với các dân tộc trên thế giới trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, tự do dân
chủ, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Cuộc cách mạng nhân dân ở Trung Quốc đã giáng một đòn mạnh vào vị trí của chủ
nghĩa đế quốc ở châu Á và góp phần to lớn vào việc cán cân lực lượng thế giới
đang thay đổi theo hướng có lợi cho chủ nghĩa xã hội. Bằng cách tạo động lực
mạnh mẽ hơn nữa cho phong trào giải phóng dân tộc, nó đã tạo ra ảnh hưởng to lớn
đối với các dân tộc, đặc biệt là các dân tộc ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh.
Các nước cộng hòa dân chủ nhân dân Albania, Bulgaria, Hungary, Cộng hòa Dân
chủ Đức, Cộng hòa Dân chủ Việt Nam, Trung Quốc, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Triều Tiên, Mông Cổ, Ba Lan, Rumania và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc,
cùng với Liên Xô vĩ đại , hình thành phe xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, chỉ trong
một thời gian ngắn lịch sử đã đạt được những tiến bộ vượt bậc trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Chính quyền nhân dân ở các nước này đã chứng tỏ được sự vững chắc không thể
lay chuyển của mình. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chiếm ưu thế trong nền
kinh tế quốc dân; sự bóc lột con người đối với con người đã bị xóa bỏ vĩnh viễn,
hoặc đang bị xóa bỏ. Sự thành công của chính sách công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa đã dẫn đến sự phát triển vượt bậc về kinh tế ở các nước xã hội chủ nghĩa, các
nước này đang phát triển kinh tế nhanh hơn nhiều so với các nước tư bản. Tất cả
các quốc gia này đã thiết lập một nền công nghiệp phát triển; nông nghiệp trong
quá khứ, họ đã hoặc đang trở thành các nước công nghiệp - nông nghiệp.
Trong những năm gần đây, các nền Dân chủ nhân dân đã giải quyết hoặc đã giải
quyết thành công vấn đề khó khăn nhất của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa,
đó là chuyển giai cấp nông dân trên cơ sở tự nguyện, từ con đường công nông sang
con đường đại điền chủ. - hợp tác nông nghiệp trên đường xã hội chủ nghĩa. Kế
hoạch hợp tác xã của Lenin đã chứng tỏ sức sống to lớn của nó đối với cả những
nước mà nông dân gắn bó với tư hữu ruộng đất là một truyền thống lâu đời và đối
với những nước gần đây đã chấm dứt quan hệ phong kiến. Liên minh anh em của
công nhân và nông dân, do giai cấp công nhân lãnh đạo, và việc duy trì và củng cố,
như Lenin đã dạy, một nguyên tắc tối cao của chế độ độc tài của giai cấp vô sản, đã
phát triển mạnh mẽ hơn.
Những thay đổi trong lịch sử đã diễn ra trong cấu trúc xã hội của xã hội. Các giai
cấp địa chủ và tư bản không còn tồn tại trong các nền Dân chủ Nhân dân. Giai cấp
công nhân đã trở thành lực lượng chủ yếu của xã hội; cấp bậc của nó đang tăng
lên; ý thức chính trị và sự trưởng thành của nó đã tăng lên. Chủ nghĩa xã hội đã
đưa giai cấp nông dân thoát khỏi tình trạng đói nghèo kéo dài và trở thành lực
lượng tích cực trong tiến bộ xã hội. Một đội ngũ trí thức mới, xã hội chủ nghĩa,
bằng xương bằng thịt của nhân dân lao động, đang hình thành. Mọi công dân đều
được tiếp cận miễn phí với tri thức và văn hóa. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội đã tạo ra
không chỉ những điều kiện chính trị mà còn vật chất cho sự phát triển văn hóa của
xã hội, cho sự phát triển toàn diện và toàn diện của những năng khiếu và khả năng
của con người. Mức sống của người dân đang được cải thiện ổn định nhờ kinh tế
phát triển.
Một khối liên minh không thể phá vỡ của nhân dân lao động thuộc các dân tộc đã
hình thành và được củng cố trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa nhiều quốc
gia. Thắng lợi của chính sách dân tộc theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin ở các nước xã
hội chủ nghĩa, quyền bình đẳng thực sự của các dân tộc và sự tiến bộ về kinh tế và
văn hóa của các nước đó là tấm gương đầy cảm hứng cho các dân tộc đấu tranh
chống áp bức dân tộc.
Trong các nền dân chủ nhân dân, hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã đạt được những
thành công đáng kể trong cuộc đấu tranh chống lại hệ tư tưởng tư sản. Đó là một
cuộc đấu tranh lâu dài sẽ diễn ra cho đến khi giải phóng hoàn toàn tâm trí của con
người khỏi những tồn tại của hệ tư tưởng tư sản.
Sự thống nhất về mặt đạo đức và chính trị của xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử ra
đời và thiết lập vững chắc ở Liên Xô, hiện nay cũng đang phát triển ở các nước xã
hội chủ nghĩa khác. Điều này làm cho nó có thể sử dụng năng lượng sáng tạo của
những người lao động tự do một cách hiệu quả nhất để thúc đẩy sự phát triển của
lực lượng sản xuất và sự thịnh vượng của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Xã hội xã hội chủ nghĩa ngày càng hoàn thiện và ngày càng trưởng thành; ngày
này qua ngày khác, nó làm nảy sinh một thái độ Cộng sản đối với lao động và các
yếu tố khác của xã hội Cộng sản trong tương lai. Phương thức quản lý kinh tế xã
hội chủ nghĩa và kinh tế kế hoạch ngày càng hoàn thiện. Nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa tiếp tục phát triển; ngày càng có nhiều vai trò trong việc chỉ đạo phát triển
kinh tế, văn hóa; các chức năng nhất định của nhà nước đang dần được chuyển
giao cho các tổ chức công.
Ngày nay, việc khôi phục chủ nghĩa tư bản đã trở nên bất khả thi về mặt xã hội và
kinh tế không chỉ ở Liên Xô mà còn ở các nước xã hội chủ nghĩa khác. Các lực
lượng tổng hợp của phe xã hội chủ nghĩa bảo vệ một cách tin cậy mọi nước xã hội
chủ nghĩa trước sự xâm lược của phản động đế quốc. Do đó, sự tập hợp của các
nhà nước xã hội chủ nghĩa trong một phe và sự đoàn kết ngày càng tăng và sức
mạnh ngày càng vững chắc của phe này đảm bảo thắng lợi hoàn toàn cho chủ
nghĩa xã hội trong toàn bộ hệ thống.
Nhờ sự ra sức anh dũng của giai cấp công nhân và giai cấp nông dân và công lao to
lớn của các Đảng Cộng sản và Công nhân, những năm qua đã tạo ra những cơ hội
khách quan thuận lợi nhất để lực lượng sản xuất phát triển nhanh hơn nữa, đạt
được mức tối đa thời gian và giành được thắng lợi cho các nước xã hội chủ nghĩa
trong cuộc cạnh tranh kinh tế hoà bình với chủ nghĩa tư bản. Các Đảng theo chủ
nghĩa Mác - Lê-nin đứng đầu các nước xã hội chủ nghĩa coi đó là nhiệm vụ của
mình khi tận dụng những cơ hội này.
Giành được những thắng lợi lớn và chịu đựng những thử thách nghiêm trọng, các
Đảng Cộng sản đã rút ra được nhiều kinh nghiệm phong phú và đa dạng trong chỉ
đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các nước xã hội chủ nghĩa và các nước xã hội chủ
nghĩa nói chung có được thành tựu vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan
chung điều hành xây dựng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với đặc thù lịch sử của mỗi
nước và lợi ích của toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa; họ nợ những nỗ lực của
nhân dân các nước đó, sự hợp tác anh em thân thiết và sự giúp đỡ lẫn nhau của chủ
nghĩa quốc tế, và hơn hết là sự giúp đỡ tinh thần quốc tế từ Liên Xô.
Kinh nghiệm phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa càng là minh chứng cho
thấy sự giúp đỡ, ủng hộ lẫn nhau và tận dụng mọi lợi thế của sự đoàn kết, thống
nhất giữa các nước trong phe xã hội chủ nghĩa là điều kiện quốc tế cơ bản để tạo
nên những thành tựu và thành công của các nước xã hội chủ nghĩa. Những hy vọng
của chủ nghĩa đế quốc, phản loạn và chủ nghĩa xét lại về sự chia rẽ trong phe xã
hội chủ nghĩa được xây dựng trên cát và chắc chắn sẽ thất bại. Tất cả các nước xã
hội chủ nghĩa đều trân trọng sự thống nhất của phe xã hội chủ nghĩa như quả táo
trong mắt họ.
Hệ thống kinh tế thế giới của chủ nghĩa xã hội được thống nhất bởi các quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa phổ biến và đang phát triển phù hợp với các quy luật kinh tế
của chủ nghĩa xã hội. Sự phát triển thành công của nó đòi hỏi phải vận dụng nhất
quán quy luật phát triển có kế hoạch, tương xứng trong công cuộc xây dựng xã hội
chủ nghĩa; khuyến khích sự chủ động sáng tạo của nhân dân; không ngừng hoàn
thiện hệ thống phân công lao động quốc tế thông qua việc phối hợp các kế hoạch
kinh tế quốc dân, chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất trong hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới trên cơ sở tự nguyện tham gia, cùng có lợi và hoàn thiện mạnh mẽ
trình độ khoa học và công nghệ. . Nó đòi hỏi nghiên cứu kinh nghiệm tập thể; mở
rộng hợp tác và tương trợ huynh đệ; loại bỏ dần dần, dọc theo những dòng này,
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước là nguồn kinh nghiệm tập thể
cho toàn thể phe xã hội chủ nghĩa. Việc các bên liên minh nghiên cứu kỹ lưỡng
kinh nghiệm này, sử dụng và xây dựng hợp lý kinh nghiệm này có cân nhắc đến
điều kiện cụ thể và đặc thù của quốc gia là quy luật bất di bất dịch của sự phát triển
của mọi nước xã hội chủ nghĩa.
Để phát triển sản xuất công nghiệp và nông nghiệp ở nước mình với tốc độ cao phù
hợp với khả năng của mình, Đảng Cộng sản và Công nhân các nước xã hội chủ
nghĩa coi nhiệm vụ quốc tế của mình là tận dụng mọi lợi thế của hệ thống xã hội
chủ nghĩa và nội lực của mọi quốc gia để thực hiện, bằng nỗ lực chung và càng
nhanh càng tốt, nhiệm vụ lịch sử vượt qua hệ thống tư bản thế giới về tổng thể sản
xuất công nghiệp và nông nghiệp và vượt xa các nước tư bản phát triển nhất về
kinh tế về sản lượng bình quân đầu người và tiêu chuẩn. của cuộc sống. Thực hiện
nhiệm vụ này, phải kiên định cải tiến công tác kinh tế chính trị, không ngừng đổi
mới phương thức quản lý kinh tế và điều hành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa theo
đường lối khoa học.
Để tạo cơ sở vật chất cho quá trình chuyển đổi của các nước xã hội chủ nghĩa lên
chủ nghĩa cộng sản, điều tất yếu là phải đạt được trình độ sản xuất cao thông qua
việc sử dụng các kỹ thuật mới nhất, điện khí hoá nền kinh tế quốc dân, cơ giới hoá
và tự động hoá sản xuất, nếu không có không thể cung cấp lượng hàng tiêu dùng
dồi dào theo yêu cầu của một xã hội cộng sản. Trên cơ sở đó, phải phát triển các
quan hệ xã hội cộng sản chủ nghĩa, phát huy mạnh mẽ ý thức chính trị của nhân
dân và giáo dục các thành viên của xã hội cộng sản chủ nghĩa mới.
Cộng đồng xã hội chủ nghĩa là một cộng đồng xã hội, kinh tế và chính trị của các
dân tộc tự do và có chủ quyền, đoàn kết với nhau bằng tình đoàn kết quốc tế xã hội
chủ nghĩa, vì lợi ích và mục tiêu chung, đi theo con đường chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản. Đó là quy luật bất khả xâm phạm của mối quan hệ tương hỗ giữa
các nước xã hội chủ nghĩa, tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin và chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa. Mọi nước trong xã hội chủ nghĩa
đều được bảo đảm thực sự quyền bình đẳng và độc lập. Được hướng dẫn bởi các
nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, cùng có lợi và đồng tình giúp đỡ lẫn nhau, các
quốc gia xã hội chủ nghĩa tăng cường hợp tác toàn diện về kinh tế, chính trị và văn
hóa, đáp ứng cả lợi ích của mỗi nước xã hội chủ nghĩa và các nước xã hội chủ
nghĩa nói chung.
Một trong những thành tựu vĩ đại nhất của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới là sự
khẳng định thực tiễn của luận điểm Mác - Lê-nin rằng đối kháng dân tộc giảm dần
cùng với sự suy giảm của đối kháng giai cấp. Đối lập với quy luật của hệ thống tư
bản chủ nghĩa là mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp, quốc gia, nhà nước dẫn
đến xung đột vũ trang, thì bản chất của hệ thống xã hội chủ nghĩa không có nguyên
nhân khách quan nào dẫn đến mâu thuẫn, xung đột giữa các dân tộc và các quốc
gia thuộc nó. Sự phát triển của nó dẫn đến sự thống nhất nhiều hơn giữa các quốc
gia và các quốc gia và sự hợp nhất của tất cả các hình thức hợp tác giữa
chúng. Dưới chủ nghĩa xã hội, sự phát triển của kinh tế, văn hóa và nhà nước đi đôi
với sự củng cố và phát triển của toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, và với
sự củng cố ngày càng sâu rộng hơn về sự thống nhất của các quốc gia. Lợi ích của
cả hệ thống xã hội chủ nghĩa và lợi ích quốc gia được kết hợp hài hòa. Chính trên
cơ sở đó, sự đoàn kết về đạo đức và chính trị của các dân tộc trong cộng đồng xã
hội chủ nghĩa vĩ đại đã hình thành và ngày càng phát triển. Tình hữu nghị anh em
và sự giúp đỡ lẫn nhau của các dân tộc, được sinh ra từ hệ thống xã hội chủ nghĩa,
đã thay thế sự biệt lập chính trị và chủ nghĩa vị kỷ dân tộc đặc trưng của chủ nghĩa
tư bản.
Lợi ích chung của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, lợi ích hòa bình và chủ
nghĩa xã hội đòi hỏi phải kết hợp đúng đắn các nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế
xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa về chính trị. Mỗi Đảng
Cộng sản đã trở thành đảng cầm quyền trong nhà nước, đều phải chịu trách nhiệm
lịch sử đối với vận mệnh của đất nước mình và của toàn thể phe xã hội chủ nghĩa.
Tuyên ngôn năm 1957 đã chỉ ra một cách khá đúng đắn rằng việc nhấn mạnh quá
mức vai trò của các đặc thù dân tộc và xa rời chân lý phổ quát của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng xã hội chủ nghĩa làm phương
hại đến sự nghiệp chung của chủ nghĩa xã hội. Tuyên ngôn cũng khẳng định khá
đúng đắn rằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin đòi hỏi phải vận dụng sáng tạo những
nguyên tắc chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng xã hội chủ nghĩa
tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước, không cho phép sao chép một cách
máy móc đường lối, chính sách của Cộng sản. Các bên của các quốc gia khác. Việc
coi thường những đặc thù dân tộc có thể khiến đảng của giai cấp vô sản xa rời thực
tế, xa rời quần chúng và nhiều người làm tổn hại đến sự nghiệp xã hội chủ nghĩa.
Những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc và tư tưởng hẹp hòi dân tộc không tự động
biến mất cùng với sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Muốn tăng cường quan
hệ anh em, hữu nghị giữa các nước xã hội chủ nghĩa, thì các Đảng Cộng sản và
Công nhân phải theo đuổi chính sách quốc tế chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mọi người
dân lao động phải được giáo dục tinh thần quốc tế và chủ nghĩa yêu nước, và một
sự kiên quyết. đấu tranh nhằm xóa bỏ những tồn tại của chủ nghĩa dân tộc tư sản và
chủ nghĩa sô vanh.
Các Đảng Cộng sản và Công nhân không mệt mỏi giáo dục nhân dân lao động
tinh thần quốc tế xã hội chủ nghĩa, không khoan dung mọi biểu hiện của chủ nghĩa
dân tộc và chủ nghĩa sô vanh. Sự đoàn kết đoàn kết của các Đảng Cộng sản và
Công nhân, của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa và lòng trung thành với chủ
nghĩa Mác - Lê-nin là nguồn gốc chủ yếu tạo nên sức mạnh bất khả chiến bại của
mỗi nước xã hội chủ nghĩa và của cả phe xã hội chủ nghĩa.
Trên con đường đi tới chủ nghĩa cộng sản rực rỡ, các dân tộc của các nước xã hội
chủ nghĩa đang tạo ra nguyên mẫu của một xã hội mới cho toàn nhân loại. Nhân
dân lao động của thế giới tư bản đang theo sát nỗ lực xây dựng của những người
xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản với sự quan tâm sâu sắc. Điều đó
làm cho các Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và nhân dân các nước xã hội chủ
nghĩa phải có trách nhiệm cùng phong trào giai cấp công nhân quốc tế xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Các Đảng Cộng sản và Công nhân coi đó là nhiệm vụ không ngừng nghỉ của họ là
củng cố cộng đồng xã hội chủ nghĩa vĩ đại của các quốc gia, có vai trò và ảnh
hưởng quốc tế đối với các sự kiện thế giới đang tăng lên từ năm này qua năm khác.
Đã đến lúc các nhà nước xã hội chủ nghĩa, bằng cách hình thành hệ thống thế
giới, trở thành một lực lượng quốc tế có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của
thế giới. Hiện đang có những cơ hội thực sự để giải quyết các vấn đề cốt yếu của
thời hiện đại theo một cách thức mới, vì lợi ích của hòa bình, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội.
 

III [3]

Vấn đề chiến tranh và hòa bình là vấn đề nhức nhối nhất của thời đại chúng ta.
Chiến tranh là bạn đồng hành thường xuyên của chủ nghĩa tư bản. Hệ thống bóc lột
con người bởi con người và hệ thống tiêu diệt con người bởi con người là hai khía
cạnh của hệ thống tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa đế quốc đã gây ra hai cuộc chiến
tranh thế giới tàn khốc cho nhân loại và giờ đây có nguy cơ đẩy nó vào một thảm
họa còn khủng khiếp hơn. Các phương tiện tiêu diệt và hủy diệt hàng loạt khổng lồ
đã được phát triển, nếu được sử dụng trong một cuộc chiến mới, có thể gây ra sự
hủy diệt chưa từng có cho toàn bộ quốc gia và làm giảm các trung tâm quan trọng
của ngành công nghiệp và văn hóa thế giới thành đống đổ nát. Một cuộc chiến như
vậy sẽ mang lại chết chóc và đau khổ cho hàng trăm triệu người, trong số đó có
những người ở các nước không tham gia vào nó. Chủ nghĩa đế quốc gây ra mối
nguy hiểm nghiêm trọng cho toàn thể nhân loại.
Các dân tộc bây giờ phải cảnh giác hơn bao giờ hết. Chừng nào chủ nghĩa đế quốc
còn tồn tại thì sẽ có đất cho các cuộc chiến tranh xâm lược.
Các dân tộc của tất cả các nước biết rằng nguy cơ của một cuộc chiến tranh thế
giới mới vẫn còn tồn tại. Đế quốc Mỹ là lực lượng chủ yếu của cuộc xâm lược và
chiến tranh.Chính sách của nó là hiện thân của tư tưởng phản động dân quân. Đế
quốc Mỹ cùng với đế quốc Anh, Pháp, Tây Đức đã lôi kéo nhiều nước vào NATO,
CENTO, SEATO và các khối quân sự khác dưới chiêu bài chống lại “sự uy hiếp
của cộng sản”; nó đã bao trùm cái gọi là "thế giới tự do", tức là các nước tư bản
phụ thuộc vào họ, trong một mạng lưới các căn cứ quân sự mà mũi nhọn trước hết
là chống lại các nước xã hội chủ nghĩa. Sự tồn tại của các khối và căn cứ này gây
nguy hiểm cho hòa bình và an ninh toàn cầu và không chỉ xâm phạm chủ quyền mà
còn xâm phạm đến chính cuộc sống của những quốc gia đặt lãnh thổ của họ dưới
quyền sử dụng của quân đội Mỹ.
Các lực lượng đế quốc của Mỹ, Anh và Pháp đã thực hiện một cuộc đối phó hình
sự với chủ nghĩa đế quốc Tây Đức. Ở Tây Đức, chủ nghĩa quân phiệt đã hồi sinh
và công cuộc khôi phục đang được đẩy mạnh trước một đội quân chính quy khổng
lồ dưới sự chỉ huy của các tướng lĩnh Hitler, mà đế quốc Mỹ đang trang bị vũ khí
hạt nhân, tên lửa và các phương tiện tiêu diệt hàng loạt hiện đại khác, một sự thật
rút ra sự phản đối kịch liệt của các dân tộc yêu chuộng hòa bình. Các căn cứ quân
sự đang được cung cấp cho đội quân hung hãn này ở Pháp và các nước Tây Âu
khác. Mối đe dọa đối với hòa bình và an ninh của các quốc gia châu Âu từ chủ
nghĩa đế quốc Tây Đức, đang gia tăng. Những người tìm cách trả thù Tây-Đức đã
công khai tuyên bố ý định sửa đổi các đường biên giới được thiết lập sau Chiến
tranh thế giới thứ hai. Giống như bè lũ Hitler vào thời đó, Các chiến binh Tây Đức
đang chuẩn bị chiến tranh chống lại các nước xã hội chủ nghĩa và các nước khác ở
châu Âu, đồng thời cố gắng thực hiện các kế hoạch gây hấn của riêng họ. Tây
Berlin đã bị biến thành một trung tâm của các hành động khiêu khích quốc tế. Nhà
nước Bonn đã trở thành kẻ thù chính của việc chung sống hòa bình, giải trừ quân bị
và giảm căng thẳng ở châu Âu.
Các kế hoạch gây hấn của đế quốc Tây Đức phải bị phản đối bởi sức mạnh đoàn
kết của tất cả các quốc gia và dân tộc yêu chuộng hòa bình ở châu Âu. Cộng hòa
Dân chủ Đức đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại
các kế hoạch gây hấn của quân đội Tây Đức. Hội nghị coi đây là nhiệm vụ của tất
cả các nước thuộc phe xã hội chủ nghĩa và của tất cả các dân tộc yêu chuộng hòa
bình là phải bảo vệ Cộng hòa Dân chủ Đức - tiền đồn của chủ nghĩa xã hội ở Tây
Âu và là biểu hiện thực sự của khát vọng hòa bình của dân tộc Đức.
Đế quốc Mỹ cũng đang bận rộn làm sống lại các điểm nóng của chiến tranh ở Viễn
Đông. Giẫm đạp lên nền độc lập dân tộc của nhân dân Nhật Bản và trái với ý muốn
của họ, họ đã cấu kết với giới cầm quyền phản động Nhật Bản, áp đặt lên Nhật Bản
một hiệp ước quân sự mới theo đuổi những mục đích gây hấn chống lại Liên Xô,
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và các nền hòa bình khác. đất nước yêu
thương. Quân xâm lược Hoa Kỳ đã chiếm đảo Đài Loan, thuộc Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa, Nam Triều Tiên và ngày càng can thiệp nhiều hơn vào công việc
của Nam Việt-Nam; chúng đã biến chúng thành những điểm nóng của những trò
cờ bạc và khiêu khích quân sự nguy hiểm. Đe dọa Cuba bằng sự xâm lược và can
thiệp vào công việc của các dân tộc Mỹ Latinh, Châu Phi và Trung Đông, Hoa
Kỳ những người theo chủ nghĩa đế quốc cố gắng tạo ra các ghế mới trong chiến
tranh ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Họ sử dụng các hình thức liên minh
khu vực, chẳng hạn như Tổ chức các Quốc gia Châu Mỹ, để duy trì quyền kiểm
soát kinh tế và chính trị của họ và lôi kéo các dân tộc ở Châu Mỹ Latinh tham gia
vào việc thực hiện các âm mưu gây hấn của họ.
Đế quốc Mỹ đã thiết lập một bộ máy chiến tranh khổng lồ và từ chối cho phép cắt
giảm nó. Những kẻ đế quốc làm thất bại mọi đề xuất giải trừ quân bị mang tính xây
dựng của Liên Xô và các nước hòa bình khác. Cuộc chạy đua vũ trang đang diễn
ra. kho dự trữ vũ khí hạt nhân đang trở nên lớn một cách nguy hiểm. Bất chấp sự
phản đối của nhân dân mình và nhân dân các nước khác, đặc biệt là ở lục địa Phi
Châu, giới cầm quyền Pháp đang thử nghiệm và chế tạo vũ khí nguyên tử. Quân
đội Hoa Kỳ đang chuẩn bị nối lại các vụ thử nguyên tử thảm khốc; các hành động
khiêu khích quân sự đe dọa xung đột quốc tế nghiêm trọng vẫn tiếp diễn.
Giới cầm quyền Hoa Kỳ đã phá hỏng cuộc họp Paris của những người đứng đầu
chính phủ của bốn cường quốc bằng chính sách khiêu khích và hành động gây hấn,
đồng thời có mục đích làm gia tăng căng thẳng quốc tế và làm trầm trọng thêm
cuộc chiến tranh lạnh. Mối đe dọa chiến tranh đã tăng lên.
Những hành động khiêu khích hòa bình của bọn đế quốc đã khơi dậy lòng căm
phẫn, phản kháng của nhân dân các nước. Chủ nghĩa đế quốc Mỹ vẫn bộc lộ nhiều
hơn và ảnh hưởng của nó trên thế giới vẫn còn duy trì những cú đánh mới mẻ và
đáng kể.
Bản chất hiếu chiến của chủ nghĩa đế quốc không thay đổi. Nhưng các lực lượng
thực sự đã xuất hiện có khả năng phá vỡ các kế hoạch xâm lược của nó. Chiến
tranh không phải là không thể tránh khỏi. Phải chăng những kẻ đế quốc đã có thể
làm những gì họ muốn. họ đã có thể đã đẩy nhân loại xuống vực thẳm của những
tai họa và nỗi kinh hoàng của một cuộc chiến tranh thế giới mới. Nhưng đã qua rồi
khi những kẻ đế quốc có thể quyết định theo ý muốn nên hay không nên chiến
tranh. Hơn một lần trong những năm qua, những kẻ đế quốc đã đưa nhân loại đến
bờ vực của thảm họa thế giới bằng cách bắt đầu các cuộc chiến tranh cục bộ. Lập
trường kiên quyết của Liên Xô, của các nước xã hội chủ nghĩa khác và của tất cả
các lực lượng hòa bình đã chấm dứt sự can thiệp của Anh-Franco-Israel vào Ai
Cập, đồng thời ngăn chặn cuộc xâm lược quân sự vào Syria, Iraq và một số nước
khác của đế quốc. Nhân dân Angiêri anh hùng tiếp tục cuộc chiến đấu anh dũng
giành độc lập, tự do. Nhân dân Công-gô và Lào ngày càng kiên quyết chống lại các
hành động tội ác của bọn đế quốc. Kinh nghiệm cho thấy, có thể chiến đấu có hiệu
quả các cuộc chiến tranh cục bộ do đế quốc phát động, và dập tắt thành công các
điểm nóng của các cuộc chiến tranh đó.
Đã đến lúc âm mưu của bọn đế quốc xâm lược khơi mào một cuộc chiến tranh thế
giới có thể bị kiềm chế. Chiến tranh thế giới có thể được ngăn chặn bằng nỗ lực
chung của phe xã hội chủ nghĩa thế giới, giai cấp công nhân quốc tế, phong trào
giải phóng dân tộc, tất cả các nước phản đối chiến tranh và tất cả các lực lượng
yêu chuộng hòa bình.
Sự phát triển của quan hệ quốc tế ở thời đại chúng ta được quyết định bởi cuộc đấu
tranh của hai hệ thống xã hội - cuộc đấu tranh của các lực lượng chủ nghĩa xã hội,
hòa bình và dân chủ chống lại các thế lực đế quốc, phản động và xâm lược - một
cuộc đấu tranh trong đó có tính ưu việt của các lực lượng chủ nghĩa xã hội, hòa
bình và dân chủ ngày càng trở nên rõ nét.
Lần đầu tiên trong lịch sử, chiến tranh bị phản đối bởi các lực lượng lớn và có tổ
chức: Liên Xô hùng mạnh, hiện dẫn đầu thế giới về lĩnh vực khoa học và công
nghệ quyết định; toàn bộ phe xã hội chủ nghĩa, đã đặt sức mạnh vật chất và chính
trị to lớn của mình để phục vụ hòa bình; ngày càng có nhiều quốc gia yêu chuộng
hòa bình ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh, có lợi ích thiết yếu trong việc gìn
giữ hòa bình; giai cấp công nhân quốc tế và các tổ chức của nó, trên hết là các
Đảng Cộng sản; phong trào giải phóng dân tộc của các dân tộc thuộc địa và các
nước phụ thuộc; phong trào hòa bình thế giới; và các nước trung lập không muốn
tham gia vào chính sách chiến tranh của đế quốc và chủ trương chung sống hòa
bình. Chính sách chung sống hòa bình cũng được một bộ phận tầng lớp tư sản ở
các nước tư bản phát triển ủng hộ, vốn có cái nhìn tỉnh táo về tương quan lực
lượng và hậu quả thảm khốc của một cuộc chiến tranh hiện đại. Mặt trận đoàn kết
rộng rãi nhất có thể của những người ủng hộ hòa bình, những người đấu tranh
chống lại chính sách xâm lược và chiến tranh do đế quốc Mỹ truyền cảm hứng, là
điều cần thiết để gìn giữ hòa bình thế giới. Các hành động quan tâm và mạnh mẽ
của tất cả các lực lượng vì hòa bình có thể bảo vệ hòa bình và ngăn chặn một cuộc
chiến tranh mới.
Các lực lượng dân chủ và hòa bình ngày nay không có nhiệm vụ cấp bách nào hơn
nhiệm vụ bảo vệ nhân loại trước thảm họa nhiệt hạch toàn cầu. Sức công phá chưa
từng có của các phương tiện chiến tranh hiện đại đòi hỏi hành động chủ yếu của
các lực lượng phản chiến và yêu chuộng hòa bình phải hướng tới ngăn chặn chiến
tranh. Cuộc đấu tranh chống chiến tranh không thể dừng lại cho đến khi chiến
tranh nổ ra, vì khi đó có thể đã quá muộn đối với nhiều khu vực trên thế giới và đối
với dân số của họ để chống lại nó. Cuộc đấu tranh chống lại mối đe dọa của một
cuộc chiến tranh mới phải được tiến hành ngay bây giờ chứ không phải khi bom
nguyên tử và bom khinh khí bắt đầu rơi, và nó phải được tiếp thêm sức mạnh từ
ngày này qua ngày khác. Điều quan trọng là phải kiềm chế tốt kẻ xâm lược, không
để xảy ra chiến tranh, không để bùng phát.
Đấu tranh cho hòa bình ngày nay có nghĩa là phải giữ vững tinh thần cảnh giác cao
nhất, không mệt mỏi chống lại chính sách của bọn đế quốc, đề phòng những âm
mưu và thủ đoạn của bọn cường hào, khơi dậy lòng căm phẫn chính đáng của nhân
dân đối với những kẻ đang tiến hành chiến tranh. , tổ chức các lực lượng hòa bình
tốt hơn, liên tục tăng cường các hành động quần chúng vì hòa bình, và thúc đẩy
hợp tác với tất cả các nước không quan tâm đến các cuộc chiến tranh mới. Ở những
nước đế quốc đặt căn cứ chiến tranh, cần đẩy mạnh đấu tranh xóa bỏ chúng, đây là
nhân tố quan trọng để củng cố độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền và ngăn chặn
chiến tranh. Cần kết hợp cuộc đấu tranh của nhân dân các nước chống quân phiệt
hoá các nước với cuộc đấu tranh chống các tổ chức tư bản độc quyền câu kết với
Mĩ. bọn đế quốc. Ngày nay hơn bao giờ hết, điều quan trọng là phải kiên trì đấu
tranh ở tất cả các nước để làm cho phong trào hòa bình phát triển mạnh và mở rộng
đến các thị trấn, làng mạc, nhà máy và công sở.
Phong trào hòa bình là phong trào rộng lớn nhất trong thời đại chúng ta, bao gồm
những người thuộc các tín ngưỡng chính trị và tôn giáo khác nhau, thuộc các tầng
lớp xã hội khác nhau, tất cả đều đoàn kết với nhau bởi sự thôi thúc cao cả nhằm
ngăn chặn các cuộc chiến tranh mới và bảo đảm hòa bình lâu dài.
Việc củng cố hơn nữa hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới sẽ có tầm quan trọng
hàng đầu trong việc gìn giữ hòa bình lâu bền. Vì vậy, chừng nào không giải trừ
quân bị, các nước xã hội chủ nghĩa phải duy trì tiềm lực quốc phòng của mình ở
mức tương xứng.
Theo quan điểm của những người Cộng sản, những nhiệm vụ mà ông phải hoàn
thành trước hết nếu muốn hòa bình được bảo vệ là ngừng chạy đua vũ trang, cấm
vũ khí hạt nhân, các cuộc thử nghiệm và sản xuất của chúng, dỡ bỏ các căn cứ
chiến tranh của nước ngoài và rút quân đội nước ngoài khỏi các nước khác, giải tán
quân đội. các khối, ký kết hiệp ước hòa bình với Đức, biến Tây Berlin thành một
thành phố tự do phi quân sự, ngăn cản các thiết kế của phe xét lại Tây Đức, và
ngăn chặn sự hồi sinh của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản.
Lịch sử đã đặt lên vai giai cấp công nhân quốc tế một trách nhiệm to lớn trong việc
ngăn chặn một cuộc chiến tranh thế giới mới. Bọn đế quốc âm mưu và liên kết với
nhau để bắt đầu một cuộc chiến tranh nhiệt hạch. Giai cấp công nhân quốc tế phải
khép lại hàng ngũ của mình để cứu nhân loại khỏi thảm họa của một cuộc chiến
tranh thế giới mới. Không có sự khác biệt về chính trị, tôn giáo hay những khác
biệt khác không được là trở ngại cho tất cả các lực lượng của giai cấp công nhân
đoàn kết chống lại hiểm họa chiến tranh. Giờ đã nổ ra để chống lại các lực lượng
chiến tranh bằng ý chí hùng mạnh và hành động chung của tất cả các lực lượng và
tổ chức của giai cấp vô sản thế giới, đoàn kết các lực lượng của mình để ngăn
chặn chiến tranh thế giới và bảo vệ hòa bình.
Các Đảng Cộng sản coi đấu tranh vì hòa bình là nhiệm vụ hàng đầu của họ. Họ kêu
gọi giai cấp công nhân, các tổ chức công đoàn, hợp tác xã, các liên đoàn và tổ chức
phụ nữ và thanh niên, trên toàn thể nhân dân lao động, không phân biệt thành kiến
chính trị và tôn giáo, kiên quyết đẩy lùi các cuộc đấu tranh quần chúng mọi hành
động xâm lược của bọn đế quốc. .
Nhưng nếu những kẻ điên cuồng của chủ nghĩa đế quốc bắt đầu chiến tranh, các
dân tộc sẽ quét sạch chủ nghĩa tư bản ra khỏi sự tồn tại và chôn vùi nó.
Chính sách đối ngoại của các nước xã hội chủ nghĩa dựa trên nền tảng vững chắc
của nguyên tắc chung của chủ nghĩa Lê-nin là cùng tồn tại hòa bình và cạnh tranh
kinh tế giữa các nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Trong điều kiện hoà
bình, hệ thống xã hội chủ nghĩa ngày càng bộc lộ những ưu thế của mình so với hệ
thống tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, khoa học và công
nghệ. Tương lai gần sẽ mang lại cho lực lượng hòa bình và chủ nghĩa xã hội những
thành công mới. Liên Xô sẽ trở thành cường quốc công nghiệp hàng đầu thế
giới. Trung Quốc sẽ trở thành một quốc gia công nghiệp hùng mạnh. Hệ thống xã
hội chủ nghĩa sẽ tạo ra hơn một nửa sản phẩm công nghiệp thế giới. Vùng hòa bình
sẽ mở rộng. Phong trào giai cấp công nhân ở các nước tư bản và phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc sẽ đạt được những thắng lợi
mới. Sự tan rã của hệ thống thuộc địa sẽ trở nên hoàn thành. Ưu thế của các lực
lượng của chủ nghĩa xã hội và hòa bình sẽ là tuyệt đối. Trong những điều kiện này,
một khả năng thực tế sẽ xuất hiện để loại trừ chiến tranh thế giới ra khỏi đời sống
xã hội ngay cả trước khi chủ nghĩa xã hội đạt được thắng lợi hoàn toàn trên trái
đất, với chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại ở một phần thế giới. Thắng lợi của chủ nghĩa
xã hội trên toàn thế giới sẽ xóa bỏ hoàn toàn nguyên nhân xã hội và dân tộc của
mọi cuộc chiến tranh.
Những người cộng sản trên toàn thế giới đề cao sự chung sống hòa bình một cách
nhất trí và nhất quán, đồng thời kiên quyết đấu tranh ngăn chặn chiến tranh. Những
người Cộng sản phải làm việc không mệt mỏi trong quần chúng để ngăn chặn việc
đánh giá thấp khả năng ngăn chặn một cuộc chiến tranh thế giới, đánh giá thấp khả
năng chung sống hòa bình và đồng thời đánh giá thấp nguy cơ chiến tranh.
Trong một thế giới bị chia cắt thành hai hệ thống, nguyên tắc duy nhất đúng đắn và
hợp lý của quan hệ quốc tế là nguyên tắc chung sống hòa bình của các quốc gia với
các hệ thống xã hội khác nhau do Lenin phát triển và được nêu rõ hơn trong Tuyên
ngôn Mátxcơva và Tuyên ngôn Hòa bình năm 1957, trong các quyết định của Đại
hội lần thứ l0 và 21 của CPSU, và trong các văn kiện của các Đảng Cộng sản và
Công nhân khác.
Năm Nguyên tắc do Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Ấn Độ cùng phát
triển, và các mệnh đề được thông qua tại Hội nghị Bandung phù hợp với lợi ích
của hòa bình và các dân tộc yêu chuộng hòa bình.
Sự chung sống hòa bình của các quốc gia có các hệ thống khác nhau hoặc có chiến
tranh phá hoại — đây là giải pháp thay thế ngày nay. Không còn lựa chọn nào
khác. Những người cộng sản bác bỏ dứt khoát học thuyết "chiến tranh lạnh" và
"chiến tranh lạnh giá" của Hoa Kỳ, vì đây là chính sách dẫn đến thảm họa nhiệt
hạch. Bằng cách duy trì nguyên tắc chung sống hòa bình, những người Cộng sản
đấu tranh để chấm dứt hoàn toàn chiến tranh lạnh, giải tán các khối quân sự và dỡ
bỏ các căn cứ quân sự, để giải trừ quân bị nói chung và hoàn toàn dưới sự kiểm
soát của quốc tế, giải quyết các tranh chấp quốc tế thông qua thương lượng, tôn
trọng các quốc gia bình đẳng và toàn vẹn lãnh thổ, độc lập và chủ quyền, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, phát triển sâu rộng quan hệ thương mại,
văn hóa và khoa học giữa các quốc gia.
Chính sách chung sống hòa bình đáp ứng lợi ích cơ bản của tất cả các dân tộc, của
tất cả những ai muốn không có chiến tranh tàn khốc mới và mong muốn có hòa
bình lâu dài. Chính sách này củng cố địa vị của chủ nghĩa xã hội, nâng cao uy tín
và ảnh hưởng quốc tế của các nước xã hội chủ nghĩa, nâng cao uy tín và ảnh hưởng
của các Đảng Cộng sản ở các nước tư bản. Hòa bình là đồng minh trung thành của
chủ nghĩa xã hội, vì chủ nghĩa xã hội trong thời gian dài đang chống lại chủ nghĩa
tư bản.
Chính sách chung sống hòa bình là chính sách động viên quần chúng và phát động
hành động mạnh mẽ chống lại kẻ thù của hòa bình. Sự chung sống hòa bình của
các quốc gia không có nghĩa là từ bỏ đấu tranh giai cấp như những người theo chủ
nghĩa xét lại tuyên bố. Sự cùng tồn tại của các nhà nước với các hệ thống xã hội
khác nhau là một hình thức đấu tranh giai cấp giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
tư bản. Trong điều kiện chung sống hoà bình, những cơ hội thuận lợi tạo điều kiện
cho cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản và phong trào giải phóng dân tộc của
nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc phát triển. Đến lượt mình, những thành
công của giai cấp cách mạng và cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đã thúc đẩy sự
chung sống hòa bình. Những người Cộng sản coi nhiệm vụ của họ là củng cố niềm
tin của người dân vào khả năng tiếp tục chung sống hòa bình, quyết tâm ngăn chặn
chiến tranh thế giới của họ. Họ sẽ làm hết sức mình để nhân dân làm suy yếu chủ
nghĩa đế quốc và hạn chế phạm vi hoạt động của nó bằng một cuộc đấu tranh tích
cực vì hòa bình, dân chủ và giải phóng dân tộc.
Sự chung sống hòa bình của các nước có các hệ thống xã hội khác nhau không có
nghĩa là sự hòa hợp của các hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa và tư sản. Ngược lại, nó
bao hàm sự tăng cường đấu tranh của giai cấp công nhân, của tất cả các Đảng
Cộng sản, vì sự thành công của các ý tưởng xã hội chủ nghĩa. Nhưng các tranh
chấp về ý thức hệ và chính trị giữa các quốc gia không được giải quyết thông qua
chiến tranh.
Cuộc họp cho rằng việc thực hiện chương trình giải trừ quân bị nói chung và hoàn
toàn do Liên Xô đưa ra sẽ có tầm quan trọng lịch sử đối với vận mệnh của nhân
loại.Để hiện thực hóa chương trình này có nghĩa là loại bỏ khả năng xảy ra chiến
tranh giữa các quốc gia. Không dễ gì nhận ra được là do sự chống trả ngoan cố của
bọn đế quốc. Do đó, điều cần thiết là phải tiến hành một cuộc đấu tranh tích cực và
kiên quyết chống lại các thế lực đế quốc hiếu chiến với mục đích đưa chương trình
này vào thực tiễn. Cần phải tiến hành cuộc đấu tranh này trên quy mô ngày càng
lớn và kiên trì phấn đấu để đạt được những kết quả hữu hình — cấm thử nghiệm và
chế tạo vũ khí hạt nhân, xóa bỏ các khối quân sự và căn cứ chiến tranh trên đất
nước ngoài và cắt giảm đáng kể lực lượng vũ trang và vũ khí trang bị, tất cả đều sẽ
mở đường cho việc giải trừ quân bị nói chung. Thông qua cuộc đấu tranh tích cực,
kiên quyết của các nước xã hội chủ nghĩa và các nước yêu chuộng hòa bình khác,
của giai cấp công nhân quốc tế và đông đảo quần chúng nhân dân ở tất cả các
nước,
Cuộc chạy đua vũ trang không phải là một biện pháp ngăn chặn chiến tranh, cũng
không phải là để tạo ra một mức độ cao về việc làm và hạnh phúc của người
dân. Nó dẫn đến chiến tranh. Chỉ một số ít các công ty độc quyền và các nhà đầu
cơ chiến tranh quan tâm đến cuộc chạy đua vũ trang. Ở các nước tư bản, người dân
liên tục yêu cầu cắt giảm chi tiêu quân sự và các quỹ được giải phóng do đó được
sử dụng để cải thiện điều kiện sống của quần chúng. Ở mỗi quốc gia, cần phải thúc
đẩy một phong trào quần chúng rộng rãi, sử dụng kinh phí và nguồn lực được giải
phóng thông qua giải trừ quân bị cho các nhu cầu sản xuất dân sự, nhà ở, y tế, giáo
dục công cộng, an sinh xã hội, nghiên cứu khoa học, v.v ... nay đã trở thành khẩu
hiệu đấu tranh của quần chúng nhân dân, một tất yếu lịch sử bức thiết. Bằng một
cuộc đấu tranh tích cực và kiên quyết, bọn đế quốc phải làm cho bằng được yêu
cầu này của các dân tộc.
Các Đảng Cộng sản và Công nhân của các nước xã hội chủ nghĩa sẽ tiếp tục theo
đuổi nhất quán chính sách chung sống hòa bình của các quốc gia với các hệ thống
xã hội khác nhau và nỗ lực hết sức mình để giải thoát cho các dân tộc khỏi sự
khủng khiếp và tai họa của một cuộc chiến tranh mới. Họ sẽ thể hiện sự cảnh giác
cao nhất đối với chủ nghĩa đế quốc, củng cố mạnh mẽ sức mạnh và khả năng
phòng thủ của toàn bộ phe xã hội chủ nghĩa và thực hiện từng bước để bảo vệ an
ninh của các dân tộc và giữ gìn hòa bình.
Những người Cộng sản coi đó là sứ mệnh lịch sử của họ, không chỉ xóa bỏ nạn
bóc lột và đói nghèo trên quy mô thế giới và loại trừ mọi thời điểm khả năng xảy
ra bất kỳ loại chiến tranh nào trong đời sống xã hội loài người, mà còn giải cứu
nhân loại khỏi cơn ác mộng của một thế giới mới chiến tranh thế giới đã có trong
thời đại của chúng ta. Các Đảng Cộng sản sẽ cống hiến hết sức lực, sức của cho
sứ mệnh lịch sử trọng đại này.
 

IV

Các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đã thắng lợi ở nhiều khu vực rộng lớn trên
thế giới. Khoảng bốn mươi quốc gia có chủ quyền mới đã hình thành ở châu Á và
châu Phi trong mười lăm năm sau chiến tranh. Thắng lợi của cách mạng Cu-ba đã
khơi dậy mạnh mẽ phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc hoàn toàn của các
dân tộc Mỹ Latinh. Một thời kỳ lịch sử mới đã đặt ra trong đời sống của nhân loại:
các dân tộc châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh đã giành được tự do đã bắt đầu
tham gia tích cực vào nền chính trị thế giới.
Sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân sắp xảy ra. Sự phá vỡ chế độ chiếm
hữu nô lệ thuộc địa dưới tác động của phong trào giải phóng dân tộc là một bước
phát triển có tầm quan trọng thứ hai trong lịch sử, chỉ sau sự hình thành hệ thống
xã hội chủ nghĩa thế giới.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại đã khơi dậy phương Đông, lôi
cuốn các dân tộc thuộc địa vào dòng chảy chung của phong trào cách mạng toàn
thế giới. Sự phát triển này được tạo điều kiện to lớn nhờ Liên Xô chiến thắng trong
Chiến tranh thế giới thứ hai, việc thiết lập nền dân chủ nhân dân ở một số nước
châu Âu và châu Á, thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc và sự
hình thành của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Các lực lượng của chủ nghĩa xã
hội thế giới đã góp phần quyết định vào cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa
và phụ thuộc để giải phóng khỏi ách áp bức của đế quốc. Hệ thống xã hội chủ
nghĩa đã trở thành lá chắn đáng tin cậy cho sự phát triển của các dân tộc đã giành
được tự do. Phong trào giải phóng dân tộc nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của
phong trào giai cấp công nhân quốc tế.
Bộ mặt của Châu Á đã thay đổi một cách triệt để. Trật tự thuộc địa đang sụp đổ ở
châu Phi. Một mặt trận tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc đã mở ra ở Mỹ
Latinh. Hàng trăm triệu người ở châu Á, châu Phi và các khu vực khác trên thế giới
đã giành được độc lập của mình trong những trận chiến cam go với chủ nghĩa đế
quốc. Những người cộng sản luôn nhận rõ ý nghĩa tiến bộ, cách mạng của các cuộc
chiến tranh giải phóng dân tộc; họ là những nhà đấu tranh tích cực nhất cho nền
độc lập dân tộc. Sự tồn tại của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới và sự suy yếu về
địa vị của chủ nghĩa đế quốc đã tạo cho các dân tộc bị áp bức những cơ hội mới để
giành độc lập.
Nhân dân các nước thuộc địa giành độc lập bằng đấu tranh vũ trang và phi quân sự,
tuỳ theo điều kiện cụ thể ở nước đó. Họ bảo đảm chiến thắng lâu dài thông qua một
phong trào giải phóng dân tộc mạnh mẽ. Các cường quốc thuộc địa không bao giờ
ban phát tự do cho các dân tộc thuộc địa và không bao giờ để lại ý chí tự do cho
các quốc gia mà họ đang khai thác.
Hoa Kỳ là trụ cột của chủ nghĩa thực dân ngày nay. Bọn đế quốc, đứng đầu là Mỹ,
ra sức bảo tồn việc khai thác thuộc địa đối với các dân tộc thuộc địa cũ bằng những
phương pháp mới và những hình thức mới. Các công ty độc quyền cố gắng duy trì
đòn bẩy kiểm soát kinh tế và ảnh hưởng chính trị ở các nước châu Á, châu Phi và
châu Mỹ Latinh. Những nỗ lực này nhằm duy trì các vị trí của họ trong nền kinh tế
của các nước đã giành được tự do, và chiếm các vị trí mới dưới chiêu bài viện trợ
kinh tế, "lôi kéo họ vào các khối quân sự, cấy ghép các chế độ độc tài quân sự và
thiết lập các căn cứ chiến tranh ở đó. mưu hại và phá hoại chủ quyền quốc gia của
các nước mới tự do, xuyên tạc nguyên tắc dân tộc tự quyết, áp đặt các hình thức
thống trị thuộc địa mới dưới khẩu hiệu giả tạo là "phụ thuộc lẫn nhau", để ngụy
quyền của chúng nắm quyền ở các nước này và mua chuộc một bộ phận giai cấp tư
sản. Họ sử dụng vũ khí độc của cuộc xung đột quốc gia để làm suy yếu các quốc
gia non trẻ chưa đủ mạnh. Họ sử dụng rộng rãi các khối quân sự hiếu chiến và các
liên minh quân sự song phương, để đạt được những mục tiêu này. Đồng bọn của
bọn đế quốc là những bộ phận phản động nhất trong các giai cấp bóc lột ở địa
phương. Họ sử dụng rộng rãi các khối quân sự hiếu chiến và các liên minh quân sự
song phương, để đạt được những mục tiêu này. Đồng bọn của bọn đế quốc là
những bộ phận phản động nhất trong các giai cấp bóc lột ở địa phương. Họ sử
dụng rộng rãi các khối quân sự hiếu chiến và các liên minh quân sự song phương,
để đạt được những mục tiêu này. Đồng bọn của bọn đế quốc là những bộ phận
phản động nhất trong các giai cấp bóc lột ở địa phương.
Những nhiệm vụ cấp bách của công cuộc tái sinh dân tộc mà các nước đã thoát
khỏi ách thực dân phải đối mặt sẽ không thể thực hiện được một cách có hiệu quả
trừ khi tiến hành một cuộc đấu tranh kiên quyết chống đế quốc và tàn dư của chế
độ phong kiến bằng tất cả các lực lượng yêu nước của các quốc gia đoàn kết trong
một mặt trận dân tộc - dân chủ duy nhất. Các nhiệm vụ dân chủ dân tộc trên cơ sở
các lực lượng tiến bộ của dân tộc có thể và thực hiện được đoàn kết ở các nước đã
giành được tự do, là: củng cố độc lập chính trị, thực hiện cải cách nông nghiệp vì
lợi ích của giai cấp nông dân, xóa bỏ về sự tồn tại của chế độ phong kiến, sự nhổ
bỏ nền thống trị kinh tế của đế quốc, hạn chế độc quyền nước ngoài và trục xuất họ
khỏi nền kinh tế quốc dân, hình thành và phát triển công nghiệp quốc gia, cải thiện
mức sống,
Giai cấp công nhân đã đóng vai trò xuất sắc trong cuộc chiến đấu giải phóng dân
tộc, đòi hỏi phải hoàn thành đầy đủ và nhất quán nhiệm vụ của cách mạng dân tộc,
chống đế quốc, dân chủ, chống phản động nhằm kiểm soát tiến bộ xã hội.
Giải pháp cho vấn đề nông dân, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của đại đa số dân
chúng, là điều quan trọng hàng đầu đối với các quốc gia này. Nếu không có những
cải cách nông nghiệp triệt để thì không thể giải quyết được vấn đề lương thực và
quét sạch tàn tích của chủ nghĩa trung cổ vốn cản trở sự phát triển của lực lượng
sản xuất trong nông nghiệp và công nghiệp. Việc hình thành và mở rộng trên cơ sở
dân chủ của khu vực nhà nước trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là trong công
nghiệp, một khu vực độc lập với độc quyền nước ngoài và đang dần trở thành nhân
tố quyết định nền kinh tế đất nước, có ý nghĩa rất quan trọng ở các quốc gia này.
Liên minh giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là lực lượng quan trọng nhất
trong việc giành và bảo vệ độc lập dân tộc, thực hiện chuyển đổi dân chủ sâu rộng
và bảo đảm tiến bộ xã hội. Liên minh này được kêu gọi là cơ sở của một mặt trận
dân tộc rộng rãi. Mức độ tham gia của giai cấp tư sản dân tộc vào cuộc đấu tranh
giải phóng cũng phụ thuộc không nhỏ vào sức mạnh và sự ổn định của nó. Các lực
lượng dân tộc yêu nước, mọi thành phần dân tộc chuẩn bị đấu tranh giành độc lập
dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc có vai trò to lớn.
Trong điều kiện hiện nay, giai cấp tư sản dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ
thuộc không liên kết với đế quốc, khách quan quan tâm đến nhiệm vụ chủ yếu là
chống đế quốc, chống phong kiến, do đó vẫn có khả năng tham gia đấu tranh cách
mạng chống đế quốc và phong kiến. . Theo nghĩa đó, nó là tiến bộ. Nhưng nó
không ổn định; tuy tiến bộ nhưng có khuynh hướng thỏa hiệp với đế quốc và
phong kiến. Do mang tính chất hai mặt nên mức độ tham gia cách mạng của giai
cấp tư sản dân tộc ở mỗi nước là khác nhau. Điều này phụ thuộc vào điều kiện cụ
thể, vào sự thay đổi mối quan hệ của các lực lượng giai cấp, vào mức độ gay gắt
của mâu thuẫn giữa đế quốc, phong kiến và nhân dân, và chiều sâu của mâu thuẫn
giữa các chủ nghĩa đế quốc,
Sau khi giành được độc lập chính trị, các dân tộc tìm kiếm giải pháp cho các vấn
đề xã hội đặt ra trong cuộc sống và cho vấn đề củng cố độc lập dân tộc. Các lớp và
các bên khác nhau đưa ra các giải pháp khác nhau. Lựa chọn con đường phát triển
nào là chuyện nội bộ của chính các dân tộc. Khi mâu thuẫn xã hội ngày càng lớn,
giai cấp tư sản dân tộc càng có xu hướng thoả hiệp với phản động trong nước và
chủ nghĩa đế quốc. Tuy nhiên, người dân bắt đầu thấy rằng cách tốt nhất để xóa bỏ
lạc hậu lâu đời và nâng cao mức sống của họ là phát triển phi tư bản chủ nghĩa. Chỉ
có như vậy, các dân tộc mới có thể tự giải phóng khỏi bị bóc lột, đói nghèo. Giai
cấp công nhân và đông đảo quần chúng nông dân phải đóng vai trò hàng đầu trong
việc giải quyết vấn đề xã hội cơ bản này.
Trong hoàn cảnh lịch sử hiện nay, ở nhiều nước đã nảy sinh những điều kiện thuận
lợi trong nước và quốc tế để xây dựng một nền dân chủ dân tộc độc lập, nghĩa là
một nhà nước nhất quán giữ vững nền độc lập chính trị và kinh tế, chống chủ nghĩa
đế quốc và các khối quân sự, chống lại các căn cứ quân sự. lãnh thổ của nó; một
nhà nước đấu tranh chống lại các hình thức mới của chủ nghĩa thực dân và sự xâm
nhập của tư bản đế quốc; một nhà nước từ chối các phương pháp độc tài và chuyên
chế của chính phủ; một nhà nước trong đó người dân được bảo đảm các quyền và
tự do dân chủ rộng rãi (tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, biểu tình, thành lập các
đảng phái chính trị và các tổ chức xã hội), có cơ hội làm việc để ban hành một cải
cách nông nghiệp và các thay đổi dân chủ và xã hội khác , và tham gia vào việc
định hình chính sách của chính phủ. Sự hình thành và củng cố các nền dân chủ dân
tộc giúp cho các nước liên quan đạt được tiến bộ xã hội nhanh chóng và đóng góp
tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình của nhân dân, chống lại chính sách hiếu
chiến của đế quốc, đòi xoá bỏ hoàn toàn ách thống trị của thực dân.
Các Đảng Cộng sản đang hoạt động tích cực để hoàn thành nhất quán cuộc cách
mạng dân chủ chống đế quốc, chống phong kiến, xây dựng các nền dân chủ dân
tộc, cải thiện căn bản mức sống của nhân dân. Họ ủng hộ những hành động đó của
các chính phủ quốc gia dẫn đến việc củng cố những lợi ích đã đạt được và làm suy
yếu vị trí của bọn đế quốc. Đồng thời kiên quyết phản đối những hành vi phản dân
chủ, phản dân chúng và những biện pháp của giới cầm quyền gây nguy hại cho nền
độc lập dân tộc. Những người cộng sản vạch trần những âm mưu của bộ phận phản
động của giai cấp tư sản đại diện cho lợi ích giai cấp ích kỷ, hẹp hòi của nó như
của toàn thể dân tộc; họ vạch trần việc các chính trị gia tư sản sử dụng các khẩu
hiệu xã hội chủ nghĩa cho cùng một mục đích;
Mục đích của những người Cộng sản phù hợp với lợi ích tối cao của quốc gia. Việc
bọn phản động ra sức chống phá mặt trận dân tộc dưới khẩu hiệu “chống chủ nghĩa
cộng sản” và cô lập những người cộng sản, đội đầu tiên của phong trào giải phóng,
đi ngược lại với lợi ích quốc gia của nhân dân và thiệt hại về lợi ích quốc gia. .
Các nước xã hội chủ nghĩa là người bạn chân chính, chân thành của các dân tộc
đấu tranh giải phóng và của những người đã quật đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế
quốc. Mặc dù từ chối về nguyên tắc bất kỳ sự can thiệp nào vào công việc nội bộ
của các quốc gia trẻ, nhưng họ coi nhiệm vụ quốc tế của mình là giúp đỡ các dân
tộc trong việc củng cố nền độc lập của họ. Họ giúp đỡ và hỗ trợ các nước này một
cách hào phóng trong việc đạt được tiến bộ, tạo ra một nền công nghiệp quốc gia,
phát triển và củng cố nền kinh tế quốc dân, đào tạo nhân lực quốc gia, đồng thời
hợp tác với họ trong cuộc đấu tranh vì hòa bình thế giới, chống lại sự xâm lược của
chủ nghĩa đế quốc:
Những người lao động có ý thức giai cấp của các cường quốc thuộc địa, những
người nhận ra rằng "không có dân tộc nào có thể tự do nếu nó áp bức các nước
khác", đã chiến đấu nhất quán vì quyền tự quyết của các dân tộc bị đế quốc áp
bức. Hiện nay các quốc gia này đang đi theo con đường độc lập dân tộc, nghĩa vụ
quốc tế của công nhân và tất cả các lực lượng dân chủ ở các nước tư bản phát triển
công nghiệp là phải hỗ trợ họ mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, giành
độc lập dân tộc, củng cố đất nước, và để hỗ trợ họ giải quyết hiệu quả các vấn đề
tái sinh kinh tế và văn hóa của họ. Khi làm như vậy, họ bảo vệ lợi ích của quần
chúng bình dân ở đất nước của họ.
Toàn bộ tiến trình lịch sử thế giới trong những thập kỷ gần đây thúc đẩy việc xóa
bỏ hoàn toàn và cuối cùng hệ thống thuộc địa dưới mọi hình thức và biểu hiện của
nó. Tất cả các dân tộc còn đang mòn mỏi trong ách nô lệ thuộc địa phải được hỗ
trợ hết sức để giành độc lập dân tộc. Phải xóa bỏ mọi hình thức áp bức thuộc
địa. Việc xóa bỏ chủ nghĩa thực dân cũng sẽ có tầm quan trọng to lớn trong việc
xoa dịu căng thẳng quốc tế và củng cố hòa bình toàn cầu. Cuộc gặp này thể hiện
tình đoàn kết với tất cả các dân tộc châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh và châu Đại
Dương đang tiến hành cuộc đấu tranh anh dũng chống chủ nghĩa đế quốc. Cuộc
họp ca ngợi các dân tộc của các quốc gia trẻ của châu Phi đã giành được độc lập
chính trị — một bước quan trọng để tiến tới giải phóng hoàn toàn. Cuộc họp bày tỏ
lòng thành kính và sự ủng hộ đối với những người dân Algeria anh hùng đấu tranh
cho tự do và độc lập dân tộc, đồng thời yêu cầu chấm dứt ngay lập tức cuộc chiến
tranh xâm lược Algeria. Nó lên án phẫn nộ hệ thống đàn áp chủng tộc và chế độ
chuyên chế vô nhân đạo ở Liên minh Nam Phi (phân biệt chủng tộc) và kêu gọi các
nhà dân chủ trên toàn thế giới tích cực hỗ trợ các dân tộc Nam Phi trong cuộc đấu
tranh vì tự do và bình đẳng. Cuộc họp yêu cầu không can thiệp vào các quyền chủ
quyền của các dân tộc Cuba, Congo và tất cả các quốc gia khác đã giành được tự
do của họ. Nó lên án phẫn nộ hệ thống đàn áp chủng tộc và chế độ chuyên chế vô
nhân đạo ở Liên minh Nam Phi (phân biệt chủng tộc) và kêu gọi các nhà dân chủ
trên toàn thế giới tích cực hỗ trợ các dân tộc Nam Phi trong cuộc đấu tranh vì tự do
và bình đẳng. Cuộc họp yêu cầu không can thiệp vào các quyền chủ quyền của các
dân tộc Cuba, Congo và tất cả các quốc gia khác đã giành được tự do của họ. Nó
lên án phẫn nộ hệ thống đàn áp chủng tộc và chế độ chuyên chế vô nhân đạo ở
Liên minh Nam Phi (phân biệt chủng tộc) và kêu gọi các nhà dân chủ trên toàn thế
giới tích cực hỗ trợ các dân tộc Nam Phi trong cuộc đấu tranh vì tự do và bình
đẳng. Cuộc họp yêu cầu không can thiệp vào các quyền chủ quyền của các dân tộc
Cuba, Congo và tất cả các quốc gia khác đã giành được tự do của họ.
Tất cả các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và giai cấp công nhân quốc
tế coi nhiệm vụ của mình là phải hỗ trợ đầy đủ nhất về vật chất và tinh thần cho
các dân tộc đang đấu tranh để tự giải phóng khỏi ách thống trị của đế quốc và thực
dân.
 

Sự cân bằng lực lượng thế giới mới mang lại cho các Đảng Cộng sản và Công nhân
những cơ hội mới để thực hiện những nhiệm vụ lịch sử mà họ phải đối mặt trong
cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Các Đảng Cộng sản xác định triển vọng và nhiệm vụ của cách mạng phù hợp với
các điều kiện lịch sử và xã hội cụ thể có được ở các nước của họ và có quan tâm
đến tình hình quốc tế. Họ đang tiến hành cuộc đấu tranh quên mình, làm mọi việc
trong điều kiện hiện nay, không đợi đến khi chủ nghĩa xã hội ra đời, bảo vệ lợi ích
của giai cấp công nhân và nhân dân, cải thiện điều kiện sống, mở rộng quyền dân
chủ và tự do của nhân dân. Biết rằng gánh nặng của cuộc đấu tranh giải phóng
nhân dân khỏi áp bức tư bản chủ nghĩa, đội Cass đang làm việc và đội tiên phong
cách mạng của nó sẽ ngày càng tăng cường sức mạnh tiến công cuộc tấn công
chống lại sự thống trị của những kẻ áp bức và bóc lột trong mọi lĩnh vực chính trị,
kinh tế và hoạt động tư tưởng ở mỗi quốc gia.
Đòn đánh chính trong điều kiện hiện nay là nhắm vào lực lượng ngày càng tăng
của các tổ chức độc quyền tư bản, vốn chịu trách nhiệm chính cho cuộc chạy đua
vũ trang và tạo thành bức tường phản ứng và xâm lược, trong toàn bộ hệ thống chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, vốn bảo vệ lợi ích của họ.
Ở một số nước tư bản phát triển ngoài châu Âu chịu sự thống trị về chính trị, kinh
tế và quân sự của đế quốc Mỹ, giai cấp công nhân và nhân dân ta trực tiếp giáng
đòn chính vào sự thống trị của đế quốc Mỹ, đồng thời chống lại tư bản độc quyền
và các thế lực phản động trong nước phản bội. lợi ích của quốc gia. Trong quá
trình đấu tranh này, tất cả các lực lượng dân chủ, yêu nước của dân tộc hiệp lại
trong một mặt trận thống nhất đấu tranh thực hiện thắng lợi cách mạng nhằm giành
độc lập dân tộc, dân chủ thực sự, tạo điều kiện để thực hiện nhiệm vụ của cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Các tổ chức độc quyền lớn xâm phạm lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân
nói chung. Sự bóc lột nhân dân lao động ngày càng gia tăng; quá trình mà quần
chúng nông dân rộng rãi đang bị hủy hoại. Đồng thời, những khó khăn mà giai cấp
tư sản vừa và nhỏ phải trải qua ngày càng gay gắt hơn. Sự áp bức của các công ty
độc quyền lớn ngày càng trở nên nặng nề hơn đối với mọi thành phần dân tộc. Kết
quả là mâu thuẫn giữa một số ít các nhà tư bản độc quyền với mọi bộ phận nhân
dân ngày càng rõ nét hơn, cùng với đó là mâu thuẫn giai cấp cơ bản của xã hội tư
sản ngày càng gay gắt - đó là giữa lao động và tư bản.
Các tổ chức độc quyền tìm cách xóa bỏ hoặc cắt giảm đến mức tối thiểu các quyền
dân chủ của quần chúng. Sự thống trị của khủng bố phát xít mở vẫn tiếp tục ở một
số quốc gia. Ở một số nước, chủ nghĩa mê hoặc đang mở rộng dưới những hình
thức mới: các phương pháp chính quyền độc tài kết hợp với các thực hành nghị
viện hư cấu đã bị tước bỏ nội dung dân chủ và giảm xuống hình thức thuần
túy. Nhiều tổ chức dân chủ nằm ngoài vòng pháp luật và buộc phải hoạt động
ngầm, hàng nghìn người đấu tranh cho chính nghĩa của giai cấp công nhân và
những người đấu tranh cho hòa bình đang ở trong tù.
Thay mặt cho tất cả những người Cộng sản trên thế giới, Cuộc gặp gỡ này thể hiện
tình đoàn kết vô sản với những người con trai và con gái dũng cảm của giai cấp
công nhân và những người đấu tranh cho dân chủ, đang mòn mỏi sau song sắt nhà
tù ở Mỹ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Tây Đức, Hy Lạp, Iran, Pakistan,
Cộng hòa Ả Rập Thống nhất, Jordan, Iraq, Argentina, Paraguay, Cộng hòa
Dominica, Mexico, Liên minh Nam Phi, Sudan và các quốc gia khác. Cuộc họp
kêu gọi khởi động một chiến dịch mạnh mẽ trên toàn thế giới để bảo đảm trả tự do
cho những nhà vô địch vì hòa bình, độc lập dân tộc và dân chủ.
Giai cấp công nhân, nông dân, trí thức và tầng lớp tiểu tư sản ở thành thị và trung
nông hết sức quan tâm đến việc xóa bỏ ách thống trị độc quyền. Do đó có những
điều kiện thuận lợi để tập hợp các lực lượng này.
Những người cộng sản cho rằng sự thống nhất này là hoàn toàn khả thi trên cơ sở
đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, bảo vệ và mở rộng dân chủ, quốc hữu hóa
các ngành kinh tế then chốt, dân chủ hóa quản lý, sử dụng toàn bộ nền kinh tế vào
mục đích hòa bình trong nhằm thoả mãn nhu cầu của nhân dân, thực hiện cải cách
nông nghiệp triệt để, cải thiện điều kiện sống của nhân dân lao động, bảo vệ quyền
lợi của giai cấp nông dân và giai cấp tư sản trung nông chống lại sự chuyên chế
của bọn độc quyền.
Những biện pháp này sẽ là một bước quan trọng trên con đường tiến bộ xã hội và
sẽ đáp ứng lợi ích của đa số quốc gia. Tất cả những biện pháp này đều mang tính
chất dân chủ. Họ không loại bỏ sự bóc lột con người bởi con người. Nhưng nếu
hiện thực hóa được, chúng sẽ hạn chế được quyền lực của các tổ chức độc quyền,
nâng cao uy tín và sức nặng chính trị của giai cấp công nhân đối với công việc của
đất nước, cô lập các lực lượng phản động nhất, tạo điều kiện thống nhất các lực
lượng tiến bộ. Khi họ tham gia vào cuộc đấu tranh cho những cải cách mạnh mẽ,
một bộ phận lớn dân chúng nhận ra sự cần thiết của việc đoàn kết hành động với
giai cấp công nhân và trở nên tích cực hơn về mặt chính trị. Nhiệm vụ hàng đầu
của giai cấp công nhân và đội tiên phong Cộng sản của nó là đứng đầu cuộc đấu
tranh kinh tế và chính trị của quần chúng để cải cách dân chủ,
Những người cộng sản chủ trương dân chủ hóa chung toàn bộ kinh tế và xã hội và
tất cả các tổ chức và thể chế hành chính, chính trị và văn hóa.
Những người cộng sản coi cuộc đấu tranh cho dân chủ là một thành phần của cuộc
đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội. Trong cuộc đấu tranh này, họ không ngừng củng
cố mối quan hệ gắn bó với quần chúng, nâng cao ý thức chính trị, giúp họ hiểu rõ
nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa và nhận thức được sự cần thiết của việc
hoàn thành nó. Điều này khiến các Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin hoàn toàn xa
rời những người theo chủ nghĩa cải cách, những người coi cải cách trong khuôn
khổ hệ thống tư bản là mục tiêu cuối cùng và phủ nhận sự cần thiết của cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Những người theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin tin chắc rằng các dân
tộc ở các nước tư bản trong quá trình đấu tranh hàng ngày cuối cùng sẽ hiểu rằng
chỉ có chủ nghĩa xã hội mới là lối thoát thực sự cho họ.
Giờ đây, ngày càng có nhiều bộ phận dân chúng tham gia đấu tranh giai cấp tích
cực, điều quan trọng nhất là những người Cộng sản nên mở rộng công việc của họ
trong các tổ chức công đoàn và hợp tác xã, trong giới nông dân, thanh niên, phụ
nữ, trong các tổ chức thể thao và những người không có tổ chức. các bộ phận của
dân số. Hiện đang có những cơ hội mới để thu hút thế hệ trẻ vào cuộc đấu tranh
cho hòa bình và dân chủ, và cho những lý tưởng vĩ đại của chủ nghĩa cộng sản. Chỉ
thị vĩ đại của Lenin - đi sâu vào quần chúng, làm việc ở bất cứ nơi nào có quần
chúng, củng cố mối quan hệ với quần chúng để lãnh đạo họ - phải trở thành nhiệm
vụ chính của mọi Đảng Cộng sản.
Việc khôi phục sự thống nhất trong phong trào công đoàn ở các nước bị chia rẽ
cũng như trên phạm vi quốc tế, là điều cần thiết để nâng cao vai trò của giai cấp
công nhân trong đời sống chính trị và để bảo vệ thành công lợi ích của mình. Nhân
dân lao động có thể thuộc các tổ chức công đoàn khác nhau nhưng đều có lợi ích
chung. Bất cứ khi nào các hiệp hội công đoàn khác nhau chiến đấu chung trong các
trận chiến giai cấp lớn nhất trong những năm gần đây, họ thường thành công, chính
vì sự đoàn kết của họ, trong việc đáp ứng các yêu cầu của nhân dân lao động. Các
Đảng Cộng sản tin rằng có những điều kiện tiên quyết thực sự để thiết lập lại sự
đoàn kết công đoàn và sẽ làm việc kiên trì để đạt được điều đó. Ở những quốc gia
không có nền dân chủ công đoàn nào trên thực tế,
Đối với hòa bình và tiến bộ xã hội, sự đoàn kết quốc gia và quốc tế của tất cả các
phong trào dân chủ quần chúng khác cũng cần được khôi phục. Sự đoàn kết giữa
các tổ chức quần chúng có thể đạt được thông qua việc chung tay đấu tranh vì hoà
bình, độc lập dân tộc, bảo tồn và mở rộng các quyền dân chủ, cải thiện điều kiện
sống và mở rộng các quyền xã hội của nhân dân lao động.
Vai trò quyết định đối với cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân các nước tư
bản nhằm hoàn thành nhiệm vụ của mình là do khối liên minh của giai cấp công
nhân và giai cấp nông dân lao động, là động lực chủ yếu của cách mạng xã hội.
Sự chia rẽ trong hàng ngũ giai cấp công nhân mà các giai cấp thống trị, phe cánh
hữu, giới lãnh đạo Xã hội-Dân chủ-Xã hội và các tổ chức công đoàn phản động
quan tâm duy trì trên phạm vi quốc gia và quốc tế, vẫn là trở ngại chính cho việc
hoàn thành các mục tiêu. của giai cấp công nhân. Những người cộng sản làm việc
kiên quyết để loại bỏ tinh thần này.
Bọn đế quốc và bọn phản động ở các nước dùng các biện pháp trấn áp, dùng thủ
đoạn lừa bịp, mua chuộc để chia rẽ, phá vỡ khối đoàn kết của giai cấp công
nhân. Các sự kiện trong vài năm gần đây một lần nữa khẳng định rằng sự chia rẽ
này làm suy yếu vị trí của giai cấp công nhân và chỉ có lợi cho phản ứng của chủ
nghĩa đế quốc.
Một số nhà lãnh đạo cánh hữu Xã hội-Dân chủ đã công khai áp dụng quan điểm đế
quốc, bảo vệ hệ thống tư bản và chia rẽ giai cấp công nhân. Do thái độ thù địch với
chủ nghĩa cộng sản và lo sợ về ảnh hưởng ngày càng tăng của chủ nghĩa xã hội đối
với các vấn đề thế giới, họ đang đầu hàng các thế lực phản động, bảo thủ. Ở một số
nước, giới lãnh đạo Cánh hữu đã thành công trong việc khiến các Đảng Xã hội -
Dân chủ áp dụng các chương trình mà họ công khai từ chối chủ nghĩa Mác, đấu
tranh giai cấp và các khẩu hiệu xã hội chủ nghĩa truyền thống. Qua đó họ đã làm
một lần nữa phục vụ giai cấp tư sản. Sự phản kháng đối với chính sách này của các
nhà lãnh đạo Cánh hữu đang gia tăng trong các Đảng Xã hội-Dân chủ. Phe đối lập
cũng bao gồm một bộ phận hoạt động của Đảng Xã hội-Dân chủ. Các lực lượng
ủng hộ giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động khác trong cuộc đấu
tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội ngày càng phát triển. Đa số trong các
Đảng Xã hội - Dân chủ, đặc biệt là công nhân, là những người bạn của hòa bình và
tiến bộ xã hội.
Những người cộng sản sẽ tiếp tục chỉ trích các quan điểm tư tưởng và các thực
hành cơ hội của Cánh hữu của Đảng Dân chủ-Xã hội; họ sẽ tiếp tục các hoạt động
nhằm mục đích lôi kéo quần chúng Xã hội-Dân chủ chấp nhận lập trường nhất
quán đấu tranh giai cấp chống chủ nghĩa tư bản, vì mục tiêu thắng lợi của chủ
nghĩa xã hội. Những người Cộng sản tin chắc rằng sự khác biệt về ý thức hệ giữa
họ và Đảng Dân chủ - Xã hội không được cản trở việc trao đổi ý kiến về những
vấn đề cấp bách của phong trào giai cấp công nhân và cuộc đấu tranh chung, đặc
biệt là chống lại hiểm họa chiến tranh.
Những người cộng sản coi những người Dân chủ - Xã hội trong nhân dân lao động
là anh em giai cấp của mình. Họ thường cùng hoạt động trong tổ chức công đoàn
và các tổ chức khác, cùng đấu tranh vì quyền lợi của giai cấp công nhân và toàn thể
nhân dân.
Hàng triệu Đảng viên Xã hội-Dân chủ và một số Đảng Dân chủ-Xã hội đã xuất
hiện dưới hình thức nào đó để ủng hộ việc giải quyết những vấn đề này. Nó là an
toàn để nói rằng về việc vượt qua sự chia rẽ trong hàng ngũ, về việc đạt được sự
thống nhất hành động của tất cả những người dự phòng, giai cấp công nhân của
nhiều nước tư bản có thể giáng một đòn đáng kinh ngạc vào chính sách của giới
cầm quyền ở các nước tư bản và khiến họ ngừng chuẩn bị một cuộc chiến tranh
mới, đẩy lùi sự tấn công của tư bản độc quyền, và đáp ứng các yêu cầu dân chủ và
sống còn hàng ngày của nó.
Cả trong cuộc đấu tranh vì cải thiện điều kiện sống của nhân dân lao động, mở
rộng và giữ gìn các quyền dân chủ, giành và bảo vệ độc lập dân tộc, vì hòa bình
giữa các dân tộc, và cả trong cuộc đấu tranh giành chính quyền và xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Các Đảng Cộng sản chủ trương hợp tác với các Đảng Xã hội. Những
người cộng sản có học thuyết vĩ đại của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, một học thuyết
nhất quán, được khoa học và đúc kết trong cuộc sống, và kinh nghiệm quốc tế
phong phú về xây dựng chủ nghĩa xã hội. Họ chuẩn bị tổ chức các cuộc thảo luận
với các thành viên Dân chủ-Xã hội, vì họ chắc chắn rằng đây là cách tốt nhất để so
sánh quan điểm, ý tưởng và kinh nghiệm với mục đích xóa bỏ những định kiến sâu
xa và sự chia rẽ giữa những người đang làm việc và thiết lập đồng hoạt động.
Những kẻ phản động đế quốc, những kẻ tìm cách khơi dậy lòng tin đối với phong
trào Cộng sản và hệ tư tưởng của nó, tiếp tục đe dọa quần chúng bằng cách cáo
buộc rằng những người Cộng sản cần chiến tranh giữa các quốc gia để lật đổ hệ
thống tư bản và thiết lập một hệ thống xã hội chủ nghĩa. Các Đảng Cộng sản dứt
khoát bác bỏ lời vu khống này. Việc cả hai cuộc chiến tranh thế giới do đế quốc
khởi xướng đều kết thúc bằng các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa hoàn toàn
không có nghĩa là con đường dẫn đến cách mạng xã hội nhất thiết phải thông qua
chiến tranh thế giới, đặc biệt là hiện nay đã tồn tại một hệ thống xã hội chủ nghĩa
thế giới hùng mạnh. Những người theo chủ nghĩa Mác-Lê-nin chưa bao giờ cho
rằng con đường dẫn đến cách mạng xã hội là thông qua các cuộc chiến tranh giữa
các quốc gia.
Sự lựa chọn hệ thống xã hội là quyền bất khả xâm phạm của người dân mỗi quốc
gia. Cách mạng xã hội chủ nghĩa không phải là một mặt hàng nhập khẩu và không
thể được áp đặt từ nếu không. Đó là kết quả của sự phát triển nội tại của đất nước
có liên quan, của sự mài giũa tối đa những mâu thuẫn xã hội trong đó. Các Đảng
Cộng sản, vốn chỉ đạo mình bằng học thuyết Mác - Lê-nin, luôn chống lại việc
xuất khẩu cách mạng. Đồng thời đấu tranh kiên quyết chống đế quốc xuất khẩu
phản cách mạng. Họ coi nhiệm vụ quốc tế của mình là kêu gọi nhân dân các nước
đoàn kết, tập hợp nội lực, hành động mạnh mẽ và dựa vào sức mạnh của hệ thống
xã hội chủ nghĩa thế giới, ngăn chặn hoặc kiên quyết chống lại sự can thiệp của
chủ nghĩa đế quốc vào công việc của bất kỳ người nào đã vươn lên trong cách
mạng.
Các Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin đứng đầu cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân, quần chúng nhân dân lao động, nhằm thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa
và thiết lập chế độ chuyên chính vô sản bằng hình thức này hay hình thức
khác. Các hình thức và quá trình phát triển của cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ phụ
thuộc vào sự cân bằng cụ thể của các lực lượng giai cấp trong nước, vào tổ chức và
sự trưởng thành của giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó, và mức độ của
cuộc kháng chiến do nhà cầm quyền tiến hành. các lớp học. Dù chế độ chuyên
chính vô sản được thiết lập dưới hình thức nào, nó sẽ luôn biểu thị sự mở rộng dân
chủ, chuyển từ dân chủ tư sản chính thức sang dân chủ chân chính, sang dân chủ
cho nhân dân lao động.
Các Đảng Cộng sản khẳng định lại những mệnh đề mà Tuyên bố năm 1957 đưa ra
về các hình thức quá độ của các nước khác nhau từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội.
Tuyên ngôn chỉ ra rằng giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó - Đảng theo
chủ nghĩa Mác - Lê-nin - tìm cách thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng biện
pháp hòa bình. Điều này phù hợp với lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thể
nhân dân, với lợi ích dân tộc của đất nước.
Ngày nay ở một số nước tư bản, giai cấp công nhân, đứng đầu là đội tiên phong
của mình, có cơ hội, được đưa ra một mặt trận thống nhất giữa giai cấp công nhân
và bình dân hoặc các hình thức thỏa thuận và hợp tác chính trị khả thi khác giữa
các đảng và các tổ chức công, để đoàn kết. đại đa số nhân dân, giành được quyền
lực nhà nước mà không có nội chiến và bảo đảm chuyển giao những tư liệu sản
xuất cơ bản về tay nhân dân. Dựa vào đại đa số nhân dân và kiên quyết đánh đuổi
những phần tử cơ hội không có khả năng từ bỏ chính sách thỏa hiệp với tư bản và
địa chủ, giai cấp công nhân có thể đánh bại các thế lực phản động, chống quần
chúng, bảo đảm đa số vững chắc trong quốc hội, chuyển quốc hội từ một công cụ
phục vụ lợi ích giai cấp của giai cấp tư sản thành công cụ phục vụ nhân dân lao
động, phát động quần chúng đấu tranh ngoài nghị trường, đập tan sự chống phá của
các thế lực phản động, tạo điều kiện cần thiết để thực hiện hòa bình cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Tất cả những điều này chỉ có thể thực hiện được bằng sự phát triển
rộng rãi và không ngừng của cuộc đấu tranh giai cấp của công nhân, quần chúng
nông dân và các tầng lớp trung lưu ở thành thị chống tư bản độc quyền lớn, chống
phản động, vì cải tạo xã hội sâu sắc, vì hòa bình và chủ nghĩa xã hội.
Trong trường hợp các giai cấp bóc lột sử dụng bạo lực đối với con người, cần phải
lưu ý đến khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội không vì mục đích hòa bình. Chủ
nghĩa Lênin dạy và kinh nghiệm khẳng định rằng các giai cấp thống trị không bao
giờ tự nguyện từ bỏ quyền lực. Trong trường hợp này, mức độ gay gắt và các hình
thức của cuộc đấu tranh giai cấp sẽ không phụ thuộc quá nhiều vào giai cấp vô sản
như cuộc kháng chiến do các giới phản động đưa ra theo ý chí của đại đa số nhân
dân, các giới này sử dụng vũ lực tại một hoặc một giai đoạn khác của cuộc đấu
tranh cho chủ nghĩa xã hội.
Khả năng thực tế của một con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước phụ
thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể.
Trong thời đại của chúng ta, khi chủ nghĩa cộng sản không chỉ là học thuyết tiên
tiến nhất mà là một hệ thống xã hội thực sự tồn tại đã chứng tỏ tính ưu việt của nó
so với chủ nghĩa tư bản, thì điều kiện đặc biệt thuận lợi cho việc mở rộng ảnh
hưởng của các Đảng Cộng sản, vạch trần chủ nghĩa chống cộng một cách mạnh
mẽ, một khẩu hiệu mà theo đó giai cấp tư bản chủ nghĩa đấu tranh chống lại giai
cấp vô sản, và giành phần lớn quần chúng lao động cho những tư tưởng Cộng sản.
Chủ nghĩa chống cộng xuất hiện vào buổi bình minh của phong trào giai cấp công
nhân với tư cách là vũ khí tư tưởng chủ yếu của giai cấp tư bản trong cuộc đấu
tranh chống lại giai cấp vô sản và hệ tư tưởng mácxít. Khi cuộc đấu tranh giai cấp
ngày càng gia tăng, đặc biệt là với sự hình thành của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế
giới, chủ nghĩa chống cộng càng trở nên ác độc và tinh vi hơn. Chủ nghĩa chống
cộng, là biểu hiện của một cuộc khủng hoảng ý thức hệ sâu sắc và sự suy tàn tột độ
của hệ tư tưởng tư sản, viện đến những luận điệu xuyên tạc khủng khiếp của học
thuyết Mác và những lời vu khống thô bạo chống lại hệ thống xã hội xã hội chủ
nghĩa, trình bày các chính sách và mục tiêu của Cộng sản dưới ánh sáng sai lầm, và
tiếp tục phù thủy chống lại các lực lượng và tổ chức hòa bình dân chủ.
Để bảo vệ có hiệu quả lợi ích của nhân dân lao động, duy trì hòa bình và thực hiện
lý tưởng xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân, không thể thiếu cuộc đấu tranh
kiên quyết chống chủ nghĩa cộng sản - thứ vũ khí độc hại mà giai cấp tư sản sử
dụng để ngăn cản quần chúng khỏi chủ nghĩa xã hội. Cần phải cố gắng hơn nữa
trong việc giải thích những tư tưởng về chủ nghĩa xã hội cho quần chúng, giáo dục
nhân dân lao động tinh thần cách mạng, phát triển ý thức cách mạng của họ và
chứng tỏ cho toàn thể nhân dân lao động thấy tính ưu việt của xã hội xã hội chủ
nghĩa bằng cách tham khảo kinh nghiệm của các nước. của hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới, thể hiện dưới dạng cụ thể những lợi ích mà chủ nghĩa xã hội thực sự
sẽ mang lại cho công nhân, nông dân và các bộ phận dân cư khác ở mỗi nước.
Chủ nghĩa cộng sản đảm bảo cho người dân tự do khỏi sợ hãi chiến tranh; hòa bình
lâu dài, thoát khỏi áp bức và bóc lột của đế quốc, khỏi thất nghiệp và nghèo
đói; phúc lợi chung và mức sống cao; tự do khỏi lo sợ khủng hoảng kinh tế; sự
phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất vì lợi ích của toàn xã hội; tự do khỏi
sự chuyên chế của túi tiền đối với cá nhân; sự phát triển toàn diện về tinh thần của
con người; sự phát triển đầy đủ nhất của tài năng; tiến bộ khoa học và văn hóa của
xã hội không giới hạn. Tất cả các thành phần dân cư, ngoại trừ một số ít người bóc
lột, đều đứng lên hưởng lợi từ chiến thắng của hệ thống xã hội mới, và điều này
phải được mang về cho hàng triệu người ở các nước tư bản.
 

VI
Phong trào Cộng sản thế giới đã trở thành lực lượng chính trị có ảnh hưởng lớn
nhất trong thời đại chúng ta, một nhân tố quan trọng nhất trong tiến bộ xã hội. Khi
đấu tranh kiên cường chống phản động đế quốc, vì lợi ích của giai cấp công nhân
và toàn thể nhân dân lao động, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội, phong trào Cộng sản đang tiến bộ vững chắc, ngày càng được củng cố và
rèn luyện.
Hiện đã có các Đảng Cộng sản đang hoạt động tại 87 quốc gia trên thế giới. Tổng
số thành viên của họ vượt quá 36.000.000. Đây là tín hiệu thắng lợi của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin và là thành tựu to lớn của giai cấp công nhân. Những người theo chủ
nghĩa Mác cùng chí hướng đang tập hợp tại các quốc gia đã rũ bỏ chế độ chuyên
chế thuộc địa và thực hiện con đường phát triển độc lập. Các Đảng Cộng sản coi
nhiệm vụ quốc tế của mình là thúc đẩy tình đoàn kết hữu nghị giữa giai cấp công
nhân các nước và phong trào giai cấp công nhân các nước đã giành được tự do
trong cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa đế quốc.
Sự lớn mạnh của các Đảng Cộng sản và sự củng cố tổ chức của chúng, những
thắng lợi của các Đảng Cộng sản ở một số nước trong cuộc đấu tranh chống lại
những lệch lạc, xóa bỏ những hậu quả tai hại của chủ nghĩa sùng bái cá nhân, ảnh
hưởng ngày càng lớn của phong trào cộng sản thế giới mở ra những triển vọng
mới cho hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà các Đảng Cộng sản phải đối mặt.
Các Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin coi đây là quy luật bất khả xâm phạm trong
hoạt động của mình, kiên định thực hiện các chuẩn mực của Chủ nghĩa Lê-nin về
sinh hoạt Đảng, tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ; họ cho rằng phải coi trọng
sự đoàn kết trong Đảng như quả táo trước mắt, tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc
dân chủ trong Đảng và tập thể lãnh đạo, vì họ coi trọng các nguyên tắc tổ chức của
chủ nghĩa Lê-nin, coi trọng vai trò của Đảng lãnh đạo. cơ quan sinh hoạt của Đảng,
làm việc không mệt mỏi vì sự gắn bó bền chặt với đảng viên và với đông đảo quần
chúng nhân dân lao động, không để cho tệ nạn sùng bái nhân cách làm xiềng xích
tư tưởng, sáng kiến của người cộng sản, được phát huy mạnh mẽ. hoạt động của
những người Cộng sản, và để khuyến khích phê bình và tự phê bình trong hàng
ngũ của họ.
Các Đảng Cộng sản đã đánh bại về mặt ý thức hệ những người theo chủ nghĩa xét
lại trong hàng ngũ của họ, những người đã tìm cách chệch hướng họ khỏi con
đường chủ nghĩa Mác-Lê-nin. Mỗi Đảng Cộng sản và phong trào Cộng sản quốc tế
nói chung vẫn ngày càng vững mạnh hơn về mặt tư tưởng và tổ chức, trong cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội cánh hữu.
Các Đảng Cộng sản đã nhất trí lên án chủ nghĩa cơ hội quốc tế đa dạng của Nam
Tư, một loạt các "lý thuyết" xét lại hiện đại ở dạng tập trung. Sau khi phản bội chủ
nghĩa Mác-Lênin, mà họ cho là lỗi thời, các nhà lãnh đạo của Liên đoàn những
người cộng sản Nam Tư đã phản đối chương trình xét lại chủ nghĩa chống Lê-nin
của họ với Tuyên ngôn năm 1957; họ thiết lập LCY chống lại toàn bộ phong trào
Cộng sản quốc tế, cắt đứt đất nước của họ khỏi phe xã hội chủ nghĩa, khiến nước
này phụ thuộc vào cái gọi là "viện trợ" từ Mỹ và các đế quốc khác, và do đó khiến
người dân Nam Tư có nguy cơ mất đi người cách mạng. thành quả đạt được thông
qua một cuộc đấu tranh anh dũng. Những người theo chủ nghĩa xét lại Nam Tư tiến
hành công cuộc lật đổ chống lại phe xã hội chủ nghĩa và phong trào Cộng sản thế
giới. Với lý do là một chính sách ngoài khối, họ tham gia vào các hoạt động làm
phương hại đến sự đoàn kết của tất cả các lực lượng và các quốc gia yêu chuộng
hòa bình. Tiếp xúc nhiều hơn nữa các nhà lãnh đạo của những người theo chủ
nghĩa xét lại Nam Tư và đấu tranh tích cực để bảo vệ phong trào Cộng sản và
phong trào giai cấp công nhân khỏi những tư tưởng chống chủ nghĩa Lê-nin của
những người theo chủ nghĩa xét lại Nam Tư, vẫn là một nhiệm vụ thiết yếu của các
Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lê-nin.
Thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân và toàn bộ quá trình phát triển của xã
hội đã nêu lên một bằng chứng mới rực rỡ về sức mạnh và sức sống vĩ đại toàn
thắng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đồng thời bác bỏ triệt để mọi "lý thuyết" xét lại
hiện đại.
Sự phát triển hơn nữa của phong trào Cộng sản và giai cấp công nhân, như đã nêu
trong Tuyên bố Mátxcơva năm 1957, tiếp tục cuộc đấu tranh kiên quyết trên hai
mặt trận - chống lại chủ nghĩa xét lại, vẫn là mối nguy hiểm chính và chống lại chủ
nghĩa giáo điều và bè phái.
Chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội cánh hữu, phản ánh hệ tư tưởng tư sản về lý
luận và thực tiễn, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, bôi nhọ bản chất cách mạng
của nó, làm tê liệt ý chí cách mạng của giai cấp công nhân, tước vũ khí và sa thải
nhân dân, quần chúng nhân dân lao động. , trong cuộc đấu tranh chống lại sự áp
bức của bọn đế quốc và những kẻ bóc lột, vì hòa bình, dân chủ và giải phóng dân
tộc, vì thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa giáo điều và bè phái trong lý thuyết và thực tiễn cũng có thể trở thành
mối nguy hiểm chính trong một số giai đoạn phát triển của các đảng phái riêng lẻ,
trừ khi được đấu tranh không ngừng. Chúng cướp đi khả năng phát triển chủ nghĩa
Mác - Lê-nin của các đảng phái cách mạng thông qua phân tích khoa học và vận
dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể; chúng cô lập những người Cộng sản khỏi quần
chúng rộng rãi của nhân dân lao động, đẩy họ vào sự kỳ vọng thụ động hoặc những
hành động cánh tả, phiêu lưu trong cuộc đấu tranh cách mạng, ngăn cản họ dự tính
kịp thời và đúng đắn về tình hình đang thay đổi và kinh nghiệm mới, sử dụng mọi
cơ hội mang lại về thắng lợi của giai cấp công nhân và mọi lực lượng dân chủ
trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, phản động và nguy cơ chiến tranh, và qua đó
ngăn cản các dân tộc giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh chính nghĩa của
mình.
Vào thời điểm mà phản động của chủ nghĩa đế quốc đang hợp lực để chống lại chủ
nghĩa cộng sản, thì việc củng cố mạnh mẽ phong trào Cộng sản thế giới là điều đặc
biệt cấp bách. Sự đoàn kết và đoàn kết nhân đôi sức mạnh của phong trào chúng ta
và là bảo đảm đáng tin cậy rằng sự nghiệp vĩ đại của chủ nghĩa cộng sản sẽ đạt
được thắng lợi và mọi cuộc tấn công của kẻ thù sẽ bị đẩy lùi một cách có hiệu quả.
Những người cộng sản trên toàn thế giới đoàn kết với nhau bằng học thuyết vĩ đại
của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và bằng một cuộc đấu tranh chung để thực hiện chủ
nghĩa đó. Lợi ích của phong trào Cộng sản đòi hỏi mọi Đảng Cộng sản đoàn kết
tuân thủ các ước tính và kết luận liên quan đến nhiệm vụ chung trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc, vì hòa bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, do các
Đảng huynh đệ cùng đạt được tại các cuộc họp của họ.
Lợi ích của cuộc đấu tranh vì sự nghiệp của giai cấp công nhân đòi hỏi sự đoàn kết
chặt chẽ hơn nữa của hàng ngũ các Đảng Cộng sản và của các đội quân vĩ đại của
những người Cộng sản của tất cả các nước; họ đòi hỏi ở họ sự thống nhất giữa ý
chí và hành động. Nhiệm vụ quốc tế tối cao của mọi Đảng theo chủ nghĩa Mác -
Lê-nin là liên tục hoạt động vì sự đoàn kết hơn nữa trong phong trào Cộng sản thế
giới.
Kiên quyết bảo vệ sự đoàn kết của phong trào Cộng sản thế giới theo nguyên lý
của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, đồng thời ngăn chặn mọi
hành động phá hoại sự đoàn kết đó là điều kiện cần thiết để thắng lợi trong cuộc
đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình. , thực hiện thắng lợi các nhiệm
vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản. Vi phạm những nguyên tắc này sẽ làm suy yếu sức mạnh của chủ
nghĩa cộng sản.
Tất cả các Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin đều độc lập và có quyền bình
đẳng; họ định hình chính sách của mình phù hợp với điều kiện cụ thể của nước
mình và phù hợp với các nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, và hỗ trợ lẫn
nhau. Sự thành công của sự nghiệp giai cấp công nhân ở bất kỳ quốc gia nào cũng
không thể tưởng tượng được nếu không có sự đoàn kết quốc tế của tất cả các đảng
theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Đảng nào cũng phải chịu trách nhiệm trước giai cấp
công nhân, trước nhân dân lao động của nước mình, trước giai cấp công nhân quốc
tế và phong trào cộng sản nói chung.
Các Đảng Cộng sản và Công nhân tổ chức các cuộc họp bất cứ khi nào cần thiết để
thảo luận các vấn đề cấp bách, trao đổi kinh nghiệm, làm quen với quan điểm và
lập trường của nhau, đưa ra quan điểm chung thông qua tham vấn và phối hợp
hành động chung trong cuộc đấu tranh vì các mục tiêu chung.
Bất cứ khi nào một Bên muốn làm rõ các câu hỏi liên quan đến các hoạt động của
một Đảng anh em khác, sự lãnh đạo của nó tiếp cận với sự lãnh đạo của Đảng có
liên quan; nếu cần, họ tổ chức các cuộc họp và tham vấn.
Kinh nghiệm và kết quả của các cuộc họp của đại diện các Đảng Cộng sản được tổ
chức trong những năm gần đây, đặc biệt là kết quả của hai cuộc họp lớn - vào
tháng 11 năm 1957 và Cuộc họp này - cho thấy rằng trong điều kiện hiện nay, các
cuộc họp như vậy là một hình thức hiệu quả trao đổi quan điểm, kinh nghiệm, làm
giàu lý luận Mác - Lê-nin bằng nỗ lực của tập thể và xây dựng thái độ chung trong
cuộc đấu tranh vì mục tiêu chung.
Các Đảng Cộng sản và Công nhân nhất trí tuyên bố rằng Đảng Cộng sản Liên Xô
đã và vẫn là đội tiên phong được công nhận rộng rãi của phong trào Cộng sản thế
giới, là đội ngũ giàu kinh nghiệm và vững chắc nhất của phong trào Cộng sản quốc
tế. Những kinh nghiệm mà CPSU đã đạt được trong cuộc đấu tranh giành thắng lợi
của giai cấp công nhân, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa
cộng sản toàn diện, có ý nghĩa cơ bản đối với toàn bộ phong trào Cộng sản thế
giới. Tấm gương của CPSU và tình đoàn kết huynh đệ của nó đã truyền cảm hứng
cho tất cả các Đảng Cộng sản trong cuộc đấu tranh vì hòa bình và chủ nghĩa xã hội,
và đại diện cho các nguyên tắc cách mạng của chủ nghĩa quốc tế vô sản được áp
dụng trong thực tế. Các quyết định lịch sử của Đại hội 20 của CPSU
Tất cả các Đảng Cộng sản và Công nhân đều góp phần xây dựng lý luận vĩ đại của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Sự giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong quan hệ giữa tất cả các
Đảng anh em theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin là thể hiện những nguyên lý cách mạng
của chủ nghĩa quốc tế vô sản được vận dụng vào thực tiễn.
Các vấn đề tư tưởng ngày nay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Giai cấp bóc lột cố
gắng chống lại những thành tựu của chủ nghĩa xã hội bằng cách gây áp lực ý thức
hệ ngày càng lớn đối với quần chúng khi họ tìm cách giữ họ trong sự ràng buộc về
tinh thần với hệ tư tưởng tư sản. Những người cộng sản coi nhiệm vụ của họ là
phát động một cuộc tấn công kiên quyết trên mặt trận tư tưởng, nhằm giải phóng
quần chúng khỏi sự trói buộc về tinh thần của mọi loại và hình thức tư tưởng tư
sản, kể cả ảnh hưởng ác liệt của chủ nghĩa cải lương, để phổ biến quần chúng tiến
bộ. tư tưởng tiến bộ xã hội, tư tưởng tự do dân chủ, tư tưởng chủ nghĩa xã hội khoa
học.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy những tồn tại của chủ nghĩa tư bản trong tâm trí con
người vẫn tồn tại trong một thời gian dài ngay cả sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa
được thiết lập. Điều này đòi hỏi Đảng phải làm việc sâu rộng trong việc giáo dục
cộng sản cho quần chúng và đào tạo tốt hơn chủ nghĩa Mác - Lê-nin và rèn luyện
cán bộ của Đảng và chính quyền.
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là học thuyết cách mạng vĩ đại không thể thiếu, là kim chỉ
nam của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới trong mọi giai đoạn
của cuộc chiến vĩ đại vì hòa bình, tự do và cuộc sống tốt đẹp hơn, xây dựng chủ
nghĩa cộng sản công bằng nhất. Sức mạnh cách mạng, sáng tạo tuyệt vời của nó
nằm ở mối liên kết không thể phá vỡ với cuộc sống, ở sự liên tục làm giàu thông
qua phân tích toàn diện về thực tế. Trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê-nin, cộng đồng
các nước xã hội chủ nghĩa và các phong trào cộng sản quốc tế, giai cấp công nhân
và giải phóng dân tộc đã đạt được những thành công lịch sử to lớn, và chỉ trên cơ
sở đó mới thực hiện được mọi nhiệm vụ mà các Đảng Cộng sản và Công nhân phải
đối mặt. hoàn thành một cách hiệu quả.
Hội nghị coi việc củng cố hơn nữa các Đảng Cộng sản trên cơ sở chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, chủ nghĩa quốc tế vô sản, là điều kiện cơ bản để thống nhất các lực lượng
giai cấp công nhân, dân chủ và tiến bộ, là bảo đảm giành thắng lợi mới trong cuộc
đấu tranh vĩ đại. do phong trào cộng sản và giai cấp công nhân thế giới tiến hành
vì tương lai hạnh phúc của nhân loại, vì thắng lợi của sự nghiệp hoà bình và chủ
nghĩa xã hội.
___________________________

[1] New York Times , ngày 7 tháng 12 năm 1960 trang 14-17. [ Ghi


chú của người phiên dịch MIA. ]

[2] Các vấn đề chính trị , tháng 1 năm 1961. [ Ghi chú của người
phiên dịch MIA. ]

[3] Trong tài liệu được phiên âm không có dấu hiệu cho biết Phần II
sẽ kết thúc và Phần III bắt đầu. Trách nhiệm về sự thiếu sót dường
như thuộc về các biên tập viên của tạp chí Các vấn đề chính trị , vì
nó cũng xuất hiện trong một bản in khác được trích từ nguồn đó,
trong các trang từ 76 đến 97 của bản tuyên ngôn của các Đảng Cộng
sản và Công nhân được thông qua từ tháng 11 đến tháng 12 năm
1960; giải thích và phân tích. Điều trần trước Tiểu ban Điều tra
việc Quản lý Đạo luật An ninh Nội bộ và Các Luật An ninh Nội bộ
khác của Ủy ban Tư pháp, Thượng viện Hoa Kỳ, Quốc hội 87, phiên
họp đầu tiên. Lời khai của Jay Lovestone, ngày 26 tháng 1, ngày 2
tháng 2 năm 1961. Washington: Văn phòng In ấn của Chính phủ
Hoa Kỳ, năm 1961. Một bản phiên âm được xuất bản trongĐánh giá
Bắc Kinh Vol. 3, No.49/50 (ngày 13 tháng 12 năm 1960) đặt phần
bắt đầu của Phần III tại đây. [ Ghi chú của người phiên dịch MIA. ]

Biên bản của Romania và Séc về Cuộc họp của Năm Đông Âu
Lãnh đạo các Bang ở Budapest (có Thông cáo cuối cùng đính kèm),
1-4 tháng 1 năm 1957
Ba tài liệu sau đây đề cập đến một cuộc họp thượng đỉnh cực kỳ quan trọng của
Hiệp ước Warsaw đã được kêu gọi thông báo rất ngắn để giải quyết chủ yếu về
tình hình nội bộ của Hungary. Mặc dù thực tế là ban đầu nó được HSWP đề xuất
(xem Tài liệu số 106), và sau đó
được Matxcơva khẳng định (vì những lý do khác nhau), chưa có biên bản nào của
Hungary hoặc Liên Xô thành lập. Tuy nhiên, bản ghi nhớ tiếng Tiệp Khắc và bản
tóm tắt tiếng Rumani được trình bày dưới đây làm cho nó có thể tái tạo lại hầu hết
các vấn đề đã được thảo luận. (Bản ghi nhớ sau này được viết vào năm 1960 trên
cơ sở một tài liệu Rumani đương đại.) Như đã chỉ ra ở trên, Lý do chính của Điện
Kremlin để triệu tập hội nghị thượng đỉnh là để thảo luận về một cuộc họp trước
công chúng tuyên bố của chính phủ Kádár, khiến Mátxcơva lo ngại vì nó chứa một
điều khoản điều đó sẽ cho phép các đảng không cộng sản có một vai trò, mặc dù
rất hạn chế, ở Hungary. Kádár đã gửi một phiên bản dự thảo của đề xuất tới
Mátxcơva để phê duyệt, nhưng không rõ ràng về đoạn quan trọng này đã trở thành
một vấn đề chính trị có tầm quan trọng nhất định đối với đảng Hungary (Xem Tài
liệu số 107). Như các tài liệu nội bộ này chỉ ra, Liên Xô và
các đồng nghiệp tại cuộc họp đã khăng khăng rằng điều khoản được thực hiện
trước khi tuyên bố là
dự kiến sẽ được công bố vào ngày 5-6 tháng Giêng. Thật thú vị, thông cáo cuối
cùng không đề cập đến
vấn đề đa đảng. Một chủ đề chính khác được thảo luận tại phiên họp - và lý do
Kádár's
yêu cầu ban đầu rằng nó được triệu tập - là số phận của nhóm Imre Nagy. Trong
khi ngay cả những
tài liệu không tiết lộ vị trí thực tế của những người tham gia, rõ ràng là
cuộc họp đưa ra các quyết định quan trọng, mở đường cho việc xét xử và cuối
cùng là thực hiện
các cựu thủ tướng. Một trong những điểm quan trọng nhất về cuộc họp này là nó
có thể
đây là lần đầu tiên các thành viên của Hiệp ước Warsaw 120 cùng can thiệp và
trực tiếp
vào chính trị nội bộ của một quốc gia thành viên khác. Bằng cách này, nó nhớ lại
những nỗ lực sau này của
Hiệp ước Warsaw - không chỉ riêng Liên Xô - chấm dứt Mùa xuân Praha ở
Tiệp Khắc năm 1968.
______________________________
[Bản ghi nhớ tiếng Rumani]
Thành phần tham dự Hội nghị giữa các nước Liên Xô, Bulgaria, Hungary và
Romania.121
I. Buổi học đầu tiên:
1. Thông tin [được cung cấp] bởi đồng chí Kádár:
- Tình hình của bữa tiệc.
120 Ba Lan, CHDC Đức và Albania không được mời tham dự phiên họp, ít nhất
một phần vì lý do đặc biệt
tính chất của cuộc họp. Trong trường hợp của Ba Lan, cũng có sự nghi ngờ chính
trị nghiêm trọng đối với Gomułka
chế độ và mục đích chung là củng cố đường lối cộng sản “chính thống”.
121 Mặc dù bị loại khỏi danh sách này, các đại diện từ Tiệp Khắc cũng tham gia
cuộc họp.
- ca. 100.000 người đã được tuyển dụng.
- Đảng có các tổ chức trong ca. 42 phần trăm số làng.
- Các nhà hoạt động đảng cấp dưới đồng nhất và tích cực hơn liên quan đến các sự
kiện và Nagy.
- Không đoàn kết nhất trí trong Ban Chấp hành Trung ương - 3-4 Ủy viên có quan
điểm không mong muốn: 122
a) Không có sự hợp nhất nào nếu không có Nagy
b) Chính phủ phải được mở rộng
c) Kẻ thù chính là Rákosi
Họ đang nói về chủ nghĩa Rákosism và chủ nghĩa Stalin
d) Họ được hỗ trợ bởi Nam Tư.
- 3-4 nói trên đang gấp rút mở rộng chính phủ và thúc đẩy mới
chính phủ để đưa ra một tuyên bố. Ý kiến này cũng được chia sẻ bởi những người
khác từ bên ngoài.
- Đồng chí Kádár cho rằng chính phủ ở dạng hiện tại nên đưa ra một tuyên bố.
- [Chính phủ] nên triệu tập quốc hội.
- Các đại diện nên được đồng lựa chọn.
- Đoàn chủ tịch cần được kiện toàn. 123
2. Vấn đề về sự thành lập của hai đảng nữa được đặt ra: Đảng Quốc dân và Đảng
Đảng Công nông độc lập.124
- Sự hình thành của Mặt trận Dân tộc Yêu nước,125 người mà [Đảng] có thể đi
cùng nhau
các cuộc bầu cử. (Một số người muốn có cuộc bầu cử vào tháng Năm năm nay.)
- Thêm 20-25 phần trăm ứng cử viên sẽ được đề cử cho các cuộc bầu cử.
- Việc thành lập Liên minh Nông dân được đề xuất ở Trung ương; cái này đã bị từ
chối
bằng cách nói rằng đảng chỉ có tổ chức ở 42 phần trăm số làng. 126
- Đã có những nỗ lực để kích hoạt các tổ chức công đoàn.
- Các nhà dân chủ xã hội sẽ không công khai lập trường chống lại chính phủ,
nhưng họ có mặt
trong công đoàn để tập hợp bạn bè.
- Họ [các ủy viên Bộ Chính trị] đề xuất tổ chức các hội đồng công nhân theo
hướng chuyên nghiệp hoặc
ngành nghề.
3. Họ sẽ đề xuất khôi phục hoạt động hiến pháp [sic.] Theo nghĩa thiết lập
tòa án của pháp luật.
- Không có quan điểm chung nào liên quan đến cuộc chiến chống phản cách mạng.
- Họ không thực hiện các biện pháp chắc chắn; họ muốn nhất trí (Münnich) 127
- Một số người tin rằng mối nguy hiểm chính là Rákosi và "Chủ nghĩa Rákos"
4. Một số vấn đề kinh tế:
122 Năm quan chức trong giới lãnh đạo Hungary vào thời điểm này đại diện cho
một đường lối chính sách tự do hơn: József
Köböl, György Aczél, Lajos Fehér, Antal Gyenes và Sándor Nógrádi.
123 Điều này có thể đề cập đến Ban chấp hành lâm thời HSWP, tương đương với
Ủy ban.
124 Tên chính xác của bên được nhắc đến là: Független Kisgazdapárt (Các tiểu
chủ độc lập '
Bữa tiệc).
125 Chính xác hơn, Mặt trận Nhân dân Yêu nước.
126 Ủy ban Trung ương lâm thời đã giải quyết vấn đề này tại phiên họp ngày 28
tháng 12 của nó.
127 Nhận xét này có lẽ đã được thêm vào bởi Ferenc Münnich.

Trang 3
- Sự thiếu hụt hàng hóa trong Nguồn cung công cộng (vào tháng 9 họ đã có hàng
với giá trị 13 tỷ, ngày nay họ chỉ có giá trị 3 tỷ và hơn nữa 8 tỷ là
cần thiết).
- Trong các cuộc đình công, họ đã trả thêm 30 phần trăm lương.
- Họ có khoản nợ 200 tỷ đô la với phương Tây. 128
- Họ đề xuất xem xét lại các đơn đặt hàng vũ khí.
- Có nguy cơ lạm phát và thất nghiệp.
II. Phiên thứ hai . (thảo luận liên quan đến thông cáo chương trình) 129
- Có nhiều cải tiến so với bản thảo trước.
- Nhận xét và đề xuất của chúng tôi.
a) Cần có một phần mở đầu với phân tích các hoạt động trong quá khứ của Rákosi

Nagy; các quan điểm và nhiệm vụ phải được vạch ra rõ ràng.
b) Không rõ họ muốn hình thức tổ chức nào và tại sao cần phải
tổ chức Hội đồng người lao động theo chuyên môn, nghiệp vụ.
c) Quan điểm cho rằng văn hóa phải là quốc gia về hình thức và nội dung là không
đúng.
d) Tự chủ đại học:
- Vấn đề nông dân
- Vấn đề của những người sản xuất và buôn bán nhỏ.
- Vấn đề của [hệ thống] đa đảng
- Nhóm Nagy.
5. Ý kiến của các đại biểu còn lại.
6. - Tham vấn ngoài kỳ họp.
- Thử nghiệm của [Mihály] Farkas, Maléter, [János] Szabó, Dudás.
- Câu hỏi về sự trở lại của nhóm Nagy.
Sự kết luận:
- Đánh giá của đồng chí Hung-ga-ri về hội nghị.
- Sự hoàn thiện của tờ khai được đề xuất.
- Vụ án Nagy sẽ được điều tra.130
- Họ sẽ cử một đại biểu đến nói chuyện với nhóm Nagy và họ sẽ trả lời câu hỏi của
chúng tôi
chính phủ. 131
128 Đây rõ ràng là một lỗi; Nợ của Hungary đối với các nước phương Tây không
bao giờ đạt đến con số này. Họ
có lẽ có nghĩa là để nói 200 triệu.
129 Điều này đề cập đến cuộc thảo luận chi tiết về tuyên bố của chính phủ
Hungary được xuất bản trong
Népszabadság vào ngày 6 tháng 1 năm 1957.
130 Xem cách điểm này xuất hiện trong tài liệu Tiệp Khắc: "Trách nhiệm và giải
trình
của Imre Nagy và những người khác trong các sự kiện ở Hungary, và hậu quả pháp
lý của chúng. "Kể từ khi người Hungary
các nguồn hiện có không đề cập đến bất kỳ kế hoạch nào trước đây để đưa Nagy và
đồng bọn của anh ta vào
thử nghiệm, có vẻ như rất có thể lãnh đạo Hungary đã đưa ra quyết định quan trọng
này trong hội nghị thượng đỉnh,
có thể là do áp lực của các đảng cộng sản khác.
131 Vào tháng 1 năm 1957, Kádár cử Gyula Kállai đến Bucharest với kế hoạch
chia rẽ nhóm Nagy và
hơn bất cứ điều gì khác, khiến họ thực hành tự phê bình. Trong khi ở Bucharest,
Kállai cũng
tham khảo ý kiến của các nhà lãnh đạo Romania và Liên Xô.

Trang 4
- Ý kiến của họ về Szántó và Lukács.
- Những cuộc nói chuyện của các đồng chí Xô-viết với ban lãnh đạo Đảng Hung-
ga-ri.132
8. Các vấn đề khác:
- Sự hợp tác giữa Liên Xô với các nước xã hội chủ nghĩa.
- Những câu hỏi liên quan đến Stalin.
- Các đồng chí Bun-ga-ri đề nghị tổ chức hội nghị giữa hai chính phủ và giải phóng
một tuyên bố chung. 133
[ Nguồn: Archiva Birolului Politic al CC al PMR, Nr. 2/56, 1956. Tài liệu do
Mihai thu được
Retegan. Bản dịch của József Litkei và István Török. ]
*
*
*
[Biên bản ghi nhớ của Tiệp Khắc 134]
Được sự thúc giục của đồng chí Khrushchev, một cuộc họp của các phái đoàn đảng
đã được tổ chức tại Budapest,
từ ngày 1 đến ngày 3 tháng 1 năm 1957.
Cde. Kádár đã yêu cầu CPSU CC tư vấn về một số vấn đề trong tương lai
phát triển ở Hungary.
Mátxcơva và Bucharest đều được đề nghị tổ chức cuộc họp. Theo đề xuất của
các đồng chí Liên Xô, cuộc họp được tổ chức tại Budapest với đại diện của những
người sau
các bữa tiệc:
Bulgaria, Romania, Liên Xô, Tiệp Khắc và Hungary.
Đại biểu có mặt: các đồng chí Zhivkov, Damyanov, Dej, Borilă, Moghioroş,
Khrushchev,
Malenkov, Novotný, Siroký, Kádár và Münnich.
Chương trình nghị sự:
1.
Kádár cung cấp thông tin về tình hình ở Hungary.
2.
Các câu hỏi và vấn đề liên quan đến cuộc bầu cử (prohlaseni) của chính phủ
Cộng hòa nhân dân Hungary.135
132 Không có tài liệu nào về các cuộc đàm phán song phương Hungary-Liên Xô
trong hội nghị thượng đỉnh vẫn chưa được tìm thấy.
133 Hai chính phủ có liên quan rất có thể là Bulgaria và Liên Xô, đã thực sự phát
hành
một tuyên bố chung vào ngày 20 tháng 2 năm 1957.
134 Mặc dù bản ghi nhớ của Tiệp Khắc chỉ ra rằng các cuộc đàm phán đã diễn ra
từ ngày 1 tháng 1 đến
3, thông cáo chung được ban hành sau cuộc họp liệt kê các ngày là ngày 1-4 tháng
Giêng.
135 Điều này có lẽ đề cập đến tính hợp pháp không chắc chắn của việc thành lập
chính phủ Kádár, đã diễn ra
tại Moscow vào ngày 3 tháng 11, nằm ngoài quy định của hiến pháp. Mặc dù tủ
mới đã
tuyên thệ nhậm chức vào ngày 7 tháng 11 trước István Dobi, chủ tịch Hội đồng
Tổng thống, Phủ Tổng thống
Hội đồng với tư cách là một cơ quan không bao giờ thảo luận vấn đề này
trước. Tin tức mà Hội đồng Tổng thống đã

Trang 5
3.
Trách nhiệm và trách nhiệm giải trình của Imre Nagy và những người khác trong
các sự kiện ở Hungary,
và hậu quả pháp lý của chúng. (zákonné závery)
4.
Một số thành viên của nhóm Nagy trở về Hungary. (Szántó-Lukács) 136
5.
Thông tin của các đồng chí Liên Xô về Nam Tư:
Một.
câu trả lời cho bức thư 137 của Tito
b.
vấn đề viện trợ của Liên Xô
C.
Ảnh hưởng của Nam Tư trong các sự kiện của Hungary.
6.
Thông tin của Liên Xô về phiên họp toàn thể của ĐCSTQ vào tháng 12 năm 1956.
7.
Thông tin về các cuộc đàm phán với Ba Lan.
[Ghi chú viết tay, khó đọc, có thể là của Siroký].
[tên của Zoltán Szántó:]
"Dopis - ninal?"
Thư kí của giám đốc
(liên quan đến điểm thứ 2 của chương trình)
về việc triệu tập parl [iament]
hành chính nhà nước giảm với 35% 138
về hội đồng công nhân
Đảng và mặt trận nhân dân
3 bên - của chúng tôi
bữa tiệc của tiểu chủ
bữa tiệc christian dem [ocratic] 139
cải cách - cho phép công nghiệp quy mô nhỏ, vấn đề nông dân
quyền tự chủ của các trường đại học
tội ác của Rákosi và những người khác
tội ác của nhóm Nagy
chữ ký: S. [Široký?]
bãi nhiệm chính phủ Nagy và với Quyết định số 28, bổ nhiệm chính phủ Kádár
thay thế
đã không xuất hiện trên Bản tin tiếng Hungary cho đến ngày 12 tháng 11. Từ quan
điểm về tính hợp pháp của
Chính phủ Cách mạng Công nhân và Nông dân Hungary, Thủ tướng Nagy và Nhà
nước
Do đó, việc từ chức chính thức của Bộ trưởng Losonczy sẽ rất quan trọng.
136 György Lukács và Zoltán Szántó là một phần của nhóm xin tị nạn tại Đại sứ
quán Nam Tư.
Họ bị cưỡng bức đưa đến Romania, từ đó Lukács được phép quay trở lại Hungary
vào tháng 4 năm 1957
và Szántó vào năm 1958.
137 Điều này có lẽ nhiều nhất đề cập đến lá thư của Tito gửi Khrushchev vào ngày
3 tháng 12 năm 1956, mà nhà lãnh đạo Liên Xô
chỉ được trả lời vào ngày 10 tháng 1 năm 1957. Xem Tài liệu số 103.
138 Vào tháng 12 năm 1956, chính phủ Kádár đã thông qua một sắc lệnh loại bỏ
hoặc sáp nhập một số bộ
và các cơ quan có thẩm quyền trên toàn quốc. Nó cũng đưa ra quyết định giảm một
bộ máy nhà nước
thứ ba trong năm 1957.
139 Trong tất cả các khả năng, Kádár ở đây đề cập đến Đảng Nông dân Quốc gia,
xuất hiện trong văn bản là
thứ ba sau HSWP và bên Tiểu chủ. Đảng Dân chủ Cơ đốc giáo thậm chí còn không
thành viên của liên minh quản lý từ năm 1945 đến năm 1948, và vào tháng 12 năm
1956 và khi bắt đầu
năm 1957 nó hoàn toàn không được chính phủ Kádár coi là đối tác đàm phán.

Trang 6
[ Nguồn: AÚV KSČ, F. 16/07. Tài liệu do Tibor Hajdú có được. Dịch bởi Csaba
Farkas. ]
*
*
*
Thông cáo về Cuộc họp của Đại diện Chính phủ và Cộng sản
và các Đảng Công nhân của Bulgaria, Tiệp Khắc, Hungary, Romania và Liên

liên hiệp
Budapest, ngày 6 tháng 1 năm 1957.
Được sự mời của lãnh đạo Chính phủ Công nhân và Nông dân Cách mạng
Hungary
và Đảng Công nhân Xã hội Chủ nghĩa Hungary, các đồng chí Zhivkov và
Damyanov đại diện cho
Đảng Cộng sản Bungari và chính phủ Cộng hòa Nhân dân Bungari; Các đồng chí
Novotný và Široký đại diện cho Đảng Cộng sản Tiệp Khắc và chính phủ của
Cộng hòa Tiệp Khắc; Các đồng chí Gheorghiu-Dej, Moghioroş và Borilă đại diện
cho
Đảng Công nhân Romania và chính phủ Cộng hòa Nhân dân Romania; và
Các đồng chí Khrushchev và Malenkov đại diện cho Đảng Cộng sản Liên Xô và
Chính phủ Liên Xô đến Budapest vào ngày 1 tháng 1 năm 1957.
Từ ngày 1 đến ngày 4 tháng 1 năm nay, đại diện của các chính phủ và các bên của
các quốc gia nói trên đã tiến hành các cuộc đàm phán với sự tham dự của các đồng
chí Zhivkov và
Damyanov (Bulgaria), Các đồng chí Novotný và Široký (Tiệp Khắc), Các đồng chí
Kádár và
Münnich (Hungary), Các đồng chí Gheorghiu-Dej, Moghioroş và Borilă
(Romania) và các đồng chí
Khrushchev và Malenkov (Liên Xô).
Những người tham gia đã tiến hành các cuộc đàm phán thân thiện và đồng tình về
một số
và các vấn đề kinh tế cùng quan tâm cũng như các câu hỏi liên quan đến tình hình
của
các đảng phái và các vấn đề quốc tế hiện nay.
Mỗi người tham gia cuộc họp đều thông báo cho những người khác về tình hình
của họ
các quốc gia và các bên.
Những người tham gia bày tỏ sự hài lòng với thực tế là Bulgaria, Tiệp Khắc,
Romania và Liên Xô, cũng như tất cả các nước xã hội chủ nghĩa khác, đã đạt được
những thành tựu mới và
những thành công to lớn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản. Nền kinh tế Hungary đã thực hiện
tiến [sic] thành công trên con đường phát triển xã hội chủ nghĩa. Chính sự phát
triển này đã
bị cản trở bởi cuộc tấn công của lực lượng phản cách mạng. Hiện tại, sau khi đã
kìm nén
phản cách mạng, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của Cộng hòa Nhân dân Hungary đã
bắt đầu
đang phát triển trở lại và đang có dấu hiệu sung sức rõ rệt. Trong vài năm qua, các
quốc gia của
chế độ xã hội chủ nghĩa đã hoàn thành thắng lợi các kế hoạch kinh tế và đạt được
những kết quả mới trong
tăng cường phúc lợi cho người dân của họ; có dấu hiệu phát triển rõ ràng về văn
hóa, khoa học
Và công nghệ. Dưới ngọn cờ hào hùng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nhân dân các
nước này
đã củng cố hơn nữa sự đoàn kết của họ với các đảng cộng sản và công nhân cũng
như với
các chính phủ.
Các thành viên tham dự cuộc họp nhất trí kết luận rằng do những nỗ lực của
công nhân Hungary, với sự lãnh đạo của Công nhân Cách mạng Hungary và

Trang 7
Chính phủ Nông dân và với sự hỗ trợ của quân đội Liên Xô, những nỗ lực nhằm
loại bỏ
những thành tựu xã hội chủ nghĩa của nhân dân Hungary và hệ thống dân chủ nhân
dân của họ là
đã ngăn chặn thành công. Nguy cơ của việc thiết lập một chế độ độc tài phát xít ở
Hungary là
loại bỏ, và [nhân dân] ngăn chặn bọn đế quốc hung hãn và phản cách mạng
vòng tròn từ việc biến Hungary thành tâm bão của một cuộc chiến mới ở châu
Âu. Họ chắc chắn
phá tan bất kỳ nỗ lực nào của các giới đế quốc nhằm phá vỡ sự thống nhất của xã
hội chủ nghĩa
cắm trại.
Các đại biểu của các đảng cộng sản và công nhân và các chính phủ
tham gia cuộc họp đều bày tỏ sự hài lòng với việc bình thường hóa
Tình hình chính trị và đời sống kinh tế Hungary. Tất cả các lực lượng lành mạnh
và dân chủ của
đất nước, do giai cấp công nhân lãnh đạo, đang nỗ lực đoàn kết để ủng hộ người
Hungary
Chính phủ Cách mạng Công nhân và Nông dân và Đảng Công nhân Xã hội Chủ
nghĩa Hungary,
ủng hộ chính sách và đường lối kinh tế của chính phủ và đảng, đồng thời tích cực
và đường lối mạnh mẽ chống lại các phần tử phản dân, theo hướng dẫn của chủ
nghĩa đế quốc
tuyên truyền, kích động, gây rối trong nhân dân. Người Hungari
tầng lớp nông dân tiếp tục làm việc bình tĩnh, từ chối mọi nỗ lực để bị lừa bởi
khiêu khích của đế quốc và tuyên truyền phản cách mạng và đã đưa ra một
phản ứng đầy đủ ở các làng Hungary đối với những nỗ lực khôi phục hệ thống sở
hữu đất đai.
Những công nhân Hungary đã bị lừa dối bởi chủ nghĩa dân tộc chủ nghĩa, khiêu
khích và tà đạo
khẩu hiệu phản cách mạng ngày càng trở nên thuyết phục rằng họ đã
bị lừa, và họ nhận ra rằng đối với tất cả sự lừa dối này, đối với tất cả các hoạt động
phản cách mạng
[đất nước] bây giờ phải trả giá bằng máu của những người đàn ông tốt nhất, của
những người đã trở thành nạn nhân của
nỗi kinh hoàng của các băng nhóm phản cách mạng. Người dân lao động của
Hungary đang nhận ra nhiều hơn và
hơn thế nữa con đường đã chết mà các thế lực thù địch chống lại sự nghiệp của chủ
nghĩa xã hội đã chết như thế nào
và hệ thống xã hội chủ nghĩa muốn lãnh đạo họ.
Giai cấp công nhân Hungary, giai cấp nông dân và giới trí thức có thể đánh giá rất
tốt về
tình hình đất nước và các mục tiêu đặt ra cho nhân dân Hungary và cách mạng
Chính phủ Công nhân và Nông dân. Người lao động Hungary ngày càng hiểu
nhiều hơn
nâng cao mức sống và củng cố dân chủ nhân dân
hệ thống chỉ có thể được bảo hiểm bằng cách khôi phục lại tình hình kinh tế và sản
xuất bình thường, bằng cách
phát triển nền kinh tế đất nước, bằng cách nâng cao năng suất trong ngành công
nghiệp và
nông nghiệp, bằng cách giảm chi phí sản xuất và bằng cách tích lũy xã hội chủ
nghĩa.
Trong quá trình trao đổi ý kiến, các thành viên tham gia cuộc họp đã xác lập được
rằng
những người cộng sản Hungary đang bắt đầu tái tổ chức lực lượng của họ và sẵn
sàng thực hiện mọi
nỗ lực củng cố hệ thống dân chủ nhân dân và những thành tựu của chủ nghĩa xã
hội trong
Hungary và để phát triển hơn nữa quan hệ hữu nghị và vững chắc với tất cả các
nước xã hội chủ nghĩa
cắm trại.
Các đại diện của Bulgaria, Romania, Tiệp Khắc và Liên Xô có
bảo đảm cho các đồng chí Hungary rằng nhân dân của các quốc gia tương ứng của
họ sẽ cống hiến tất cả
hỗ trợ và giúp đỡ có thể cho Chính phủ của Công nhân và Nông dân Cách mạng
Hungary
và Đảng Công nhân Xã hội Chủ nghĩa Hungary để họ có thể củng cố chủ quyền và
an ninh của đất nước và nhà nước dân chủ nhân dân trước âm mưu của bọn đế
quốc
các lực lượng.
Những người tham gia cuộc họp đã trao đổi quan điểm của họ về thông báo của Xô
viết
chính phủ ban hành ngày 30 tháng 10 năm 1956, 140và đã bày tỏ niềm tin chắc
chắn rằng điều này
140 Xem tài liệu số 50.

Trang 8
tuyên bố của chính phủ Xô viết hoàn toàn phù hợp với lợi ích của các nước xã hội
chủ nghĩa
trong việc tăng cường các mối quan hệ hữu nghị của họ dựa trên sự tôn trọng các
lợi ích và quyền bình đẳng của
tất cả các dân tộc, và theo các nguyên tắc của chủ nghĩa Lênin về không can thiệp
và chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Đại diện của các nước tham gia đã xác lập rằng các mục tiêu
được ban hành trong tuyên bố đang được thực hiện trong mối quan hệ chung của
các nước xã hội chủ nghĩa,
đóng góp hơn nữa theo cách này vào sự thống nhất của phe xã hội chủ nghĩa, vào
sự thành công trong tương lai của những
các nước đang phát triển kinh tế và văn hóa của các nước xã hội chủ nghĩa, để
củng cố
mối quan hệ hữu nghị giữa nhân dân các nước này và việc mở rộng quan hệ lẫn
nhau
tương trợ anh em.
Sau khi thảo luận về các vấn đề hiện tại của tình hình quốc tế, các đại biểu của
cuộc họp đã được thiết lập mà tình hình quốc tế gần đây đã trở nên ngày càng
bẩn quá. Điều này phần lớn là do hoạt động của các giới hiếu chiến của các nước
phương Tây
có ý định biến thế giới trở lại tình trạng chiến tranh lạnh. Hành vi này được phản
ánh rõ ràng cả trong
sự xâm lược của Anh-Pháp-I-ta-li-a chống lại Ai Cập và trong các hoạt động của
giới đế quốc
Ở Hungary.
Lý do khác cho sự gia tăng căng thẳng quốc tế có thể được nhìn thấy trong các
hoạt động của
Hoa Kỳ, đã một lần nữa khởi động một sứ mệnh quy mô lớn để khuất phục các
bang
Trung Đông. Những nỗ lực thuộc địa hóa này được thể hiện trong cái gọi là
“Eisenhower-
Học thuyết Dulles ”. Một phần hữu cơ của “học thuyết” này là sự ủy quyền đặc
biệt cho chủ tịch của
Hoa Kỳ sử dụng các lực lượng vũ trang của Mỹ ở Trung Đông theo quyết định của
riêng mình. 141 Cái
sự can thiệp tích cực của tư bản độc quyền Mỹ và giới quân phiệt của nó vào các
vấn đề
của các quốc gia Trung Đông sẽ dẫn đến căng thẳng nghiêm trọng trong khu vực
mà gần đây đã trở thành
một nhà hát quân sự sau cuộc xâm lược Ai Cập.142
Trong tình huống này, tất cả mọi trách nhiệm đối với căng thẳng ở Trung Đông và
các
hậu quả thuộc về Hoa Kỳ. Lợi ích của các dân tộc Trung Đông và
đảm bảo hòa bình và ổn định trong khu vực đòi hỏi mọi nhà nước phải nỗ lực loại
bỏ
hậu quả của việc xâm lược Ai Cập, để ngăn chặn bất kỳ hình thức can thiệp nào từ
bên ngoài
vào công việc của các nước Trung Đông và để bảo đảm chủ quyền và độc lập
của những trạng thái này.
Các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, không ngừng bảo vệ sự nghiệp hoà bình giữa
các quốc gia, nỗ lực hết sức để thế giới không quay trở lại thời kỳ chiến tranh
lạnh. Những quốc gia
quyết tâm tận dụng sức mạnh và sức mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa để chống
lại bất
nỗ lực của các giới hiếu chiến nhằm gia tăng thêm căng thẳng quốc tế, mở rộng
cuộc chạy đua vũ trang
và để thổi bùng cơn sốt chiến tranh. Các quốc gia này tin chắc rằng các cơ hội để
cải thiện
quan hệ giữa các quốc gia và để đảm bảo an ninh thực sự cho các quốc gia hoàn
toàn không phải là
khai thác triệt để. Trong hoàn cảnh hiện tại, điều đặc biệt quan trọng là phải thực
hiện các bước để
giảm vũ khí trang bị của các bang khác nhau và cấm các loại vũ khí hủy diệt hàng
loạt như
hạt nhân và bom khinh khí. Việc thành lập một hệ thống an ninh chung của Châu
Âu
sẽ tương ứng với lợi ích của tất cả các quốc gia châu Âu và tất cả các quốc gia trên
thế giới.
141 "Học thuyết Eisenhower" được ban hành trong một thông điệp của tổng thống
trước Quốc hội vào ngày 5 tháng 1,
1957. Nó hứa hỗ trợ quân sự hoặc kinh tế cho các quốc gia ở Trung Đông đối mặt
với “Cộng sản
gây hấn, ”lưu ý rằng“ cần phải thực hiện bất kỳ sự thiếu hụt quyền lực nào trong
khu vực
tốt."
142 Israel, thông đồng với Anh và Pháp, xâm lược Bán đảo Sinai vào ngày 29
tháng 10; cai khac
hai nhà nước sau đó đã tấn công trực tiếp vào Ai Cập vào ngày 31 tháng 10.

Trang 9
Tất cả những người tham dự cuộc họp đều bày tỏ quyết tâm kiên quyết rằng xã hội
chủ nghĩa
các quốc gia sẽ đoàn kết các lực lượng hơn trước, bảo vệ sự thống nhất không thể
phá vỡ của họ và đưa ra một
phản ứng xứng đáng đối với bất kỳ nỗ lực nào nhằm xóa bỏ hoặc làm suy yếu phe
xã hội chủ nghĩa.
[ Nguồn : Népszabadság, ngày 6 tháng 1 năm 1957. Bản dịch của András Bocz. ]
Phần 13. Phong trào Cộng sản Quốc tế
 
1. Tình hình chung
 
Mặc dù đã có lời kêu gọi mạnh mẽ về sự đoàn kết của các lực lượng
chống đế quốc do các lực lượng cộng sản quốc tế do Liên Xô lãnh đạo
đưa ra tại Hội nghị quốc tế của các đảng cộng sản và công nhân vào
tháng 6 năm 1969, các hoạt động của họ vẫn ở mức thấp kể từ đó. Trong
tình hình hiện nay, thậm chí khó có thể tìm ra mẫu số chung lớn nhất về
hệ tư tưởng trong phong trào cộng sản quốc tế khi xét đến những yếu tố
như cuộc đối đầu Xô-Trung, không cho thấy triển vọng cải thiện các mối
quan hệ tư tưởng hoặc đảng phái, sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc. ở các
nước xã hội chủ nghĩa khác nhau và khuynh hướng của các đảng cộng
sản ở các nước thuộc phe tự do coi bầu cử như một phương tiện để lên
nắm quyền.
 
 
2. Đặc điểm của phong trào cộng sản quốc tế
 
(1) Tầm quan trọng gắn liền với các chính thể trong nước
 
Đặc điểm đầu tiên của phong trào cộng sản quốc tế là không có sự
kiện quốc tế nào tương tự như Đại hội quốc tế các đảng cộng sản và công
nhân. Có thể nói, là "một năm đại hội đảng" trong đó Đảng Cộng sản
Liên Xô tổ chức đại hội và các đảng ở các nước Đông Âu như Bulgaria,
Tiệp Khắc, Đông Đức, Albania và Ba Lan và những người ở một số quốc
gia tự do cũng tổ chức các đại hội của họ. Các đảng cộng sản nắm quyền
đã cho thấy một xu hướng dễ thấy là coi trọng quản lý đối nội. Ví
dụ, Đảng Cộng sản Liên Xô quyết định thông qua kế hoạch 5 năm của
mình tại Đại hội Đảng và những người ở các nước Đông Âu khác cũng
thảo luận và thông qua kế hoạch 5 năm mới. Tuy nhiên, trong số các
đảng cộng sản đã nắm quyền, có xu hướng cố gắng củng cố cơ cấu và cải
thiện hình ảnh của họ trong mắt người dân trên quan điểm coi trọng bầu
cử.
 
(2) Tăng cường đoàn kết giữa các bên có đường lối chính sách
độc lập
 
Tổng Bí thư Romania Ceausescu đã đến thăm Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa, Triều Tiên, Bắc Việt Nam và Mông Cổ vào tháng Sáu. Chủ
tịch Đoàn Chủ tịch Đảng Cộng sản Nhật Bản Kenji Miyamoto đã đến
thăm Romania, Ý, Bắc Việt Nam và Liên. Sự trao đổi giữa các đảng cộng
sản như vậy với một đường lối chính sách độc lập có thể được coi là biểu
hiện của nỗ lực duy trì sự cân bằng giữa chính họ và hai đảng lớn Trung
Quốc và Liên Xô bằng cách tăng cường đoàn kết của họ.
 
(3) Ảnh hưởng của quan hệ hợp tác Trung-Mỹ
 
Các động thái cho mối quan hệ hợp tác Trung-Mỹ, chẳng hạn như cái
gọi là "ngoại giao bóng bàn" vào tháng 4 và tuyên bố của Nixon vào
tháng 7 về kế hoạch thăm Trung Quốc, đã gây ra sự thay đổi trong tình
hình quốc tế và nó cũng gây ảnh hưởng lớn đến quốc tế. phong trào cộng
sản. Cuộc đối đầu Trung-Xô trong phong trào cộng sản quốc tế diễn ra
gay gắt suốt năm, và sự chỉ trích của Liên Xô đối với Trung Quốc đặc
biệt gay gắt. Sau khi Nixon thông báo về kế hoạch thăm Trung Quốc,
Liên Xô tăng cường hơn nữa nỗ lực gia tăng ảnh hưởng của mình đối với
các bên của Bắc Việt Nam và Triều Tiên, có biên giới với Trung Quốc,
bằng cách tận dụng tình trạng rối loạn của các bên này.
Mối quan hệ Trung-Mỹ đã gây sốc rất nhiều cho các nước trong phe
cộng sản, ngoài Liên Xô, và sự bất ổn đáng kể đã phát triển ở các nước
này. Một ví dụ như vậy là các động thái chỉ trích Trung Quốc của Bắc
Việt Nam và Triều Tiên, những nước thường có xu hướng thân Trung
Quốc vì lý do địa lý.
 
(4) Xu hướng ưu tiên cho lợi ích quốc gia
 
Cả Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Liên Xô, hai cực đối lập trong
phong trào cộng sản quốc tế, đều ưu tiên lợi ích quốc gia hơn ý thức hệ,
và có xu hướng dùng ý thức hệ để đặt đảng hoặc nhân dân vào kỷ luật
nghiêm minh, và dấu hiệu của sự nhầm lẫn về tư tưởng ngày càng sâu sắc
hơn. Sự mâu thuẫn giữa ý thức hệ và lợi ích quốc gia như vậy đã được
thể hiện rõ qua lập trường của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trong cuộc
xung đột Ấn-Pakistan. Xu hướng của các đảng Trung Quốc và Liên Xô
cũng ảnh hưởng đến các đảng ở các nước khác, và một số đảng giữ thái
độ phê phán xu hướng đó.
 
(5) Xu hướng của các đảng cộng sản ở các nước tiên tiến
 
Các đảng cộng sản ở các nước tiên tiến như Ý, Pháp, Nhật Bản đang
tìm kiếm con đường mới đi lên chủ nghĩa xã hội và cách thức lên cầm
quyền phù hợp với điều kiện của từng nước. Đặc biệt, có xu hướng tập
trung vào các hoạt động bầu cử theo hệ thống nghị viện dân chủ hiện có,
và điều này đã thành công ở một mức độ nào đó và số lượng những
người cộng sản được bầu tiếp tục tăng trong mỗi cuộc bầu cử.
. Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và công nhân 1957 tại Matxcơva
Vào cuối những năm 50, phong trào cách mạng thế giới có những bước phát triển mới,
nhưng đồng thời lại xuất hiện những diễn biến phức tạp: trong khi phong trào giải
phóng dân tộc phát triển như vũ bão thì phong trào công nhân lại tạm thời lắng xuống ở
các nước tư bản phát triển và đặc biệt, trong những năm 1956 -1957, ở một số nước
xã hội chủ nghĩa đã xảy ra một loạt những cuộc khủng hoảng chính trị với những sai
lầm trong đường lối cải tạo XHCN và xây dựng cơ sở vật chất của CNXH. Những sai
lầm này đã tạo điều kiện cho kẻ thù lợi dụng chống lại CNXH, mà tiêu biểu là cuộc bạo
động ở Hunggari năm 1956.

Lợi dụng các nghị quyết của Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô về việc xóa bỏ hậu
quả của tệ sùng bái cá nhân để phá hoại sự thống nhất của các Đảng Cộng sản và
công nhân, ở một số Đảng Cộng sản, bọn xét lại hữu khuynh cũng ra sức hoạt động,
lợi dụng việc chống sùng bái cá nhân để bôi nhọ tất cả những thành quả của việc xây
dựng XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu, đòi xét lại nguyên lí cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Như thế, nhiều vấn đề quan trọng đang đặt ra trước phong trào
cộng sản quốc tế trong khi. Cục Thông tin quốc tế - cơ quan tiếp xúc duy nhất giữa các
Đảng Cộng sản và công nhân, đã chấm dứt hoạt động từ tháng 4-1956.

Trong tình hình ấy, Hội nghị các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế (họp tháng l1-
1957 tại Matxcơva có ý nghĩa quan trọng đối với việc củng cố phong trào cộng sản
quốc tế. Trước tiên, đại biểu của 12 Đảng Cộng sản và công nhân các nước XHCN đã
họp riêng và nhất trí với bản Tuyên bố Matxcơva năm 1957 (trừ Nam Tư). Sau đó đại
biểu của 65 Đảng Cộng sản và công nhân họp và ra bản Tuyên bố hòa bình gửi nhân
dân toàn thế giới.

Hội nghị năm 1957 đã thảo luận tình hình thế giới và đưa ra nhiều nhận định quan trọng
về lí luận, đường lối chiến lược và sách lược của phong trào cộng sản quốc tế.

Hội nghị cho rằng vấn đề nóng hổi của tình hình chính trị thế giới là vấn đề chiến tranh
và hòa bình, rằng cùng tồn tại hòa bình là nguyên tắc căn bản của nền chính trị thế
giới. Hội nghị khẳng định nhiệm vụ trước tiên của các Đảng Cộng sản là đấu tranh cho
hòa bình.

Hội nghị thừa nhận sự đa dạng các hình thức quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội, khả năng thực hiện cách mạng XHCN bằng con đường hòa bình và giành chính
quyền không cần nội chiến. Hội nghị nhấn mạnh những quy luật cơ bản của cách mạng
XHCN (9 quy luật) trên cơ sở kinh nghiệm của cách mạng Nga, song cũng kêu gọi các
đảng cầm quyền phải áp dụng những kinh nghiệm đó sao cho phù hợp với những điều
kiện dân tộc - quốc gia riêng của họ, đồng thời chống các biểu hiện cực đoan, coi
thường hay thổi phồng những điều kiện đó.

Hội nghị ra Tuyên ngôn hòa bình kêu gọi các Đảng Cộng sản, các lực lượng dân chủ,
tiến bộ hợp tác với các nước XHCN trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân sinh, dân chủ và CNXH, khẳng định sự trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin và
chủ nghĩa quốc tế vô sản, lên án những biểu hiện của chủ nghĩa xét lại trong một số
Đảng Cộng sản ở một số nước.

Tuy trong Tuyên bố Matxcơva năm 1957 đã có sự thỏa hiệp (trước hết là giữa các
Đảng Cộng sản lớn), nhưng những bất đồng về đường lối giữa một số đảng vẫn tồn tại
và có chiều hướng gia tăng.

Sự bất đồng, mâu thuẫn giữa Đảng Cộng sản Liên Xô và Nam Tư bắt đầu từ cuối
những năm 40. Khi Khơrutxốp lên nắm quyền lãnh đạo Đảng và Nhà nước thay Xtalin,
ông muốn trở lại quan hệ bình thường với Nam Tư, vì thế, Nam Tư đến tham dự Hội
nghị 1957 ở Matxcơva (mặc dù trước đó 9 năm Đảng Cộng sản Nam Tư bị khai trừ ra
khỏi Cục Thông tin quốc tế). Khi đứng ở vị trí cao của cơ quan lãnh đạo Đảng và Nhà
nước, Khơrutxốp đề ra đường lối mới trong xây dựng CNXH, ông phát hiện ra những
sai lầm trước đó trong công cuộc xây dựng CNXH, tệ sùng bái cá nhân, sự thiếu dân
chủ trong xây dựng chủ nghĩa xã hội v.v… Trong đối ngoại, ông chủ trương hoà hoãn
với Nam Tư và tìm sự ủng hộ của Trung Quốc.

Từ Hội nghị Ianta (2-1945), Mao Trạch Đông vốn đã bất đồng với Liên Xô trên nhiều
mặt. Mao Trạch Đông chống lại Liên Xô và không tán thành việc đi theo đường lối của
Liên Xô, ông chủ trương dựa vào Mĩ để tiến.

Nhưng lúc đó xảy ra cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953) mà Trung Quốc không
thể đứng ngoài, vì thế mâu thuẫn giữa Mĩ và Trung Quốc trở nên gay gắt, sau đó mâu
thuẫn này dần dần dịu đi. Trong bối cảnh đó, Khơrutxốp chủ trương nếu Trung Quốc
ủng hộ Liên Xô thì Liên Xô sẽ phổ biến vũ khí nguyên tử cho Trung Quốc. Quan hệ
Trung Quốc - Liên Xô về cơ bản tốt đẹp lên. Năm 1950, Mao Trạch Đông đi thăm
Matxcơva và hiệp ước Xô - Trung được kí kết ngày 14-2-1950. Ngay sau khi Xtalin mất,
việc Khơrutxốp đi thăm Trung Quốc (10-1954) và kí kết trả lại các công ty hỗn hợp Xô –
Trung cho Trung Quốc (12-10-1954) - các công ty này được thành lập những năm 1950
- 1951, cho thấy mối bang giao giữa hai nước xã hội chủ nghĩa lớn nhất ngày càng tốt
đẹp lên.

Tháng 10 và tháng 11-1956, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tán thành thái độ của Liên
Xô đối với sự kiện 1956 ở Hunggari. Tháng 11-1956, Mao Trạch Đông và đoàn đại biểu
Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tới dự Hội nghị các Đảng Cộng sản ở Matxcơva năm
1957.

Kết quả của mối quan hệ tốt đẹp này là một bản tuyên bố giữa các Đảng Cộng sản đã
được đưa ra. Mặc dù bản tuyên bố còn nhiều điểm thỏa hiệp, nhưng dẫu sao đây cũng
là sự thống nhất của phong trào cộng sản trong bối cảnh thế giới đầy phức tạp.

Sau hội nghị Matxcơva (1957), quan hệ Xô - Trung lại dần dần trở nên nguội lạnh. Biểu
hiện trước hết là thái độ khác nhau đối với Mĩ. Tuy kí vào văn kiện của Hội nghị
Matxcơva, nhưng Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc từ mùa xuân năm 1960
bắt đầu tuyên bố không đồng tình với đường lối chung của phong trào cộng sản quốc tế
do Hội nghị Matxcơva năm 1957 đề ra.
Còn đại biểu của “Liên đoàn những người cộng sản Nam Tư” không kí vào văn kiện và
Tuyên bố của Hội nghị 1957 và đưa ra đường lối riêng của mình. Đoàn đại biểu Nam
Tư cho rằng việc phân chia thế giới thành hai phe là giả tạo và sự chia cắt Đức và Triều
Tiên là kết quả của quan điểm đó; rằng mỗi nước đều có đường lối của mình, không
nhất thiết phải rập khuôn theo Liên Xô; và Nam Tư đã đề ra đường lối của mình (mà
thời kỳ đó người ta gọi là "chủ nghĩa cộng sản quốc gia''). Trong đường lối của mình,
trước hết Nam Tư cho rằng tập thể hóa nông nghiệp là tự hủy diệt nền nông nghiệp của
mình, việc quản lí doanh nghiệp giao cho công đoàn, trong công nghiệp hóa không nhất
thiết phải phát triển công nghiệp nặng, cứ hợp tác với Mĩ trong khi vẫn xây dựng chủ
nghĩa xã hội, phải xây dựng một nền dân chủ XHCN và pháp chế xã hội chủ nghĩa theo
đúng nghĩa của nó.

Quan điểm này là biểu hiện của sự bất đồng trong phong trào cộng sản quốc tế.

Theo Nghị quyết của Hội nghị Matxcơva năm 1957, tháng 9 - 1958, tạp chí ''Những vấn
đề hòa bình và chủ nghĩa xã hội'' đã ra số đầu tiên, được xuất bản bằng 34 thứ tiếng và
phát hành ở 145 nước trên thế giới. Tạp chí đã đóng góp vào việc xây dựng lí luận Mác
- Lênin để đấu tranh chống hệ tư tưởng tư sản, vào việc trao đổi kinh nghiệm giữa
những người cộng sản và công nhân trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin.

2. Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và công nhân (tháng ll-1960) tại Matxcơva
Chỉ ba năm sau Hội nghị Matxcơva năm 1957, đã có nhiều biến đổi quan trọng diễn ra
trên thế giới và trong phong trào cộng sản quốc tế. Cách mạng Cuba thắng lợi (1959)
đưa Cuba gia nhập phe XHCN, làm cho hệ thống XHCN mở rộng sang cả Tây bán cầu.
Phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ ở châu Á, châu Phi và Mĩ Latinh,
nhiều quốc gia non trẻ giành được độc lập dân tộc ở những mức độ khác nhau, hệ
thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân tan rã từng mảng lớn. Phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân sau một số năm tạm lắng nay lại bùng nên mạnh mẽ.

Các lực lượng đế quốc tăng cường tấn công vào cách mạng. Đối với các nước xã hội
chủ nghĩa châu Âu, họ thực hiện ''chiến lược diễn biến hòa bình''; còn đối với Cuba và
Việt Nam thì bao vây, khiêu khích hoặc xâm lược và thực hiện chủ nghĩa thực dân trá
hình ở khu vực Á – Phi - Mĩ Latinh.

Các lực lượng phản động ở nhiều nước đã mở cuộc tiến công vào các Đảng Cộng sản.
Năm 1959, Đảng Cộng sản Achentina bị cấm hoạt động. Năm1960,Đảng Cộng sản
Marốc cũng bị cấm. Những người cộng sản bị đàn áp khốc liệt ở Mĩ, Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha, Cộng hòa Liên bang Đức, Italia, Hi Lạp, Iran, Gioocđani, Irắc, Paragoay,
Achentina, Xu đăng… Trong tình hình như thế, những thế lực cơ hội, xét lại đang nắm
quyền ở một số Đảng Cộng sản lại đưa ra đường lối ''chung sống hòa bình'', thỏa hiệp
giai cấp vô nguyên tắc và trong phong trào cộng sản quốc tế lại xuất hiện một trào lưu
mới hết sức nguy hại – chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa biệt phái.
Trong bối cảnh lịch sử này, Hội nghị đại biểu của 81 Đảng Cộng sản và công nhân họp
ở Matxcơva vào tháng 11-1960. Đây là hội nghị lớn nhất từ trước đến nay của phong
trào cộng sản quốc tế.
Hội nghị Matxcơva năm 1960 đã khẳng định và kế thừa những nội dung cơ bản của
bản Tuyên bố năm 1957, phát triển và bổ sung thêm một số luận điểm quan trọng.

Hội nghị đã phân tích tình hình quốc tế và những vấn đề cơ bản của thế giới, đưa ra
khái niệm về “thời đại hiện nay”, xác định nhiệm vụ hàng đầu của các Đảng Cộng sản
và công nhân là bảo vệ và củng cố hòa bình ngăn chặn bọn đế quốc hiếu chiến phát
động chiến tranh thế giới mới, tăng cường đoàn kết phong trào cộng sản đấu tranh cho
hòa bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Trong bản Tuyên bố Matxcơva năm 1960, Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và công nhân
quốc tế tuy gạt bỏ những quan điểm “tả khuynh cực đoan” của Mao Trạch Đông về
''chủ nghĩa đế quốc là con hổ giấy'', về khả năng tiến hành một cuộc chiến tranh thế
giới mới để lật đổ hoàn toàn chủ nghĩa đế quốc, về mâu thuẫn chủ yếu của thế giới là
mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và phong trào giải phóng dân tộc v.v…, nhưng nhìn
chung vẫn chưa có những đánh giá khoa học và khách quan về thời đại và thế giới.

Trong văn kiện này có nhiều luận điểm mâu thuẫn nhau, thể hiện sự chắp vá, nhân
nhượng về quan điểm giữa các đảng tham dự Hội nghị. Đối với một số người, trong
văn kiện này có nhiều luận điểm của chủ nghĩa xét lại, và một số người khác lại cho
rằng có nhiều luận điểm giáo điều, tả khuynh.

Chính vì vậy, Hội nghị Matxcơva năm 1960 thực tế không thống nhất được về tư
tưởng, lí luận và chiến lược hoạt động của phong trào cộng sản quốc tế. Từ năm 1960
đến 1969 là thời kì đầy phức tạp của phong trào công nhân. Những bất đồng và mâu
thuẫn trong nội bộ phong trào công nhân quốc tế, đặc biệt giữa Liên Xô và Trung Quốc
(sau hai Hội nghị năm 1957 và 1960), không dịu đi mà ngày càng trầm trọng, công khai.
Những cuộc tranh luận gay gắt và bất đồng giữa hai đảng này xoay quanh các vấn đề lí
luận, đường lối chung của phong trào cộng sản quốc tế đã dân đến sư phân liệt thực
sự của phong trào cộng sản thành hai phái. Hai đảng lớn, hai nước lớn tranh nhau vì vị
trí trung tâm cách mạng, công kích lẫn nhau: đảng nào cũng muốn nắm độc quyền
chân lí và tranh nhau vai trò lãnh đạo các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng
sản quốc tế. Sự phân liệt và sự tập hợp lực lựợng của hai đảng lớn này ngày càng trở
nên ráo riết, công khai. Một số Đảng Cộng sản ở một số nước cũng bị chia rẽ về tổ
chức thành hai đảng theo hai khuynh hướng nói trên.

Mâu thuẫn giữa hai Đảng Cộng sản Liên Xô và Trung Quốc đã nảy nở từ 1945, được
dịu bớt đi vào những năm 50. Nhưng từ sau Hội nghị Matxcơva (1957), mối quan hệ
giữa hai đảng trở nên xấu đi.

Mâu thuẫn Xô -Trung ngày càng căng thẳng, đã dẫn tới xung đột biên giới giữa Liên Xô
và Trung Quốc vào tháng 4 và tháng 5 – 1962. Cuối tháng 2 và đầu tháng 3 – 1963,
“Nhân dân nhật báo” Bắc Kinh công bố 4 bài báo chỉ trích Khơrutxốp. Ngày 15-6-1963,
Đại sứ Trung Quốc ở Matxcơva trao cho cho lãnh đạo Liên Xô một bức thư 25 điểm
nêu tất cả những vấn đề là Đảng Cộng sản Trung Quốc từ chối không nhân nhượng đối
với Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong bức thư có đoạn nói rằng: “Không có đảng cấp trên,
không có quốc gia cấp trên trong phe xã hội chủ nghĩa”. Từ mâu thuẫn giữa hai đảng
đã chuyển sang mâu thuẫn giữa hai nhà nước. Từ những bài báo luận chiến đã chuyển
sang xung đột bằng vũ lực. Đỉnh điểm bất hòa giữa hai đảng là cuộc xung đột đổ máu
giữa hai nước Xô - Trung mùa xuân 1969 và từ đó hai bên đã coi nhau như thù địch.

3. Hội nghị dại biểu các Đảng Cộng sản và công nhân năm 1969 tại Matxcơva
Sau Hội nghị Matxcơva năm 1960, hoạt động lí luận và thực tiễn của các Đảng Cộng
sản và công nhân được tăng cường hơn trước. Tuy nhiên, trong phong trào cộng sản
quốc tế, trên những vấn đề cơ bản của cách mạng thế giới trong thời đại hiện nay vẫn
tồn tại những bất đồng sâu sắc và vẫn tiếp tục diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa
những người theo chủ nghĩa Mác - Lênin với những người theo chủ nghĩa xét lại và
chủ nghĩa giáo điều biệt phái. Mâu thuẫn và bất đồng trầm trong nhất là giữa hai đảng,
hai nhà nước lớn trong phe xã hội chủ nghĩa (như đã trình bày ở trên). Đảng Cộng sản
Trung Quốc tuyên bố ''những kiến nghị về đường lối chung của phong trào cộng sản
quốc tế” trong đó thể hiện những quan điểm không tán thành với Tuyên bố Matxcơva
năm 1957 và 1960 về những vấn đề quốc tế và thời đại (trung tâm cách mạng thế giới
đã chuyển sang châu Á, và Trung Quốc mới xứng đáng là đội tiên phong của phong
trào cộng sản thế giới; không phải hệ thống XHCN là nhân tố quyết định sự phát triển
của xã hội loài người mà cuộc đấu tranh giải phóng của các nước Á - Phi - Mĩ Latinh
mới là lực lượng quyết định quá trình cách mạng thế giới; chiến tranh thế giới tất yếu sẽ
xảy ra và là con đường để thủ tiêu chủ nghĩa đế quốc thế giới; hình thức đấu tranh vũ
trang là hình thức duy nhất cách mạng và phải phát động cả ở các nước có phong trào
giải phóng dân tộc cũng như các nước tư bản chủ nghĩa v.v…). Những quan điểm “tả”
của Trung Quốc đã gây nên những tổn thất cho cách mạng Trung Quốc và cách mạng
thế giới, như sự tổn thất nặng nề của cách mạng Inđônêxia và Đảng Cộng sản
Inđônêxia năm 1965, sự tàn phá của cuộc “cách mạng văn hóa” ở Trung Quốc trong
những năm 1966 - 1969, sự tha hóa biến chất của một số Đảng Cộng sản ở Đông Nam
Á v.v…

Ở Đông Âu, các Đảng Cộng sản cầm quyền tuy giành được nhiều thắng lợi trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng vẫn tiếp tục phạm những sai lầm thiếu xót
trong đường lối, gây nên sự bất ổn về chính trị ở trong nước (như trường hợp ở Tiệp
Khắc năm 1968).

Trong bối cảnh đó, Hội nghị quốc tế lần thứ ba của 75 Đảng Cộng sản và công nhân đã
diễn ra ở Matxcơva vào mùa hè 1969 để đề ra đường lối, củng cố sự thống nhất phong
trào cộng sản quốc tế và các lực lượng chống đế quốc. Hơn 10 Đảng Cộng sản, trong
đó có Đảng Cộng sản Trung Quốc, không tham gia hội nghị. Do tập trung cho công
cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng không có mặt ở
Hội nghị này.

Hội nghị Matxcơva thông qua văn kiện: “Những nhiệm vụ đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc trong giai đoạn hiện tại và sự thống nhất hành động của các Đảng Cộng sản,
công nhân và tất cả các lực lương chống đế quốc”. Văn kiện đã phân tích tình hình thế
giới, những đặc điểm nổi bật trong sự phát triển của chủ nghĩa đế quốc thế giới, chiến
lược và sách lược của chúng, và nhận định trong hiện nay chủ nghĩa đế quốc vẫn là kẻ
thù nguy hiểm của nhân dân thế giới. Vì vậy, cần phải đoàn kết tất cả các lực lượng
của phong trào cộng sản và chống đế quốc.
Văn kiện tổng kết của Hội nghị nhận định rằng: ''Loài người đã bước vào một phần ba
cuối cùng của thế kỉ này trong hoàn cảnh cuộc đấu tranh lịch sử giữa các lực lượng tiến
bộ và phản động, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc diễn ra gay gắt. Vũ đài
của cuộc đấu tranh ấy là toàn thế giới, trên tất cả các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã
hội - kinh tế, chính trị, hệ tư tưởng, văn hóa''. Văn kiện chỉ rõ hiện nay đã có những điều
kiện thực tế để giải quyết những vấn đề quan trong nhất của thời đại vì lợi ích của hòa
bình dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Hội nghị nhận định rằng hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới là lực lượng quyết định của
phong trào chống đế quốc toàn thế giới. Cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống đối lập tùy
thuộc những thành tựu và sự đoàn kết của hệ thống XHCN thế giới. Phương hưóng
chính trong việc đoàn kết hệ thống XHCN là quán triệt trong cuộc sống những nguyên
tắc của chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa. Do vậy, vấn đề bảo vệ chủ nghĩa xã hội là
nghĩa vụ quốc tế của những người cộng sản.

Hội nghị nhận định rằng trong các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là động
lực chính của cuộc đấu tranh cách mạng, của toàn bộ phong trào dân chủ và chống đế
quốc. Đồng thời, các Đảng Cộng sản ở khu vực này cần chú ý đến những khả năng
cách mạng to lớn của giai cấp nông dân lao động, giới trí thức tiến bộ, thanh niên và đề
ra những biện pháp thu hút các lực lượng ấy tham gia cuộc đấu tranh chung chống chủ
nghĩa đế quốc.

Hội nghị cũng đánh giá vai trò ngày càng tăng của phong trào chống đế quốc của các
dân tộc Á - Phi - Mĩ latinh trong quá trình cách mạng thế giới.

Hội nghị đã ra ''Lời kêu gọi nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Lênin'', trong đó nhấn
mạnh sự trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng mọi thắng lợi của phong
trào cộng sản. Hội nghị Matxcơva năm 1969 cũng phê phán đường lối của Đảng Cộng
sản Trung Quốc, tiếp tục kế thừa và phát triển nhiều luận điểm của hai hội nghị trước
đây về thời đại, về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản, phong trào giải phóng dân tộc,
về sự thay đổi tương quan lực lượng trên thế giới ngày càng có lợi cho phía các lực
lượng cộng sản, cách mạng và tiến bộ, đề ra đường lối chung:các Đảng Cộng sản
thống nhất hành động với mọi lực lượng tiến công mạnh mẽ hơn chống chủ nghĩa đế
quốc và các lực lượng phản động và chiến tranh. Hội nghị thừa nhận có những bất
đồng sâu sắc trong nội bộ phong trào cộng sản quốc tế, song hi vọng rằng sự bất đồng
này được khắc phục bằng con đường hợp tác, thảo luận, trao đổi ý kiến và thống nhất
hành động chống chủ nghĩa đế quốc trên diễn đàn quốc tế.
Từ những năm 1970 trở về sau, nhiều Đảng Cộng sản trưởng thành hơn và đã tự giải
quyết các vấn đề tư tưởng, lí luận, đường lối chiến lược, sách lược hoạt động của
mình. Vì vậy, thời kì các hội nghị quốc tế các đảng như trước cũng không còn nữa.
Dựa trên các văn kiện hội nghị quốc tế những năm 1957, 1960 và 1969, gần 50 đảng
trong giai đoạn này đã thông qua cương lĩnh mới hoặc sửa đổi cương lĩnh, điều chỉnh
chiến lược và sách lược hoạt động của mình. Đầu những năm 60, các Đảng Cộng sản
cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa đề ra và thực hiện chiến lược xây dựng chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Các Đảng Cộng sản ở các nước tư bản phát triển thống nhất các lực lượng dân chủ
rộng rãi chống chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, chống chạy đua vũ trang hạt
nhân, vì hòa bình, dân chủ và tiến lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường cách mạng
hay con đường đấu tranh nghị viện.

Các Đảng Cộng sản ở khu vực Á, Phi, Mĩ Latinh xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt
của mình là đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chống chế độ độc tài củng cố độc lập
dân tộc, xóa bỏ chế độ thực dân dưới các hình thức, phát triển đất nước theo con
đường dân chủ, tiến bộ theo định hướng phi tư bản chủ nghĩa.

Trong những năm 60 và 70, phong trào cộng sản quốc tế ngày càng phát triển đa dạng
cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trước những biến đổi không ngừng của điều kiện thực
tế. Chính sự không chú ý đầy đủ đến sự khác biệt và đa dạng, sự thiếu thông cảm, hiểu
biết lẫn nhau là một nguyên nhân khách quan chủ yếu của những bất đồng trong quan
điểm, lí luận của phong trào cộng sản quốc tế. Để khắc phục những bất đồng, điều
quan trọng không phải chỉ là ''đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại'', ''kiên trì bảo vệ sự
trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin chống những luận điểm, nguyên tắc kinh viện
chỉ dừng lại ở trình độ lí luận, tư tưởng những năm 50 - 60 và trước đó mà còn phải
chống cả chủ nghĩa giáo điều ''thâm căn cố đế và phát triển liên tục, sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, đổi mới toàn diện hoạt động của các Đảng Cộng sản cho ngang tầm và
phù hợp với những đòi hỏi và biến đổi của thực tế cuộc sống trong từng quốc gia, từng
dân tộc, từng thời kỳ cụ thể.

You might also like