« Home « Kết quả tìm kiếm

Dạy học văn học dân gian với việc nâng cao tri thức, giữ gìn truyền thống văn hóa cho học sinh phổ thông


Tóm tắt Xem thử

- Văn học dân gian vừa là văn học vừa là văn hóa.
- Mỗi tác phẩm văn học dân gian chứa đựng những tƣ liệu văn hóa, khoa học, tri thức của cộng đồng.Vì thế việc dạy và học văn học dân gian góp phần nâng cao tri thức văn hóa truyền thống của học sinh và thực hiện việc bảo truyền thống văn hóa..
- Từ khóa: văn học dân gian, tri thức văn hóa, truyền thống văn hóa, bảo tồn văn hóa.
- Văn học dân gian (VHDG) không phải là một bộ môn khoa học đƣợc dạy và học một cách độc lập trong nhà trƣờng.
- Hệ quả của điều này là việc thay sách giáo khoa ở tất cả các lớp học và sự thay đổi một số đơn vị kiến thức cơ bản, trong đó có phần Văn học dân gian (VHDG).
- Đó là những sáng tác nghệ thuật ngôn từ trong chỉnh thể folklore nghệ thuật và vì thế, VHDG vừa là văn học vừa là văn hóa.
- Việc dạy và học VHDG trong nhà trƣờng không chỉ tiếp cận tác phẩm và thể loại theo đặc trƣng mà điều quan trọng mà mảng nội dung kiến thức này đem đến cho ngƣời học là cung cấp những kiến thức, tri thức về văn hóa truyền thống của cộng đồng.
- nhận thức rõ ràng về vốn văn hóa đó là bƣớc đầu tiên trong quá trình bảo tồn truyền thống văn hóa của các thế hệ..
- Mĩ học folklore và quan niệm về Văn học dân gian.
- Mĩ học folklore của phƣơng Đông và phƣơng Tây trong cuối thế kỉ XIX đến nay gặp gỡ nhau ở điểm cơ bản coi folklore là một loại văn hóa dân gian, trong đó yếu tố ngôn từ không tách rời khỏi các yếu tố khác nhƣ âm nhạc, nghi lễ, phong tục tập quán, sân khấu, tín ngƣỡng… của con ngƣời.
- nhƣng đến khi trƣờng phái Phần Lan ra đời thì xu hƣớng rút gọn folklore nhƣ tác phẩm ngôn từ, họ nghiên cứu Ka-lê-va-la nhƣ một tác phẩm thơ, theo tinh thần ngữ văn [2/112].
- Tiếp nối truyền thống đó, các nhà nghiên cứu nhƣ Ji-mun-xki, Gu-sép, Prốp… đều nghiên cứu ngữ văn dân gian trong chỉnh thể văn hóa dân gian, gắn liền với văn hóa, tín ngƣỡng, nghi lễ truyền thống.
- Những công trình văn hóa học, nhân học của nhân loại trong khi rất chú trọng mô tả cặn kẽ, tỉ mỉ những tƣ liệu dân tộc học trong sự đối sánh với folkloređã tạo tiền đề về mặt lí luận cũng nhƣ thực tiễn cho các nhà folklorehọc trong việc đi tìm bản chất của folklorecũng nhƣ mối quan hệ của nó với các loại hình nghệ thuật, văn hóa khác..
- Quan điểm đó đƣợc thể hiện trong một hệ thống các công trình nghiên cứu nhân học, mở đầu là văn hóa học: “Văn hóa nguyên thủy” của E.
- Nếu nhƣ Taylor tìm đến tƣ liệu của các thổ dân da đỏ châu Öc, các cộng đồng châu Phi thì Frazer chủ yếu mô tả các nghi lễ, tục lệ dân gian của các bộ lạc đến các dân tộc châu Âu thời Trung cổ..
- Prốpsau khi phân tích những đặc trƣng của folkloretrong mối quan hệ với dân tộc học, khảo cổ, phong tục… tác giả khảo sát một trƣờng hợp “Truyện cổ tích Nàng công chúa không cƣời” qua rất nhiều phƣơng diện: cấm cƣời, tiếng cƣời ban phát sự sống, tiếng cƣời trong nghi lễ trồng trọt, tiếng cƣời nở hoa,… để từ đó đƣa đến kết luận về bản chất nông nghiệp của tiếng cƣời trong hình tƣợng nàng công chúa không cƣời..
- Truyện cổ tích về nàng công chúa không cƣời ma thuật dựa trên ý niệm cho rằng ngƣời chết không cƣời,chỉ có ngƣời sống cƣời hơn.
- Truyện cổ tích về nàng công chúa không cƣời và về những dấu vết riêng của công chúa biểu hiện sự phát triển toàn vẹn của cái tuyến ấy..
- Folklore thoạt đầu có thể là một thành phần của một hình thức nghi lễ.
- Thông qua mỗi tác phẩm VHDG con ngƣời không những thoả mãn nhu cầu thẩm mĩ của mình mà còn tìm thấy kiến thức nhiều mặt ẩn chứa trong đó.
- Tác phẩm đó cũng là nơi lƣu giữ những giá trị bền vững của nền văn hoá cổ truyền..
- Tìm về cội nguồn văn hóa cộng đồng từ tác phẩm, thể loại văn học dân gian Những thể loại VHDG có đời sống không tách rời ra mà gắn với những hoạt động thực tiễn của con ngƣời.
- VHDG là nơi ẩn chứa thẩm thấu văn hóa dân gian, trong đó những yếu tố tôn giáo, tín ngƣỡng, phong tục… của ngƣời nguyên thủy đƣợc chọn lọc, khúc xạ, hình thành nên những biểu tƣợng, những mã văn hóa.
- Vì thế so với bối cảnh xã hội, so với nền tảng văn hóa rộng lớn, những biểu tƣợng trong VHDG kết tinh những giá trị văn hóa, diễn đạt tƣ tƣởng cộng đồng một cách cô đọng, hàm súc.
- Những năm giữa thế kỉ XX, tác giả Tầm Vu đã tìm hiểu tƣ tƣởng ngƣời Việt qua những truyền thuyết hàng đầu (Họ Hồng Bàng, Sơn Tinh Thủy Tinh, Thánh Gióng.
- Tác giả Vũ Ngọc Khánh cũng đặt vấn đề tìm hiểu lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam trong văn hóa dân gian, ông đã khái quát những vấn đề cơ bản trong tƣ tƣởng ngƣời Việt nhƣ: ý thức cội nguồn dân tộc, sức sống mãnh liệt, tinh thần dân tộc, hội nhập tƣ tƣởng, triết học, tôn giáo….
- Từ đó, chúng tôi nhận thấy việc dạy và học phần VHDG không thể tách rời với việc tìm hiểu văn hóa truyền thống của dân tộc.
- cận VHDG theo đặc trƣng nguyên hợp, vừa đáp ứng đƣợc nhu cầu bồi dƣỡng, nâng cao vốn tri thức văn hóa truyền thống của học sinh phổ thông.
- Thậm chí nếu không tuân thủ nguyên tắc tiếp cận đó có thể gây ra những tranh luận về các tác phẩm VHDG trong nhà trƣờng nhƣ chúng ta đã biết: về cái chết mẹ con mụ dì ghẻ trong Tấm Cám, bản chất hình tƣợng Chử Đồng Tử, hình tƣợng An Dƣơng Vƣơng….
- Trong hệ thống thể loại VHDG, mức độ biểu hiện của yếu tố văn hóa đậm nhạt khác nhau, và mỗi thể loại cũng lựa chọn, chắt lọc những tƣ liệu văn hóa, lịch sử, tƣ tƣởng khác nhau để đƣa vào tác phẩm.
- Ngƣời ta có thể tìm thấy cội nguồn tƣ tƣởng về quốc gia, dân tộc, ý thức về chủ quyền lãnh thổ, sự đấu tranh bảo vệ độc lập trong thể loại truyền thuyết.
- đồng thời cũng có thể tìm thấy những phong tục tập quán, tín ngƣỡng và nhƣng sinh hoạt cộng đồng ở những truyện cổ tích..
- Trong chƣơng trình phổ thông, thể loại truyền thuyết đƣợc đƣa vào giảng dạy ở lớp 7 và lớp 10, có các tác phẩm sau: Con Rồng cháu Tiên, Thánh Gióng, Bánh chƣng bánh giầy, Sơn Tinh Thuỷ Tinh, Sự tích Hồ Gƣơm (lớp 7), An Dƣơng Vƣơng và Mỵ Châu – Trọng Thủy (lớp 10).
- Các truyền thuyết khá đa dạng về đề tài, chủ đề phản ánh..
- Trong đó có đề tài nguồn gốc dân tộc, truyền thống chống ngoại xâm, ca ngợi những anh hùng sáng tạo văn hoá, đề cao thành tựu văn minh buổi ban đầu… Trong 5 truyền thuyết thì 4 truyện về thời đại Hùng Vƣơng, một truyện về thời Hậu Lê.
- Chủ đề của các truyền thuyết đã bao quát đƣợc các vấn đề trọng đại đặt ra với cộng đồng, dân tộc lúc bấy giờ, đó là:.
- Đó cũng là những chức năng chính, vai trò lịch sử của thể loại mà truyền thuyết cần đạt đƣợc.
- Trong số những truyền thuyết đó, có nhiều truyện mang tính tƣ tƣởng cao: tác giả Tầm Vu đã gọi đó là những “truyện đứng đầu” trong kho tàng thần thoại (5 truyện), truyền thuyết ngƣời Việt, tác giả Đinh Gia Khánh cũng lựa chọn 4 truyện tiêu biểu… Tƣ tƣởng nổi bật của những truyện đó là “yêu nƣớc thƣơng nòi – ở trình độ sơ khai nhƣng đã có những nét tuyệt vời”.
- Những tác phẩm đó đã khẳng định giá trị của.
- chúng trong lòng nhân dân qua bao thế hệ và đƣợc nhân dân sàng lọc, nâng niu, mài giũa, đồng thời chính những tác phẩm ấy đáp ứng tâm tƣ, nguyện vọng, những nhu cầu trực tiếp của ngƣời dân..
- Sách Ngữ văn 10 quan niệm “truyền thuyết là loại truyện dân gian kể về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử thời quá khứ, thƣờng có yếu tố tƣởng tƣợng kì ảo.
- Truyền thuyết thể hiện thái độ và cách đánh giá của nhân dân với các sự kiện và nhân vật lịch sử đƣợc kể”.
- Quan niệm này không phải là không đúng chỉ có điều nó quá chú ý đến “yếu tố lịch sử” trong truyền thuyết: kể và đánh giá về “các nhân vật và sự kiện lịch sử”.
- Điều này đúng nhƣng không đủ vì truyền thuyết nói nhƣ Vũ Quỳnh là “sử ở trong truyện”, yếu tố lịch sử tạo là một phần của cơ sở lịch sử – xã hội cho sự ra đời của truyền thuyết.
- Trong truyền thuyết, lịch sử là nền, là bối cảnh trực tiếp diễn ra các sự kiện, hành động của nhân vật.
- Nhƣng bên cạnh đó, yếu tố văn học, bản chất thẩm mĩ của thể loại cũng hết sức quan trọng.
- Chính sự sáng tạo của nhân dân lao động (về cả những nhân vật và sự kiện) làm nên đặc trƣng văn học của thể loại.
- Thực tế cho thấy, truyền thuyết có nhiều nhân vật là sự sáng tạo của nhân dân (Thánh Gióng, thần Kim Quy.
- Mặt khác, khái niệm này chỉ trình bày truyền thuyết nhƣ là những văn bản văn học đơn thuần mà chƣa có những gợi ý về nghệ thuật diễn xƣớng truyền thuyết, mối quan hệ của truyền thuyết với tín ngƣỡng, lễ hội.
- Đứng về phía lí luận thì có thể học sinh chƣa hiểu biết, tiếp nhận đƣợc nhƣng thực tế của đời sống sinh hoạt văn hoá dân gian diễn ra xung quanh các em khiến cho ngƣời học không thể không có những liên tƣởng và thắc mắc: chẳng hạn học sinh ở vùng Phù Đổng, Sóc Sơn vốn sống trong vùng lễ hội và các hình thức thờ cúng về Gióng.
- vùng đền Hùng với hệ thống truyền thuyết thời Hùng Vƣơng….
- Mỗi tác phẩm VHDG đều hàm chứa trong đó những tri thức khoa học, những tƣ liệu về đời sống, những hình thức sinh hoạt, tín ngƣỡng, tôn giáo của nhân dân, đặc biệt ở những thể loại tự sự ra đời sớm nhƣ thần thoại, sử thi, truyện cổ tích… Sử thi “Đẻ đất đẻ nƣớc” của ngƣời Mƣờng có nguồn gốc từ những nghi lễ cổ xƣa, đƣợc diễn xƣớng trong các nghi lễ tang ma.
- Đó là kinh nghiệm có đƣợc do sự quan sát và thực tế sống và chiến đấu với con sông và nó đi vào tác phẩm một cách tự nhiên.
- Truyện cổ tích cũng phản ánh những yếu tố của đời sống hiện thực.
- Chính vì vậy, nhiều nhà khoa học đã đi tìm căn rễ, nguồn gốc của truyện cổ tích trong những tƣ liệu lịch sử, văn hoá nhƣ Mê-lê-tin-xki, Prốp… và thực sự đã có lí khi giải thích đƣợc rất nhiều các mô-típ, chức năng trong truyện cổ tích bắt nguồn từ những yếu tố hiện thực.
- Trong truyện cổ là các cô gái thƣờng cắt lấy mẩu khố của chàng trai đã cứu mình để sau này nhận ra nhau.
- Ở chƣơng trình THCS, thể loại truyện cổ tích giới thiệu năm tác phẩm cổ tích của Việt Nam và thế giới Cây bút thần (Trung Quốc), Ông lão đánh cá và con cá vàng (Nga) liền sau truyện Sọ Dừa, Thạch Sanh, Em bé thông minh.
- Trong trƣờng THPT, có hai truyện là Chử Đồng Tử và Tấm Cám, hai truyện đƣợc xem là cổ tích thần kì.
- Về cơ bản trong nhà trƣờng vẫn áp dụng khuynh hƣớng tiếp cận ngữ văn đối với các tác phẩm và thể loại VHDG.
- Việc xem VHDG nhƣ một loại văn học và với truyện cổ tích chủ yếu phân tích dƣới góc độ tác phẩm văn học: khai thác nhân vật, nội dung chủ đề.
- Chúng ta cần phải xem truyện cổ tích nhƣ một thể loại truyện kể dân gian có đặc trƣng riêng biệt, trong đó mỗi câu chuyện đều đƣợc hình thành và phát triển trong mối quan hệ với các dạng cấu trúc văn hoá, phong tục, thần thoại của cộng đồng..
- Về các văn bản truyện cổ tích trong nhà trƣờng, vấn đề tạo nên sự tranh luận chủ yếu ở ba truyện Chử Đồng Tử, Tấm Cám, Ông lão đánh cá và con cá vàng..
- Truyện Chử Đồng Tử thuộc thể loại nào? Cổ tích hay truyền thuyết? Tại sao Chử Đồng Tử lại đƣợc thờ ở nhiều đình, đền khác nhau ở vùng Hải Dƣơng, Hƣng Yên, Thái Bình.
- nhƣ hƣớng dẫn của SGK có còn đứng vững đƣợc hay không? Nếu khai thác theo hƣớng là truyện cổ tích thì nội dung và chủ đề nhƣ thế nào? Nếu chỉ khai thác tác phẩm ở chủ đề ca ngợi ngƣời con chí hiếu, mối tình trong sáng, thanh cao… thì có làm nghèo chủ đề tác phẩm và hình tƣợng nhân vật hay không? Cách đánh giá nhân vật Chử Đồng Tử nhƣ vậy có phù hợp với tâm thức dân gian về nhân vật này hay không? Quan hệ giữa tác phẩm này với tín ngƣỡng, lễ hội nhƣ thế nào? Đó là vấn đề phức tạp cần quan tâm, giải quyết.
- Bởi vì, bản thân tác phẩm là một hiện tƣợng phức tạp, truyền thuyết Chử Đồng Tử đã bị cổ tích hoá, khiến cho nội dung và chủ đề xã hội đƣợc đan xen, kết nạp vào tƣ tƣởng của truyền thuyết ban đầu..
- Không giống nhƣ trƣớc, lần này, các nhà nghiên cứu văn học dân gian không lên tiếng đơn giản vì trong giới folklore vấn đề này đã đƣợc giải quyết từ nhiều năm trƣớc..
- Tác giả Bùi Văn Tiếng thì cho rằng kết thúc nhƣ vậy là thành công của truyện là cách ứng xử mang tính nghệ thuật mà tác giả dân gian gửi đến độc giả mai sau về sự hoàn thiện nhân cách của con ngƣời, con ngƣời có thể trở nên độc ác do hoàn cảnh khách quan..
- Ở Việt Nam, tác giả Chu Xuân Diên đã vận dụng phƣơng pháp nghiên cứu đặc thù của văn học dân gian (sử dụng khái niệm mô-típ) đƣợc đề xuất bởi A.N Vê-xê-lôp- xki, để phân tích kiểu truyện Tấm Cám), tránh xu hƣớng quan tâm chủ yếu đến các yếu tố tâm lí – đạo đức trong hành động của Tấm [1/312], xu hƣớng gắn với mục đích đánh giá nhân vật, thƣờng dựa trên những tiêu chuẩn tâm lí và đạo đức của con ngƣời hiện đại.
- Điểm này có sự phù hợp với thực tế tiếp nhận truyện cổ tích nói chung và truyện Tấm Cám nói riêng.
- Tuổi thơ của mỗi chúng ta, đƣợc nghe ông bà cha mẹ kể chuyện cổ tích thì trong thâm tâm đều mong muốn, ƣớc mơ về sự chiến thắng của cái thiện với cái ác và vì thế chi tiết Tấm giết Cám không hề tạo nên cảm giác ghê sợ hay không đồng tình với cô Tấm.
- Xét về phƣơng diện lí luận và thi pháp thể loại, cốt truyện cổ tích là yếu tố bất biến, là mô hình đã đƣợc xác lập ổn định và đã đƣợc hoàn thành, trong đó chỉ có lời kể thay đổi do quy luật của sự sáng tạo truyền miệng cũng nhƣ sự vận động của cốt truyện trong bối cảnh không – thời gian.
- Mỗi cộng đồng, thời đại có cách lựa chọn của riêng mình cho cách kể nhƣng phải tuân thủ một quy luật: không thể để yếu tố thời đại, thực tại xâm nhập vào cốt truyện dân gian.
- Mô-típ truyện dân gian là những tia hồi quang của các phong tục và nghi lễ dân gian mà đến thời đại chúng ta, do khoảng cách lịch sử mối dây liên hệ đó không liên tục khiến chúng ta xa lạ và khó chấp nhận..
- Truyện cổ tích, ngoài chức năng phản ánh, lí giải các hiện tƣợng tâm lí, xã hội còn hƣớng tới chủ đề phong tục.Về mặt cốt truyện, sự kiện nhân vật chết (cái ác, cái xấu) có thể kết thúc câu chuyện.
- Nhƣng truyện cổ tích vẫn luôn thêm vào sự hoá thân của nhân vật để gửi gắm quan niệm của dân gian, lồng ghép các chủ đề khác (giải thích.
- Do đó, truyện cổ tích không chỉ đƣợc tiếp nhận dƣới góc nhìn văn học mà cần đặt nó trên bình diện văn hoá rộng lớn, với sự bổ trợ của các kiến thức dân tộc học, phong tục học, nghi lễ và tín ngƣỡng dân gian....
- Thêm nữa, chúng ta quen xét đoán nhân vật cổ tích dƣới góc nhìn tâm lí – đạo đức của thời đại (cái nhìn lịch đại) mà không đặt nhân vật dƣới góc nhìn đồng đại: so sánh kiểu hành động trừng phạt của cô Tấm với các nhân vật khác.
- Chẳng hạn, hành động trừng phạt của Đức Phật trong các truyện cổ có tính chất Phật thoại: Sự tích cái chổi, Sự tích lá phƣớn nhà chùa, Sự tích ông bình vôi.
- Phật trừng phạt những lỗi lầm, sơ suất rất thƣờng tình của con ngƣời bằng những cái chết cho nhân vật.
- Ở đây, chúng ta cũng không thể đánh giá Đức Phật dƣới góc độ con ngƣời – đạo đức vì Đức Phật thực hiện chức năng mà truyện cổ tích quy định: răn dạy con ngƣời tuân thủ nghiêm ngặt giáo lí của nhà Phật, ai đi ngƣợc lại điều đó thì bị trừng phạt.
- Vì thế, hành động của Tấm phù hợp với quy luật chung của thể loại truyện cổ tích và với tƣ tƣởng nhân dân ở thời đại mà truyện cổ tích ra đời.
- Cũng vì lẽ đó, câu cửa miệng của nhân dân “hiền nhƣ cô Tấm” vẫn tồn tại nhƣ một sự khẳng định phẩm chất, con ngƣời cô sau tất cả các hành động của nhân vật cũng nhƣ sự lƣu truyền qua thời gian của câu chuyện..
- để khẳng định bản chất của truyện cổ tích là câu chuyện tƣởng tƣợng, kì ảo, đem đến cho ngƣời đọc thế giới của tất cả những điều vô lí.
- Vì thế “không nên bằng cách bình luận văn học và thậm chí cả bằng cách “sửa chữa” truyện cổ tích theo hƣớng hợp lí hoá cho phù hợp với tƣ duy lô-gic của con ngƣời hiện nay mà làm mất đi cái vô lí ấy của truyện cổ tích.
- Vấn đề là giải thích đƣợc cái vô lí ấy, phát hiện ra cái hợp lí của bản thân truyện cổ tích” [1/344]..
- Chúng tôi bổ sung thêm ý kiến của M.Goóc-ki để thấy đƣợc tâm lí đón nhận của ngƣời đọc/nghe truyện cổ tích: “Tôi càng lớn càng thấy truyện cổ tích khác xa so với cuộc đời thực.
- Truyện cổ tích mở ra trƣớc mắt tôi một cánh cửa để trông vào thế giới khác.
- Thế giới đó là thế giới mà tất cả các nghệ nhân dân gian, ngƣời kể chuyện cổ tích Nga đã thẳng thắn thừa nhận: “Câu chuyện tôi kể đến đây là hết rồi, không thể bịa đặt thêm đƣợc nữa.
- Chính vì thế, giới nghiên cứu VHDG, cũng nhƣ những ngƣời biên soạn SGK không có quyền sửa chữa văn bản của tác phẩm VHDG để chạy theo tinh thần thời đại, bởi lẽ đặc trƣng cơ bản của truyện cổ tích là câu chuyện đã hoàn tất ở quá khứ và tinh thần thời đại không thể xâm nhập vào cấu trúc truyện kể.
- Đồng thời nhà nghiên cứu phải luôn bám sát đặc trƣng của văn học dân gian cũng nhƣ sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu chuyên ngành phù hợp với đối tƣợng.
- GV và HS phổ thông càng gặp khó khăn hơn vì họ không đƣợc trang bị những kiến thức lịch sử – văn hoá để giúp cho việc hiểu tác phẩm.
- Việc tìm hiểu thể loại ca dao cũng không thể tách rời những hình thức sinh hoạt văn hóa, ca hát của cộng đồng.
- Nhƣ vậy, từ đặc trƣng đối tƣợng VHDG là nghệ thuật ngôn từ trong một tổng thể văn hóa dân gian, mang tính nguyên hợp, thì ngƣời giáo viên cần thiết phải trang bị cho mình tri thức về văn hóa truyền thống, nắm vững đặc trƣng thể loại và phƣơng pháp tiếp cận để đem đến cho ngƣời học không chỉ vẻ đẹp của hình tƣợng, đặc sắc của nghệ thuật mà còn cho thấy chiều sâu văn hóa, cội nguồn lịch sử, tƣ tƣởng qua mỗi tác phẩm và thể.
- Những dấu hiệu hình thức nghệ thuật, lời kể, diễn xƣớng… của VHDG có thể biến đổi nhƣng những giá trị cốt lõi về văn hóa ứng xử, về tƣ tƣởng dân tộc, về niềm tin, giá trị nhân văn của con ngƣời thì vẫn đƣợc duy trì.
- Vì thế việc dạy và học VHDG cần phải đáp ứng đƣợc yêu cầu nâng cao tri thức về văn hóa cho ngƣời học, và chỉ có thể duy trì nền nếp, phong tục, ứng xử đẹp đẽ của dân tộc thông qua nhận thức và hành vi, thái độ của thế hệ trẻ, đặc biệt trong xu thế biến đổi của văn hóa, đời sống hiện nay..
- Sự tăng cƣờng lƣợng thông tin, tri thức về truyền thống văn hóa cộng đồng chắc chắn không đem lại cảm giác nặng nề mà thực sự ngƣời học sẽ đƣợc giải thoát khỏi những phƣơng thức giáo huấn theo lối mòn, vì chính điều đó đánh thức nhân cách văn hóa cộng đồng trong mỗi cá nhân ngƣời học..
- Chu Xuân Diên (2001): Văn hóa dân gian, mấy vấn đề phƣơng pháp luận và nghiên cứu thể loại.
- Đinh Gia Khánh (1989): Trên đƣờng tìm hiểu văn hóa dân gian, Nxb KHXH, Hà Nội..
- Nxb Văn hóa dân tộc, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội..
- Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện văn hóa dân gian (1999): Văn hóa dân gian – những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb KHXH, Hà Nội.

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt