You are on page 1of 144

VÙNG BIÊN NƠI ĐỐI MẶT

TRẦN HỮU TÒNG


VÀI LỜI TRÂN TRỌNG CÙNG ĐỘC GIẢ

Trong những lần tâm sự với cán bộ Nhà xuất bản Công an nhân dân, Nhà văn Trần Hữu
Tòng tự nhận rằng mình không được trời phú tài năng về văn chương. Ông viết văn như một sự tri
ân đồng đội, tri ân những người đã ngã xuống vì bình yên trên mảnh đất này. Hơn ba mươi cuốn
sách đã in, cuốn nào cũng nặng tình đời, thắm tình người. Đặc biệt, ông viết nhiều về người lính
biên phòng, về nhiệm vụ bảo vệ những vùng đất biên cương của Tổ quốc.

Không quá lời khi nói rằng những tác phẩm của Trần Hữu Tòng luôn luôn mới. Viết về đề
tài bảo vệ an ninh Tổ quốc nhưng mỗi tập sách, ông đều đưa ra những hướng tiếp cận khác nhau
về những đối tượng cụ thể. Viết về đề tài chiến tranh, về người lính biên phòng nhưng truyện ngắn,
tiểu thuyết của ông không vương mùi thuốc súng. Đọc văn chương Trần Hữu Tòng, người ta thấy
được hệ thống ngôn ngữ dễ đọc, dễ hiểu, hết sức bình dị, chứa đựng triết lý nhân sinh giản dị mà
sâu sắc, cũng giống như cách ông giao tiếp hàng ngày: không đao to búa lớn, luôn khoan thai,
chậm rãi, thong thả và khiêm nhường nhưng thấm dần, thấm lâu và thấm sâu vào người đối diện.
Những triết lý nhân sinh, quan niệm về cuộc sống cứ thế đi vào lòng người. Có ai đó đã nói rằng
chỉ có tấm lòng mới có thể đi sâu, bắt chặt vào lòng người. Chính vì vậy, người đọc nhớ đến Trần
Hữu Tòng nhiều hơn bởi những tác phẩm của ông.

Cuốn sách Vùng biên, nơi đối mặt gồm 7 truyện ký ngắn, ghi lại chiến công của những
người lính bảo vệ an ninh Tổ quốc. Ở đó có những mảnh đời bước ra từ chiến tranh, cuộc chiến
đấu chống lại âm mưu phá hoại của bọn gián điệp biệt kích, có nhiệm vụ chống phản động mang
màu sắc tôn giáo, chống không tặc... Bằng trải nghiệm của một con người từng sống trong quân
ngũ, ngòi bút Trần Hữu Tòng đi sâu vào tâm hồn của người lính để nói về góc khuất phía sau
những mảnh đời. Người đọc chợt nhận ra rằng sau ý chí can trường, tinh thần dũng cảm của họ là
những điều bình dị và thật sự cảm động, những góc khuất rất đời, rất người.

Xuyên suốt 7 câu chuyện trong cuốn sách này, ta nhận thấy đâu đó trên các miền biên viễn
của đất nước hòa bình vẫn có những cuộc chiến chưa bao giờ ngưng nghỉ. Mồ hôi, nước mắt và
máu của các chiến sĩ vẫn rơi giữa rừng già. Nhưng cũng như nhựa của những cây gió bầu hiên
ngang, chúng đã kết lại thành một loại trầm. Đọc Trần Hữu Tòng chỉ thấy thơm, thơm mãi mùi
trầm thoảng trong gió núi cây ngàn.

Nhà xuất bản Công an nhân dân xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc tập truyện ký Vùng
biên, nơi đối mặt của Nhà văn Trần Hữu Tòng.

NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN


NGÀY ẤY BIÊN CƯƠNG GIÓ LẠNH

Trời mờ sương, đằm mây. Gió lạnh từ khe núi hun hút thốc về. Trong trụ sở ủy ban giữa
bản Tà Chải, cuộc họp bắt đầu. Anh Trưởng Công an huyện đứng lên. Anh nói:

- Bọn thổ phỉ đã cướp ngô lúa của dân để trên nương. Chúng chặn các bìa rừng để bắt ngựa,
bắt trâu. Chúng sục vào các bản vắng giết cán bộ, đốt nhà gây mất an ninh trật tự. Chúng lan truyền
tin đồn nhảm rối loạn an ninh chính trị vùng biên giới xung yếu...

Một ánh lửa xanh lóe lên cắt ngang lời. Ánh lửa lằng ngoằng xé màn đêm đen kịt như nhìn
vào hang đá. Lập tức mùi khét thuốc nổ lan đẫm ra trong bầu không khí ẩm ướt. Một vật nặng từ
ngoài cánh cửa đang hé mở bay vào rơi bịch xuống giữa đám đông, cạnh anh Chỉ huy quân sự
huyện, anh Chủ tịch và Đồn trưởng công an vũ trang biên phòng. Bếp than hồng sưởi ấm tung tóe
lên, ánh đèn dầu vụt tắt. “Lựu đạn, lựu đạn. Nằm xuống, nằm xuống”. Seo Phà, Xã đội trưởng Tà
Chải kêu lên. Việc xảy ra quá bất ngờ làm cho tất cả nháo nhác. Lửa xanh từ ngòi nổ của quả lựu
đạn vẫn tóe lên. Tiếng xì xì dồn dập. Bỗng Seo Phà nhanh như con sóc nhoài người về phía quả
lựu đạn. Anh nằm đè lên nó. Động tác anh nhanh và dứt khoát. Ngòi chuyền nổ vẫn cháy xè xè.
Tàn lửa tóe ra như những que diêm đánh bị xịt dưới bụng Seo Phà. Lửa cháy áo Phà. Mọi người
nín thở. Nhưng rồi tàn lửa tắt. Tiếng “xì xì” cũng câm bặt.

- Xịt rồi! - Phà kêu lên. Giọng anh ấm, vang.

Hơn hai mươi người thở phào. Những người nằm đã ngồi nhổm dậy. Những người trú vào
góc vách đất đi ra. Ánh đèn pin chiếu sáng xanh loang loáng. Đèn được thắp lên. Seo Phà ngồi
dậy. Anh bình tĩnh đến thản nhiên. Tay anh cầm quả lựu đạn dài cổ vỏ nóng bỏng giơ cao lên. Anh
đi nhanh ra ngoài sân. Một tay anh ôm bụng, bởi một mảng da bụng anh bị bỏng và vạt áo trước
bị lửa cháy.

- Chúng định giết ta. Chúng định phá cuộc họp này. Nhưng may quá, lựu đạn không nổ.
Các anh xem, đúng là lựu đạn của bọn thổ phỉ rồi! - Seo Phà nói ríu lưỡi trong sự mừng vui. Anh
đứng trước bếp lửa vừa được nhen lên. Mùi củi thông sa mu thơm nhẹ. Ánh lửa nhảy nhót viền
một vừng sáng hồng quanh khuôn mặt nhỏ, gầy, có sống mũi cao của anh. Cái trán vát và đôi mắt
sâu của Phà lúc này như cùng rạng rỡ lên. Nom anh lanh lợi và tháo vát. Đôi chân hơi cong kiềng
của anh, đôi chân của người vì đeo lù cở(1) nặng, vì leo núi sớm, vì cưỡi ngựa nhiều từ bé lúc này
cũng như nhún nhảy trước bếp lửa theo niềm vui trong giọng nói của anh. Giọng anh nói to và âm
vang. Đồng chí Đồn trưởng công an biên phòng đến cạnh Phà. Anh soi đèn pin để nhìn kỹ quả lựu
đạn. Anh cầm lấy nó để vào góc sân. Rồi anh đi nhanh về phía cửa ván đang hé mở để như xác
định hướng quả lựu đạn từ đâu ném tới. “Đêm biên giới sương dày. Trời lại mưa nặng hạt”. Anh
nói nhỏ một mình vẻ thất vọng. Vì anh biết thời tiết như thế thì phương tiện truy lùng của anh: con
chó “Ánh chớp” dù có giỏi đến đâu cũng không thể làm việc được. Và hơn nữa quả lựu đạn đã
đẫm hơi của Phà. Dấu vết cũng bị lẫn lộn, bị xóa mờ trong mưa, trong vết chân nhiều người đi tới.
Các nhà trong bản Tà Chải truyền nhau tin bọn thổ phỉ từ rừng về ném lựu đạn vào cuộc họp. Xã
đội trưởng Seo Phà đã lấy thân mình che để cứu sống mọi người. Nhưng may quá, lựu đạn bị xịt.
Bà con đã đốt đuốc từ các ngả kéo đến. Hai hồi tù và nổi lên. Dân quân được báo động. Hoàng
Dìn - tiểu đội trưởng đã dẫn cả tiểu đội trang bị đầy đủ đứng trước sân để chờ lệnh của Phà. Phà
nói với Dìn:
- Anh chia làm ba tổ đi tuần tra dọc đường biên giới và báo cho điểm trực chiến biết sự
việc nghiêm trọng này.

Dìn chấp hành ngay lệnh của Seo Phà. Anh cho tiểu đội dân quân lên đường ngay. Phà xoa
mỡ trăn vào vết bỏng rồi anh cũng định mang súng đi tuần tra với dân quân. Nhưng người cả bản
đã đổ tới vây quanh lấy Phà. Họ đốt đuốc thêm vào cho sáng hơn để soi rõ tà áo trước của Phà bị
cháy, để soi mảng da bụng của Phà bị bỏng. Cô y tá Xuân Kiều từ trạm xá đã tất tả xách túi thuốc
chạy tới. Các ông già đưa mật gấu cho Phà, đưa thêm mỡ trăn cho Phà bôi vào chỗ bỏng. Các bà
mẹ đưa mật ong lấy giữa mùa hoa thuốc phiện cho Phà dùng để mau kéo da non. Người cả bản
hoan hô Phà, trầm trồ khen ngợi Phà. Cả bản Tà Chải đêm nay xem Phà như một vị anh hùng, như
một người con trai đầu bản xưa nay chưa từng có. Phà khiêm nhường nói với mọi người, rằng anh
làm như vậy để mong cứu sống được nhiều người đang họp mà ở đó toàn là cán bộ huyện, cán bộ
đồn biên phòng, cán bộ xã bàn nhiều điều quan trọng để bảo vệ bản làng; rằng nếu như có bị thiệt
mạng thì chỉ có một mình anh chịu thôi. Anh sẵn sàng nhận cái chết cho mọi người sống để làm
được nhiều việc cho dân; rằng anh làm như vậy để mong nêu một tấm gương tốt cho thanh niên
Tà Chải noi theo mà dũng cảm cùng công an biên phòng diệt thổ phỉ giữ yên làng bản cho dân.

... Nghe anh nói, bà con đều cảm động, thêm thương yêu kính trọng anh. Nhiều ông già đã
nói phải chặt cây sa mu to nhất, lâu năm nhất trong “rừng cấm” làm nhà năm gian đẹp nhất cho
Seo Phà ở; phải lấy con ngựa trắng đẹp nhất bản để Seo Phà đi. Có người còn nói Tà Chải nên mở
hội Xây Xán(1) sớm hơn mọi năm, trồng cây nêu cao hơn mọi năm để chúc mừng Phà mới xứng
tấm lòng tốt của Phà. Hôm sau cuộc họp tiếp tục. Đại biểu dân quân các bản làng, huyện đội, đồn
biên phòng, công an huyện... bàn tiếp việc bảo vệ vùng đất xung yếu ở vùng biên cương này. Trong
cuộc họp, từ tham mưu huyện đội đến đồn trưởng biên phòng, trưởng công an huyện đã ôm chặt
lấy Phà, khen ngợi hành động dũng cảm của anh. Mọi người đều nói hành động đó đã cứu sống
được nhiều người trong cuộc họp nếu như quả lựu đạn nổ, mà có ai đoán được trước là nó nổ hay
không. Và, đó cũng là một bằng chứng chứng minh việc làm táo tợn của bọn xấu định ám hại
những cán bộ chủ chốt của dân quân các xã về họp. Xã đội trưởng Seo Phà được cả hội nghị nhất
trí đề nghị lên trên khen thưởng thật xứng đáng. Seo Phà vui vẻ nói với mọi người, giọng anh ấm,
âm vang như con chim gáy trống gù buổi sớm trong rừng sa mu:

- Tôi làm được việc đó là nhờ cán bộ huyện, cán bộ đồn biên phòng dạy cho, tôi phải gan
dạ như thế để xứng với người con trai Mông “đẻ bên cửa bếp, chết trên cửa trời và sống thì phải
như cây sa mu trên đỉnh núi”.

Qua lời khiêm nhường đó, cả bản Tà Chải thật sự đã xem Phà như một ngôi sao sáng đẹp
trên khóm trúc vàng, trên khóm mai xanh ở đầu núi; như một cây thông sa mu lâu năm vòng gốc
ba người ôm không xuể, năm người quàng tay không hết ở trên đỉnh Hoàng Liên này. Đồng chí
trưởng đồn biên phòng hỏi Seo Phà cất quả lựu đạn ở đâu, vì hiện vật đó có thể góp phần cho anh
tìm ra manh mối kẻ địch. Seo Phà cười:

- Tôi vứt nó xuống suối. Tôi sợ trẻ em tò mò tháo lấy thuốc nhồi đạn súng săn nguy hiểm
đến tính mạng mà. Nó cũng giống như một quả lựu đạn cao cổ của ta thôi mà. Có đáng gì đâu mà
đồng chí để tâm. - Phà cười vui vẻ.
- Chết, anh vứt xuống đoạn nào, người đi làm cá lại gặp nguy hiểm, đáng lý phải chôn đi
chứ.

- Tôi vứt xuống vực Xanh. Vực sâu lắm, có ai làm gì ở đấy.

Đồn trưởng công an biên phòng nhìn ra phía vực Xanh. Trong khóe mắt anh ngưng đọng
lại một điều gì, điều anh suy nghĩ về quả lựu đạn không nổ ấy...

Tiếng lành đồn xa, tiếng thơm tỏa rộng, Xã đội trưởng Phà được cả bản Tà Chải, cả vùng
Mông này quý mến. Phà đi đến đâu cũng được trẻ con, người lớn vây lấy anh. Họ bắt anh kể lại
sự việc đêm ấy. Họ hỏi anh đã tìm ra ai ném quả lựu đạn vào định ám hại cán bộ đang họp chưa.
Trong phiên chợ ở chân núi Nàn, người ăn thắng cố đều râm ran bàn tán với nhau về chiến công
của Phà. Mọi người đã uống thêm bát rượu để chúc mừng Phà, để vui mừng với nhau rằng con trai
Mông có người gan dạ đến thế.

Từ đó Xã đội trưởng Seo Phà trở thành hình tượng tiêu biểu của người Mông ở đây. Phà
nói, dân nghe. Phà làm, dân Tà Chải và các vùng xung quanh đều làm theo. Dân tin Phà lắm. Từ
trước tới giờ ở Tà Chải này có Chủ tịch Páo dân vốn đã tin nhiều. Người Tà Chải nói với nhau họ
đã từng biết rõ lòng người trong bản như từng biết mặt đá trong rừng Hoàng Liên này, như từng
biết rõ thớ gỗ của các loài cây trên ngọn núi này để quyết định tin ai, nghe ai. Họ từng nói với nhau
phải biết rõ người như biết rõ đá trắng thì đục làm cối giã gạo, đá xanh cứng thì đục làm cối xay
ngô, đá mềm xếp nung vôi, đá có quặng đun lấy sắt đục lưỡi cày, làm chảo gang, làm nồi nấu, đá
trộn với đất thì giã nhỏ nặn thành bát đĩa...

Trước đây có Chủ tịch Páo dân yêu nhiều, tin nhiều, nhưng giờ đây họ càng biết rõ Phà
như biết rõ hòn đá làm ra được vòng bạc đeo cổ, đeo tay nên dân đã quý Phà nhiều hơn Chủ tịch
Páo rồi đấy. Páo, tiếng Mông là con hổ lớn. Chủ tịch Páo cũng táo bạo, năm lần tiễu trừ thổ phỉ,
anh đã cùng công an biên phòng bám đất bản dùng súng bắt tỉa chặn đường chúng vào bản. Nhưng
rồi việc làm tốt của Xã đội trưởng Phà giống như tiếng sấm đầu mùa rung động cả đất núi Hoàng
Liên, dân đã hướng về Seo Phà nhiều hơn. Thâm tâm có người không nói ra, nhưng cũng có nhiều
người đã nói ở Tà Chải, Phà đã cao hơn Chủ tịch Páo một đầu một với. Phà có công, có lòng tốt
nhiều hơn Chủ tịch Páo, Phà sẵn sàng chịu chết, Phà dám nằm lên quả lựu đạn để mong cứu sống
nhiều cán bộ thì đã rõ, còn Páo có dám làm như thế không thì chưa ai biết. Sự so sánh giữa Chủ
tịch Páo và Xã đội trưởng Seo Phà cứ thế lan rộng ra khắp Tà Chải, lan tới các bản xung quanh,
lan ra cả vùng người Mông ở đất núi Hoàng Liên này.

Cán bộ người Mông ở các bản cứ rầm rập, rầm rập cưỡi ngựa lang, ngựa trắng chư dù đen,
dù hoa đến Tà Chải, đến nhà Phà đẻ uống chung với anh ba bát rượu chua, ba bát rượu mặn. “Nhà
có nhiều chống càng tốt, vách có nhiều cột càng bền”. Bà con ở Tà Chải nói như vậy và họ càng
thêm yêu, thêm quý anh Xã đội trưởng Seo Phà. Phà đã vượt qua phong tục cũ của người Mông là
con trai không được đi xa nhà vì khi đẻ bên bếp lửa, mẹ đã cắt rau chôn ở chân cột cái rồi. Nhưng
Phà đã rời hẳn nhà những năm, sáu năm làm chiến sĩ biên phòng ở tận đồn tiền tiêu Xì Lở Lầu bên
Lai Châu. Anh về bản là được huyện giao ngay cho chức vụ xã đội trưởng. Huyện xem anh về như
được tăng cường thêm sức mạnh, tăng thêm một chiến sĩ đã được rèn luyện cho chính quyền xã
xung yếu sát đường biên. Và, khi anh có hành động dũng cảm tuyệt vời đó thì ai cũng xem anh là
người nhất bản. Anh nói gì dân cũng nghe theo. Anh làm gì dân cũng làm theo. Tập tục của người
Mông là thế. Như câu hát của họ “áo đẹp thì nhìn thấy ngay, nhưng còn lòng dạ tốt xấu thì phải
qua việc làm mới biết được”. Còn Chủ tịch Páo từ lâu cũng như cây thông sa mu to lâu năm nhất
trong rừng cấm, nhưng nay có Seo Phà xuất hiện rực rỡ như có cây thông tơ mơn mởn vừa lớn
vượt lên che trùm bóng lá, bà con đều xem Phà hơn Chủ tịch Páo. Phà cưỡi ngựa đi thăm hết các
nhà trong bản. Thấy ai yếu đau, hay cảm sốt, Phà báo ngay để cô y tá Xuân Kiều đến tận nhà khám
bệnh, cho thuốc. Nhà nào muốn dựng nhà mới, Phà đồng ý cho vào rừng cấm, chặt cây thông, cây
dẻ to về làm cột. Số cây thuốc cả bản trồng như tam thất, bạch truật, đương quy để bán cho Nhà
nước, Phà nói đã xin cấp trên về chia hết cho dân, chia hết cho các ông già bà lão bồi dưỡng. Seo
Phà khác với Chủ tịch Páo là anh cho các nhà nấu rượu ngô, rượu xèo để uống mà không hạn chế
nấu rượu để tiết kiệm lương thực như Páo. Phà còn thông cảm với dân Mông hơn Chủ tịch Páo là
anh lờ đi, cho đám con trai và người già hút thuốc phiện trên lều canh nương. Bởi vậy dân Tà Chải
rất quý Xã đội trưởng Seo Phà. Xem Phà miệng khéo như con chim chớ chúa(1) nói hay như con
chim chớ chỉ(2). Ở bản Mông ngót 80 nhà, nhà nào, thậm chí người nào từ trẻ nhỏ như con gà mới
tập kêu tập gáy, đến cụ già như bóng râm ngả dần bên lũng núi đều cảm thấy mình có mang ơn
của Seo Phà, có được hưởng ân nghĩa của Seo Phà. Họ nghĩ mình phải gắn bó với Seo Phà như
cây tre gắn với đất Tà Chải để lên măng, như cây mai gắn với đất Hoàng Liên để bén rễ. Và, dần
dần người Tà Chải xa dần, lạnh nhạt dần với Chủ tịch Páo. Họ cho Páo quá khắt khe với dân,
không biết thương dân nhiều. Rồi suy đi nửa với, nghĩ lại một sải, họ càng thấy công lao của Chủ
tịch Páo mà mọi người lâu nay khen, lâu nay thấy ngọt thơm như quả lê chín bói thì nay đắng như
cắn phải quả đào non trái vụ. Trung đội dân quân của Tà Chải thì Phà nắm rất chắc. Phà vốn là
một chiến sĩ biên phòng nên anh có kinh nghiệm, anh tổ chức lại cho chặt chẽ. Anh giao cho Hoàng
Dìn làm trung đội phó. Anh giao cho Dìn giữ khẩu AK tốt nhất. Cô y tá Xuân Kiều được anh giao
cho làm y tá của trung đội dân quân. Cô thường xuyên đi với anh xuống các bản, lên các trạm gác
để chăm sóc sức khỏe cho anh em. Phà đặt ra chế độ huấn luyện rõ ràng, dân quân tập bắn nhiều
loại súng... Phà đặt trạm gác ở đầu bản, ở cuối bản; đặt đài quan sát bí mật trên núi cao để hàng
ngày nắm được hoạt động của bọn thổ phỉ. Phà đặt các tổ phục kích, chốt chặn các đường mòn để
bắt thổ phỉ lẻn vào các bản.

Nghĩa là tất cả các biện pháp đánh địch để giữ an ninh biên giới của một chiến sĩ biên
phòng mà anh đã học, anh đã được làm thì đều áp dụng đầy đủ cho đội dân quân Tà Chải. Ban
ngày và cả ban đêm, Phà cưỡi ngựa đến kiểm tra các bản, kiểm tra đường biên giới. Đến nơi nào,
Phà cũng nói với anh em dân quân cái câu anh học được hồi anh còn là chiến sĩ biên phòng: “Ta
đã thắng bọn thổ phỉ rồi, nhưng ta đừng coi thường chúng nó. Nếu coi thường một kẻ thù dù là nó
yếu đi nữa cũng giống như người coi thường không chịu dập tắt một đốm lửa nhỏ để rồi nó cháy
lan ra, cháy mất cả rừng thông sa mu ta trồng, cháy hết cả bản Mông của ta đấy”. Các chiến sĩ dân
quân kính nể anh và tin trọn vẹn vào anh. Họ nghe anh rồi cùng anh lấy máu đầu ngón tay nhỏ vào
bát rượu uống để ăn thề, để viết vào vách đá Tà Ngải Chồ, Seo Ngải Chồ, núi Tà Chải những câu
ca người Mông hay hát:

“Để chúng nó đến đây

Còn đâu nước ta uống

Còn đâu bắp ta ăn

Mình chết hay nó chết


Để nó sống mình phải chết

Giết nó chết, mình mới sống...”

Thế rồi Xã đội trưởng Seo Phà và cả cô y tá Xuân Kiều lại lập được chiến công. Đó là lần
anh và Xuân Kiều đi lên dốc núi bản Tà Ngải. Vào một buổi sớm rừng thông sa mu đang đằm
sương, đằm khói, các cây cao đều như bọc chóp trắng và sương muối thì rải dày làm héo quắt ngọn
cỏ, lá cây. Seo Phà đi trước, Xuân Kiều vai mang súng, vai mang túi thuốc đi sau. Đến đoạn đường
giáp biên, bỗng Phà nhìn thấy những vệt cỏ lướt qua con đường mòn. Vết lướt từ trong rừng đi
vào bản. Phà đi theo vết lướt thì anh nhìn thấy rõ hai dấu bàn chân ướt in rõ trên phiến đá. Phà
quay lại nói với Xuân Kiều. Giọng anh khẳng định:

- Có bọn thổ phỉ vừa vượt qua đây. Theo tôi có thể có hai tên, vì hai dấu chân cùng bàn
chân phải in lại trên đá.

Phà phân công cho Xuân Kiều ngồi lại sau phiến đá lớn để cảnh giới. Còn anh truy ngay
theo vết dấu chân. Vượt mái đồi cỏ vào đến đầu khu rừng thông sa mu thì Phà nhìn thấy hai bóng
người thấp thoáng trong sương lạnh và mây dày. Cả hai tên đều mặc áo màu đen. Chúng đang rẽ
cành thông sa mu đầy gai để tiến về phía đầu nguồn con suối. Phà chạy nhanh và anh đuổi kịp.
Chúng bỏ chạy. Phà nổ súng ngay. Một tên phỉ ngã gục tại chỗ. Một tên run rẩy quỳ xuống giơ hai
tay lên trời xin hàng. Phà ấn cò tiếp, anh định bắn chết luôn nó. Anh ấn hai lần, súng vẫn không
nổ, vì băng đạn đã hết. Cả hai tên đều có dao găm và một trong hai tên có mang một túi thuốc độc.
Tên sống sót run rẩy khai với Phà rằng, chúng được phái về bản thả túi thuốc độc vào đầu dòng
suối mà đồn biên phòng ở phía dưới ăn nước... Chiến công diệt hai tên thổ phỉ đó làm cho Xã đội
trưởng Seo Phà thêm rực rỡ. Đội dân quân Tà Chải và cả cơ quan quân sự huyện, công an huyện
đã đề nghị ngay lên cấp trên khen thưởng thật xứng đáng Seo Phà, khen thưởng cả cô y tá Xuân
Kiều nữa.

Cả bản Tà Chải đã thật sự xem Xã đội trưởng Phà là linh hồn của người Mông. Trung đội
phó Hoàng Dìn đã nhiều lần kể câu chuyện cổ: Người Mông xưa có ông tổ dẫn đầu dân đánh giặc
để giữ cõi bờ đất núi của người Mông, và Dìn đã xem Phà như quân của ông tổ ngày xa xưa đó
hiện về. Chuyện rằng: Ngày xưa người Mông có ông tổ chung. Lúc đó có giặc đến cướp đất rừng,
phá xóm bản, ông tổ nói: bản rừng có giặc, mọi người Mông bất kỳ dòng họ nào cũng phải hợp
sức lại mà đánh giặc. Vì mọi dòng họ cùng sống chung mảnh đất rừng, nếu để mất đất rừng thì
không còn dòng họ nào sống được. Người Mông ta phải xem đất rừng Hoàng Liên to hơn tất cả
mọi dòng họ. Nghe lời nói đúng đó, các dòng họ đã góp nồi đồng, dao phát, chảo gang, lưỡi cuốc
lại đúc cho ông một con ngựa, rèn cho ông một lưỡi gươm sắc. Ông cưỡi ngựa, cầm gươm dẫn đầu
quân đi đánh giặc. Người hơn 20 dòng họ là quân của ông. Ông vung lưỡi gươm các dòng họ đúc
cho chém chết rất nhiều giặc. Bọn giặc xin hàng, xin rút hết quân chạy vào rừng rậm. Những đứa
bị bắt ông cho về sống với vợ con. Sau đứa đi cuối cùng, ông chém một nhát gươm xuống đất. Núi
vỡ. Vết chém đó thành dòng suối cho giặc nhớ đời đừng bao giờ bén mảng tới. Giặc tan. Tất cả
các cánh hoa lê ở đất Hoàng Liên kết lại thành vầng mây trắng. Vầng mây đó nâng cả ông và con
ngựa sắt lên đầu núi. Còn lưỡi gươm sắc ông cắm xuống đất. Ở chỗ đó mọc thành cây lê hoa thơm
quả ngon ngọt đủ năm mùi, ngon nhất vùng núi Hoàng Liên này. Đến mùa lê chín, người Mông
ăn lê, lại nhớ đến chiến công đánh giặc của ông (con suối đó nay là dòng sông Na. Ngọn núi ông
lên nay là núi đá hoa cương Lũng Phúng đầu bản Tà Chải).
Dìn và cả bản Tà Chải đều nói Phà như quân của ông tổ xa xưa đó hiện về cùng với dân
tiễu trừ bọn thổ phỉ. Mọi người xem tiếng nói của Phà như tiếng sấm mới báo mùa vui, mùa lúa
chín, mùa xèo ra hoa, mùa ngô chắc hạt. Không ít người đã nghĩ rằng dù có ai đem dao phát cây
rừng bằng như gấu áo cũng không tách được dân Tà Chải ra khỏi Seo Phà. Những ông già người
Mông đã nói: “Lông mày mọc trước, cái râu mọc sau, nhưng râu đã dài hơn lông mày là thế đấy”.
Ý nói Phà là lớp sau mà đã giỏi hơn, tốt hơn, được lòng dân nhiều hơn Páo.

Thế rồi chỉ hơn tháng sau, Xã đội trưởng Seo Phà đã nói cho bà con Tà Chải biết một điều
rất mới, rất lạ. Phà nói rằng “Áo rách thì thấy được ngay, còn lòng dạ rách xấu thì nhìn việc làm
mới thấy rõ”. Phà nói: “Chủ tịch Páo là người như thế đấy. Chính Chủ tịch Páo là người dẫn đường
đưa thổ phỉ vào bản này, chỉ cho thổ phỉ giết cán bộ ở bản Seo Ngải Chồ, Hoa Xư Pan. Páo nói
với dân một đường, thế nhưng chính Páo lại làm một nẻo. Páo có anh em họ hàng với tên trùm phỉ
đang ở bên Đồng Văn. Cơ chừng Páo đã móc nối với phỉ rồi. Có lẽ Páo như cái dùi nhọn hai đầu
đấy”. Hoàng Din còn nói thêm với mọi người là dân quân đã bắt được nhiều bí ngô, bì gạo, cả
những ống tre đầy rượu giấu trong nương kiệu, nương gừng của Páo. Chắc là Páo tiếp tế chọn thổ
phỉ...

Páo đi họp ở huyện về thì cả vùng Tà Chải đã lan truyền tin đó. Không ai biết rõ, không ai
xác minh rằng những chuyện đó có thật hay không, có đến mức nào, nhưng người lớn trẻ con rồi
người cả phiên chợ Nàn đã lan truyền, đã biết Chủ tịch Páo là con người xấu như thế, xấu đến thế.
Rồi cô y tá Xuân Kiều viết đơn gửi lên huyện, gửi lên chính quyền Tà Chải. Trong đơn cô nói rằng
“...Chủ tịch Páo là người rất xấu. Chủ tịch Páo lâu nay giống như con sói đen trên rẫy vờ kêu tiếng
con nai nhưng để lừa tai dân. Páo đã nhiều lần lợi dụng quyền hành của chủ tịch để ép buộc tôi
phải đưa thuốc tốt của trạm xá cho Páo để Páo đưa về nhà cho vợ con. Bởi vậy nhiều lần dân bản
ốm bệnh mà trạm y tế thiếu thuốc tốt để cứu chữa. Páo còn có những việc làm xấu lắm. Việc làm
xấu của Páo lấy dây bằng da ngựa trắng, dây bằng da trâu đen trói lại mới đúng. Nhiều đêm Páo
đã vào trạm y tế dỗ dành tôi, sỗ sàng với tôi để hòng giở trò xấu. Bị tôi chống lại, Páo đã đưa cho
tôi tiền để mua chuộc tôi, Páo bảo tôi cần bao nhiêu cũng có, cần gì cũng có chỉ có điều đừng nói
cho ai biết việc xấu của Páo làm. Bây giờ tôi xin nói hết sự thật về Páo cho mọi người biết. Tôi
xin nộp lại cho chính quyền số tiền Páo đã dùng mua chuộc, dụ dỗ tôi để làm chứng. Tôi nói lên
mọi sự thật đó để bà con bản ta, để chính quyền thấy rõ Páo là người chỉ tốt bề ngoài thôi. Páo
không xứng là cán bộ của dân nữa đâu. Tội của Páo đáng lí phải chết thối lúa, chết úa cỏ ra mới
trả hết...”.

Chủ tịch Páo về đến Tà Chải thì trận mưa sấm chen trận mưa gió. Rừng Mông đèn ngòm,
núi Tà Chải u mờ lạnh ngắt. Nghe vợ con nói lại sự tình như thế, Páo đắng miệng như cắn phải
quả đào non trái vụ. Páo ngồi tựa cột, mắt gườm gườm tức giận nhìn bếp lửa. Vợ Páo cũng cay
đắng, chị nói:

- Ôi, con gà thức giấc còn biết vỗ cánh, con lợn thức giấc còn biết rùng cổ, anh bảo rằng
anh bị chúng vu oan mà lại không biết làm sao à?

- Tao từng lấy rừng Hoàng Liên làm anh, núi Tà Chải làm em, lấy đất Mông làm nhà. Tao
không sợ ai hết. - Páo cầm chặt chuôi con dao phát sáng loáng. Páo ở bản Tà Chải này kể từ ngày
mẹ anh ăn một miếng phải nhả hai miếng để nuôi, để mớm cho anh. Rồi Páo từng ăn quả dâu xanh,
ăn quả đũm vàng ở đất Tà Chải lớn lên. Páo đã từng ăn rau chần, rau ngải, ăn măng mai, măng sặt
ở Tà Chải mà làm ra ngô nương, làm ra lúa rẫy. Con hổ hoa, hổ vằn táo tợn có tiếng cũng kiềng
nể mũi tên, cái bẫy của Páo. Từ năm mười tuổi, Páo đã rủ bạn vào rừng nhìn con ong đi lấy nhụy
hoa bay cao bay thấp để dò đoán tổ nó ở xa hay gần rồi cầm dây đến chờ ở gốc cây có tổ ong bắt
sống gấu ngựa khi nó ăn mật say. Lần muốn ăn thịt dê đen nhà hàng xóm, Páo đã ra núi ăn ba ngọn
lá ngón vàng cho say để bạn bè phải bắt dê cạo lông đốt lấy tro và mổ bụng để lấy gan làm thuốc
chữa cho anh. Rồi khi hết say thì cả bọn cùng nhau chén thịt dê. Bởi cái tính táo tợn đó mà mẹ anh
đã đặt tên cho anh là Páo (Páo: tiếng Mông là con hổ lớn). Páo là người đảng viên Đảng cộng sản
đầu tiên ở bản Tà Chải. Páo đã được bầu làm chủ tịch 6 năm liền. Cũng như các ông già ở Tà Chải,
Páo đã truyền lại cho con cái câu của tổ tiên người Mông từng dặn:

“... Con trai Mông mẹ đẻ trước cửa bếp, chết bên ngựa trên của trời, lòng phải ngay như
nòng súng, lời nói phải đúng như mũi tên bay, sống phải thẳng như cây sa mu nơi đầu gió”.

Nhiều ông già ở các bản cũng đã cầm con dao thề của dòng họ chém ba nhát vào cột cái
của nhà mình mà dặn đứa cháu đích tôn nhớ lấy những lời nói ấy. Ngày thổ phỉ tràn đến Tà Chải,
Páo đưa dân vào núi ẩn tránh, rồi anh cùng với đội dân quân luồn rừng phục kích, bắn tỉa diệt
chúng. Páo đã vận động bà con làm chông làm bẫy không cho chúng lẻn vào bản. Hồi đó Páo đã
nói với mọi người Mông ở Tà Chải: “Còn người Mông thì đất Hoàng Liên này còn. Còn người
Mông thì rừng ta không mất”. Sau đợt cùng với công an vũ trang biên phòng tiễu trừ thổ phỉ năm
ấy, Páo được về dự hội mừng công, và Páo đã được cấp bằng khen. Thế rồi, Chủ tịch Páo đã gặp
một tai họa: Vào một buổi trưa trời hanh khô, dân đi làm nương hết, vợ chồng Páo cũng ở lại trên
nương, thì nhà của Páo bốc cháy ngùn ngụt. Lúa ngô cháy hết, quần áo, cháy hết, chảo nồi vỡ hết.
Vợ chồng Páo không còn một bữa ngô mà ăn, không còn một bộ quần áo để thay. Bà con Tà Chải
đã bàn với nhau “một miếng cũng là tình, lưng thồ cũng là nghĩa” và đã góp từ cái bát, đến bắp
ngô để đùm bọc Páo. Bà con lại chặt tre, cắt tranh làm nhà cho gia đình anh ở. Vụ cháy đó không
tìm ra thủ phạm. Nhưng nhiều người đã đoán rằng có bọn thổ phỉ trốn ở rừng luồn về châm lửa
đốt nhà của Páo. Nay những tin dữ dằn cứ như những cái dây ngón đen, ngón vàng bò dần, lan dần
truyền đến tai người Mông ở các bản: “Phải bắt Páo đền tội. Phải lấy mỡ của Páo rán Páo lên, bởi
Páo là người xấu, Páo đã phản lại người Mông”.

Vậy thế mà từ ngày có Seo Phà về giữ chức xã đội trưởng thì Páo những tưởng tình nghĩa
hai người sẽ nồng đậm như rượu nung lâu trong vò càng ngày càng ngấu. Nhưng Páo không ngờ
anh đã mất dần lòng bè bạn, xấu bụng họ hàng và anh lu mờ dần đi như mùa gừng tàn lá rồi chuốc
lấy nỗi đắng cay này. Páo nói với vợ mà hai tròng mắt anh đỏ ngầu. Giọng anh tức giận như muốn
gầm lên:

- Hừ, rừng lau không phải nơi cho trâu mộng cọ sừng. Lanh già không ra quả xèo, kiệu già
không ra quả kê. Cây gạo già thì ruột xốp xáp đi, vỏ mọc chông gai lên, chứ con người Mông sống
lâu năm, lòng không mọc gai lên như thế. Cái con gà mái đi khắp nơi không có chồng lại nói tôi
như thế à. Nó ăn bừa được chứ nó không nói bừa được như thế đâu.

Nghĩ đi nát gan, nghĩ về đứt sức. Páo nhìn vợ, đôi mắt của chị không còn nhìn anh như
ngày nào cùng ngồi bên bếp lửa ấm. Ngày ấy đôi mắt chị đẹp và hàng lông mày cong như trăng
đầu tháng. Chị nói với anh: “Em như cây tre non chưa qua cơn gió lướt. Em làm ăn như con nhện
ngày nắng giăng tơ trên đồi, ngày mưa thu tơ dưới lũng. Anh vững lòng tin em, yêu em. Anh đừng
có lúc nhặt lúc khoan như hút gió vuốt ve cánh bướm hoa xòe giữa mùa sấm mới. Dù anh đi xa
đến chín dốc núi, mười đèo dài, em vẫn tìm anh, nhìn thấy dấu chân anh dưới con suối đục...”. Lúc
ấy Páo nhìn đôi mắt vợ mà cứ tưởng bát nước lã uống chung cũng ngọt như bát mật ong giữa rừng,
mật khoái trong núi. Còn giờ đây đôi mắt vợ anh nhìn anh gườm gườm chất đầy ngờ vực trước
những lời đồn đại về việc cô y tá Xuân Kiều tố cáo anh. Biết ý vợ, Páo cười gằn. Anh thở hắt ra.
Anh đứng dậy nói bâng quơ:

- Nếu tôi là cây lanh, tôi sẽ trút lớp vỏ ngoài ra cho mọi người thấy ruột. Nếu tôi là cây tre
non thì tôi sẽ tách đôi ra cho mọi người biết nước trong lòng ngọt hay đắng. Nhưng tôi là tôi. Tôi
là thằng Páo. Nếu tôi đúng như thế thì tôi sẽ thành kiếp trâu để cày nương, tôi phải làm kiếp ngựa
để thồ người. Tôi sẽ làm kiếp lợn để người giết thịt, làm kiếp chó để người đánh. Rồi xem...

Páo không ăn cơm. Anh xách khẩu AK và cầm con dao phát sáng loáng. Anh xô mạnh
cánh cửa đi ra. Ánh lửa từ bếp hắt ra rọi theo bước chân đi hối hả của anh. Anh uất ức như muốn
kêu to lên: “Lưỡi người ác bằng mười nọc rắn cạp nong, độc bằng trăm nọc ong có đốm là thế đó”.
Đêm biên giới sau cơn mưa thì gió lạnh ập đến, sương dày. Rừng Mông đầy những mây cùng khói.
Trước mặt Páo, đất chỗ lõm, chỗ lồi. Những đỉnh núi lô nhô hệt như nếp gấp đều của váy, của áo.
Anh định chạy bổ đến cuối bản. Anh định rẽ vào nhà Seo Phà để hỏi cho ra nhẽ.

...Bỗng hai loạt súng AK nổ giòn ở cuối bản Tà Chải. Seo Phà, Hoàng Dìn và đội dân quân
rồi cả dân bản đốt đuốc chạy đến nơi có súng nổ. Tất cả đã thấy Páo nằm gục trong vũng máu. Sáu
viên đạn AK xé nát bộ ngực vạm vỡ của anh. Xã đội trưởng Phà xem xét những vết đạn xuyên
ngực Páo, xem xét nơi Páo ngã, xem khẩu AK của Páo nòng còn nóng bỏng đang khét lẹt mùi
thuốc súng. Phà nhặt sáu cái vỏ đạn văng bên cạnh Páo. Phà quay ra nói to với mọi người. Giọng
anh quả quyết:

- Có lẽ Páo đã tự bắn vào ngực mình để không bị cấp trên xử phạt về tội của Páo nói ba
ngày không xong, kể bảy ngày không vơi.

Mọi người ở Tà Chải đều tin như thế. Hoàng Dìn trung đội phó dân quân và cô y tá Xuân
Kiều truyền cho những ai không có mặt ở đó nghe lời nói của Seo Phà. Trần Thường, Đồn trưởng
công an vũ trang biên phòng đến nơi thì hiện trường không còn nữa. Chị vợ của Páo đã cõng xác
anh về nhà rồi. Khẩu súng AK cũng được đưa đi theo rồi. Nghe Xã đội trưởng Phà kể lại rành rọt,
Trần Thường đứng im. Anh suy nghĩ. Anh hỏi:

- Đồng chí thấy đủ sáu cái vỏ đạn chứ?

- Có. Đều văng ra ở gần. Và đạn trong băng lắp ở súng của Páo. Đúng là Páo tự bắn chứ
không phải bọn phỉ phục kích mà...

- Bắn hai loạt?

- Đúng là hai loạt, người cả bản đều nghe mà.

- Thế là mỗi loạt ba viên. - Trần Thường nói chậm rãi. Anh không nói rõ ra nhưng anh đã
có suy nghĩ về cái chết của Chủ tịch Páo ...
*

... Nó bị bắt trên đường đi vào bản Tà Chải. Trong người nó không có vật gì ngoài tờ giấy
viết nguệch ngoạc, sai cả chữ cái: “Tôi về xin hàng công an biên phòng. Tôi xin được ở bản Tà
Chải. Tôi sẽ khai chỗ bọn phỉ ở trong rừng...”. Khi gặp dân quân, nó chủ động đưa ngay tờ giấy
đó. Nó khai tên nó là Thào Quý, người Mông bên Hoàng Su Phì theo phỉ từ lâu, từ ngày còn trùm
phỉ Châu Quang Lồ. Nay chán cảnh sống chui lủi trong rừng nên ra xin hàng. Tờ giấy đó nó nhờ
người viết. Nó nói thêm rằng, nó thấy bạn nó bỏ phỉ trở về bản được công an biên phòng đối xử tử
tế, giúp làm nhà ở, giúp làm nương rẫy để sống, nó cũng muốn được như thế. Trông nó có vẻ khù
khờ. Đội tuần tra của dân quân đưa Thào Quý về đồn biên phòng và nói những điều biết về nó với
Đồn trưởng Trần Thường. Trần Thường ngồi im. Anh đã chán ngấy cái trò trá hàng như thế này
của bọn thổ phỉ rồi. Thủ đoạn cũ cứ lặp đi lặp lại mà thôi. Lát sau, anh nói với các chiến sĩ trinh
sát biên phòng: “Không nên tin những lời nịnh hót của bè bạn thì lại càng không nên tin những lời
tâng bốc của kẻ thù. Và chớ có mủi lòng thương hại hay xem thường sự yếu đuối và khờ khạo như
thế của kẻ thù. Bởi nó sẽ không thương hại sự nông cạn và sơ hở của ta đâu.” - Anh khoát một cử
chỉ dứt khoát. “Tống ngay nó vào nhà giam”. Tên phỉ Thào Quý kêu khóc. Các chiến sĩ biên phòng
nghiêm chỉnh chấp hành lệnh của Trần Thường. Đồn trưởng Trần Thường không xáp mặt tên thổ
phỉ Thào Quý. Nhưng anh đã nhiều lần đứng rất lâu ngoài nhà giam nhìn qua lỗ kiểm tra để quan
sát kỹ tên này. Hàng ngày gặp chiến sĩ ta, nó có bộ mặt vay mượn sự ủ ê héo hon. Nhưng khi ngồi
một mình thì mới rõ cái thần sắc thật của nó. Cái trán dô, quai hàm bạnh, hai gò má cao, đôi mắt
sùm sụp, có cái nhìn ngang ranh mãnh đã nói lên điều đó. Ở bên má trái nó có một cái nốt ruồi to
bằng hạt ngô đỏ như cái mụn đang ương mủ và hai ba cái lông đen chổng lên lơ phơ. Nom nó có
nét gian giảo và tráo trở rất rõ. Tóm lại bộ mặt tên thổ phỉ Thào Quý là bộ mặt của một tên hãm
tài bẩn tướng, lật lọng không đáng tin cậy. Trần Thường có nhận xét tên này còn có một nét riêng
khác những tên thổ phỉ đã giở trò trá hàng hoặc đã bị ta bắt. Nó có thói ngủ ngày nhưng thức hầu
như suốt đêm. Nhiều đêm anh thấy nó vẫn bó gối trong góc nhà, hai con mắt trắng dã nhìn vào
ngọn đèn dầu không chớp. Nó cứ ngồi như thế trắng đêm. Nhưng đến gần sáng, khi con chim cứ
cư gióng giả hót trên đầu núi thì nó lại lăn ra ngủ ngáy gừ gừ như con ác thú sau buổi săn mồi. Hai
bên mép nó sùi hai cục nước bọt trắng xóa. Cái thói thức đêm ngủ ngày đó là thói quen của loài
thú dữ man rợ. Loài thú có nanh dài, vuốt nhọn thích cắn xé, ăn thịt sống. Trần Thường nói với
các chiến sĩ biên phòng điều mà anh nhận xét về tên thổ phỉ Thào Quý rồi anh khẳng định: “Chúng
ta phải tính đến chuyện chặn con sông ngay từ chỗ nó còn là mạch suối. Nếu ta để cho nó chảy xa
quá thì khó có thể ngăn được đấy. Tôi cho rằng tên thổ phỉ này chính là một mạch suối độc”. Trần
Thường cho lệnh gọi nó lên. Nó khóc. Bộ mặt ủ ê, héo hon vay mượn của nó cúi sầm xuống. Cái
nốt ruồi đỏ ửng lên. Nó kêu van trước Trần Thường. Nó xin công an biên phòng thấu hiểu cho
lòng nó. Đồn trưởng công an chỉ ghế cho nó ngồi xuống. Nó ngồi cúi mặt. Hai tay khoanh lại ấp
trước ngực. Hai quai hàm nó hơi bạnh ra. Nó liếc trộm rất nhanh Trần Thường để dò xét thái độ
của anh

- Anh tên là Thào Quý. - Giọng Trần Thường hỏi dứt khoát nhưng không tỏ ra gay gắt.

- Thưa ông chỉ huy, đúng ạ.

- Thào Quý này, tôi khuyên anh hãy khai thật đi. Và rồi trước sau anh cũng phải khai thật.
Anh được giao về bản Tà Chải làm việc gì? Anh định móc nối với những ai? Anh thành thật nói
sớm đi, tội anh sẽ được giảm.
- Không. Thưa ông chỉ huy. Tôi là người Mông , tôi từng bỏ đi làm phỉ, tôi xin hàng để về
với nương ngô rẫy kiệu.

- Thôi. Đủ rồi đấy. Tôi nói cho anh biết rằng người Mông ở các bản và công an biên phòng
rất nhân đạo. Nhưng anh đừng mong chúng tôi tốt đến mức để cho những con chó sói trở nên táo
tợn hơn đâu! Anh nghe đây, tên anh không phải là Thào Quý. Anh phải khai tên thật của anh. Anh
nên biết rằng thầy thuốc thì thường có thái độ phớt lạnh trước mọi lời khai của con bệnh, dù là
bệnh hiểm nghèo. Còn tôi thì không phải là thầy thuốc, tôi phải chú ý tới những chi tiết nhỏ trong
lời nói của anh, cả thái độ của anh nữa. Sự dối trá của anh không có lợi cho anh đâu.

Nó thở dài và ngước mắt nhìn Trần Thường. Cái nhìn như không ngạc nhiên về câu hỏi đó.
Gặp ánh mắt của Trần Thường, Thào Quý vội nhìn đi nơi khác rồi cúi gầm xuống. Nó cố tình lảng
tránh ánh mắt sắc, cái nhìn trấn áp của Trần Thường. Thào Quý nuốt nước bọt tắc nghẽn ở cổ họng
và nuốt cả tiếng thở dài.

- Ông chỉ huy hãy tin tôi. Tôi là người Mông mà.

Cái nốt ruồi đỏ ửng lên làm cho sắc mặt của hắn thêm xám ngoét.

Hai chiến sĩ biên phòng đưa Thào Quý về nhà giam. Trần Thường ngồi lại rất lâu với các
trinh sát. Trần Thường nói với các chiến sĩ rằng: Đây là một trường hợp khó khai thác, vì trong
tay ta không hề có tang vật, không có chứng cứ, không có đầu mối để xác minh nó là ai, ở đâu. Và
trên người nó cũng không hề cho biết một dấu vết gì để làm mốc mà truy hỏi. Đây là một cuộc
“hỏi khan”, “truy khan” để nhằm dò dẫm, để lần tìm đầu mối, tìm mâu thuẫn, tìm kẽ hở trong từng
lời khai của nó. Mà những tên thổ phỉ thường là rất ranh mãnh, chuẩn bị kỹ càng , bịt kín các kẽ
hở và có lúc lại giả ngây ngô. Những cuộc truy hỏi như thế này thật là khó, phải đòi hỏi sự thông
minh, mưu trí, nhạy bén của chúng ta rất nhiều... Nhưng dù sao ta vẫn nhất trí khẳng định được nó
vẫn là một tên thổ phỉ. Về phía ta rõ ràng kỷ luật không bao giờ cho phép ta đánh đập, tra tấn, dùng
các cực hình để lấy lời cung khai. Ta đối với kẻ bị bắt phải thuyết phục, phải cảm hóa, giác ngộ
họ để họ khai báo ra. Ta phải đấu tranh trong từng lời khai để tìm ra sự thật. Đó là biện pháp hay
nhất của ta lúc này.

... Lại một đêm đen nữa. Trần Thường và lúc này có thêm một chiến sĩ trinh sát mới đứng
im nhìn qua lỗ kiểm tra để quan sát tên Thào Quý. Anh đang ở một đồn biên phòng xa thì được
điều gấp về đây, để tăng cường cho đồn trưởng Trần Thường. Anh chiến sĩ trinh sát này đã từng
giáp mặt, từng đấu tranh khai thác nhiều tên thổ phỉ, gián điệp, biệt kích. Anh biết rõ nhiều thủ
đoạn của chúng. Anh chiến sĩ trinh sát nói với Đồn trưởng Trần Thường:

- Tôi đã hỏi cung nhiều tên thổ phỉ ta bắt được trong đợt này, nhưng không thấy tên nào
nhắc đến cái tên Thào Quý, và cũng không thấy có một tên nào nói đến có một đứa sắp “ra hàng”
có bộ mặt, có dáng dấp như thế này, hoặc những thủ đoạn này.

- Cậu có biết không, ở vùng núi Hoàng Liên này con rắn độc nhất chỉ bò ra khỏi hang khi
nhập nhoạng tối; con tu hú ranh mãnh nhất chỉ chờ lúc rạng sáng với lần đến tổ con chim khác ăn
trứng của nó đi rồi đẻ trứng mình vào để lừa nó ấp nở ra con tu hú con. Nên những đứa giấu mặt,
giấu tên ta càng phải thận trọng.
- Tôi cứ suy nghĩ rằng giữa quả lựu đạn không nổ tối hôm nào, cái chết của Páo, và chuyện
tên thổ phỉ trá hàng này như có gì liên quan đến nhau. Quả lựu đạn ấy hiện ở đâu? - Chiến sĩ trinh
sát hỏi.

- Ở đáy vực Xanh. Ta có sơ hở đấy. Còn cái chết bằng tự sát của Páo, tôi cứ phân vân rằng:
người dí mũi súng vào chính ngực mình để bóp cò, không bao giờ chủ động và tỉnh táo bóp được
cả hai loạt rành rọt, mỗi loạt ba viên.

Anh chiến sĩ trinh sát ngồi im. Anh suy nghĩ một lát rồi nói với giọng thong thả, tự tin:

- Đúng. Họ có thể chỉ bóp cò nổ một loạt dài, hoặc một loạt ngắn thì ngã vật xuống. Ngón
tay họ không thể chủ động bóp tiếp loạt thứ hai...

- Hai việc ấy cứ ám ảnh tôi từ ngày xảy ra. Tôi cứ day dứt như một học sinh không giải
được hai bài toán mà xét ra sức mình có thể giải được. Tôi đã ghi rõ hai điều nghi vấn đó và hồ sơ
sự việc xảy ra trong khu biên phòng xung yếu này.

- Ta nên làm sáng tỏ, hoặc ít ra cũng có đầu mối để tạo thuận lợi cho việc thứ ba. Đồng chí
đồn trưởng ạ, trong công việc của ta thường là việc lớn nào cũng phải bắt đầu từ cái nhỏ nhất.

- Đúng! - Trần Thường gật đầu. - Nhưng với phương châm hàng đầu là chính xác, bí mật,
nhưng không làm oan người ngay.

Mấy hôm sau, đồn biên phòng mở hội thao: thi leo núi, thi chạy vũ trang vượt dốc, thi bơi
vượt thác và thi lặn xa trên vực Xanh. Từ sáng sớm, các chiến sĩ đã leo núi, đã hành quân mang
vác nặng vượt dốc. Khi bản Mông, Thải Giàng Sán (bản Mặt Trời Mọc) nhuộm nắng vàng thì trên
vực Xanh từng đoàn chiến sĩ lặn giỏi ở những đơn vị biên phòng xa cũng đã về tham gia thi để
giật giải. Từ trưa đến chiều, trên vực Xanh và cả thác nước phía dưới luôn cuộn sóng của những
đội bơi, đội lặn. Đến tối, sương xuống mây trời đã về núi, thác nước đã lạnh buốt, cuộc thi lặn vẫn
chưa kết thúc. Bởi lý do chưa chọn được một đội giỏi để dự ngày hội thể thao của công an vũ trang
biên phòng. Trưa hôm sau, cuộc thi lặn xa lặn lâu được tiếp tục...

Ngay tối hôm ấy Đồn trưởng Trần Thường và các chiến sĩ trinh sát biên phòng nhóm họp,
quả lựu đạn được đặt trên bàn. Nó đã được các chiến sĩ lau sạch lớp rêu bám ngoài. Đồng chí quân
khí đưa một quả lựu đạn sản xuất cùng một năm ta đã trang bị cho dân quân đến để so sánh. Hai
quả lựu đạn giống hệt nhau về kích thước và giống nhau cả về những chi tiết kết cấu.

- Đồng chí hãy tháo mở quả lựu đạn nhặt ở vực Xanh về.

Đồng chí quân khí chấp hành lệnh của đồn trưởng, quả lựu đạn được tháo mở ngay. Một
điều rất bất ngờ đã xảy ra là: quả lựu đạn ấy không có thuốc nổ, không có kíp nổ. Phần trong cán
gỗ chỉ có một lỗ rỗng để vừa đoạn dây cháy chậm chuyền ngòi nổ như ngòi pháo. Từ cái dây đó
đã phát ra ánh lửa xanh, khói và tiếng xè xè.
... Cửa nhà tạm giam mở. Một tên thổ phỉ nữa được nhốt chung với Thào Quý. Tên này
cũng vừa mới xâm nhập đất ta thì bị bắt. Nó vừa ngang ngược vừa ngoan cố. Nó đã dùng võ đánh
lại mấy chiến sĩ dân quân để hòng tháo chạy. Nhưng nó đã không thoát. Các chiến sĩ dân quân đã
tẩn cho nó một trận. Và trói quặt tay nó về sau lưng. Anh chiến sĩ dân quân bị nó đánh trộm đã quá
tức giận, bạt tai cho nó mấy cái nên mặt nó thâm bầm và nhìn còn rõ dấu bàn tay. Anh chiến sĩ
biên phòng lúc đẩy nó vào nhà giam mở dây trói của nó, nó còn quay lại giương mắt, ngoác mồm
gào to:

- Chúng mày không có lương tâm.

Anh chiến sĩ biên phòng quát thẳng mặt nó.

- Im mồm. Lương tâm ư. Không nói đến điều đó với bọn thổ phỉ.

Nó “hừ” một tiếng như gầm lên rồi nhổ toẹt nước bọt xuống nền nhà... Cửa nhà giam đóng
sầm lại. Tên thổ phỉ bước loạng choạng vào góc nhà. Mồm nó lầu bầu chửi bới. Nó nằm vật xuống
nền nhà. Hai mắt trắng dã nhìn ra cửa. Tên Thào Quý ngồi im nhìn với vẻ dò xét, xem chừng. Lát
sau, nó cầm cái chăn đến đắp lên người cho tên thổ phỉ mới này... Những đêm sau hai đứa ôm lấy
nhau nằm rầm rì trò chuyện...

Cửa nhà giam mở. Hai chiến sĩ biên phòng bước vào. Tên thổ phỉ mới vào nhà giam được
hai ngày bị còng chặt tay và bị đưa đi. Từ đó Thào Quý không thấy tên đó về với nó nữa.

- Chuyện đã quá rõ ràng, chúng là bọn “cõng rắn cắn gà nhà”. Ta phải quyết định một nước
cờ táo bạo. Và chúng ta cũng đừng ngốc nghếch vội tin ngay vào lời tên thổ phỉ. Chúng tôi sẽ đề
phòng khả năng nó đánh lừa ta. Nó làm cho ta tự đánh vào nội bộ, tự tay phải cầm dao chém tay
trái. Phải thẩm tra kỹ. Tôi sẽ trực tiếp gặp Seo Phà.

Seo Phà được gọi đến gặp đồn trưởng biên phòng.

- Anh ngồi xuống đây. Có người nói với chúng tôi rằng anh đã móc nối làm tay sai cho bọn
thổ phỉ đang ẩn náu trong rừng. Ý kiến anh thế nào về những lời đó?

Phà vừa ngồi xuống đã đứng phắt dậy. Anh ta choáng váng như bị nhát búa bất ngờ đánh
trúng đầu và phản ứng mạnh mẽ. Mặt anh ta đỏ gay. Đôi mắt nhỏ sâu trên khuôn mặt choắt quắc
lên:

- Đó là những lời bịa đặt. Nếu không nhầm lẫn thì những người đó có ý làm hại tôi.

- Anh không nên để sau này phải hối hận với những lời nói của mình. Bởi, anh Phà ạ, sự
dối trá nhỏ sẽ đẻ ra thái độ thiếu tin cậy lớn đấy.

- Tôi không có gì phải hối hận khi tôi bảo vệ danh dự của tôi.

- Che giấu tội lỗi không phải là một cách để bảo vệ danh dự.
- À, tôi làm gì có tội. Tôi sẽ khiếu tố trước pháp luật về việc vô cớ các anh đã gán ghép tội
lỗi cho tôi.

- Đó là quyền của anh. Và nếu anh thấy cần, đồn biên phòng chúng tôi sẽ giúp anh thực
hiện quyền chính đáng đó của người công dân. Nhưng liệu anh có dám làm việc đó không, khi
thực tế anh đang móc nối với bọn thổ phỉ để gây mất an ninh làng bản vùng biên giới này.

- Các anh bắt rắn cạp nong, bắt ong bò vẽ bỏ vào cổ áo tôi đấy à. Các anh vô cớ lợi dụng
quyền hành xông vào cuộc sống riêng tư của một người dân tộc thiểu số đấy à...

- Anh bình tĩnh, - Đồn trưởng Trần Thường gõ ngón tay xuống mặt bàn, nói chậm rãi, gẫy
gọn - nếu như xông vào cuộc sống của một người nào đó để bảo vệ cuộc sống chân chính cho họ
và của những người khác nữa thì liệu anh thấy công việc đó có cần thiết không?

Trần Thường mở ngăn kéo. Anh lấy quả lựu đạn mà Phà đã vứt xuống vực và anh lấy luôn
ra cả sáu cái vỏ đạn AK trong vụ Chủ tịch Páo chết để lên bàn. Phà như bị sương muối trút xuống
đầu. Mặt Phà biến sắc đi xám ngoét như tro bếp để nguội. Miệng Phà méo xệch. Khuôn mặt choắt
của y méo mó.

- Anh nhìn kỹ đi. Đây là những tang vật biết nói. Quả lựu đạn không có thuốc nổ - Trần
Thường mở ra cho Phà xem - và sáu vỏ đạn đây nữa. Chúng tôi khẳng định rằng không phải anh
Páo tự bắn vào ngực mình.

Phà ngồi xuống, mắt y lấm lét nhìn quả lựu đạn.

- Anh hãy suy nghĩ đi để nhớ lại mọi việc làm rồi trả lời tôi. - Trần Thường rót cho Phà
một chén nước. Anh đứng dậy đi ra khỏi phòng. Lát sau, Trần Thường đi vào:

- Chúng tôi không bao giờ bắt người hoặc vấn hỏi ai nếu như không có chứng cứ rõ ràng.
Đó là pháp luật, đó là nguyên tắc. Còn đối với anh - Trần Thường nhìn tang vật trên bàn - vậy là
chúng tôi đã đủ chứng cứ cụ thể. Bây giờ anh có lời bào chữa nào đủ cho chúng tôi tin được không?

Khuôn mặt choắt nhỏ nom dóc dáy của Seo Phà cúi sập xuống. Cả giọng nói vốn âm vang
của y cũng nhỏ đi, rè ra. Một sự xuống nước trông thấy:

- Anh Thường. Anh thông cảm cho. - Phà ngước đôi mắt bạc phếch nhìn đồn trưởng.

- Tôi khuyên anh nên nói hết sự thật đi. Chính sự thật anh nói ra sớm và đầy đủ sẽ cứu anh.
Còn bây giờ không ai thông cảm với anh, cứu anh bằng những sự thật đó. Nào, tôi nghe đây. Tôi
nhắc lại, anh nói dối chẳng có ích gì đâu, và cũng chẳng được với chúng tôi đâu.

Phà thở dài:

- Các anh đã biết hết rồi. Và các anh sẽ chọn cách xử lý tàn nhẫn đối với tôi - bất giác Phà
khóc nấc lên.
- Bây giờ tôi hỏi từng việc. Anh sẽ trả lời theo câu hỏi của tôi. Anh nên nhớ rằng sự dối trá
nhỏ sẽ đẻ ra thái độ thiếu tin cậy lớn đấy. Hãy trả lời đi. Ai đã trao cho anh quả lựu đạn này? Và
bày ra cái trò đó cho anh?

- Thưa anh. Tôi không phải là người chủ mưu bày ra việc này. Anh biết cho.

- Việc đó tôi biết. Nhưng anh hãy trả lời đúng câu hỏi của tôi.

- Tôi. Tôi sẽ chịu tội... - Phà nói tiếp. Đầu y cúi gầm xuống, giọng kéo dài vẻ thiểu não. -
Tôi đã thấy, tôi rất đau lòng với những tội lỗi đó.

- Anh nghe rõ lời tôi nói rồi chứ? Không loanh quanh như thế.

- Thưa anh, một người họ Giàng từ trong rừng ra đưa cho tôi. Nhưng anh thương cho - Phà
vùi đầu vào vòng tay khóc nấc lên - Anh thương cho. Anh thương tôi. Anh thương cả vợ con tôi
nữa.

- À ra thế. Tôi hiểu rồi. Anh sợ bọn chúng trả thù chứ gì. Được. Tôi sẽ giấu kín hoàn toàn
việc này. Những lời anh nói chỉ có tôi với anh nghe và không lọt ra ngoài gian phòng nhỏ bé này.
Tôi sẽ có cách để anh chuộc tội. Nhưng anh phải thành thật. Điều đó quyết định cho cuộc sống của
anh và cả gia đình anh.

- Vâng. Anh có đảm bảo lời nói ấy không?

- Đảm bảo hay không là tùy thuộc thái độ thật thà của anh.

- Vâng. Người họ Giàng ấy từ trong rừng ra. Một buổi tối vào nhà tôi nó đưa cho tôi quả
lựu đạn rồi bàn tôi cách làm như thế. Nó nói có làm được như thế uy tín của tôi mới tăng lên. Cán
bộ trên huyện, trên tỉnh và dân Mông mới tín nhiệm tôi nhiều. Tôi mới làm được thêm những việc
khác. Theo lời người đó nói, thì tôi mới leo được lên bậc cao hơn trong hàng ngũ cán bộ ở vùng
này. Người đó nói với tôi rằng, tôi là người Mông thì phải làm việc cứu lấy người Mông. Nếu tôi
theo người Kinh, theo công an biên phòng thì họ không để cho tôi, không để cho vợ con tôi sống.
Tôi bảo sợ lựu đạn nổ thì mất mạng. Nó bảo không nổ. Có thuốc nổ đâu mà nổ. Nó vặn cổ lựu đạn
ra cho tôi nhìn rõ, tôi mới tin. Nó bảo chọn một người tin cậy đã theo tôi, giao cho người đó ném.
Tôi đã chọn được thằng Hoàng Dìn tiểu đội trưởng dân quân. Nó bảo với tôi trong phiên họp đó
phải chọn Hoàng Dìn gác ở cửa vào để dễ thực hiện kế hoạch...

- Anh đã làm theo lời nó chứ?

- Vâng! Tôi đã chọn Hoàng Dìn và chính anh ta đã ném lựu đạn.

- Trong đội dân quân Tà Chải có những ai đã theo anh như Hoàng Dìn?

- Cô y tá Xuân Kiều.

- Tôi ghi nhận lời khai của anh. Bây giờ anh hãy trả lời: ai đã bắn Chủ tịch Páo?
Phà rung đôi vai mảnh dẻ, cái lưng ngắn của y động đậy như run lên trước cơn gió mạnh.
Phà đưa mắt giảo hoạt nhìn Trần Thường. Cái nhìn dò hỏi “Anh đã biết hết. Chuyện đã vỡ lở đến
mức ấy ư?”

- Lại còn chuyện ấy nữa. Ôi, tôi biết nói thế nào. Tôi không ngờ chuyện lại đến nông nỗi
này.

- Ừ thế đấy. Chúng tôi đã biết rằng người tự sát không bao giờ đủ minh mẫn và chủ động
bắn được hai loạt nhịp nhàng như thế đâu.

- Thưa anh, tôi đã nhận mọi tội lỗi rồi!

- Anh không nên trả lời xô bồ chung chung và có thái độ né tránh như thế. Anh phải nói rõ
ràng, ai đã giết anh Páo? Người đó có phải chính là anh không? Vì sao lại giết anh ta?

- Thưa anh. Anh thương cho, sự tình là thế đấy.

- Anh cứ nói.

- Từ lâu những người ở trong núi coi anh Páo là tên phản bội người Mông, chống lại những
người họ Thào, họ Giàng, họ Vừ, họ Ly... rồi. Phải giết Páo đi để đe nẹt những ai theo người Kinh,
theo công an biên phòng. Nhưng ý định đó không đạt được vì Páo rất đề phòng. Páo chưa biết tôi
làm việc cho người trong núi. Họ nói với tôi rằng nếu cứ để Páo làm chủ tịch thì trước sau rồi Páo
cũng phát hiện ra tôi. Và dù tôi có muốn nắm cả vùng Tà Chải này thì Páo là tảng đá lớn ngăn
đường, tôi khó lòng vượt qua anh ta. Phải tìm cách giết Páo, tôi mới vững chân bước, mới rộng
tay làm. Họ bàn và sắp xếp cho tôi những lời nói xấu Páo, sắp xếp cho cô y tá Xuân Kiều vu cáo
Páo cưỡng hiếp, Páo lấy thuốc tốt của dân. Và thưa anh đã đến nước này, tôi không còn giấu làm
gì nữa, tôi sẽ nói hết. Nếu Xuân Kiều có bị chửa thì họ cũng đã sắp xếp cho cô ta đổ tội cho Páo
hiếp. Họ bàn tạo ra cớ để cho Páo tự sát. Nếu không đạt được như thế, tốt nhất phải tìm cách giết
Páo rồi tạo ra hiện trường như Páo tự sát.

- Thế có phải chính anh giết Chủ tịch Páo không?

- Thưa anh, tôi là người bị xúi giục tạo ra vụ đó.

- Tức là chính anh đã dùng súng của Páo để bắn vào ngực anh ta.

- Không phải tôi!

- Thế thì ai?

- Người trong núi bắn Páo.

- Sao, anh nói rõ thêm?


- Đúng, tối hôm ấy có hai người trong núi ra tìm tôi. Chúng tôi đang đi trên đường vào bản
thì gặp Páo hớt hải chạy về phía cuối bản. Tôi đoán Páo đến nhà tôi vì Páo vừa đi họp về chiều ấy.
Tôi tạo cớ chặn Páo lại để hỏi chuyện. Một người bất ngờ đấm vào gáy của Páo. Páo ngã gục.
Người khác xông vào vồ lấy súng AK của Páo và bắn vào ngực Páo.

- Việc anh bắn chết tên thổ phỉ và bắt sống một tên có nghĩa là bọn trong núi đã bày trò ra
cho anh?

- Vâng. Đúng thế. - Seo Phà cúi đầu.

- Anh kể rõ chuyện này.

- Thưa anh. Người trong núi ra bàn với tôi rằng, họ muốn làm một việc để nhằm nâng uy
tín tôi trước dân Tà Chải, để tôi chiếm được lòng tin của cán bộ trên huyện, trên tỉnh. Họ thuê hai
người Nùng ra. Họ bảo tôi phải bắn chết cả hai. Nhưng khi đuổi kịp nó, tôi thấy nó xin hàng, kêu
khóc thảm thiết, tôi không nỡ lắp tiếp băng đạn mới vào súng để bắn chết nó...

- À ra thế... chúng đã giao cho anh những việc gì nữa?

- Thưa anh, tôi biết nói với anh thế nào. Rồi số phận tôi sẽ ra sao! - Seo Phà ôm mặt khóc.

- Số phận anh ra sao là tùy thuộc thái độ của anh như thế nào. Tôi nhắc lại anh muốn trở
thành một người biết hối hận, muốn lập công chuộc tội, hay anh muốn đứng về phía bọn thổ phỉ
chống lại dân bản, chống lại chúng tôi? Tôi hứa với anh, những điều anh nói chỉ có chúng ta biết.

- Thưa anh! - Seo Phà ngắc ngứ như tắc nghẹn cổ họng, y nuốt nước bọt hai ba lần mới nhả
ra được tiếng nói lí nhí.

- Anh Phà. Anh biết rồi đấy. Tội anh rất nặng. Tội phản lại dân bản, phản lại bà con người
Mông; Tội cõng rắn cắn gà nhà; Tội đồng lõa với bọn thổ phỉ giết hại Chủ tịch Páo. Anh nghĩ thế
nào về những tội lỗi ấy?

Mặt Seo Phà tím tái đi như rêu đá. Giọng nói của Phà thều thào, run rẩy:

- Thưa anh. Anh thương cho. Anh đã nói sẽ cho tôi lập công chuộc tội.

Trần Thường nhìn nét mặt thảm hại của Phà rồi anh nhìn ra phía rừng biên giới. Xa xa
trước mặt anh bản Xín Hồ, bản Ngải Pản, Ngải Chồ, bản Xín Chéng... Những bản Mông, những
bản Nùng, bản Dao đáng ra được sống yên vui và đầm ấm. Nhưng bọn thổ phỉ đã phá sự yên bình
gây tang tóc cho dân. Những xóm bản đó lúc này đang phải chịu đựng những cơn gió lạnh hun hút
của miền biên cương cực bắc này. Những cơn gió luồn các hẻm núi đưa theo mây mù và giá buốt.
Trong cái giá buốt độc hại của thiên nhiên đó còn có sự độc hại ghê gớm đáng nguyền rủa như
chuyện này đây. Phà đang ngồi trước mặt anh đây là nạn nhân, là vật hi sinh của sự phản bội. Giờ
đây trừng trị một con người có tội lỗi thì dễ nhưng làm cho họ trở thành một con người có ích biết
giúp sức cho mình là khó. Nhưng người cầm súng phải kiên nhẫn, phải chọn và phải ngắm đúng
mục tiêu. Vì viên đạn bay đi sẽ không quay về được nữa. Trần Thường nhìn thẳng vào đôi mắt bạc
phếch hết sinh khí như mắt con vật đã cắt tiết của Phà, anh suy nghĩ rồi nói chậm rãi:

- Anh nói đi. Anh nghĩ gì về những tội ấy?

- Thưa anh. Tôi mù quáng và ngu xuẩn quá rồi. Người Mông thường nói: nước mát nên
nhiều người chết vì nước, lửa nóng nên ít người chết vì lửa. Tôi đã chết vì nước. Tôi muốn được
sống. Sống một cách bình thường như những người Mông khác. - Phà gục đầu xuống khóc rống
lên.

- Thực ra tội của anh đã vượt quá tội xử bắn. Nhưng anh biết điều và tỏ ra khôn ngoan thì
anh vẫn được sống...

Seo Phà ngước mắt nhìn Trần Thường. Mồm Phà há ra như chờ đợi nuốt từng lời. Thường
nói tiếp:

- Một cuộc sống bình thường như hiện nay. Và chúng tôi vẫn để anh làm xã đội trưởng Tà
Chải này. Nghĩa là chức vụ anh vẫn giữ như hiện nay. Anh vẫn làm mọi việc như hiện nay...

- À, à. - Phà ngạc nhiên, tròn mắt...

Bất giác Trần Thường quay lại nhìn Phà. Anh đã bắt được thần sắc thật của Phà. Đôi mắt
nhỏ sắc lóe lên nét giảo hoạt, cái mặt choắt và cái cằm lẹm của Phà làm cho Trần Thường nghĩ tới
phải đề phòng sự tráo trở, phản phúc nấp sau bộ mặt ấy. Trần Thường gõ ngọn bút chì xuống bàn:
“Mình sẽ chơi trò này không chút úp mở. Nhưng như thế có quá táo bạo và mạo hiểm không nhỉ?
Trách nhiệm và công việc cụ thể này có cho phép mình như đánh một ván cờ, một là mất hết, hai
là được trọn vẹn không? Không bao giờ như thế. Kinh nghiệm hơn mười năm đã chỉ huy nhiều
trận đấu mưu trí, đấu sức lực và lòng dũng cảm với bọn thổ phỉ ở vùng biên cương xung yếu này
đã dạy cho mình bài học: “Đôi khi một sự ngờ vực quá mức nếu không muốn nói là cảnh giác lại
thấy ít nguy hiểm hơn là một sự thành thực có thừa. Nếu không muốn nói là quá thật thà đến mức
ngốc nghếch”.

- Thế đấy. Anh phải làm việc. Làm bằng cách nào anh chưa cần biết vội. Nhưng dưới sự
kiểm soát chặt chẽ của chúng tôi. Anh phải thực sự làm để chuộc lại tội lỗi của mình. Sự làm việc
thật thà và hết mình đó sẽ đánh đổi cho cái chết vì những tội lỗi nặng nề của anh đã gây ra. Và như
thế bọn thổ phỉ đang ẩn nấp trong núi cũng không có cớ gì để đòi món nợ của anh.

- Vâng. Tôi xin hứa. Anh thương cho...

- Anh vẫn làm xã đội trưởng, vẫn chỉ huy dân quân. Nhưng anh làm việc gì, làm như thế
nào là theo sự sắp đặt của chúng tôi. Có điều rằng nhất thiết anh không được nói gì cho Hoàng
Dìn, cho Xuân Kiều biết về những việc này. Anh phải chịu trách nhiệm hoàn toàn. Anh hiểu chưa.
Tôi nhắc anh rằng, anh đừng để mình là vật hy sinh rẻ tiền của sự dối trá và phản phúc.

- Vâng!
- Anh vẫn tiếp những người trong núi ra gặp. Việc anh gặp và trò chuyện với bọn chúng,
chúng tôi có cách kiểm tra. Anh phải báo cáo đúng. Anh không được để cho những người xung
quanh biết anh đang làm việc có sự dàn xếp và kiểm tra của chúng tôi. Anh thấy thế nào?

- Vâng. Tôi sẽ làm được. - Phà ngồi hai tay xuôi thẳng, nhìn giống như hình nộm đuổi chim
dựng ở nương ngô.

- Những điều đó là cái giá để đổi mạng sống cho anh và cho cuộc sống bình thường của
gia đình anh...

Seo Phà ngồi cúi đầu. Mặt Phà xám ngoét. Phà cảm thấy một sự ngao ngán, một vị đắng
cay đã thấm thía, khác nào vị đắng của cây ngải cứu ở vùng đất Hoàng Liên này đã tràn ngập trong
lòng và cả xung quanh Phà nữa...

BẾP LỬA ĐÊM RỪNG

Trời nhá nhem. Đường vào bản mờ mờ sương bay, rừng bốn bên mờ mờ sương phủ. Lạnh.
Hơi lạnh trong sương, hơi lạnh từ các chòm cỏ ngải, hơi lạnh từ lớp lá ẩm và hơi lạnh như cả trong
ánh sáng mờ mờ yếu ớt còn sót lại giữa cánh rừng thưa lan ra. Những cây lê đầu bản Thải Giàng
Sán khẳng khiu trụi lá nom như những bó chông nhọn nhô cao trong bầu trời xám xỉn.

Một người đàn ông nép mình trong đám cỏ rậm sát con đường vào bản. Hắn ta mặc áo màu
đen, xắc vải đen quàng chéo qua vai. Hắn nhìn ngó bốn bên. Hai con mắt của hắn như hai vết chém
trên khuôn mặt dày nung núc thịt, trập trùng. Thấy bốn bên vắng lặng, hắn nhổm dậy. Theo con
đường mòn, hắn đi nhanh vào bản.

Bản Mông Thải Giàng Sán, tiếng Mông có nghĩa là bản Mặt Trời Mọc. Bản ở trên sườn
núi phía đông. Phía mà mỗi buổi sớm khi hừng đông thức dậy thì hắt lên trời những rẻ quạt lớn
như báo cho dân bản biết hôm nay trời nắng ấm và như bàn tay khổng lồ vẫy gọi dân bản đi làm
nương, đi phát rẫy. Mỗi buổi sáng bà con người Mông các bản xung quanh thường có thói quen
nhìn về phía đó. Phía đó nắng đến sớm hơn. Khi mà các bản ở lũng núi chưa nhìn thấy mặt trời thì
bản Thải Giàng Sán đã rực rỡ nắng vàng. Có được cảnh đẹp núi quấn mây trời và chan hòa ánh
nắng, mùa xuân lê, táo, mận nở trắng mái đồi như bản Mặt Trời Mọc ở trên dãy núi Hoàng Liên
già nua này là điều hiếm hoi. Theo các nhà địa chất thì dãy núi Hoàng Liên thuộc vào loại núi già.
Nó có cách đây hơn hai ngàn triệu năm. Các ngọn núi bị gió, mưa, bão, tuyết bào mòn nên đỉnh
chỉ còn trơ đá. Và có độ cao nhỏ, trông như các mũi chông nhọn khổng lồ. Các lũng núi rộng và
cạn do bị lấp dần bởi những vật liệu vụn lở từ đỉnh núi nát ra và nước mưa dồn xuống. Bởi vậy
sườn núi thoải hơn, cây cối thường cằn cỗi. “Đá ngồi, đá nằm” xếp trơ trọi trên lớp sỏi cơm nguội
và đất đỏ ba dan.

Giờ đây bản Mông chìm trong lớp mây chiều. Rồi ánh lửa các bếp lọt qua kẽ lớp ván gỗ
thông, qua tường đất dày hắt ra bìa rừng những tia sáng đứng như kẻ dọc. Người đàn ông đã quen
thuộc các lối đi lại và biết rõ từng nhà trong bản, hắn đi thẳng đến nhà ông Giàng Tả Páo. Hắn ghé
mắt qua khe cửa nhìn vào. Bếp lửa rực cháy. Những thanh củi gỗ thông sa mu to bắt lửa, nổ lép
bép. Bên bếp, ông Giàng Tả Páo đang ngồi hút thuốc. Đứa con trai nhỏ của ông là Giàng Tả Hòa
đang chơi với con chim cứ cư (như gà gô) nhốt trong chiếc lồng tre. Trên dàn bếp treo lủng lẳng
những súc thịt lợn, chân lợn đã ướp muối và rắc lớp bột thảo quả. Điều đó chứng tỏ nhà ông Giàng
Tả Páo đã mổ lợn và mùa làm khách (mùa ăn tết) của bản Mông đã đến. Thỉnh thoảng mỡ từ các
súc thịt rơi vào bếp lửa đang cháy làm cho ngọn lửa reo bùng lên phát ra tiếng nổ lách tách. Người
đàn ông gõ cửa, ông Giàng Tả Páo nhìn ra.

- Ai đó, vào nhà đi mà!

Người đàn ông xô cánh cửa bước vào. Một luồng gió lạnh lùa cả mùi phân trâu, phân ngựa
vào theo.

- Ông Páo à. Ông có nhớ tôi nữa không? Người anh em cùng họ Giàng ta cả đây mà. -
Người đàn ông cười toét miệng đi vào phía bếp lửa.

Theo thói quen của người Mông, mới gặp nhau mà đã tự nhận cùng họ với nhau là quý
lắm, là đã coi như dòng máu trong người đã cùng chung một ông tổ, là anh em thân thiết rồi. Ông
Páo đứng dậy đón người anh em ngồi xuống ghế để bên bếp lửa. Ông Páo nhìn kỹ người lạ mặt.
Qua ánh lửa ông ngờ ngợ đã quen, đã gặp người này ở đâu rồi. Đâu từ hồi ông còn trẻ thì phải.
Bởi ông Páo nhớ nhất ở hắn có cái mặt đầy nung núc những thịt và hai con mắt thì nhỏ và hum
húp. Ông Páo cười thều thào:

- Ôi, mày đi lâu lắm rồi, mày có như con nai quên mùa măng sớm không mà mày quên lối
rừng này không tới?

- Họ Giàng ta thường hẹn nhau cuối tháng trâu, đầu tháng hổ(1) tìm về với nhau là điều
lành đó ông Páo à.

- Mày ngồi đây uống chung bát rượu với tao. Họ Giàng ta to lắm! Người nhiều như cây
thông sa mu trên núi cao, như trời đông nhiều mây, trời tây nhiều sao là mừng vui lắm. Ta đi khắp
chân trời vàng, khắp chân trời xanh vẫn còn gặp người họ Giàng đó.

Ông Páo rót rượu đầy bát đưa cho người anh em cùng họ uống trước.

Hắn bưng bát rượu từ tay ông Páo. Hắn bưng bát rượu nhưng con mắt đen ngòm của hắn
cứ quằm quặm nhìn ông, nhìn ra xung quanh. Trong giây lát đó lớp tro nguội của thời gian như
được gạt đi, đốm than hồng cháy rực lại. Ông Páo đã nhớ ra hắn rồi. Đúng là hắn rồi. Đúng hắn là
đứa đã giết người một trăm, đã băm người một nghìn rồi. Năm ấy, năm thằng phỉ chột mắt Châu
Quang Lồ nổi lên ở đất Pha Long này. Người Mông đã nói “một thằng chột bằng mười một thằng
ác” thì thằng này dân gọi hắn bằng cái tên gớm ghiếc là “thằng mõm dài, tai rộng” đã cầm súng đi
bắt người. Ngày đó hắn mặc quần áo vàng, quấn xà cạp vàng, đeo súng pạc - họoc bên hông. Hắn
và thằng Châu Quang Lồ nốc rượu xèo ngâm tắc kè, cái mặt chúng đỏ gay như mào gà sống chọi.
Hắn treo ngược người Mông, người Kinh, người Nùng... lên cành lê dầu bản Thải Giàng Sán này,
thi nhau bắn. Cây lê đầu bản năm năm sau vẫn còn héo hon. Mưa tháng ba, tuyết tháng chạp không
trôi hết vết máu thâm bầm ở cành, ở gốc. Bảy năm sau cành lê mới ra được lộc. Tám năm sau cành
lê mới đơm hoa và “bói” lại quả mùa đầu... Rồi việc giết người ở bản Nàn Tử Hồ nữa. Nơi đó là
một con suối lạnh lẽo không có tên. Bọn chúng bắt người Mông, người Kinh, người Nùng về đó
giết. Bọn chúng lập ổ phỉ đón rừng, ngăn suối ở đó. Những người đã đến đó ít ai còn sống sót. Từ
đó người Mông ở Pha Long này đặt tên con suối là Nàn Tử Hồ (tức là con suối chết, đi đến đó
không về). Ngày bộ đội Cụ Hồ vào diệt phỉ, hắn bỏ chạy vào ẩn trốn trong rừng. Biền biệt từ đó,
ông cứ tưởng hắn đã chết thối lúa, chết úa cỏ ra rồi. Ai ngờ nay hắn lại trở về đây. Mà hình như
ông Páo mang máng nhớ rằng hắn có phải người Mông, có phải người cùng họ Giàng với ta đâu.
Hắn ngồi uống rượu với ông Páo. Hắn nói chuyện với ông nhưng hắn vẫn liếc nhìn con chim cứ
cư nhảy nhót trong chiếc lồng tre và để ý đến Giàng Tả Hòa đang chơi với nó. Trong con mắt đen
ngòm nhìn quằm quặm của hắn như vừa lóe lên những ý thâm hiểm...

Ông Páo hỏi hắn là từ đâu về bản Thải Giàng Sán này. Hắn không giấu giếm, hắn nói với
ông là hắn ở rừng ra.

Hắn tìm gặp ông Páo bàn việc trọng với ông. Theo hắn nói thì việc này hệ trọng lắm, việc
có thể làm cho máu người bản trên chảy, đầu người bản dưới rơi, việc mà tay không còn vắt đá ra
ngô được, không còn nặn ruột ra con được nữa. Hắn bảo hắn chỉ bàn với ông Páo thôi vì ông Páo
là người già ở bản này. Ông nói, dân bản đều nghe theo. Hắn nói với ông, giọng hắn, ông Páo có
cảm tưởng nghe êm ngọt như hạt ngô ngậm sữa nhưng lại độc như có lá ngón vàng ở trong.

- Ông Páo à, ông có nhớ người Mông ta từ đâu đến ở trên đất núi Hoàng Liên này không?
Người Mông ta, ông Páo à, khi chết còn chôn đầu quay về núi, tức là quay về nơi cội nguồn của
người Mông mà! Ta không phải là người có chung dòng giống với người Kinh, người Tày. Người
Mông ta có vua. Người Mông ta không chung vua với người Kinh được. Ông Páo có nghe không,
mùa sấm mới vừa rồi, vua ta mới hiện về trong rừng. Vua Mông hiện cùng với vua của người Giáy
nữa mà. Vua gọi người Mông về với vua để lập nên xứ Mông tự do. Và ở nơi nào có người ở, nơi
đó là đất của vua, là xứ Mông tự do đó ông Páo à...

Ông Páo ngồi im. Ông nhìn ngọn lửa bén thanh củi gỗ thông. Giọng người anh em cùng
họ vẫn đều đều:

- Vua sẽ phái lính áo đen để giết hết những người không về theo vua. Người Mông sẽ phải
rán mỡ lên nếu ai cầm súng của người Kinh chống lại quân của vua.

Hắn hỏi ông Páo nghĩ gì về những lời hắn nói. Hắn hỏi ông Páo về những người hắn quen
trước nay ở đâu. Hắn hỏi Vàng Xeo Hồng mãn hạn tù được về có phải ở bản Lao Táo không.

Ông Páo cầm que cời để ngọn lửa đỏ them. Ông nói chậm rãi:

- Nước chảy được thì cứ chảy, núi không chảy được thì núi đứng. Nước đừng bắt núi chảy
theo mà!

Hắn nhìn ông Páo gườm gườm. Nói một tiếng con mắt đen ngòm của hắn gườm ông một
lần, nói hai tiếng con mắt hắn trợn trừng nhìn ông hai lần:

- Ông Páo à, cùng họ Giàng cả, ta gắn bó với nhau như ong chung một tổ, như chuối chung
một buồng mà. Tôi nói để ông biết, người Mông chống lại vua thì chỉ như lấy cỏ dại chống trời,
như đưa tàn lửa mong đun nóng nước cả sông Na Hờ mà thôi! Ta có như con ve đâu mà lột được
xác. Ở Sa Pa, ở Bát Xát, ở Mường Khương, Y Tý, Si Ma Cai... người Mông đã nghe lời vua cả rồi
đó. Hắn cười gằn.

Ông Páo nghĩ, thế là hắn đã đổ nước ớt, tát nước kiệu vào tai ông rồi. Ông suy đi nát gan,
ông nghĩ lại đứt sức. Đêm đã khuya. Đôi chim chóp chóp kêu dóng dả ngoài rừng. Gà đầu bản gáy
canh ba mười hai tiếng, giục canh tư mười tám lượt. Ông Páo bảo hắn ngủ đi mai ăn thịt gà rồi
“tính xương gà”(1) và bàn nữa. Hắn nói với ông Páo:

- Tai tôi, tai người họ Giàng ta không muốn nghe những lời của người anh em chung dòng
máu nhạt như nước mía non đâu ông Páo à!

Nằm bên cạnh bếp, mùi củi thông cháy, mùi thịt lợn ướp, mùi thảo quả ấm cúng và quen
thuộc, nhưng ông Páo vẫn không ngủ. Và nằm cạnh ông, người “anh em cùng họ” cũng không
ngủ. Ông Páo cứ nghĩ: Người Mông đã có câu: con chim nồng chay hót hay ở lành, núi Mông
nhuộm cho nó màu lông xanh vằn vàng, quả rừng sơn cho nó cái mỏ đỏ chót (loài chim ăn quả
sơn) để người Mông ngồi nghe nó hót. Còn con cáo vằn ác độc thì phải cắt lưỡi nó đi... Ôi rừng
Hoàng Liên cho người Mông nhìn bề ngoài để biết được củ ấu rừng khác củ bạch truật mà sao lại
không để dấu vết gì bề ngoài để ta phân biệt được kẻ xấu với người tốt. Người Mông ở đất núi
Hoàng Liên này đã một thời khổ như kiếp châu chấu, dế mèn rúc trong chòm cỏ ngải. Ấy là lúc
phỉ Chấu Quang Lồ nổi lên, phỉ Hản Xừ Lùng nổi lên. Chúng coi người như cái chổi cùn vun quén
cho nhà chúng nó, như cành thông có gai rào quanh nương nhà nó. Chúng cướp ngựa dân đang
cưỡi, cướp lợn trong chuồng, cướp vợ người ta trong chăn ấm. Người Mông nhờ ơn Đảng, nhờ ơn
cụ Hồ làm ăn với nhau vui như đàn ong chung xây từng mật ngọt. Chúng lại về phá. Người Mông
ở bản Thải Giàng Sán đã nặng thù với bọn thổ phỉ ác độc. Ông Páo đã nghe kể về chúng rồi. Chúng
luôn xúi giục người Mông gây thù hằn, làm điều ác độc với người Kinh, người Tày. Chúng đi ăn
cướp. Chúng đã cướp của người Mông, đuổi người Mông không theo chúng ra khỏi bản. Nghĩ tới
những điều ấy cứ tức như có hòn đá to đè trên ngực.

Giờ đây hàng năm bản Mông có tục cúng “cấm cửa”, nhiều người còn nhắc mối thù đó.
Ngày đó, dân giết lợn cúng những người đã bị bọn thổ phỉ đuổi đòi giết chết. Ngày đó những người
con gái, người đã giữ nòi giống người Mông không được bước qua cửa đi ra ngoài. Người Mông
phải đi đòi xương của cha, đòi máu của mẹ. Mối thù với bọn thổ phỉ máu đã nhập tim rừng lim
cũng nhỏ! Giờ chúng lại nói vua hiện về. Người Mông phải theo vua, phải làm theo đúng lời vua,
phải chống lại người Kinh thì có khác nào con cáo dỗ bầy gà con ra rừng cho ăn hoa cỏ! Người
Mông mình không phải là loại người ăn cá quăng nơm, ăn chim bẻ nỏ. Người Mông cùng trong
một quả bầu mà ra, là anh em với người Kinh, người Tày, người Nùng, người Giáy... Ơn Đảng, ơn
của cụ Hồ đối với người Mông như hương thảo quả của bốn mùa thơm lừng đất núi, như cây thông
sa mu xanh tươi trên đất Hoàng Liên này. Gỗ cây thông dù ở trên đầu núi, dù ngâm dưới suối sâu
hay đưa về làm cột nhà, lòng gỗ vẫn hồng tươi, cũng như lòng người Mông dù ở đâu, dù lúc khốn
khó nào cũng hướng về Đảng, cũng nghĩ đến cụ Hồ...! Người “anh em cùng họ” vẫn thức. Hắn
nằm im. Hắn nghĩ đến thằng bé con ông Páo, thằng bé có cái mũi thẳng, đôi mắt sáng và cái trán
vát, với con chim cứ cư hót hay kia. Hắn nghĩ tới lời phán bảo: “Con sâu khôn chỉ tìm ăn mầm, nó
không ăn lá già. Và, người đi săn giỏi phải biết dùng con chó của mình. Con chó già thì bắt mùi
nhạy, sủa vang, cắn xé và gặm xương giỏi nhưng không còn sống lâu, sức đã gần đứt, chạy một
khắc lên dốc lông đã ướt đẫm mồ hôi! Nên ta phải tìm, phải biết luyện những con chó non. Nó sắc
răng và hăng hơn, sống lâu hơn, dễ dạy được nhiều trò hơn! Ai nắm được người Mông ở vùng núi
Hoàng Liên này thì người ấy sẽ thắng cuộc (!). Muốn đạt được mục tiêu lâu dài đó, ta phải chọn
nhiều, tìm nhiều chó Mông non để huấn luyện cho giỏi!”. Thằng bé kia có phải một con chó non
không? Còn ông già Páo này nữa cứ ỡm ờ như con ốc rờ rẫm bò đi không biết đường bò lại. Điều
đó đã có cái này... Hắn sờ vào cái túi vải đen đeo chặt trong người. Khẩu K54 cồm cộm đã lên
đạn. Cái cành lê năm xưa ở Pha Long đang còn đó. Con suối Nàn Tử Hồ đang còn đó... lão đi
đâu...

Sáng sớm, ông Páo xách cái bẫy đi ra bìa rừng. Ông dặn người anh em cùng họ:

- Buổi sớm miệng ta nói điều gì cùng lành, tay ta làm điều gì cũng khéo. Ta đi bắt cho được
con gà to nhất rừng Thải Giàng Sán này về đãi người anh em mới thỏa.

Hắn nhìn theo ông Páo. Biết ông đi ra phía rừng biên giới không đi về phía Pha Long, nơi
có đồn công an vũ trang biên phòng, hắn yên bụng lắm!

Bên bếp lửa, hắn ngồi nói chuyện với Giàng Tả Hòa. Hòa vẫn đùa với con chim cứ cư. Con
chim có lông màu xám biếc pha đốm vàng, cái mỏ hồng tươi và tiếng kêu rủ rỉ ngọt ngào như quả
đào chín bói. Hòa yêu nó. Đêm lạnh, em đưa nó vào sưởi ấm bên bếp lửa. Ngày Hòa treo ở cành
lê trước nhà để nó ngắm bản Mông đang mùa hoa lê nở đẹp. Không phải chỉ có Hòa mà người cả
bản đều yêu con chim cứ cư. Vì nó tượng trưng cho mọi điều lành. Tiếng nó kêu là báo tin vui cho
mọi người. Bởi nghe con chim cứ cư kêu là dân bản biết mùa ngô, mùa lúa, mùa xèo năm nay
được lớn. Bản Mông sẽ no ấm và “mùa làm khách” lại vui. Con chim cứ cư của Hòa mỗi buổi sáng
không biết nó ngửi được hơi sương của buổi bình minh sắp dậy hoặc nó nghe được tiếng muôn
loài từ phía mặt trời dậy sớm mà nó cất tiếng hót trong trẻo, vang vọng. Lập tức những con chim
cứ cư ở các ngả rừng đều hướng về phía nó hót rền vang cả bản Mặt Trời Mọc này. Người các bản
dậy mài dao lên rẫy.

Hòa kể chuyện về con chim cứ cư của em cho lão ta nghe. Lão cười gằn. Con mắt lão gườm
gườm nhìn con chim. Lão tỉ tê với Hòa nhiều chuyện. Lão rủ Hòa vào ở trong rừng cùng lão. Vào
trong ấy Hòa sẽ được sung sướng rồi sẽ được làm to, rồi sẽ được thay người lớn nhất, người cầm
đầu họ Giàng này. Còn con chim cứ cư, lão bảo giết nó đi. Nó ăn hạt gắm, hạt xèo ở rừng ở bản
này không tốt. Đi với lão, Hòa muốn gì cũng có. Lão sẽ mua cho Hòa một con kêu hay hơn, đẹp
hơn, chắc Hòa thích lắm. Hòa hỏi hắn con gì. Lão gườm gườm con mắt. Lão cười gằn:

- Con khỉ con!

- Ở đâu? - Mắt Hòa sáng lên. Hòa hỏi lại.

- Ở trong rừng. Ở trong ấy nhiều khỉ lắm, khỉ giỏi làm trò lắm, giỏi bắt chước người lớn.
Con khỉ biết làm giả như thật, làm xấu như tốt. Nó biết khóc, biết cười, nó trọc đầu hay lắm mày
à! Trong ấy thiếu gì khỉ, khỉ lớn khỉ bé, khỉ xanh mặt, khỉ đỏ đít rẻ như gà què, chó ghẻ ở bản này
thôi...

- Ông! Khỉ đánh nhau có “máu” không?


- Ôi! Tính nó hung hăng, nó thích đánh nhau lắm...

Hòa nghĩ, giá như được một con chiều dắt nó ra chân núi cao xanh, chân rừng thẳm biếc
này để nó đánh nhau thì thích biết mấy...

- Ừ, nhưng thương những con chim đang ở ngoài rừng vì mỗi buổi sáng, chúng lại nhớ
tiếng hót của con chim này mà!

Hắn nhìn Hòa và nhìn con chim bằng đôi mắt ti hí màu chì, hắn nhìn chăm chú. Có lẽ chỉ
những con vật tàn bạo và ngu ngốc mới có cái nhìn ăn tươi nuốt sống như thế. Hắn lại cười gằn:

- Ồ, cho cả loài chim ấy chết đi, để loài khỉ tràn về bản này thì mày có mất hạt ngô, hạt xèo
nào đâu. Mày lo chi chuyện mất nửa sải, được cả với chứ.

Câu chuyện ấy chỉ có Giàng Seo Xay chị gái của Hòa biết. Bởi lúc đó Giàng Seo Xay đang
ngồi trên gác. Cô đang lấy sáp ong vẽ vào tấm vải mới để nhuộm thành hoa may váy, may áo cho
mùa ăn tết. Xay đã lắng nghe và biết ngọn ngành câu chuyện.

Ông Páo xách cả một đôi gà rừng về. Ông mổ thịt, rót rượu uống. Ông đãi người “anh em
cùng họ”, cùng chung dòng máu của ông tổ, bát rượu xèo. Loại rượu trong men có hạt thảo quả,
có quế và cả rễ ngón. Bát rượu trong vắt sủi tăm lên, uống say lịm. Ông Páo có ý chặt thịt gà thành
miếng to. Ông thái lòng để lẫn trong thịt. Ông để ý người anh em cùng họ ăn. Hắn nốc rượu, hắn
nhai thịt gà rau ráu như hổ vằn ăn rở. Ông tiếp thịt, tiếp lòng và tiếp luôn cả hai quả tim của hai
con gà vào bát cho hắn. Hắn ăn sạch. Ông Páo nhìn hắn. Ông đã hiểu rõ rồi. Hắn chắc chắn không
phải là người Mông họ Giàng. Bởi vì người Mông họ Giàng không bao giờ ăn tim loài vật. Mỗi
khi mổ lợn, mổ trâu... họ đều cho người các họ khác quả tim. Cái đó có nguồn gốc sâu xa.

Chuyện ông bà truyền lại rằng , xưa tất cả các họ về dự chung ngày hội gầu tào(1), khi mổ
con lợn to làm cơm và dọn ra thì mất quả tim. Mọi người đều nói người họ Giàng làm bếp đã ăn
vụng. Người họ Giàng oan ức nhưng không biết nói làm sao... Và, từ ấy về sau, những người họ
Giàng không bao giờ ăn quả tim của mọi loài vật như để thanh minh cho ông tổ họ Giàng không
ăn vụng! Ngày nay, người Mông họ Giàng thường thử nhau để nhận họ bằng cách mời nhau ăn
quả tim.

Ông Páo nghĩ: “Cái thằng này dẫm phải nước bọt con rắn độc nào mà dẫn xác tới đây nói
lời độc như con sói đen kêu trên rẫy thế! Hắn không phải người họ Giàng và chắc chắn cũng không
phải người Mông. Ta không nhận hắn!”

Ông Páo rót rượu cho hắn uống để hơi men giữ chân hắn lại. Ông rút con dao phát nương
sáng loáng giắt vào lưng rồi đi về phía đồn công an biên phòng. Bước chân ông xăm xăm, chắc
nịch đạp trên đất núi. Dáng ông đi chao đều như rừng thông có cơn gió lướt.

Đồng chí Khánh, Đồn trưởng Đồn công an biên phòng Quyết Thắng và Chính trị viên Trần
Ngọc tiếp ông. Ông Páo kể rõ về hình dáng của người lạ mặt cho cán bộ đồn biên phòng nghe.
Trần Ngọc giở tập hồ sơ của những tên chống phá chính quyền, những tên phỉ cũ trốn trại cải tạo,
bọn trộm trâu cướp ngựa của dân, có cả những tên đặc vụ, tàn quân Tưởng ẩn nấp các vùng rừng
hiểm yếu. Một lũ tạp nham hổ lốn, cha căng chú kiết lập thành các ổ phỉ, các toán phỉ ra quấy phá
các bản làng vùng biên cương. Và, giờ đây chúng đã nhen nhóm để gây phản loạn. Trần Ngọc đưa
tấm ảnh dán ở tập hồ sơ dày cộm cho ông Páo xem. Tấm ảnh của một tên lính Tưởng đội mũ lưỡi
trai mặc áo cổ đứng, lưng đeo khẩu pạc hoọc. Mắt ông Páo sáng lên. Ông đã nhận ngay ra hắn.

- Đúng hắn rồi mà. Giờ hắn mặc quần áo đen. Nhưng hắn béo hơn, mặt dày thịt hơn. Tôi
đã mang máng nhớ ra hắn từ khi hắn mới đến nhà.

Trần Ngọc đọc cho ông Páo nghe một đoạn trong hồ sơ của hắn: “Tên hắn là Phù Chẩn
Diu, chức vụ tiểu đoàn trưởng Quốc dân Đảng. Năm 1950, hắn sang vùng Mường Khương, Pha
Long. Năm 1952 cùng với Chấu Quang Lồ gây phỉ. Hắn là phó cho tên Lồ. Hắn là một trong những
thủ phạm giết người Mông, người Kinh, người Nùng... ở Pha Long, ở dốc Chín Quai, ở bản Chân
Cáo. Khi bộ đội ta vào giải phóng, hắn chạy vào ẩn nấp, tạo vỏ bọc nằm im trong các bản vắng. Ở
đó, hắn tập hợp bọn phỉ cũ, bọn có thù hằn với ta, bọn côn đồ, lưu manh bỏ chạy. Hắn lập thành
những toán thám báo biệt kích và đã nhiều lần ra móc nối với đồng bọn...Hắn có chân trong tổ
chức “Xứ Mường Khương tự trị”. Hắn đã bàn mưu nổi dậy.

Bụng ông Páo cồn cào như thác xoáy. Ông dằn giọng: “Hắn chỉ như lóng ngọn cây tre ải
ta đan sọt đựng phân thôi mà. Lời hắn nói như ngọn cỏ áy đâm không đau gót chân ta đâu”. Ông
Páo giắt ngay con dao vào lưng rồi cùng với Trần Ngọc và hai chiến sĩ công an biên phòng đi
nhanh về bản.

... Giàng Seo Xay đi lấy măng bên suối, hái hoa chuối trên đồi về thì thấy cơ sự xảy ra rồi.
Cô hớt hải chạy ra đầu dốc núi. Cô nói như đứt hơi với ông Páo, với Trần Ngọc:

- Hắn đã bắt mất Giàng Tả Hòa đi rồi. Hắn giết con chim cứ cư rồi. Hắn biết bố đi lên đồn
công an biên phòng mà.

- Hắn đi đường nào?

- Xem dấu chân thì biết thôi, hắn đi theo đường dân sớm lên rẫy, chiều đi bẫy chim đấy.

Ông Páo cùng các chiến sĩ biên phòng truy đuổi ngay theo dấu vết. Dọc đường biên giới,
dân quân và các chiến sĩ đã chốt chặt, tên Phù Chẩn Dìu bắt em bé Giàng Tả Hòa đi theo không
có lối về hang ổ. Hắn loanh quanh lẩn trong khu rừng rậm rồi ra nằm ở đồi cỏ tranh. Hắn không
dám vào nhà đồng bọn để ẩn nấp. Hắn giữ Giàng Tả Hòa không cho rời nửa bước. Hắn biết để
sổng Hòa sẽ lộ nơi lẩn trốn. Nơi đó là một hang đá. Cái hang ấy ngày trước, ngày cuối năm 1952
khi bộ đội ta truy lùng hắn đã lẩn trốn. Ở cửa hang và nhiều nơi trong quả núi này, xác đồng bọn
của hắn đang vùi rải rác quanh đây. Sang ngày thứ hai, hắn đói. Hắn và cả Giảng Tả Hòa đi đào
củ mài ở vùng đất ngoài cửa hang. Hòa cầm con dao găm của hắn, em đào lần theo một dây mài
ăn sâu trong hang mô đất bên hẻm đá. Bỗng Hòa đào thấy xương người, xương chân, xương tay,
xương đầu. Hòa thấy cả những ống sắt gỉ hình khẩu súng pạc hoọc gẫy hai, gẫy ba. Em thấy cả
những viên đạn rỉ nữa. Mu bàn tay Hòa bị va vào đá xước da chảy máu. Lấy được củ mài về nướng
ăn xong thì Hòa lên cơn sốt dữ dội. Em nằm co quắp, hai tay ôm lấy đầu run rẩy trong hang đá
lạnh.
Ông Páo, Trần Ngọc và các chiến sĩ biên phòng, cả Giàng Seo Xay đã truy tìm đến nơi.
Tên Phù Chẩn Diu đã luồn sang một hang đá khác. Hắn bắn lén. Viên đạn K54 đi xước trên mái
đầu bạc của ông Páo. Ngọc và hai chiến sĩ vây lấy hang đá, quyết bắt sống hắn. Giàng Seo Xay
gọi hắn: “Tên Phù Chẩn Diu, mày đã bị vây rồi. Mày ra hàng sẽ sống”. Hắn bắn lại. Giàng Seo
Xay vẫn gọi. Hắn lại bắn về phía cô. Xay gọi Hòa: “Giàng Tả Hòa ơi, em ở đâu? Giàng Tả Hòa ơi
em ở đâu?”

Hòa vẫn nằm co quắp trong hang đá lạnh. Mắt em nhắm nghiền. Cái linh tính có tiếng
người ruột thịt gọi như thức tỉnh em hơn là thính giác của em nghe rõ tiếng. Hòa mở mắt nhìn rồi
chân tay em quờ quạng bò về phía cửa hang. Tên Phù Chẩn Diu vẫn bắn về phía gốc cây có Giàng
Seo Xay đang gọi ... “Hòa ơi...”.

Hắn nấp sau một mô đá.

Trần Ngọc và một chiến sĩ bò lên phía sau mái núi.

Anh vòng lại. Bất ngờ từ phía sau, anh xông tới. Anh đánh mạnh, khẩu súng trong tay tên
Diu văng đi.

Giàng Tả Hòa nằm ú ớ ở cửa hang. Đôi mắt em đờ đẫn, bạc phếch. Người em nóng như
cục than lăn trên lớp đá lạnh. Giàng Seo Xay cõng em xuống. Ông Páo khóc nấc ôm lấy em. Chân
tay em lạnh dần và bắt đầu co quắp. Miệng em sùi bọt trắng. Người em cong dần lại.

Chiều, ông Páo, các chiến sĩ biên phòng đưa em về đến bản Mặt Trời Mọc. Ông Páo đặt
em nằm bên bếp lửa, nơi em thường ngồi chơi với con chim cứ cư hót ngọt ngào, thì em tắt thở.
Người em lạnh cứng, cong lên như một tấm ván gỗ thông non phơi nắng to.

Đồng chí quân y ở đồn biên phòng nói, em đã nhiễm phải vi trùng uốn ván ở xương cốt tên
giặc năm xưa, đồng bọn với tên Phù Chẩn Diu.

Trần Ngọc đứng lặng. Ông Páo đau đớn đứng lặng. Giàng Seo Xay lăn khóc bên xác đứa
em... Một ý nghĩ đến với mọi người:

“Thằng giặc khi sống gây tội ác cướp của, giết người, khi chết, xương hắn vùi xuống đất
núi Mường Khương này rồi cũng vẫn còn gieo cái chết chóc. Con vi trùng ở hắn, cái nọc độc ở
xương cốt hắn vẫn còn sống dai dẳng và lúc có cơ hội thì còn giết được người. Nay những thằng
giặc đó lại dẫn xác về lại giết người nữa. Bà con ơi, bản Mông ơi đừng ai quên những thằng giặc
ấy!”.

Ông Páo đứng lặng. Tay ông cầm chắc chuôi dao. Ông không khóc. Mắt ông nhìn rực lên
như chớp lửa. Ông muốn nói với đám con trai bản Mặt Trời Mọc đứng quanh đây: “Con trai Mông
ơi! Người Mông ta đẻ bên cửa bếp, chết trên cửa trời, nay rừng đang có sói tràn đến, dây nỏ đừng
chùng, mũi dao phải sắc. Các con ơi phải giữ yên nương xôi, suối mật của đất núi Hoàng Liên
thấm máu người Mông ta”.

*
Tên thổ phỉ vừa bén mảng đến bờ suối thì bị dân quân bản Mặt Trời Mọc bắt. Hắn đứng
im, hai tay giơ lên trời. Cô dân quân Giàng Seo Xay hỏi hắn bằng tiếng Mông, hắn ú ớ lắc đầu, hỏi
hắn bằng tiếng Hán, hắn ú ớ lắc đầu, hỏi hắn bằng tiếng Kinh, tiếng Nùng, tiếng Giáy, hắn cũng
lắc đầu và chỉ vào cái mồm ngoác rộng, xung quanh mép lởm chởm những râu. Cô dân quân đã
hiểu: hắn bị câm. Một tên thổ phỉ câm! Xay và xã đội trưởng Ly Xeo Sáng đưa ngay hắn vào Đồn
biên phòng Quyết Thắng.

Trần Ngọc và Đồn trưởng Khánh nhìn hắn. Người hắn lùn tịt, tóc húi cua để trơ cái đầu
béo múp thịt, chân tay hắn to, lồng ngực nở. Trong tập hồ sơ những tên phỉ cũ và những tên thám
báo biệt kích lén lút ở vùng này để phá hoại để móc nối cơ sở phản động, các anh chưa thấy có
bóng dáng tên này.

Cô dân quân Giàng Seo Xay kể cho Trần Ngọc và đồn trưởng Khánh nghe về chỗ nó xâm
nhập. Cô gái Mông có đứa em trai bị tên giặc giết hại hôm trước dựng cây súng CKC vào tường,
cô nói, nơi nó đi vào bản gần một khu rừng cấm. Nơi đó tiếp giáp địa phận hai bản Mông Con Dao
Sắc và Mặt Trời Mọc nên rất ít người qua lại. Và, hắn đi vào lúc tinh mơ sương chưa kịp trốn nắng.
Hôm đó lại đúng vào phiên chợ Pha Long. Theo con đường đó, hắn đã nhập vào những đoàn người
đi xuống chợ. Trong người hắn không có giấy tờ gì, không có dấu vết gì chứng minh rằng hắn là
ai, tên hắn là gì, ở đâu đến. Duy ở đầu dải rút quần của hắn chỉ có một đồng tiền rất cũ, đúc bằng
đồng.

Mặt đồng tiền đã gỉ xanh. Xung quanh cạnh đã mòn nhẵn như bị trẻ em dùng để đánh đáo
nhiều. Đồng tiền đó bằng giá trị năm đồng tiền nhỏ. Cô dân quân đưa đồng tiền cho Trần Ngọc
xem. Cô kể lúc hắn xin ăn, xin uống đều dùng tay ra hiệu, chỉ trỏ còn miệng thì ú ớ như tiếng chim,
như tiếng thú. Mỗi lần được ăn, được uống hắn cười và gật đầu cảm ơn. Đặc biệt thằng câm này
đi đường gặp cái gì cũng nhìn, hắn nhìn rất kỹ, và gặp ai hắn cùng cười chào. Cô Giàng Seo Xay
nói cô chỉ nghĩ một điều là cô đã gặp vài người câm. Vì họ không nghe được tiếng mẹ họ dạy nói
khi còn nhỏ. Đằng này, thằng câm lại rất thính tai. Xay đã thử hắn. Lúc cho hắn mỳ mén (bột ngô)
xong. Xay nhìn đi nơi khác và hỏi hắn có biết uống rượu Xèo không. Hắn gật cái đầu trọc lia lịa,
cười toét cả môi rồi khoanh tròn nắm tay lại ngửa cổ đổ vào miệng ra hiệu xin được uống.

Trần Ngọc lật đi lật lại đồng tiền, anh nhìn kỹ từng nét chữ, từng con số, anh nói:

- Thế đó, thằng này câm nhưng có lẽ đồng tiền này biết nói...

Lát sau tên câm ngồi trước Trần Ngọc. Hắn khoanh tay trước ngực. Cái đầu húi cua cúi
xuống làm cho hai má hắn xệ dài ra.

- Anh nghe đây!- Trần Ngọc nhìn thẳng vào mặt hắn. Giọng anh nghiêm khắc. - Anh vào
bản Mặt Trời Mọc làm gì? Ai phái anh vào?

Hắn lắng tai nghe rồi chỉ ngón tay vào cái miệng há hốc ú ớ như bị tắc từ cuống họng.

- Chúng tôi biết rằng anh không phải là người câm mà chính bọn thổ phỉ trong rừng đã bóp
cổ họng anh lại. Anh nghĩ sao? Anh hãy tự cứu lấy bản thân anh khi đang còn thì giờ làm việc đó.
Anh khai báo rõ ràng đi, sẽ được đối xử tốt.
Hắn vẫn ú ớ xua tay về phía trước. Hắn muốn nói rằng không phải hắn giả câm. Rồi hắn
chỉ tay lên trời chỉ tay xuống đất làm động tác thề ...!

- Anh có phải là người Mông không?

Hắn chỉ tay sang phía núi bên kia.

- Hay người Dao? - Hắn vẫn xua tay.

- Tôi muốn nói với anh câu tục ngữ của người Mông ở đất núi Mường Khương này: “Chúng
tôi sống để yêu thương, chứ không phải sống để thù ghét. Sao không có gió, các anh lại muốn
thành bão, không có nước các anh lại muốn thành lụt”. Những kẻ muốn người Mông sống như con
sên chúng sẽ thành con vắt. Anh hiểu không?

Hắn lắng nghe rồi lại xua tay. Cái miệng méo xệch của hắn lại ú ớ. Trần Ngọc đứng dậy.
Anh đứng trước mặt hắn. “Vỏ quýt dày thì có móng tay nhọn. Mày là con đỉa thì chúng tao có
nước vôi”. Anh thầm nghĩ, tự tin:

- Nghe đây. - Trần Ngọc nhìn xoáy vào khuôn mặt dày thịt của hắn. - Chúng tôi không có
nhiều thì giờ để nói chuyện với anh. Chúng tôi đã để cho anh tự cứu lấy mình nhưng anh tỏ ra
không biết điều, anh tỏ ra là kẻ ngoan cố. Giờ đây chúng tôi đối xử với anh như đối xử với những
tên thổ phỉ cướp của, giết người gây tội ác. Anh đứng dậy. - Ngọc xách cổ áo tên câm dựng hắn
lên. - Theo pháp luật của nước Việt Nam, những kẻ đã gây tội ác hoặc có mưu đồ gây tội ác sẽ bị
xử bắn. Anh thuộc vào loại đó. Anh sẽ bị xử bắn - Giọng Trần Ngọc sang sảng, rành rọt như giọng
một vị chánh án tuyên án để kết thúc phiên tòa. Miệng tên câm há hốc. Hắn tròn xoe mắt bàng
hoàng nhìn Trần Ngọc.

- Các đồng chí.

Ba chiến sĩ biên phòng xách súng bước ra.

- Chúng ta những chiến sĩ biên phòng bảo vệ an ninh vùng biên giới của Tổ quốc Việt Nam.
Chúng ta sẽ thi hành bản án xử bắn tên thổ phỉ nguy hiểm có mưu đồ phá hoại Tổ quốc chúng ta.
Chúng ta đã thực hiện chính sách nhân đạo, nhưng tên giặc vấn ngoan cố.

Lời Trần Ngọc như sét quật vào mặt tên giặc. Hắn hoảng hốt. Mặt hắn nhăn nhúm. Hắn
run rẩy như người lên cơn sốt rét. Trần Ngọc khoát tay ra hiệu. Một chiến sĩ biên phòng bước tới
lấy mảnh vải đen bịt mắt hắn lại. Một chiến sĩ khác trói gập tay hắn về phía sau. Mặt hắn bỗng tái
nhợt. Cổ hắn rụt xuống. Nhưng miệng hắn vẫn ú ớ rồi rú lên như con chó dại lên cơn. Hắn mếu.
Hắn rên rỉ. Hắn khóc.

Các chiến sĩ biên phòng trói chặt hắn vào gốc cây sa mu rồi lùi ra. Trần Ngọc hạ lệnh:

- Mỗi đồng chí bắn ba phát. Lên đạn!


Những viên đạn được đẩy vào bầu nòng phát ra tiếng kêu lách cách. Bỗng tên câm run rẩy.
Hắn rũ xuống như cây chuối rừng thổi gốc. Hắn khóc òa lên. Rồi bất ngờ, cái điều bất ngờ mà các
chiến sĩ công an biên phòng đang chờ đợi. - Hắn kêu lên thành tiếng:

- Xin các ông đừng giết tôi, các ông đừng bắn tôi. Tôi sẽ nói hết, nói hết...

- Các đồng chí tạm mở trói cho hắn để xem hắn muốn nói gì. - Trần Ngọc nhìn tên thổ phỉ
bằng cặp mắt mỉa mai: “Ra thế, bọn trùm thổ phỉ bắt mày không được nói tiếng người, phải kêu
như tiếng chó nhưng trước cái chết, mày đã trở lại nói tiếng người!”.

Hắn ngồi đó, trong một cái phòng con. Hắn vẫn cúi gầm mặt xuống. Cái đầu húi cua,
khoanh cổ nung núc thịt và cả lưng áo hắn đều ướt sũng mồ hôi. Trần Ngọc nói với hắn:

- Anh phải nói đúng. Những điều anh nói sẽ cứu anh, nó quyết định số phận của anh.

- Xin ông, tôi sẽ nói hết!

- Tên anh là gì?

- Tên tôi là Mìn A Dùng. Tôi được phái ra dò xem tại sao ông Phù Chẩn Diu vào bản Mặt
Trời Mọc mà không thấy về. Nếu ông bị bắt thì đồn công an biên phòng giam ông ấy ở đâu?

- Anh nói tiếp, Phù Chẩn Diu ở trong ấy làm gì và hắn vào bản Mặt Trời Mọc có mục đích
gì?

- Thưa ông, Phù Chẩn Diu là người đang tập trung những người Mông để lập “Xứ Mường
Khương tự trị”, ông ấy đang tìm một người là bạn cũ của ông ta. Người đó nghe nói vừa được thả
ở trong tù ra. Ông ấy muốn tuyển chọn những thanh niên, thiếu niên người Mông ở các bản vùng
biên giới này để lập đội quân áo đen của “Xứ Mường Khương tự trị”.

Trần Ngọc giơ đồng tiền đã buộc đầu dải rút của hắn ra trước mặt hắn, nói:

- Anh hãy nói về bí mật của đồng tiền này. Tôi nhắc lại, anh phải nói đúng, nói hết. - Người
chỉ huy đồn biên phòng gọi một chiến sĩ rót cho hắn cốc nước và trao cho hắn cả bao thuốc lá Tam
Đảo. - Anh uống nước và hút thuốc lá đi.

- Thưa ông - mặt hắn vẫn chỉ sập xuống - đồng tiền này là mật hiệu để chúng tôi nhận nhau.

- Anh nói rõ hơn.

- Thưa ông, khi vào bản Mông định liên lạc với một người nào, tôi đưa đồng tiền này ra
nói: “Thưa ông, đây là đồng tiền ăn năm đồng tiền lẻ”, nhưng người đó nói là ăn bảy thì đúng là
người tôi cần liên lạc. Nếu không có đồng tiền này, tôi dùng tờ giấy bạc cũ của Tưởng Giới Thạch
cũng được. Người ta nói với tôi vùng biên giới này có nhiều loại giấy bạc ấy trong dân các bản.
Cứ tờ năm mươi đồng mà nói bảy mươi đồng là đúng người mình cần gặp. Nghĩa là phải cộng
thêm hai. Thưa ông về đồng tiền thì tôi đã nói hết. Tôi cam đoan lời tôi nói là đúng.
- Anh có ý định dùng đồng tiền này để gặp ai?

Hắn ngồi im. Hắn ngần ngừ một lát rồi nói:

- Thưa ông, người ở trong ấy giao cho tôi tìm gặp một người Mông làm thầy thuốc và thầy
địa lý ở Mường Khương. Rồi tôi cùng người này đi tìm tung tích ông Phù Chẩn Diu. Thưa ông,
người ở trong ấy đã nói nếu mất ông Diu coi như mất một cánh tay.

- Anh có biết sắp tới đây những ai sẽ ra các bản Mông làm những việc như anh?

- Thưa ông, tôi không biết đích xác nhưng có người sẽ ra tìm gặp một người mà các ông
mới thả trong tù ra. - Nói xong hắn ôm mặt khóc rưng rức rồi hắn nằm phủ phục. Hắn vật vã trên
nền nhà.

Trần Ngọc vỗ vai hắn và nói:

- Anh đừng lo, rồi cả vùng này sẽ biết tin anh đã bị bắn chết khi vừa bị chúng tôi bắt.

Trần Ngọc bước ra sân đồn, trời biên giới đã tối hẳn. Ở chân trời phía tây đỉnh Hoàng Liên
còn lại đám mây đỏ rực hắt lên bầu trời một màu hồng nhạt. Miền đất núi Mường Khương sương
đã phủ trắng ...

Seo Hồng được trở về làm nhà ở bản Lao Táo. Thông tri trên gửi về đã nói rõ: “Sau hai
mươi năm ở trại cải tạo, Vàng Seo Hồng đã được hưởng mọi quyền làm người công dân. Vàng
Seo Hồng phải làm ăn lương thiện không để tái phạm lỗi lầm một lần nữa. Nhưng Vàng Seo Hồng
không được về ở bản cũ mà phải về cư trú ở bản Lao Táo...”(1).

Mọi người đều hiểu anh không được về ở bản cũ là phải. Vì bản đó ở sát đường biên giới
và bọn thổ phỉ thường lẻn đến quấy phá. Hai mươi năm trôi qua, hai đời thông sa mu trên núi
Hoàng Liên dựng được nhà mới, lớp trẻ ở các bản Mông trên đất núi Mường Khương này đẻ bên
cửa bếp đã cầm được con dao sắc ra “cửa trời” tìm cho cha cành quế thơm, chọn cho mẹ bó củi
tốt, nên ít người biết Vàng Seo Hồng. Hồng lại về ở một bản xa. Một bản có người Nùng, người
Thù Lao, Pa Dí, người Mông ở xen kẽ, nên anh càng xa lạ với tất cả. Những người cùng trang lứa
với anh hoặc là không còn, hoặc đã tản mát dời nhà sang các vùng núi khác trong dãy Hoàng Liên
nên ít người gặp anh. Mà anh cũng không hay xuống chợ. Thỉnh thoảng anh mới về cửa hàng mậu
dịch mua muối, mua vải. Họa hoằn lắm mới có người nhớ tên anh. Điều đó cũng là đặc điểm riêng
của những người ở vùng nhiều núi cao xanh, nhiều rừng thẳm biếc. Chả thế mà bà con đã từng nói
“ở đây ít nhìn thấy mặt trời mọc, ít nhìn thấy mặt trăng tỏ nên người Mông ít nhớ, nhiều quên”.

Còn con người Vàng Seo Hồng thì đã đổi thay nhiều lắm. Mới bốn mươi tám tuổi, tóc anh
đã bạc như xơ cây móc trắng trong rừng. Da anh đen giòn và cái trán vát cao. Hồng ít nói và ít làm
quen với dân bản. Hồng chỉ ở một mình. Sớm anh mang lù cở cầm dao nên nương. Hồng đi hái ớt,
nhổ kiệu, đi cắt xèo, hái pà. Tối về, Hồng cứ thui thủi một mình bên bếp lửa. Hồng buồn. Anh
sống thầm lặng và kín đáo như vị thuốc Hoàng Liên nép trong rừng cây đầu dốc núi. Người ở bản
Lao Táo ít ai biết về quá khứ của anh. Biết chăng họ chỉ truyền miệng với nhau rằng: anh là một
tên phỉ từng có mưu mô cướp đồn công an biên phòng Pha Long ở Mường Khương này. Anh đã
giết chiến sĩ biên phòng nên bị bắt giam. Đáng lẽ Hồng phải giam hai mươi lăm năm. Với tấm
lòng quý người của bà con sống ở đất núi Mường Khương này, cả bản Con Dao Sắc ai cũng xem
anh như xem nhà có thêm chống càng tốt, có thêm cột càng bền, bản có thêm người đến ở góp
thêm bếp lửa, góp thêm tiếng nói tiếng cười, càng vui, càng ấm bản. Thực tình ra nếu như biết
cũng chẳng ai muốn nhắc về một quá khứ độc địa của anh, của một tên phỉ ác đến nỗi như con lợn
rừng giết người không sợ đôi nanh thấm máu. Hồng vốn là một tên phỉ đàn em của Châu Quang
Lồ. Phỉ tan, Hồng về nằm im giấu mặt. Hồng mở quán bán thắng cố ở chân đồi nơi Đồn biên phòng
đóng quân. Rồi đồng bọn của anh ẩn nấp ở trong rừng lẻn ra xúi giục anh, bày mưu phục thù cho
anh. Hồng bắt mối mua chuộc được một chiến sĩ biên phòng người Mông hay ra quán ăn thắng cố,
uống rượu. Có nội phản rồi, đêm Hồng và đồng bọn xông vào bắn giết, cướp đồn. Hồng và một
tên đầu sỏ nữa bị bắt. Tên đầu sỏ đã trốn tù. Còn Hồng nhận hai mươi lăm năm tù giam.

Đêm khuya. Lạnh. Vùng núi Pha Long tuyết rơi lất phất trên ngọn lau. Con chim chớ chúa
nhớ bạn kêu rầu rầu trong hang đá. Có người đến gõ cửa nhà Seo Hồng. Seo Hồng chưa ngủ. Anh
cời to bếp lửa lên rồi cầm con dao phát đi ra. Một bóng người đen ngòm như con gấu ngựa xồ vào:

- Vàng Seo Hồng à! Tao về tìm mày đây mà!

Hồng lùi lại một bước.

- Ôi, ông là ai? Ông là ai mà vào nhà ta lúc nửa đêm, gõ cửa nhà ta lúc trời tối.

- Tao! Cáo Chẩn Phù đây!

Vàng Seo Hồng lưỡng lự như suy tính một lát rồi kêu lên:

- Ôi, đã bảo mùa rẫy rồi ông lại về đây.

- Ừ, tao như con hổ vằn hổ hoa, miền rừng nào có mồi ngon có hoẵng non, nai tơ là tao tìm
đến. Mày đưa tao vào nhà đi!

Thực ra, Seo Hồng đã chuẩn bị đón hắn. Vì nhiều nguồn tin đã cho Hồng biết sẽ có người
đến tìm. Hồng đoán nhất định là hắn. Tuy vậy sự việc xảy ra bất ngờ trong đêm khuya. Seo Hồng
hồi hộp. Hồng khép cổ áo để ngọn gió đêm lùa vào đỡ lạnh.

Hồng trấn tĩnh lấy lại thăng bằng “vậy là nước cờ đã vào thế rồi đó”.

Seo Hồng nhớ lại. Rõ ràng anh chỉ gặp thằng này có vài lần thôi. Lúc đó hắn ở nhà tạm
giam khi ta mới bắt về. Hồi đó, hắn có một nốt ruồi to đen sì ở dưới cằm và cái trán láng bóng như
quang dầu. Ở mấy tuần với Vàng Seo Hồng, khai thác kỹ nó, anh đã biết thêm những chi tiết về
tính nết, về con người của tên phỉ này. Tên phỉ này rất thích uống rượu xèo ngâm củ tam thất rừng,
củ bạch truật rừng, rượu vừa cay vừa đắng. Mà càng cay, đắng hắn càng thích thú. Hắn lại có vợ
là người Mông. Vợ hắn là Chấu Seo Phỏng, cháu của Chấu Quang Lồ. Chính Seo Hồng năm ấy
đã dắt Phỏng đến cho hắn.
Seo Hồng đưa Cáo Chẩn Phù vào nhà. Bếp lửa được đốt to lên. Hai người nhìn nhau. Cáo
Chẩn Phù tròn mắt nhìn. Seo Hồng ôm lấy cánh tay Cáo Chẩn Phù:

- Ông Cáo Chẩn Phù, ông còn nhớ tôi! Tôi như hạt xèo rơi, như củ kiệu thối, ông còn tìm
đến nhặt. Dù rừng lở, dù đất sụt, dù cho cây ở đất núi Mường Khương này ai phát bằng như gấu
áo, tôi cũng không quên ông. Ông Phù, Chấu Seo Phỏng ở đâu, có khỏe không?

Phù cười tủm tỉm: “Ôi mày còn nhớ đến, hỏi đến con vợ của tao”. Phút ngờ ngợ ban đầu
đã qua đi khi nghe Seo Hồng hỏi đến vợ của hắn.

Bếp lửa cháy to, sáng rực. Hồng nhìn rõ cái nốt ruồi ở cằm hắn bây giờ to ra lan gần đến
môi trông như một cục thịt thừa đen thui. Ở đó lại mọc lên hai ba cái lông đen. Và, cái trán của
hắn càng láng bóng. Một thứ láng bóng của sự ăn uống đầy đủ, dư thừa.

- Nếu gặp ngoài rừng, tao không còn nhận ra mày nữa. Mày già đi, trông mày như cái cây
còn sót lại trong mùa đốt rẫy.

- Hai mươi mùa nương rồi, chim rừng, cá suối, thú béo ở đất núi này tôi phải lìa nó. - Seo
Hồng phân trần, nước mắt anh rơm rớm. - Tôi nay đã mỏi tay chặt, đã yếu chân đi rồi. Tôi đã chịu
bao mũi tên đâm vào tai, bao gai nhọn cào vào mặt rồi. Ông Phù ơi! Ông xem hai cánh tay tôi đây
- Seo Hồng xắn cao tay áo - đã bầm vết trói. Ông xem hai cái vai tôi đây đã lằn vết đánh. Bọn Kinh
nó làm khổ, tôi có bao giờ quên, nước mắt tôi đã chảy nhiều hơn cơn mưa tháng tám. Ông Phù
ơi...

Vừa nói, Hồng vừa nhìn Cáo Chẩn Phù. Những cái nhìn như kêu van. Như chờ cứu vớt.

- Ông Phù, từ ngày chúng ta như lóng nứa chặt đôi, như dây mây cắt nửa, ông được vào
rừng theo vua...

- Tao sướng. Tao ăn cơm nằm trong đĩa hoa, cơm ngồi trong bát sứ, tao uống rượu ngâm
nhung nai, tao chơi gái Mông khi nó vừa biết đeo vạt che vú, mặc váy hoa che đùi... tao vẫn nhớ
mày đang bị bọn Kinh đày đọa.

Cáo Chẩn Phù trốn tù từ hai mươi năm trước. Năm đó sau khi không thành trong mưu toan
cướp đồn biên phòng, cả hai đứa đều bị bắt. Trước ngày đưa ra xử án, hắn bẻ khóa, tháo còng trốn
vào rừng đêm... Nay hắn về tìm Vàng Seo Hồng. Vàng Seo Hồng mở lọ rót cho hắn một bát rượu
ngâm củ tam thất cay nồng, đắng ngắt. Hắn bưng bát rượu uống ừng ực. Mắt hắn sáng lên.

- Ôi! Seo Hồng ơi, mày vẫn nhớ cái thứ rượu tao thích uống này. Vua trong ấy dặn tao phải
thử kỹ mày đã, vì xa hai mươi năm rồi. Nhưng ta có phải con chim xanh lạ núi đâu mà thử tiếng
thử lời, có phải con nai lạ rừng đâu mà thử lòng thật dối. Tao chỉ xem mày giờ có hèn như con sâu
cuốn chiếu không! Mày có mặc váy, đeo vạt của bọn con gái không. Mày có như cái sọt đan tre ải
để người Mông đựng nấm, đựng măng không. Mày có như con nai ỉa cứt rơi phải khoeo chân cũng
sợ không. Mày có còn là thằng Vàng Seo Hồng cầm pạc hoọc xông vào đồn biên phòng như năm
xưa nữa không? Tao nhớ bát thắng cố của mày đêm hôm đó Vàng Seo Hồng ạ...
Cáo Chẩn Phù nhắc đến cái kỷ niệm đêm hôm ấy. Cái đêm chúng ngồi uống rượu xèo, ăn
thắng cố để chờ có ánh lửa của tên phản phúc đang gác ở cổng đồn biên phòng làm hiệu tiến công
...

- Ông Cáo Chẩn Phù ơi, mật khoái rừng dù đổ chung với nước sông trong ống cũng không
hòa lẫn. Máu của người Mông thì bao giờ cũng đỏ, nước sông của người Kinh thì bao giờ cũng
xanh không hòa lẫn được.

Cáo Chẩn Phù nhìn Seo Hồng gật đầu:

- Thế là tao biết rõ lòng mày như biết nước trong lóng tre non thì ngọt, Seo Hồng ạ.

Đêm đó, bên bếp lửa, Cáo Chẩn Phù và Seo Hồng nằm trên cái giường gỗ thông. Seo Hồng
kể cho Phù nghe về trăm điều “cơ cực” của hai người những năm bị tù tội. Nỗi cơ cực đó đã như
cây tre nối dài thêm nhiều đốt, có bao giờ quên, có bao giờ nguôi. Seo Hồng thổ lộ điều anh ước
ao làm sao trả được mối thù đó. Seo Hồng cũng ước ao làm sao cho đất núi Mường Khương này
là của người Mông. Cây trái vùng này người Mông ăn, của người Mông tất cả. Tất cả như ông bà
người Mông nói: “ti châu pà châu, tý pú tờ Mường Khảng Tùng Lâu” (đi đâu ở đâu cũng không
bằng vùng đất Mường Khương, Tùng Lâu).

Phù quay mặt về phía Hồng:

- Mày à, việc đó thì không khó. Mày có muốn làm thống lý vùng Pha Long này không?
Mày có muốn làm người cầm đầu các dòng họ như ông Chấu Quang Lồ ngày trước không? Mày
có muốn lập “Xứ Mường Khương tự trị” không? Đất núi Hoàng Liên bao la ngựa chạy đi trăm
ngày không hết, mắt nhìn lại trăm tầm nối không vơi này là của mày. Những cô gái xinh như con
ong chúa, đẹp rờ rợ như cành lê nhiều quả chín đầu mùa đều là vợ mày. Ừ, thế thì phải theo vua
mày ạ. Gốc của tổ tiên người Mông là vua Mông mà. Vua sẽ giúp người Mông lập nên một “xứ
Mường Khương tự trị” ở Pha Long. Mường Khương, Si Ma Cai này. Rồi có quân đội, có súng đạn
tốt, có tiền bạc riêng của vùng này.

Nếu bọn Kinh kéo lên, ta có đủ sức mạnh chống lại. Ta sẽ bắt mối gắn kết với những người
anh em bên Đồng Văn, Mèo Vạc, Hoàng Su Phì... Ở bên ấy những người anh em đã nổi dậy chiếm
Cổng Trời, chiếm dốc Chín Quai rồi. Seo Hồng, mày thấy không? Rừng cao nghi ngút này chỉ có
cây thông sa mu tượng trưng cho người Mông sống được, chỉ có cây tống quá sủ tượng trưng cho
người Dao sống được. Còn có cây nào, có người dân tộc nào lên đây sống nổi đâu. Mày ngẫm kỹ
lời tao nói đi. Seo Hồng ạ, mày thấy rồi đấy, thuốc quí trong rừng này đã đưa hết về xuôi, nếp cẩm
thơm, hạt ý dĩ tốt của đất này cũng chuyển về xuôi. Người Kinh còn đưa người, đưa con trai, con
gái lên phá núi của người Mông để mở nông trường, lập làng lập bản. Chúng cướp rừng, chúng
giết người. Người Mông sẽ tiệt giống. Giờ người Mông có vua rồi, có vua hiện ở trong rừng rồi.
Mày hãy to tiếng lên gọi đám con trai đi. Mày gọi rằng: “Có súng dao thì cầm súng dao, không có
súng dao thì cầm chày giã gạo, chưa giết bọn Kinh thì không gác giáo bỏ rừng”. Seo Hồng à, mày
truyền câu ấy đi.
Seo Hồng nằm lặng im nghe lời Cáo Chẩn Phù nói. Ôi. Lời nó sao mà độc địa như con sói
đói mồi gào, như con gấu ngựa nhai phải củ ráy ngứa lưỡi rống ... Lời nó nói làm cho con gà phải
giật mình vỗ cánh; con lợn nhắm mắt rùng cổ; con chó khoang, chó vện cụp đuôi chạy dài...

Khi con chim cứ cư ngoài núi vắng hót tiếng đầu tiên báo trời sắp sáng, Cáo Chẩn Phù ngồi
dậy. Hắn nói với Seo Hồng: “Tao vào núi, nếu lần sau tao không ra được, mày thấy có người tìm
đến mà đưa cái giấy này thì mày nghe theo nó. Nó là người của tao”. Phù rút trong túi áo trên ra
một cái giấy đưa cho Seo Hồng đọc để nhận mặt giấy làm tin. Cầm tờ giấy đã cũ, đã nhầu nát và
thấm mồ hôi, các đường gấp đã rách, Seo Hồng biết ngay đó là cái giấy chứng nhận của tên trùm
phỉ Châu Quang Lồ cách đây ba mươi năm cấp cho bọn phỉ đi lại trong vùng này. Cái giấy ấy,
Vàng Seo Hồng cũng có và Phù đã nói rất rõ về nó với anh. Seo Hồng đã đưa cái giấy ấy cho y
xem. Nó cũng giống như cái giấy này:

“Xứ Mèo tự trị! Đoàn trưởng thống lý Châu Quang Lồ, cấp giấy chứng nhận này cho Cáo
Chẩn Phù. Chức vụ: Ngũ trưởng chiến đấu. Được đi lại tự do trong vùng: Mường Khương, Pha
Long, Si Ma Cai, Ý Tý, Bát Xát....

Các trưởng bản, các già bản phải có phận sự cung phụng vật chất nuôi sống người cầm
giấy và phục tùng người cầm giấy.

Đoàn trưởng thống lý Châu Quang Lồ

Bản Lao Páo Chải - Pha Long

Ngày 13-01”

Cáo Chẩn Phù gấp tờ giấy lại rồi xé đôi ra. Hắn đưa cho Seo Hồng một nửa rồi nói:

- Mày giữ lấy nửa cái giấy này, nếu có người cầm đến nửa này nữa, mày ghép vào mà khớp
thì đúng là người của tao!

Chờ đến sáng, Vàng Seo Hồng mang lù cở, cầm dao đi ra khu rừng cấm. Anh đi qua cái
rẫy lúa chín vàng rực, ngô ngậm nửa bông, đỏ màu hoa xèo, vàng tàn hoa cải. Trần Ngọc chờ anh
ở đó. Anh kể lại cho Trần Ngọc nghe chuyện thằng Cáo Chẩn Phù đã tìm tới anh đêm qua. Trần
Ngọc cắn vành môi suy nghĩ: “Thú đã vào bẫy rồi!”. Ngọc tin tưởng ở người cán bộ trinh sát lâu
năm này lắm. Anh là Mùa A Pếnh, cũng người dân tộc Mông. Pếnh đã đến ở với Vàng Seo Hồng
nhiều ngày. Pếnh đã nhập vai Vàng Seo Hồng một cách thuần thục. Pếnh có thuận lợi là người
cùng dân tộc, cùng tiếng nói. Căm thù lũ thổ phí đối với Pếnh đã được nhân lên hai lần so với
người khác. Bởi ngoài mối thù chung là chúng đang muốn dựng nên cái bóng ma “Xứ Mường
Khương tự trị” để gây rối an ninh vùng biên cương, anh còn có mối thù riêng của dân tộc anh, của
người Mông đối với chúng nữa. Chúng đang lừa phỉnh, lôi kéo người dân tộc của anh. Chúng
muốn tách người Mông của anh ra ngoài khối đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam để phục vụ cho
mưu đen của chúng. Pếnh đã hiểu rõ lời Chính trị Trần Ngọc nói rồi. Chúng cứ hoang tin là có vua
Mông hiện về, nhưng thực ra thì có vua chúa gì đâu. Chẳng qua đó là những tên trùm thổ phỉ,
những tên thống lý có tội ác với dân, trốn sự trừng trị của dân đang lén lút sống trong rừng sâu,
nấp trong các bản vắng. Chúng dựng tin như vậy để lừa bịp dân, dụ dỗ, ép buộc dân đi theo chúng
mà thôi. Pếnh cũng như nhiều người Mông ở đất núi Mường Khương này đã biết nghĩ: “Lòng
người Mông đối với Đảng, với Bác Hồ đã vững như cây tre lên măng, đã bền như cây tre bén rễ
rồi, dù chúng có nói gì, có làm gì thì cũng chỉ như sức con bướm non ngo ngoe trong ruộng mạ
mà thôi. Tội ác của chúng gây ra ở các làng bản vùng biên giới này, người Mông có bao giờ quên,
có bao giờ nguôi”.

Trần Ngọc nói với Pếnh: “Ta phải dự tính đến khả năng xấu nhất. Nếu có người sang rủ
đồng chí vào rừng, vào hang ổ thì khoan hãy đi. Đồng chí nói với nó là đồn công an biên phòng
đang theo dõi, chưa đi được. Bởi vì vào trong ấy khó bảo vệ đồng chí. Còn nếu nó gọi đi đâu trong
vùng biên giới thì cứ đi. Đồng chí nhớ nếu chúng nó có bàn việc gì hại đến người và của cải của
dân, thì tìm cách chặn lại. Đồng chí bảo với nó làm như thế là manh động sẽ bị lộ, muốn lấy cả rẫy
ngô thì đừng sờ đến một bông lép...

Hai người ngồi bàn tính với nhau đến trưa. Bản Lao Táo trước mặt họ như một hòn đảo nổi
bồng bềnh giữa biển mây sớm. Hoa lê nở trong gió mới về, trong nắng mới tới. Và, những cây
thông sa mu trên ngọn bọc chóp trắng mây sương thẳng vút lên trời cao nom như những ngọn giáo,
những lưỡi mác mới mài nhô lên trong vòm trời biên giới...

Đồn trưởng Khánh nắm chặt tay chiến sĩ trinh sát Vi Viết Sài:

- Đồng chí nhớ từ nay tên đồng chí là Mìn A Dùng đấy nhé. - Sài cười. Đồn trưởng nói
tiếp:

- Đồng chí bắt đầu xung trận rồi đấy. “Danh sách và âm mưu”, hai tay đồng chí nắm cho
được hai thắng lợi ấy.

Sài mặc bộ quần áo đen ngắn cũn cỡn. Tóc anh húi cua để trơ cái đầu trọc lóc. Sài nhìn lại
đồng tiền buộc ở dải rút. Anh đi về phía chợ. Chợ đang đông người. Ở vùng Pha Long chợ họp
vào ngày chủ nhật. Ngày đó từ các bản Mông, bản Tày, bản Thù Lao, La Chí... trong lũng núi dọc
miền biên giới bà con đều đổ dồn xuống chợ. Con trai con gái, người già người trẻ đều mặc áo
đẹp, họ đi mua đi bán. Họ bán ống mật ong, giỏ nấm hương, xâu măng, hạt ý dĩ, con tắc kè... Họ
đi đổi cho được con ngựa ô họ ưng, con lợn nái họ thích. Họ nếm thử các thứ rượu xèo, rượu ngô,
ăn bánh dầy nếp của người Nùng, ăn cây mía to như cây tre của chị người Mông. Và nữa, họ đi ăn
món đặc biệt của vùng chợ Pha Long này: món thắng cố. Thế nhưng không khỏi có những kẻ hẹn
nhau về phiên chợ để gặp nhau, để bàn với nhau những điều ác độc...

Mìn A Dùng đi vào chợ. Anh đi đến góc chợ ở phía giáp dãy thông sa mu, nơi đó, các chảo
thắng cố đang sôi, khói tỏa nghi ngút. Trong những cái chảo gang lớn bằng cái nong phơi thóc:
thịt chó, thịt ngựa, thịt trâu, thịt lợn và cả lòng dê, lòng bò... đã chín đang độ thơm ngậy. Theo
tiếng địa phương thắng cố là nồi nấu một món. Cạnh đó những tấm gỗ dẻ, gỗ thông bày ra. Những
cái dù hoa trương lên che nắng. Những đôi vợ chồng, những cặp bạn bè ngồi ăn. Họ trò chuyện.
Họ uống rượu. Mỗi người vác đi một ống rượu dài đến một đầu một với. Bát ăn của họ là những
ống mai to cưa ngắn, đũa là những thanh mai chỉ vót sơ cạnh. Để khi say là họ quăng, họ đập vô
tội vạ, bởi rừng Mông này thiếu gì mai. Và khi phiên chợ tàn, người bán chỉ việc quẩy một cái
chảo và con dao về, còn “đũa bát” lại chặt mai rừng làm đợt khác.

Mìn A Dùng đến ngồi xuống ở dãy thắng cố cuối cùng. Anh ăn, anh uống rượu, anh nhìn
ra xung quanh để nhận những bộ mặt lạ. Anh lắng nghe người Dao, người Mông, người Nùng nói
về thời cuộc. Họ nói về người Mông sẽ có “Xứ Mường Khương tự trị”; người Mông đã có vua.
Và đặc biệt anh lắng nghe họ nói về ông thầy thuốc, thầy địa lý tìm đất chôn người đều quay đầu
về phía núi, phía gốc tổ. Ông có thuốc tốt. Ông chữa được bách bệnh. Nhà ông ở Mường Khương.
Tên ông là Cư Chín Sài. Người đàn ông dân tộc Mông ngồi cạnh anh, anh ta ăn một miếng thịt,
húp một ngụm rượu lại khen ông Cư Chín Sài một câu. Người trong chợ cứ như đàn ong trong rẫy
hoa xèo. Nhóm ăn uống nào, nhóm mua bán nào, ở đâu anh cũng nghe người ta nói về ông, người
ta khen ông. Ai có vị thuốc quý mới tìm được dù có người mua đắt hơn họ cũng không bán mà
đưa về cho ông. Ai có con tắc kè to cũng nhốt trong ống tre nuôi sống đưa về cho ông. Có mật con
trăn, mật con gấu... người ta cũng đưa đến nhà ông. Ông Cư Chín Sài trở thành trung tâm sự quý
mến của người Mông vùng này. Người Mông ở các bản đều vui lòng, nhìn nhau là thấy nụ cười
bởi có ông thầy thuốc giỏi là người dân tộc mình ... Ông lại thương yêu hết mọi người Mông.
Trong nhà Cư Chín Sài không có vị thuốc quý nào ở vùng núi Hoàng Liên này mà ông không có.
Thuốc chữa đau khớp, đau xương có, cao hổ, mật gấu có; rượu rắn mồng năm, bộ tam xà, bộ ngũ
xà có; sâm nam, sâm bắc đều có... Ông Sài còn có cả loại thuốc chống thụ thai. Đó là một bộ phận
của một loại con vật hiếm ông bắt được ở rừng. Ông còn giữ bí mật nhà nghề không truyền cho ai
biết cả. Ông Cư Chín Sài chữa bệnh cho dân cả vùng. Bất kỳ ai tìm đến, ông cũng tận tình chữa.
Bệnh gì ông cũng chữa. Người xa ở bản nào dù ở dốc núi Tả Ngải Chồ, Tả Lùng Thắng, hay tận
Lồ Cố Chin, ông cũng tìm đến chữa giúp. Mà trong số những người uống thuốc của ông cũng có
người khỏi bệnh thật. Tiền công, tiền thuốc ông chỉ lấy phải chăng. Ai trả bao nhiêu ông cũng ừ,
cũng nhận. Ai nghèo quá ông chỉ nói: “Người Mông ta vất vả quá, làm ăn siêng năng tay trên
nương, chân ngoài rẫy, cứ như con nhện sớm giăng tơ trên núi chiều thu tơ dưới lũng mà vẫn cứ
khốn khó. Ở đất Mường Khương này chắc xèo chịu được, pà (kê) không sống được rồi. Đất này
không ở thì bỏ, bản này không ở thì phá. Ta phải nhìn về phía núi. Gốc của người Mông là ở trong
đó”. Nếu ai có bệnh nặng ông không chữa được, họ chết thì ông làm thầy địa lý tìm đất chôn cho
luôn. Ông lấy hướng đúng mạch phát. Hướng đó đầu đều quay về phía núi. Phía có vua, phía mà
ông lầm rầm khấn vái sẽ xuất hiện chín mươi chín mặt trời sáng, sẽ xuất hiện chín mươi chín mặt
trăng tỏ soi sáng cho hồn người Mông về với vua.

Đó là nói về người Mông ở các bản, còn chữa bệnh cho cán bộ huyện, cán bộ xã, cho chiến
sĩ đồn biên phòng thì ông lại dùng nhiều thứ thuốc quý. Thỉnh thoảng ông còn đến tận cơ quan,
đơn vị hỏi xem người ông đã chữa khỏi bệnh nay có đau lại không, có khỏe hơn lúc chưa chữa
không. Sài còn hỏi ở quê bố mẹ, vợ con, cả hàng xóm có ai đau khớp, đau xương không, Sài cho
thuốc đem về hoặc mời lên ở tại nhà ông chữa giúp. Trong nhà Sài treo đủ loại thuốc, cán bộ vào
chơi ai thích vị gì Sài tặng luôn. Cư Chín Sài còn mời ăn một bữa cơm gạo nương hay nếp cẩm
với thịt gà thiến và uống tạm chén rượu bổ sâm. Trước nhà Sài ngày nào cũng vậy, Sài cũng treo
lá cờ đỏ sao vàng. Trong nhà trên chỗ Sài ngồi cắt thuốc có ảnh Bác Hồ lồng trong khung kính và
dòng chữ vàng viết trên giấy đỏ “Không có gì quý hơn độc lập tự do”

Thế đó. Đó là chân dung Cư Chín Sài. Một người Mông có cái trán hói cao, hai cái ria dài
đen nhánh và đôi mắt sâu kín đáo...
Chợ tan. Mìn A Dùng đi theo đoàn người Mông đã ngà ngà say dắt ngựa trở về các bản.
Mìn A Dùng đi vào nhà ông Cư Chín Sài. Anh lân la ngoài cửa. Rồi anh đi vào chỗ ông ngồi cắt
thuốc. Giờ này chỉ có một mình ông. Mìn A Dùng ngắm nhìn Sài. Dùng có cảm tưởng nét mặt Sài
choắt, hai lông mày rậm, mắt sâu hoắm như thế quả là nét mặt của một người thâm hiểm. Dùng
thầm nghĩ: “Thảo hèn nào, lão đã tạo được một vỏ bọc dày. Lão tung ra được một màn khói làm
cay, làm mờ mắt nhiều người. Nên không ai còn nghĩ rằng lão đang sống một cuộc sống đầy tội
lỗi. Mìn A Dùng cởi đồng tiền ở đầu dải rút ra. Anh cầm ở tay. Anh đi thẳng vào. Dùng nhìn thẳng
vào mặt Sài, nói nhỏ, gọn:

- Thưa ông Cư Chín Sài, tôi cầm đồng tiền này có mua được vị thuốc Hoàng Liên không?

Cư Chín Sài ngẩng đầu lên nhìn Dùng từ đầu đến chân.

Một cái nhìn thăm dò, xét đoán. Mặt Sài sửng sốt càng choắt lại. Sài thong thả nói:

- Đồng tiền của anh ăn mấy đó?

- Ăn năm mà!

- Anh đưa tôi xem đà!

A Dùng đi vào một bước trao đồng tiền cho Sài.

- Không phải, đồng tiền của anh ăn bảy đây mà!

Dùng nhoẻn cười nhìn Sài.

Cư Chín Sài gật đầu. Khuôn mặt choắt của lão giãn ra. Hai cái ria đen rung rung như ria
con dán đánh được hơi mỡ. Sài khoát tay ra hiệu cho Dùng vào nhà trong.

Mìn A Dùng đi vào ngồi xuống mép giường gỗ thông. Sài đi ra khép cánh cổng lại rồi lão
vào ngồi xuống cạnh Dùng.

- Anh mới ra?

- Vâng. Ông Sài, ông hãy nói cho tôi rõ tình hình vùng Mường Khương này rồi tôi truyền
đạt nhiệm vụ mới của ông. Tôi tự giới thiệu, tôi là Mìn A Dùng phụ trách đường dây liên lạc trực
tiếp với ông. Tất cả ký hiệu, ám hiệu chỉ có hiệu lực một lần và họat động theo đơn tuyến. Ông
nhớ điều ấy. Bởi tình hình bây giờ rất khó khăn. Các ngả đường vào ra các bản công an biên phòng
và dân quân đã canh gác nghiêm mật. Các bản Mông sát biên giới đều có các đội mà đồn biên
phòng gọi là đội công tác tăng cường về. Ta đi lại khó khăn ông phải giữ mình.

- Vâng, tôi đã biết điều đó. Mấy phiên rồi không thấy ai trong ấy ra chợ.
- Tôi nói để ông biết thêm từ nay bất kỳ ai đến liên lạc, ông cũng phải cẩn mật. Ngoài tôi
ra, trong ấy không cử một người nào nữa. Ông nói rõ tình hình vùng đất, ta đang đặt nhiều hy vọng
lập “Xứ Mường Khương tự trị” này.

Cư Chín Sài im lặng một tí như điềm lại mọi việc rồi lão nói:

- Vùng Mường Khương - Pha Long này ta định lập “Xứ Mường Khương tự trị”, tình hình
khả quan hơn trước nhiều. Người Mông ở các bản đang chờ đợi vua ra để họ nổi dậy. Cụ thể các
bản từ Tả Lùng Thắng, Lồ Cố Chin, Xừ Ma Tủng, Lao Táo... đều đã có người của ta nằm im trong
chính quyền. Ta có thể để họ nổi lên trước rồi lấy cớ đón vua ra, hoặc vua ra hỗ trợ cho họ nổi lên
cũng đều được. Tôi đã có dự định lập chính quyền của người Mông ở các bản. Tôi đã sắp xếp
người giữ các chức vụ và tổ chức bộ máy của “Xứ Mường Khương tự trị” này.

- Ông có kéo được ai là người Mông trong hàng ngũ chính quyền ở huyện không? Có biến
được chính quyền của nó thành hai mặt không? Điều đó quan trọng lắm ông Sài ạ. Tôi muốn biết
rõ điều đó và khuyên ông sớm làm được điều đó, làm được điều đó công ông lớn lắm. Vì ông biết
đấy một mũi lê, một viên đạn, thậm chí một quả mìn ông chỉ hạ được một cán bộ, một lính biên
phòng. Chứ dùng mưu kéo được một cán bộ chủ chốt về mình là ông hạ được cả một bản, một
vùng, một đồn biên phòng rồi đấy.

Cư Chín Sài hí hửng, hắn nói hết để mong Mìn A Dùng tâu trình công lao của lão lên vua.
Sài kể những người là cán bộ trong vùng đã sa sút, phạm kỷ luật, Sài đã khéo léo lôi kéo được. Sài
kể đến những tên phỉ cũ từng nằm lì giấu mặt, những dân quân, công an xã bị hắn mua chuộc đang
làm việc cho cả hai bên. Hắn kể đến tên những người hắn dự định sắp xếp vào chính quyền bản,
xã, “Xứ Mường Khương tự trị”. Hắn đặt ra chức vụ và chọn những tên để xếp vào đội quân lính
áo đen. Hắn nói chắc rằng khi có vua Mông hiện về, “Xứ Mường Khương tự trị” của hắn sẽ ra
mắt. Trên đỉnh núi Cô Tiên cao nhất vùng Mường Khương này cờ “cách mạng” sẽ bay, cổng chào
đón vua sẽ dựng lên ở phố Mường Khương, bản Phiệt.

Mìn A Dùng ngồi nghe, anh nói với Sài:

- Ông ghi tên tất cả những người mà ông đã tổ chức được để tôi đưa vào báo cáo. Việc này
phải làm rất nhanh để khi vua hiện về ta không sát hại nhầm họ. Ta phải bảo vệ họ.

- Vâng, tôi làm ngay.

- Ông đừng viết vào giấy. Ông nên đề phòng rằng tôi bị lính biên phòng bắt. Ông có cách
nào bí mật tốt nhất ghi hết tên không? - A Dùng nhìn thẳng vào mặt Sài. Anh muốn tìm xem bọn
chúng có những thủ đoạn gì trong việc liên lạc bằng thư từ cho nhau không.

- Vâng, tôi sẽ... - Sài nghĩ một tí như đã tìm ra cách tốt nhất. Hắn nói với giọng đắc chí. -
Tôi sẽ viết bằng cách hay nhất, lính biên phòng mắt có như sao đỉnh trời cũng đừng hòng tìm ra.

- Cách nào?
- Tôi viết tên những người đó vào... vào các nhát thuốc trong một thang thuốc. Tôi gói lại
để anh xách đi. Nếu không may anh bị bắt thì bọn lính biên phòng cũng không thể nào tìm ra.

- Ông dùng gì để viết?

- Tôi viết bằng mũi kim nhọn. Anh đừng lo. Nét nhỏ không ai để ý.

Mìn An Dùng nhìn Sài. Giờ đây anh càng thấy hết sự ranh ma của hắn, một tên thổ phỉ.
Hắn vốn là một tên tàn quân của giặc Tưởng sống lén lút ở các bản vùng biên giới này. Rồi hắn
nhận làm anh em với một người Mông là cán bộ xã ở đó. Hai người uống rượu cắt máu ăn thề, rồi
từ “anh em kết nghĩa”, hắn dấn lên nhận là anh em cùng dòng họ, cùng máu mủ - anh em cùng bố
khác mẹ. Hắn kể một chuyện thương tâm, vì loạn phỉ Hản Xử Lùng ở Si Ma Cai, ở Bắc Hà năm
xưa, hắn phải phiêu bạt, phải ăn cơm thóc lép, phải mặc áo rách xơ. Mặt trời mọc theo mặt trời mà
khóc, mặt trăng lặn theo mặt trăng làm than. Nhưng như gà mẹ chết để cho gà con cặp đùi, hắn
tìm về bản Mông để nhận anh em. Hắn nói với người anh rằng vùng này khó làm ăn nên hắn xin
chuyển sang vùng Mường Khương. Nơi đó rừng nhiều cây thuốc tiện cho nghề nghiệp của hắn.
Người anh xin giấy cho hắn chuyển vùng. Thế là từ một tên thổ phỉ lang thang hắn trở thành một
người Mông có gốc có rễ. Hắn có giấy hợp lệ, đầy đủ chuyển sang đây làm ăn sinh sống. Hắn
nghiễm nhiên trở thành một người Mông hẳn hoi. Hắn yên lòng. Thực ra tâm địa của hắn chẳng
phải thờ vua phù chúa gì đâu. Vì hắn đâu có dây mơ rễ má gì với người Mông. Hắn đóng kịch thế
chẳng qua là để mong che giấu được những tội ác trước đây. Và, nếu như có “xứ Mường Khương
tự trị” thật thì hắn sẽ có cơ “dây máu ăn phần” và trả được hận thù với lính biên phòng đã từng
truy diệt chúng. Hắn sẽ có chức tước, sẽ vơ vét được lợi lộc trong đám dân ở đây...

Mìn A Dùng nói với hắn:

- Ngay bây giờ ông phải làm đủ bản danh sách cho tôi. Ông gói cẩn thận để bất kỳ lúc nào
tôi cầm đi cũng được. Bây giờ ông nghe tôi nói về nhiệm vụ của ông trong tình hình mới. Ông
không được ghi chép. Ông phải nhanh chóng tìm người lập Đảng Quốc dân, lập khung chính
quyền, lập đội quân áo đen có đủ sức mạnh để bảo vệ “Xứ Mường Khương tự trị”. Ông hãy bàn
với tôi ngay về kế hoạch thực hiện, vì tình hình đã rất khẩn trương. Trong những ngày cuối mùa
khô này có thể vua sẽ về, “Xứ Mường Khương tự trị” sẽ ra mắt.

Cư Chín Sài lắng nghe như muốn nuốt lấy những lời huấn thị của Mìn A Dùng.

Thực ra lúc ban đầu Sài thấy Mìn A Dùng tuổi như con dê non trong sừng còn máu lại ăn
mặc bẩn, cái áo ba người khiêng không nổi, cái quần năm người giặt không sạch. Trông như một
anh Mông hủi, hắn có ý xem thường. Khi nghe Dùng nói anh ta là người tin cẩn của vua, hắn đã
hơi nể mặt. Nhưng giờ đây nghe Dùng nói năng lưu loát, hắn thấy đã tin. Hắn lấy quần áo cho
Dùng thay, dọn cơm nếp cẩm, mổ thịt gà thiến, rót rượu ngâm nhung nai tiếp Dùng. Dùng nằm
trong nhà. Sài tất tả đi thái thuốc. Hắn chọn những vị thuốc là dây leo to, là củ mập thái lát thật
dày. Đó là thang thuốc quý. Hắn lọc tên những đưa là Mông gian, những cán bộ bản thoái hóa,
những đứa trốn tù, trộm cướp thổ phỉ cũ giấu mặt mà hắn đã tổ chức được viết vào những lát thuốc
ấy. Còn những củ sâm đại hành để nguyên thì hắn viết tên những đứa hắn đã chọn lọc dự kiến lập
đội quân áo đen của “Xứ Mường Khương tự trị”.
Hắn gói thang thuốc bách bệnh vào trong lá chuối khô. Đó là bản báo cáo đầy đủ nhất của
hắn. Tối, Cư Chín Sài đóng chặt cửa. Hắn vào nhà trong bàn với Mìn A Dùng kế hoạch hành động
cần kíp để thực hiện ý đồ. Theo Mìn A Dùng gợi ý, Cư Chín Sài đã định mở cuộc họp ở nơi hắn
dự kiến sẽ là căn cứ: Xoáng Pá Tủng hoặc là một bản sát đường biên giới. Cuộc họp đó Sài sẽ
chính thức thành lập Đảng Quốc dân và soát lại số người, số súng đạn hiện có một lần chót...

Mìn A Dùng kéo Cư Chín Sài ngồi sát vào. Dùng ghé tai Sài dặn nhỏ: phải rất nghiêm mật,
việc này chỉ có hắn và Dùng biết thôi. Ngày họp và nơi họp phải đến phút cuối cùng mới được
quyết định. Và Sài phải trực tiếp nói với từng người!

Cư Chín Sài nhìn Mìn A Dùng với ánh mắt đầy kính trọng và tin tưởng...

Những ngày giáp Tết, đồn công an vũ trang biên phòng Quyết Thắng xuất trận. “Thang
thuốc bách bệnh” được bày rộng ra trên bàn. Chính trị viên Trần Ngọc, Đồn trưởng Khánh ngồi
trước tấm bản đồ. Mìn A Dùng lật từng nhát thổ phục linh, hoàng liên, hoài sơn, tam thất, bạch
truật... và cầm từng củ sâm để đọc tên những đứa Mông gian trong tổ chức Đảng Quốc dân và cốt
cán “Xứ Mường Khương tự trị”, đồng chí trinh sát ghi lại rõ ràng. Một bản danh sách đầy đủ tên
bọn thổ phỉ và những đứa có âm mưu phản loạn ở vùng này đang nhen nhóm. Đối chiếu với tập
hồ sơ các chuyên án của đồn biên phòng đã lập, bọn này đều đã có tên.

Trần Ngọc nhìn Mìn A Dùng, anh khen ngợi người chiến sĩ trinh sát trong chiến công đầu.
Là một chiến sĩ đã từng có mặt trên các tuyến biên giới xung yếu, Ngọc đã giáp mặt với các bọn
gián điệp biệt kích, bọn thám báo... Anh đã từng chứng kiến thủ đoạn gian giảo của bọn chúng như
đi giày dưới đế gắn móng chân hổ, chân lợn rừng, hoặc đi giày ngược đế hòng đánh lừa ta để tháo
thân khi bị truy đuổi. Anh đã từng vượt rừng dài, vượt suối lạnh lần theo dấu vết bọn biệt kích Mỹ
- ngụy ẩn nấp để bắt chúng. Anh đã từng chạm trán với bọn “Mỹ lết”, “Mỹ lê”, với bọn Phượng
Hoàng, Thiên Nga... Ngọc nhìn những nhát thuốc của “thang thuốc bách bệnh”, anh mỉm cười:

- Bọn này tuy thâm hiểm nhưng thô thiển. Các cậu ạ! Nói tóm lại, theo mình chúng là một
bọn họat động hoàn toàn theo lối thổ phỉ, thô sơ nhưng tàn ác. Tuy vậy, chính những cái thô sơ lại
lắm lúc làm cho ta mất cảnh giác, coi thường chúng. Mà mất cảnh giác và coi thường đều dẫn đến
sự thất bại. Các cậu thấy đấy đã có lắm bài toán dễ mà người học giỏi làm sai, đã có lắm mục tiêu
gần mà người thiện xạ bắn không trúng. Điều đó nhắc ta phải chú ý. Còn bây giờ thì đã rõ ràng.
Những con bài đã lật ngửa được cả rồi. Danh sách bọn phản loạn ta đã nắm trong tay. Hãy bắt gọn,
bắt nhanh bọn chúng trước dịp Tết này là điều ta cần bàn kỹ.

- Phải bắt hổ tại hang mới gọn - Đồn trưởng Khánh nói - vì các bản ở xa nhau lại sát đường
biên giới. Rút dây sẽ động rừng, rồi bắt cáo đằng đuôi sẽ rất khó.

Đồn trưởng Khánh gợi lên một phương án phải bắt cả lũ một lần mới gọn. Phương án đó
có cơ sở thực tế, vì nếu để chúng đánh hơi được, chúng sẽ lẻn vào ẩn nấp trong các vùng hiểm trở
rồi như xua cáo vào rừng mà bắt thì không xong. Ngọc và các chiến sĩ trinh sát suy nghĩ. Bàn. Rồi
lên kế hoạch gom hổ về hang được đặt ra. Nhiều tình huống bất trắc nhất dự kiến tới. Điều cốt yếu
trong kế hoạch là sự móc nối các đầu mối không được hở. Và phải bảo vệ các đồng chí trinh sát
đang họat động trong hàng ngũ bọn phỉ. Cuối cùng, đồn biên phòng Quyết Thắng đã nhất trí kế
hoạch đó và hạ quyết tâm giành thắng lợi trong thời gian ngắn nhất: trước ngày Tết. Cuộc họp
xong, phía Thải Giàng Sán hừng đông đỏ dậy. Con chim cứ cư đã cất tiếng hót lanh lảnh chào buổi
bình minh. Trần Ngọc ra ngay khu rừng cấm đầu bản Lao Táo để gặp Vàng Seo Hồng. Mìn A
Dùng đến truyền đạt kế hoạch mới cho Cư Chín Sài. Đồn trưởng Khánh duyệt phương án bảo vệ,
chốt chặn các đường ra biên giới. Các đội công tác cơ sở, đội tuần tra, phục kích, ngăn chặn đường
mòn đi về các bản.

Lại một đêm khuya. Tuyết nhẹ rơi trên đất núi Mường Khương. Một người đàn ông từ phía
rừng sâu đi ra. Người đàn ông gõ cửa nhà Vàng Seo Hồng. Seo Hồng ra mở cửa. Cũng như những
người đã đến trước, người đàn ông nhìn Hồng rồi chìa ra nửa mảnh giấy. Hồng đưa người đàn ông
vào nhà, anh rút trong túi áo lấy ra một nửa mảnh giấy khác ghép vào. Khớp. Seo Hồng cầm chặt
tay người lạ mặt.

- Tôi là người của quan Cáo Chẩn Phù mà. - Người lạ nói.

- Tôi đã hiểu. Ông có thể trở vào rừng ngay. Ông báo với ông Phù cái tin dữ này. Người
của ông phái ra đã bị lính biên phòng bắn chết khi anh ta mới vào bản. Còn ông Phù Chẩn Diu đã
bị bắt. Ông ta đã tự sát bằng lá ngón. Ông Cáo Chẩn Phù phải ra ngay để truyền đạt những nhiệm
vụ cho ông Cư Chín Sài.

Tên thổ phỉ giật mình, tiếng kêu nghẽn lại trong cổ họng hắn. Hắn trố mắt nhìn vào bóng
đêm cơ hồ như một sự lo sợ bao trùm lấy hắn. Hắn lo cho số phận hắn. Hắn nghĩ về cái mảnh đất
này, mảnh đất rừng Mường Khương này khó dung tha cho bọn hắn.

Đúng hẹn, đêm sau Cáo Chẩn Phù mò ra. Vàng Seo Hồng đã đứng ở cửa chờ. Seo Hồng
đưa hắn vào nhà. Hắn ngồi xuống vừa hơ đôi tay giá cóng lên ngọn lửa vừa nói, giọng rầu rầu:

- Hại quá, ta lại mất thêm những người anh em tốt... Tình hình đại gấp Seo Hồng ơi!

- Thưa ông Chẩn Phù. Mìn A Dùng chết ngay trên con đường mòn ...

- Tổn thất lớn, tổn thất lớn Seo Hồng ạ! Tôi phải ra ngay mà.

Seo Hồng rót một bát rượu ngâm với củ tam thất trao cho Phù rồi hỏi:

- Ông Phù, theo ông bây giờ ta phải làm gì, tôi phải làm gì để giúp ông?

- Seo Hồng ạ, chỉ cần mày kêu gọi người Mông nổi dậy để làm theo kế hoạch ta đã vạch
ra. Kế hoạch “Hoa lê nở”. Mày có biết tại sao kế hoạch lại có cái tên đó không, nghĩa là kế hoạch
phải được thực hiện giữa mùa hoa lê và nhắc các bản Mông ở Mường Khương nổi dậy cùng một
lúc như hoa lê nở ấy mà.

- Ông Phù ạ, thế thì phải có một cuộc họp mà!


- Ừ, theo tao phải có cuộc họp để lập ra những người đứng đầu “Xứ Mường Khương tự
trị”, đó là điều cấp thiết Seo Hồng ạ. Lão Cư Chín Sài sẽ là chủ tịch mày ạ. Mai tao sẽ đến nhà lão
ta. Tao sẽ bàn kỹ với lão về cuộc họp ấy. Mày nhớ kế hoạch “Hoa lê nở” là gấp lắm rồi, ta phải
thực hiện trước dịp Tết này mà.

Seo Hồng cầm cái bát không ở tay hắn. Hồng hỏi hắn “có uống rượu ngon nữa không”.
Hắn nghĩ Seo Hồng sẽ rót cho hắn một bát nữa. Hắn cười. Cái nốt ruồi đen như cục thịt thừa ở môi
hắn rung rung. Chính câu hỏi của Seo Hồng là một hiệu lệnh. Bỗng Đồn trưởng Khánh và một
chiến sĩ từ ngoài cửa xông vào. Một chiến sĩ từ gầm giường xông ra:

- Ngồi im.

Cáo Chẩn Phù trợn tròn mắt nhìn quanh. Cặp mắt hắn long lên như muốn cào rách da thịt
Seo Hồng. Hắn nhào ra phía cửa. Khánh lao tới. Anh quật hắn ngã sấp xuống. Cáo Chẩn Phù nằm
sõng soài bên bếp lửa.

Mìn A Dùng đến gặp Cư Chín Sài. A Dùng truyền đạt các bước thực hiện kế hoạch “Hoa
lê nở” cho Sài. Cư Chín Sài gấp rút tìm người lập tổ chức Quốc dân đảng và các cấp cai trị “xứ
Mường Khương tự trị” xuống đến các bản để kịp ngày ra mắt.

Cư Chín Sài suy nghĩ bàn với A Dùng rồi quyết định mở phiên họp lịch sử để lập đảng, lập
ban đầu não của “Xứ Mường Khương tự trị”. Cư Chín Sài là người chủ trì. Mìn A Dùng, người tín
cẩn vạch kế hoạch bảo vệ chu đáo. Theo Dùng bàn để giữ được bí mật tuyệt đối thì Cư Chín Sài
không báo địa điểm họp chính thức cho những người đến họp mà chỉ báo nơi tập kết. Nơi đó Sài
và A Dùng nhận mặt người đến họp rồi mới đưa tới nơi họp. Buổi họp đúng vào hôm phiên chợ
Pha Long cuối năm. Lúc đó chợ đang họp đông. Các bản người Mông, người Nùng, người La Chí
ai cũng mải xuống chợ mua bán sắm Tết không còn ai để ý đến.

Trước đó một hôm, Cư Chín Sài cưỡi con ngựa trắng đi xuống các bản trong vùng để thăm
bệnh, để hái thuốc và mua cây thuốc đưa về. Sài đi một vòng từ Mường Khương lên Pha Long,
lên Tả Lùng Thắng, Tả Gia Khâu, về Lao Táo... Chín Sài hẹn với mọi người đêm hôm trước phải
có mặt ở Ma Tủng là một bản hẻo lánh, giáp đường biên. Đêm đó, Sài giết một con chó chửa sắp
đẻ, hắn lấy ra bốn con chó con. Khi Sài cầm dao chọc tiết chó thì từng đứa hứng bát rượu vào rồi
uống, rồi giơ mũi dao lên thề. Sài nói trước: “Sống chết phải có nhau. Người Mông phải hướng về
vua, nơi đó là gốc của người Mông. Ai một dạ hai lòng, một cây hai lõi phải chết đen như ngón”.
Cả bọn nhìn vào mũi dao nhọn làm chứng, thề. Chúng xẻ thịt chó con nướng tái ăn, để biểu hiện
dòng dũng cảm. Rồi Cư Chín Sài chất một đống củi gỗ thông và mỗi đứa cầm một que lửa châm
vào. Đống củi cháy rực. Ngọn lửa đó theo chúng là để tượng trưng cho buổi nhen nhóm cái đảng
“Quốc dân” của chúng. Và ngọn lửa đó cũng như đảng ấy sẽ lan ra cả “Xứ Mường Khương tự trị”
này. Xong, chúng tản ra nằm im ở các nhà trong bản.

Sáng sớm, Cư Chín Sài vẫn không cho bọn chúng biết địa điểm họp. Gần đến trưa, Sài và
A Dùng mới nói nhỏ với từng người. Rồi từng người một lặng lẽ đi về phía hang đá Xoáng Pá
Tủng(1). Hang đá gần sát đường biên giới, nằm kín đáo cuối cánh rừng thông sa mu. Mìn A Dùng
nói với Sài, Dùng sẽ chọn một người gác cửa. Người đó anh tin tưởng, người đó là Vàng Seo
Hồng. Seo Hồng cầm khẩu AK đứng trước cửa hang đá. Sau anh là Cư Chín Sài và Dùng đứng
nhận mặt từng người đi vào hang. Bỏ ngăn thứ nhất, từng người đi vào ngăn thứ hai. Bỏ ngăn thứ
hai, từng người bò qua lớp nhũ đá lạnh lẽo vào sâu bên trong, đó là ngăn thứ ba. Ngăn trong cùng
của hang đá. Từ đó có một cửa thông ra phía sau núi. Trong hang giá lạnh, ẩm mốc. Nhũ đá thõng
xuống tua tủa, lấp lánh trước ánh đèn pin. Những con dơi treo cánh vào vách hang đá ngủ suốt
mùa đông, thấy động chúng loạng choạng bay trước ánh đèn.

Một đống lửa được nhen lên. Đám người ngồi xung quanh. Ánh sáng trong hang đá mờ ảo
như trong buổi hoàng hôn tắt nắng. Cư Chín Sài điểm mặt hết lượt: gần hai mươi đứa tất cả. Sài
rút túi quăng ra mấy bao thuốc lá “Đại Trùng Cửu”. Cả bọn nhao nhao tranh nhau hút. Tên ngồi
gần Sài là Ma Tả Chấn, Sài định giao cho hắn làm chỉ huy quân sự vùng Pha Long. Cạnh đó là
Cháng Sẩu và Seo Phà Chư đang ẩn nấp ở bản Lao Táo đã từng viết truyền đơn kêu gọi người
Mông nổi dậy. Sài định giao cho hắn giữ chức tuyên truyền của “Xứ Mường Khương tự trị”. Rồi
Lù Xảo ở Trung Dung phố là người từ bản Tả Gia Khâu về nằm im giấu mặt, đó là người tin cẩn,
Sài sẽ giao cho chức phó Đảng Quốc dân. Người ngồi phía bên kia bếp lửa là Giàng Sấn, là Lý
Xin những dân quân bản Mông Sài đã lôi kéo được. Rồi nữa: Ly Seo Chúng, Giàng Seo Láo, Vừ
Quang Phù... Cư Chín Sài thấy đã đủ mặt những người tin cẩn nhất vùng núi Mường Khương này,
hắn đứng dậy giới thiệu với mọi người có hai người lạ đến dự buổi họp lịch sử. Đó là My Mộng
Hoài - tên phỉ lọt lưới truy bắt của ta trong vụ chúng cướp Đồn biên phòng Pha Long cuối 1959
và Mìn A Dùng là người của thượng cấp từ nơi vua Mông về dự cuộc họp. Xem ra quan trọng nhất
trong buổi họp này đứng về phía chủ là Cư Chín Sài. Về phía khách là Mìn A Dùng. Sài đứng đó,
ánh lửa hắt cái bóng hắn đen ngòm lên vách đá ẩm. Sài nói. Giọng hắn ồm ồm như giọng con tắc
kè đực chép miệng trong hang đá:

- Anh em người Mông ta ơi! Ta sẽ coi nhau như người cùng một họ, coi nhau như cùng
một dòng máu. Bởi chúng ta chung một vua Mông. Bây giờ ta họp nhau đây để làm theo lời của
vua kêu gọi. Mỗi người ta phải như mỗi que củi thông này đốt cho đống lửa cháy to lên, cháy cả
rừng thông cháy cả đất núi Pha Long này. Đống lửa rừng Mông sẽ thiêu đốt hết bọn người Kinh.
Hôm nay ta họp để lập đảng của người Mông ta. Ta lập một ban đứng đầu “Xứ Mường Khương
tự trị” này. Ta lập một đội quân người Mông áo đen. Các anh em người Mông ơi. Xứ Mường
Khương ta sẽ vĩnh viễn không phải là của người Kinh nữa. Ta sẽ thực hiện ngay kế hoạch “Hoa lê
nở” ở trong vùng Mường Khương, Pha Long này. Nghĩa là dân các bản nổi lên như mùa hoa lê
đang nở để tiêu diệt ngườ Kinh, để đón vua Mông về.

Sài lớn tiếng nói, tiếng hắn dội vào hang sâu. Bóng hắn chập chờn trên vách đá rêu xám
xỉn:

- Ở các vùng Na Hờ, bản Mế, Si Ma Cai, Sa Pa đã có tổ chức các đội quân rồi. - Họ đang
chờ ta anh em ạ. Khi ta lật chính quyền của người Kinh đi, ta sẽ lập “Xứ Mường Khương tự trị”
của người Mông. Đất núi Hoàng Liên này là của người Mông ta. Con cầy hương có hóa thành con
ngựa lang thì người Kinh cũng không chiếm được đất núi này của ta...- Sài đứng im một lát rồi
hắn lấy giọng, nói tiếp:

- Để gấp rút thực hiện kế hoạch “Hoa lê nở” tôi thấy vùng Cao Sơn phải có ngay một tiểu
đoàn, Si Ma Cai một tiểu đoàn, Pha Long, Mường Khương mỗi nơi ta phải có một tiểu đoàn. Ma
Tả Chấn - hắn nhìn tên thổ phỉ lâu nay giấu mặt - phải lôi kéo cho được chủ tịch, xã đội Thải Giàng
Sán để lấy vũ khí của dân quân rồi tiến xuống chiếm Pha Long. Anh Cháng Pả bắt mối ngay với
ba người Mông trong đồn biên phòng làm nội ứng. Những người đó sẽ cướp súng hoặc bỏ đất vào
nòng súng rồi hẹn giờ, làm ám hiệu cho ta vào cướp đồn biên phòng. Ta sẽ lấy ngựa, ta sẽ gọi
người ở các bản chở lương thực về. Ta phải chặn con đường từ suối Nàn Tử Hồ lại, chặn đường
từ Lao Cai lên để bắt diệt hết số người Kinh ở đây. Các anh em người Mông ta ơi! Trong việc này
ta phải chọn những người tốt. Những người có nhiều thù với người Kinh để lập ban đứng đầu “Xứ
Mường Khương tự trị”. Anh Mìn A Dùng đây sẽ thay mặt thượng cấp chứng kiến những việc bàn
này. Anh em ơi! Vua Mông, gốc của người Mông đang chờ ta đó.

Mìn A Dùng đã thấy rõ âm mưu, đã biết hết mặt bọn chúng, anh đứng dậy. Anh cầm khẩu
súng đi ra phía cửa hang đá. A Dùng đi vòng quanh cửa hang một vòng như để kiểm tra, như để
tuần phòng. Dùng đứng ở cửa hang, anh bật lửa hút thuốc. Lửa tắt, anh bật lần thứ hai. Đúng ám
hiệu, Vàng Seo Hồng khoát tay về phía rừng thông. Trần Ngọc dẫn mũi xung kích chính diện tiến
công. Các chiến sĩ công an biên phòng nhẹ nhàng xông vào chiếm tất cả các ngách hang đá. Mũi
thứ hai của Đồn trưởng Khánh dẫn đầu tiến vào bịt lối ra và soi đèn pin vào đám người ngồi quanh
đống lửa. Các đơn vị dân quân ở các bản Mông chốt vòng ngoài do Giàng Seo Xay chỉ huy đã
khép chặt vòng vây. Cả hang đá và cả khu rừng biên giới đã nằm trong tầm kiểm soát của các
chiến sĩ biên phòng. Ông Giàng Tả Páo cầm con dao phát nương đi theo đội dân quân. Ông đi đến
để nhận mặt những thằng phỉ cũ, những thằng ở trong rừng vừa lén lút mò về...

- Cư Chín Sài và đồng bọn hãy ngồi im. Chúng mày đã bị vây chặt.

Tiếng nói của Đồn trưởng Khánh chưa dứt, ánh đèn pin sáng xanh soi thẳng vào mặt cả lũ.
Chúng sửng sốt. Chúng bàng hoàng. Chúng ngồi im như đá. Tên Sài sau một phút hoảng hốt đã
trấn tĩnh lại. Hắn nhảy tới định dập tắt đống lửa. Nhưng ánh đèn pin đã dọi thẳng vào mặt hắn.

- Đứng im! Giơ tay lên! - Mìn A Dùng chỉ mũi súng vào mặt tên Sài quát. Cư Chín Sài
đứng sững sờ. Hắn trố mắt nhìn Dùng. Hắn “a” lên một tiếng như đã hiểu ra tất cả!

Cả lũ giơ tay, rồi lốc nhốc kéo ra cửa hang đá. Chúng đứng thành một hàng dọc. Đầu chúng
cúi gầm xuống. Trông chúng thảm hại như hàng cột bia trên các nấm mồ ở nghĩa địa Na Đẩy, cuối
chân núi Mường Khương. Cư Chín Sài mặt tím bầm, đôi mắt sụp xuống, cằm bạnh ra vì uất ức.
Hắn lấm lét nhìn quanh. Một lần nữa, hắn lại tròn mắt nhìn thấy Vàng Seo Hồng- con người mà
hắn đã tin cẩn đã cầm khẩu súng đứng gác ở cửa hang cho bọn chúng họp, lại đang đứng trong
hàng ngũ các chiến sĩ công an biên phòng. Hắn nhìn ra xung quanh. Có lẽ hắn cố tìm ngọn lá ngón
nhưng tay hắn đã bị trói gập cánh khuỷu.

... Mây núi trên con đường mòn mà chúng đi về đồn biên phòng đã tan như cái kế hoạch
“Hoa lê nở” của bọn chúng. Trước cửa hang đá Xoáng Pá Tủng, bên những cây thông sa mu cao
vút như ngọn mác nhô giữa trời xanh biên giới tỏa hương thơm kín đáo, Chính trị viên Đồn biên
phòng Quyết Thắng Trần Ngọc ôm chặt Mùa A Pếnh, ôm chặt Vi Viết Sài vào lòng. Ba chiến sĩ
biên phòng là người ba dân tộc anh em Kinh, Mông, Tày từng gắn bó với đất núi Mường Khương
ôm nhau cười rạng rỡ. Trước mắt họ bản Thải Giàng Sán nắng vàng rực trải trên cánh rừng lê...
GIÁP MẶT “CỌP NÚI” TRÊN CỔNG TRỜI

Tên biệt kích đứng chết lặng như cây gỗ mục trước mũi súng các chiến sĩ biên phòng, khi
hắn mới lẻn vào biên giới. Hắn từ từ giơ hai tay lên trời. Nhưng trước lúc giơ tay, hắn đã ném một
vật gì vào miệng và nuốt vội.

Đội trưởng tuần tra đoán có thể hắn đã uống thuốc độc tự tử để bịt đầu mối.

- Anh sang đây liên lạc với ai? - Đội trưởng hỏi hắn.

- Thưa ông, thưa ông...

- Anh phải nói ngay. Anh đi đâu, sang đây liên lạc với ai? - Giọng đội trưởng nghiêm khắc.

Hắn ậm ừ rồi lảo đảo.

Da mặt hắn từ xanh xám chuyển dần sang màu tím chì. Hắn ngã vật xuống, nói thều thào
không ra tiếng. Hai tròng mắt tên biệt kích trắng dã, trợn ngược lên không còn động đậy. Miệng
hắn sùi bọt trắng. Chân tay hắn giật như lên cơn động kinh. Thuốc độc đã ngấm. Hắn chết cứng
lúc trời tối mịt.

Trong các phương tiện gián điệp của Mỹ hắn mang theo không hề cho biết tung tích gì về
hắn.

Một vấn đề đặt ra cho các chiến sĩ biên phòng là tên biệt kích này đi đâu? Hắn có liên quan
gì đến “Cổng trời”, một trọng điểm xung yếu trên đường vào tiền tuyến ngày đêm đang bị máy
bay Mỹ đánh phá ác liệt; và có liên quan gì đến nhận định của ban chỉ huy khu biên phòng: có thể
bọn biệt kích đã ẩn nấp vùng rừng núi này để chỉ điểm cho máy bay?

Về chiều, rừng vẫn còn tràn trề ánh nắng. Tiết trời mùa thu mang đầy hơi nước oi bức, ngột
ngạt. Những vòm cây trong cánh rừng vùng xung quanh “Cổng trời” mỗi ngày một thưa ra; lá rụng
dần, bởi tiếng gầm rít của bầy phản lực Mỹ quần đảo cuốn gió và tiếng rung động của bom đạn.

Đoàn cán bộ đơn vị biên phòng đi xem xét vùng rừng chuẩn bị cho cuộc truy tìm bọn biệt
kích dừng lại ở sườn đồi. Họ ngồi vây quanh những tàu lá chuối rộng và giở cơm nắm ra ăn. Trần
Kim, Chính ủy kiêm Chỉ huy trưởng khu biên phòng ngồi trên một tảng đá. Anh có dáng người
mảnh mai, nước da trắng, vừng trán rộng, hai con mắt sáng và nụ cười cởi mở. Nom anh có nét
hiền hậu và thông minh. Anh cầm miếng cơm chấm muối vừng. Vừa ăn, anh vừa phóng tầm mắt
nhìn ra phía cánh rừng nằm dài trên đường viền chân trời. Một dải đồi trọc nhấp nhô gò đống ven
con đường vào tiền tuyến mà bom đạn đào xới lên đỏ loét. Những hố bom tấn nhìn xa giống những
cái phễu lớn đỏ ngầu như vừa múc máu tươi. Đôi mắt anh dừng lại ở phía cành cây trước mặt. Một
tia nắng xuyên qua, tấm màng nhện đẫm sương ánh lên những sắc cầu vồng.
Bỗng trên khu rừng một tốp máy bay Mỹ vút qua, lưu lại tiếng rít vun vút như một cây nỏ
vừa bật, tiếng bom nổ rền. Mắt mọi người đều nhìn về phía ngọn khói đen đang bốc lên ở gần
“Cổng trời”, nơi lũ máy bay vừa gieo tai họa. Hẳn là một cái gì như xăng, xe... đang bốc cháy. Lại
có tiếng máy bay rồi tiếng bom đạn nổ xa dậy đất và kéo dài liên hồi. Lại yên lặng. Sự yên lặng
hiếm hoi lúc hoàng hôn ở cánh rừng ven con đường ra tiền tuyến trải rộng ra với tất cả vẻ đẹp của
nó. Chính ủy ăn nốt miếng cơm rồi chỉ tay về phía “Cổng trời”, nơi có đỉnh núi đá cao vút nhô ra
chắn ngang, bắt con đường phải chạy vòng cheo leo dưới chân. Phía bên này đường là vực sâu
thăm thẳm. Đứng dậy, anh nhìn rõ mái núi bên đường qua “Cổng trời” đá vôi đã bị sức nóng của
bom nung trắng xóa. Vết bom đào chồng chéo lên nhau như không biết bao nhiêu vết chân người
xéo lên một cồn cát. Dưới vực sâu, cây cụt ngọn cháy đen chổng lên trông như cả một hố chông
lớn. Cứ sau một trận bom, con đường lại hóa thành vực, đơn vị thanh niên xung phong ở đây đã
bắt con đường lấn dần vào mái núi cho xe đi. Bởi vậy dốc lên “Cổng trời” ngày càng cao hơn,
hiểm trở hơn.

Chặng đường qua “Cổng trời” ban ngày là một con đường đỏ ngầu, chết lịm chẳng có gì
động đậy, tưởng như không khí cũng ngừng chuyển động.

- Đồng chí đồn trưởng, - Chính ủy hỏi nhưng mắt anh vẫn nhìn xuống đường, - mỗi ngày
chúng đánh phá xuống đây mấy lần?

- Báo cáo chính ủy, ban ngày hễ có bóng người, có thanh niên xung phong làm là máy bay
đánh. Còn ban đêm có xe chạy, có bộ đội hành quân qua... thì lại y như có bom đạn tưới xuống.

- Còn hai đầu dốc?

- Thì lại rất an toàn, xe vào thường trú lại, thanh niên xung phong sửa đường cả ban ngày.
Đồng chí chính ủy ạ, “Cổng trời” là các đồng chí lái xe và thanh niên xung phong đặt tên cho đoạn
đường hiểm nghèo này. Đấy, đồng chí có nghe thấy không tiếng hò của anh chị em thanh niên
xung phong và lái xe đang ra mặt đường đấy...

“Một quãng đường dốc hiểm nghèo bị đánh phá rất ác liệt! Tại sao hễ có người đi, có xe
đến là có máy bay địch ném bom?“ - Chính ủy nói một mình. Đôi mắt trong sáng, thông minh của
anh giờ đây đang lắng sâu suy nghĩ.

- Đồng chí đồn trưởng, các đội truy tìm dấu vết, các đội tuần tra của đồng chí lâu nay đã
hoạt động vùng nào ở đây?

- Từ ngày ban chỉ huy có nhận định ở đây bọn biệt kích có khả năng đang ẩn nấp chỉ điểm
cho máy bay địch đánh phá, đồn chúng tôi đã tăng cường lùng sục nhưng chưa tìm được manh mối
gì ngoài việc chiều hôm kia đội tuần tra gặp tên biệt kích. Còn “cây nhiệt đới” và “máy báo tiếng
động” của máy bay thả xuống trong phạm vi chúng kiểm soát được mặt đường thì chúng tôi đã rà
và nhặt hết. - Đồn trưởng biên phòng nói giọng rắn rỏi và nghiêm chỉnh thường thấy ở một người
cấp dưới trước cấp trên trong những trường hợp nghiêm trọng này.

Chính ủy nhìn đồn trưởng:


- Lâu nay các đồng chí đã truy tìm những quả đồi nào?

- Báo cáo chính ủy, tất cả những quả đồi rậm xung quanh “Cổng trời” chúng tôi đều truy
tìm lục soát. Nhưng kỹ hơn, nhiều lần hơn là những quả đồi ở phía đông “Cổng trời” vì nó liền với
đường, bọn biệt kích có nhiều khả năng ẩn nấp...

- Còn quả đồi Đ. ở phía tây giáp đường biên giới?

- Tôi nghĩ rằng nó ở xa “Cổng trời”; vả lại cách một cái thung lũng rộng nên bọn biệt kích
ít khả năng...

- Có thể lâu nay ta đã sơ hở...!

Chính ủy đứng im. Một chút gió thổi tới lao xao cuống lá làm rung rinh tấm mạng nhện bị
“chủ” bỏ từ lâu. Một góc mạng nhện bị đứt ra, chúi xuống. Vài con muỗi rừng thân đen trùi trũi
nom kinh tởm đói mồi rung cánh đã luồn qua được. Chính ủy nhìn vào đó. Đôi mắt anh đầy vẻ suy
nghĩ. Lát sau, anh nói tiếp:

- Máy bay Mỹ có ném bom xuống quả đồi gần biên giới không?

- Báo cáo chính ủy không, vì nó ở xa đường...

- Các đồng chí - chính ủy nhìn đồn trưởng - đối với kẻ địch ta đã không tính đến khả năng
xấu nhất, không nghĩ đến âm mưu của nó xảo quyệt nhất. Nên có thể ta chỉ chú ý tìm kẻ địch nấp
ở sau lưng mà bỏ quên kẻ địch hàng ngày đứng ngay trước mặt nhìn sang mục tiêu. Tên biệt kích
hôm nọ đi về hướng ấy có lẽ hắn đang tìm đường đến đó...

Đồn trưởng biên phòng đứng yên. Anh đã hiểu ra những lời nhận xét đúng đắn của chính
ủy. Và, trong khoảnh khắc đó anh thấy như mình là người có lỗi thiếu cảnh giác, bỏ sót kẻ địch.

Đêm rừng. Cơn dông ập đến. Bầu trời như nứt nẻ ra. Nhiều vệt sáng loằng nhoằng trườn
từ chân trời bên này sang chân trời bên kia và phát ra một thứ ánh sáng tim tím, vàng vàng đến lóe
cả mắt. Một làn gió mát lạnh trước lúc mưa thổi đến, rừng cây xáo động phát ra tiếng ào ào không
bờ bến. Chính ủy cứ đứng lặng bên một gốc cây to nhìn xuống con đường “Cổng trời”. Anh nhìn
ánh đèn gầm của các đoàn xe bò lên dốc, nhìn lửa từ bom đạn trên máy bay giặc giội xuống... Mưa
gió của mùa thu phần phật phả vào mặt anh từng làn hơi lạnh, anh như không hề biết.

Lúc chính ủy, đồn trưởng và các cán bộ trong đồn biên phòng về lán được một lát thì trận
mưa tạnh. Nhưng nước giọt cứ rơi lộp bộp trên các tàu lá kè như ai bốc từng vốc sỏi con ném lên
đầu mọi người ngồi trong lán. Cuộc bàn luận về những nhận xét của chính ủy tiếp tục sôi nổi. Đồn
trưởng biên phòng và nhiều cán bộ hầu như đều nhất trí là bọn biệt kích có thể đã ẩn nấp ở đồi Đ.
Chúng dùng phương tiện kỹ thuật quan sát đoạn đường qua “Cổng trời” rồi chỉ điểm cho máy
bay... Đêm ấy, đã khuya lắm, chính ủy nằm không ngủ được. Anh cầm lấy cái máy thu thanh bán
dẫn vặn núm tìm đài. Bỗng từ trong máy bật lên những tiếng tạch tè bí mật của khóa “móc” nào
đó. Chính ủy thầm nghĩ: “Có lẽ ở đâu đang đánh đi những tin khẩn cấp, hay đang truyền mệnh
lệnh bằng mật mã trong không gian. Của ai, ở chỗ nào đang liên lạc với nhau qua không trung
vậy? Ở các nước có trình độ khoa học cao và hoàn cảnh địa lý cho phép dùng phương tiện kỹ thuật
trong việc bảo vệ thì người ta dùng máy dò sóng điện để tìm ra bí mật của tiếng tạch tè. Người ta
chia rừng thành từng ô vuông, dùng máy dò đến nơi bọn biệt kích trốn, nơi chúng sử dụng máy
truyền tin... Còn ở nước ta, chưa có những thứ hiện đại đó, song ta có màng lưới “trăm tai nghìn
mắt”, có phòng tuyến bảo vệ của nhân dân. Cái lưới “thiên la địa võng” đó đã dăng khắp nơi và
hiệu nghiệm biết bao...” Chính ủy mỉm cười: “Thế đấy, dù máy móc có tối tân đến đâu cũng không
thể nào bằng và thay được “màng lưới thép” kỳ diệu của nhân dân ta. Bởi chỉ có con người mưu
trí và lòng dũng cảm mới sục vào, trói gô được tên biệt kích và lôi nó ra khỏi chỗ ẩn nấp...”

Ngày hôm sau, ban chỉ huy đồn biên phòng vạch kế hoạch truy tìm. Hướng chủ yếu của
cuộc truy tìm mà khả năng có thể có trạm quan sát của địch là khu đồi Đ., phía tây thung lũng, đối
diện với “Cổng trời”. Hướng thứ yếu là đồi K. sau lưng “Cổng trời”. Lực lượng tham gia cuộc truy
lùng được bố trí: Các đội ngăn chặn, bao vây phối hợp với phòng tuyến bảo vệ của nhân dân khu
vực biên giới phong tỏa các ngả đường, bến đò, bến phà... khép chặt vòng vây. Các đội truy tìm
dấu vết được tung vào đồi Đ... Mũi chủ công do Chuẩn úy Diễn chỉ huy có con “Mũi tên” đi theo
sẽ mở đường từ thung lũng tiến lên đỉnh đồi. Đội trinh sát đặc công chờ lệnh vào tiếp cận địch.

Các tổ “sơn tràng” bảo vệ biên giới của nhân dân sẽ đi sâu vào mái đồi Đ. lấy mây, chặt gỗ
và phát hiện dấu vết địch...

Sau cuộc họp, chính ủy nói với đồn trưởng và mọi người:

- Cái chìa khóa để mở ra những bí mật trong cánh rừng biên giới này là tìm được dấu vết
của địch. Mọi họat động ban đầu của cuộc truy tìm phải hướng về cái đó. Nhưng các đồng chí ạ,
nước có lặng cá mới sủi tăm. Các đồng chí chớ quên điều ấy.

Buổi chiều, sau cuộc họp chi bộ Đảng, các chiến sĩ trong đồn biên phòng và các đơn vị cơ
động, kỹ thuật đến phối hợp tập hợp lại ở sân đồn. Họ lắng nghe đồng chí chính ủy kiêm chỉ huy
trưởng khu vực biên phòng được cấp trên chỉ định trực tiếp chỉ huy cuộc truy tìm, nói chuyện.
Chính ủy đứng bên một gốc cây lim lâu năm, cành lá đan nhau sum suê che mát cho cả đơn vị.
Trông anh giản dị như nhiều người chiến sĩ khác. Chính ủy đưa mắt nhìn qua các hàng quân. Đồn
trưởng Tân đấy; các đội trưởng Cường, Diễn, Nguyệt... đấy, các chiến sĩ biên phòng thân yêu và
quen thuộc đấy. Những khuôn mặt rắn rỏi và thông minh. Trong lòng họ rực lên một ngọn lửa của
lòng tin vào chiến thắng. Họ đang hướng vào anh lắng nghe, bởi lời anh nói là lời Đảng nói. Còn
anh, anh biết lắm, những chiến sĩ ở đây ngày đêm bảo vệ một vùng đất trên tiền tuyến ở hậu phương
lớn. Họ nghe rõ hơi thở của chiến trường. Là những chiến sĩ biên phòng canh giữ vùng đất này
cũng say mê hơi thở đó. Nhưng chiến trường của họ là ở đây. Cuộc chiến đấu thầm lặng và đầy
gian khổ diễn ra trong rừng cây rậm rạp và mông lung sương mù ở vùng biên giới xa xôi này.
Quyết chiến điểm của họ để giành chiến thắng là ở một ngọn đồi, một hang đá hay bên bờ một con
suối nào đó. Lúc này hơn ai hết, anh biết rằng trận chiến đấu với bọn biệt kích sắp tới có thắng hay
không là phải hỏi những chiến sĩ đang đứng ở đây, và bí quyết thứ nhất để giành chiến thắng là sự
giác ngộ về mục đích chiến đấu để bảo vệ vùng biên cương của Tổ quốc của người chiến sĩ. Tự
nhiên, chính ủy trở nên xúc động. Và khi nói đến những lời cuối cùng, giọng anh trầm lắng nghe
ấm áp, cảm động:
- Các đồng chí. Bọn gián điệp biệt kích đã lợi dụng cánh rừng đệm giữa biên giới hai nước
để lẻn vào đất ta. Chúng đang ẩn nấp trong vùng rừng ta bảo vệ. Chúng đang gây tội ác trên con
đường ta chi viện vào tiền tuyến. Giờ đây, số phận bọn chúng là do chúng ta - những chiến sĩ biên
phòng - quyết định. Các đồng chí thân mến, Tổ quốc và nhân dân, bà con trong tiền tuyến lớn anh
hùng đang kêu gọi, đang chờ đợi chiến công của chúng ta...

Chiều. Cánh rừng biên giới trầm lắng và bát ngát. Hơi thu lay động nhẹ cành lá phát ra
những tiếng rì rào không dứt. Đội trưởng Diễn dẫn đầu mũi chủ công mở đường từ thung lũng tiến
ngược lên đồi Đ. Quả đồi hiểm trở cao hơn 1.600 mét. Sườn đồi nhiều cây táu, cây dẻ to, nhiều
hang đá và rất nhiều cây ngấy, cây cỗ xôi, dây leo rậm rạp... Cành mục, rêu xám, lá vàng úa ngập
rừng già hoang dại. Rêu mốc ở đây không chỉ bọc lấy mặt đất, phiến đá mà còn phủ cả lên cành
những cây nửa phần sống, nửa phần chết tạo nên cảnh lạnh lẽo, âm u. Hằng hà sa số muỗi rừng
rung cánh nghe như khúc nhạc buồn.

Diễn trèo lên một bước nữa. Anh bỏ mũ mềm ra lau mồ hôi. Diễn có nước da nâu sẫm và
những nếp gấp nan quạt ở đuôi mắt, như nhiều người dân đánh cá biển thường có. Mái tóc anh
cứng và vàng hoe vì nắng trời và nước mặn. Anh ngoảnh lại sau nói với Khúc. Giọng anh vẫn ào
ào như sóng biển: “Chuẩn bị vượt dốc!”

Các chiến sĩ chuyển dần về sau mệnh lệnh của đội trưởng. Trận mưa tuy đã lạnh từ lâu,
nhưng nước còn lấp loáng từng vũng trên lá mục, trên rêu đá. Đất rừng nhão nhoét quyện với cỏ
rậm. Các chiến sĩ phải víu cành cây lần từng bước chậm như gậm nhấm từng quãng đường. Đường
trơn, dốc cao và ai biết được phía trên mình, phía sau những gốc cây xù xì kia cái gì sẽ bất ngờ
xảy đến! Đội trưởng Diễn đi đầu, khom người, tay vươn về phía trước; nom anh như đang bò lên
dốc. Bỗng anh dừng lại bởi tiêng gọi phía sau. Diễn ngoảnh lại, thấy Khúc đang cõng con “Mũi
tên” trên vai để vượt dốc. Hai chân trước của con chó như hai cánh tay ôm chặt cổ Khúc. Hai chân
sau nó đạp vào dây lưng đeo băng đạn của anh. Cái mõm nó gác lên vai Khúc, và hơi thở dồn của
nó như theo từng nhịp chân anh nhoài lên dốc. Còn đôi mắt màu thau của con “Mũi tên” thì cứ
long lên dõi thẳng về phía trước. Đột nhiên Khúc ngồi xuống, tay phải anh bóp chặt lấy cổ tay trái.
Diễn nói:

- Hừ, lại bị rết cắn rồi. Tay nào cũng ba, bốn lần bị rết cắn, còn loại “rết độc” kia thì vẫn
chưa thấy tăm hơi đâu. Nặn máu ra, bôi thuốc vào. Cánh rừng ẩm này nhiều rết lắm.

Cả đội tiếp tục dàn hàng ngang soi xét từng gốc cây, hang đá. Nhưng họ chỉ thấy trên lá
mục vài vết răng lợn rừng đào rễ cây, vết con nhím bới đất. Diễn nhìn ra xung quanh: cánh rừng
vẫn trải rộng... Đội truy tìm dấu vết dùng thang dây vượt qua vách đá cao thì đã nhọ mặt người,
trời xẩm tối. Đỉnh các ngọn núi nổi lên trên nền trời ngát tím, toàn một màu biêng biếc. Diễn tìm
vị trí có lợi để đội truy tìm nghỉ lại. Ánh mắt họ không hề lộ mệt mỏi mà hình như ai cũng có điều
bực bội giống nhau: Sao chưa thấy dấu vết kẻ địch? Diễn nằm chung với Khúc dưới tấm vải nhựa
che sương, nhưng không sao nằm yên được. Không biết anh đã chạm vào lá cây han ở chỗ nào mà
giờ đây tay chân rát đau đến thế. Có tiếng giày của một chiến sĩ đi tuần quanh vị trí trượt trên lá
mục. Diễn nhổm dậy bảo: “Nhẹ chứ, mưa thì tránh chỗ trắng, nắng tránh chỗ đen, trời nhập nhèm
thế này phải đi cao bước, quên rồi à!”.
Các chiến sĩ đã ngủ ngon. Tiếng cây cối lao xao trong bóng tối như ru họ. Đêm rừng êm ả.
Mùi hăng hắc của lá mục, mùi hôi thối của quả rừng cây mục phân hủy, mùi đất ẩm ướt xông lên.
Khúc đã ngủ ngon. Dưới chân Khúc, con “Mũi tên” khịt mũi rồi gằn, nó đang bực mình với đàn
vắt kéo đến quấy rầy nó.

Bất giác Diễn nhớ lại có lần Khúc đã tâm sự với anh: “Đồng chí hỏi tôi tại sao lại đặt tên
Khúc à? Nó là kỷ niệm của cuộc đời tôi đấy. Ngày đẻ tôi gặp lúc quá đói kém, mẹ tôi hái rau khúc
về làm bánh, và giã lấy nước nấu thành cháo cho tôi ăn thay sữa. Tôi sống được là nhờ cái thứ rau
đó, nên mẹ tôi đặt cho tôi tên là Khúc...” Ừ thế đấy, Khúc, mình và cả chính ủy nữa rõ ràng là khác
nhau về tuổi tác, gốc tích, cấp bậc và về nhiều chuyện khác, nhưng lại rất giống nhau là góc khuất
của cuộc đời đều tăm tối, đói khổ và cực nhục. Vì thế mà giờ đây lại rất giống nhau về chí hướng.
Cái giống nhau đó đã trở thành một thứ “keo” gắn liền chúng lại với nhau. Thứ “keo” đó là: tình
đồng chí đồng đội. Đêm qua không ngủ, đêm nay cũng không chợp mắt được tí nào, nhưng Diễn
vẫn thấy cái cảm giác đặc biệt của người mới ngủ say dậy, rất tỉnh táo, nhẹ lâng lâng.

Đội truy tìm xóa dấu vết của mình nghỉ lại rồi lên đường. Đội trưởng Diễn đưa mắt nhìn
các chiến sĩ đứng sau anh như muốn nói với họ: “Chiến sĩ biên phòng là thế đấy các đồng chí ạ!
Là những người đi truy tìm địch ở nơi thâm sơn cùng cốc, chịu đựng gian khổ, thiếu thốn để canh
giữ miền đất xa xôi nhất, nơi phên giậu của Tổ quốc. Những chiến sĩ biên phòng được nhân dân
mến yêu, gửi cả lòng tin vào coi như cái mộc, như bức tường che chở một phía. Các đồng chí ạ,
liệu chúng ta có xứng đáng như thế không?”

Đội truy tìm dấu vết dàn hàng ngang tiến theo sườn núi, vòng ra phía sau đồi Đ. giáp đường
biên giới. Các điểm chú ý của họ là bãi cỏ bằng, gốc cây ăn quả, dây leo có củ. Vượt qua những
bụi ngấy gai, họ tiến vào khu rừng bằng hơn. Cây cối chìm trong bầu không khí trầm lắng. Và mây
sớm như màu sữa non từ lũng núi tuôn lên, trùm kín.

- “Hú u hụ”...

Một tiếng vượn hú nhỏ, gọn. Các chiến sĩ trong đội ngồi xuống. Tất cả nhìn về phía có
tiếng hú: phía Khúc.

- Báo cáo đội trưởng, có hiện vật lạ - giọng Khúc không giấu được vẻ vui mừng.

- Cho “Mũi tên” làm việc.

Khúc nới dài dây cương. Con “Mũi tên” dỏng hai tai, đôi mắt màu thau hau háu. Con vật
chồm lên.

Chân bới, mũi hít đám đất rừng. Nó cắp cái hộp ni-lông màu vàng xỉn đựng bao thuốc lá
chôn bên gốc cây dẻ xù xì những u cục. Xong, nó cuống quýt hít rộng ra vùng đất xung quanh để
bắt mùi... Rồi nó trở lại cắn cái cái hộp ni-lông đưa lên cho Khúc. Nó rên ư ử trong cổ họng. Khúc
biết, con “Mũi tên” đang “báo cáo” với anh đã mất hơi người sử dụng vật đó, bởi thời gian đã quá
lâu...
Đội trưởng Diễn xem xét kỹ cái hộp ni-lông màu vàng có chữ “Luýt - ki”, đã bị gió mưa
làm ngả sang màu mốc nhợt nhạt. Diễn nói với Khúc, giọng quả quyết:

- Của nó rồi, nhưng ít ra cũng đã ngót tháng. Thời gian phải đến thế, mốc xanh mới bám
được vào hộp dày như vậy. Đội trưởng hạ lệnh cho cả đội mở rộng vòng truy tìm. Con “Mũi tên”
lại nhặt được hai, ba cái túi nhựa đựng rau khô và gạo sấy.

Đội truy tìm chuyển thành đội hình truy lùng ra phía con suối lớn thì nhặt thêm được một
chiếc vó cất cá. Chiếc vó làm bằng vải dù, màu dây ni - lông đã bợt ra...

Các chiến sĩ biên phòng nhìn sang bãi cỏ rộng bên kia con suối. Ở đó cỏ bị vết lướt đổ rạt
ra, có chỗ gốc rễ bị bật lên. Và, một vùng rộng xung quanh, cỏ rối bời, gãy gục như có một cơn
lốc cuốn vào đấy... Đội trưởng Diễn nói với các chiến sĩ:

- Thế là đủ rồi. Các đồng chí có nhìn thấy vết mòn mờ từ bãi cỏ đi qua con suối giữa hai
biên giới không? Đấy, giặc Mỹ đã hạ trực thăng xuống rồi cho bọn biệt kích lẻn vào vùng đất ta.

Thế đấy, những phán đoán trong kế hoạch, giờ đây trước mắt các chiến sĩ truy tìm đã có
các bằng chứng xác thực. Cái chìa khóa để mở ra những bí mật trong cánh rừng biên giới này đã
tìm được ở đây. Diễn vội xé tờ giấy mỏng trong sổ tay viết thư báo cáo mọi việc đã xảy ra với ban
chỉ huy đồn biên phòng. Anh gấp thư lại bỏ vào cái hộp nhỏ đeo ở chân con chim “Tia chớp” đội
mang theo. Con chim mở tròn đôi mắt khuyên vàng rồi bay lên lượn hai vòng, ba vòng trên những
đỉnh núi cao trôi bồng bềnh giữa biển mây mùa thu như những chiếc thuyền đứt neo. Rồi nó nhận
được hướng bay về phía đông: phía đồn biên phòng!

Tổ “Sơn tràng” của ông Bằng đi sâu vào sườn phía đông của đồi Đ.

Ông Bằng nạp điếu thuốc vào nõ rồi châm lửa rít một hơi dài. Xong, ông bỏ con dao vào
bao đeo lủng lẳng bên thắt lưng. Ông thắt lại chiếc khăn mỏ quạ trên đầu rồi đi về phía anh Võng
đang rút mây. Từ ngày rời miền xuôi lên lập quê mới ở đây, ông đi rừng chặt gỗ, lấy mây nhiều
nên cái “đất lề quê thói” ở đồng rừng đã thấm dần vào người ông. Ông đã giống như một người
“sơn tràng” thực thụ. Trong đôi bồ của ông gánh đi cũng đầy đủ thứ “thượng vàng hạ cám”: một
cái ống nứa nhỏ đựng bồ hóng với vôi làm thuốc chống vắt, một búi giẻ to tẩm dầu để nhen lửa...
Ông Bằng đã ngót 60, đúng ra là cái tuổi dưỡng lão. Nhưng ông còn khỏe lắm. Ông có nước da
nâu, đôi mắt màu hạt dẻ và cặp lông mày lưỡi mác. Ở ông toát lên nét cương trực và khẳng khái.

Ông Bằng nhìn lại phía ông Tơ. Ông Tơ đang cúi xuống nghiêng ngó cái dây khoai mài bị
héo, và ở gốc dây có dấu tay moi đất lấy củ rồi lấp lá khô lại...

- Cả ba đứa giơ tay lên!

Bỗng có tiếng hô chói tai, giọng lơ lớ pha Nam, pha Bắc, tiếng lên đạn lách cách làm cho
ba người dân ngơ ngác, giật mình. Ông Bằng, ông Tơ, anh Võng đứng dậy. Ba họng súng đen
ngòm chĩa vào họ. Ba tên lạ mặt mặc quần áo đen tuyền trông hung tợn như ba con gấu ngựa, bên
hông mỗi thằng còn đeo hai khẩu súng ngắn nữa từ ba phía từ từ, từ từ một cách dè dặt và thận
trọng đến sợ hãi tiến về phía họ. Một tên có khuôn mặt phèn phẹt, cặp mắt láu cá đầy nghi ngờ
lườm nhanh ba người rồi nói giật giọng:

- Đi!

- Thưa ông, chúng tôi là những người dân làm ăn, ông bắt chúng tôi đi đâu ạ?

Hắn nhìn chòng chọc như muốn nuốt chửng anh Võng vừa nói câu đó, rồi rít lên:

- Mang hết đồ đạc đi khỏi chỗ này, mau!

Chờ cho ba người thu xếp gánh gồng, mây hèo xong, rồi mỗi đứa đến dí mũi súng vào lưng
một người đưa họ đi đến nơi có hòn đá to cách đó chừng một tầm tên bắn. Cái thằng có khuôn mặt
phèn phẹt lại nói:

- Các ông biết chúng tôi là ai không?

- Hình như các ông trong Nam vừa ra?

- Đúng, chúng tôi ra để giải phóng nhân quần ngoài này. Buôn làng các ông ở đâu?

- Chúng tôi mới lên khai hoang lập xóm, nay sơ tán ở gần đây.

- Xóm ông có lính biên phòng ở không? - Hắn nhìn thẳng vào mặt ông Tơ, hỏi.

Ông Tơ vẫn đứng lặng. Ông xốc lại cái quần lỡ, hai ống lửng đến đầu gối. Ông nghĩ: “Mặt
mũi chúng gớm ghiếc hơn bọn sen đầm, ma tà ngày xưa lùng trong rừng bắt ông, khi ông đánh
bọn cai lục lộ, bỏ trốn khỏi Mường Phìn...”. Rồi ông trả lời:

- Thưa ông, hiện nay thì không có. Mỗi năm họ chỉ lên vài ba lần thôi.

- Còn ai đi với các ông nữa không?

- Chúng tôi không được biết. Trong rừng rậm làm đâu chỉ biết đấy thôi ạ.

Tên có khuôn mặt phèn phẹt hất hàm ra hiệu cho tên cầm súng vào trói cả ba người lại.
Chúng đưa ba người đi. Một thằng trong bọn quảy bồ, xách gạo, cầm dao của ba người.

Bỗng từ sau một bụi cây gai đầy những con bọ nẹt một bóng người chui ra. Hắn xấn xổ
bước tới. Hắn cũng mặc quần áo đen tuyền, tay cầm tiểu liên và lưng đeo súng lục. Hắn đứng chắn
ngang trước mặt ông Bằng:

- Ui chao, chú tui đây rồi. Chào chú... Kìa cháu đấy mà. Phú đây mà, chú không nhận ra
được nữa à? - Những lời chào hỏi của hắn rõ ràng quá niềm nở.
Ông Bằng dừng lại. Ông giương cặp mắt màu hạt dẻ nhìn tên biệt kích. Ông nhúc nhích
hai cánh tay bị trói chặt như muốn dụi hạt sương chiều trên mắt để nhìn cho rõ.

- Kìa, tụi bay mở trói, đây là chú ruột tao. - Tên Phú quắc mắt quát ba tên kia. - Cháu xin
chú. Tụi ngu này không biết. Cháu lại không được gặp chú trước. Chú bị trói rõ khổ. - Tên biệt
kích vừa phân trần vừa đến vuốt vuốt những vết tím bầm trên hai cánh tay ông Bằng.

- Thưa ông toán trưởng, mở trói ráo cả à? - Tên biệt kích có khuôn mặt phèn phẹt hỏi tên
Phú.

- Ừ!

Ba tên biệt kích không có vẻ gì ngạc nhiên trước việc làm “quá hàm lượng” của tên toán
trưởng. Ông bằng biết tỏng “lại cái trò đứa đấm, đứa xoa đây mà”, nên nét mặt ông dửng dưng.
Ông không tỏ ra hàm ơn gì tên “cháu ruột”.

- Anh Phú, anh cũng có về đây đấy à?

Ông Bằng vừa hỏi vừa nhìn kỹ tên Phú từ đầu đến chân: “Hừ, hắn cũng chẳng khác gì xưa.
Cũng đôi mắt ti hí, cũng cái nhìn gian giảo như muốn nẫng lấy tất cả, cũng cái môi hớt nhờn như
bôi mỡ nói liến thoắng, lừa lọc không ai bằng. Hắn hệt như cái ngày đóng cai pác-ti-dăng ở bốt
Hiệp, gây ra biết bao tai họa cho dân. Đâu giữa năm năm mươi lăm ta đưa hắn đi cải tạo, rồi hắn
trốn đi mất tăm, mất tích. Tưởng hắn đã mất xác, đã chết nửa đời nửa đoạn ở xó đường, xó chợ, ai
ngờ hắn lại tìm đường đi theo giặc! Hắn dẫn xác về đây. Ừ thì cứ về...!”.

- Vâng, cháu mới ra ạ. Chú lên đây khẩn hoang lập ấp từ bao giờ? Ai đày đọa chú lên nơi
lam sơn chướng khí này, rõ khổ!

“Té ra hắn rình nghe mình trả lời mấy thắng kia từ nãy” ông Bằng vụt nghĩ. Ông trả lời
hắn:

- Lên đây vài năm rồi. Còn anh Võng, ông Tơ đây là người làng dưới, chắc anh không biết,
cũng lên với chú một lượt - Giọng ông Bằng niềm nở hơn - Bà con ở nhà cũng bình yên cả. Anh
Phú nhá... ruột thịt cả, cắt dây bầu, dây bí ai nỡ cắt dây chị, dây em; chém đằng sống chứ ai nỡ
chém nhau đằng lưỡi... Thôi anh đã về đây gặp được anh đây cũng là cái may cho chú. Bây giờ thì
anh cho chú và các ông đây nấu cơm ăn.

- Hề, hề, người nhà cả, chú cứ việc - Toán trưởng cười gằn rồi quay lại nói với ba tên kia -
Tụi bay ra chỗ khác.

Ba tên biệt kích lùi ra đứng sau những bụi cây rậm. Tên toán trưởng ngồi trên tảng đá rêu
xám xỉn bên gốc cây ngón đen, hút thuốc lá. Hắn nhìn ông Bằng. Người chú ruột hắn đó. Ngót
mười năm hắn đã xa ông. Bỗng trong người hắn lóe lên một nỗi mừng, nhưng điều nơm nớp lo âu
lại kéo đến chen lấn... “Liệu ông chú ruột có giúp mình giữa lúc mình đang gặp nguy này không.
Nhưng biết đâu ông đã thành cộng sản hoặc giả dụ là tay sai của lính biên phòng ở vùng biên giới
này thì quả là khốn...”.
- Này chú! Các em nay làm gì cả?

- Chẳng giấu gì anh, các em cứ lo chạy bữa, giật gấu vá vai để nuôi các cháu. Các em đã
ra nhà, ra cửa cả rồi anh Phú ạ.

- Hừ, còn đói kém chú ạ! Lúa gạo cứ tuồn vào trong miết...

- Anh đã ăn chưa để chú nấu luôn? Cơm chỉ có muối vừng thôi, anh ăn với chú một bữa
cho vui.

- Không, cháu ăn rồi... Mời chú hút điếu thuốc lá thơm, loại hảo hạng của Hoa Kỳ đấy mà.
Chú cầm lấy cả bao. Hút xong, chú chôn kỹ cái vỏ ni-lông đi nhá...

- Chà, chú lâu nay chỉ thuốc lào. Anh lạ gì chú nữa. Thời buổi này lại tuổi già, năm canh
buồn bã chỉ khuây bằng vài điếu thuốc. Nhưng nay gặp anh, anh mời thì chú hút cho vui. - Ông
Bằng cười khà khà vẻ vô tư.

Cái lo sợ trong lòng tên toán trưởng biệt kích vợi dần đi. Hắn cảm thấy ánh sáng của hy
vọng bừng lên trong hắn. Trong chốc lát hắn thấy hơi ấm thân thuộc của gia đình rực lên bên hắn...

- Ấy, ấy, hai ông - hắn nói với ông Tơ và anh Võng - muốn cơm chóng được ăn thì phải
làm thế này. Khi cơm gần cạn như thế thì đậy chặt vung lại lật sấp đáy nồi lên trên rồi đốt to lửa
...

Chờ ba người ăn xong, cả bốn tên biệt kích dẫn họ đi. Tên Phú dặn dò ông Bằng và hai
người là đã đi vào khu rừng hiểm, ông Bằng đi sau hắn, và mỗi người dân đi sau phải đặt đúng lốt
bàn chân người đi trước. Ông Bằng nhìn ra xung quanh rờn rợn lạnh cả đôi vai.

Đi được một quãng đường xa, ông Bằng nghĩ có lẽ đã đến mái núi phía đông, bởi ông đã
nghe thấy tiếng gió hú ù ù trong thung lũng. Tên Phú quay lại dặn ông và hai người đứng tại chỗ
đừng bước chệch ra xung quanh. Hắn lẹ làng hệt như con cáo quen đường về hang, luồn qua các
gốc cây tối om, khuất trong bóng đêm. Lát sau, cái bóng hơi gù lưng của hắn ton tả lao ra:

- Vào cả!

Ba tên biệt kích dẫn ba người vào.

Dưới ánh sáng của những ngôi sao thưa thấp thoáng trên bầu trời cao lọt qua cành lá bờm
xờm, ông Bằng, ông Tơ và anh Võng đã nhìn ra những cái lán dựng bên những gốc cây to cạnh
một hang đá đen ngòm như cái mồm con quái vật khổng lồ há rộng.

Một giọng nói lọt ra từ bóng tối:

- Chào các ông, các ông đến với tụi tui đúng lúc đó, hề...hề... hề...
Hắn nói tiếng miền trong, với giọng trịch thượng. Ông Bằng nghĩ, có lẽ hắn là thằng chỉ
huy bọn này. Hắn bước gần lại ba người. Hắn có vóc người cao lớn, cao hơn ông Bằng gần cái
đầu, có nét mặt gàn bướng cau có, hai gò má cao và mũi hếch lên.

Thần sắc thoát ra nét man rợ, cái man rợ của những tên lính ngụy, ác ôn.

- Các ông biết chưa! Tụi tui - hắn vỗ vào ngực- những chiến sĩ tiên phong đi giải phóng -
hắn ho một tràng dài, sôi cùng cục trong cổ họng - để cho dân tộc ta được trường tồn. Trong những
người được giải phóng sẽ có các ông. Nên tụi tui, à, à, không phải chỉ có tụi tui mà “Trung ương”
của ta cần sự cộng lực của các ông...

- Thưa ông, chúng tôi những người đi làm ăn trong rừng biết gì mà giúp ạ? - Anh Võng
nói.

- Không, rồi các ông sẽ giúp được nhiều việc đó. Công tích hữu hiệu của các ông không
chỉ tụi tui biết mà tận “Trung ương” ở Sài Gòn tỏ hết. Rồi đây trên sẽ có những món khoản đãi
hậu công tích đó, hà hà- hắn cười khẩy - ông đây lại người nhà của toán trưởng nữa thật là mừng
hung...

- Phú!

- Dạ thưa ngài huấn luyện viên.

- Tụi bay soạn chỗ cho các ông an tọa.

Tên huấn luyện viên nhìn theo ba người bằng đôi mắt ranh mãnh, tò mò. Hắn nhớ đến lời
tên Lam Sơn có bộ mặt láng bóng, cái cằm nhẵn thín, tư lệnh đội ác ôn thám kích trực thuộc phủ
Tổng thống Sài Gòn(1), nói trong buổi bế mạc trại huấn luyện lực lượng đặc biệt ở Tây Nguyên:

“... Các ngài sĩ quan và binh lính thân mến, các ngài muốn giành thắng lợi khả dĩ trong
nhân quần và trong kẻ địch bằng đàn áp đè nén, bằng vũ trang nhất là ở vùng cộng sản kiểm soát,
dứt khoát không đem lại kết quả mà đem lại hậu họa cho mình. Tốt nhất, các ngài giành thắng lợi
bằng “chiến tranh tâm lý”, phải nắm được tấm lòng của họ. Muốn vậy, thái độ, tư cách của các
ngài bề ngoài phải đứng đắn, ăn nói phải khôn ngoan. Trước mặt họ, các ngài không được làm sai
phong tục tập quán của họ thì thắng lợi mỹ mãn sẽ chờ đón các ngài như một cô gái kiều diễm mở
cửa phòng chờ đón người tình”...

Đêm ấy, ông Bằng và hai người nằm ở một trong hai cái lán với ba tên biệt kích. Xung
quanh đó, bảy tám cái lán lợp bằng vải ni lông vẽ hình cây lá vùng núi này, dựng theo một vòng
tròn. Trong cái hang đá đen ngòm kia một ánh sáng xanh lè như từ âm ti, le lói chiếu ra. Tất cả
bọn biệt kích còn lại nằm trong những lán xung quanh. Khuya, có tiếng hổ gầm gừ vồ mồi trong
bãi cỏ tranh bên bờ suối xa. Thằng huấn luyện viên, toán trưởng và hai toán phó kéo nhau ra một
nơi. Chúng bàn tính về ba người dân đang ở trong tay chúng. Chúng xét kỹ từng người theo bài
học mà tên cố vấn Mỹ dạy về “môn nhận xét con người”: “Con người ta dù tính tình có khác nhau
đến mấy cũng không vượt ra ngoài mười hai đức tính mà Đức mẹ đã ban cho: thiệt thà ngay thẳng,
quanh co dối trá, thương yêu, chán ghét, đố kỵ, tâng bốc, nịnh hót, khoe khoang, lừa đảo, vu khống,
công minh, bàng quan... Con người có đức tính nào thì công việc, cuộc sống suốt đời họ bị chi
phối bởi đức tính ấy. Những người mới gặp, điều trước tiên phải dò biết họ thuộc về loại đức tính
nào để đoán về chặng đời quá khứ của họ, dùng cách thích hợp để mau thu phục và giao công cán
cho họ trong tương lai”.

- Nè, chú mày! Lão già ngó bộ thiệt thà ngay thẳng - tên huấn luyện viên chỉ vào mặt tên
Phú - nhưng mày phải coi chừng, cộng sản đáng gờm lắm. Trong hoàn cảnh cần thiết thì chú, chứ
đến cha mày, mày cũng phải dùng đến cái này - Hắn vỗ vào khẩu súng ngắn giảm thanh - Mày
đừng để cho tụi ta hiện là những người đi săn lại trở thành những con thú bị săn thì khốn. Mày biết
đấy, cánh rừng này đối với tụi ta và cả các ngài cố vấn nữa là “cánh rừng không vui”. Nhiều toán
ra đây đều biệt vô âm tín. Phú, mày nghe tao! Đêm, lúc chúng đã ngủ say thì dựng dậy đưa mỗi
thằng ra một nơi hỏi. Chúng mày biết đấy, lúc ngủ say là lúc nguyên thủy nhất của sự suy nghĩ.
Chúng vì ngái ngủ, hoảng hốt sẽ phun ra những điều muốn giấu.

- Vâng ạ.

- Tao sẽ hỏi thằng trẻ, thằng này ngó bộ lo sợ; thằng Phú hỏi chú mày; thằng Vân hỏi lão
già kia nghe không...

- Vâng, thưa ngài huấn luyện viên, dân chúng Bắc Việt vốn có lòng tin ghê gớm vào cộng
sản. Từ lòng tin đó dễ làm cho bọn chúng bị lừa lọc như thật. Ta phải suy xét cẩn thận, nếu không
dễ sa vào bẫy của chúng đấy... - Tên toán phó Vân nói. Hắn vốn đã chết hụt trong lần lẻn ra Bắc
năm xưa. Cả toán của hắn mới bén mảng đến biên giới thì bị dân quân và công an biên phòng tóm
gần hết. Hắn đã chạy bán sống, bán chết chui lủi trong rừng vượt biên sang Lào mới thoát thân
được. Sau chuyến ấy, hắn được phong lên toán phó. Giờ đây một thằng chết hụt nói giá trị bằng
hai ba đứa sống đàng hoàng nói, nên toán trưởng và cả huấn luyện viên nghe một cách ngưỡng
mộ.

- Ừ, mày nói phải - thằng huấn luyện viên quen thói ăn nói vênh váo, cố làm ra vẻ một nhà
thượng võ, cái loại võ trinh thám, kiếm hiệp giang hồ từng trải, thận trọng nhiều hoài nghi nhưng
ngang tàng, lại khắc nghiệt với bọn lâu la... Hắn thường khoe khoang với đồng bọn là được giặc
Mỹ đưa sang căn cứ Pho - ben - ninh bang Gióc - di - a học nhảy dù, rồi được gắn huy hiệu “đôi
cánh bạc”. Sau đó giặc Mỹ lại đưa hắn đến trường huấn luyện biệt kích ở Pho - bơ -réc, bang Ca -
rô - lai - na, học nghề làm biệt kích. Ở đấy, hắn đã học chung với một bọn “du thủ du thực” gồm
người của 20 nước. Ở đấy, hắn đã được hai tên đại úy Cô - ni và Phơ - răng - xoa nguyên là lính
SS của Hít - le trong đại chiến thế giới thứ Hai (hai tên lích SS đó đã sang miền Nam làm cố vấn
huấn luyện biệt kích cho quân ngụy) dạy cho cách ám sát, bắt cóc, phá hoại... và cách dùng các
phương tiện gián điệp hiện đại. Lần kiểm tra cuối khóa, thấy hắn đã đạt đến trình độ “ác ôn Mỹ”,
giặc Mỹ cho hắn đội mũ nồi xanh, đeo phù hiệu ngựa bạc như biệt kích Mỹ. Nên, hắn đã từng vỗ
ngực với câu: ... “hãy tự hào với chiếc mũ nồi xanh, đó là biểu tượng của sự xuất sắc và tượng
trưng cho lòng dũng cảm...(!)”. Khi về nước được làm huấn luyện viên, hắn tưởng cuộc đời hắn
cái gì cũng mới bắt đầu, và tương lai, ôi cái tương lai mà hắn không ngờ đến sẽ rực rỡ biết bao (!).
Bây giờ chỉ mới là lúc mở đầu cũng đủ làm cho hắn lóa mắt. Hắn vênh cái mặt bự thịt lên một
cách kiêu ngạo, bề trên với bọn đàn em. Tóm lại, hắn là một con người có một tâm tư vừa hí hửng
hi vọng, vừa chất nặng giày vò, vì chưa đạt được đỉnh “vinh quang” mới.
Cái tuổi già của ông Bằng vốn đã ít ngủ, đêm nay nằm trên tấm vải bạt hôi “mùi biệt kích”
ông lại càng không ngủ được. Ông suy nghĩ quẩn quanh không ngờ mình lại gặp hắn ở đây. Hắn
là thằng cháu mình, mang dòng máu của gia tộc nhà mình. Nhưng hắn đã là một thằng cháu tội
lỗi. Cái thằng nửa đời nửa đoạn ấy sao không chết đi từ ngày trứng nước cho xong, giờ hắn lại đưa
đồng bọn về tác yêu tác quái. Đồng chí chính ủy biên phòng đã nói hôm nọ, hôm mình sửa soạn
đi vào đồi này thật là đúng: “Kẻ bỏ nhân dân đi theo giặc là kẻ thù, tội làm gián điệp biệt kích là
tội chết”. Hắn thuộc vào những loại đó, không tình nghĩa nào, máu mủ nào dung tha được. Nhưng
trước mắt, mình phải, ừ mình phải...

- Chú, chú, chú dậy.

Tiếng gọi của tên Phú cắt đứt dòng suy nghĩ của ông. Ông ngồi dậy. Vốn không ngủ, không
có cái hốt hoảng của người ngủ giở giấc nên ông trả lời hắn rất trôi chảy và lại rất tình cảm nữa.
Tóm lại, hắn không nghi ngờ gì ông. Ông còn vỗ vai hắn, xoa xoa trên cái lưng gù của hắn, một
hành động quá ư là tình cảm, cái tình cảm vỗ về của cha chú.

- Cũng may mà chú cháu ta gặp nhau đây. Cháu cứ tin ở chú. Cha ông ta xưa đã nói: “Chết
cha còn chú, phòng lúc lú có chú khôn ngoan”. Giờ chú thì chả dám nói khôn ngoan hơn cháu
được đâu; nhưng máu loãng còn hơn nước lã cháu ạ.

Tên biệt kích ngồi sướng rơn lên. Còn ông Bằng, rõ ràng lúc này ông đang nén lòng chịu
đựng. Sự tồn tại của bọn hắn quanh ông là cái ông không bao giờ muốn có nhưng nay không thể
tránh được.

Phần anh Võng, từ chiều anh có lý do. Nhưng rồi qua lời nói của chúng, anh hiểu rằng,
chúng không giết anh, chúng đang cần anh giúp. Giờ đây anh nằm thiu thiu ngủ, hai tay kê xuống
dưới gáy. Tên huấn luyện viên đến bấm đèn soi toàn thân anh, ngắm nhìn anh, rồi hắn dựng anh
dậy. Anh ngáp liền hai cái và dụi đôi mắt cay xè như có muối. Không kịp để anh trấn tĩnh, tên biệt
kích “tấn” luôn:

- Anh tên là gì?

- Anh còn bố mẹ nữa không?

- Ngày còn nhỏ anh thích gì nhất?

- Anh có mấy con, anh yêu con trai hay con gái?

- Những khách nào hay vào nhà anh?

- Anh thích dán lên vách nhà tranh, ảnh gì?

- Anh hay kể chuyện gì cho các con anh nghe?

- Hàng ngày ai hay đến nhà anh nhất?


- ...

Những câu hỏi tưởng như vô nghĩa và rời rạc, nhưng rất hiểm hóc, cứ liên tục, liên tục một
cách lộn xộn, đập vào cân não anh, làm cho anh cuống lên, trả lời líu cả lưỡi, có lúc như không
còn biết đúng sai thế nào nữa.

Thấy anh Võng lung túng, không làm chủ được mình nữa, tên biệt kích liền giở ngón:

- Thôn anh ai làm chủ tịch?

- Mỗi tháng anh họp Đảng mấy lần...?

Rồi đột nhiên hắn nhìn thẳng vào mặt anh. Trong bóng tối, hai con mắt hắn ánh lên, như
hai mắt con cáo sắp vồ mồi:

- Anh có thích thú cái công việc anh đang làm ở xã không?

Hắn làm giống hệt như hắn đã biết rõ về anh.

Anh Võng giật thót mình như chạm phải con bọ nẹt. Anh tưởng hắn đã biết thông tỏ về
mình... Cũng may mà trong bóng tối, tên biệt kích không nhìn thấy sự thay đổi bất thường trên nét
mặt anh Võng!

Sau cái giật mình đó, cơn ngái ngủ đang bám trên đôi mi mắt anh vụt biến mất. Anh tỉnh
hẳn.

Anh nhớ ngay đến lời đồng chí chính ủy biên phòng dặn dò trước hôm ba người vào rừng;
nhớ ngay đến những lời khai ba người đã bàn sẵn nhỡ khi gặp địch hỏi thì nói cho giống nhau...
và rồi anh trấn tĩnh lại, thong thả trả lời một cách rành rọt từng câu tên biệt kích hỏi.

Ngồi im lặng một tí, hắn lại hỏi:

- Trong thôn anh hiện giờ có lính biên phòng không?

- Bà con mới rời quê lên, nay lại sơ tán vào rừng nên không có.

- Từ đây ra đó xa mấy?

- Leo dốc đi tắt, mất chừng hai giờ đồng hồ...

“Hai giờ đồng hồ” hắn lẩm bẩm ra vẻ suy nghĩ, tính toán cái gì rồi hắn nói với anh Võng:

- Thôi được rồi, anh ngủ đi...


Chừng bốn giờ sáng, thường là lúc giấc ngủ ngon nhất của mọi người, hắn lại dựng anh
Võng dậy lần nữa. Hắn hỏi lại những câu đã hỏi anh lúc đêm như để so sánh, đối chiếu những câu
anh trả lời.

Nhưng anh Võng có chợp mắt được tí nào đâu. Cái ghê tởm bọn biệt kích làm cho anh tỉnh
như sáo. Anh trả lời hắn trôi chảy, đúng như lúc đêm. Xong, tên biệt kích nói với anh vẻ cầu khẩn
ra mặt:

- Các anh còn gạo ăn nữa không?

- Còn, nhưng để ngoài nhà ông Bằng cả.

- Tụi tui ra đây bị mưa lũ nên lương thực hỏng mất nhiều. Máy bay của “trung ương” trong
ấy đã thả dù tiếp tế mấy lần ban đêm nhưng đều trật tọa độ, tụi tôi chẳng tìm thấy mẹ gì cả. Giờ
các anh giúp tụi tui, hoặc bán lại cho tụi tui số gạo đó. Hai ông già đã ưng, vậy thì anh cũng không
nên chối.

- Ồ, tưởng gì, chứ cái ấy, các ông cần bao nhiêu chúng tôi cũng xoay xở được.

Chúng bàn kế ra nhà ông Bằng lấy gạo. Chúng để ông Tơ, ông Bằng đi, có bốn tên biệt
kích đóng giả các chiến sĩ biên phòng. Cũng mũ bông, phù hiệu biên phòng, súng tiểu liên AK.
Chúng giữ anh Võng lại như để làm con tin. Băng qua thung lũng, trèo hết mấy mỏm đồi thì ra
đến cửa rừng, cả bọn dừng lại trong đám cây rì rì ở đầu xóm. Trời chạng vạng. Rồi bóng đêm từ
các đỉnh núi, các vòm lá cây rậm lan ra che tối bầu trời biên giới. Ông Bằng đưa chúng về nhà
mình. Tên toán phó Vân cho hai tên đi trước với ông Bằng, còn hắn và một tên nữa đi sau với ông
Tơ. Hắn bảo ông Tơ dẫn hắn đi quanh cái xóm nhỏ này một vòng rồi đến trước nhà ông Bằng. Hắn
dừng lại thu mình dưới bóng cây để nghe ngóng, rồi lại cắp súng đi quanh nhà ông Bằng để dò la.
Cái chết hụt trong chuyến đi “mất cả chì lẫn chài” năm ấy làm tăng thêm sự gian ngoan, tinh quái
trong hắn. Đến khi nghe tiếng gà kêu quang quác trong nhà và cái giọng của ông Bằng giục vợ:
“Bà mày vo nếp đi, nấu nhanh cho các “chú biên phòng” ăn. Bà con mình được yên ổn là nhờ các
chú ấy đấy”, hắn mới dám vào nhà. Nhưng hắn chỉ ngồi ở thềm nơi gần cửa và khẩu súng vẫn
không rời tay. Hắn còn bảo một tên ra đứng nép bên gốc cây to ngoài cửa để gác, và một tên vào
làm bữa giúp ông Bằng.

Cái tên có nét mặt gầy choắt, khô đét, hai thái dương lõm sâu nom bẩn thỉu đến thảm hại
cứ bám riết lấy ông Bằng, không rời ông nửa bước.

Hai con gà mái tơ e chừng đã chín lắm, vì nồi nước sôi lâu rồi, nhưng lúc này đây có lẽ
lòng ông Bằng còn nóng bỏng và sôi sục hơn thế. Ông nhìn ông Tơ, nhìn ngọn lửa rừng rực cháy
rồi nhìn tên biệt kích. Nét mặt ông trầm ngâm. Hai con mắt màu hạt dẻ của ông lắng sâu những
suy nghĩ: “Đói thì chó sói lìa rừng, nhưng phải giăng bẫy thế nào cho cả bầy mắc...”

Lát sau mâm đã dọn lên. Mấy đĩa xôi nếp rẫy trắng ngần, thơm phưng phức. Mùi thịt gà,
mùi lá chanh đã thái nhỏ, mùi hạt tiêu bay ra, quyện với mùi rượu, đến là hấp dẫn. Bốn tên biệt
kích đói khát châu đầu vào mâm. Chúng ăn uống nhồm nhoàm, nhai lấy nhai để, nuốt ừng ực, rượu
,thịt chảy nhễ nhại xuống cằm, xuống ngực. Ông Bằng, ông Tơ cứ rót đầy thêm những bát rượu
cho chúng. Rượu hết, bà Bằng lại đưa thêm ra. Rượu ở vùng núi này không hiếm. Nhà nào thỉnh
thoảng cũng nấu một nồi để ngâm thuốc, ngâm cao. Nhưng lần tiếp rượu tối nay, bà Bằng đã ngâm
thuốc phiện vào (ở đồng rừng nhà nào người dân cũng để dành một chút thuốc để chữa bệnh). Ban
đầu tên toán phó Vân còn dè dặt, hắn nhắc đồng bọn “tụi mầy nhậu tí chút thôi!”. Nhưng rồi hơi
men đã khơi dậy cái thói du côn, rượu chè, đàng điếm... trong người hắn. Và, hơi men, chất nha
phiến ngấm dần, ngấm dần đã xua cái gian ngoan, tinh quái trong người hắn đi. Hắn chếnh choáng,
ngồi lắc lư cái đầu, hai tai đỏ tía, mắt bầm những tia máu nhưng vẫn còn nốc thêm rượu nữa. Đất
trời trước mặt hắn rung rinh, đảo lộn hệt như ngày đầu vào trại huấn luyện lực lượng đặc biệt hắn
tập đi máy bay lên thẳng HH3. Đột nhiên, hắn nhếch mép cười, rồi bưng cả bát rượu đổ lên đầu.
Hắn nghêu ngao, lè nhè câu hát: “...cô... e em đó ơ ơ ơi, có thương nhau thì ta rủ ủ u nhau vê ê
ề...”.

Bữa tiệc tàn, thì hơi men và chất thuốc phiện đã trói chân bốn tên biệt kích lại. Chúng lăn
ra ngủ, ngáy ran như lợn bầy no cám!

Ông Bằng soi đèn nhìn chúng vẻ hài lòng: “Thế này đến sáng mai có vắt nước lá dong đổ
vào họng chúng, chúng mới tỉnh lại..”. Ông Bằng chạy băng rừng đến nơi đồn biên phòng sơ tán.
Ông kể nhanh mọi việc xảy ra cho đồng chí chính ủy và đồn trưởng nghe.

Đôi mắt đồng chí chính ủy nhấp nháy, sáng ngời trên khuôn mặt căng thẳng. Vầng trán cao
của đồng chí gợi vài nếp nhăn của sự suy nghĩ. Đồng chí gõ ngón tay thong thả xuống mặt bàn và
nói chậm rãi:

- Tổ “Sơn tràng” bảo vệ biên giới đã lập được công đầu.

Anh đăm đăm nhìn ra phía rừng xanh. Tất cả tinh lực của anh tập trung cho sự suy nghĩ.

- Nước có lặng cá mới sủi tăm. Lưới có bủa rộng vòng cá mới kéo bầy vào gọn. Có phải
thế không đồng chí đồn trưởng?

Sau khi bàn với ban chỉ huy đồn biên phòng, chính ủy quyết định:

- Các ông chiếm được lòng tin của chúng, giúp chúng là giúp một cách đắc lực cho công
tác bảo vệ của chúng ta đấy. Ông về cho chúng gạo. Chúng mấy người nhỉ? Mười lăm à? Ông cho
chúng 25kg, chúng đủ ăn ba ngày rồi ta liệu - Chính ủy nhìn về phía đồn trưởng - Đồng chí xuất
gạo ngay cho ông Bằng.

Chính ủy cùng đi với ông Bằng ra đến chân núi, anh dặn dò thêm ông nhiều điều...

Ban chỉ huy đồn biên phòng dưới sự chỉ đạo của chính ủy đã nhất trí phương án chiến đấu:
“Phải vây chặt, bắt gọn cả mẻ lưới trong thời gian ngắn nhất. Vì đây là vùng biên giới xung yếu,
nếu chúng biết bị lộ, chúng có khả năng gọi phản lực đến đánh phá thành một vòng đai rồi cho
trực thăng xuống hốt đi, hoặc bỏ chạy sang bên kia biên giới...”.

Bỗng trên ngọn cây, một tốp máy bay phản lực vụt qua. Trong nháy mắt, dội lại một lọat
tiếng nổ. Mắt mọi người đều nhìn về phía chớp lửa lóe lên ở “Cổng trời”. Nó đánh tọa độ đấy mà.
Mọi người đã quen với cái trò ấy... Trong vẻ yên lặng nặng nề bề ngoài nhưng lòng chính ủy đang
rạo rực lên trước trận đánh lớn. Anh có cảm giác như chính mình từng gặp trường hợp như thế này
ở đâu. Anh cố nghĩ lại. Phải chăng là một ngày đầu thu năm ấy, khi anh vừa từ bỏ cuộc đời đi ở
để vào tự vệ bảo vệ chính quyền cách mạng. Hay, rất có thể là ngày anh còn là một chiến sĩ biệt
động trong tay chỉ có con dao găm với trái tim dũng cảm đã xông vào diệt xe, diệt đồn giặc. Và,
nó cũng mang mang giống như ngày anh đánh trận Xuân Bồ; đuổi giặc ở Át - tô- pơ, Xê - pôn,
hay truy kích giặc trong rừng cao su Chúp... Anh làm thế nào mà nhớ đúng nơi và nhớ hết được
những chặng đường chiến đấu đã qua. Chặng đường mà công việc của người chiến sĩ đã choán hết
cả thời kỳ sôi nổi nhất trong cuộc đời anh.

Phía trên vách đá trong hang, tấm ảnh Bác Hồ nổi bật lên giữa những dòng thạch nhũ lấp
lánh như viền bằng kim cương. Chính ủy Kim ngước nhìn lên ảnh Bác. Đôi mắt dịu hiền của Bác
như đang khích lệ anh. Anh thầm nghĩ: “... Nhân dân ta mưu trí lắm, Ông Bằng, ông Tơ, anh Võng
trong “tổ Sơn tràng” đó học ở trường nào ra nhỉ? Không, họ không hề học một trường dạy về cách
chống gián điệp, biệt kích nào cả. Thế thì vì sao trong keo đầu giáp mặt với kẻ thù, họ đã thắng
được như vậy? Ừ, đúng rồi. Thế đấy, yếu tố quyết định cho sự mưu trí của họ là lòng giác ngộ về
mục tiêu việc họ làm. Đúng, từ lâu lợi ích sống còn của dân tộc ta đã đòi hỏi, đã thôi thúc mỗi
người chúng ta phải có mưu trí, phải có dũng cảm như thế. Và, cái đó đã trở thành một đức tính tự
nhiên của mỗi người Việt Nam, của ông Bằng, ông Tơ, anh Võng... hôm nay. Thế nên, cái “ra đa
mắt thần”, cái hàng rào điện tử, “cây nhiệt đới”, máy báo tiếng động... và cái gì gì của giặc đi nữa
cũng không làm sao sánh bằng sự mưu trí, lòng quả cảm của nhân dân ta, màng lưới bảo vệ kỳ
diệu của quần chúng ta...” Anh mỉm cười...

- Báo cáo chính ủy, tôi Chuẩn úy Cường, Đội trưởng đội trinh sát đặc công và Đội phó
Nguyệt có mặt.

- Hai đồng chí vào.

Cường bước vào trước. Khuôn mặt tròn và dáng người cao lớn của anh nổi lên nền rừng
che gần kín cửa hang đá. Với thói quen, anh dập gót chân rồi giơ tay lên vành mũ chào rất hiên
ngang như giọng nói to và đôi mắt trong sáng của anh. Sau Cường là Đội phó Nguyệt. Đó là một
con người thấp, chắc nịch, bước chậm rãi và cái nhìn đăm chiêu. Ở con người đội phó trinh sát
toát ra vẻ thận trọng và điềm đạm.

Chính ủy nói chuyện với họ rất vui, anh vốn có cách làm việc như thế. Trước khi đi vào
việc chính, anh thường kể cho cấp dưới nghe những mẩu chuyện vui thật là thoải mái thân tình.
Thoạt nghe thì ai cũng tưởng như không dính gì với công việc, nhưng thật ra nó có một nội dung
hỗ trợ cho nhau. Và sự ngăn cách giữa cấp dưới với cấp trên cũng không còn.

- Chiến sĩ trinh sát là người như thế nào nhỉ? Là người bình tĩnh và mưu trí nhất trong
những người dũng cảm của chúng ta có phải thế không hai đồng chí? Thế nhưng đồng chí Cường
- tôi chỉ nói riêng đồng chí Cường thôi nhé - thì rõ ràng là có mưu trí, có dũng cảm, thích mạo
hiểm, nhưng việc gì ban đầu cũng tưởng nuốt chửng đi một cách dễ dàng được, có đúng thế không?
Cường cười, nhưng nước da đen giòn và có những nốt tàn nhang ở mặt anh đã tía lên. Anh
đứng dậy, nom chắc chắn như pho tượng.

- Báo cáo chính ủy, đúng ạ.

- Đấy là một điều không lợi cho người chiến sĩ trinh sát biên phòng. Cái tính ấy, Cường ạ,
dễ làm cho mình chủ quan và bối rối. Đồng chí biết đấy, bọn tình báo chiến lược tư bản thường
tranh luận cái công thức chiến tranh gián điệp: phương tiện rất hiện đại cộng với con người hay
con người cộng với phương tiện, hoặc phương tiện bấm nút từ xa loại trừ con người... Chúng run
sợ trước một màng lưới bảo vệ rộng rãi của quần chúng ta, quần chúng được giác ngộ cao về chân
lý bảo vệ Tổ quốc của mình. Song chúng vẫn đang nuôi hy vọng thắng chúng ta trong cuộc chiến
tranh gián điệp bằng nhiều phương tiện kỹ thuật hiện đại, bằng tự động hóa, điện tử hóa, bằng sóng
vô tuyến điện... Chúng có ảo tưởng như nằm mơ giữa ban ngày thế đấy. Người chiến sĩ trinh sát
biên phòng phải có đức tính bình tĩnh đến sáng suốt để hiểu cho được điều đó. Đối với chúng ta
con người là quyết định. Dù phương tiện kỹ thuật có hiện đại đến đâu cũng chỉ là yếu tố hỗ trợ.
Các đồng chí hiểu không - giọng chính ủy nhấn mạnh - trận chiến đấu quyết liệt đang diễn ra, ta
với kẻ thù sẽ giáp mặt giữa rừng sâu là một cuộc thi thố mưu trí, tài năng, sự thông minh, lòng quả
cảm giữa các chiến sĩ và nhân dân ta với phương tiện, kỹ thuật tối tân của địch đấy. Ta đánh phản
lực cướp trời bằng cách đánh của ta; giờ đánh biệt kích gián điệp, ta cũng đánh bằng cách đánh
của ta. Ta nhất định thắng. Các đồng chí có đồng ý như vậy không?

Chính ủy đưa dần câu chuyện vào nội dung và anh làm cái nhiệm vụ đầu tiên của người
chỉ huy là bồi dưỡng cho chiến sĩ lòng tin vào chiến thắng. Anh mở rộng tấm bản đồ vùng biên
giới trải trên bàn. Anh lấy ngón tay trỏ khoanh một vòng vào vùng “Cổng trời” - các đồng chí, ta
đã mở rộng miệng túi, kẻ địch đã chui vào. Giờ đây ta phải nắm chắc chúng và thắt túi lại. Các đội
truy tìm đã khép vòng vây, ngăn chặn vòng ngoài, đội trinh sát đặc công có nhiệm vụ ở vòng trong.
Các đồng chí phải biết rõ sào huyệt của địch. Ở đó, bọn chúng có thể đã dùng phương tiện kỹ thuật
theo dõi “Cổng trời”. Xung quanh sào huyệt chúng, theo ông Bằng cho biết có thể có một hàng
rào rất dày bằng mìn. Các đồng chí phải nắm cho được những trang bị và cách bố trí phòng ngự
của chúng; Các đồng chí biết đấy, đánh bọn gián điệp biệt kích dù tiêu diệt gọn bọn chúng cũng
chưa phải là thắng lợi, mà thắng lợi là ở chỗ nắm được quy luật hoạt động của chúng, nắm được
bí mật nghề nghiệp của chúng để tạo ra thắng lợi lớn hơn. Một nhiệm vụ nữa bao trùm lên tất cả
là các đồng chí phải bảo vệ an toàn ba người dân. Nếu có hiện tượng chúng thủ tiêu ba người dân
để chạy qua biên giới thì các đồng chí phải triển khai chiến đấu bảo vệ dân. Đấy, nhiệm vụ đầu
tiên của đội các đồng chí như thế. Có gì chưa rõ, cần hỏi? Không có gì hỏi thêm thì đồng chí
Cường nhắc lại nhiệm vụ.

Cường đứng dậy. Anh nhấp nháy đôi mắt đen và sáng. Đôi mắt biểu lộ một sự tinh nhanh,
hoạt bát. Anh nhắc lại rất rành rọt những nhiệm vụ chính ủy giao. Chính ủy nhìn anh bằng cặp mắt
hài long và khen ngợi. Đã nhiều năm trong quân ngũ, chính ủy sống với biết bao cán bộ. Có người
tinh nhanh, hoạt bát như Cường. Cũng có người chín chắn, kín đáo như Nguyệt. Hai đức tính ấy
vốn thường đố kỵ với nhau, không cùng có trong một con người. Thế nhưng phải rèn luyện làm
sao để những chiến sĩ trinh sát của chúng ta, những chiến sĩ chủ yếu là tiến lên phía trước một cách
âm thầm lặng lẽ, ho trông thấy rất nhiều cái mới lạ, họ gặp rất nhiều trường hợp phức tạp đòi hỏi
sự thông minh, vừa rất bình tĩnh vừa có óc phán đoán rất nhanh để giải quyết, có được cả hai đức
tính ấy.
*

- A, các ông rất xứng đáng là những người cộng sự xuất sắc! - Tên huấn luyện viên kêu lên
với thứ giọng the thé, trịch thượng. Mặt hắn sáng lên rồi hau háu nhìn những bao gạo đầy chặt trên
vai ông Bằng, ông Tơ, cũng trở lại với bốn tên biệt kích. Cái mặt dày thịt của hắn bè ra, cái mũi
hếch nhăn lại. Hắn cười nhạt, một thứ cười không hề biểu lộ tình cảm.

- Xin... không dám... - ông Bằng đang thở đứt hơi nhưng đã đỡ lời hắn. Rồi ông đi đến
trước hắn, dáng dấp khúm núm, ông trao cho hắn một cái gói vuông bọc bằng lá chuối non hơ lửa
nom như lụa:

- Xin ông cầm cho, đấy là món quà mọn của gia đình lão.

Tên huấn luyện viên ném vào ông Bằng một cái nhìn thăm dò rồi mở gói. Mắt hắn sang
lên, cánh mũi hắn phập phồng trước mùi thơm lá chanh lẫn với hạt tiêu đến là hấp dẫn. Hắn cầm
lấy cái đùi gà to tướng giơ lên rồi lập tức nút kín cái miệng há to trước con mắt thèm thuồng của
đồng bọn. Một tay khác hắn lăm lăm cái đầu gà lún phún lông tơ.

“Vận may, đúng là vận may nuông chiếu mình thật. Trong cơn hoạn nạn, vận hạn thường
để chừa một khe hở cho số phận là thế đấy...” Hắn vừa nhai ngấu nghiến , vừa nuốt lấy nuốt để,
thầm nghĩ.

Ông Bằng đi về phía tên toán trưởng, hắn đang vừa nhìn tên huấn luyện viên, vừa nhìn ông
Bằng với đôi mắt thèm thuồng, chờ đợi và ghen tỵ Ông Bằng rút trong túi áo ra một gói nhỏ hơn
trao cho hắn:

- Mợ và các em gửi cho cháu đấy. Cháu cầm lấy, hà hà... - Ông Bằng nhìn anh Võng:

- Vợ con yên cả, cứ vững lòng ở đây với các ông, hà hà... Mả cha táng hàm rồng ta mới
gặp được các ông đó!

- Được mấy ký tất cả?

- Ở nhà chỉ còn chừng này, chừng đâu 25 ký, các ông sử dụng tạm, hết rồi tôi liệu sau.

Tên toán phó Khoa từ nãy đến giờ nước bọt rỉ ra đầy các chân răng, hắn nuốt ừng ực. Hắn
hỏi ông Bằng rồi cúi xuống bốc một nhón gạo lên rải trong lòng bàn tay. Hắn ghé mồm thổi phù
phù rồi gí mũi vào ngửi hai ba lần. Hắn nhìn ông Bằng với con mắt thăm dò, ranh mãnh.

- Gạo nhà ông xay lấy đấy à?

Ông Bằng giật mình trước vẻ gian giảo ranh rấp của hắn:

- Gạo của Mậu...à à của nhà kho bán cho dân khai hoang đấy. Gạo từ đâu đưa về đấy mà...

- Thảo nào hết trơn cám, lại có mùi bao bố...


Ông Bằng ngoảnh mặt đi thở phào nhẹ nhõm.

Tên huấn luyện viên nháy bốn đứa vừa đi lấy gạo với ông Bằng về ra sau lán thì thầm gì
với nhau ra vẻ kín đáo lắm. Ông Bằng đoán hình như nó hỏi nhau về tình hình làng xóm, nhà cửa
ông Bằng... Ông Bằng cũng định gặp anh Võng nói riêng với anh..., nhưng không có cơ hội nào
cả. Cái thằng chết tiệt có khuôn mặt choắt nhỏ, hai thái dương sâu hoắm trông bẩn tướng cứ bám
riết lấy anh Võng. Mãi đến lúc sắp sửa nấu ăn, ông mới nói với anh Võng được vài câu để anh an
lòng.

- Nấu đi, nấu nhiều vào xài mày. Có cái tọng vào bao tử rồi mai khai việc làm chỗ trực
thăng xuống, hôm sau tha hồ. - Tên huấn luyện viên nói với toán trưởng Phú. Xong, hắn quay lại
phía ông Bằng:

- Nè, ông Bằng và các ông, chỉ huy chúng tôi ở trong đó gửi lời khen công tích lớn lao, cố
gắng hữu hiệu của các ông và sẽ ban thưởng hậu đãi. Quà sẽ gửi ra trong chuyến máy bay đầu tiên
tới.

- Vâng... không dám.

- Tụi tui xin khoản đãi các ông món quà đầu tiên mỗi người 500 đồng - Hắn quay lại hạch
sách tên toán trưởng. - Tiền đâu mày...ụ...mẹ.

Hắn lại nói tiếp với ba người:

- Tụi tui ghi sâu công tích của các ông, mong các ông sốt sắng tiếp vận cho tụi tui một
chuyến gạo nữa. Tụi tui gửi tiền các ông mua.

- Dạ! - Ông Bằng cúi nhận lời một cách cung kính.

- Mua 1000 đồng thì mấy người mang vừa hả chú? - Tên Phú hỏi.

Ông Bằng nhẩm tính rồi trả lời:

- Mua được hai tạ rưỡi gạo. 13 người thì nặng, 15 người thì vừa một chuyến. Chú thì nghĩ
thế, anh tính lại xem gạo 4 đồng một lô đó.

- Tiền đây chú cầm lấy. - Tên Phú đưa cho ông từng xấp toàn giấy 10 đồng mới toanh màu
in nhạt nhẽo. Những tờ bạc chạm vào nhau kêu lanh canh như những lá thép mỏng. - Hề hề, chú
và các ông về cứ xài đừng để nhiều trong người mà Cộng sản dị nghị. “Tiền trong nhà là tiền chửa,
tiền ra cửa là tiền đẻ”...

- Ngày nào thì có gạo xài, ông già nói coi?

- Dạ, thưa ông huấn luyện viên khi mua đủ, chúng tôi chuyển ra rừng giấu...

- Rồi các ông mang ra đây một chuyến trước báo tin để tụi tui cho người đi lấy nghe không.
- Dạ!

- Còn một việc hệ trọng nữa, sáng mai tụi tui bắt đầu việc đốn cây dọn sân cho máy bay đỗ
xuống trên núi. Các ông có ở lại cộng lực được không...hề hề... các ông quen mà...

- Dạ, chúng tôi phát rẫy khai hoang quen lắm.

Trời chiều, không khí trong rừng như nặng ra. Sương ướt đẫm trên đỉnh mũ mềm, trên vai
áo các chiến sĩ. Cường nhìn đồng hồ rồi anh hạ lệnh cho hai chiến sĩ tiến vào sào huyệt địch. Các
chiến sĩ tản ra, nằm dán người xuống đất rừng, nhích lên nhẹ nhàng, êm như những con tắc kè tiến
về phía con mồi. Nhiệm vụ của họ hôm nay là kiểm tra lại cái “hàng rào” dày đặc mìn của bọn biệt
kích. Đội trưởng Cường theo con đường mà anh đã mở hôm qua, lách giữa các quả mìn. Bên trái
anh, cái lá cây khô nhích đi để hở quả mìn díp màu đen mốc. Phía trước, dưới vỏ cây mục, quả
mìn định hướng mà anh đã cắt ruột dây dẫn điện rồi nối vỏ lại nằm im lìm. Anh nhích lên tí nữa,
quả mìn có dây gài liền với một chùm khác, lại một quả nữa rồi một quả nữa... “ừ, chúng mày cứ
nằm đó, rồi biến thành đất rừng cả...”. Bỗng có tiếng động phía trước, mỗi lúc một gần. Cường
nằm im. Màu xanh mốc quân phục anh mặc hòa trong màu lá và đất rừng. Cả người anh trông như
một khúc gỗ. Trước mặt anh xuất hiện một tên biệt kích. Hắn mặc quần áo bà ba đen. Hắn đi thẳng
về phía anh giáp với “hàng rào” mìn. Thân hình hắn gầy guộc, khuôn mặt ảo não, nước da ớm
nắng trắng ởn... tay hắn cầm một cái xẻng con. Cách Cường ba, bốn mét hắn dừng lại. Hắn phóng
đôi mắt lo sợ, sớn sác nhìn ra xung quanh... Hắn nhìn “khúc gỗ mục” gần đó. Hắn xích gần lại
“khúc gỗ mục một tý, rồi một tí nữa như phòng xảy ra việc gì thì lấy đó làm chỗ che đỡ. Cường
đoán biết mục đích của hắn rồi. Chà, nếu được bắt sống mày tao chỉ cho mày một miếng “sơ cấp”
cũng quá sức. Tên biệt kích đào đất rồi tụt quần ngồi xuống. Một con rắn hổ mang bành thấy tiếng
động thở phì phì vội vàng lánh xa. Nó cũng bò nhanh đến “Khúc gỗ”. Nó bò qua nửa thân rồi dừng
lại trên “Khúc gỗ”. Nó ngóc đầu lên giương đôi mắt nhỏ lay láy một cách man dại nhìn tên biệt
kích. Bỗng con rắn giật mình, như nó đã cảm thấy dưới bụng nó có hơi ấm của sự sống. Nó bò
nhanh. Tên biệt kích làm cái việc khẩn cấp của hắn xong. Hắn vội vàng lấp qua loa cái hố rồi đi
như chạy vào sào huyệt. Đi được vài bước, hắn lại quay mặt nhìn về sau. Hắn sợ hãi cả những cái
lá mục mà chân hắn đi hất lên chạm phải gót. Cường nhìn theo hắn, anh mỉm cười khinh bỉ: “Ừ,
hắn hệt như con nai lạc đến rừng lạ đứng ỉa cứt rơi trúng khủyu chân cũng giật mình hoảng sợ
tưởng có hổ đuổi theo rồi cong đuôi chạy”. Cường nhìn hắn, anh cố nhớ lấy cái lối hắn đang đi...
Đêm đêm theo lối đó, anh bò vào trong sào huyệt bọn biệt kích. Đó là một mỏm đồi con rậm rì
nằm trên sườn núi Đ. Mọc đầy những cây dẻ, cây táu, cây trám thân sù sì những u cục đen đúa
nom kỳ dị, hoang sơ đầy quỷ quái. Bóng tối trùm lên đen kịt. Sương dày như mưa bụi. Hơi lạnh
càng đẫm hơn. Mùi rừng đêm nặng nề đến ngạt thở. Cơ man nào là côn trùng từ bốn phương tám
hướng rên rỉ nỉ non.

Bò vào nữa. Thoạt tiên Cường nghe thấy một vài tiếng nói rỉ ra từ bóng đêm. Rồi anh nhìn
rõ những cái lán nhỏ nối nhau thành một vòng tròn. Ở giữa vòng tròn đó cũng có ba cái lán nhỏ.
Và, phía sau những cái lán đó là những tảng đá lớn như hòn lèn. Trong cái hang ở giữa lèn đá, một
ánh đèn xanh lóe ra qua tấm vải đen che cửa hang. Rồi từ cửa hang đó, lọt ra những tiếng gọi nho
nhỏ:
- Quán Mây chiều gọi quán Tàn đêm!

- Quán Mây chiều gọi quán Tàn đêm! Tàn đêm nghe rõ Mây chiều gọi không? Có à, chu
cha, may quá.

- Bình yên, vạn sự bình yên. Chúc quán Tàn đêm, đêm nay tiếp nhiều khách “phong tình
mỹ nữ”.

Cường dấn mình lên, anh bò vào bên lán. Anh nghe rõ tiếng nói của hai đứa nằm ở cái lán
ngoài:

- Mày có nhớ lời nói của ngài cố vấn Mỹ lúc chúng ta sắp lên máy bay không?

- Ủa, ai mà quên được hả mày. Những lời đó cứ như phát Bê - đu nghìn gam - ma đối với
tao - rồi hắn cao hứng lên giọng nhắc lại- “tôi có nên nói với các anh về sự chiến đấu rất anh hùng
của các anh không nhỉ? Ừ, như các anh biết đấy, các anh thường chiến đấu với một lực lượng
chênh lệch, khi chiến hữu các anh như bộ binh, pháo binh, không lực, thủy quân... nghĩa là khi
không một binh chủng, quân chủng nào của quân đội Việt Nam Cộng hòa hoặc Hoa Kỳ chiến đấu
được nữa thì các anh chiến đấu và mang lại chiến quả rất hữu hiệu. Các anh bất ngờ như những
thiên thần từ cửa trời nhảy xuống biến hậu cứ an toàn của đối phương thành tiền tuyến. Các anh
vinh quang lắm. Các anh ráng lên...” - Ghê chưa, mỗi lần nhớ tới lời nói của ngài cố vấn lòng tao
cứ sướng rơn lên. - Hắn vừa nói, vừa nhún nhảy, làm cho các sàn lán run lên, cọt kẹt như sắp sập.

Và lúc đó tai những tên biệt kích như còn văng vẳng lời nịnh nọt mồi chài, lừa phỉnh của
tên quan thầy... ”Những lâu đài chọc trời ở các đô thành Ô-ki-na-oa, ở Đài Bắc, ở Oa-sinh-tơn
tráng lệ đang chờ các bạn có công tích dạo gót qua. Ở đó, sau những ô cửa sổ sơn xanh, những
nàng thiếu nữ đẹp tuyệt trần đang mơ màng nhìn ra chờ công tích các bạn. Những nhà băng ở Pa-
ri, Thụy Sĩ, Hồng Kông... đang đón các bạn gửi tiền ban thưởng. Những ngôi sao chói ngời như
kim cương đang chờ những bộ ngực hào hùng đầy khí phách của các bạn...”.

Ở cái lán cạnh đó, hai ba đứa đang chụm đầu nhau bấm cái đèn pin đầu bút máy xanh lè
như con đom đóm đực xem ảnh khỏa thân, cười hô hố. Rồi chúng tán chuyện xem xi-nê của Mỹ ở
Sài Gòn. Cái loại xi-nê kích thích thú tính thấp hèn, truyền bá lối sống ham chém giết, man rợ,
dâm loạn theo bản năng con vật trong quân đội Mỹ - ngụy. Cường nghe mà ghê tởm đến phát nôn
lên với cái bọn súc vật biết nói tiếng người đó. Một thằng nói giọng khàn khàn như rên rỉ:

- Nè, trước ngày ra đây được nghỉ 10 ngày, mày có đi xem xi-nê không, ở rạp “Bừng Sống”
ấy. Úi chà, ở đó chiếu bộ phim “Những kẻ vô lại” hay mê hồn trận đi. Phim kể gì à, kể chuyện anh
chàng Dô - nát, một tay đứng đầu nhóm kiếm hiệp đã chọc tức bố, khiến bố vỡ tim chết rồi cướp
luôn cô vợ bé của bố...

Cường bò đến cái lán cuối, ở đó hai đứa đang cãi vã, đang phân trần với nhau trong bóng
tối:

- Ngài cố vấn bảo bọn ta đi săn Cộng sản. Nhưng tao nghĩ rồi ta sẽ biến thành những con
thú lẻ bị Cộng sản săn bắt mất thôi mày à!
- Sao mày nói lạ vậy?

- Sao à, vì các ông toán trưởng, toán phó đòi nhiều thứ quá, vì chúng ta phải nai lưng ra
phục dịch họ quá chu tất - giọng nói cay đắng...

- Đứa nào ở trong cái quân đội cộng hòa chó đẻ, chết tiệt này mà chả thế hả mày! Nơi nào
nhiều tiền, có gái đẹp nơi đó là đất phụng sự. Từ cấp côi cho đến binh bét, thằng đ... nào cũng chỉ
biết rượu, đàn bà, vục đầu vào hai thứ đó rồi ra trận... như ta ấy mà, thằng nào chả muốn sướng,
chả muốn dấn mình vào bổng lộc, tiền tài... - ngừng một tí, cái giọng ấy lại rên rỉ tiếp - như ta ra
đây, lẩn trong hẻm núi này rồi cũng chỉ nhằm đạt mục đích cao nhất của cuộc sống là như thế, kết
cục việc làm của ta cũng chỉ đến thế. Con người cũng chỉ là một con vật mà thôi. Mày xem, con
vật nào chả muốn sướng. Con hổ biết vồ người ăn thịt cho sướng mồm, con chó cũng biết đào mồ
lên ăn xác chết. Thế nên mày ạ, ta cũng đã ăn thịt người, mà lại ăn gan, ăn đùi tươi mới sướng
mồm chứ. Ta khôn lắm, ta là con vật cao cấp ở chỗ ấy ... (!)

Nghe mấy tên biệt kích nói, Cường ghê tởm. Anh thầm nghĩ: Những tên này có còn là
những con người? Bỗng trong cái lán giữa, một giọng nói nhỏ, nhưng đay nghiến trùm lên tất cả
tiếng cãi nhau, tiếng thì thầm mơ hồ, tiếng cọt kẹt ở các sàn lán:

- Thằng quỷ nào canh mà hổng thấy? Chơi miết, Cộng sản vô thì chết ráo!

- Hừ, Cộng sản có chặt hết cây rừng Trường Sơn thì cũng bói không ra, rà không được
“Bầy cọp núi” này. Sợ gì... - Tên đang nằm xem ảnh khỏa thân càu nhàu.

Tên có cái giọng đay nghiến lại nói chuyện tiếp với một tên nào đó. Hắn hậm hực: “...ụ
mẹ... điện bảo có mấy cấp trên ra giải tỏa khó khăn cho mà chờ miết hổng thấy thằng thây mẹ
nào...”.

Rồi chúng ngủ yên. Cường bò vòng quanh dãy lán để xem súng đạn và cách bố trí của
chúng xong, anh lùi ra nằm im dưới chiếc lán ngoài cùng cho đến gần sáng. Cường theo dõi đồng
hồ tay, anh nhẩm tính các lần từ trong hang đá có tiếng “moóc” đánh đi. Trên đường trở ra, anh sờ
thấy có một vật gì rơi ở cạnh một gốc cây, Cường cầm lấy “A một cuốn sổ”. Anh bỏ nó vào bao
băng đạn, rồi bò ra theo con đường đã vào.

Phía rừng xa trong khóm lau, gà rừng le te gáy sang canh. Cơn gió lạnh trước khi trời sang
đã lùa về...

- Nguyệt ạ. Mình đếm đúng 10 đứa nằm các lán xung quanh, ba đứa nằm ba lán ở giữa,
còn hai đứa trong hang đá. Theo mình, ba đứa nằm giữa là huấn luyện viên và toán trưởng, toán
phó, hai thằng trong hang sử dụng vô tuyến điện. Chúng không có công sự, các lán đều làm sau
các gốc cây to, còn chúng bố trí phòng ngự đúng là theo thế trâu ngủ rừng. Cậu có hình dung thế
trâu ngủ rừng thế nào không?

- Biết, chúng nằm quay vòng tròn, trở đầu và mũi súng ra xung quanh chứ gì.
- Đúng, bọn chúng mỗi thằng có ba khẩu súng đấy. Mình sờ từng nòng rõ ràng. Khẩu tiểu
liên và súng ngắn kiểu ổ quay chúng lên đạn để hai bên mình chĩa mũi ra ngoài. Khẩu bắn giảm
tiếng kêu chúng để dưới phía bên phải... Cường cười vui vẻ: Không biết ngày cụ Yết Kiêu lặn
xuống sông đục thuyền giặc, cụ có hồi hộp như mình không? Chứ mình nén lắm mà mũi, miệng
cứ thở đến muốn bật thành tiếng... Nguyệt ạ, không phải dự đoán nữa mà dứt khoát là chúng đang
còn một toán nữa ở đâu trong cánh rừng này. Chúng dùng vô tuyến điện thì Nguyệt biết đấy chỉ
gọi được gần. Nên theo mình, toán thứ hai này chỉ ở trên đỉnh hoặc dưới chân núi này chẳng hạn.

- Sao chúng không dùng “moóc” nhỉ? - Nguyệt hỏi lại.

- Có chứ, “moóc” thì ba giờ chúng đánh đi một lần. Theo mình, chúng dùng “moóc” liên
lạc đường dài với bọn chỉ huy ở Sài Gòn hoặc đâu đấy, còn bọn ở gần, chúng chỉ dùng vô tuyến
điện nói trực tiếp và máy mở thường xuyên.

- Thế là còn hai việc phải xác định lại Cường ạ.

- Đúng rồi, phải xem lại giờ chúng đánh “moóc” đi và cái toán chết tiệt ở tận đâu nữa chứ
gì?- Đôi mắt trũng sâu, thâm quầng vì thiếu ngủ của Cường sáng lên một cách thông minh linh lợi.
Anh nói tiếp - mình đã xác định được cây dẻ to gần hang đá là nơi chúng để các máy vô tuyến
điện. Cây dẻ có lỗ hổng lớn ở chạng ba. Mình sẽ lên đó.

- Đồng chí đội trưởng nghỉ đi để tôi đi thay. Đồng chí không tin tôi ư?

Cường vỗ vai Nguyệt:

- Mình đã quen đường vào, đã biết cây dẻ. Có các cậu yểm hộ đắc lực, mình mới làm tròn
nhiệm vụ đấy. Chỉ cần cậu đổi cho mình cái đồng hồ, bởi cái của cậu đúng giờ hơn.

- Để làm gì... À, à hiểu rồi. - Nguyệt cười to rồi nói đùa. - Của tôi thì đúng giờ lắm. Đài
phát thanh Hà Nội ngày nào chả gọi dây nói cho tôi... Để làm gì à, để hỏi gì à, để hỏi giờ mà “tuýt
tuýt” trên đài...

Cường và Nguyệt ôm nhau cười vui vẻ.

- Ba giờ năm phút rồi. Nào ta xem “cái của” này có thể giúp gì không. Chừng 4 giờ kém
15 thì mình vào.

Cường giục Nguyệt, rồi cả hai người lùi ra sau mấy tảng đá lớn, họ bấm đèn pin đã che
mặt, ánh sáng chỉ vừa lọt ra ở ngôi sao nhỏ xíu. Hai người cúi xuống xem cuốn sổ Cường đã nhặt
được.

Trên trang đầu “chủ nhân” viết nắn nót mấy chữ “Giấc mơ vàng” để làm tên cho cuốn sách.
Phía dưới hắn kê tên “Mộng tầm xuân giang hồ hiệp khách” tức húy: Nguyễn Văn Hai. Hai trang
kế đó không biết để làm gì hắn ghi rất đầy đủ quê quán, vợ con: Sinh quán xứ Đ., tỉnh N... vào
Nam lúc 6 giờ sáng ngày 13 tháng 2 năm 1955. Trú ngụ tại lô Chợ Lớn. Tên vợ: Bích Quỳnh Tâm.
Những trang sau, dưới cái hình vẽ gớm ghiếc: cái đầu lâu trên hai ống xương bắt chéo hắn
bắt đầu ghi nhật ký.

Ngày... hôm nay là ngày đầu tiên trong mười ngày nghỉ tại trại để công cán xa. Buổi sớm
mình dự tiệc của ngài cố vấn khoản đãi. Đúng là một bữa tiệc ngon. Nhiều món nhậu ngon miệng.
Ngài cũng dùng những lời nói rất ngon tai ban cho mình “chiến sĩ tiên phong đi giải phóng cho
dân tộc được trường tồn”. Chiều, bọn mình ăn thề rồi thích chàm xanh lên ngực. Thế là mỗi đứa
trong bọn mình đều có hai cái chữ và cái đầu lâu với hai ống xương trên ngực để biểu hiện sức
mạnh. Thằng D nó viết cho mình hai con chữ xấu quá, trông chẳng ra con c... gì. Nhưng thôi đẹp
làm gì cái chữ “diệt Cộng” cơ chứ.

Ngày... Sớm mình đi nhà thờ xưng tội. Mình rất thành tâm với Đức Chúa Lời. Mình tin
Đức Chúa sẽ ban phước lành cho mình, che chở cho mình. Hôm nay (bốn tháng sau) mình đã xứng
một trang nam nhi có đủ lòng can trường như Giêm Đin... Đêm, mình và tụi nó vừa nằm xỉa răng,
vừa đọc kinh cầu Chúa Lời ban phát phước lành, cho đến khuya...

Ngày... Bữa nay là ngày thứ bảy trong mười ngày nghỉ. Sở thông tin Mỹ có nhã ý đến thăm
trại để về quảng cáo trên tạp chí “Thế giới tự do” và báo “Hương xa”. Những tờ báo ăn khách đó
có nhiều bài thơ say đắm, những áng văn tâm lý của nhiều tác giả có tài ba bậc nhất đô thành. Mở
đầu họ cho tụi mình nghe loại nhạc sao mà mê hồn thế, đứng ngồi cứ dậm dựt chân tay. Biết bao
giờ các nhạc gia nước mình mới làm được loại nhạc đúng với nghĩa nhạc như thế. Sau đó, nhà triết
học uyên bác trong Sở Thông tin Mỹ giảng cho mình nghe thêm các loại thuyết đứng trên đỉnh
văn minh đang ngự trị nửa trái đất phía tây. Nào là thuyết Phân tâm học của Phơ-rớt, thuyết hiện
sinh, thuyết hành động.

- Ghê tởm quá, chúng có còn là người nữa đâu mà là những con vật bị đầu độc. Cậu giở
nhanh đoạn cuối xem có gì không? - Cường vừa nói, vừa đấm nắm tay xuống cuốn sách nhớp nhúa
với cả lòng căm hờn.

Nguyệt giở đi một số trang rồi anh xem tiếp:

Ngày... Anh chui đầu ra đây thì em ơi cái chết đã cầm chắc trong tay. Những đứa cùng toán
với anh đang ở trong một địa ngục. Cho tới nay bọn anh đã hết lương ăn, máy bay ra tiếp tế lại thả
sai tọa độ nên không nhận được. Hằng ngày các anh phải làm vó bắt cá, đào củ mài, ăn quả cây
rừng. Nay có đứa trong bọn anh ngã nước. Với nhịp độ sống đó rồi đây số phận anh sẽ ra sao?

Em Quỳnh Tâm. Anh đến một nơi là quê anh. Anh sinh ra ở đó, nhưng sao lại rất xa lạ với
anh. Anh muốn về quê. Nhưng anh lại rất sợ về. Anh sợ lắm. Một cái gì nơm nớp bên anh kể cả
trong giấc ngủ cũng không yên. Anh sợ từ chiếc lá rơi, hạt sương rụng. Cái vỏ cây khô tách ra khỏi
thân cũng làm cho anh giật mình. Anh cứ ngỡ như có người đến bắt anh. Em ơi! Phải chăng anh
là một người tội lỗi? Anh thù ghét tất cả, nên anh sợ hãi tất cả...

... Ngày... Trọng trách trong chuyến này của mình là đến một con đường, nhưng đến đó thì
lại sợ cả bom đạn của ông “bạn lớn“ dội xuống đầu. Mình phải sống trong một địa ngục. Mình
sống ở rừng mà có lúc thiếu nước uống, bởi vì có đứa nào dám ra suối lấy đâu. Đứa nào cũng sợ,
vì rừng núi, cây cối, cả nước nữa nó đều như thù ghét, đều như luôn luôn vây hãm và theo dõi
mình. Mình cảm thấy ở đây không một cái gì đồng tình ủng hộ mình. Nó đều coi các việc mình
làm là tao loạn. Mình cầu Chúa sớm chấm dứt tình trạng này đi. Mình biết rồi đây nhiều đứa sẽ
chết, không biết chúng nó có được lên thiên đàng không, hay lại xuống địa ngục mà xuống địa
ngục còn hơn mình sống ở đây. Có lúc, mình thương bọn nó quá. Nhưng thôi, mình tự thấy mình
đã vô cùng đáng thương rồi, lo cho mình chưa đủ còn lòng dạ đâu để xót thương ai. Đợt này mình
cầu kinh nhiều hơn lúc nào hết.

... Ngày... Trong địa ngục này mọi đứa đều mệt mỏi và cư xử với nhau như súc vật, tranh
nhau từng miếng ăn, từng ngụm nước. Mình ngày đêm cầu Chúa để mau thoát khỏi cảnh này đi.
Mình đã trót dấn thân vào gió bụi, mình chỉ biết sống được là may, và chỉ biết nguyện cầu xin Bề
trên che chở cứu vớt. Ôi, xin Người cứu vớt con, ban phước lành cho con, dắt con ra khỏi nơi khổ
ải này, cho con được sống dài thêm ngày nữa.

Ngày... Em thương, em còn nhớ những cuốn sách “Tiếu ngạo giang hồ” mà báo “Diều hâu“
đăng tải nhiều kỳ, “Bàn tay máu”, “Quỷ đòi hồn“, “Quái khách độc hành”, “Tàn một giấc mơ”...
mà anh đã bỏ trường văn khoa về say mê thức đọc với em trắng đêm đó không? Em ạ! Giờ đây
anh đã rõ: tất cả những phiêu lưu, mơ mộng trong cái cuốn sách đó đã nặn ra con người anh và
nay đã làm cho anh vỡ mộng. Nó đã lừa dối anh, làm cho anh tưởng rằng anh sẽ trở thành một
Giêm Đin Việt Nam, một lữ khách giang hồ, một kiếm hiệp phi thường rồi lao vào con đường trinh
thám mạo hiểm này. Em thương... ngày anh còn ở trại, khi tiêu khiển trong quán rượu “Hoàng
hôn“, khi dự khoản đãi trong tiệm nhảy “Tàn đêm”... những ngài cố vấn, những ông chỉ huy nói
với anh những gì, giờ đây trong địa ngục giữa rừng hoang này, anh ngẫm lời của họ chẳng khác gì
những dòng trong các cuốn sách ta đã xem. Thì ra em ạ, anh đã rõ: chúng được nhiều lương, được
tăng thưởng, được lên đầu ngọn bút lừa phỉnh thí mạng đứa khác. Đồng đô - la đã uốn tấc lưỡi
chúng dẻo thêm, lèo lá thêm, có khi còn bẻ quẹo được lưỡi chúng nữa. Và em ạ, những tác giả các
cuốn truyện từng làm cho anh mê ly hồn trận đó... giờ đây anh xem chúng cũng như những cố vấn,
như những ông chỉ huy ở Sài Gòn không hơn không kém, chúng đã mở đường và xô đẩy anh đến
địa ngục trần gian này...

- Thôi, thôi đủ rồi... Bọn chó chết ấy là thế đấy ... 4 giờ kém 15 rồi mình đi đây...

- Khoan! - Nguyệt giữ Cường lại. - Lương khô đây, nước đây nữa, suốt ngày kia mà...

- Mình đang còn cả, ít thôi càng tốt. Cậu hiểu chứ?

... Cường nép mình vào trong hốc cây. Anh chỉ để đôi mắt nhòm qua kẽ hở. Ban đầu, anh
phải “chiến đấu” gay go với bầy kiến vống. Bởi anh đã bất ngờ xâm nhập “căn cứ” của chúng.
Những con kiến to tướng màu lửa có cái lưng eo như con ong, bộ chân dài ngoằng nom già nua.
Lúc đầu, chúng bấn lên trông đến là bận rộn trong cuộc “hành quân sơ tán”. Chúng bò nhanh đến
hốt hoảng tản ra khắp hốc cây. Rồi như đã nhận ra “kẻ xâm phạm”, chúng quay lại chạm đầu vào
nhau trao đổi “thống nhất mệnh lệnh” và tất cả đua nhau đến cắn đốt khắp người Cường. Ban đầu,
Cường nhẹ xoa để đuổi chúng. Anh còn nghĩ đùa: “Càng hay, nó giúp mình xua được giấc ngủ cứ
nhằng nhẵng bám trĩu hai mi mắt”. Nhưng, sau bị đốt nhiều, người anh đỏ tấy lên, ê ẩm, tê dại đi
không còn thấy đau nữa. Anh chỉ cảm thấy khắp người nóng ran như rôm cắn.
Từ trên cao, Cường dán mắt xuống cái bọn người mặc áo quần đen, ẩn hiện trong mái lán,
dưới các vòm lá úa vàng. Nom chúng càng bé nhỏ, đi lại tất bật như là sợ hãi đến khốn khổ. Và
kìa, chúng đang làm gì thế kia? A, chúng đang kiểm tra đường dây dẫn điện chạy vào hang đá. Ừ
có lẽ nơi phát điện làm cho mìn nổ là ở đó. Cường thầm nghĩ. Sau đó, anh chuyên tâm theo
dõi tiếng “moóc” từ trong hang đá đánh đi vào những giờ nào. Trưa mùa thu, trời mù chẳng ra
mù, mưa chẳng ra mưa, hàng vạn hạt nước li ti như bụi bay trong khoảng không rồi đọng trên các
ngọn lá cây. Thỉnh thoảng một làn gió thổi rung cây; làn da ớn lạnh...

Đang cơn gió, Nguyệt và các chiến sĩ ở vị trí vây vòng ngoài nghe tiếng cành khô gãy răng
rắc từ phía đồi cao xuống. Rồi tiếng chân giẫm rào rào trên lá mục. Tiếng đất rừng chuyển dội đến
tai Nguyệt đang áp xuống đất. Nguyệt ra hiệu cho tổ cảnh giới phía sau chuẩn bị.

Bỗng giữa những thân cây sẻ xù xì, rêu xám xỉn, hai tên biệt kích xuất hiện. Da chúng trắng
nhợt như giun non ngâm nước. Tên đi trước nhớn nhác xách chiếc túi ni-lông. Tên đi sau cầm khẩu
tiểu liên ở tay. Mắt hắn trợn trạc nhìn ra hai bên... Chúng đi qua chỗ các chiến sĩ trinh sát nằm rồi
vào sào huyệt. Chỉ lát sau, hai tên biệt kích lại đi ngược lên mái núi phía đông, nơi chúng vừa đi
xuống. Tên đi trước vẫn xách cái túi ni-lông ấy nhưng không biết đựng gì mà có vẻ nặng lắm.

Nguyệt cho một tổ trinh sát bí mật đi theo chúng lên đỉnh núi... Nơi đó nhìn sang “Cổng
trời”, trên con đường của ta vào tiến tuyến rõ mồn một...

Các đội trưởng và cán bộ trong đồn biên phòng nhóm họp tại phòng làm việc của ban chỉ
huy đồn, trong một hang đá lớn. Phiên họp này có tính chất quyết định cuộc giáp mặt với “Bầy
cọp núi “giữa rừng sâu biên giới.

Chính ủy kiêm Chỉ huy trưởng khu biên phòng Trần Kim ngồi trước tấm bản đồ vùng biên
giới. Cạnh chính ủy là Đồn trưởng Tân. Anh có đôi vai rộng, khuôn mặt vuông, cặp lông mày rậm,
nom anh lực lưỡng và họat bát... Mọi người rất chú ý nghe đội trưởng trinh sát báo cáo tình hình.
Bởi lẽ chiến sĩ trinh sát thường biết nhiều cái mà chiến sĩ các phân đội khác trong giấc mơ cũng
chưa thể thấy được. Anh đội trưởng mắt long lanh, chỉ ngón tay vào tấm bản đồ. Anh nói sôi nổi,
họat bát, nhất là lúc anh thông báo những tin mới nhất đội trinh sát vừa xác minh về. Giọng anh
cao hẳn lên:

- Địch ở thành hai cụm. Cụm thứ nhất thì các đồng chí đã rõ. Cụm thứ hai chúng ở chỗ
này, đúng chỗ này. Chỗ mái núi phía đông trông sang “Cổng trời “rất rõ. Cụm đó có bốn tên. Đó
đúng là trạm quan sát của chúng. Mỗi lần có xe, pháo hoặc người đi qua “Cổng trời“ là chúng cứ
bấm máy tanh tách như bấm phím đài để chuyển sóng thì lập tức có máy bay đến đánh xuống.
Chúng tôi đoán rằng không phải chúng dùng máy truyền tin mà có thể chúng dùng máy truyền tín
hiệu mới nhanh được như thế. Còn máy vô tuyến điện thoại thì chúng mở thường xuyên để liên
lạc với cụm thứ nhất - ngừng một tí, đội trưởng trinh sát nói tiếp - còn máy vô tuyến điện báo của
cụm thứ nhất chúng làm việc với một cái đài chưa rõ từ đâu thì cách hai giờ một phiên: 6-8-10-
12...Duy chỉ có phiên 12 giờ đến 3 giờ thì chúng kéo dài ra. Vâng, cả ngày chỉ có một phiên đó
thôi. Chúng tôi đã theo dõi, xác minh.
- Các đồng chí, thế là bọn biệt kích đã nằm gọn trong “túi” của ta. Đã đến lúc ta “thắt miệng
túi”. - Đồn trưởng Tân nói, anh rung rung đôi vai vạm vỡ, cặp lông mày rậm của anh nhíu lại, cái
cằm vuông bạnh ra, nửa người trên anh chồm về phía trước như sắp xông vào vồ lấy kẻ thù. - Sớm
ngày mai chúng ta sẽ thả mồi dử cá hớt mẻ đầu tiên...

Sau khi cán bộ đồn biên phòng thống nhất kế hoạch trận đánh, đồn trưởng trình bày luôn
phương án tiến vào diệt hang ổ chúng: Đội truy lùng của đồng chí Diễn đang bao vây tiến lên xung
phong giải quyết gọn bọn ở trạm quan sát. Đội trinh sát đặc công và nửa phân đội cơ động diệt
cụm chỉ huy ở sườn núi. Đến chỗ hạ mệnh lệnh chiến đấu và quyết tâm diệt địch, đồn trưởng căn
dặn:

- ... Khi vào hang ổ chúng, ta phải tránh giờ vô tuyến điện báo của chúng làm việc, tức là
phải hành động nhanh, gọn trong vòng từ 12 giờ đến 3 giờ, để đảm bảo công tác đánh địch sau
này, đề phòng chúng có thể gọi máy bay đến đánh phá và hốt cả bọn đi, phải bắt sống tên giữ máy,
phải chặn ngay đầu mối đường dây dẫn điện đến chỗ phát điện đề phòng những quả mìn còn sót
nổ.

Đồn trưởng ngừng lại, anh nhìn mọi người bằng cặp mắt thăm dò như muốn hỏi: “Như thế
đấy, các đồng chí xem đã được chưa”.

Trước khi kết thúc buổi họp, Chính ủy Kim đứng dậy, giọng anh rất vui:

- Trí tuệ tập thể là ban tham mưu sáng suốt nhất, giỏi nhất. Song, - anh giơ cuốn sổ nhỏ bìa
màu vàng điệp có hình trái tim đã hoen ố, nhớp nhúa mà đội trưởng trinh sát đưa về, nói:

- Các đồng chí, thế nào là tên biệt kích, lâu nay tôi cứ phân vân mãi. Nó theo giặc, phản lại
Tổ quốc, phản lại nhân dân hẳn là không sai. Nhưng cái chất, cái tâm trạng của nó thì nay tôi đọc
hết cái gọi là “nhật ký “của một tên sinh viên Đại học Văn khoa Sài Gòn đi làm biệt kích, tôi càng
hiểu rõ thêm được con người chúng nó. Điều này ta cũng cần biết...

Chính ủy Kim có nét riêng như thế. Anh rất muốn các chiến sĩ của anh hiểu sâu sắc về mục
đích chiến đấu của người chiến sĩ biên phòng. Anh cho công tác bảo vệ biên giới là một cuộc tiến
công quyết liệt vào kẻ thù về toàn diện, chứ không phải chỉ đơn thuần là phòng thủ. Theo anh,
người chiến sĩ ở chiến trường đào hầm là để tiến công chứ không phải để lẩn tránh. Ở đây, người
chiến sĩ công an vũ trang biên phòng canh gác, tuần tra là để tìm địch diệt địch, chứ không phải để
dọa địch, xua địch đi... nên anh nói rõ bản chất của mọi kẻ thù cho chiến sĩ biết...

- Chúng là một loại người bị bọn giặc Mỹ lừa phỉnh làm mê muội nên đã giống như thú
dữ. Chúng vượt qua cái thèm khát tầm thường của loài sinh vật. Các đồng chí ạ, như chúng viết
đây thì có lúc chúng cũng đã nghĩ rằng: chúng sinh ra là để làm người chồng, người cha, làm những
con người đúng với nghĩa của nó, chứ không phải để làm những thằng giặc. Thế nhưng tại sao và
vì ai mà ở miền Nam đất nước ta có ngót vạn tên biệt kích trở thành đồ tể biết mổ bụng, moi gan,
uống máu, và nay đang lẩn trốn trong rừng như những con sói. Chính giặc Mỹ đã dùng mọi thủ
đoạn hèn hạ tách những tên này ra khỏi cuộc sống con người, và nhen nhóm lên, kích động lên
trong tâm địa chúng lòng hận thù cách mạng, hận thù giai cấp, hận thù tôn giáo để chúng sử dụng.
Với một số khác thì chúng bắt buộc, lừa gạt, đến chỗ tự giác lìa bỏ nhân dân, gắn mình vào với
giặc... Các đồng chí, chính ủy nói chậm rãi, vẻ dịu hiền tỏa trên khuôn mặt anh- như thế là trận
giáp mặt với kẻ thù sắp tới chúng ta quyết nắm chắc phần thắng. Cần bắt gọn ; kiên quyết trừng trị
bọn ngoan cố.

Ba người dân đặt ba bao gạo nặng xuống đất trước những cặp mắt thèm thuồng, những nụ
cười hí hửng của bọn biệt kích. Ông Bằng trao cho bọn chúng một gói xôi đỗ xanh thơm phức và
một gói thịt lợn luộc béo ngậy, đã thái miếng. Bọn chúng tranh giành nhau rồi ngồi lên những sàn
lán, gốc cây, ăn. Chúng nhai nhóp nhép, chúng nuốt ừng ực, chúng tranh cướp nhau như những
con thú đói.

Tên huấn luyện viên nhồm nhoàm, đứng dạng chân một cách hách dịch, nhăn nhở hỏi ông
Bằng:

- Nè ông, mua được mấy ký?

- 260 ạ.

- 260 ký, tốt quá trời.

- Đêm qua chúng tôi đã chuyển cả ra giấu ở bên kia khe Kè. Các ông chừng mười người,
chúng tôi ba người nữa mang một chuyến thì vừa khéo...

- Nó quỵ hết thây mẹ rồi, còn đâu trời. Thôi bảy đứa đi.

- Sợ nặng quá, đường lại dốc ông huấn luyện viên à. - Anh Võng từ xa nói góp vào.

- Ráng lên vậy, ở nhà còn hai thằng canh máy, ba thằng kiếm món, ba thằng quỵ nằm ổ là
trơn rồi.- Hắn ngoảnh lại hỏi tên toán trưởng. - Phú, mày đi hay tao đi?

- Ông đi thì hơn - ông Bằng đỡ lời hắn- để ông còn tận mắt nhìn được đường sá, chứ cháu
nó đi không may có người gặp nó, nhận ra mặt nó thì hỏng. Số bà con lên đây khai hoang có nhiều
người đã biết cháu nó!

Lưỡng lự một tí, đôi mắt tên biệt kích đau đáu nhìn ra xa rồi hắn hạ giọng:

- Ông già nói phải. Mày ở nhà canh máy, tao đi, Phú nghe.

- Ông già - hắn quay lại phía ông Bằng - định lúc nào đi vậy?

- Đi ngay thì trưa về. Nếu để trễ sợ người đi rừng nhìn thấy chỗ giấu gạo...

Tên biệt kích đứng im một lát. Hai cánh mũi hếch ngược của hắn nhay nháy. Rồi, hắn
giương cặp mắt xếch trên cái mặt im lìm nhìn ông Bằng, ông Tơ, anh Võng. Ánh mắt hắn dò xét.
- Không. Các ông nội trú lại đây mai đi!

Nói xong, hắn nhìn thẳng vào mặt ông Bằng.- Trong lòng ông Bằng lo cho kế hoạch đã sắp
xếp bị lỡ, anh em biên phòng phải chờ, nhưng bề ngoài, nét mặt ông vẫn giữ vẻ bình thản. Ông
cười:

- Tùy các ông.

Những hút gió rừng lướt nhanh từ lá này sang cành khác như những đợt sóng. Lòng dạ ông
Bằng cũng chộn rộn, xốn xang. Ông cố kìm nén.

Tên biệt kích vẫn đứng yên.

Sự cả tin chen lẫn sự ngờ vực dâng lên trong lòng hắn.

“Những người dân Bắc Việt này, những việc làm của chúng mấy ngày qua cộng lực với
mình đã đủ để mình tin chưa? Nhưng ngài Đại tá Lam Sơn ở phủ Tổng thống có nói rằng 65 phần
trăm dân Bắc Việt chán ghét và chống lại Cộng sản, rất thành tâm như giúp những chiến sĩ cộng
hòa ra giải phóng họ kia mà... Rồi mùi thơm của miếng đùi gà hôm nọ ông Bằng biếu, bát cơm
gạo Bắc Việt ông Bằng chuyển vào, và ông là chú ruột của thằng toán trưởng...”. Những điều đó
đã làm cho hắn tăng thêm lòng tin. Hắn quyết định:

- Thôi các ông nội ơi, đi vác cái về nhậu!

Lát sau, cả bảy tên biệt kích đóng giả chiến sĩ biên phòng mang tiểu liên đi theo ba người
dân. Tên huấn luyện viên ranh ma, và tên toán phó gian giảo không để cả bọn đi theo đường mà
ông Bằng và hai người dẫn. Hắn dùng địa bàn chiếu hướng bản đồ rồi bắt tất cả đi băng rừng. Thế
nhưng gạo để phía bên kia khe Kè nên hắn không có cách nào tránh lội qua. Mà lội qua thì chỉ có
đoạn khe chỗ ông Bằng và hai người dẫn mới đi được, bởi ở đó cạn hơn, nước đỡ chảy...

Gần tụt xuống bờ khe, tên huấn luyện viên ra lệnh cho cả bọn dừng lại. Hắn nhìn nhìn, ngó
ngó bốn bên. Nhưng trước mặt hắn dòng khe Kè vắng ngắt, làn nước sẫm màu trôi nhanh dưới bầu
trời thu đầy mây. Gió thổi, mặt suối gợn lên làn sóng nhỏ, rồi xô vào một hòn đá nổi lên giữa dòng.
Đến đó nước cuộn lên như muốn nhận chìm những rác rưởi, váng bọt ô uế của rừng sâu trôi về...
Cả bọn sẽ đi qua đó. Và bờ bên kia, trong đám cỏ mật, cỏ lác, đám cây rì rì, bầy chim rúc rích vẻ
bình yên. Phía sau đám cây ấy, thấp thoáng một con đường mòn đi vào xóm “sơ tán”. Thấy không
có gì đáng ngờ vực, cả bọn kéo xuống khe Kè để vượt qua.

- Khoan, các ông nghỉ một lát đã. Hôm qua mưa to nước về nhiều, lát nữa ta lại mang nặng.
Dò kỹ lại đã. - Nói xong, ông Bằng và anh Võng cởi áo quần dài lội xuống suối. Vốn họ đã qua
dòng khe như cơm bữa, nhưng họ muốn cho tên huấn luyện viên tin... Dò đường xong, hai người
trở lại. Nước đến lưng quần, chỗ sâu cũng chỉ đến quá ngực. Tên huấn luyện viên nói với cả bọn:

- Bốn thằng sang trước coi.


- Vâng, tôi đưa bốn ông sang. Các ông bỏ súng vào cái bao ni-lông này tôi mang cho, tôi
quen đường. Và để các ông tắm cho mát...

Cả bốn tên biệt kích lâu nay ẩn náu trong rừng như bầy thú giấu mặt nên dòng khe nước
trong xanh dạt dào mát mẻ này hấp dẫn chúng lắm. Chúng nghe anh Võng, bỏ súng chung vào một
bao ni-lông. Anh Võng vác bao đi, vẻ thận trọng mỗi lúc một cách xa bọn chúng. Chúng vừa lội
vừa đùa nhau, rồi thay nhau vẫy vùng, lặn ngụp, kỳ cọ.

- Thôi, mời ông huấn luyện viên và các ông sang... xin các ông bỏ súng vào đây để cùng
tắm cho mát - Ông Bằng nói với chúng rồi ngửa túi ni-lông ra, tên toán phó và tên biệt kích còn
lại thấy bọn kia được tắm khoái lắm nên ngoan ngoãn bỏ súng vào, còn tên huấn luyện viên thì gạt
đi:

- Không, súng tôi, tôi cầm.

Ông Bằng vác bao súng lội nhanh với ông Tơ ra giữa khe, còn tên huấn luyện viên vác
súng lên vai đi sau cùng.

Cả lũ biệt kích lội xổm xoảm, kỳ cọ cho nhau ở giữa lòng khe.

Một hòi còi ré lên: lệnh xung phong. Các chiến sĩ biên phòng lê tuốt trần, đạp cây ào ào
như cơn lốc từ hai bờ khe xông ra. Bọn biệt kích sững sờ, đứng như bị đá cột vào chân giữa lòng
khe. Theo lệnh của Đồn trưởng Tân, các chiến sĩ lần lượt cho từng đứa đi vào bờ. Những bộ mặt
trước đây còn lưng cưng, vểnh lên như lá rừng khô, giờ đây tái ngoét, run rẩy. Chúng giơ tay lên
trời, mắt bạc phếch ngơ ngác nhìn. Hai cái hố mắt trổ bằng chàm trong chiếc đầu lâu nằm giữa hai
khúc xương bắt chéo trên ngực chúng cũng như gục xuống.

Tên huấn luyện viên như chết đứng giữa khe nước chảy. Mặt hắn vừa nhăn, vừa mếu, mồm
hắn rên rỉ một cách thảm hại. Tay hắn vẫn cầm khẩu súng nhưng như đã chết cứng đi, không động
đậy... Hắn đứng trơ đó, cái bóng đen ngòm rung rung, ngả dài nhùng nhằng trên mặt nước. Dòng
nước như muốn cuốn phăng đi, nhưng con người hắn cố níu lấy như có một sự giằng giật giữa số
phận tội lỗi và sự trừng phạt. Hắn vẫn đứng đó, tên học viên xuất sắc của trường “huấn luyện biệt
kích” do bọn cố vấn Mỹ dày công đào luyện. Hắn cứ đinh ninh là được số phận nuông chiều và
đường công danh như mới bắt đầu. Giờ đây, hắn rầu rĩ, uất ức, bải hoải. Rồi, đôi cánh tay hắn bị
trói gập ra sau. Lát sau, hắn ngồi bẹp bên bụi cây cứt chó. Mắt hắn nhìn về phía núi xa, cái nhìn
hối tiếc của một con thú dữ sa bẫy, nhớ rừng. Trong đầu hắn bỗng lóe một sự hằn học, ghen tỵ với
những thằng huấn luyện viên không phải dẫn xác ra Bắc: “Đ.. mẹ tụi nó, mình thì bỏ xác cho tụi
nó ở trong ấy được sung sướng. Tụi nó sẽ được hưởng những cái mình không bao giờ dám nghĩ
tới nữa..”. Rồi, bất giác hắn rùng mình run sợ và khâm phục sự khôn ngoan kín đáo của ba người
dân. Trong khoảnh khắc, hắn thấy trước mắt hắn như mở ra một vực thẳm đen ngòm. Cuộc đời
hắn, cả ước mơ của hắn và linh hồn hắn đắm chìm trong đó.

- Đứng dậy! Đồng chí chỉ huy chúng tôi gặp anh.

Câu nói mạnh mẽ của một chiến sĩ biên phòng cắt đứt dòng suy nghĩ của hắn. Hắn đứng
dậy, hơi lảo đảo. Hắn như thấy không còn hy vọng vào điều gì nữa rồi. Hắn ngật ngưỡng đi. Tên
biệt kích đầu sỏ đứng trước đồn trưởng. Hắn lấm lét nhìn người chỉ huy đồn biên phòng rồi mặt
hắn cưng cưng.

- Cho anh ngồi xuống.

Đồn trưởng nhìn thẳng vào mặt hắn. Giọng anh nghiêm khắc:

- Anh là gì trong toán biệt kích?

- Thưa ông, tôi là... là...

- Là gì?

- Là huấn luyện viên của toán

- Toán anh có bao nhiêu người?

- Có... mười chín ạ

- Hắn trả lời vẻ thờ ơ. Không phải hắn quá mệt mỏi mà chính vì, theo hắn vì “thua trí nên
phải sa cơ” chứ chưa phải thua trong một cuộc đọ sức. Nên chút “tự cường”, sự tự cường hão
huyền từng làm hắn chếnh choáng như say rượu mạnh, chưa gục trong hắn.

Đồng chí đồn trưởng đã thấy được điều đó. Anh tự dằn lòng, “được, cứ nhũn thêm chút
nữa, rồi mày sẽ phải phun ra”. Đôi mắt đồn trưởng sáng lên một cách thông minh, nghiêm khắc:

- Anh khai rõ ràng nhiệm vụ của toán anh.

- Thưa ông, nhiệm vụ à? - Hắn trả lời bằng một giọng lừng khừng. - Tôi chỉ chấp hành
mệnh lệnh của cấp trên. Cấp dưới nào chả vậy. Đứng vào hoàn cảnh ông là cấp dưới cũng thế. Mọi
thứ khác tôi không hề biết gì hết. Tôi như một cái máy do người khác điều khiển. Và, thưa ông chỉ
huy nếu có tội thì việc đó xin ông biết cho rằng không phải do tôi... Cặp môi hắn giành ra. Cái mặt
lắm thịt của hắn lì lợm một cách ngoan cố.

Đồn trưởng nhìn đồng hồ. Cái kim giờ đã chỉ đến con số 10 như giục anh phải nhanh lên.
Anh đứng dậy. Anh nói đanh gọn như một vị chánh án đang xét xử tên biệt kích trước phiên tòa.

- Anh biết anh phạm tội gì không? Tội gián điệp biệt kích, làm tay sai cho giặc phản Tổ
quốc, phản nhân dân. Theo pháp luật của nước Việt Nam, tội đó phải xử bắn. Phải xử bắn!

Hai chiến sĩ bước tới, trói hắn lại, bịt mặt và lôi xềnh xệch đi. Bỗng hắn thở dốc lên rồi rên
rỉ. Hắn run sợ. Hắn ngoảnh lại phía đồng chí đồn trưởng nói bằng một thứ giọng van lơn, khuất
phục:

- Thưa ông, tôi bị tội chết ư? Lạy Chúa. Tôi chấp hành lệnh của ngài cố vấn.
- Anh nên biết rằng anh hãy còn đủ thì giờ suy nghĩ và hành động để tự cứu mình. Anh
khai báo rõ ràng, thật thà những điều chúng tôi cần biết và lập công chuộc tôi anh sẽ được sống.

- Thưa ông, thưa ông tôi xin khai báo hết. - Hắn nói như thì thào.

- Các đồng chí cho nó trở lại đây.

Cái xác to lớn của tên biệt kích như nhểu ra. Hắn cúi mặt khuất phục trước đồng chí đồn
trưởng.

- Này, cho anh ngồi xuống. Anh nghe đây. Tôi biết anh đang còn là một người có ít nhiều
lương tri. Nhưng giặc Mỹ đã biến các anh thành những tên chống lại nhân dân, gây nên nhiều tội
ác, có phải thế không? Có lúc tôi tự hỏi, các anh có còn là người Việt Nam nữa hay không? Tội
anh đứng đầu mọi tội chết. Nhưng nếu anh thật lòng khai báo và lập công chuộc tội sẽ được khoan
hồng.

- Vâng, thưa ông chỉ huy, tôi muốn được ...- Hắn ấp úng bật ra những tiếng nửa chừng
chẳng có nghĩa gì cả.

- Anh muốn gì?

- Thưa ông, tôi muốn được hỏi.

- Cho phép anh hỏi.

- Thưa ông, quả là tôi chưa hiểu ở Bắc Việt những người Cộng sản đối xử với những người
công giáo như thế nào? Ông tha thứ cho. Thưa ông, tôi là một người theo Đức Chúa.

- Rồi anh sẽ hiểu, nhưng tôi nói vắn tắt với anh thế này. Người Việt Nam là anh em một
nhà, cũng chung một bào thai của người mẹ nên gọi nhau là đồng bào. Các dân tộc, các tôn giáo
đều bình đẳng trong khối đại đoàn kết dân tộc... Anh thấy đấy giặc Mỹ xâm lược, ném bom, giết
người, đốt làng ở Việt Nam. Chúng không ném riêng loại bom giết những người Cộng sản. Bom
đạn chúng không trừ một ai, thì tất cả nhân dân Việt Nam không kể là Cộng sản, Thiên Chúa giáo,
hoặc Phật giáo... đều một lòng một dạ với nhau đánh Mỹ, đánh đến thắng lợi hoàn toàn. Có vậy
thôi.

Hắn cúi mặt xuống suy nghĩ. Rồi cặp mắt lo lắng, rầu rĩ ấy mở to nhìn vào khoảng rừng
xa. Hình như hắn đã cảm thấy quan hệ giữa cuộc đời tội lỗi của hắn với sự trừng phạt khủng khiếp
đang như lưỡi búa sắp giáng xuống đầu hắn.

- Anh đã xâm nhập vào vùng rừng miền Bắc bằng cách nào?

- Thưa ông, cả toán tôi đi bằng máy bay lên thẳng HH.3.

- HH.3?
- Vâng, đó là loại máy bay của không lực Hoa Kỳ, có hệ thống tiếp dầu trên không để bay
được xa, chở lực lượng đặc biệt vào sâu trong đất Bắc Việt. Loại đó chở được từ hai mươi nhăm
đến ba mươi người. Toán tôi chỉ có mười chín nhưng có máy nặng, có hàng nhiều nên ngài cố vấn
cho đi loại đó.

- Anh nói tiếp.

- Thưa ông chỉ huy, vào một buổi chiều giáp tối, chiếc HH.3 chở chúng tôi, bay cực thấp
luồn qua các khe núi của Ai Lao rồi bay quật vào Bắc Việt và đỗ xuống một bãi cỏ. Chúng tôi
xuống đó rồi di chuyển nhanh đến chỗ đã định trên bản đồ. Chúng tôi vừa đi vừa quay lại xóa hết
dấu vết. Trong lúc đó có nhiều phi đội của không lực Hoa Kỳ oanh kích vùng lân cận để đánh lạc
hướng các ông. Thưa ông, thú thật với ông, giờ phút đặt chân xuống rừng Bắc Việt là khủng khiếp
nhất trong đời tôi!

- Anh hãy nói rõ nhiệm vụ của toán anh.

- Thưa ông chỉ huy, toán tôi do tên Phú làm toán trưởng, hắn đang ở trong rừng, còn tôi chỉ
là huấn luyện viên. Việc chính của tôi ra đây là để kiểm tra xem xét tụi ấy rồi lại về Sài Gòn. Và
thưa ông chỉ huy, ông biết đấy, đây là một cánh rừng không vui với chúng tôi. Tôi đau đớn nói ra
điều ấy. Chúng tôi đã tung ra đây hàng chục toán rồi, nhưng đều biến sạch trơn cả. Chúng tôi đã
lỗ vốn to. Lần này tôi được cử ra xem xét điều ấy.

- Tôi hỏi anh về trách nhiệm toán này, anh phải nói rõ.

- Thưa ông chỉ huy, - hắn lấm lét nhìn điếu thuốc đồn trưởng đang hút. Biết ý, đồng chí
đưa cho hắn một điếu và bao diêm, - trọng trách toán này là kiểm soát một cái yết hầu ở con đường
mà người Mỹ gọi là cái mốc gối đầu của đường mòn Hồ Chí Minh, rồi báo về cho không lực đến
oanh kích, và lập hậu cứ...

- Tôi muốn biết các anh đã thực hiện những công việc đó như thế nào?

- Thưa ông chỉ huy, chúng tôi đã làm được chu toàn việc kiểm soát cái yết hầu đó. Mỗi lần
thấy xe và người của các ông đi qua yết hầu là chúng tôi báo cho không lực đến oanh kích. Còn
lập hậu cứ thì thưa ông chỉ huy chúng tôi mới biết có ba người dân đi làm rừng. Nhưng rủi ro, là
ba người đó hình như là của các ông... Còn, chúng tôi được lệnh đón một vị cấp trên vị đó đến sẽ
giúp chúng tôi mọi mặt, kể cả mặt khó khăn về lương thực. Nhưng chúng tôi chưa gặp vị đó.

Đồng chí đồn trưởng mỉm cười mỉa mai: “Có lẽ thằng chết hôm nọ là cấp trên bọn này”.
Anh hỏi tiếp:

- Các anh dùng phương tiện gì để nhìn thấy xe, người trong đêm vào báo cho không quân?

- Thưa ông chỉ huy, ở trạm quan sát chúng tôi dùng kính tuyến hồng ngoại để nhìn, và máy
truyền tín hiệu báo đi cho nhanh.

- Anh hãy khai rõ hơn!


- Vâng, mỗi lần có cái gì xuất hiện ở vùng yết hầu, chúng tôi bấm nút để sóng điện truyền
tín hiệu về sở chỉ huy không lực các sân bay. Các ngài ở đó sẽ quyết định phái loại máy bay gì,
mang loại vũ khí gì đến oanh kích cho hữu hiệu thì tuỳ họ.

- Các anh dùng máy truyền tin như thế nào?

- Thưa ông chỉ huy, từ trạm quan sát xuống chỗ tôi ở thì dùng máy vô tuyến điện thoại nói
suốt ngày, còn liên lạc với Sài Gòn thì dùng “moóc”, chỉ chỗ tôi ở có máy...

Sau khi hỏi những điều cần thiết để phục vụ cho kế hoạch của trận chiến đấu tới, đồn trưởng
cho hắn thêm một điếu thuốc, rồi anh nói:

- Bây giờ anh phải lập công chuộc tội!

- Dạ, xin tuân lời ông chỉ huy.

- Anh phải gọi cả bọn ra hàng...

- Thưa ông! Tôi vào ạ! Hắn giương cặp mắt nhìn đồn trưởng một cách thăm dò. “Ôi, được
thế thì may lắm, số phận còn nuông chiều mình đấy!”.

- Không! Anh phải viết thư gọi cả bọn ra.

Mặt hắn ỉu xìu tắt hi vọng. Một lát sau, hắn mới trả lời:

- Dạ - Tiếng “dạ” trở nên nặng nề, uể oải.

Một chiến sĩ đưa ra cho hắn tờ giấy, cái bút và một chiếc ghế nhỏ để làm bàn. Đồn trưởng
bảo những điều hắn cần viết. Tên biệt kích kê tờ giấy trên mặt ghế, hắn cúi gò xuống gần như phủ
phục, viết. Đồn trưởng bảo hắn viết ra, rõ ràng và ký tên thật ở dưới. Xong, anh bảo hắn đọc lại.
Giọng hắn run run:

“... Tôi là huấn luyện viên Luyện, gửi các bạn trong toán. Lâu nay các bạn đã tin tôi, nghe
tôi và làm theo tôi, giờ đây cũng mong các bạn hãy tin tôi, nghe tôi và làm theo tôi. Chúng ta đừng
tin vào sự lừa dối của người Mỹ nữa! Họ tiếp tế không đầy đủ cho chúng ta, máy bay ném bừa
hàng xuống rừng, ta không tài nào nhặt được. Giờ đây chúng ta đói, ốm và lâm vào tình trạng vô
cùng khốn quẫn. Một sự tàn nhẫn hơn nữa là chúng ta đã bị bao vây chặt và đang bị lùng riết.
Chúng ta không còn đường thứ ba nào thoát trước hai con đường: Bị diệt trong rừng hoặc ra hàng
để được sống. Ra đây, tôi đã thấy rõ sự thật đó. Lương tâm tôi đã kêu gọi tôi đi theo con đường
thứ hai. Tôi đã ra đầu hàng cùng với sáu anh em ta và được đối xử rất tử tế. Tôi mong các bạn hãy
nghe tôi,làm theo tôi. Nếu các bạn không nghe tôi, cứ khăng khăng tìm một lối khác mong để thoát
thân thì lối đó chỉ dẫn các bạn bỏ xác trong lưới bao vây. Vậy, cách khôn ngoan nhất của chúng ta
lúc này là ra hàng để được sống như tôi đã làm. Các bạn hãy hành động gấp đi...

- Huấn luyện viên


- Luyện

- "...”

- Này, anh có cái gì làm tin cho đồng bọn? - Đồn trưởng hỏi hắn.

- Không biết... trong túi áo...

Các thứ bao, ví trong túi hắn được mang đến. Đồn trưởng giở xem từng tấm ảnh trong tập
ảnh của hắn. Hắn run lên, run đến nỗi toát mồ hôi sinh ngáp vặt. Những ảnh chụp phụ nữ trần
truồng trông đến ghê tởm rồi đến tập ảnh “kỷ niệm” của hắn.

Ở giữa tập ảnh của hắn có một cái gì cong cong quăn lại và đen sẫm như cánh mộc nhĩ khô.
Cái đó được hắn cất kỹ càng như một kỷ vật quý giá, trong một bao ni-lông nhỏ. Đồn trưởng kéo
thẳng ra xem. Anh đọc chữ đề trên vật đó: “chiến tích 12-6-1965”.

- Đây là cái gì? - Đồn trưởng hỏi hắn.

- Thưa ông, thưa ông... là... là...

- Cái gì, anh nói nhanh lên?

- Cái tai - mặt hắn xám ngoét như tro bếp.

- Sao anh lại đề ngày tháng vào đây.

- Đó là ngày tôi mới về... là...

- À, ra thế, là một tội ác đầu tiên của anh chứ gì?

...

- Thôi được rồi, cầm cái này đi.

Ông Bằng kẹp cái tai vào trong lá thư đã gấp, bỏ vào túi áo. Ông lại cùng anh Võng, ông
Tơ và bảy “biệt kích” ăn mặc đúng như lúc đi ra, lên núi.

- Phải chuẩn bị hai khả năng. Đồng chí Cường kiểm tra lại vũ khí rồi xuất phát. Đúng 12
giờ 15 tức là sau khi đài truyền tin của chúng làm việc thì các đồng chí hành động... - giọng đồn
trưởng trang nghiêm.

Ông Bằng và bảy “biệt kích” dừng lại ở ngoài xa hàng rào mìn để phối hợp thêm kế hoạch
chiến đấu với các chiến sĩ trinh sát đặc công đang vây. Đội trưởng Cường có vóc người cao lớn
mặc bộ quần áo của tên huấn luyện viên, chật ních. Anh gặp Nguyệt, đội phó, hai người ôm nhau
cười:

- Nhiệm vụ cụ thể của các cậu là khi chúng mình hành động, tên Phú đang xem thư, các
cậu phải xông lên chiếm ngay lấy hang đá, giữ nguyên vẹn điện đài, bắt sống tên sử dụng. Còn
mình sẽ “bảo vệ” tên toán trưởng. Cậu chiến sĩ cạnh mình sẽ cắt dây phát điện...

Ông Bằng và bảy “biệt kích” đi lên đồi.

Ông Bằng, ông Tơ và anh Võng theo con đường mòn vượt qua hàng rào mìn di thẳng vào
lán giữa.

- Anh Phú ơi! Có thư ông huấn luyện viên. - Ông Bằng gọi.

- Sao, ông ấy chưa về à? - Hắn từ trong cái lán lợp vải nhựa có vẽ hình cây cối nom như
một bụi rậm, ló cổ ra hỏi. Trông hắn hệt như một con cáo đen từ trong bụi chui ra.

- Ông ấy ở lại sau, còn các ông vác nặng đang nghỉ... - Ông Bằng bước lên trao cái thư gói
tai người cho tên Phú. Tên toán trưởng biệt kích mở thư, nhìn cái tai. Hắn giật mình. Hắn ngước
lên. Cặp mắt giảo hoạt của hắn lướt xong trang thư rồi long lên, đỏ ngầu những tia máu, lườm ông
Bằng...

Thấy toán trưởng khác ý, ba tên ốm nằm trong lán ngóc cổ dậy nhìn và cả bốn tên còn lại
đều chạy đến nghiêng ngó lá thư qua vai tên Phú.

- Ụ... mẹ, mắc mưu Cộng sản rồi tụi bay ơi... - Hắn nghiến răng hét lên một cách uất ức và
rút súng... Mấy tên kia chạy tản ra, hốt hoảng. Nhưng tình huống xảy ra đúng với dự đoán của ta.
Lá thư đã hút bọn chúng lại, tạo ra thời cơ thuận lợi để các chiến sĩ ta xông vào chiếm hết những
vị trí có lợi. Mặt chúng biến sắc vì thấy toàn người lạ chĩa mũi súng vào người chúng.

- “Bốp”... “Kạch”... khẩu súng ngắn trong tay tên Phú bị hất văng lên quay tròn rồi va vào
hòn đá dưới đất. Cường đánh luôn miếng võ quyết định... “Huỵch” tên biệt kích ngã lộn nhào, nằm
sõng soài. Mặt hắn nhăn nhó, mồm mếu xệch. Đôi mắt ti hí của hắn hấp háy nhìn Cường, nhìn bộ
quần áo Cường mặc. Như đã hiểu ra tất cả, hắn bắt đầu rên rỉ.

- Nằm yên, hàng thì sống, chống thì chết!

Tên toán trưởng biệt kích nằm thườn thượt, nhắm nghiền mắt lại. Cùng lúc đó, Đội phó
Nguyệt đã đứng chặn lấy cửa hang đá. Hai tên sử dụng vô tuyến điện và máy phát điện cho mìn
nổ đứng run rẩy giơ tay lên trời trước mũi súng của anh.

Trong chốc lát, các chiến sĩ đã chiếm hết vũ khí, điện đài giải quyết gọn ổ biệt kích.

Ba tên đang sốt rét được miễn trói. Năm tên khác bị trói gô. Tất cả ngồi thành một đống
đen ngòm dưới gốc cây.
- Ông Bằng! - Tên Phú nhìn ông với ánh mắt uất ức oán trách, rồi giọng hắn trở nên mếu
máo.- Tôi, tôi không ngờ ông lại dẫn họ đến đây. Ông mở miệng nói: máu loãng còn hơn nước lã
như thế đấy ư!

Nói xong, mắt hắn tối sầm lại. Hắn nghĩ cái chết bày ra trước mắt hắn và tất cả những gì
gần gũi trong cuộc đời làm biệt kích của hắn cũng sẽ chết theo.

- Mày là biệt kích, mày đi theo giặc - nét mặt ông Bằng rắn đanh - thì bất kỳ người Việt
Nam nào cũng có thể bắt mày, giết mày. Nhưng thôi, - ông hạ giọng, - đánh người chạy đi, chứ
không ai đánh người chạy lại nếu mày biết điều Phú ạ! Cành gẫy thì ấp vào cây, lá vàng thì rụng
về cội...

Trong giây lát, linh tính báo cho hắn biết rằng đây có lẽ là phút cuối cùng của đời hắn.
Bỗng trước mắt hắn như con gió lốc cuốn đến, cây rừng ngả nghiêng mây đen trùm lấy hắn. Và
đất dưới chỗ hắn ngồi như sụt xuống tận âm ti... Những chặng đường trong cuộc đời nhơ nhớp của
hắn kéo về chắp vá lộn xộn trong đầu hắn... Một đêm mưa rét, hắn giả vờ xin đi ngoài rồi lẩn vào
đám cỏ tranh trốn khỏi trại cải tạo. Hắn chiếu theo đường phía tây băng rừng vượt biên giới. Hắn
vào Sài Gòn xin vào học trại huấn luyện lực lượng đặc biệt...

... Với cái vốn chính trị “tù của Cộng sản” và qua những lần đi thực tập “bình định”, hắn
đã tỏ ra xuất sắc có nhiều chiến tích trong việc moi hầm, bắn giết du kích nên được phong làm
toán trưởng. Nhiều lần hắn đã thầm nghĩ: “ôi, cuộc đời mình oanh liệt có khác gì Giêm-đin, Xa-
tơ-ra-găng anh hùng của Hoa Kỳ đâu...!

Một chiến sĩ ở đội truy tìm của Diễn mặt nhễ nhại mồ hôi, quần áo ướt đẫm như vừa lội
nước lên, anh chạy đi tìm chính ủy. Anh báo cáo với chính ủy và đồn trưởng biên phòng:

- Theo lệnh của đội trưởng, tôi xin báo cáo với chính ủy, đội chúng tôi đã tổ chức tiến công
đúng kế hoạch và chiếm rất gọn trạm quan sát...

- Rất tốt...

- Báo cáo chính ủy nhưng lúc ấy trong trạm quan sát chỉ còn một tên. Ba tên khác đi đào
củ rừng và câu cá về thấy động đã bỏ chạy.

- Tổ chức truy lùng ngay - Chính uỷ nói với đồn trưởng.

- Báo cáo chính ủy, theo tôi lấy đội truy lùng của đồng chí Diễn làm mũi chủ yếu, có chiến
sĩ Khúc phụ trách con “Mũi tên” đi theo. Còn phái hai đội cơ động “vu hồi” và “phong toả” đường
biên giới - Đồn trưởng Tân giơ hai cánh tay to lớn ra phía trước rồi vòng lại như để minh hoạ cho
kế hoạch của mình.

- Đúng, tất cả lên đường ngay. Đội cơ động bằng bất kỳ giá nào trong đêm nay cũng phải
chốt lấy đường biên giới. Vì ban đêm địch có thể nghỉ lại...
Cấp uỷ Đảng họp bên tấm bản đồ. Rồi, các tổ Đảng hội ý chớp nhoáng. Đôi mắt các chiến
sĩ truy lùng căng tròn một cách kiên cường, ngời ánh thép nhìn về mái núi phía tây: phía kẻ địch
đang chạy trốn.

- Bắt vết! - Khúc ra lệnh rồi anh nới dây cương, con “Mũi tên” hít ngửi những dấu giày
mới in trên rêu đá và hai nửa ống quần bà ba đen chúng cắt quăng lại. Con “Mũi tên” gầm gừ lồng
lên, xông tới. Khúc lên đạn súng ngắn, anh luồn lách trong từng khóm cây theo sát con vật. Sau
anh là đội trưởng Diễn rồi đến các chiến sĩ. Tất cả theo đội hình hàng dọc như một mũi tên xuyên
cây rừng lao về phía trước. Họ hầu như không hề biết trên đầu họ cơn dông đang diễn ra. Sấm
chớp nổ liên hồi trên núi cao, khiến những đám mây là là trên thung lũng cuộn trào lên như sóng
biển. Mưa xối xả. Khúc vuốt nước trên mặt mà chỉ thấy đội trưởng Diễn loáng thoáng trong mưa.
Rồi trời chạng vạng. Rồi nhọ mặt người.

- Báo cáo đội trưởng, tối quá.

Diễn nhìn ra xung quanh. Anh bứt rứt trong người, vì quyết tâm của anh không thể khắc
phục được tình hình trước mắt: đêm tối

Cũng lúc ấy, dưới những tầu lá cọ như cái tán con, ba tên biệt kích ngồi nướng củ mài.
Chúng tranh nhau ăn nhồm nhoàm, mồm và tay đen nhẻm giống như bầy chồn mực.

- Nè Hai nè, mầy coi liệu Cộng sản có rượt theo tụi mình không? - Tên biệt kích có nét mặt
gầy guộc, hai đuôi mắt xếch ngược một cách láu cá và cái sẹo láng dài như bôi một vệt mỡ ở quai
hàm, nhét nốt mủm củ mài vào cái mồm đói khát rồi hỏi tên kia.

- Thưa ông toán phó Khoa - tên Hai trả lời- nếu ông đi bố gặp Việt cộng chạy miết như
vậy, liệu ông có rượt riết không?

- Ụ... mẹ, thằng này hỏi lạ mầy. Nộp một cái tai được ngài cố vấn thưởng 5.000 đồng sao
bỏ hoài mầy. Và nếu mầy cứ biết cách làm, mầy còn được thưởng cả hai tai một vạn đồng, tha hồ
xài.

- Đúng rồi - tên ngồi ăn nhồm nhoàm phía bên kia bếp lửa góp chuyện với vẻ thành thạo-
bẻ ngửa tai ra, uốn đi, là phía trong cho trơn như phía ngoài rồi nói tai nào chả được. Hai tai của
một người thành hai tai của hai người ngay... có chi khó. - Hắn ngoảnh về tên Hai. - Cái bóp ni-
lông mày bọc tai đi nộp, mày sẽ nhận được mười bóp như thế tiền thưởng.

- Thưa ông toán phó, số phận ta rồi ra sao? Ngài cố vấn bảo ta ra bám con đường săn Cộng
sản; nay ta trở thành những con thú bị Cộng sản săn.

- Thằng Hai, mày nói lạ! Cỏ dãy Trường Sơn này cho cháy thì Cộng sản cũng đừng hòng
bắt được ta. Ta sẽ sang đất Ai Lao. Ở đó, ta sẽ sống như những ông hoàng. Mày có biết không, có
bao nhiêu cụm tình báo, nhóm chỉ huy của ta nằm ở đất Ai Lao? - Hắn nhún môi trịch thượng. -
Họ sẽ đón ta như đón những người anh hùng trở về.
Tên Hai chép miệng vẻ ngán ngẩm. Hắn xoay người hơ phía lưng vào bếp lửa. Hơi nước ở
bộ quần áo ướt trong người hắn bốc lên tựa hồ như cái “khí phách yêng hùng” mà thằng toán phó
nhen lên trong cái tâm hồn tội lỗi mù quáng của hắn đang biến thành khói bay đi... Hắn ngồi bó
gối gục cái mặt âu sầu xuống, vùi trong cặp đùi. Hắn như có tâm trạng của người đang hốt hoảng
bơi những sải tay rã rời trong cái biển thất vọng, đen ngòm sâu thẳm. Tự nhiên hắn rên rỉ, hắn
không tin vào gì nữa.

- Thôi, ông toán phó ơi đừng có hò voi bắn sung sậy nữa! Cái chết ngập đến mang tai rồi.
Khi đang có điện đài liên lạc được còn không ăn ai, bây giờ ta bơ vơ giữa rừng như con thú lạc...

- Ủa, thắng Hai, mày non gan quá xá. Trễ nhất là chiều mai ta sẽ sang được đất Ai Lao.
Mưa mau hột thế này cha nó chết nó cũng chẳng rượt. - Hắn bạnh hai quai hàm ra. Cái sẹo láng
bóng ửng lên vì ánh lửa. Lâu nay, hắn thường tự hào về cái sẹo chết hụt của hắn. Hắn coi đó là
một chiến tích chống Cộng sản hồi hắn còn là binh bét một G.M (binh đoàn cơ động) của quân đội
Pháp...

- Thôi ông toán phó ạ. Lúc đêm tàn, ngày rạng ta phải tìm cách đi thôi. Ông chết, vợ con
ông còn có chỗ nhờ, bố ông là quan to ở Nha chiêu hồi. Còn tôi, tôi chết vợ con tôi... - Nói đến đó,
hắn bàng hoàng run rẩy như người hấp hối.

- Mày nói cách nào? - Tên toán phó Khoa trố mắt nhìn tên Hai, hỏi lại.

- Thưa ông, cách giản dị nhưng tàn nhẫn đối với chúng ta là ra xin... hàng để được sống.

- Ra hàng, hực... Mày điên rồi hả, Hai? - Giọng hắn đe nẹt.

- Hàng, may ra...

Tên toán phó nhìn tên Hai , đôi mắt xếch ngược của hắn như phát ra những mũi lao nhọn
hoắt, thâm hiểm chết người. Hắn gật đầu nhè nhẹ: “À ra vậy, mày đã vậy thì tao có cách”.

Chúng trải những lá cọ ra quanh đống lửa, ba thằng nằm quay đầu vào, mũi súng trở ra.
Đêm. Tên toán phó đến để ngón tay trỏ lên mi mắt trên của tên Hai một lúc lâu. Thấy tròng mắt
tên Hai không đảo qua, đảo lại như người giả vờ ngủ nữa, hắn máy thằng kia dậy. Hai đứa đi ra xa
bếp lửa.

- Mày thấy không? Thằng Hai muốn ra hàng Cộng sản. Để cho hắn ra hàng là tụi ta tự giết
mình. Mày nghĩ sao? - Tên toán phó bức bách.

- Ta đã bị lộ, bị ráp, có lẽ đã bị bắt hết rồi. Thằng Hai mà ra hàng nữa thì khó thoát...

- Ụ... mẹ, khử - tên toán phó khoát mạnh cánh tay làm động tác đâm dao găm trong bóng
đêm - nè, mà khử hắn đi ta còn hai thằng trở về, càng ít, càng được trọng vọng, thưởng nhiều tiền
đó mày. - Hắn cười gằn. Đôi mắt xếch của hắn nheo lại một cách bạo ngược, man rợ. Rồi môi hắn
mím chặt. Đó là nét mặt của một thứ người sẵn sàng hành hạ đồng loại và thích thú trong việc
hành hạ đó.
- Nè, mày, có đói không? Có à, khử hắn ta sẽ có cái... hì hì...

Trong bóng đêm đen ngòm với tiếng dế gáy nỉ non than vãn, tiếng cười của hắn nghe rùng
rợn...

Hai tên biệt kích đi về bên đống lửa. Thằng Hai vẫn ngủ. Miệng hắn há hốc, người co quắp,
tay hắn có lúc quờ quạng trong đêm như tìm ai, như nắm lấy cái gì... Hắn đang ngủ, một giấc ngủ
mệt nhọc, hãi hung.

- “Phập”.

- Ặc, ặc, ặc, ặc... - Tên Hai giãy giụa dưới lưỡi dao của tên toán phó.

Hai tia máu ở ngực trái hắn theo vết lõm của lưới dao găm phun ngược lên. Tên Hai trợn
mắt lên nhìn. Hắn vừa kịp hiểu ra sự việc, thì đã lịm đi. Mắt hắn nửa nhắm nửa mở đầm đìa nước
mắt. Tên toán phó rút dao đứng dậy. Hắn nhìn xác tên Hai bằng đôi mắt màu chì một cách chăm
chú. Có lẽ chỉ những con vật tàn bạo và ngu ngốc mới có cái nhìn muốn ăn tươi, nuốt sống như
thế...

Sớm tinh sương, không khí ướt át và nặng nề. Đội truy lùng lên đường. Những thân cây
táu, cây dẻ, cây lim nhô dần ra ánh sang ban mai, dường như cả ngàn vạn thân cây trong khu rừng
biên giới cũng đồng thời lên đường với các chiến sĩ biên phòng truy tìm kẻ địch lẩn trốn.

Cơn mưa dông đêm qua đã làm trôi hết dấu vết của kẻ địch. Con “Mũi tên” của Khúc cũng
không còn bắt được vết và hơi. Đội trưởng Diễn ra lệnh cho các chiến sĩ dàn hàng ngang truy tìm
theo hướng, chờ khi thấy dấu vết địch lại chuyển thành đội hình hàng dọc truy lùng.

Cả đội tiến lên theo hình chữ A... Khúc và con “Mũi tên” đi ở mũi nhọn, cạnh đó là Diễn.
Quãng rừng ngập ngụa dây chạc và mông lung sương mù giăng ra trước mắt họ. Những cây dẻ,
cây táu, cây lim, cây móc, những lớp đất rừng do rễ cây và lá mục hàng năm kê cao lên; bước đi
rung rinh như đi trên đệm bông. Cánh rừng vùng biên giới này, Diễn đã thuộc chúng như thuộc
từng con sóng, màu nước, tăm các loài cá ở biển quê nhà. Nhiều chuyến tuần tra, truy tìm biệt
kích, anh đã ăn củ mài, bú nước ngọt trong các dây “vú trâu”, trải lá rừng nằm. Tối lá còn xanh,
sáng mai lá nhuộm đỏ máu người bởi sên vắt... Nhưng giờ đây, anh cảm thấy như tất cả đều bí
hiểm đối với anh. Cả đội truy lùng dõi nhìn từng gốc cây, từng vết lún, soi tìm từng đống bùn nọn
mồi giun mới đùn lên... để tìm cho ra vết kẻ địch. Bỗng Khúc dừng lại trên dốc. Con “Mũi tên”
hếch mũi về phía trước bắt mùi.

- Báo cáo đội trưởng, có mùi lạ! - Mắt Khúc vẫn nhìn về phía trước.

- Chú ý phía trước. Ở đây nhiều mỏm đá nhô ra che khuất, tạo nên thế bất ngờ lắm đấy.
Con “Mũi tên” đã lồng lên. Nó xông thẳng tới hướng có mùi khét, trỉn đậm. Nó giằng cái
dây trong tay Khúc. Con chó sủa lên hai tiếng, xông thẳng vào chỗ mấy cây cọ rậm, bên những
hòn đá xám...

Khi hai cánh của đội truy tìm khép lại, thì ở đó, bên bếp tro còn ấm còn mấy xâu thịt đang
nướng dở. Cách đó không xa, xác tên biệt kích đã bị phanh ra. Đội trưởng Diễn đã hiểu rõ tình
hình. Anh nói giọng quả quyết:

- Chúng đã ở đây cả đêm. Nghe tiếng chó sủa chúng đã bỏ chạy. Hai tên chạy hai ngả. Đây
dấu vết rõ ràng...

- Truy ngay... - Đội phó nói.

Cánh thứ nhất, đồng chí đội phó chỉ huy truy tên chạy sang khu rừng nội địa, ở đó có thung
lũng và suối sâu. Cánh thứ hai do Diễn chỉ huy có Khúc đưa con “Mũi tên” đi theo, truy tên chạy
ra phía đường biên giới. Khi chia tay, Diễn dặn đồng chí đội phó:

- Nhớ đề phòng hắn lộn lại “nước cáu”. Mũi nào phát hiện địch trước bắn lên một phát
pháo hiệu đỏ...

Con “Mũi tên” chạy vun vút theo những vết giày vội vã mới in trên mặt đất ẩm, rêu đá...
Càng gần tên biệt kích, mùi càng đậm, con “Mũi tên” càng hăng. Nó cụp đuôi xuống, vươn dài
mình, hai tai dỏng về phía trước. Nom toàn thân con vật như một mũi tên vàng đang lao tới.

Biết đã nguy khốn lắm, tên biệt kích tụt nhanh xuống dốc. Hắn đạp đôi giày trong chân ra,
quẳng theo hai hướng trước mặt. Rồi hắn chạy trở lại một đoạn đúng với lối vừa đi lên và băng
sang hướng khác. Đến nơi, con “Mũi tên” toan chạy theo hướng có chiếc giày. Nhưng Khúc đã
giật cương lại. Anh kéo con “Mũi tên” truy theo hướng tên biệt kích chạy chân không. Đến bờ
suối, con “Mũi tên” hít vết chân in trên đất ẩm rồi nó nhìn theo dòng nước chảy cuồn cuộn, sủa và
muốn nhảy xổ xuống bơi theo. Tên biệt kích đã theo dòng nước chảy lộn lại chỗ ta vừa truy. Diễn
và hai chiến sĩ vượt suối chạy theo đường thẳng chặn đầu. Còn Khúc, con “Mũi tên” và hai chiến
sĩ nữa cứ truy theo bờ suối.

Cách đó một quãng, con “Mũi tên” dừng lại. Mắt đỏ ngầu, lông cổ dựng lên, tai dỏng, nó
nhìn sang vách núi đá bờ bên kia. Nó sủa. Nó giằng dây cương trong tay Khúc để bơi sang. Khúc
nhìn về hướng đó, trong những cành cây ngả la đà sát mặt nước, có nhiều hòn đá đen nhấp nhô.
Và, giữa các hòn đá đó, tên biệt kích đang dầm mình dưới nước chỉ để lòi đầu lên. Bị phát hiện,
tên biệt kích hốt hoảng nhảy lên bờ...

Hai chiến sĩ chiếm vị trí có lợi yểm hộ cho Khúc và con “Mũi tên” vuợt suối truy theo.

Một bóng đen tuyền như con gấu chó ướt sũng chạy vòng qua cái ngoặt đá. Khúc đã nhìn
thấy hắn. Anh mở khoá đạn súng ngắn, thả cương cho con “Mũi tên” xung phong. Bỗng một tràng
tiểu liên nổ. Không khí rung lên. Những viên đạn đi chiu chíu. Con “Mũi tên” quỵ xuống. Một
viên đạn xuyên từ cổ đến đùi sau. Nhưng rồi, nó nhe nanh chồm lên xông đến tên biệt kích nấp
sau hòn đá. Khúc chuệnh choạng. Máu từ ngực, từ bả vai anh loang ra, nhuộm đỏ bộ quân phục.
Nhưng anh đã đứng thẳng dậy. Anh nhô hẳn người ra trước hòn đá y như một sức sống mãnh liệt
mới bật dậy trong người anh. Anh giương súng lên, rất bình tĩnh chĩa thẳng vào tên biệt kích đang
bị con chó chồm lên cắn vào cổ tay, vào yết hầu, hắn đang cố giằng ra để chạy. Anh bóp cò. Phát
đạn đầu tiên đã làm bung khẩu tiểu liên trong tay hắn. Anh bóp cò nữa. Viên đạn xuyên qua cằm
hắn, gần nơi có vết sẹo chết hụt năm nào. Lúc ấy, đội trưởng Diễn dẫn mũi vu hồi vòng từ phía
trái hòn đá nhô lên bắn tiếp sức. Khúc đã khuỵu xuống, anh cố gượng dậy. Anh hình như không
trông thấy ánh sáng nữa. Bầu trời nặng trĩu, tối sầm và xám xỉn lại. Cánh rừng bát ngát bị xoá nhoà
đi... Lúc đó, trước mắt, chỉ còn tên giặc và lòng căm thù hắn tràn ngập như bốc lửa trong lòng anh.

Con “Mũi tên” gắng sức bò lại phía Khúc. Nó hít hít vào thân mình Khúc.. Nó nằm gối đầu
lên người Khúc. Nó rên rỉ vì đau đớn. Rồi con vật dựa vào cánh tay Khúc như lúc nó mừng đón
Khúc đi xa về.

Diễn chạy đến băng bó cho Khúc. Anh em trong đội chạy đến, họ đứng vây quanh người
đồng chí bị thương.

- Các đồng chí! - Đội trưởng Diễn nói. - Chúng ta đã giành chiến thắng không phải chỉ có
mồ hôi mà cả bằng máu. Các đồng chí bắn pháo hiệu lên, bắn lên đi để anh em biết.

Một lát sau từ phía rừng xa bên bờ thung lũng cũng vang lên một tiếng nổ dội vào vách
đá...

Hai tiếng nổ dội lên, hòa vào trong niềm... chiến thắng của các chiến sĩ biên phòng.

Suốt đêm ấy Chính uỷ Kim, Đồn trưởng Tân, Đội trưởng Cường, Diễn, Nguyệt... và các
chiến sĩ trong đồn biên phòng không ai chợp mắt. Họ đứng bên gốc cây to ở sườn núi nhìn xuống
“Cổng trời”. Giờ đây, con đường vào tiền tuyến trải rộng ra với tất cả vẻ đẹp hùng vĩ của nó. Con
đường như một dòng sông rung động ào ào trong đêm và nhiều lúc như một dàn trống hoà với
nhau không ngừng... Những đoàn xe vận tải bịt kín mui, xe xích sắt, xe kéo pháo, những đoàn dân
công, những đoàn chiến sĩ... lần lượt đi vòng eo núi qua “Cổng trời” như qua nửa vòng của cái đèn
kéo quân. Họ vừa hát, vừa đi, rầm rập kéo vào tiền tuyến.

Đêm mùa thu cao ngất. Qua cành lá bờm xờm, lấp lánh ngàn vì sao. Dòng sao chảy qua
vòm trời có lúc như mờ đục đi bởi những tốp máy bay Mỹ kéo đến lượn vòng rú lên, lồng lộn,
gầm gừ một cách bất lực như bầy sói mù.

Những đoàn xe chạy qua, lá nguỵ trang runh rinh reo trong gió núi như vẫy chào các chiến
sĩ biên phòng.

QUỶ DỮ ĐỘI LỐT THÁNH NHÂN

Hám “cá mập” được phép vào phòng tĩnh tâm của cha Thánh Thiện. Hắn mặc cái quần vải
xanh ống không loe, áo sơ mi trắng sạch sẽ, mái tóc cắt ngắn, gọn gàng.

- Thưa cha! Vâng lời cha, con đến hầu cha.


Cha xứ vẫn nhìn đăm đăm vào cây thập tự và hình Chúa chịu tội:

- Con biết cha gọi con về việc gì không?

- Lạy cha! Mọi việc cha dạy đều tốt lành, đều thấm đẫm tình thương!

Cha xứ quay lại nhìn Hám và chỉ đi- văng cho Hám ngồi.

- Con! Chiên lành đang đau khổ là Thiên Chúa đau khổ. Người không thể chịu đựng lâu
dài tình trạng con cái người được tạo theo hình ảnh của người phải sống trong tình cảnh ô nhục
như ở đây...! Con! Người đang đau khổ ghê gớm như trên cây thập tự con đang nhìn đó vậy.

Cha xứ vội vàng quỳ xuống ngước mắt nhìn tượng đức Chúa trời, chắp hai tay:

- Con! Cha gọi con đến và giao cho con đi làm một việc như thiên sứ đi báo tin mừng, như
các tông đồ rời Gie-ru-sa-lem, rời nơi thánh địa trần gian đi ra mọi phía để hướng về thánh địa trên
trời... Con! Cha đã xem cây để biết trái. Nào có ai hái nho ở lùm cây gai, ai có hái vả ở nơi cỏ dại.
Cha chọn con.

- Lạy cha! Lời cha như trái ngọt hoa thơm. Nhưng con... con có tội. Con mới đi học tập cải
tạo về... Con lo cho ngày mai... - Hám ấp úng, ngập ngừng.

- Con! - Cha Thánh Thiện ngắt lời Hám. - Cha thì thấy mọi người dù là người tội lỗi, đều
mang theo hình ảnh của Chúa. Chúa nhân từ nhìn kẻ có tội để cứu vớt con người. Còn Cộng sản
thì ngược lại, chúng nhìn vào mỗi con người để tìm ra kẻ có tội.

Hám “cá mập” ngồi im. Đôi mắt của y sập xuống. Hai tay y khoanh tròn trước ngực.

Hám “cá mập” có cái miệng rộng và đôi quai hàm bạnh ra. Lúc Hám nói, quai hàm càng
bạnh ra, càng động đậy hơn. Cái đó làm cho ai thoạt nhìn thấy Hám, chỉ một lần thôi cũng có ấn
tượng: y vừa ngang ngược, vừa phản phúc. Bởi vậy nên khi Hám được đắc tuyển vào phòng thẩm
vấn của Sở Cảnh sát ngụy, y đã được đồng bọn đặt ngay cho cái tên Hám “cá mập”. Hám mặc
nhiên chấp nhận cái tên đó.

Hám ngồi đó. Y vẫn ngồi im. Mắt y nhìn cha xứ, nhìn tượng Đức Mẹ. Những ánh hào
quang vàng xanh, đỏ trong phòng làm cho khuôn mặt Hám trở nên khổ não hơn, héo hon hơn.
Mười hai tháng học tập, cải tạo chưa đủ độ đậm rửa tẩy hết vết nhơ, vết máu trên bàn tay Hám,
trong tâm hồn Hám. Vả lại, Hám “cá mập” còn nghĩ: “Đời có vay, có trả”. Mười hai tháng học tập
vừa qua chỉ như trả nhẹ nhàng món nợ trần gian hắn mắc. Món nợ của một tên cảnh sát đã từng
không bao giờ mềm lòng, bao giờ cũng lạnh lùng chai đá. Hám “cá mập” đã học được ở bọn anh
chị chuyên hề khảo đá: cảnh sát của quốc gia phải biết chà đạp lên cái đẹp, biết bôi bẩn lên cái tốt,
biết làm hoen ố cái trong trắng, biết đảo ngược lẽ phải. Cảnh sát phải biết nhắm mắt trước những
sinh linh đang quằn quại, biết vui cười trên sự đau đớn, khổ ải của người khác. Tóm lại, Hám “cá
mập” đã sống với một bọn người bỏ đi cái ý niệm về con người và dám vỗ ngực nhận lấy mình là
tàn bạo, là hung thần khát máu. Những vụ giết người mà cảnh sát quốc gia thực hiện không bao
giờ coi là tội ác. Trước đây, Hám coi giáo đường là nơi gửi linh hồn, Sở Cảnh sát là nơi gửi cuộc
sống...

- Con của ta! - Giọng của cha xứ trầm bổng như giọng hát lời Kinh Thánh trong giáo đường.
- Thiên Chúa đã yêu thương loài người nên đã chọn con người, mà không chọn mặt trời, mặt trăng,
sư tử, đại bàng làm hình ảnh con người... Nên mọi việc xảy ra cho con người ở trần thế, Chúa đều
đã sắp xếp, an bài. Con người chỉ được quyền chấp nhận để trở thành thánh nhân, mà chối bỏ sẽ
trở thành tội nhân đó con! Con đang đứng trước hai điều đó!

Cha xứ nhìn xoáy vào khuôn mặt héo hon của Hám.

Hám quỳ xuống sàn nhà, hai tay khoanh trước ngực. Hắn ngước mắt nhìn cha xứ:

- Cha đã an bài, con xin chấp nhận!

- Cha cầu xin Đức Mẹ, cầu xin các đấng thiên thần phù hộ cứu giúp con!

Cha Thanh Thiện cầm tay Hám “cá mập” kéo hắn ngồi lên ghế. Cha ghé sát tai hắn:

- Con của ta sẽ lãnh sứ mạng vượt trùng dương sang đảo C.10. Ở đó, sẽ có người đón con.
Con sẽ trao cái này cho người đó.

Cha Thánh Thiện lột chuỗi hạt trong cổ mình. Chuỗi hạt có hình cây thập tự bằng vàng, to
như ngón tay út. Cha đeo chuỗi hạt vào cổ Hám. Hám cúi đầu. Cha Thánh Thiện định cho Hám
biết chút xíu về tầm quan trọng của cây thập tự. Bởi trong lòng nó mang cả cơ nghiệp, quyết định
cả sự sống còn “nghĩa lớn” của cha. Đó là tấm bản đồ “kế hoạch bùng nổ” và bức “thỉnh cầu thư”
của cha... Cha muốn nói để mong Hám làm tròn sứ vụ! Nhưng cha đắn đo, ngần ngừ. Đôi mắt cha
nhìn Hám vẻ lưỡng lự. Cha đưa tay gãi trán, ra chiều phân vân: Bởi tấm bản đồ “kế hoạch bùng
nổ” chỉ mới có cha, đại tá Đậu Vằn và ông Bác Ái biết mà thôi. Đại tá Đậu Vằn, con người dạn
dày quân cơ chiến trận đã dặn cha: “Dù thiên sứ có tra hỏi trong giấc mơ, cha cũng chỉ nên hát
thánh ca mà thôi!”

Đại tá Đậu Vằn trước ở Cục tác chiến Bộ Tổng tham mưu quân lực Việt Nam Cộng hòa
của ông Thiệu. Cha coi ông là cánh tay phải. Cha tin ông lắm, cha dự định sẽ giao cho ông Vằn
giữ trọng trách Tổng Tham mưu trưởng “Tân quân lực”! Cha từng khen Vằn là táo bạo, thông
minh, cao cường, mưu lược. Cha mừng lắm, vì cha cho đó là sự an bài có thánh linh phù hộ “nghĩa
lớn” của cha! Chính tấm bản đồ ấy, “kế hoạch bùng nổ” ấy và cả bức “thỉnh cầu thư” ký tên cha
nữa là công lao của Vằn! Vằn đã đáp xe đến nhiều nơi. Những cây crem lạnh lẽo đã giúp Vằn làm
nên sự nghiệp nóng hổi đó! Cha đã chấp nhận, ông Bác Ái đã chấp nhận những mưu lược của Vằn.
Dịp Nô-en này sẽ nhen nhóm, diễn tập và sửa lại những điều chưa hợp lý trong kế hoạch trên bản
đồ. Dịp Tết đến sẽ châm ngòi “bùng nổ”.

Đậu Vằn đã quả quyết. Hắn quả quyết đến cuồng nhiệt và nói với cha: “Giờ bùng nổ chỉ
cần cha đọc những lời khuyên “con chiên tỉnh thức” trong kinh thánh dạy là đủ. Mọi việc đâu sẽ
vào đó, xuôi rót!”. Lời khuyên ấy, cha đã soạn rồi, đã ghi vô băng thâu rồi: “... Thời kỳ mới đã
đến! Anh em chiên lành cùng mang dòng máu của Chúa Ki-tô hãy thức dậy. Sự thông sáng đã gọi
ta. Anh em đừng ngủ nữa. Bởi hiện nay sự cứu rỗi gần chúng ta hơn hết. Đêm sắp tàn, ngày đã
rạng. Vậy anh em đã lột bỏ những việc tối tăm mà mặc lấy binh giáp của sự sáng. Chúng ta sẽ ăn
ở đoan trang như ban ngày ; chớ tiệc tùng, say sưa ; chớ đắm sắc buông tuồng ; hãy cầm vũ khí,
hãy sẵn sàng đổ máu vì “nghĩa lớn”, như thiên phụ của ta đã đổ máu vì kiếp nhân sinh của chúng
ta...”

Thực thi theo kế hoạch, Vằn sẽ nắm trong tay lực lượng đặc nhiệm tiến chiếm ngay lấy
vùng đất Vũng Tàu, chiếm ngay lấy cửa biển Hàm Tân và vùng núi phụ cận. Theo Vằn thì khu
vực liên hoàn đó có rừng rậm, có biển rộng, có quân cảng, có phi trường... là “thánh địa”. Vằn sẽ
rải quân chốt chặn, cắt đứt lộ 15, lộ số 1, cắt các tỉnh lộ trong vùng... Rồi từ “thủ đô công giáo”
Hố Nai, các sư đoàn quân đã có sẵn sẽ khởi sự đánh loang ra tiến chiếm vùng núi Gia Kiệm, Định
Quán cắt lộ 20, lấy vùng núi non hiểm trở của Bảo Lộc làm điểm tựa. Lúc ấy sẽ có các đạo quân
“tử vì đạo” của cha tiên phong Đức Độ, đạo quân “Chó rừng” của tướng Ktúc... từ phía rừng thông
kéo xuống hiệp sức. Rồi Vằn quả quyết lúc ấy đạo hải quân tinh nhuệ “Chúa biển cánh buồm đen”
từ đảo C.10 sẽ đổ về...

Vằn đã nói với Thánh Thiện là hắn rất hy vọng về đạo quân này. Vì đạo quân này có nhiều
sắc lính trong quân lực cũ, rất trung thành với Việt Nam Cộng hòa, đã có thời tử thù với Cộng sản
nên phải vong quốc, họp lại. Đội quân này đã được huấn luyện kỹ các môn đổ bộ chiếm đất, đánh
du kích, lập mật cứ... và có các cố vấn Mỹ từng thông thuộc chiến trường Việt Nam giúp sức...
Nhân đó, các đội của lực lượng “yểm trợ kháng chiến Âu châu”, gồm những người thân quốc gia
di tản lập nên, sẽ chở súng, phương tiện chiến tranh và tiền của về... Đài phát thanh “tiếng nói yêu
nước” dựng lên, đọc các bản hiệu triệu, bố cáo đã thảo và ghi sẵn trong băng, để kêu gọi các tôn
giáo, đảng phái họp thành “mặt trận liên tôn chống cộng” và kêu gọi các đồng minh làm sức ép
chiến tranh mạnh mẽ ở các miền biên giới. Như vậy, Cộng sản sẽ không còn rảnh tay để đối phó
với “kế hoạch bùng nổ” của ta. “Tân quân lực” sẽ chớp thời tiến chiếm các vùng thuận lợi. Lúc
bàn chuyện trên với Thánh Thiện, Đậu Vằn nheo mắt cười, rồi vòng hai tay về phía trước, y khoát
một cử chỉ như thắng lợi đã nằm trong tầm với...

Vằn, Bác Ái và Thánh Thiện đã tính toán đến chỗ dựa vững chắc của “kế hoạch bùng nổ”
là các xứ đạo, nhất là xứ đạo di cư. Ban đầu chỉ cần lập khung các tiểu đoàn quân đội. Còn tất cả
các đội “thanh niên hùng tâm dũng chí”, các sắc lính trong quân lực cũ sẽ là lính, dân chúa cũng
là lính. Phần chót của “kế hoạch bùng nổ” là “trung ương mặt trận” dưới sự lãnh đạo của vị cha
“anh minh” sẽ từ mật khu tiến về. Các sư đoàn, trung đoàn “Phi Hồ”, “Mạnh Long” thế như chẻ
tre sẽ tiến chiếm các công sở, căn cứ quân sự, các kho tàng, đồn biên phòng... “Chính phủ mới”
được thành lập. Bộ chỉ huy “Tân quân lực” ra mắt...

Các xa cảng, bến tàu, các nơi đông người đều có lựu đạn nổ, truyền đơn tung ra, cờ xanh
trắng kéo lên... và những vụ hành quyết Cộng sản để trừ hậu họa, để hăm đe những kẻ còn nuôi ảo
mộng ở bọn “quỷ đỏ”... bắt đầu...

Tấm bản đồ của kế hoạch, Đậu Vằn đã vẽ vào một tờ giấy mỏng, loại giấy không thấm
nước.

Sứ mạng của Hám là chuyển bản đồ đó sang cho các tướng lĩnh, các chiến hữu ở đảo C.10,
để họ hội thảo, thêm bớt vào và có kế hoạch cụ thể để hiệp đồng. Cùng với kế hoạch đó, còn có
một bức “thỉnh cầu thư “gửi các “chiến lược gia”, “các nhà chính trị” đang di tản trên thế giới. Bức
“thỉnh cầu thư “tường trình rõ tôn chỉ, mục đích của “nghĩa lớn “và kêu gọi họ hiệp sức phục quốc.

Thánh Thiện đã không dám nói những điều cơ mật cho Hám biết. Thánh Thiện chỉ dặn
Hám đường đi nước bước... Rồi cha xứ lại lấy ngón tay xoa xoa vào đầu cây thập tự màu vàng
bạch lạp làm cho nút lỗ hổng hòa đồng với màu vàng mười... Cha xứ đưa tay vào sau lưng tượng
Đức Mẹ, lấy khẩu súng côn có hình cây thập tự khắc ở báng trao cho Hám “cá mập”. Giọng cha
Thánh Thiện êm dịu, nghe như dỗ dành:

- Con của ta! Vì Chúa muốn con chiên đau khổ được tự do, con chấp nhận sự an bài đó,
con là thánh nhân. Cái này sẽ giúp con dù thiên đường có đóng cửa, con cũng trở thành thiên sứ
mở vào.

Một chiếc thuyền câu nhỏ lặng lẽ rời bờ lướt ra khơi. Bóng đêm bao trùm mặt biển. Một vì
sao mờ xa lạc lõng giữa nền trời như con thuyền bơ vơ trên biển rộng. Mùa khô, gió nam lộng thổi,
lân tinh nhấp nhoáng trên đầu sóng. Chiếc thuyền câu tìm hướng chạy thẳng đến một chiếc thuyền
máy đánh cá. Rồi, nó ép vào sát mạn. Người đàn ông trong thuyền câu đứng ở lái nhìn lên. Y đoán
thuyền máy này là của người trên đất Vũng. Loại này chỉ có năm người đi là cùng. Nhưng hiện
giờ thiếu nhớt... như vậy cũng không sao, càng hên! Y cúi xuống lấy thêm một gói tròn bỏ vào túi
quần và sờ bên hông nơi túi áo cồm cộm. Xong, y lên tiếng xin nước ngọt. Y cột chặt thuyền câu
vào thuyền máy rồi nhảy sang. Y đi về phía lái gần chỗ người cầm lái. Bỗng y sững lại, bối rối. Y
đã dự đoán sai. Không phải thuyền bên đất Vũng, mà thuyền trong xứ đạo Đại Phước của y. Và
kìa, ông chú vợ y đang nhìn mặt y. Ông tròn mắt ngạc nhiên như muốn hỏi tại sao y lại ra đây. -
Mày đâu có làm nghề câu. Mày đi học tập mới được cách mạng cho về kia mà? Mày thức thời lắm.
Cả xứ đạo Đại Phước này đã phải kêu lên vì mày. Đúng, cả xứ đạo Đại Phước đang ngạc nhiên vì
Hám: “Cộng sản tẩy não được cả những thằng như Hám “cá mập“ thì chắc Thiên Chúa đã muốn
cho chó sói với cừu sống chung!”. Hám toát mồ hôi. Hắn sờ chuỗi hạt và cây thập tự trên cổ. Qua
ánh đèn, Hám “cá mập” điểm mặt người trong thuyền: chỉ có ông chú của vợ là quen, còn bốn
người nữa đều xa lạ. Tuy cùng xứ đạo, nhưng có hiểu lòng dạ của họ ra sao. Và, kìa họ cứ nhìn
Hám mãi. Cái nhìn như muốn dò hỏi: có phải anh tìm tàu đi ra hải ngoại không? Biết đâu trong số
bốn người đó có con “quỷ đỏ” cài vào...

Trong khoang thuyền nhá nhem đèn lửa. Hám “cá mập” rút súng. Hắn bắn chết ba người.
Người thứ tư bỏ chạy về trước mũi. Hắn bắn theo. Xác đổ nhào xuống biển. Ông chú hắn cầm
ngay con dao chặt cá. Ông hét lên: “Tao đây, mày điên hở Hám”. Hám “a” lên một tiếng: “Đằng
nào cũng phải dứt khoát. Đã an bài”. Hắn bóp cò... Xác ông chú hắn đổ xuống khoang thuyền...
Ông còn ngắc ngoải. Hám đâm hai nhát nữa vào ngực. Thế là Hám đã được trọn vẹn tất cả trong
một “cú” như người “trúng sổ số”.

Hám hất xác bốn người xuống biển rồi đút cây côn vào túi. Hắn vuốt mồ hôi đang chảy
ròng ròng trên mặt. Hắn ngửa mặt nhìn trời. Cái bàn tay ăn cò súng giết năm mạng người của hắn
đưa lên làm dấu thánh...
Hám vào khoang thuyền bật công tắc đèn. Hắn điểm số dầu, số lương thực còn lại... Hắn
dìm thuyền câu xuống biển. Rồi hắn ngồi vào ghế lái. Một tay cầm chai rượu đổ vào miệng. Con
thuyền hướng mũi về phía đảo C.10.

...Lan, vợ Hám “cá mập” nhất quyết phải hỏi chuyện cha xứ Thánh Thiện. Bởi lúc ra đi
Hám có nói: “Anh đi làm một việc hệ trọng mà cha xứ nói như là thiên sứ đi đưa tin mừng! Việc
đó là con đường tự do, làm theo sẽ thành thánh nhân, chối bỏ sẽ là đạo tặc đó em ạ”.

Lan cứ băn khoăn, Hám đi đâu, làm việc gì mà hệ trọng vậy. Lại chỉ có cha xứ biết thôi.
Từ ngày Hám đi học tập về, Lan đã thấy chồng mình bỏ được thói uống rượu, thói hăm đe, gây
lộn với mọi người. Anh ta nói với Lan rằng: anh ta sẽ sống êm ấm để bồi hoàn cho vợ con, bồi
hoàn những ngày ảnh ăn chơi, đánh lộn, thách đố, thất đức. Lan thấy mừng. Lan thấy rõ là nhờ có
cách mạng mà chồng cô trở thành người đứng đắn. Xứ đạo cũng không có ai đàm tiếu chút xíu gì
về ảnh nữa. Giờ, đùng một cái, ảnh bỏ nhà ra đi. Đi đâu? Dù có xưng tội, dù có hãm mình trong
sầu muộn và hối hận để được cứu rỗi, Lan cũng không thể nào khuây khỏa nỗi băn khoăn về sự ra
đi của người chồng.

Cha xứ An-tôn Thánh Thiện dạo này gần gũi chiên lành hơn. Đó là điều thuận lợi cho Lan.
Cha chăn bầy chiên được thấm đậm tình thương, được thánh linh soi dọi. Cha khuyên răn chiên ở
xứ đạo Đại Phước này những lời như bông trái ngọt lành: “Hãy lấy tình thương là gốc đạo mà kính
trọng lẫn nhau!” Cha răn kẻ làm sự bậy bạ, giục giã kẻ hèn nhát, nâng đỡ kẻ yếu đuối, kiên lòng
đối với mọi chiên lành có tội. Cha khuyên con chiên đừng lấy ác trả ác, hãy đuổi theo điều thiện
như con cừu chỉ tìm cỏ non... Gần đây, cha Thánh Thiện còn nói với đàn chiên những điều mới lạ.
Cha khuyên chiên vâng phục chế độ mới ; sẵn lòng làm mọi việc cách mạng trao. Chớ gây gổ, bội
nghịch cách mạng... Nếu làm như vậy là trái với nghĩa lớn mà Thiên Chúa đã an bài... Cha đi đến
từng nhà, thấy dân cuốc đất cha cầm ngay cuốc làm giúp. Cha tắm cho con trẻ, bón cháo cho người
ốm, chích thuốc, làm phép thêm sức cho chiên bị bệnh chóng lành. Cha dạy trẻ hát những bài thánh
ca. Trong khuôn viên nhà thờ, cha cũng chăn nuôi đôi lợn lang, trồng một đám rau tốt. Chiên lành
cả xứ khóc rưng rức. Có người quỳ trước mặt cha, dâng lên cha những lời tốt lành: “Thà con chiên
nhịn để nuôi cha. Xin cha đừng làm thế mà khổ phần xác. Cha hãy nghỉ cho thảnh thơi, cho tâm
linh sáng láng để chăm sóc linh hồn trăm chiên...”

Cha cười rạng rỡ: “Lao động là vinh quang! Cha làm như thế mới thấu hiểu hết đời sống
nơi địa đàng của chiên lành đang chịu cực khổ hiện nay...” Nghe cha nói, chiên lành mủi lòng,
tăng thêm sự yêu kính.

Lan được vào phòng tĩnh tâm của cha. Vả chăng, được vào đó cũng là sự may mắn “ngàn
năm có một” của Lan, để Lan trình với cha việc đời nho nhỏ.

Cha An-tôn Thánh Thiện ngồi trên ghế tựa. Hai tay cha để nghiêm chỉnh trên thành ghế.
Cha nhìn ngắm thân hình mảnh mai của Lan. Lan quỳ xuống. Đôi mắt Lan to và đen rộng mở, hết
nhìn cây thập tự lại nhìn cha... Hai tay Lan phép tắc khoanh tròn trước ngực. Cha An-tôn Thánh
Thiện nhìn ngắm người chiên lành với đôi mắt tỏa sáng, giọng cha hạ xuống trầm ngâm:

- Con! Con hãy tin vào lòng thương xót của Chúa Ki-tô rồi thành thực hồi tâm lại...
- Dạ, thưa cha!

- Lạy Chúa, con sẽ dâng gì cho Thiên Chúa?

- Lạy Chúa, thưa cha! Con dâng lòng con, tấm lòng của một chiên lành thiếu đức tin, chưa
được thánh linh giáng ngự trong linh hồn.

- Được! Nhưng cha muốn con dâng điều gì khác.

- Lạy Chúa! Thưa cha! Con dâng những kinh con đọc.

- Được! Con hãy dâng những điều gì khác nữa? - Giọng cha mềm dẻo nhưng không giấu
nổi dụng ý hỏi tra.

- Lạy Chúa! Thưa cha! Con dâng tất cả bản thân con, cũng như mọi vật con có.

- Cha muốn con dâng thêm những điều khác.

- Thưa cha! Con không còn gì khác. Chúa muốn con dâng gì thêm?

- Con! Con hãy dâng hết những tội lỗi của con để cha giải tội cho con, để linh hồn con
được cứu rỗi, để ngày mai con được lên nước Chúa, gia tài của con trên đó...

... Vừa căn dặn Lan, cha xứ vừa để ý nhìn rất kỹ hàm răng của Lan. Mỗi lần Lan trả lời,
cha xứ hình như chỉ chăm chú nhìn để kiểm tra điều gì ở mỗi chiếc răng...

- Lạy Chúa! Thưa cha! Con có điều ngờ vực về chồng con bỏ đi đâu mà con không hề biết.
Cha hãy nói cho con thông tỏ!

- Ngoài con ra có ai biết về việc chồng con đi không? Hoặc giả, con đã nói cho ai biết
chưa?

- Thưa cha, chỉ mình con. Đêm ngày con hằng cầu nguyện cho chồng con.

- Được! Nếu để người thứ ba ngoài cha biết là con có trọng tội. Con sẽ bị xét đoán. Và,
miệng con là cửa mồ của chồng con!

- Thưa cha, con có nhiều đêm nghĩ đến ảnh và mong ảnh về...

- Chồng con hôm nay như một thiên sứ, đầu đội mặt trời, chân đạp vầng mây, tay cầm tầm
sét đi làm một việc hệ trọng của Chúa trời.

... Cha xứ đứng dậy. Cha đi nhẹ nhàng về phía Lan. Cha xứ đỡ Lan đứng dậy. Cha vuốt ve
trên vai áo, trên cánh tay tròn lẳn của Lan. Cha khắc họa những cử chỉ ra điều yêu thương, hào
hiệp! Miệng cha nói nho nhỏ trong hơi thở “con, con”. Lan nhẹ gỡ tay cha xứ. Miệng cô đọc tiếp
câu kinh xin tội: “Lạy Chúa! Con tin Chúa là sự sống hãy cứu vớt con, khoan dung tha thứ cho
con...”

- Con! - Giọng cha Thánh Thiện trở nên hổn hển. Cha thở dồn, ánh mắt cha long lanh.

- Con! ... Cha muốn được... được hôn con!

Lan tròn mắt nhìn cha Thánh Thiện. Cô lùi về sau một bước. Cô cúi mặt xuống để tránh
ánh mắt vuốt ve, mơn trớn của cha.

- Cha hôn con!

- Trên trán con.

- Không! Hơn thế chứ con.

- Thưa cha! Con sẽ bị Chúa xét đoán.

- Cha sẽ làm phép giải tội cho con!

- Tội trọng, không có gì giải nổi đâu cha!

- Không, con yên lòng, cha gần Thiên Chúa hơn mọi người...

Cha Thánh Thiện cầm tay Lan kéo mạnh. Cái thân hình mảnh mai của Lan ngã vào lòng
cha. Lan không gượng nổi. Cô bàng hoàng và sợ hãi cái việc sẽ xảy ra...

... Lúc sắp bước ra khỏi phòng tĩnh tâm của cha xứ, Lan đứng sau cánh cửa để sửa tà áo.
Bỗng Lan tròn mắt nhìn vào phía góc nhà, ngay dưới bệ tượng có vật gì lằng nhằng dây chạc: một
chiếc áo lót của đàn bà. Lan bước lại gần, cúi xuống nhìn kỹ. Trên áo có thêu chữ “Trầm Hương”.
Áo lót của tu sĩ Trầm Hương.

Ra khỏi phòng tĩnh tâm của cha, nét mặt Lan đau đớn. Nét mặt biểu hiện sự hổ thẹn, nổi
giận và mất lòng tin tất cả. Lan cảm thấy nghẹn ở cổ. Trái tim cô đau nhói như vừa bị kim đâm.
Lúc này, Lan chợt nhớ đến lời mẹ cô nói lúc cô mới lớn lên: “Con ạ, con hãy tin vào Chúa trời, tin
vào thánh linh, tin vào lòng nhân từ của Chúa ban phúc cho chiên lành. Con chớ có tin vào các
ông cha quỷ dữ đội lốt thánh nhân lừa lọc con chiên”. Ngày đó, cô không hiểu hết ý sâu xa lời của
bà mẹ. Và chắc chắn cô không thể nào hiểu nỗi lòng của mẹ. Ừ, cũng có thể trong quá khứ ngày
còn son trẻ như lứa tuổi mình đây, mẹ mình cũng đã gánh chịu những nỗi giày vò như mình. Ngày
đó, mình đâu có hiểu hết. Bây giờ mình đã hiểu. Nhưng ác thay, khi đã hiểu ra thì đâu có còn gì
nữa ...! Mình phải chấm dứt, phải bóc trần những mờ ám ấy để chiên lành hết đau khổ.

Lan cảm thấy dù thiên đường có đóng cửa và bắt cô đi xuống địa ngục, cô cũng không nén
được, không chịu được cô phải nói ra sự thật này mới hả lòng. Cô phải hỏi cho ra ai bắt chồng cô
đi đâu, làm gì. Chồng cô phải trở về với cô, với con. Cách mạng đã nhân đạo, đã cải tạo, đã trả
chồng về cho mẹ con cô (đó là điều ân huệ, cô đâu có quên), thì ai có quyền đầy đọa chồng cô đi
đâu. Hay họ đã đẩy chồng cô vào con đường tội lỗi. Chồng cô phải sống chui lủi. Cô lại phải sống
trong cảnh lo âu, khắc khoải. Biết hỏi ai về chuyện này. Ai sẽ nói giúp cô, giờ anh ấy ở đâu, xa
mấy cô cũng đi gọi chồng về... Cô thao thức, trằn trọc mãi. Cuối cùng cô dứt khoát thực hiện một
quyết định táo bạo...

... Các chiến sĩ đồn công an vũ trang biên phòng đã tiếp Lan. Đồng chí Đồn trưởng Trần
Minh vui vẻ hỏi cô:

- Chị Lan, chị có hiểu nhiều về cuộc sống và quan hệ của anh Hám không?

- Thưa, tôi biết ảnh. Tôi là vợ, tôi biết tất cả những gì mà người vợ phải biết về chồng
mình...

- Tốt lắm, chị sẽ giúp thêm chúng tôi...

Cha xứ lim dim mắt, mơ màng nhớ lại cái ngày nào ông còn là tuyên úy, mà vào loại tuyên
úy tiên khởi trong quân lực ngụy quyền. Ngày ấy... từ năm 1951, ông được các cha đạo bên Pháp,
được Bộ chỉ huy liên quân Pháp - Việt ở Bắc Bộ giao cho đặc trách tổ chức lưới tuyên úy trong
quân đội ở các vùng Hải Phòng, Nam Định, Bùi Chu, Phát Diệm. Ông đã cao giọng trong buổi ra
mắt: “Ngành tuyên úy công giáo trong quân đội đứng trên chiến tuyến tự do của cuộc chiến mà
dân tộc đang gánh chịu cam go... Nói lên sự quan tâm và lòng ưu ái của giáo quyền đối với các tín
hữu công giáo trong nếp sống chiến binh đang lâm vào cuộc chiến đầy gay go chống Cộng sản...”.
Ngày 15 tháng 5 năm 1955, ông đi trên chiếc tàu chiến Mỹ cùng với 520 người thân thuộc vào bến
Sài Gòn. Ngày đó, ông được Thủ tướng Diệm tiếp riêng và cùng khởi thảo nghị định về việc tổ
chức điều hành ngành tuyên úy công giáo trong quân đội. Thánh Thiện được Diệm trọng vọng
lắm. Trong tay ông có những bốn sở tuyên úy: đệ nhất quân khu, đệ nhị quân khu, đệ tứ quân khu
và phân khu duyên hải. Ông đã được sang Mỹ tu nghiệp tại trung tâm huấn luyện. Về nước, ông
lập ra bán nguyệt san “Tinh thần” trong quân lực Cộng hòa.

Thánh Thiện đã dự hội kín với các tướng tuyên úy trong quân đội Mỹ. Tuyên úy Thánh
Thiện là người có công tạo lập , tổng kết được ba mục tiêu: “thiêng liêng, tinh thần và xã hội” của
ngành tuyên úy. Thánh Thiện đã theo sát các chiến binh tận mặt trận để khích lệ họ, bàn các phép
bí tích cho họ... Bởi thế, tuyên úy Thánh Thiện đã được tặng thưởng cấp hàm đại tá và hai “anh
dũng bội tinh”...

... Giờ đây, cha xứ Thánh Thiện đã sống vì tất cả vạn chiên lành trong xứ đạo Đại Phước,
vì “nghĩa lớn” mà cha đang nhen nhóm... Các khoản tiền, hạt xoàn, vàng con chiên đưa đến xin lễ,
gửi mua đất trên thiêng đàng... cha đâu có xài một mình. Cha giao cho Bác Ái, giao cho ông Vằn.
Cha gửi đến những người cùng cha lo “nghĩa lớn”.

Hàng tháng, trước ngày lễ, con chiên ở gần thì dâng tiền cho cha, con chiên ở xa thì gửi
ông Bác Ái mang về nhờ cha xin lễ.
Trên khán thờ trong phòng cha còn có một cuốn sổ ghi tên những con chiên đã nộp tiền,
nộp vàng mua đất trên thiên đàng. Trong cuốn sổ, từng trang giấy đều có in hình Đức Mẹ màu
vàng mơ như để làm chứng cho con chiên khi giao tiền mua đất. Vì cái biệt tài đó mà khi nhìn ai,
nhất là người lạ, cha chỉ chăm chú nhìn hàm răng của họ. Tiếp xúc với ai cha xứ cũng chằm chằm
nhìn miệng họ nói, chờ lúc họ cười. Chọn người để trao việc đạo, việc đời, cha đều xét đoán qua
hàm răng của họ...

Khi chọn Hám “cá mập” đi làm “thiên sứ” vượt trùng dương thì cha xứ đã nhìn hàm răng
của Hám. Đó là hàm răng của người có đức tính hay bằng lòng với cuộc sống bình thường, không
có ước vọng cao xa. Nhưng loại hàm răng đó cũng có lúc hung dữ, ngang tàng, táo tợn và từ bỏ tất
cả.

Khi chọn Vằn để giao trọng trách trong “nghĩa lớn” mà cha đang nhen nhóm, cha cũng đã
nhìn kỹ hàm răng của Vằn có tính quái đản, thích chơi cha thiên hạ! Bản tính hay họat động, đa
mưu kế đến những chuyện sát nhân cũng không kiêng nể, có chí lớn. Bởi thế, cha tin Vằn và đã
trao cho Vằn việc hệ trọng vào loại nhất, nhì trong “nghĩa lớn”. Gần đây, những lần xưng tội, cha
có để ý đến hàm răng của một chiên “tân tong” đạo xứ. Chiên đó làm nghề đạp xích lô. Y là bạn
thân của Hám. Trước y đã ở một đơn vị thủy quân lục chiến. Hàm răng chiên này hơi ngả về phía
trong, cách nhau đều đặn. Men răng như men sứ. Loại chiên này có đức tính lạc quan, bạo nói, có
khi lỗ mãng nhưng trung thành, không thâm hiểm, không ác ý với người khác. Loại này có thể
dùng được. Nhất là chiên đang làm nghề đạp xích lô...

Trong đời làm “đế vương” xứ đạo, cha cũng rất thích hàm răng của tu sĩ Ma-ri-a Trầm
Hương. Đó là một hàm răng đều đặn, đẹp. Chiên có loại hàm răng đó là chiên thuộc loại giai nhân
“hoa cười ngọc thốt”, ngắm thì đẹp, gần thì mê, nhưng tính tình hay đua đòi, chạy theo ước vọng
cao xa. Tuy vậy, ít ích kỷ xảo quyệt, song chiên dễ xiêu lòng, dễ đắm đuối trong tình trường và
nếu thất vọng và đau đớn, chiên sẽ nhẹ nhàng về nước Chúa! Cha xứ Thánh Thiện đoán Trầm
Hương vào loại chiên như vậy nên cha đã an bài cho cô một số phận: sống trong trường kín nhà
tu.

Hám dìm chiếc xuồng xuống cửa sông, ven rừng sác, rồi hắn ôm chặt pho tượng Đức Mẹ
bằng ngà đi về phía nhà thờ xứ Đại Phước.

Cha xứ đón Hám ở cửa phòng tĩnh tâm. Cha dang rộng hai tay ôm lấy Hám.

- Ôi! Con của cha! Chúa đã ban ánh sáng lớn cho con. Ta nhìn thấy đường đâu có phải chỉ
nhờ đôi mắt, mà phải nhờ đức tin của thánh linh soi dõi nữa đó! Con.

Hám trao cho cha pho tượng bằng ngà. Và y trao lại cả chuỗi hạt có cây thập tự vàng. Hám
nói với cha Thánh Thiện là Hám đã gặp tất cả những người cha dặn ở đảo C.10. Hám nói thêm,
Trung tá Phi Long, con trai nhà tư sản Vinh Hoa gửi lời mừng thắm thiết đến cha. Ngài trung tá
sẵn sàng phụng sự “nghĩa lớn” của cha!
Thánh Thiện moi trong ruột bức tượng và trong lòng cây thập tự ra bức thư trả lời “thỉnh
cầu thư” và có cả tấm bản đồ tác chiến cha gửi sang để xin “trí tuệ hải ngoại” phán bảo; có cả lá
thư tâm huyết của những người ở đảo C.10 gửi về cho cha.

Nét vui mừng hiện rõ trên mặt cha. Vì cha biết những người ở đảo C.10 hứa sẽ giúp cha
dựng “nghĩa lớn”. Và họ sẵn sàng trở về cùng với những đơn vị “Chúa biển cánh buồm đen” mà
họ đang tập hợp và huấn luyện trên đảo. Thánh Thiện muốn nhảy lên, muốn rung chuông cho hả
cơn vui mừng.

Kế hoạch quan trọng quá! Thành công nhất định lớn. Nhưng Hám “cá mập” sẽ ra sao? Hắn
có tiết lộ với vợ con, với bạn bè một chi tiết nhỏ nào về kế hoạch này không? Chỉ cần để lộ một
chi tiết là đổ vỡ hết. Phải... Vả lại nhiệm vụ của Hám “cá mập” coi như đã xong. Từ nay về sau,
không cần nó nữa... Có vậy mới giữ được bí mật...

Xem thư hải ngoại xong, cha Thánh Thiện nằm mơ ngủ trên đi văng dưới chân tượng. Bỗng
cha choàng dậy, miệng kêu ú ớ. Cha dập chân, múa tay, trợn mắt. Cha hô tiến, hô lui, hô rượt, hô
truy... Cha thấy rõ ràng kế hoạch chiến đấu trong tấm bản đồ mà cha và Vằn đã dày công vạch
thảo và đã gửi sang để các chiến hữu phán bảo đang được thực hiện và rồi... từ mật khu “Nước
mắt”, quân lực giải phóng của cha kéo về. Các sư đoàn, trung đoàn Phi Hổ, Bạch Long... cha thành
lập sẽ ém các nơi, giáo dân các xứ sẽ nổi lên... Trung ương mặt trận của cha cũng từ mật khu kéo
cờ xanh, năm sao trắng tiến về... Giáo dân xứ đạo Đại Phước rung chuông, treo đèn đón mừng...

Kế hoạch trong bản đồ: đánh chiếm cửa biển Vũng Tàu, cửa biển Hàm Tân; chốt các đường
15, 20 và đường 1... Lấy “thủ đô công giáo” (Hố Nai), vùng núi Lâm Đồng làm điểm tựa... Các
đội yểm trợ... đổ bộ vào. Đội quân “Chúa biển cánh buồm đen” từ đảo C.10 kéo về cùng với các
chiến hữu năm xưa... Cha đứng trên lầu chuông xứ đạo Đại Phước phất cờ.

...Hám “cá mập” về với vợ.

Nhà Hám ở cuối xứ đạo Đại Phước.

- Ôi! Anh đã về!

Thấy chồng về đột ngột, Lan mừng. Nhưng giây lát mừng rỡ chóng vánh qua đi, khi nghe
Hám trả lời câu chị hỏi:

- Em chờ anh đến hụt cả hơi. Anh từ đâu về đây hả anh?

- Từ nhà cha xứ.

Nhắc đến cha xứ, Lan bị cắn nhói trong lòng. Cô nhìn thẳng vào mắt chồng, như cô đã hiểu
những điều bí mật của Hám. Còn Hám, với nét mặt chai lỳ của một tên cảnh sát ngụy, hắn coi
thường mọi việc. Hắn nhìn vợ với một nụ cười chẳng ra cười. Nói đúng hơn, hắn chỉ hếch môi trên
lên.

- Anh về với em, với con rồi anh có đi nữa không?


- Còn tuỳ cha xứ.

- Thế anh là của em hay là của cha xứ?

- Là người của cha. Cha sai bảo phải làm!

- Trời đất! Anh! Đáng lẽ ra em chưa nên nói cho anh biết lúc anh vừa chân ướt chân ráo
trở về. Nhưng tình thế buộc em phải nói. Nếu không chúng ta ân hận!

Vừa nói với chồng, Lan vừa ngước đôi mắt đen láy, long lanh nhìn chồng bằng những tia
vừa van lơn, vừa lo sợ. Hám ngồi xuống chiếc ghế, tròn mắt nhìn vợ. Hai quai hàm bạnh của hắn
động đậy. Hắn rùng mình như một làn gió lạnh thổi qua. Lan kéo chồng vào buồng trong, đóng
kín cửa.

- Anh, việc anh đi vừa rồi, công an biên phòng đã biết.

- Trời! Đồ quỷ dữ, làm sao chúng nó biết? - Hám trợn mắt, giơ hai tay lên như chực vồ lấy
Lan.

- Vì em đi tìm anh!

- Sao không hỏi cha xứ!

- Ôi! Cha xứ! - Cái đau đớn bắt đầu cựa quậy trong lòng cô. “Đừng bao giờ để ảnh biết đến
sự ghê tởm ấy”. Cô thầm nghĩ vậy. Sự thật về cha xứ đã như một đòn đánh vào đức tin của Lan.
Lan cảm thấy cha đạo, các thánh... chỉ như một thứ mặc cả đổi lấy lòng tin của con người nhẹ dạ
mà thôi. Chúng là những kẻ nhân danh Chúa, đội lốt thánh nhân lừa lọc con chiên. Lương tâm cô
âm thầm hứa với Chúa sẽ làm ăn như một người lương thiện để đổi lấy lòng thương của đức Chúa
Trời...

Giờ đây, Hám nhắc đến cha xứ, đề cao cha xứ, chỉ như chọc đến nỗi bực mình của Lan.

- Anh! Anh tin Chúa Trời, chớ đừng có tin cha xứ. Bởi môn đồ của Chúa cũng có tên Giu
- đa bán Chúa 30 đồng cho các thầy tế lễ! Huống hồ là cha xứ. Thôi điều đó còn dài đường lắm,
nói đến mút mùa đâu có vơi. Còn bây giờ anh nghe em. Các anh công an biên phòng đã biết việc
anh đi. Anh sớm trình diện với họ. Nói rõ với họ, ai đã bắt anh đi. Tội lỗi đó đâu có phải ở anh...

- Lan! Mày là con quỷ, mày phản bội tao. Mày sẽ xuống hoả ngục - Hám quắc mắt lên,
quai hàm bạnh ra.

- Anh! Em biết anh về đây là vì em, vì con. Nếu phản bội, em sẽ chịu xuống hoả ngục.
Nhưng đâu có phải...

Lan ngước mắt nhìn chồng. Mắt cô ánh lên những tia vừa nóng bỏng, vừa dịu dàng.
- Anh! Anh ngồi xuống nghe em nói đã nè. Có người vợ nào lại muốn cho công an biên
phòng xích tay chồng mình mà lôi đi. Em không thể để cho ai bắt chồng em. Anh đã vì em mà về.
Em có lương tâm nào lại tố cáo để người ta bắt anh. Nhưng, nếu anh không ra trình diện, thú thiệt
mọi điều thì việc đó sẽ đến. Vì người ta đã biết anh đi, ắt sẽ biết anh về. Anh ra trình diện, anh sẽ
được về sống với vợ con. Chúng mình sẽ lo tạo lập một gia đình như khi anh đi học tập về dự tính.
Em nghĩ anh có ra trình diện thì mới được ở nhà. Nếu không anh lại hoặc là bị bắt, hoặc là trốn
chui trốn lủi, chết bụi chết bờ như một cô hồn.

- Cô đừng có giỡn với tôi!

- Anh lại định gây lộn với em à! Mười hai tháng đi học tập đó, đâu có ai hãm hại anh.

- Nhưng lần này thì mút mùa, mút mùa!

- Anh cứ ra trình diện, nói thiệt hết với họ đi. Nếu anh phải đi học tập, em giao ước xin đi
thay cho anh đó.

- Không! Tôi... tôi đâu có làm được việc đó. Còn cha xứ...

- Anh muốn ở với vợ con không là tuỳ anh. Anh còn bị ai hăm đe, anh hãy nói thiệt, anh
về đây vì em hay vì cha xứ...

- Cha xứ tốt hay không mặc kệ. Không ai được giày đạp lên uy quyền tối thượng mà Chúa
Trời giao cho cha!

- Em không cấm cản anh nói điều đó. Bây giờ anh tính thế nào cho cuộc đời của anh. Để
cho anh tự ý quyết định lấy. Anh trình diện, rồi ở với em hay theo cha xứ để rồi vào tù mọt xương
hay sống chui sống lủi. Anh lo liệu lấy cuộc đời của anh đi.

- Cái đó hậu tính. Cô đừng thách đố tôi.

Mặt Hám đổi sắc. Hám đứng dậy, hai tay chống vào hông. Hám toan bỏ đi. Lan giữ chồng
lại.

- Anh đi đâu? Ai hăm đe, cấm cản anh không được ở nhà? Cách mạng đã xá tội, đã cho
anh về. Anh không được đi đâu hết đó.

Lan nhìn thẳng vào mắt chồng. Lan biết giữa cô và cha xứ, hai người như đang trên hai
trận tuyến thầm lặng. Mục tiêu chiếm lĩnh là Hám - chồng cô - cô kêu gọi anh trình diện thú tội rồi
trở về với cô. Còn cha xứ lại muốn kéo anh đi. Và, biết đâu cha xứ lại đang xô anh vào con đường
tội lỗi.

- Anh! Anh nghe em. Anh nghĩ lại đi. Cuộc đời anh đã quá khổ rồi...

- Thôi! Cô đừng có băm đi, băm lại mãi nữa! Quỷ sứ có hỏi thì tôi cũng phải nói: phải nghĩ
rồi hậu tính chứ!
- Anh nghe nè! Trong chuyện này, em không dám bắt anh hi sinh cho em. Nhưng em là vợ
anh. Em không muốn cho anh khổ. Nhưng nếu ai bảo đảm cuộc sống cho anh, đưa lại hạnh phúc
cho anh thì anh nghe theo họ. Có điều là đừng làm gì vì anh mà mẹ con em khổ. Anh tính toán đi!
- Lan vừa ức vừa giận, nức nở khóc.

Hám đấu dịu:

- Thôi, cô cho tôi cái gì trám bao tử đã chứ!

Lan làm cơm cho chồng ăn.

Lan đóng cánh cửa buồng. Cô cài chốt ngoài lại. Cô mong bồi hoàn sự mệt nhọc, dằn vặt
của chồng bằng giấc ngủ ngon. Rồi sự tĩnh tâm sẽ kéo chồng về với lẽ phải. Những ký ức dù ngủ
say cũng được vọng lại một hồi chuông thức tỉnh! Đứng trước cánh cửa vừa cài chặt, sự băn khoăn,
day dứt trong lòng cô càng mở rộng ra: “Lạy Chúa Trời, nếu có đức Chúa Trời sáng láng thật thì
xin người ban ơn để con đừng phải va đầu vào vách đá một lần nữa; để chồng con biết trở về với
lẽ phải,trở về với con...”. Vì từ lâu Lan cứ đinh ninh rằng những lời trong kinh bổn mẹ Lan dạy
Lan thuộc lòng từ thuở mới biết nghe, mới biết nói thì bổn phận chiên lành phải làm tốt đời đẹp
đạo để đúng như câu hát trong buổi chầu buổi lễ ở nhà thờ “Sáng danh thiên chúa trên trời; Bình
yên dưới thế là người chúa thương”. Đàng này những việc làm của cha Thánh Thiện mà Lan là
nạn nhân đúng như quỷ dữ đội lốt thánh nhân

Lan suy nghĩ, đắn đo. Trong cái xã hội “Mỹ đĩ, nguỵ tiền”, cô đã bị phụ bạc, bị vùi dập quá
ê chề rồi. Lan thèm khát lòng yêu thương chân thật, thèm khát sự đùm bọc, ưu ái giữa con người
với nhau. Có thể nói, Lan đã khát thèm những điều đó, dằn vặt về những điều đó nhiều hơn là đói
cơm, đói áo...

Sự suy nghĩ mông lung ấy của Lan nhường cho một sự thật phũ phàng. Gần đến trưa, Lan
mở cửa vào để định bàn tính thêm với chồng. Cô đâu có thấy Hám nữa! Y đã trèo lên mái nhà dỡ
ngói, trốn đi. Bởi Hám biết:mũi giáo bén trong tay y đã lao trúng lương tâm y, vào chuỗi ngày mà
cuộc đời đang giãy giụa.

Một lần nữa, Hám “cá mập” mất hút. Lan không còn biết hỏi ai về chồng, không biết tìm
chồng ở đâu. Chả lẽ lại đến cầu cạnh cha xứ. Cô đâu có làm việc đó! Lan viết lá thư nói rõ đầu
đuôi sự việc về chồng mình gửi đến đồng chí chỉ huy công an biên phòng: “... Tôi mong muốn
người chồng tôi, người chồng được cách mạng cải tạo, suốt đời ở với mẹ con tôi, làm ăn lương
thiện, đùm bọc nhau, tích cực chấp hành những công việc cách mạng giao cho để chuộc lỗi lầm
cũ... không nghe lời lừa lọc của ai, không bị ai hăm đe để rồi chui vào vòng tội lỗi... Nhưng điều
đó đã không đến với tôi... Tôi xin nhờ cách mạng, nhờ các anh công an biên phòng hãy giúp mẹ
con tôi kiếm tìm cho ra ảnh, giữ ảnh lại, tách ảnh ra khỏi sự độc ác, để ảnh không còn mất hút
trong đêm dài xứ đạo...”

Trong kỳ xưng tội cuối tháng hoa này, cha xứ quyết định thẩm tra chu đáo Gấu “biển”.
Gấu “biển” quỳ trước mặt cha. Cha ngồi trên ghế. Giọng cha ngọt ngào.

- Con! Tháng hoa là tháng trái đất tràn ngập hoa dâng kính Đức Mẹ. Tháng hoa này là
tháng muôn tâm hồn tôn sùng yêu mến Đức Mẹ. Bởi Đức Mẹ là viên ngọc bích, là tác phẩm tuyệt
với của Thiên Chúa, là bình minh, là bồ câu, là bông hồng ngát... Con hãy thành thực hồi tâm,
xưng tội. Đức mẹ sẽ cứu rỗi cho con.

Gấu “biển” quỳ khoanh tay trước ngực, mắt nhìn thẳng cha xứ. Gấu kể tội lỗi của mình
phạm trong những ngày qua. Nào là đạp xích lô lấy tiền của khách đắt quá, nào là uống rượu say,
nào là ngủ quên đọc kinh nguyện. Giọng Gấu “biển” nhỏ nhẹ như thì thầm:

- Thưa cha! Chúa đã dạy: loài người là sinh vật phong tình bội ước, chóng quên cái chân
thiện mỹ của tình thương mà đấng cứu thế đã phán dạy. Cha thương con, con có tội gì nữa, xin cha
vạch cho để con được làm sáng danh Chúa, đi theo con đường của Chúa.

- Chiên lành của cha, con hãy trả lời cha thật rành rọt, rồi con sẽ được xông hương thơm
bởi lời nói, việc làm hoàn toàn thánh thiện của con. Con là ai? Tên con là gì? Con ở đâu? Con làm
nghề gì? Bạn thân con là ai?...

- Thưa cha! Tên con là Gấu, là Phạm Gấu. Bè bạn con thường gọi con là Gấu “biển”. Bởi
con có gia nhập thủy quân lục chiến thời ông Thiệu. Bạn thân của con tên là Hám, trước là cảnh
sát. Chính Hám đặt cái tên ấy cho con. Ba con quê ở Bắc Trung Việt. Má con quê ở Nam Trung
Việt. Ba con ốm chết. Má con vào Sài Gòn được một thời gian thì cũng chết luôn. Con kết với đám
bụi đời, được ông Thiệu thu nhận vào trại mồ côi, rồi vào lính. Ba má con trước đâu có phải là dân
Chúa. Khi con vào lính, con được xin lễ xem “Tân ước”)(1) và con là đạo tân tòng(2). Con đã đội
ơn cha bởi cha rửa tội lần đầu tiên cho con để con được đón nhận ân sủng của cha tại sư đoàn thủy
quân lục chiến. Lần đó , cha đã cho con rượu lễ. Con đâu có quên.

- Thưa cha! Sau ngày Cộng sản tràn ngập miền Nam con phải đi học tập và nay con làm
nghề đạp xích lô kiếm sống... Con mong cha thấu xét lòng con!!

Cha xứ tỏ vẻ lắng nghe, kỳ thực cha đã biết gốc tích của hắn qua Hám rồi. Cha muốn hỏi
để đối chiếu mà thôi. Một lý do nữa, cha muốn trực tiếp xem xét lại Gấu. Cha gật đầu, thầm xác
nhận: chiên này ta có thể dùng được vào “nghĩa lớn”. Nhưng cha xứ đâu có biết những chi tiết thật
trong cuộc đời của Gấu. Chi tiết đó trước đây, bản thân Gấu cũng không hề biết. Và, nay đã biết
thì anh ta lại không hề nói! Bố anh ta là người trong đội quân Nam tiến. Trên vành mũ ca lô của
ông đã từng sáng dòng chữ “Miền Nam là đất của Việt Nam”... Ông đã anh dũng chiến đấu và ngã
xuống trong rừng dừa Bình Định, để lại một vợ và một đứa con. Rồi vợ ông bị giặc Mỹ hãm hại.
Hồi đó, bà là một đảng viên, một cán bộ phụ nữ. Đứa con trai bơ vơ vào đất Sài Gòn xin ăn... Ngụy
quyền Sài Gòn đã thu nhập đám bơ vơ này vào quân trường. Rồi đẩy chúng về các đơn vị “Trâu
điên”, “Cọp biển” của thủy quân lục chiến... Sau ngày giải phóng, ở trại học tập, Gấu được một
người - bạn của mẹ anh cùng trong Hội phụ nữ trước đây nhận ra anh. Chị đã nhắc lại cho anh về
chặng đời quá khứ của gia đình anh.

Gấu sống ở xứ đạo Đại Phước hỗn tạp đầy những người tứ xứ dồn về bởi kẹt không di tản
được. Chúng sống lén lút, trà trộn để một chặng đời đen tói không bị lôi ra ánh sáng. Chúng làm
đủ mọi thứ nghề: hớt tóc, bán kem, đánh cá và... cả trộm cướp. Đám con gái giang hồ trong các
đội Phượng hoàng, Chiêu hồi, Chiến tranh tâm lý... thì chui vào nhà tu, thành tu sĩ, thành con chiên
ngoan đạo. Chúng nấp dưới sự bác ái của Chúa Trời chống lại cuộc sống của dân lành.

Gấu biết mình trong cái thế đó, Gấu nhắm mắt: mặc kệ cho đời và yên lặng nghe cha xứ
phản bảo:

- Việc cha muốn nói để con cung hiến cho “nghĩa lớn” cũng là do Chúa sắp xếp an bài đó
con.

- Thưa cha! Con là chiên của Chúa, là kiếp tôi đòi, con đâu dám sai lời.

- Con! - Cha xứ ngồi sát vào Gấu. Cha thầm thì bàn với Gấu. Giọng cha quyến rũ, thôi
thúc. Tay cha vung về phía trước làm những cử chỉ táo bạo minh họa cho câu nói. Gấu gật đầu vẻ
thán phục và chấp nhận. Cha xứ vỗ vào vai Gấu:

- Con! Đêm nay, cha ở đây và cả Thiên Chúa - người coi giữ linh hồn con đang chờ chiến
tích tiền khởi của con.

Gấu cúi đầu trước cha. Cha xứ Thánh Thiện đứng dậy. Cha đi ra phía sau pho tượng Đức
Mẹ, luồn tay vào sau lưng tượng, kéo ra một gói vuông, bọc trong lớp vải trắng. Cha xứ đưa cho
Gấu. Đây là nhiệm vụ cha giao. Gấu đưa hai tay đỡ lấy gói trân trọng như một thánh vật...

Gấu giấu gói vuông dưới đệm xe xích lô. Hôm nay, Gấu không nhận chở khách, không
nhận chở hàng. Gấu đạp nhanh về phía vườn bông. Gấu nhìn phía sau và cả xung quanh chỉ thấy
có một người đàn ông đứng tuổi bán kem đạp xe đi theo. Người đó mang kiếng đen, đi xe đạp kiểu
đàn bà đã cũ. Người đàn ông cứ thủng thẳng phía sau đạp theo xe Gấu. Gấu đạp nhanh quẹo vào
xa cảng.

Một thanh niên mặc quần loe màu xanh, đi dép mút đế cao, màu nâu vẫy xe:

- Bác cho đi về phía Bãi Dương. Bác chở dùm cho chiếc máy truyền hình hư, đi sửa về.

- Hai trăm.

- Trăm rưởi - hên rồi đó!

- Mời lên - Gấu xuống sửa lại đệm xe, đẩy gói vuông lui về một bên.

Người thanh niên nhảy lên xe ngồi ngay ngắn. Gấu gò lưng đạp.

Ra khỏi xa cảng, vào quãng phố ít người, nhìn phía sau không còn người bán kem đạp theo
nữa, Gấu và người thanh niên nói chuyện nho nhỏ với nhau. Gấu rút bút “bíc” trên túi áo và xé tờ
lịch trong cuốn lịch tay. Gấu viết vội mấy chữ. Viết xong, Gấu nhìn quanh, không thấy ai để ý,
anh ta trao tờ giấy cho người thanh niên. Gấu nhận tiền. Hai người chào nhau rồi mỗi người đi về
một ngả.
Đêm ấy... Xứ đạo Đại Phước im lìm. Nhà cửa cả xứ lại như một bầy chiên no cỏ ngủ say
dưới chân người chăn giữ. Cha xứ Thánh Thiện không ngủ. Cha mở cửa sổ nhìn về phía tây bắc
thành phố. Phía đó có những nhà kho, những bến cảng, những nhà máy thiết yếu, những con lộ
lớn... Cha căng mắt nhìn, chờ đợi...

12 giờ đêm. Khi chuông nhà thờ đổ một hồi dài, xoáy vào không gian xứ đạo thì ở giữa
nghĩa địa “Vườn cực lạc” con cú mèo đơn côi lại rúc lên mấy tiếng...

Kim phút chiếc đồng hồ Orien trên cánh tay của cha Thánh Thiện nhích lên từng phút... 1,
3, 4, 5. Bỗng một chớp lửa vàng xanh lóe lên ở phía cha đang chờ đợi. Rồi một tiếng nổ tiếp theo.
Tiếng nổ như to hơn, dội hơn. Cha xứ thở phào. Một nụ cười mãn nguyện trong ánh đèn mờ ảo.
Thêm một chiên lành xứng là “chiến sĩ trung nghĩa”. Cha nói trong sự vui mừng.

... Mờ sáng, người thanh niên mặc quần loe màu xanh, đi dép đế cao, màu nâu đã dừng hon
- đa trước tiệm hủ tiếu gần cửa nhà thờ. Anh ta ăn hủ tiếu và loan một tin: “Đêm qua, một nhà kho
bị đánh mìn. Bó truyền đơn phản động buộc kỹ quá, không tung ra được nên bị cháy”.

Tin đó đến tai cha xứ trước khi người bán kem đeo kiếng mắt đen về báo với cha...

Lệ Thùy Dương còn có cái tên là Dương “vẹo”. Có ai hỏi vì sao cô lại đi làm nghề hớt tóc,
Thùy Dương chỉ cười. Nụ cười ngậm kim, đôi môi chúm chím và đôi mắt mơ buồn nhìn vào
khoảng không bao la...

Ông Bác Ái là người có thế lực số một trong xứ đạo này đã dàn xếp cho cô nhận một bàn
trong tiệm hớt tóc tân nữ “Lim Dim”. Bàn của cô có đầy đủ tiện nghi nhất và ở phía trong cùng.
Trên bàn, phía góc của tấm gương lớn để khách soi, cô gắn một tấm ảnh nửa người của cô, đôi
cánh tay tròn lẳn nõn nà, đôi mắt tròn xoe, đôi môi mỉm cười như khơi gợi và chào mời mọi người.
Từ hôm có Thùy Dương làm, tiệm hớt tóc tân nữ “Lim Dim” càng thêm đông khách. Tiệm đặt ở
cái phố đông người nhất, cách đồn công an vũ trang biên phòng không xa. Nơi đó, thời Mỹ - ngụy
đã từng mọc lên đủ các thứ tiệm như nấm độc mọc trên đất hoang... Tiệm hớt tóc “Lim Dim” dạo
này có Can, chiến sĩ biên phòng thường lui tới. Mỗi tuần vài lần, anh đến cạo mặt, chải đầu. Và
mỗi lần thấy anh lính đeo quần hàm xanh đến, Thùy Dương lại ra tận cửa, tươi cười mời chào anh
vào bàn hớt của cô. Cô thật sự coi anh là khách quý. Sự hòa ái ngày càng thấm đẫm, anh trung sĩ
càng ra Tiệm nhặt hơn.

Thùy Dương chăm chú tỉa từng cái tóc cho Can. Thỉnh thoảng cô lại ngước nhìn vào tấm
gương và liếc mắt nhìn Can trong gương, nở nụ cười tỉnh. Chính lúc ấy, cái mũi cao của Thùy
Dương mới lộ ra... hơi vẹo về phía phải. Can đã biết rõ Thùy Dương qua đồng chí chỉ huy đội trinh
sát. Cô gái này đã từng nằm trong thẩm mỹ viện Thiên Nga hàng tháng để tái tạo sắc đẹp của mình.
Thùy Dương ghé gần sát vào tai Can:

- Anh của em hớt thấp chút xíu mới đẹp nè. - Cô gái ôm đầu Can vằn vò nũng nịu. Can gỡ
nhẹ tay cô. Cô gái cúi xuống, giọng rủ rỉ:
- Anh! Ở trong này, con gái đâu có thích đàn ông có vẻ đẹp của “người vườn”. Vẻ đẹp ấy
chỉ để dành cho những con gà mái. Vẻ đẹp của đàn ông là phải có dáng như con gà chọi, phải lớn
mào, dài cựa, đuôi cong sặc sỡ. Nghĩa là phải rậm râu, tốt tóc, mai nhọn, áo quần đúng mốt thời
trang. Chớ mấy anh ở ngoài vô đây “người vườn” lắm. - Cô gái cấu vào tai Can một cái nhè nhẹ.
- Râu nhẵn thín, gáy trắng nhởn, quần thì hai chân xỏ vào một ống cũng vừa. Gà mái lắm!

Can im lặng, rồi gượng cười:

- Mấy cô chỉ nói!

- Ô, chỉ biết nói “dậy” thôi! Đâu có biết nói chánh trị và uống nước lã.

Thùy Dương cắt tỉa cho Can kỹ lắm. Cô ríu rít bắt chuyện. Lúc thì cô ghé sát cái mồm đỏ
chót vào tai anh, lúc lại ghé sát cái má hồng đầy phấn thơm thơm vào gần mũi anh. Can vẫn ngồi
im, thỉnh thoảng mỉm cười đáp lại.

Thùy Dương bấm cái nút, chiếc ghế từ từ ngả ra. Người Can ngả dần theo tư thế như nằm
ngửa trên vòng tay của cô ta. Thùy Dương cạo thật nhẹ, thật êm. Lưỡi dao ngọt xớt đưa khắp mặt,
đưa xuống cổ, xuống vai... Can khoan khoái, lim dim mắt và miệng thì thào trò chuyện với Thùy
Dương. Không biết vô tình hay mải chuyện, cô gái đặt mũi dao cạo làm đứt chút xíu da mặt Can.
Cô cúi xuống không hề ngưỡng ngùng hôn “chút chút” vào chỗ đó: “Em đền nè. Em đền cho anh
nữa nè - Mỗi lần nói cô lại hôn lên mặt anh một cái”.

... Can nhận lời mời đến nhà riêng để thăm ba má của cô là người đồng hương. Qua vài lần
đi lại, Can trở thành khách quý của số nhà 15. Đó là một ngôi nhà hai tầng, kín đáo và yên tĩnh.
Phía sau nhà là núi, trước là bãi tắm Thùy Dương, bên cạnh là “Bồ tát tĩnh xá”.

Can đến nhà số 15 với quan hệ đặc biệt: đồng hương Bùi Chu di cư vào năm 1954. Gia
đình rất quý, rất thương Can. Lần này, Can đến đúng giờ mà Thùy Dương hẹn. Cô đưa Can vào
phòng riêng. Cô cầm tay Can và xỏ vào ngón tay anh một chiếc nhẫn vàng có đính viên kim cương
lấp lánh.

- Anh nè! Em đơn côi lắm. Đêm đêm em thường cầu nguyện cho em được ở gần anh. Anh
có biết không?

Thấy Can giơ ngón tay nhìn chiếc nhẫn, Thùy Dương cợt nhả:

- Ôi! Còn có cái này nữa nè. Em để dành cho anh miết đó. Em sắm cho anh xài từ ngày
mới quen kia.

Vừa nói, Thùy Dương vừa cầm cái đồng hồ tự động hiệu Ti-tô-ni đeo vào cổ tay cho Can.
Can cười:

- Tôi rất quý Thùy Dương...

- Phải nói hơn thế nữa chứ anh!


Can chỉ cười và anh cởi chiếc đồng hồ trong tay mình, đeo vào tay Thùy Dương và nói:

- Anh giữ cái nhẫn là được, còn đồng hồ, anh em họ biết... phiền lắm.

- Thì đã sao nào! Anh cứ xài đã. Anh hiểu là bắt được trên đường phố nè...

... Thùy Dương mở la-de, lấy trái cây tiếp Can, lấy thuốc lá “ba số” cho Can hút. Cô hỏi
anh muốn đọc gì, có muốn xem ảnh “người đẹp” không? Cô mở ngăn kéo lấy ra một tập ảnh con
gái đủ các kiểu. Thùy Dương quàng tay lên vai Can. Anh gấp tập ảnh lại, nhìn Thùy Dương:

- Anh không xem cũng biết rằng mọi kiểu ảnh đều không đẹp bằng em.

- Anh ca em vừa thôi nè, kẻo em ấm đầu sổ mũi. Em đền anh đó. - Bỗng ... Thùy Dương
ôm lấy Can. Cô tự bỏ áo ngoài, áo lót của cô ra... Cánh cửa đột nhiên mở. Hai người đàn ông đứng
tuổi bước vào. Cả hai người chằm chằm nhìn Can. Rồi một người cười gằn, giọng lơ lớ nửa Nam,
nửa Bắc:

- A! Anh dám dở trò ma quỷ giữa ban ngày à?

Can lấy lại bình tĩnh, vẫn ngồi hút thuốc. Can nhìn người đeo kính đen vừa nói câu đó. “Ai
nhỉ! Sao quen quá?” Can lục tìm trong trí nhớ: A!... A! Can nhớ ra rồi. Thì ra tên này hay đạp xe
đi bán kem khắp các phố ở đất Vũng...

- Các ông muốn gì? - Can nói.

- Anh có biết Lệ Thùy Dương là ai không? Là, là vợ của một thiếu tá hải quân cộng hòa.
Ông ta đang ở bên Mỹ đó - Người đeo kính đen dằn từng tiếng.

- Thế thì sao? - Can vặn lại.

- Cô ta sẽ nói những điều này ra. Cả xứ đạo này đều biết. Cấp trên biết, anh tính sao?

- Nhưng sao các ông lại tính đến việc độc ác đó. Các ông định hại đến danh dự của tôi?

Người đeo kính đen cười nham hiểm:

- Không những chỉ hại đến danh dự mà còn hại đến hạnh phúc và sự nghiệp của anh. Nếu
cô Thắm, người vợ rất đỗi yêu thương của anh biết chuyện này, anh nghĩ sao?

Can giật mình và tỏ ra vẻ sợ hãi.

- Các ông muốn gì? Các ông là ai?

- Là ai, rồi anh sẽ biết. Nhưng cái anh biết trước là muốn êm xuôi chuyện này đi, chỉ có
chúng ta biết thôi thì anh phải làm việc giúp chúng tôi.
- Các ông bảo tôi phải làm cho các ông việc gì?

- Việc nhẹ thôi, chút xíu thôi, không khó khăn gì hết đó. Anh làm dư sức mà. Nhưng anh
phải thiệt lòng. Nếu anh lật mặt thì sức mấy mà anh thoát khỏi tay chúng tôi. - Người đeo kính đen
nói với vẻ úp mở, hăm đe.

- Nếu việc tôi làm cho các ông không may bị lộ? Tôi lo lắm!

- Anh lo chi cho hao hơi. Chúng tôi có “mật khu” kín đáo cất giấu anh. Chúng sức mấy mà
tìm ra. Anh sẽ có cuộc sống sung sướng hơn. Nếu anh muốn vù đi xa như một cánh chim đại bàng
vượt biển để có cuộc sống mới lạ thì đây, cô Thùy Dương xinh đẹp, cô sẽ đưa anh sang Hoa Kỳ,
hay sang Đài Bắc, tùy anh thích...

- Đi bằng cách nào được? Tôi vẫn lo.

- Anh sẽ đi với em - Thùy Dương nhẹ nhàng nói. - Muốn đi loại bốn lốc, sáu lốc hay mười
lốc là tùy ta chọn. Em sẽ vinh hạnh có một chàng kép sáng giá như anh. Anh trai em, trung tá hải
quân đang ở ngoài đảo C.10. Thư về luôn đó nè. Anh cứ nhận làm việc với mấy ảnh và em đi. Anh
muốn xài gì em đâu có thiếu. Nè anh, mọi việc ta làm ở trần thế này đều đã do Chúa Trời an bài
sắp xếp cả đó anh. Đắn đo mà chi, lo sợ làm chi anh!

Thấy Can đã “chịu khuất phục”, hai người đàn ông kéo ghế ngồi gần Can. Hai người rầm
rì bàn tính với Can. Lát sau một người nói như giao hẹn.

- Thế đó, tối thứ bảy này, vào giờ ấy... anh đưa tấm bản đồ tác chiến của đồn biên phòng
của anh và hôm sau anh đưa luôn khẩu sung K.54 của ông đồn trưởng. Đúng hẹn, anh sẽ có món
xài lớn đó nghe.

- Tôi vẫn còn lo, các ông phải bảo đảm tính mạng cho tôi chớ!

- Lo chi cho hao hơi. Anh không biết à? Cái ngày tuyển cử hôm nọ, Cộng sản giăng loa
tuyên truyền, chúng tôi vất cả chục cái xuống biển mà đến nay chúng đâu có tìm ra. Lần ấy, tôi chỉ
mất có hai lít rượu và mười con cá mực thôi nè.

... Ra khỏi nhà số 15, Can thở thảo nhẹ nhõm: “Mật ong để chung chai với nước lã dù xóc
mỏi tay cũng đâu có hòa lẫn”. Can nhớ lời Lê Quang, đồn phó dặn dò, dự tính tình huống xấu, lúc
anh đi.

Trần Minh ngồi yên. Anh lặng người. Anh chăm chú nhìn tấm bản đồ trải rộng. Vùng đất
Vũng trong bản đồ hiện lên trước mắt anh những núi Lớn, núi Nhỏ, bãi Thùy Vân, bãi Tầm Dương,
bãi Dâu, Bãi Dứa, ghềnh, động, hải đăng... hiện lên bao thắng cảnh và kỳ tích nơi cửa ngõ đi vào
Sài Gòn. Các kỳ tích đó gợi cho anh nhớ đến những người lính biên phòng thời xa xưa đến đây
trấn giữ để “diệt tặc an dân” lập nên làng ấp...
Và, tại đồn biên phòng nơi anh đang ngồi đây là đồn lũy, là làng ấp của những người lính
biên phòng năm xưa. Chiến tích, kỳ công, mồ hôi và máu của họ đã đổ xuống, đã khai phá nên
những thắng cảnh này. Nay lũ giặc tuy đã cuốn đi rồi, nhưng hậu quả của chúng vẫn còn để lại.
Hậu họa của chúng dồn về đây, dồn về xứ Đại Phước! Làm sao cho vùng biển của Tổ quốc được
trong lành, vùng đất của Tổ quốc được an ninh trọn vẹn. Đó là trách nhiệm và vinh dự mà nhân
dân giao cho các anh. Trần Minh cúi rạp mình trên tấm bản đồ. Anh soi tìm những địa chỉ, những
nơi xảy ra những việc mới, nhất là các nguồn tin vừa báo về. Bỗng, Đồn phó Lê Quang bước vào:

- Thế là đã rõ ràng - đồn phó vui vẻ nói, giọng đầy tự tin - T.1 và D.5 đã báo cáo tình hình
khớp nhau. Tên đội lốt cha đạo là chủ trò, nhà thờ xứ là nơi quy tụ. Tên đeo kính đen cũng là một
tay “anh chị”. Tôi hơi bất ngờ tên bán kem này. Từ hôm ta bố trí cho D.5 gây ra vụ nổ trên đám
cỏ không trong gian nhà tôn, thì tên này mới xuất hiện. 12 giờ 5 phút “nổ kho”, sáng sớm, anh em
trinh sát đã thấy hắn đạp xe đến đó bán kem. Hắn có len vào tận nơi để xác minh “thất thiệt”,
nhưng các chiến sĩ trinh sát đã đuổi ra. Anh xem, hồ sơ về hắn đây, T.1 và D.5 đã báo cáo.

Đồn phó đưa tập hồ sơ dày cộp. Trần Minh lướt nhanh trên hàng chữ: “... Người bán kem
đeo kính đen, đi xe đạp nữ đã cũ, chuyên bán kem ở vùng đất Vũng, vùng Đại Phước và các xứ
đạo ở Hố Nai... tên thật là Đậu Vằn. Hắn còn có tên là Vằn “còm”, nguyên là đại tá ở Cục tác chiến
trong Bộ Tổng tham mưu quân ngụy. Hắn là người thân cận của tướng Ngô Quang Trưởng. Ngày
giải phóng, hắn đã chạy về ẩn ở Hóc Môn rồi ra trình diện với cách mạng giả là trung sĩ quân tiếp
vụ. Sau đó, hắn về Hố Nai, rồi chạy về xứ đạo Đại Phước, bắt liên lạc với cha xứ Thánh Thiện.
Thấy để hắn ở trong nhà thờ không tiện, Thánh Thiện đã bố trí hắn về ở trong nhà chủ tịch giáo
xứ Bác Ái. Bác Ái xếp cho hắn cái nghề bán kem. Hắn thường lấy kem vào buổi sáng ở hãng kem
của Hai Quắm. Với cái nghề đó, hắn đã len lỏi đi khắp các nơi, len vào trụ sở các cơ quan nhà
nước, các hội nghị quan trọng, các doanh trại quân đội, công an, các bến cảng, nhà kho... Hắn vào
để dò la và móc nối với đồng bọn. Quê hắn ở vùng Phát Diệm, Kim Sơn, Ninh Bình. Hắn di cư
vào Nam năm 1954, lúc đó hắn là vệ sĩ của cha đạo Lê Hữu Từ. Vợ hắn là một “ca sĩ” đã bỏ chạy
sang Mỹ bằng trực thăng hồi tháng 4 năm 1975. Sở dĩ hắn có tên Vằn “còm” là ngày ở Cục Tác
chiến quân ngụy, hắn chơi bời trác tang quá độ nên thân xác cứ còm cọi, quắt lại, trông vừa bẩn
tướng, vừa hãm tài. Bọn cố vấn Mỹ đặt cái tên đó cho hắn. Hiện nay, hắn phụ trách quân sự trong
tổ chức mà cha Thánh Thiện cầm đầu. Hắn trực tiếp vẽ bản đồ tác chiến, tập hợp tổ chức các sư
đoàn, trung đoàn để đánh chiếm vùng Hàm Tân, Vũng Tàu, cắt đường 15, đường số 1, lấy vùng
núi Gia Kiệm, Định Quán và đường 20 làm điểm tựa. Hắn đã tìm đất lập mật khu, nhưng chưa rõ
vùng nào. Chúng tôi sẽ xác minh tiếp ...”

- Thế đó, bọn phản loạn đang thách đố ta! - Trần Minh gấp tập hồ sơ lại. Anh nói tiếp với
Quang:

- Tiếc rằng tên Hám bị chúng giết hụt ta đang cứu chữa chưa tỉnh. Đó là nguồn tài liệu sống
rất quan trọng để xác minh, đối chiếu các nguồn tin.

- Theo anh, tại sao chúng lại giết Hám? - Quang hỏi.

- Chúng định bịt đầu mối. Vì tên này đã biết những bí mật về chúng, kể cả nước ngoài. Và
nữa, có thể tên Hám đã nói với lão cha đạo là vợ hắn đã làm lộ, nên chúng lo sợ.
Quang nói tiếp:

- Như thế, T.1 và D.5 phải luồn sâu thêm vào tổ chức của chúng để tìm cho ra hết bọn đầu
sỏ, tìm cho ra “mật khu” và các tổ chức quân sự của chúng. Đây là một tổ chức phản động nguy
hiểm. Ta phải nhanh chóng bóp chết từ trong trứng nước, với thời gian nhanh nhất, gọn nhất, không
để chúng gây tác hại ảnh hưởng đến tình hình chung...

Trần Minh chỉ vào tấm bản đồ trước mặt:

- Chúng đang phát triển tổ chức ra cả vùng này. - Anh khoanh một vùng rộng có núi, có
biển, có thành phố, có nhiều xứ đạo - Chúng ta có điều kiện đưa thêm người vào.

Quang đề nghị:

- Cho cả D.7 xuất trận. Nên đánh vào. Đánh sâu vào, T.1 và D.5 đã hoàn thành tốt nhiệm
vụ, nhưng phải có lý do để rút ra đúng lúc.

- Như thế, việc trước mắt là yêu cầu ta phải nắm chắc về cơ cấu tổ chức, nắm chắc về lực
lượng vũ trang và kế hoạch hành động của chúng. Nhưng, chớ để chúng gây ra án. Phải đề phòng
chúng tung ra hỏa mù, pháo khói để lừa ta! Chúng xảo quyệt lắm!

... Bỗng đồng chí chỉ huy đội trinh sát bước vào. Đó là người được phép mặc quần ống loe
màu xanh, đi dép mút đế cao, màu nâu:

- Báo cáo các thủ trưởng, có tin mới!

- Đồng chí vào đây! - Trần Minh kéo ghế cho đồng chí trinh sát ngồi. - Tin của ai?

- T.1 xin ý kiến về việc tên Đậu Vằn muốn T.1 trao cho hắn tấm bản đồ tác chiến của đồn
chúng ta và khẩu K.54 của đồn trưởng.

- Chúng muốn thử T.1 đây! Còn gì nữa? - Trần Minh hỏi.

- Cơ sở báo tin, tên Hai Quắm có hãng kem “Kim Tinh” đang tìm một người lái tàu giỏi,
trả công mười lạng vàng mỗi chuyến...

- Hay lắm, còn gì nữa!

- Đội tăng gia của đơn vị Y mất tích hai chiến sĩ, mang theo hai khẩu AK.

- A chà! Găng quá!

- D.5 báo tin, cha xứ gọi vào nhà thờ đọc tập san của chúng, in trong mật khu chuyển ra.
Nhưng cha không cho cầm ra khỏi nhà thờ.

- Trong tập san nói gì? D.5 có báo cáo không?


- Tập san số 3 nói đến tôn chỉ, mục đích của “Mặt trận”, lời kêu gọi giáo dân, kêu gọi tàn
quân ngụy ủng hộ “Mặt trận” thực hiện “nghĩa lớn”. Và, sau cùng D.5 cho biết chúng đang chuẩn
bị một cuộc họp quan trọng của bọn đầu sỏ. Địa điểm họp, D.5 chưa nắm chắc...

Khuya lắm. Chuông nhà thờ xứ Đại Phước bên kia sông đã ngân rền. Chuông lễ dứt, chỉ
còn ngọn đèn biển trên đỉnh núi thao thức, quay tròn.

Trần Minh, Lê Quang và đồng chí chỉ huy đội trinh sát cúi xuống tấm bản đồ. Họ đắn đo,
tính toán từng mục tiêu, từng hang núi, từng bến sông, từng đoạn đường... để tìm ra và ngăn chặn
âm mưu của bọn phản loạn. Cuối cùng, Trần Minh hạ một mũi tên đỏ đậm trên biển xanh. Anh
nhìn hai người và kết luận:

- Cho D.7 xuất trận. T.1 làm theo yêu cầu của tên Vằn. Ban tham mưu tạo ra bản đồ. Đồng
chí quân khí kiểm tra súng, cắt ngắn kim hỏa. Đ.5 lấy cho được “tập san” và phải tìm cớ để dự
cuộc họp của bọn đầu sỏ. Đội công tác cơ sở phải có kế hoạch bảo vệ mẹ con chị Lan, đề phòng
chúng trả thù hãm hại...!

Công đang ngồi im lặng. Trước mặt anh là vùng biển rộng. Mặt biển chẳng khác gì cánh
rừng biên giới, nơi anh đã từng sống và chiến đấu! Ở đây, kẻ thù còn rình rập, còn bày lắm mưu
mô để phá phách ta.

Lát sau, một người đàn ông đứng tuổi, khuôn mặt xương gầy, mái tóc muối tiêu đi về phía
anh. Hai người gặp nhau ngồi trên cát.

- Anh Tư! - Công hỏi người đàn ông mới tới. - Ngày trước anh có quen với lão chủ hãng
“Kim Tinh”?

- Ủa! Chú hỏi gì lạ vậy? Ngày ấy nó là thằng lính pát -ti - dăng đó, tôi còn lạ gì nó.

- Thế là hay lắm rồi đó. Anh về đây, lại có nghề lái tàu nữa, hắn sẽ “bập” ngay. Anh nhớ
kỹ những điều tôi dặn: Thằng này tinh ranh lắm. Nó có học ở Mỹ về đây. Nhưng chúng tôi sẽ có
kế hoạch và trách nhiệm bảo vệ anh. Nó hẹn tối nay gặp anh, anh cứ gặp. Anh đến chỗ hẹn nên
chậm từ ba đến năm phút. Anh dè dặt nhận lời và chớ có vồ vập bất kỳ việc gì nó giao...

Công chuẩn bị chu đáo cho anh Tư, đây là một mũi tên nữa xuất trận: D.7.

... Hai người đàn ông vẫn ngồi dựa vào hai ghế bố sau hàng dừa tơ. Trước mắt họ, một cái
bàn xây bằng đá. Trên bàn bày hai chai bia đã cạn, hai con cua bể đỏ gạch, một con tôm hùm. Con
tôm như giương đôi mắt tròn nhìn hai người bạn cũ tìm gặp lại nhau, sau những năm dài vắng biệt!
Và, cái râu nó loăn xoăn rung rung trước gió như cái cần ăng - ten vươn ra, nghe ngóng. Người
đàn ông béo ụ, trán hói, hai má láng mỡ tên là Hai Quắm. Hai Quắm có hãng kem “Kim Tinh”
chuyên làm các loại kem dừa, kem sầu riêng, kem chuối, kem dâu... ngon nhất vùng này. Hai
Quắm quay sang nói chuyện với người trẻ hơn. Anh này hơi gầy, tóc bạc muối tiêu, nét mặt khắc
khổ. Giọng Hai Quắm sặc mùi anh chị:
- Nè, chú Tư nói coi, vào dịp cuối những ngày tàn trên đất Bắc, dân chúng đi về bến tự do,
chú vô đây bằng con đường nào đó?

- Anh Hai! Hồi đó, anh đi bằng máy bay của Hoa Kỳ, ngon ơ, còn tôi đâu có được. Mãi
tháng 3 năm 1955, tôi mới xuống đến Hải Phòng mới được vô đây bằng tàu há mõm của Pháp đó.
Cực lắm anh Hai à!

Tôi vô đây bỏ liền hai đứa con trai trong nhà thương Chợ Quán rồi đến lập nghiệp ở Hố
Nai. Sau tôi xuống đất Vũng ở và tậu chiếc thuyền bốn lốc chở hàng thuê cho các hãng buôn. Cuối
năm 1974, tôi có xáp anh Hai một lần. Tôi ráng gọi anh, nhưng anh đâu có biết.

- Ủa, đâu có!

- Có, trong một quán rượu nè. Ngày đó anh Hai mang lon đại úy biệt động quân mà...

Đúng, ngày đó Hai Quắm là đại úy biệt động của quân ngụy. Hắn gục đầu bên cốc rượu
say khướt khượt, đâu có nhìn thấy ai.

Hai Quắm và Tư Hoán - tên người đàn ông có nét mặt khắc khổ - trong những ngày sống
trên đất Bắc trước đây cùng ở một xứ đạo. Hai Quắm đi lính Pát - ti - dăng đóng ở bốt gần nhà thờ
Đá. Còn Tư Hoán biết năm ba chữ thì giúp cha dạy cho trẻ trong nhà trường tiểu học của xứ đạo.

- Chú bị kẹt, hay vì sao mà không đi với ông Thiệu?

- Cực lắm anh Hai à. Tôi định đi cho êm thấm cái thân. Nhưng khi tôi vô Sài Gòn đón hai
đứa cháu ngoại đang gởi học ở trỏng về thì con gái, con rể tôi đã đi hết trọi rồi. Cái tàu bốn lốc của
tôi làm ăn, tụi hắn cũng lái đi hút. Tôi đang muốn tìm ai đi, gởi hai đứa cháu sang cho chúng nó.
Chúng hiện ở bang Ca-li-phoóc-ni-a đấy!

- Chú Tư định gởi cho ai đó? Đường biển hồi này kẹt lắm.

- Tôi định tìm mối, biết ai đi thì gởi. Hoặc có tàu đánh cá, tôi nhờ lái dùm đưa nó đi rồi tôi
lại về. Chắc ở ngoài đã có tàu đón họ.

- Chú tìm mối ở đâu, coi chừng đó. Chú mà tin là kẹt đó nghe. Thời buổi này, giữ mình đó
chú Tư!

- Dạ! Tôi nhớ lời anh Hai dặn!

- Tôi mách chú! - Hai Quắm ngần ngừ một lúc như đắn đo. - Chú Tư à! Chỗ thâm tình cả.
Tình thương là gốc của đạo đó. Chúng ta là anh em chung dòng máu của đức Chúa Trời. Tuần
xưng tội tới này, chú đến xưng tội rồi nói thiệt với cha xứ điều đó, để cha có cách chi giúp chú
được không? Bởi mọi việc ở đời, Chúa đã an bài sắp xếp cả, mà lời cha là ý Chúa đó, chú Tư à!

- Dạ, Tôi nhớ lời anh Hai lắm!


*

Kỳ xưng tội đó, Tư Hoán khoanh tay cúi đầu quỳ trước mặt cha xứ Thánh Thiện. Tư Hoán
chân thành kể hết mọi thứ tội lỗi mình mắc phải trong tháng lễ trọng “tháng trái tim Đức chúa Giê
- su”. Cha xứ căn vặn, tra hỏi nguyên do, ngọn nguồn từng điều, từng việc... Cuối cùng Tư Hoán
nói với cha điều Hai Quắm dặn. Cha xứ Thánh Thiện nhìn chiên lành Tư Hoán không chút ngạc
nhiên. Cha đã biết trước cái điều Tư Hoán sắp nói ra... Cha còn lạ gì con chiên này nữa. Ngày ở
đất Bắc, Tư Hoán đã giúp cha dạy đám trẻ nít trong xứ đạo. Cha biết Tư Hoán là một con người
phục thiện. Cha xứ nhìn chằm chằm vào gương mặt của Tư Hoán rồi chậm rãi nói: “Con! Nhưng
dù có trọn vẹn niềm tin ở Chúa thì sự khôn ngoan của tụi Cộng sản cũng buộc phải coi chừng. Chớ
để thớ lợ đó nghe con! Con hãy kíp gặp lại người bạn cũ của con. Người đó sẽ giúp con...”

Tư Hoán tìm đến nhà riêng của Hai Quắm. Đó là hãng làm kem “Kim Tinh”. Hai Quắm
niềm nở hơn. Hôm qua, y đã cất công về Hố Nai để tìm biết gốc tích của Tư Hoán, y đã đến cả xứ
Đại Phước để biết rõ gia cảnh hiện tại của anh. Y đã gặp chủ tịch giáo xứ Bác Ái để biết quan hệ
của anh sau ngày giải phóng. Hai Quắm đã bàn với cha Thánh Thiện...

Việc hệ trọng cha giao cho Hai Quắm lập một con đường liên lạc trên biển từ đây sang đảo
C.10. Con đường ấy sẽ thường xuyên đưa “thanh niên tử vì đạo” sang đó huấn luyện và đưa bọn
tàn quân sang chuẩn bị lập đội hải quân “Chúa biển cánh buồm đen”. Con đường đó sẽ còn đưa
người, đưa phương tiện các đội “yểm trợ” của người di tản từ châu Âu, từ châu Á về... Hai Quắm
đang tìm kiếm, đang tuyển chọn người tin cậy biết lái tàu... Hai Quắm đặt “mảnh ván” đầu tiên
cho con đường “lịch sử” ấy là Tư Hoán! Hai Quắm kéo Tư Hoán lên lầu hai. Hai người ngồi trên
ghế đi-văng. Hai Quắm thì thầm:

- Chú Tư à! Chuyện chú nói với tôi hôm nọ, tôi sẽ giúp chú và chú sẽ giúp tôi! Chú đồng
ý chớ. Hai đứa cháu ngoại của chú không phải đưa sang Ca-li-phoóc-ni-a nữa mà chỉ cần đưa
chúng đến đảo C.10 thôi!

- Nhưng, ba má chúng nó...

- Không lo! Ba nó là trung úy hải quân chứ gì! Rồi anh ta sẽ đến đó thôi. Hai đứa cháu của
chú, con rể của chú rồi sẽ trở thành những vị chỉ huy đội hải quân “Chúa biển cánh buồm đen” đó,
tụi nó nhất định sẽ trở về tung hoành trên đất Vũng này một ngày không xa!

- Ủa! Anh Hai, ta lập hải quân à?

- Thôi! Chú đừng hỏi thêm việc đó nữa, chú chỉ biết rằng: ta có “Mặt trận giải phóng quốc
gia”, do một vị cha tài giỏi cầm đầu, có các tướng lĩnh ở trong nước và hải ngoại giúp sức, có lực
lượng “quân dân giải phóng” và có “mật khu” trong núi vững vàng. Chú ngây thơ quá vậy... tình
hình đang âm ỉ khắp các nơi rồi... Ta sẽ chờ thời để lật nhào Cộng sản, lập chế độ mới nè... Nhiều
xứ đạo đã hưởng ứng và ta đang lập hải quân đó, chú Tư à!

- Trời đất! Anh Hai! Quả là em chỉ lo làm ăn, đâu có biết đại sự đó!

- Anh nói để chú mau mau góp sức vào, để trễ e nguy đó, chú Tư ạ!
- Thế, anh Hai chắc là “bự” trong Mặt trận!

- Không! Tôi chỉ được cha chủ tịch mặt trận phong cho cấp trung tá thôi. Trước, thời ông
Thiệu, tôi đã đại úy rồi. Nếu không có thằng cha Vằn “còm”, Đại tá Cục tác chiến còn đó, chỉ huy
chung thì tôi cầm chắc cái đại tá trong tay rồi. Khi nào cha chủ tịch phong nó lên tướng thì tôi mới
lên đại tá được đó, chúTư ạ...

- Em chúc mừng anh Hai. Em sẽ phụng sự anh!

- Hiện giờ hiểu chú rồi, tôi đâu có giấu chú nữa. Tôi được cha chủ tịch mặt trận giao cho
trọng trách thiết lập con đường vượt biển ra đảo... Việc hệ trọng lắm. Chú giúp tôi một tay! Chú
Tư nè!

- Anh Hai à! Chuyện hệ trọng vậy, nhưng tôi kẹt quá. Sức tôi yếu lắm ốm o luôn. Nhưng
nếu anh Hai thương, tôi sẽ hết lòng...

- Chú Tư có trình độ văn hóa. Chú làm được đó. Chú sẽ phụ tá cho tôi nè...

- Anh Hai, được anh thương, tôi mừng lắm! Nhưng anh giao việc nhỏ thôi, tôi lo không
kham nổi... Anh Hai!

- Đừng lo, cờ đến tay rồi đó chú Tư à! Chừng nào tôi lên đại tá, chú sẽ thay tôi!

- Trời đất! Tôi đâu dám, tôi đã hiểu gì về trận mạc đâu anh Hai! Anh phải giúp tôi nhiều
đó, tôi mới ráng theo anh được.

- Chú Tư! Chuyện đó dễ ợt mà! Tôi sẽ nói với chú sau. Còn việc trước mắt của chú là: chú
biết lái tàu, mà tàu của ta thì đâu có thiếu. Chú sẽ chở người sang đảo C.10 để học, chở cán bộ của
ta ở đó về. Mỗi chuyến mặt trận thưởng cho chú 10 lạng, để chú xài. Trước mắt, chú chở chuyến
đầu là các sĩ quan dự lễ lập đội hải quân: “Chúa biển cánh buồm đen”.

- Anh Hai! Tàu ta đâu mà nhiều vậy, tôi đâu có thấy!

- Chú đừng lo. Ta chỉ cần một chiếc thuyền câu là có tất cả tàu. Tàu đánh cá trên biển là
tàu của ta hết. Ta nhảy sang, bắn bỏ những đứa chống trả, vứt chúng xuống làm mồi cho cá, còn
tàu là của ta mà!

- Thế anh Hai có đi chuyến này không đấy?

- Cha chủ tịch chưa quyết. Bởi tôi còn bận dự cuộc họp hệ trọng sắp tới chú Tư!

- Anh Hai không đi, tôi lo quá trời à!

- Lo chi cho hao sức. Chú đừng nghĩ chú là con thỏ đế hay con đẻn mà gặp Cộng sản là
phải trốn, phải chui. Chú cứ nghĩ mình là con báo biển, con hải cẩu thì không sợ chi hết đó...
- Tôi chưa quen việc nhà binh, anh Hai thương thì phải giúp tôi nhiều, anh Hai...

- Ủa chú Tư! Cha xứ nói với chú rồi chớ: chiên lành không thể chối bỏ con đường Chúa
ban. Sau này xứ Đại Phước là “xứ đạo anh hùng” thì công chú đâu có nhỏ...

- Dạ! Thế ngày nào thì đi anh Hai! Anh nói để tôi lo liệu! Chắc phải có vũ khí hộ thân chớ
anh Hai!

- Ngày 7, hoặc 8. Chú sẽ nhận tàu sáu lốc sửa soạn trước rồi đón các vị sĩ quan ở ba nơi.
Mọi người họ đã có sung, chú khỏi phải mang, đỡ mệt.

Trong phòng ngủ riêng của mình, nhưng Hai Quắm vẫn lo sợ như có ai nghe lén. Y ghé sát
vào tai Tư Hoán thì thầm: ... Chỗ đón, các ám hiệu nhận nhau trên biển và ký hiệu riêng từng
người... Rồi Hai Quắm vỗ vai Tư Hoán:

- Đến chỗ nhận tàu, chú sẽ gặp một người mà họ ngoảnh về phía mặt trời mọc, phía đảo
C.10, nói câu: “Biển mù kim tinh vẫn sáng”. Đó là người của ta. Nhớ kỹ chớ chú Tư!

- Dạ! “Biển mù kim tinh vẫn sáng” tôi nhớ kỹ!

Cha Thánh Thiện ngồi trên cái võng dù hoa trước cửa một hang đá lớn giữa rừng. Cha mặc
quần áo nhà binh giống như một tuyên úy ngày nào xuống các sư đoàn, trước giờ chúng đi càn
quét bắn giết nhân dân, đốt phá xóm làng. Cạnh cha là Vằn “còm” xúng xính trong bộ đồ cấp thiếu
tướng ngụy. Mắt hắn vẫn đeo kính đen, nom hắn vẫn gầy quắt. Ngồi trên sàn lá là Bác Ái, chủ tịch
xứ đạo Đại Phước đang nhăn nhở hàm răng vẩu. Đối diện với Bác Ái là Hai Quắm, hắn mặc binh
phục đeo hoa mai quai chảo cấp hàm đại tá ngụy. Vây quanh Thánh Thiện còn có một số người lạ
mặt nữa.

Xung quanh hang đá có một vành đai lính ngụy canh phòng nghiêm ngặt. Từ hôm vào đây
thiết lập “văn phòng chủ tịch mặt trận”, “văn phòng tổng trưởng quốc phòng” của thiếu tướng Vằn
“còm”, cha Thánh Thiện đã đặt cho mật khu này cái tên nghe thống thiết: “Mật khu nước mắt vì
dân”...

Buổi nhóm họp “lịch sử” và quan trọng đang diễn ra. Bỗng tên chỉ huy đội lính bảo vệ mật
khu thấy có một người lạ tiến vào. Hắn hốt hoảng và lăm lăm tay súng quát:

- Anh là ai?

- Tôi là Gấu, người của cha Thánh Thiện.

Gấu vừa đi vào vừa nói. Giọng bình tĩnh.

Tên chỉ huy hỏi mật khẩu. Gấu đáp ngon ơ. Tên chỉ huy đội lính bảo vệ bắt tay Gấu:
- Người anh em cần gặp ai?

- Tôi gặp cha chủ tịch.

- Việc gì?

- Tối quan trọng!

- Chờ! Cha đang họp.

- Không! Ngay bây giờ. Việc có liên quan đến sự sống còn của chúng ta!

Tên chỉ huy nhìn mặt Gấu thăm dò.

- Người anh em có thể nói với tôi?

- Không! Chỉ nói với cha chủ tịch.

Thánh Thiện cho gọi Gấu vào. Gấu quỳ xuống, cúi đầu trước cả bọn.

- Có việc gì con cứ nói - Thánh Thiện nhìn cả bọn rồi giới thiệu Gấu - Đây là người tin cẩn
của tôi. Tôi dùng người này làm liên lạc.

- Có thể Hám “cá mập” đã nói hết mọi việc của chúng ta...

- Vì sao con biết?

- Thưa cha. Vợ Hám có nói với con. Cô Thùy Dương cũng nói với con là “con cá xanh” đã
nói với cô ta điều đó...

- Con xứng là “chiến sĩ trung nghĩa”. Ơn cứu độ bề trên đã che chở con ta. Hắn đâu có biết
chỗ này. Cha cho phép con vô “văn phòng” chờ, cha sẽ hậu tính!

Gấu cúi chào Thánh Thiện. Anh đi vào ngồi sau vách. Nơi đó kín đáo nhưng nghe rõ tiếng
Thánh Thiện nói... Gấu thở phào.

Trời đã tắt nắng. Hoàng hôn trong rừng quả là ảm đạm. Cha Thánh Thiện kéo cả lũ đàn em
ra đứng dưới cái cột tre khẳng khiu, trên ngọn có lá cờ xanh lè ủ rũ.

Cả bọn xếp hàng ngang. Thánh Thiện bước lên phía trước vài bước. Y đứng thẳng người
đúng tác phong nhà binh. Y cầm cái gậy thập tự vàng giơ thẳng lên trời và dõng dạc tuyên bố:

- Lễ thành lập “Chính phủ quốc gia giải phóng” bắt đầu! - Rồi giọng Thánh Thiện hạ xuống:
- Theo Thiên Chúa đã an bài, theo ý nguyện của giáo hữu và dân chúng ở cõi trần gian,
chúng con gồm những chiên lành không chịu lũy phục Cộng sản, đã quy tụ lại do đức tin và được
thánh linh soi dọi. Chúng con xin Thiên Chúa phù hộ cho sự ưu thắng...

Thánh Thiện trịnh trọng đọc danh sách và chức tước trong “Chính phủ quốc gia giải
phóng”(!)

Cha Thiện, Chủ tịch mặt trận kiêm quốc trưởng (!);

Bác Ái Thủ tướng;

Thiếu tướng Đậu Vằn tổng trưởng quốc phòng kiêm Tổng tham mưu trưởng;

Đại tá Hai Quắm, đặc trách vấn đề hải ngoại;

v.v... và v.v...

Cả bọn nắm tay nhau giơ lên quá đầu tuyên thệ.

Sau lễ thành lập chính phủ, “thiếu tướng” Đậu Vằn cùng đứng dưới cờ đọc cái “Bản quân
lệnh số 0001/BTTM thành lập lực lượng quân dân giải phóng”.

Gấu “biển” ngồi sau tấm liếp chứng kiến tất cả.

Con! Thằng Hám còn lại trên cõi đời thế này là điều bất hạnh cho cả Mặt trận chúng ta...
Vì điều đó, cha phải vào sớm nơi đây. Con biết lo cho cha, biết lo cho “nghĩa lớn” là lòng con đã
được thánh linh soi dõi đó nghe con...

Cha Thánh Thiện vỗ về Gấu, khuyên dỗ Gấu:

- Con! Con hãy vì cha, vì “nghĩa lớn” mà trừ khử tên phản đạo đó, nghe con.

- Thưa cha! Làm điều đó e sẽ bị thánh linh sẽ phán xét...

- Không! Con làm điều đó cũng là theo ý Chúa.

Hôm sau, Thánh Thiện trao cho Gấu một phong bánh ngọt và căn dặn:

- Con hãy đưa của “quý” này đến thăm Hám. Con sẽ dỗ dành nó, cho nó ăn!

- Gấu nhìn phong bánh. Gấu biết ngay trong ấy cha, Thùy Dương đã tẩm những thứ gì...

*
Chuyến đi đầu tiên được quyết định. Tư Hoán không đưa hai đứa cháu nhỏ đi theo, vì hai
lẽ: chuyến đi đó tầm mức quan trọng, có nhiều bí mật quân cơ, vì trên tàu toàn là các ngài sĩ quan
cao cấp sang đảo C.10 để thành lập đội hải quân “Chúa biển cánh buồm đen”.

Tư Hoán đến mũi Long vào lúc xâm xẩm tối. Một chiếc tàu đánh cá sáu lốc đã đỗ ở đó.

Bóng tối. Nhớ lời Hai Quắm dặn, Tư Hoán đi lại gần chỗ chiếc tàu đậu và lên tiếng gọi
người đàn ông đang đứng hút thuốc ở mũi tàu để xin mượn cái hộp quẹt. Con tàu rộng khoang
đang tròng trành trên sóng. Người đàn ông trên tàu im lặng. Tư Hoán lên tiếng mượn hộp quẹt lần
thứ hai. Người đàn ông trên tàu nhảy lên bờ đá. Anh ta trao hộp quẹt cho Tư Hoán. Mắt anh ta
nhìn ra phía biển xa nói nho nhỏ:

- “Biển mù kim tinh vẫn sáng”. Tư Hoán mỉm cười. Que diêm bén lửa xòe to như tiếng
cười theo. - Dạ! Thưa... ”Kim tinh vẫn sáng“. Nét rạng rỡ hiện rõ trên nét mặt người đàn ông. Anh
ta mời Tư Hoán lên tàu...

- Tư Hoán hỏi ngay người đàn ông về dầu mỡ, lương thực đã dự trữ được bao nhiêu và anh
ta là ai? Người đàn ông nói cho Tư Hoán biết, hắn là người của Hai Quắm. Hắn chỉ trách nhiệm
nhận mặt Tư Hoán để giao chiếc tàu này cùng với 700 đồng. Tư Hoán sẽ mua thêm dầu mỡ, lương
thực dự trữ cho chặng đường dài trên biển. Tối mai, Hai Quắm sẽ đến kiểm tra và có thể đón khách
ngay...

Tư Hoán làm mọi việc như người đàn ông dặn. Anh làm không khó khăn lắm. Vì có Công
- người thanh niên mặc quần ống loe màu xanh đi dép mút đế cao, màu nâu mua giúp anh! Tàu
vẫn đậu ở mũi Long.

Giữa trưa, Hai Quắm bất ngờ xuống tàu, kiểm tra. Hai Quắm sục vào từng khoang. Hắn
ngửi các can dầu, nếm thử các thùng nước ngọt... Hai Quắm hài lòng. Hắn trao cho Tư Hoán mười
lạng vàng. Hắn nói là vàng của cha chủ tịch ban thưởng cho Tư Hoán. Mong Tư Hoán, con người
tiên phong thành đạt trong chuyến tiên khởi mở con đường vượt biển này. Hai Quắm cười:

- Chú Tư! Đêm nay, khi chuông nhà thờ xứ đạo Đại Phước dứt buổi nguyện cầu, ta xuất
phát...

Tư Hoán phân vân:

- Anh Hai, tôi muốn ta chuẩn bị chu toàn hơn một chút nữa.

Hai Quắm nhìn xoáy vào mặt Tư Hoán:

- Sao?

- Anh Hai, anh cho thêm ít thuốc bệnh đi đường biển dài ngày và chở thêm nước ngọt...
Hai Quắm gật đầu. Tư Hoán thở nhẹ nhõm. Vì cái lý do nấn ná lại hoàn toàn không phải
chỉ có thế. Mà cái chính là vì gấp quá anh chưa tìm được cách nào để gặp lại lần chót người thanh
niên mặc quần ống loe màu xanh, đi dép mút đế cao, màu nâu...

Hai Quắm đâu có biết điều đó. Hắn ngỏ lời khen Tư Hoán là người căn cơ. Nhưng sự gian
giảo đã rung chuông thức tỉnh hắn. Hắn suy nghĩ một lát, rồi không hẹn giờ xuất phát nữa. Tư
Hoán giục khéo:

- Anh Hai, những việc đó đâu có mất nhiều thời gian. Anh định lúc nào đón khách để giữ
đúng hẹn?

- Chú Tư! Tôi đưa thêm chú 300 đồng nữa. Chú lo dùm. Việc đó tôi nói chú sau.

Thế là Hai Quắm vẫn cố tình giấu giờ xuất phát!

Xẩm tối, Hai Quắm mò xuống thuyền. Mọi việc đều xong. Các loại thuốc cảm, nhức đầu,
ỉa chảy, say sóng... đủ hết. Hai Quắm hài lòng lắm. Hắn ghé vào tai Hư Hoán:

- Vẫn đúng giờ chuông nhà thờ dứt lễ, chú cho tàu đi! Chú đón khách ba nơi. Năm mươi sĩ
quan tất cả. Trước tiên, chú cứ cho tàu ra khơi như đi đánh cá hàng ngày. Rồi đột nhiên, chú quay
về Hải đón 15 người. Ba mươi phút sau, chú sang Cát đón mười người. Còn toán nữa sẽ có tàu nhỏ
chở ra đổ lên tàu chú. Địa điểm đổ lên tàu giữa cột đèn đỏ số 15 và 16. Chú nhớ kỹ mật hiệu nhận
nhau: tàu nhỏ hỏi một chớp đèn, tàu lớn trả lời hai chớp. Tàu nhỏ hỏi hai chớp đèn, tàu của chú trả
lời một chớp... Còn giấy tờ, tôi làm cho mọi người rồi. Nếu gặp giông bão, trừ các nước Cộng sản,
còn nước nào chú cũng vô được. Người di tản của ta ở đó sẽ đùm bọc chú... Chú đưa tàu ra xa bờ
đậu nhé.

- Anh Hai có đi không nè?

- Chuyến khác. Chú đi bình an. Sự ưu thắng là niềm tin, chúng ta cùng nhau chia sẻ...

Hai Quắm lên bờ. Hắn đến ngồi ở tiệm “Gió Trời”. Hắn ngồi tựa ngửa lên ghế bố. Mắt hắn
mơ màng nhìn về phía chiếc tàu đánh cá. Ly cà phê làm cho Hai Quắm khoan khoái. Hắn mừng
thầm nghĩ đến ngày mai... Ngày con tàu mở chuyến tiền khởi ưu thắng. Sự nghiệp của hắn sẽ
“phất” từ đây... Và, các chiến hữu của hắn trên đảo sẽ sung sướng biết chừng nào khi nhìn thấy
con tàu có lá cờ xanh, năm sao trắng bay trên ngọn cột...

Đêm. Sóng biển nhấp nháy ánh lân tinh. Không còn phân biệt được đâu là mặt nước, đâu
là nền trời. Một vệt sáng nhỏ xuất hiện. Vệt sáng vươn nhanh từ bờ ra. Một người bơi về phía tàu.
Người đó ghé vào thành tàu. Tư Hoán từ trong buồng lái bước ra. Anh đã nhận đúng là người thanh
niên hay mặc quần ống loe màu xanh, chân đi dép mút đế cao, màu nâu. Anh ném xuống một cái
chai nút kỹ. Trong chai có một mảnh giấy. Người thanh niên nhặt chai, bơi nhanh vào bờ...

Tư Hoán đi ngay về phía lái con tàu. Anh cột một sợi dây thật chắc. Sợi dây vừa thõng
xuống đến mặt nước. Rồi, anh về khoang lái tra hai viên pin vào đèn. Anh chớp thử như mật hiệu
đã hẹn xuống khoang tàu. Anh chọn một cái phao bơi thật tốt để sẵn bên cạnh.
Chuông dứt lễ trong nhà thờ xứ đạo Đại Phước đã đổ hồi, gióng giả. Tư hoán cho tàu chạy
ra khơi.

Vòm trời khuya trở nên mờ đục, cùng với những lớp sóng biển hòa lẫn với nhau. Gió biển
khuya lùa vào khoang lái ớn lạnh. Đúng hẹn. Tư Hoán quay mũi tàu lại, hướng thẳng về phía Hải.
Tiếng máy nổ giòn. Anh nghe rõ tiếng chân vịt con tàu đẩy nước. Nghe rõ cả nhịp tim anh bồi hồi
đập dồn. Tư Hoán phấp phỏng, lo lắng sự hiệp đồng... Đã nhìn thấy những ngọn đèn trong các
ngôi nhà trên bờ mờ nhòa trong khói sóng, anh cho tàu chạy chậm lạ. Anh căng mắt nhìn, dò dẫm.
Gió biển khuya trong Vũng vẫn lồng lên ớn lạnh và cay xè trong mắt. Bỗng có hai chớp đèn ngắn
lóe lên vội vàng. Tư hoán cho con tàu ghé vào. Mười lăm tên chờ sẵn ở đó. Cả lũ lốc nhốc nhảy
lên tàu. Tất cả im lặng. Không rỉ ra một tiếng nói nhỏ nào. Chỉ có tiếng sóng biển rì rầm, rì rầm...
Rồi, mây trời chuyển dần, dồn cục báo điềm giông tố thất thường. Tư Hoán lái tàu ra. Con tàu đằm
hơn. Và, trong lòng Tư Hoán, nỗi lo lắng phấp phỏng cũng loãng dần. Nhưng một câu hỏi cứ chập
chờn trước mắt anh: “Liệu còn có xảy ra điều gì trục trặc trong kế hoạch không?”. Anh nhìn ra
ngoài. Những lớp sóng lan chênh chếch từ mạn thuyền ra, từng đám bọt trắng xếp đều như gieo.
Chúng kéo thành một vệt dài lân tinh trên biển. Anh hướng mũi con tàu về phía Cát. Anh tắt máy,
chờ mật hiệu. Hai chớp đèn pin hỏi. Anh trả lời một, rồi cho tàu ghé vào bến.

Một vì sao lạc lõng giữa nền trời, trong kẽ hở của hai đám mây vừa tách ra, như con thuyền
bơ vơ trên biển rộng. Tư Hoán tắt máy cho con tàu dừng lại giữa cột đèn số 15 và 16. Con tàu bồng
bềnh trên sóng như treo lơ lửng giữa hai hành tinh. Đợi chờ. Có tiếng máy nổ giòn. Một chiếc tàu
hai lốc phóng ra. Nó chạy quanh tàu lớn một vòng thăm dò. Rôi, từ buồng lái con tàu đó lóe lên
một chớp đèn. Tư Hoán chìa đèn ra mạn tàu chớp trả lời hai cái. Tàu nhỏ ghé tới cặp mạn. Có tiếng
người nói rì rầm. Hình như chúng gặp nhau. Hai mươi lăm tên nữa đi sang. Và chiếc tàu đánh tôm
hai lốc chạy nhanh vô bờ hệt như chạy nạn.

Bỗng có một ánh đèn pin soi vào buồng lái. Một bóng người bước xuống. Tư Hoán đã nhận
ra. Giọng anh vui hẳn lên!

- Ủa, anh Hai! Anh cũng đi đấy à? Có anh đi tôi vững bụng quá trời.

- Chú Tư! Chuyến tiên khởi, cha quốc trưởng biểu tôi phải đi để khích lệ “lòng phục quốc”
của các chiến hữu. Tôi đâu có giấu chú. Tôi coi vấn đề hải ngoại của Mặt trận mà. Tôi sang bển
còn làm sứ mạng thay mặt chính phủ, thay mặt cha chủ tịch dự lễ lập đạo hải quân, rồi còn phải
hội thảo với các tướng lĩnh bàn việc quốc sự nữa chứ. Hệ trọng lắm đó chú Tư à. Cờ đã đến tay
rồi, phải phất đại đi chớ. Công chú tôi đau có quên. Chú hút điếu thuốc nè rồi cho tàu ra nhanh
ngoài công hải...

Hai Quắm châm điếu thuốc lá ba số rồi cắm vào mồm Tư Hoán. Hai Quắm vỗ vai Tư Hoán,
nói tiếp:

- Chú Tư à! Chú chưa từng trải chiến trận, chưa hiểu được điều binh pháp dạy (!): một viên
đạn bắn lên, một quả mìn gài sẵn có giỏi lắm cũng chỉ giết được một tên Cộng sản. Còn dùng mưu
mẹo có khi tiêu diệt hết cả một cánh quân và còn làm nên việc lớn đó. Đụng độ với Cộng sản ta
phải có mưu mẹo chú Tư à... - Hắn cười đắc chí!
- Dạ! Tôi đâu đã nghĩ được như anh Hai.

Bỗng phía trước mũi tàu có tiếng xôn xao:

- Tàu tuần tra của biên phòng à?

- Đâu có!

- Đúng nó rồi!

- Đúng tụi nó rồi!

- Ủa, cả ba phía đều có tụi bay ơi!

- Đúng là tụi đi tuần rồi!

Có tiếng gọi hốt hoảng dội vào buồng lái:

- Dạ! Thưa anh Hai có tàu biên phòng chặn đón phía trước và truy đuổi đằng sau...

- Anh Hai! Tàu biên phòng đã chớp tín hiệu buộc ta dừng.

- Đ... mẹ! Tắt đèn đi. Bọn bay dẹp xuống khoang hết.

- Trên biển, từ ba phía, đội tàu tuần tra của các chiến sĩ hải quân và biên phòng đã khép kín
vòng vây.

Ba phát pháo sáng từ ba phía vút lên. Biển sáng lòa. Con tàu sáu lốc, chở năm mươi “ngài
sĩ quan” phơi mình dưới ánh đèn...

Từ tàu chỉ huy đã bay lên phát pháo hiệu đỏ. Phát pháo hiệu vẽ một đường cầu vồng trên
biển. Tư Hoán quay mặt đi, trút một hơi thở phào nhẹ nhõm. Rồi anh làm bộ hốt hoảng. Anh với
tay lấy chiếc phao bơi để bên. Anh ghé sát tai Hai Quắm:

- Anh Hai, theo em. Mặc xác tụi nó!

Từ bốn phía, tàu của công an vũ trang biên phòng và hải quân đã khép vào, cặp mạn. Đèn
pha từ bốn phía đã dọi tới... Tư Hoán kéo Hai Quắm lùi về phía lái...

Nhưng Hai Quắm chần chừ... Tiếng nói uất ức của hắn rít qua hai kẽ răng: “Trời đất!’

- Anh Hai theo em mau...

Tư Hoán và Hai Quắm tụt theo sợi dây thông xuống biển. Chiếc đèn pha từ con tàu phía
sau chiếu tới bỗng vụt tắt...
Các chiến sĩ đặc công, các chiến sĩ biên phòng từ các con tàu của ta đã nhảy sang chiếm
lĩnh buồng lái, mũi thuyền và toàn bộ con tàu của Tư Hoán.

Trên biển đêm, Tư Hoán và Hai Quắm, hai người bíu chung một chiếc phao bơi bồng bềnh
trên sóng. Họ bơi nhanh ra xa con tàu và hướng thẳng vào bờ... Nước triều dâng lên đưa họ vào
Vũng. Sáng sớm, họ nhập vào những đoàn người đi tắm, tập bơi đường dài trên biển... Hai Quắm
với nét mặt héo hon và giọng nói bải hoải;

- Chú Tư! Có lẽ đã an bài thế đó. Lúc khốn cùng, ơn cứu độ vẫn chừa một kẽ hở cho các
linh hồn có thánh linh soi dõi tẩu thoát...

Tư Hoán lặng im. Anh đang nghĩ tới bước đi của “con mồi” và mẻ lướp tiếp theo...

Gấu được cha Thánh Thiện tin cẩn và đã tuyển dụng làm liên lạc. Gấu chuyên chuyển các
tin nhắn miệng và chỉ thị đến các xứ đạo, các tu viện... Cái nghề đạp xích lô đã giúp Gấu hoàn
thành xuất sắc công vụ đó...

Sau vụ thảm bại của các sĩ quan đi dự lễ lập đội hải quân “Chúa biển cánh buồm đen”, cha
chủ tịch muốn thanh lọc nội bộ, muốn trừ khử hết các con chiên mà cha nghi là lừng chừng. Cha
đoán: nội bộ đã có kẻ phản. Cha tin Gấu. Cha giao cho Gấu trọng trách kiểm tra nội bộ. Nhất là
phải kiểm tra chặt chẽ hàng ngũ khung các sư đoàn “Tân quân lực”. Cha gọi Gấu vào mật khu.
Cha ngồi trước cửa hầm thông với hang đá lớn:

- Con! Trong “nghĩa lớn” cha đang phụng sự này, đến lượt cha phải nhớ đến cánh tay bạo
lực của con, Cha muốn giao việc đó cho con!

- Thưa cha! Con chưa rõ ý cha muốn nói.

- Cha và ông “tổng trưởng” muốn giao cho con trọng trách đi đến các xứ đạo thẩm vấn,
xác minh những sĩ quan chủ trì trong “Tân quân lực”. Và thảm bại vừa qua trên biển đã làm cho
cha ngờ tư cách một số người.

- Thưa cha! Việc đó lớn quá đối với sức hèn mọn của con.

- Nhưng cha và ông “tổng trưởng” xét con có phương tiện, có nghề hợp pháp. Con có thể
làm được. Làm việc đó là con đã giúp cha, giúp đàn chiên đang bơ vơ hành trình trong lịch sử
chóng đến nước trời của thiên phụ đó con!

- Thưa cha!... Con lo...

- Con không lo gì hết. Cha nói là Chúa nói. Con hãy xem xét kỹ mọi người. Có ai không
xứng với trách vụ của cha giao không, đề phòng người của Cộng sản lọt vào. Từ đây, cha phong
cho con cấp hàm thiếu tá, là phụ tá bảo vệ đắc lực của cha. Đó là niềm tin của cha giao cho con để
xây dựng lưới an ninh trong “Tân quân lực”. Từ nay, tất thảy mọi người sẽ làm theo lời con. Con
là thượng cấp của họ!

Thế là một việc đã sắp xếp xong. Gấu nhận chức vụ đó. Gấu nhận tờ quyết định của Thánh
Thiện trao cho và được nhận cả một bản danh sách khung của tám sư đoàn và trung đoàn...

Gấu đội cái mũ rách. Anh kéo sụp xuống che cả hai con mắt. Gấu đạp xích lô rong trên các
phố đất Vũng, về các xứ đạo. Lâu lắm, người thanh niên mặc quần ống loe vải xanh, đi dép mút
đế cao, màu nâu, lại vẫy Gấu thuê xe. Hôm nay, anh thanh niên ấy cầm thêm cái xắc tay của đàn
bà, nom rất lẳng lơ. Gấu chở anh ta đi về phía vườn bóng có tượng Đức Mẹ. Vào quãng phố vắng,
Gấu và anh ta nói chuyện nho nhỏ với nhau. Hai người trao đổi, bàn tính với nhau điều gì... Thấy
Gấu gật đầu, rồi Gấu trao cho anh thanh niên mấy tờ giấy giắt dưới đệm xe. Anh ta bỏ ngay vào
cái xắc tay. Đến đầu vườn bông, anh thanh niên xuống. Anh ta trả tiền cho Gấu. Hai người chào
nhau đi về hai ngả.

... Gấu đến gặp “trung tá” Tống Khương chỉ huy quân sự và chủ tịch mặt trận vùng đất
Vũng. Tống Khương đã nhận ra người anh em. Gấu kéo Tống Khương ra góc sân. Gấu đưa cho
tống Khương tờ giấy vừa rút ở túi. Đọc xong, xem đúng là chữ ký của “tổng trưởng” và dấu đỏ
chót của Mặt trận, Tống Khương tròn mắt nhìn Gấu. Y tưởng mình đọc nhầm: “Thiếu tá Lê Gấu
được thừa hành chức phận xem xét tư cách cán bộ...”, Tông Khương biết Gấu trong cuộc họp quan
trọng ở mật khu. Nhưng lúc đó hắn chỉ biết Gấu là người thân cận của cha chủ tịch, chứ đâu có
biết Gấu được thừa hành một công vụ lớn lao và quan trọng đến thế.

Tống Khương vốn là người Việt gốc Hoa. Nhà Tống Khương bự vào loại nhất nhì vùng
này. Tống Khương trước đây đã từng hùn vốn xây biệt thự cho Mỹ thuê... Tống Khương cúi đầu
chào Gấu rồi y kéo Gấu vào nhà. Cánh cửa phòng trong cùng được đóng kín. Cuộc nói chuyện
giữa Gấu và Tống Khương bắt đầu...

- Tôi làm việc gì thì trong giấy đã ghi. Tôi sẽ nghe ông tường trình “kế hoạch bùng nổ” ở
vùng ông phụ trách và danh sách các sư đoàn, trung đoàn cấp dưới của ông. Thảm họa trên biển
vừa rồi đã dạy ta: dù có trọn lòng tin vào nghĩa lớn cũng đâu có được coi thường mưu kế của Cộng
sản! Các ông phải coi chừng đó.

- Dạ! Dạ thưa, tôi xin tường trình từng phần.

- Không! Tôi hỏi đến đâu, tôi cần điểm nào, ông sẽ nói rõ điểm đó.

- Dạ!

- Ông đã tổ chức được bao nhiêu quân? Ém ở đâu? Tiến đánh chỗ nào khi “bùng nổ”?

- Dạ thưa! Được một sư đoàn. Chỉ huy là thiếu tá Hiển, thiếu tá Hợi, đại úy Lệ, nguyên
trước là trung sĩ, hạ sĩ của thủy quân lục chiến và biệt động quân. Ba trung đoàn đóng chốt ở Đăng,
ở Bình và ở Phước. Mỗi nơi một trung đoàn. Còn trung đoàn đặc nhiệm sẽ chốt chặn đường 15 khi
cần thiết.
- Cấp tiểu đoàn, đại đội và lính ông lấy ở đâu?

- Dạ thưa! Tất cả tín đồ ở các nơi và binh sĩ quân lực cũ đều là lính. Ta chỉ cần khung thôi.
Tôi làm theo lời cha chủ tịch dạy như thế!

- Được, ông trao hết danh sách chỉ huy cấp trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội cho tôi. Tôi sẽ
thẩm tra lại. Vì tôi ngờ có nhiều tên “quỷ đỏ” đã trà trộn vào.

- Dạ thưa! Mới có khung cấp sư đoàn, trung đoàn, còn tiểu đoàn, đại đội, tôi lắp chưa đủ...

- Được, có bao nhiêu, ông đưa hết!

- Ông tường trình kế hoạch đánh cướp đồn biên phòng khi thực hiện “kế hoạch bùng nổ”.

- Dạ thưa!... Trước khi thực thi “kế hoạch bùng nổ” hai ngày, tôi sẽ chỉ huy đánh chiếm
đồn biên phòng. Anh biết đó, nó ở lọt vào giữa một vùng dân chúa, như đã bị vây. Đường liên lạc
về thượng cấp nó chỉ có một con lộ và bằng điện thoại. Theo tôi, tối dân chúng vào xem ti-vi trong
đồn. Trong số người tối đó, tôi đề nghị sẽ gài một lực lượng tinh nhuệ của ta để đủ sức tiến chiếm
các nơi hiểm yếu, chiếm súng, cướp đồn khi chúng và mọi người đang xem ti vi. Tôi sẽ cho người
cắt dây điện thoại và rải một trung đội chốt chặt lộ chính... Tất cả làm gọn trong 15 phút.

- Ông phải giữ thật kín kế hoạch...

- Dạ thưa!... Mới chỉ mình tôi biết!

- Tôi nghe, ông có các cố vấn đắc lực lắm phải không?

- Dạ thưa! Các sĩ quan của quân lực cộng hòa đang ẩn trong các xứ đạo vùng này đều là cố
vấn của tôi. Tôi đã thâu phục được lòng họ.

- Các cha đều vận động, tổ chức giúp ông đó chớ?

- Dạ thưa! Các cha tuyến trên giúp trong các buổi giảng lễ. Còn đi tổ chức, vận động thì
các cha sợ lộ. Tôi cũng không để các cha làm việc đó.

- Ông tính toán khá lắm! Đó là một cao kế. Thế thì ông cho biết những người nào đã có
công lớn giúp ông để tôi báo lên cha chủ tịch ghi công họ.

- Dạ thưa! Cha Thanh là một vị chống Cộng kỳ cựu nhất, cha khôn ngoan và lắm mưu kế.
Các cha Liêm, cha Đoàn, cha Cảnh... đều là những vị tuyên úy trong quân đội cộng hòa cũ đã giúp
đắc lực, đều đáng ghi công loại nhì sau cha Thanh...

- Ông có kế hoạch gì làm bất an, làm xáo động vùng này để làm đà cho “kế hoạch bùng
nổ” không?
- Dạ thưa! Tôi đang tìm cách tổ chức thủ tiêu một số tên tích cực ủng hộ Cộng sản và một
số tên cán bộ cộng sản đầu sỏ ở các phường, khóm, xã, ấp... để cho tụi nó sợ. Nó không dám ngăn
cấm ta... Bọn Cộng sản dù chúng có chai đá mấy đi nữa cũng còn có khe hở cho vàng, tiền, hạt
xoàn chui lọt... - Tống Khương cười đắc chí. Hai cái má xệ thịt của hắn rung rinh...

Tống Khương càng nói càng hùng hổ. Hắn cố mong làm sao cho được lòng vị thân cận của
cha chủ tịch... để mong vị đó tâu trình lên cha. Cha sẽ thăng thưởng, sẽ ban khen hậu hĩnh cho hắn.

Cuối buổi, Gấu nhắc lại với Tống Khương tầm quan trọng của những việc cần làm và căn
dặn Tống Khương hạn chế những việc làm manh động. Nếu việc nhỏ bị lộ, Cộng sản truy ra thì
hỏng việc lớn...

- Ông “trung tá” Tống Khương ạ! - Gấu thân tình nói tiếp. - Với kế hoạch ông vạch, với
công tích to lớn ông đã cung tiến, ông xứng là vị chỉ huy kiệt xuất ở vùng đất Vũng này. Tôi sẽ
dâng báo công này của ông lên cha chủ tịch và ngài tổng trưởng!

- Dạ thưa! Tôi đâu dám quên ơn ông!

... Thế là, hai bản danh sách những “sĩ quan chỉ huy”, những tên “có công”... của “Tân
quân lực” đã nằm gọn trên bàn đồng chí đồn trưởng đồn biên phòng.

Trước khi “kế hoạch bùng nổ” được thực thi mười ngày, khung chỉ huy các đạo âm binh
đã được mời lên xe kín mui! Tám sư đoàn, mười trung đoàn (!) được giao nhiệm vụ chốt chặn,
tiến chiếm... cũng lần lượt bị tóm gọn, rồi mật khu “nước mắt vì dân” cũng bị các chiến sĩ biên
phòng tràn vào chiếm lĩnh. Đội lính “Phi Hổ” bị diệt. Các chiến sĩ ta tìm ra nơi giấu vũ khí, lúa
gạo, hầm ngầm ; đã thu được cờ hiệu, truyền đơn. Nhưng Thánh Thiện, Bác Ái và đồng bọn ở mật
khu đã mất hút.

Ở một hẻm đá trong núi Lớn, Gấu với chức vụ “phụ tá bảo vệ” đã chạy theo Thánh Thiện.
Gấu “biển” nói với y, vẻ phẫn nộ càng làm cho y tin Gấu hơn:

- Sự đổ bể này, thảm trạng này là do ta phát triển lực lượng quá ô tạp, do Tống Khương
manh động, do Đậu Vằn phản trắc, do Hám đã đầu hàng...

- Con! - Giọng Thánh Thiện buồn chán. Mặt y ảm đạm héo hon. - Thảm bại hãi hùng này
không phải Thiên phụ đã bỏ rơi ta. Ai còn lại , con kêu gọi họ hãy hướng tới ngọn cờ Thánh Thiện
để nhen nhúm lại “nghĩa lớn”. Sứ mạng đó, cha sẽ giao cho con. Cha sẽ nói với con tất cả những
nơi, những người tin cẩn con cần đến, cần gặp. Còn cha, cha phải ra đi. Cha sẽ lập chính phủ ở
nước ngoài. Con sẽ thay cha gọi đàn chiên rã bầy về một mối. Con sẽ đến xứ Tân Phát, tìm gặp
người tên là Thanh Tùng. Mật khẩu nhận nhau: “Nhất liên thanh” - “Đại liên thanh”.

Người đó sẽ là thượng cấp của con. Con nhớ kỹ...


Thánh Thiện không hề nói với Gấu kế hoạch ra đi! Thế nhưng y đã bàn với Hai Quắm cụ
thể lắm rồi. Hai Quắm đã chuẩn bị thuyền đưa Thánh Thiện vượt biển. Hai Quắm đã rút kinh
nghiệm sự thảm bại lần trước. Còn Bác Ái thì thực hiện một kế hoạch đánh lừa đồn biên phòng để
cả bọn trốn thoát. Bác Ái đã tổ chức cho Thùy Dương gây ra một vụ nổ lớn. Trong vụ nổ đó sẽ
tung tất cả truyền đơn, hiệu triệu, cờ mà chúng đã chuẩn bị cho “kế hoạch bùng nổ” để thu hút sự
chú ý của đồn biên phòng. Trong giờ phút đất Vũng bàng hoàng đó thì y và đồng bọn sẽ ra đi...

... Trong lầu hai, nhà dưỡng sức của ông bà tư sản Vinh Hoa, Lệ Thùy Dương đưa cho Can
kiểm tra lại quả mìn hẹn giờ nổ và một xắc du lịch truyền đơn. Cô ta õng ẹo nói với Can:

- Sang đó, em sẽ tự hào biết mấy. Vì em có một chàng kép sáng giá như anh. Anh đi với
em, sang đó anh trai em, ngài trung tá hải quân sẽ đón chúng ta.

Cô nở một nụ cười mơ hồ.

- Anh, rồi anh sẽ biết họ sẽ tạo dựng cho chúng ta một cuộc sống trong biệt thự xinh đẹp
và sang trọng, cuộc sống chỉ chơi đàn dương cầm và nói những lời êm dịu. - Cô gái nguýt Can một
cái rõ dài, thật sắc và nói xuôi rót.

Can cười, ánh mắt anh không để lộ ra điều gì thay đổi.

- Anh! Anh diện thật bảnh trai vào. Anh vứt cái áo màu nước dưa đi. Anh mang cái lốt tóc
giả ấy vào cho lút tai xỏa xuống gáy và xoa một chút dầu bóng lên bộ ria mép giả đi. Em trông anh
sẽ khác nào một tướng lãnh đã một thời gây cơn sốt sôi bỏng cho thời cuộc đó.

Can vẫn giữ nụ cười kín đáo:

- Em! Em của anh mặc sạch sẽ thế mà trí óc cạn trợt như đĩa đựng bánh bèo thì đâu có
được. Em tính coi. Em đi bằng xe gì, để thuốc nổ ở đâu... Ông chủ tịch giáo xứ hẹn 5 giờ 10 phút
phải có tiếng nổ, liệu có kịp không?

- Ủa! Anh! Em sẽ đi hon - đa màu đỏ đó. Xắc du lịch đựng truyền đơn em mang vào người.
Còn mìn em cột đằng sau.

- Rồi sao nữa chứ? Em nói anh coi.

- Đến xa cảng lúc xe các nơi đổ người về đông, em để hon đa đó, rồi đi vào tiệm coi hàng.
Em bấm công tắc mìn, mở sẵn xắc truyền đơn để đó rồi anh đến đèo em đi về nhà đón ba má cùng
đến nơi ông Bác Ái đã hẹn. Anh nghe có xuôi rót không?

- Ông hẹn ở đâu?

- Ủa! Ông đâu đã nói nơi có tàu đón đi. Ông biểu làm xong việc đặt mìn, trở về, ông sẽ nói
và sẽ đón đi luôn thể. Sao anh cứ nhìn em mãi thế?
Can nói lảng:

- Không, anh trông em đẹp quá!

- Ứ... Mà anh đã coi lại mìn chưa? Em mù tịt về món ấy đó nè.

- Anh coi kỹ rồi. Tốt lắm. Anh đi hon - đa màu đen. Em đến trước, 20 phút sau anh sẽ đến
đón em.

Vừa nói với Lệ Thùy Dương, Can vừa suy nghĩ: “Thế là chưa biết được chỗ chúng tập kết
để lên tàu. Cái chốt là ở đó, phải thực hiện phương án 2. Phải đưa Lệ Thùy Dương về nhà đã...”

- Bồ ơi! Chàng kép sáng giá của em ơi! Xuôi rót rồi đó. 4 giờ 30 phút em lên xe được chớ?

- Nên sớm hơn 10 phút. Em đi chậm thôi - 2 giờ 30 phút anh có mặt ở đấy. Em hóa trang
cho kỹ nhé.

- Anh, nếu trót lọt, chúng mình được ông Bác Ái ban thưởng 50 lạng đó. Ông đã hứa với
em. Tha hồ xài.

Lệ Thùy Dương diện đúng mốt thời trang. Tóc ốp, mặt đeo kiếng đen to, tay xỏ găng ni
lông màu đen... Ả lái chiếc hon - đa màu đỏ đi về phía xa cảng. Ả nhớ lời dặn của Can, đi rất chậm.
Đến xa cảng, ả để xe rồi đi vào tiệm cà phê. Phía góc đường, chiếc xe hon - đa màu đen đã đến.
Trên xe có một thanh niên tóc rậm, ria mép đen trông như một hiệp sĩ. Thùy Dương vội đi ra, nhảy
tót lên ngồi sau xe. Ả vòng tay ôm chặt lấy eo lưng người đàn ông. Chiếc xe nổ máy.

Cùng lúc ấy, ba chiến sĩ cảnh sát nhân dân đi tuần tra đến. Một tiếng còi vang lên báo hiệu
phạt vi cảnh người có chiếc xe hon - đa màu đỏ đậu giữa lòng đường. Không có chủ nhân, chiếc
xe hon - đa đã được ba chiến sĩ đưa ngay vào đồn. Lập tức các gói hàng được mở ra. Lệ Thùy
Dương ngoái nhìn cảnh đó và ả giục Can vù gấp.

Về đến nhà, trời đã xâm xẩm tối, Lệ Thùy Dương nói rõ sự bất lợi đó. Cả nhà ông Vinh
Hoa tức tốc ra đi. Lệ Thùy Dương, bà mẹ và các em cô đi bằng xe ô tô du lịch hiệu 504 chở đầy
những túi vàng bạc, hạt xoàn. Can đi xe hon - đa, nhưng anh đã rẽ về một đường khác... Ông Bác
Ái, ông Vinh Hoa đi sau cùng. Bác Ái rì rầm bàn với Vinh Hoa điều gì, rồi lập tức tất cả đèn nê-
ông, đèn ngủ, đèn tròn màu xanh, mùa đỏ đều bật lên sáng trưng. Ti vi được mở ra. Dàn tếch hát
rống lên. Cát - sét, ra - đi - ô cái nói, cái hát loạn xạ như chửi nhau. Cà phê được pha ra. Cái cốc
nước trái cây, bánh ngọt bầy sẵn trên bàn như một bữa tiệc bỏ dở. Thức ăn trong tủ lạnh: thịt quay,
gà luộc, lạp xường... vẫn để nguyên... Bác Ái xem xét kỹ từng thứ. Ông ta khoa tay rắc vào tất cả
một thứ bột trắng đục. Làm xong, Bác Ái mỉm một nụ cười nham hiểm, rồi lên xe phóng đi.

Nơi hẹn là một cái rẫy phát dở ở chân núi. Thánh Thiện đã có ở đó rồi. Nét mặt ngài “quốc
trưởng” âu sầu, những tăm tối và tội lỗi đã đóng lên hai đôi mắt y con dấu ác nghiệt. Hai Quắm
cùng với vợ con cũng đã đến đó. Hắn mặc bộ quần áo như một người lái tàu. Đồng bọn chừng 20
tên từ trong hang núi lục tục kéo ra. Cả bọn người lúc nha lúc nhúc như một đàn rệp nép bên những
hòn đá đen, chờ đợi.
Thánh Thiện ngồi bệt xuống đất, giương mắt nhìn trời. Hắn thở dài não ruột:

- Ôi! Ta đã hái nho nơi bụi găng đầy gai. Ta đã không xây lầu cao trên vùng đá mà xây trên
cát xốp...

Hắn quay lại nói với bọn đàn em. Trong bóng tối đặc quánh dần, không ai nhìn thấy mặt
hắn nữa, chỉ thấy một khối đen lù lù nổi lên. Nhưng qua giọng nói, ai cũng biết hắn đang nghiến
răng vì uất ức:

- Các con! Cộng sản là tai họa đáng sợ hơn hết trung buổi hiện thời. Dù ở đây, dù đi đến
nơi nào trên hành tinh này, các con phải thấy mình đang đứng trước hai con đường: theo Chúa hay
chối Chúa. Theo Chúa thì phải xem Cộng sản là kẻ thù không đội trời chung (!). Chính chúng nó
đã đẩy ta đến thảm bại này.

Giọng hắn hạ thấp xuống dần nghe ảo não. Trước mắt hắn, tất cả đều như mây khói mới
hợp một chút đã tan rồi!

Có hai chớp ngắn, một chớp dài, đèn xanh lóe lên ở phía mũi Hải. Hai Quắm vội rút đèn
pin trong túi áo ra chớp lại một chớp ngắn, một chớp dài đèn đỏ. Hai Quắm quay lại nói với Thánh
Thiện và mọi người:

- Tàu đến!

Con tàu này do Hai Quắm đã bố trí cho Tư Hoán. Hai Quắm đã tự kiểm tra dầu mỡ, máy
móc, y đã bàn tính kỹ với Tư Hoán giờ ra đi, nơi đón và đường luồn lách trên biển. Sau khi đón
người xong, tàu sẽ đi ven bờ, ra đến Thuận mới chiếu ngang vĩ độ với đảo C.10, vù sang. Mọi ám
hiệu đều thay đổi.

Trong khoang hầm, từ sớm, Hai Quắm đã bí mật đặt một khối thuốc nổ. Nếu bị tàu Cộng
sản truy đuổi, cặp mạn thì tất cả đều tiêu...

Tư Hoán dùng chèo đưa chiếc thuyền sáu lốc cặp nhẹ nhàng vào bờ đá. Hai Quắm lên
thuyền. Hắn ghé vai cõng Thánh Thiện. Rồi hắn cầm tay Bác Ái kéo lên. Cả bọn lục tục nhảy lên.
Bỗng hai đèn pha ở mũi tàu bật sáng. Cả hai ngọn đèn đều quay lại rọi thẳng vào đám người đang
dắt díu nhau lên. Từ trong khoang hầm tàu, các chiến sĩ biên phòng dưới sự chỉ huy của Trần Minh,
xô ván đứng dậy. Từ sau những bụi cây, hòn đá, các chiến sĩ dưới sự chỉ huy của Lê Quang, xông
ra. Cả bọn không kịp trở tay. Chúng đứng chết cứng như trời trồng. Thánh Thiện, Bác Ái, Hai
Quắm và cả bọn lần lượt xỏ tay vào còng.

Một số đàn bà, trẻ em ở trên rẫy chưa xuống thuyền hoảng hốt chạy toán loạn. Vợ con của
Vinh Hoa và cả vợ con Hai Quắm chạy bổ về biệt thự số 15. Ở đó, ra - đi -ô đang hát những bài
mở đầu chương trình ca nhạc. Trên màn ảnh ti-vi vẫn còn chiếu bộ phim mới: “Bài học nhớ đời”.
Mọi thứ trong nhà nào cà phê, nước trái cây, bánh ngọt... vẫn bày trên bàn. Thịt quay, gà luộc vẫn
còn nguyên trong tủ lạnh...
Tuy sợ hãi đang giày vò, nhưng khát và đói, cả lũ thả sức chè chén. Lệ Thùy Dương bị
ngấm độc lăn quay ra trước nhất. Rồi lần lượt cả nhà tư sản Vinh Hoa, cả nhà Hai Quắm cũng
ngấm độc, lăn quay ra, đứa chết, đứa ngắc ngoải. Các chiến sĩ của ta đã kịp đến, đưa đi cấp cứu
những người còn thoi thóp...

Bác Ái rắc thuốc độc định giết những chiến sĩ biên phòng đến đó, lúc chúng đã bỏ đi trót
lọt... Nhưng điều không ngờ đã xảy ra... Trò hề và sự nham hiểm của bọn quỷ dữ đội lốt thánh
nhân đã bị trừng phạt...

BÓNG NÚI

Từ trên chóp núi nơi đồn công an vũ trang biên phòng Mũi Gió, Toàn đi xuống. Đến Núi
Bà, anh dừng lại trước nghĩa trang. Những tấm bia giống như những bàn tay từ nấm đất giơ lên
báo cho thế gian biết - “Tôi ở đây. Tên tuổi tôi đây”. Giữa thinh không vắng lặng, bảng lảng chút
sương khói đầu thu, Toàn đã nhận ra ngôi mộ bà Hựu. Bởi ngôi mộ bà trời đất phú cho những nét
đặc biệt nên khác với các ngôi mộ khác. Anh em trong đồn nói rằng, ngôi mộ bà đất cứ đội lên
như được vun đắp thêm nên to hơn, cao hơn. Và, một điều dễ nhận nữa là chim trời rủ nhau về bay
lượn hót trên mộ. Anh em còn kể, quả núi này xa xưa không có tên. Từ khi làng Phương bị máy
bay ném bom hủy diệt, bà Hựu về đây an nghỉ núi mới có tên Núi Bà. Rồi Núi Bà trở nên linh
thiêng huyền bí là do người làng Phương thêu dệt nên nhiều huyền thoại. Có người nói đêm khuya
trong tiếng gió núi réo, tiếng sóng biển gầm vẫn nghe rõ mồn một tiếng khàn khàn của bà Hựu. Bà
gọi tên ông Hiếu, ông Nghĩa con trai bà. Bà gọi tên ông Tuấn ở đồn biên phòng thời chiến tranh.
Có người quả quyết như đinh đóng cột rằng những đêm trăng non mờ ảo đã nhìn thấy bà bưng rổ
khoai lang, xách ấm nước chè xanh đi ra phía đụn cát. Người làng Phương còn đồn những ngày
giông gió sấm chớp, các tiên nữ xiêm áo lộng lẫy về biến thành đàn mối cánh bay lượn, múa hát
quanh mộ bà...

Toàn đi nhanh vào làng Phương. Anh hỏi lối đến nhà ông Hiếu. Ai cũng trả lời anh: “Cứ
tìm đến cây trứng gà quả đang chín vàng ươm là nhà của ông”. Đến cửa, Toàn hỏi vào. Một cô gái
có khuôn mặt tươi tắn, cái cằm hơi nhô một cách nghịch ngợm đi ra. Cô vừa đi vừa cầm khăn lau
vội lau vàng lên mặt. “Mắt con trai”, Toàn đã nhìn thấy rồi. Cô đang lau phấn hồng trên má. Đôi
mắt cô lấp lánh nhìn anh lính trẻ. Cô cười ngượng nghĩu. Toàn nhắc lại cái câu anh vừa hỏi:

- Đây có phải nhà bác Hiếu?

- Vâng. Anh “tia” đúng rồi đấy. Mời anh vào. Bố em vừa sang hàng xóm uống nước chè
mới, sắp về - Giọng cô nhí nhảnh, vui như ánh mắt của cô.

Toàn đi vào. Bỗng cô gái rùng mình. Cô nhíu mày khi nhìn thấy cái túi anh lính biên phòng
đeo bên hông. Cô ngập ngừng:

- Chắc anh nhầm nhà rồi. Sao buổi sớm vào nhà em, anh lại mang cả bó hương to tướng
vào thế kia?

Toàn đứng khững lại. Bối rối:


- Bố tôi dặn đưa hương vào thắp tưởng nhớ bà Hựu. Sang tháng là ngày giỗ bà.

- Ôi! Bà Hựu là bà nội của nhà em. Thế bố anh là ai?

Toàn lúng túng, anh ấp úng chưa biết lựa lời thế nào. Vừa lúc ấy, ông Hiếu về. Ông có
gương mặt rộng, sáng, trông thuần hậu.

- Cháu chào bác.

- Vâng, mời anh ngồi!

Ông Hiếu nhìn anh công an vũ trang biên phòng lạ nhỏ nhắn, có nước da trắng trẻo. “Không
biết anh này từ đâu đến mà có cái nhìn “lớ ngớ”, trông nom như chú gà choai vào vườn lạ thế
kia?”. Ánh mắt ông như vừa dò hỏi, vừa tìm một nét “quen“ ở anh. Nhưng không có. Vì lính trên
đồn Mũi Gió này, anh nào mà người làng Phương này chả biết. Đoán được ý ông Hiếu, Toàn nói:

- Thưa bác. Cháu tên là Toàn. Cháu mới được bổ sung về đồn. Cháu là con bố Tuấn quê ở
Hoa Lư, Ninh Bình bác ạ. Bố cháu kể rằng, năm xưa bác đã ra nhà cháu rồi. Bố cháu dặn cháu lúc
vào đồn thì xuống làng Phương tìm đến nhà bác. Cháu xin chuyển nén hương của bố cháu gửi vào
thắp tưởng nhớ bà.

Ông Hiếu đứng sững người. Cái nhìn của ông dịu xuống. Nét mặt ông từ chỗ lạnh lùng,
ngỡ ngàng chuyển sang ấm áp rồi trở nên xúc động. Tai ông nghe mà miệng ông cứ há ra ờ..ờ...
Mỗi lần có ai nhắc đến người mẹ của ông là như chọc vào nỗi đau xoắn giữa lòng ông. Nỗi đau đã
vón thành sỏi sạn. Nếu như con trai ở đáy biển có viên sạn trong lòng thì nó là nhân để tạo thành
viên ngọc quý. Còn nỗi đau trong lòng ông thì đã vón thành cục máu hồng kết cứng đau thương.
Ông nói lạc cả giọng:

- Ôi, ông Tuấn. Cháu là con trai ông Tuấn à?

- Ông Hiếu dang rộng cả hai cánh tay ôm chặt lấy anh lính biên phòng. Ông ngoảnh về
phía cô con gái, nói:

- Con ạ. Ông Tuấn mà mỗi mùa con hái quả trứng gà thắp hương cúng bà là bố lại nhắc tới
ông đấy!

- Ông Hiếu cầm tay Toàn đến trước bàn thờ. Bài vị thờ bà Hựu không có ảnh chỉ dán tờ
giấy đỏ viết dòng chữ màu đen “Bà Cao Thị Hựu mất ngày...”. Một tấm ni lông mỏng trùm kín bài
vị. Với lòng kính thương bà, con cháu không nỡ để cát bụi, gió biển mặn mòi làm ẩm mốc phai
bạc tên bà. Ông Hiếu kính cẩn thắp nén hương. Ông chắp tay, cúi đầu khấn vái. Toàn cũng làm
động tác theo ông. Ông lầm rầm. Ông nức nở méo cả tiếng: “Mẹ ơi. Mẹ về chứng giám tấm lòng
nhân hậu của ông Tuấn ở đồn công an vũ trang biên phòng. Ông đã chăm lo mẹ những ngày chiến
tranh khốc liệt thay chúng con. Ông đã chôn cất mẹ như người mẹ đẻ của mình. Mẹ ơi!...”. Nước
mắt ông chảy tràn xuống hai gò má.
Ông Hiếu đi vào bếp hãm nồi nước chè xanh. Chờ thời cơ ấy, cô con gái ông đến ngồi
xuống ghế đối mặt với anh lính biên phòng. Bây giờ thì đôi má bầu bĩnh của cô đã sương sương
màu phấn hồng, và làn môi cong cong cũng hường nhẹ. Đôi mắt cô lấp lánh, tươi cười. Cái nhìn
“làm lành” của cô thật dịu dàng, đẹp. Những cử chỉ đó cô như muốn nói với anh lính trẻ “Bây giờ
thì em đã hiểu rồi. Anh bỏ qua cho em, anh nhé...”. Cô nói giọng trong vắt:

- Tháng trước chúng em được đến quê anh đấy.

Toàn chưa kịp hỏi lại thì cô đã nhanh nhẩu nói:

- Quê anh đẹp lắm. Vui lắm. Chúng em được vào thăm cố đô Hoa Lư, thăm Động Thiên
Tôn, rồi còn được vào cả Bích Động...

- Cô đi đâu ngoài ấy?

- Em học ở trường Văn hóa nghệ thuật tỉnh. Chúng em đi biểu diễn giao lưu với Nhà văn
hóa tỉnh anh. Chúng em đưa dân ca ví dặm ra hát rồi học làn điệu hát chèo...

- ...Ừ, em nó vừa ở ngoài ấy về đấy - Ông Hiếu đi ra, hai tay ông bưng nồi nước chè vừa
hãm - Tên nó là Thảo. Bác là Hiếu thì nó phải là Thảo - Ông Hiếu cười vui - Nó được trường cho
nghỉ mấy ngày, nhưng hai hôm nay lại phải đi duyệt tiết mục văn nghệ để liên hoan nhận bằng
Làng văn hóa - Ông rót bát nước chè đặc sánh mời Toàn. Ông nói:

- Cháu ạ. Ngày hết chiến tranh, bác từ chiến trường ra mới biết ông Tuấn bị thương lại bị
chứng vôi hóa cột sống, ông đã về nghỉ rồi. Bác khóc xót thương mẹ bác mười phần vì nghĩ đến
nghĩa sinh thành thì Bác khóc cảm động trước lòng nhân ái của ông Tuấn cũng mười phần. Bác
tìm ra quê ông Tuấn thăm ông, cảm ơn ông. Ngày bác ra, cháu còn bé lắm. Cháu đang chơi trốn
tìm với bọn trẻ quanh vườn. Thế mà bây giờ cháu đã thành người lính biên phòng rồi. Cháu lại
được về công tác ở cái đồn ngày trước ông bố làm đồn trưởng. Quý hóa quá.

- Thưa bác, bố cháu vẫn còn nhắc, nhờ có lọ rượu ngâm rắn biển bác đưa ra mà bố cháu
mới đỡ được chứng đau lưng. Bố cháu mời cả xóm đến uống rượu của bác đấy...

- Ừ, dạo ra quê cháu, bác càng biết thêm, không chỉ có bố cháu mà bà con ở đất cố đô ai
cũng hiền lành, nền nã, ai cũng nhân từ. Cháu ạ, bác đã được đến nhiều nơi trong chiến trường, ở
đâu bác cũng được bà con chăm nuôi đùm bọc. Bà con đã nhịn đói để nuôi sống bác; đã nhận lấy
cái chết trước mũi súng giặc để cứu sống bác. Bác cứ tâm niệm một điều ở đâu cũng có nhiều
người tốt, yêu thương nhau như ruột thịt. Điều ấy cứ canh cánh bên lòng bác như nhắc bác phải
sống thế nào cho phải đạo... Ông Hiếu ngồi lặng. Ông nói một mình “Ông Tuấn ơi - đôi mắt ông
ướt nhòa nhìn ra phía Núi Bà, giọng ông thổn thức như những tiếng kêu sâu thẳm từ đáy lòng - Đã
hai chục năm rồi gừng còn cay, muối còn mặn thì tôi còn nhắc, còn nhớ đến ông”. Ông Hiếu nhìn
Toàn, hỏi:

- Có khi nào bố cháu kể cho cháu nghe những chuyện ở đây hồi chiến tranh không?

- Thưa bác, bố cháu đã nhiều lần kể ạ.


- Ừ - giọng ông Hiếu trầm xuống. Bát nước chè xanh sóng sánh trên tay ông

- Thế là hay đấy cháu ạ. Nếu quên quá khứ đi là đồng nghĩa với việc phản lại cha ông đấy.
Cái ngày ông Tuấn làm đồn trưởng, vùng biển chân đèo là nơi xung yếu lắm. Trên đèo không một
thước đất nào không có dấu bom đạn. Dưới biển thì đêm nào tàu thủy giặc cũng vào sát bờ thả biệt
kích lên bắt người khai thác tin. Chúng tập kích vào các trận địa pháo, phá cầu, phá kho... Đồn
biên phòng Mũi Gió sơ tán xuống rìa làng Phương này. Cháu ạ. Ngày ấy, ông Tuấn cho anh em
moi rộng lòng các đụn cát, rồi dỡ đồn vác cột kèo, chuyển hết cánh cửa, ván nằm, mặt bàn ghế
xuống. Cột thì chống lòng đụn cát, ván làm trần hầm chắn cát. Cháu có tưởng tượng được không,
lúc ấy mỗi đụn cát thành một hầm trú ẩn, một điểm tựa canh giữ bờ biển chân đèo...

Thời điểm ác liệt nhất ấy, nhà bà Hựu đã trở thành “trạm xá”, “trạm khách” và cũng là “hậu
cứ” của đồn biên phòng. Bà Hựu là người trực, lo toan. Bà nghĩ mà thương, mà ái ngại cho những
người lính. Ngày, anh em nằm trong đụn cát ; đêm thức trắng canh bờ biển, rồi còn thay nhau chốt
giữ trận địa trên đỉnh đèo. Bà đã nói với các bà mẹ trong làng Phương, ước chi chúng mình thành
rừng phi lao ken dày tán lá để che cho anh em, ước chi thành những núi cát để ngăn chắn đạn bom,
ước chi đất làng Phương này và cả quả núi đầu làng này nữa thành vườn cây thuốc nam, mọc thật
nhiều ngải cứu, sài đất, nhọ nồi, có thật nhiều rau má, lạc tiên, lá sả... để chăm sức cho anh em. Bà
nghĩ giản đơn nhưng cũng thật là chí lý. Bà yêu thương những người lính ở đây thì con bà ở trong
xa ấy sẽ được các bà mẹ yêu thương, đùm bọc. Đất trời này công bằng lắm. Ân nghĩa ở đời nói
cho cùng nó cũng giống như mạch nước ngọt lành, ngấm trong mười tầng đất. Nó sẽ rỉ rả chảy
ngầm đến các giếng thơi của con cháu mình ăn.

- Cháu ạ - ông Hiếu nói với Toàn - năm chiến tranh ác liệt thì bác nhập ngũ. Bác nghĩ rồi
đây không biết sống chết thế nào nên đã bàn với chú em trai - chú Nghĩa - Nói đến đây, ông Hiếu
đưa tay áo lên thấm nước mắt - Chú Nghĩa đã nằm lại ở thành cổ Quảng Trị rồi. Cháu ạ. - Ông
Hiếu khóc nức lên, nghẹn ngào. Thổn thức “Mẹ từng ăn miếng cay miếng đắng nhả ra ngọt ra bùi
để nuôi mình. Mẹ đã già, mình báo đáp thế nào đây...”. Ông ngồi lặng đi, rồi tiếng nói của ông đứt
quãng. Ông nói với Toàn rằng, lúc ấy ông bàn với chú Nghĩa đóng cho mẹ một cỗ hậu sự để lúc
mẹ tuổi hai năm mươi, ông ở xa không ân hận, mà Nghĩa cũng đỡ phải cập rập lo toan. Biết được
các con bàn việc ấy, bà Hựu gạt đi: “Thôi, đừng lo cho mẹ việc đó. Con cứ đi chân cứng đá mềm.
Mẹ sẽ sống đến ngày chiến thắng đón con về...”. Nhưng hai người con trai của bà vẫn làm cái việc
đã bàn. Cỗ hậu sự của bà Hựu được đóng bằng gỗ de gừng, có hương thơm, có màu óng ánh như
tơ lụa. Tấm thiên, tấm địa dày đến năm phân, được hoàn thành chóng vánh. Thế rồi đợt tổng động
viên sau đó. Nghĩa cũng lên đường vào chiến trường. Trước khi đi, Nghĩa đã làm cật lực để xong
chiếc hầm chữ A. Nghĩa xe đất đắp cao như một đụn cát. Và, chính tay anh đã đặt cỗ hậu sự của
mẹ mình vào lòng hầm để nó tránh đạn, bom. Ngày máy bay rải bom, đêm pháo bầy, pháo chụp
từ tàu biển rót vào, bà Hựu đều vào nằm trong đó. Bà kéo tấm ván thiên đậy hờ lại là an toàn lắm.

Ta chuyển pháo về phục kích tàu chiến giặc. Xe pháo phải vượt qua đoạn đường cát trắng
mới tiến nhập được vào trận địa. Từ lúc nhọ mặt người, đến buổi hừng đông mà xe, pháo vẫn sa
lầy. Xe càng rùng mình gầm rú, bánh càng ngập sâu trong cát xốp. Người làng Phương chặt cây
cối, huy động tre nứa, rơm rạ trải lên trên cát lót đường. Nhưng mọi thứ đều bị bánh xe nghiền nát
vụn như củi rều. Đã sắp nhìn rõ mặt người rồi mà xe pháo vẫn còn phơi trần giữa đường cát trống.
Như mọi hôm, chỉ lát nữa thôi máy bay sẽ kéo đàn kéo lũ đến. Nó sẽ bâu vào... Cái sống, cái chết
chỉ còn cách nhau trong khoảnh khắc... Người làng Phương đã vác cả giường nằm, ván tủ, rương
thùng, bàn ghế... trải dài trên con đường cát xốp. Còn mấy chục mét nữa là pháo vào được trận
địa, nhưng xe không thể nào nhích lên được. Tình thế phải có thêm nhiều gỗ nữa để lót đường.
Bỗng có tiếng nói từ trong đám người đang hùng hục đào cát, đang cúi rạp mình đẩy xe: “Dỡ nhà
mới giải quyết được bà con ơi”. Người làng Phương lại rùng rùng chạy về phá dỡ nhà mình. Vác
cột, kèo, xà, hạ ra... Bà Hựu gọi đồn trưởng Tuấn lại, gọi các chiến sĩ lại. Bà khoát tay ra hiệu. Tất
cả chạy theo bà. Về đến cửa, bà chỉ ngay vào chiếc hầm chữ A, quát to như vị chỉ huy ra lệnh:
“Tụi bay vác cái này ra”. Tuấn chần chừ. Các chiến sĩ nhìn nhau chần chừ, vẻ ái ngại. Bà Hựu hét
lên: “Phải lo cho người sống trước đã. Vác ngay ra”. Bà vòng hai tay ra sau gáy vấn gọn búi tóc
rồi xông vào hầm. Tay bà cầm búa vung mạnh tháo cá gỡ ra từng tấm. Bà kéo tấm thiên ra, kéo
tấm thành ra. Tuấn lau mồ hôi bước tới cầm lấy búa từ tay bà, làm theo. Những tấm ván gỗ gie
gừng được bào chuốt trơn tru phả hương thơm ngọt như mật mía nhào với gừng tươi...

Nửa đêm hôm ấy, pháo ta từ vị trí tối ưu bất ngờ gầm lên, nhả đạn. Tàu giặc cháy. Giữa
biển đêm đen kịt hai ba đống lửa bập bềnh trôi nổi. Người làng Phương hò reo như sấm biển. Như
mọi buổi chiều, bà Hựu khệ nệ bưng rổ khoai lang luộc, bát cà muối, xách ấm nước chè xanh đi ra
phía đụn cát. Bỗng máy bay ập tới. Chúng không quần đảo tìm mục tiêu như mọi ngày, mà thay
nhau chúc đầu dội bom đạn xuống làng Phương. Lửa cháy rừng rực. Nhiều hầm bị sập. Nhiều nhà
trúng rốc két. Nhiều người trúng bom bi... Bà Hựu nằm sõng soài bên hố bom. Những củ khoai
lang, những quả cà cháy đen lăn lóc quanh bà. Đồn trưởng Tuấn đưa bà về. Anh đặt bà nằm trên
nền đất cháy đen. Tuấn cởi chiếc áo quân phục giũ sạch cát bụi đắp lên người bà. Lúc ấy trời đã
chạng vạng. Không khí sặc mùi thuốc bom, mùi khét lẹt của nhà cửa, chiếu chăn... bị đốt cháy trộn
lẫn với mùi tanh tưởi của máu người tạo nên mùi tử khí nặng nề thê thảm bao trùm làng Phương.
Đây đó từng tốp, từng tốp người đứng nhìn thi thể người thân, mắt họ như tóe máu. Họ khóc gào
ai oán: “Trời ơi! Trời hãy chứng giám cái tội ác này”. Mọi người đã phải tính đến chuyện tìm kiếm
những chiếc chiếu cói còn sót lại... Đồn trưởng Tuấn đứng lặng. Anh đưa mu bàn tay gạt nước
mắt. Lòng anh thắt lại. Nét mặt anh cay đắng. Anh muốn gào to “Có cách nào nữa không các cậu
ơi. Bà đã đùm bọc chúng ta, bà đã chăm lo cho chúng ta. Cái tâm, cái đức của bà to như quả núi
đầu làng Phương này. Chúng ta đền đáp thế nào đây, các cậu ơi”. Anh gọi các chiến sĩ lại. Họ đứng
vây lấy anh. Nét mặt ai cũng đen nhẻm, nước mắt trộn lẫn với mồ hôi chảy thành dòng. Anh nói
điều đấy với họ... Tất cả gật đầu đồng ý với anh rồi cũng chạy nhanh về các đụn cát. Những cánh
cửa bằng gỗ dổi đang làm trần hầm chắn cát được gỡ ra. Cỗ áo quan của bà Hựu được lính biên
phòng thắp nến sáng đóng trong hầm đêm. Đồn trưởng Tuấn tìm nơi đất lành để bà yên nghỉ trên
lưng quả núi đầu làng. Anh chọn hướng đặt bà nằm gối đầu lên núi biên phòng, mặt nhìn về làng
Phương. Phía ngoài xa là biển lành mênh mông gió. Tuấn đứng trước vong linh bà thắp nén hương,
nói lời vĩnh biệt. Anh làm mọi việc thay người con trai bà đang ở trong chiến trường xa.

Mấy năm sau, ngôi mộ bà Hựu như là nơi quần tụ của nhiều loài chim trú ngụ ở vùng này.
Từ sớm tinh mơ đến tối mịt đàn sáo sậu, cà cuống, chim sâu... cả gà gô cũng dắt đàn con đến rúc
rích tìm mồi trong đám đất mối đội lên quanh mộ bà. Đàn chim nhảy nhót nô đùa hót lảnh lót véo
von, rủ nhau họp thành đôi lứa. Các cụ già ở làng biển này đều nói rằng: “Ngôi mộ mà Hựu được
đặt đúng vào nơi đất phát rồi đấy”. Năm phá dỡ chiếc hầm chữ A, Đồn trưởng Tuấn đã trồng vào
hố đất ấy một cây trứng gà. Hàng năm vào cứ tháng mười ta, quả trứng gà chín vàng ươm lủng
liểng trĩu cành trông đẹp như những trái tim vàng. Người làng Phương lại nói bà Hựu đã hóa thân
vào cây, bà để phúc lộc, để ngọt lành cho con cháu.

*
Ông Hiếu, cô con gái cùng anh lính biên phòng đi đến nghĩa trang Núi Bà. Ông Hiếu thắp
nén hương cắm lên trước bia mộ. Lộng gió biển, nén hương cháy lên thành ngọn lửa. Như sách
“Thọ mai gia lễ” viết, được “Hóa chân hương” như thế là người quá cố linh thiêng đã về nhận lòng
thành kính của cháu con.

Bố con ông Hiếu tiễn chân Toàn về đồn biên phòng trên chóp núi.

Chiều. Nắng xiên khoai. Nhưng đèo cao, Núi Bà đổ bóng che mát con đường ba người
đang đi. Một ý nghĩ chợt đến với anh lính trẻ biên phòng: “Bóng núi, có phải bóng của ông bà, cả
các bậc cha anh đã giữ đất này che mát bước đường cho cháu con...”. Ông Hiếu nói với Toàn giọng
ông trầm tha thiết:

- Ngày giỗ bà vào đầu tháng tới, bác ước mong đón được ông Tuấn vào...

- ... Bố. Bố cho con thuê xe ra đón bác - Thảo nhanh nhẩu nói chen lời bố - Trường Yên,
Hoa Lư, lối Động Thiên Tôn đi vào, con đã biết đường - Thảo nhìn anh lính biên phòng đôi má cô
ửng lên, ánh mắt cô lấp lánh niềm vui - Anh Toàn nhé! Anh nhớ xuống cúng giỗ bà, anh nhé.

GIÓ TRẦM HƯƠNG THAO THỨC

Chuyện ấy như một kỳ tích - Chuyện chiến sĩ Hằng không trở về sau trận truy tìm biệt kích.
Hằng đã ở lại với đại ngàn. Các thế hệ chiến sĩ bổ sung về đồn Biên phòng đều ưu tư đau xót.
Trong cuốn lịch sử của đồn chỉ ghi vẻn vẹn bảy dòng: “Chiến sĩ Trần Văn Hằng hi sinh trong trận
đánh biệt kích. Sau trận mưa xối xả rừng có nhiều tiếng động ầm ào, đá lăn, cây đổ, các chiến sĩ
dàn hàng ngang truy tìm dấu vết. Đồng chí Hằng không để lại tung tích...”

Ngôi mộ có bia tưởng niệm Hằng, đồng đội đặt ở lưng đồi phía sau đồn là ngôi mộ tượng
trưng. Dưới mộ chỉ có một số kỷ vật và tấm ảnh của Hằng.

Đồn trưởng biên phòng Huy Thập và Mai Thiện - người chỉ huy đội truy tìm đến nhà cụ
Huấn. Nhà cụ ở đầu xóm Kim. Cụ Huấn có mái tóc và chòm râu dài trắng như mây núi. Cặp lông
mày của cụ cũng bạc trắng như hai bông lau cờ. Cụ ngồi trên đệm cỏ trải tấm da hổ lông vàng vằn
đen hình trăng khuyết. Trông cụ uy nghi bí hiểm như vị thần núi. Các đầu cột nhà cụ treo đầu nai,
đầu hươu, những bộ sừng năm nhánh vút lên như những cụm trông hoang sơ, kỳ vĩ. Trên xà gồ
phía trước đệm cỏ, cụ gắn đầu con bò tót sừng cong như cánh cung nhô về phía trước vừa thách
thức vừa hiếu chiến. Ở cái bàn nước bằng lõi gốc cây gỗ hương để ở góc nhà có ống tre đựng lông
nhím làm tăm. Bên chiếc gối bông gạo nhồi trong da cáo, cụ để con dao đi rừng đút trong chiếc vỏ
bọc da trăn hoa... Đó là những di vật của đời ông, đời cha làm nghề thợ săn để lại. Cụ Huấn đã
tròm trèm trăm tuổi nhưng chỉ sống một mình từ khi cụ bà về sớm với tổ tiên. Con cháu đã năm
lần bảy lượt mời cụ về ở chung, cụ nói: “Cơm vợ thì ngon, cơm con thì đắng. Quanh giường có
bầy thú đại ngàn túc trực thế là vui rồi”.

Hai chú lính biên phòng vừa vào đến đầu sân, cụ lên tiếng trước:

- Các chú lại đến hỏi về chuyện chú Hằng phải không? Lão thương chú ấy lắm. Người xóm
Kim này ngày rằm còn thắp nén hương nhìn lên rừng xanh khóc chú ấy đấy. Nghĩ đến trận lũ quét
năm xưa ai mà quên được chú. Dòng nước đỏ như máu đại ngàn cuốn phăng nửa quả đồi, cuốn
mất gần hết cơ nghiệp của dân xóm này. Lúc ấy dân chỉ biết đứng khóc, chắp tay vái trời. Ấy thế
mà chú Hằng như con rái cá ôm cây chuối vật lộn với dòng lũ. Đến gần kiệt sức, chú mới kéo được
mấy đứa bé con vào bờ. Các chú còn nhớ đấy chứ. Sau trận lũ quét ấy, chú Hằng bị thấp khớp, tay
chân sưng tấy, đau nhức. Lão đã dùng hoàng liên, xuyên sơn giáp (vẩy tê tê) chữa khỏi cho chú ấy
đấy. Hễ xuống núi là chú ấy đến với lão. Chú nhận lão là ông ngoại mà. Chú tỉ mẩn hỏi lão đủ
điều. Chú ấy hỏi từ gốc cây, mạch suối đến các lối mòn trong hẻm núi. Chú hỏi lão để biết những
lúc lạc trong rừng rậm thì nhìn cửa tổ kiến, cửa tổ mối mà nhận hướng đi... Lão còn bày cho chú
biết quả chanh rừng thì chữa được bệnh hen, hạt nó chữa được rắn cắn. Giờ chú không về nữa... -
Cụ Huấn nấc lên, nói méo tiếng. Cụ đưa mu bàn tay gạt nước mắt.

- Thưa cụ. Cụ còn “bài” nào giúp chúng cháu tìm ra được tung tích của Hằng - Đồn trưởng
Huy Thập nhìn cụ Huấn với ánh mắt nể trọng. Giọng anh đượm vẻ buồn. Cụ Huấn nhìn ra phía
rừng xa. Tuổi già da cổ cụ nhăn nheo, cằm chảy xệ nhưng đôi mắt vẫn tinh sáng và giọng nói thì
rang rảng như tiếng hạt đỗ phơi già nắng rơi trên mâm đồng:

- Các chú ơi, lão nhớ ra rồi, vùng rừng Nước Nóng này thường có động xai đấy. Các chú
có biết thế nào là động xai không? Không à. Động xai là rừng thở dài đấy. Rừng đang im ắng bỗng
dưng có tiếng ầm ào từ các hẻm núi phát ra làm rung cây, chuyển đá rồi tiếng động chuyển dài
trong thung lũng - Cụ Huấn nói sôi nổi người chồm về phía trước như thời trai trẻ.

Chuyện cả trăm năm giữa đại ngàn tích tụ trong cụ được thể tuôn trào như thác nước đầu
ngọn sông Ngàn này. Cụ Huấn muốn truyền lại tất cả cho lớp con cháu:

- Thế đấy từ đời ông đến đời bố lão đều nói rằng khi trở trời, khi sắp có gió chướng nghịch
mùa thì rừng bực bội thở dài và gọi đó là động xai. Rồi trong hẻm núi, lưng núi có những vết nứt
sâu hoắm, có vết nứt liền lại ngay. Có vết nứt lần động xai sau mới liền lại. Những cành khô lá
mục, cỏ giả che lấp miệng vết nứt đi, nó hệt như một cái bẫy. - Cụ Huấn kể nhiều sự tích về rừng
về suối vùng này. Sự tích nào cũng mang màu sắc tâm linh, thần bí. Cụ nói lời nào cũng chí lý cứ
y như cách ngôn, sấm truyền của tiên tri. Chả thế mà bà con xóm Kim và cả vùng Sơn này nữa
đều nói lời tôn sùng cụ: “Dưới gầm trời đại ngàn này chỉ có cụ Huấn là một”.

Nói xong, cụ Huấn đứng dậy đi chậm rãi đến trước bàn thờ Thần rừng. Cụ kính cẩn thắp
nén hương. Theo cụ, người ở đồng rừng này thờ Mẫu Thượng Ngàn (mẹ cây), Mẫu Thoải (mẹ
nước), Mẫu Địa (mẹ đất) Mẫu Liễu Hạnh. Bà con gọi nôm là thờ Thần rừng. Bởi ai cũng nghĩ có
kiêng có lành, có lòng thành có hơn. Cụ trở lại ngồi trên tâm da hổ.

- Thế các chú đi tìm đến những nơi nào rồi?

- Thưa cụ - Đội trưởng Huy Thập trả lời - các chiến sĩ trong đồn, các đơn vị phối hợp đã
xuyên cắt rừng sục tìm dấu vết. Các đội sơn tràng của Lâm trường đi từ Cầu Treo sang, từ Cầu
Rào qua, Rào Mắc ra đường biên, từ Khe Kè lên, từ Đèo Keo xuống... Dân quân xóm Kim cũng
lặn ngòi ngoi nước đến các đầu khe, đầu suối, bờ vực, bãi cỏ để tìm nhưng không hề thấy tung tích
của Hằng.
Nói đến đó bỗng sống lưng đồn trưởng ớn lạnh. Sự thất vọng dâng lên trong anh. Anh rùng
mình như có con vắt xanh bám sau gáy. Mắt anh đau đáu nhìn ra phía rừng xa. Rừng thì vẫn tĩnh
lặng mà lòng anh sôi động. Cái cảm giác xót nuối người chiến sĩ không bao giờ về nữa hiện lên
trong ánh mắt, trong lời nói và cả trong cử chỉ của anh. Ôi. Rừng vẫn đấy nhưng không phải là
rừng nữa mà là nơi không biết có ma thuật nào đã cướp mất Hằng. Anh chép miệng và kín đáo
khoát một cử chỉ thất vọng. Đối với anh và cả các chiến sĩ trong đồn, Hằng đã để lại kỉ niệm về
một việc làm rất đời thường nhưng có lẽ nhiều năm sau anh em còn nhắc. Việc làm ấy lúc đầu có
người cười khẩy diễu Hằng là “dở hơi, là chập chập”... Hằng đỏ mặt lên: “Các cậu thử làm như
mình xem sao đã. Lúc leo núi tuần tra, mật phục sẽ biết tay nhau. Ba năm sống với ruồi vàng, bọ
chó, rận cỏ, vét cây... mới có “công trình nghiên cứu” ấy đấy...”. Rồi vài người làm thử xem sao.
Thấy có lý. Nhất là lúc luồn lách trong rừng rậm tuy áo quần ướt đẫm mồ hôi nhưng xơ vải, nếp
đường may, không cọ xát không làm da thịt ngứa ngáy. Rồi những ngày tuần tra mưa dầm ẩm ướt,
những đêm mật phục ém mình dưới tảng rêu, nằm trong bụi rậm bọ chét trong cỏ, bọ chó trong lá
mục, loài vét rận trọng rêu, trong cây bám vào không còn đường xơ, nếp gấp phía trong áo quần
áp với da để ẩn nấp... Thế là từ vài người, rồi anh em trong đội truy tìm và nay thì cả Đồn trưởng
Huy Thập cũng mặc đồ lót trái như Hằng... Bất giác Huy Thập nhìn áo mình rồi vờ ho, lau nước
mắt để giấu nỗi quặn đau trong lòng, còn miệng thì đắng như ngậm hoàng liên. Bởi linh tính như
đã mách bảo anh rằng chuyện mất mát này có thể có mối liên hệ với hiện tượng động xai. Chứ
chưa chắc Hằng đã gặp ác thú như vài người dự đoán...

Trong khói hương trầm lắng, linh thiêng, cụ Huấn ngồi suy tư. Đôi lông mày như hai bông
lau cờ quành hết hai đuôi mắt nhíu lại. Cụ nhìn ra phía rừng. Cái nhìn hoang vắng, mơ hồ... Rồi
cụ chuyển tầm mắt nhìn hai người lính biên phòng. Cái nhìn bỗng trở nên tinh tường, từng trải.
Cái nhìn không phải chỉ thấy được vật đang hiển hiện trước mắt mà còn nhìn thấy cả những gì sâu
xa trong nội niềm tâm tưởng của con người, cái đang ẩn chứa phía sau sự vật... Cũng như ngày
nào cụ chỉ thoáng nhìn thôi, hoặc hít ngửi mùi trong ngọn gió núi thôi là biết được ở cánh rừng ấy
có loài thú nào đang ẩn mình. Và, trong ánh mắt của người đang đối chuyện với mình, họ đang
muốn gì ở mình.

- Lão đoán rằng các chú đang có ý muốn hỏi lão về loài ác thú vùng rừng này phải không?

- Thưa cụ - Vâng ạ!

- Thế này nhá. Vùng này có “ông ba mươi” đấy. Các chú lạ với cách gọi đó à? Vùng sơn
cước người ta gọi hổ, khái, hùm, cọp là “ông ba mươi”. Một là sợ vía nên kiêng nhắc đến tên loài
ác thú ấy. Hai là lão nghe ông bà kể lại rằng xa xưa có tục ai săn diệt được cọp thì được quan
thưởng ba mươi quan tiền và được dân gọi là “ông” nên mới có cái tên ấy đấy. Lão biết vùng này
có một “ông ba mươi” lông vàng, chân sau thọt. Có lẽ ông mắc bẫy rồi phá bẫy thoát ra. “Ông” trở
thành tinh rồi, dữ lắm. Có một đêm mưa, “ông” về xóm Kim Cương này vạch liếp xông vào nhà
một người đàn bà. Chị ta đến ngày sinh đang nằm chung giường với đứa con nhỏ. “Ông” cắn chết
đứa con rồi ăn thịt người mẹ. Anh chồng đi họp xóm về soi đèn vào “ông” cắp mồi chạy vào rừng.
Các tổ sơn tràng có đôi ba lần xáp “ông” đấy... Cụ Huấn còn kể ở vùng rừng Nước Nóng có loại
trăn mốc, có con dài đến ba bốn sải tay, rồi còn có cả loài trăn mắc võng nữa, vòng bụng nó to hơn
cái ấm tích hãm nước chè xanh. Hai loài trăn này sống vắt trên cành cây. Nó thường phục các lối
mòn bắt sơn dương, bắt hoẵng, bắt được cả khỉ. Cụ đã tận mắt nhìn thấy nó quấn chặt con nai bằng
con bê rồi xiết đến gãy vụn xương và nuốt hết. Vài ba hôm sau, trăn quấn trên cành cây thông cổ
xuống, há rộng mồm xương rơi ra từng đống...

Nghe cụ Huấn nói, tai Mai Thiện ù lên, bàng hoàng, tim anh như bị bóp nghẹt. Anh tưởng
mình rơi xuống vực sâu, chới với, hụt hững. Nước mắt Thiện trào ra: “Ôi, Hằng ơi. Có lẽ nào Hằng
lại bị đau đớn đến thế”. Anh muốn gạt những ý nghĩ đó ra khỏi đầu. Anh mong rằng Hằng đừng
bao giờ như thế.

- Thưa cụ. Chúng cháu có đôi lần được nghe kể về các loài thú ấy. Trong chuyến đi tìm
này chúng cháu có chú ý nhưng không thấy nơi nào có xương và các trảng cỏ bên suối là nơi hổ
thường tha mồi về vờn xé cũng không hề thấy dấu vết gì. Nói đến những lời ấy lòng đội trưởng
Mai Thiện xót xa, tê dại: “Hằng đã cứu Thiện trong một tình huống cực kỳ nguy hiểm, mà nay
Thiện bất lực chưa trả được cái nghĩa ấy với Hằng...” Đó là chuyện xảy ra trong chuyến tuần tra
đầu năm nay. Đêm ấy cả đội mắc võng nằm lại giữa lũng núi. Sáng sớm đám đất dưới võng, sên
đất, vắt xanh ngóc đầu ngo ngoe hướng lên đáy võng như đám tằm non hướng về ngọn lá dâu.
Thiện thò chân xuống toan xỏ vào giày. Hằng kêu thất thanh “rắn đấy” Thiện vội co chân lên. Một
chú rắn lục màu đen bóng nhẫy, mắt lay láy man dại từ trong chiếc giày ngóc cổ lên. Phóng cái
lưỡi đỏ chót ra mổ hụt, rồi trườn đi. Thì ra cả đêm chú rắn lục vào ẩn trong chiếc giày ấm áp. Thiện
hú vía. Nếu như hôm đó bị chú rắn lục mổ thì rồi không biết chuyện gì sẽ xảy ra với đội trưởng
Mai Thiện giữa rừng sâu... Nhớ tới chuyện đó, giọt nước mắt mặn chát của Thiện chảy vào miệng.
Đầu anh nặng trĩu. Hai tai anh ong ong như có con tò vò làm tổ. Trống ngực anh rộn lên. Anh cố
trấn tĩnh:

- Thưa cụ, hôm ấy cháu đi giữa đội hình xuyên rừng tiến về phía đường biên. Cánh bên
phải là Hằng. Cự ly không xa nhau lắm. Cháu không hề nghe thấy tiếng động. Mà giá như Hằng
bị ác thú vồ, quấn thì ít ra khẩu súng và chiếc mũ bông đã rơi lại. Nhưng đây không có gì. - Thiện
nói nhọc nhằn.

- Các chú xem, chú ấy có bị giặc bắt không. Ở chỗ đó, tôi biết, gần nơi “phân mao cỏ rẽ”
lắm.

- Thưa cụ, chúng cháu đã nghĩ đến tình huống ấy. Nhưng giả thiết nếu Hằng bị bọn biệt
kích bắt thì ít ra cũng có sự vật lộn, chứ không dễ dàng gì... Khi lên đến toạ độ hợp điểm chúng
cháu mới phát hiện ra thiếu Hằng...

Cụ Huấn đi thủng thẳng đến bàn thờ Thần rừng thắp tuần hương nữa. Khói hương bay lên.
Hút gió núi quẩn lại thành những vòng tròn rồi tản rộng ra như hình những dấu hỏi lớn. Đôi mắt
cụ Huấn mơ màng. Cụ như nhìn thấy khuôn mặt Mẫu Thượng Ngàn tròn sáng, hiền hoà giống
vầng trăng đêm rằm trên đầu núi. Cụ khấn Mẫu, xin Mẫu mở lượng hiếu sinh.

Đồn trưởng Huy Thập và đội trưởng Mai Thiện đi về đồn. Hai người mải miết leo lên dốc
núi. Mặt trời chiếu sau lưng, họ như đi theo cái bóng của mình. Nắng ấm áp chan hoà. Nắng làm
cho cây cối như xanh thêm. Nắng rơi vàng trên đá. Đá lặng lẽ chìm trong nỗi suy tư. Còn dưới
thung xa làn mù sương mờ ảo che biết bao điều huyền bí. Lòng người đồn trưởng trĩu nặng như
cây gỗ ngâm nước. Anh thẫn thờ: “Ta đã sống với rừng, con chim kêu dữ, lành khuya sớm; con
suối chảy trên dòng đục dưới dòng trong; con nhện giăng mành tơ dọc lối mòn còn nguyên hay đã
đứt; rồi những cành cây ở bìa rừng hạt sương có còn đậu tròn trên mặt lá... Tất cả đã quen thân với
ta mách bảo lối bình yên cho ta đi. Cả những vật tưởng như vô tri vô giác: vết rêu trên đá, ngọn cỏ
bên đường... Giờ đây mong “các ngươi” hãy dẫn đường để ta tìm người đồng đội đang ở đâu...
“Hằng ơi. Hằng đang ở nơi nào trong đại ngàn sâu thẳm này...”

Cái đêm đi tìm Hằng, các chiến sĩ đội truy tìm mắc võng nằm đúng nơi Hằng không trở về,
đội trưởng Thiện không sao chợp mắt. Anh chìm đắm trong mùi vị ngai ngái của rừng khuya. Có
lúc mùi vị đầy thân tình ấm áp của cái tập thể nhỏ ấy như rộn lên. Mùi vị quen thân ấy không phải
từ đâu đưa đến mà từ chính trong chiều sâu ký ức của anh hiện về. Anh mơ hồ hình dung lại... lúc
ấy sao thế nhỉ. Có điềm triệu gì báo trước không? Đó là lúc phân chia vị trí cho các chiến sĩ xuyên
rừng, sao anh ngắm nhìn Hằng kỹ thế. Anh nhìn kỹ hơn mọi lần như cố ghi nhớ lấy gương mặt
của Hằng. Giờ đây nhắm mắt lại, anh vẫn thấy gương mặt tròn, nụ cười hiền hậu của Hằng. Hằng
gọi anh, vẫn tiếng nói nhỏ nhẹ, ấm tình bầu bạn hàng ngày ấy. Tay Hằng cầm chặt lấy đầu võng
của anh: “Các anh ơi. Anh Thiện ơi, em ở lại với đại ngàn rồi. Em sẽ trồng hoa, em chọn được
nhiều giống hoa thơm lắm...” Những tiếng nói trong giấc mơ đã đánh thức Thiện dậy. Thiện ngồi
trên võng, bàng hoàng, mồ hôi đầm đìa. Xung quanh anh những âm thanh bổng trầm của mây gió,
của các loài côn trùng rả rích, của lá rơi xào xạc biến ảo khôn lường; của hằng sa số tiếng muỗi
vằn đập cánh như một khúc nhạc não nùng càng làm nỗi suy tư trong lòng anh dâng lên...

Rồi vùng đại ngàn Cầu Treo - Nước Nóng bỗng xôn xao, sôi động bởi nhiều toán người
sục sạo tìm trầm. Những buổi chiều mây về núi, gió lạnh từng hút luồn vào làm cành lá rùng mình,
không khí trước buổi đêm rừng nặng nề vắng lặng thì mùi thơm ngọt ngào, thanh tao của trầm
hương lan toả đẫm hơn. Lúc ấy Huy Thập, Mai Thiện và các chiến sĩ trong đồn nao lòng nhìn ra
phía rừng xa, nhớ đến Hằng. Rồi những đêm khuya lúc trăng chỉ còn là một quầng vàng nhạt trên
đầu núi, sương đậu trắng trên các vòm cây, con chim từ quy nỉ non, thì mùi thơm của trầm hương
thao thức quẩn quanh chòi canh, theo chân người lính tuần tra trên dốc núi. Hương thơm của trầm
tựa hồ như từ dưới lòng đất sâu thẳm giữa rừng toả ra bốn phương, tám hướng. Hương thơm của
trầm như khói đá như mây ngàn, như hơi sương, hơi nước, phập phồng, phảng phất, quấn quýt lấy
cành cây đá núi cả năm tháng, cả bốn mùa.

Hai người lính biên phòng lại xuống xóm Kim gặp cụ Huấn. Cụ vẫn ngồi từ bi trên tấm da
hổ trước bàn thờ Thần rừng. Cụ nói rằng đã nhiều đêm rồi mùi trầm hương trong gió đã dựng cụ
dậy. Cụ nói trầm kỳ là từ cây gió bầu sinh ra. Cây gió bầu bị một loài sâu độc đục thân, cây phải
dồn nhựa đến đó chống chọi với sâu. Nhựa tụ lại thành những u cục, lâu ngày nơi đó thành trầm
hương. Cụ Huấn kể rằng những người dân đến nơi lam sương chướng khí để khai sơn phá thạch
dựng cột tre liếp nứa lập nên cái xóm Kim này chưa ai thấy cây gió bầu, cũng chưa ai ngửi được
mùi trầm thơm trong gió. Cụ Huấn còn nói nơi khỉ ho cò gáy, rừng thiêng nước độc, thịt tru (trâu)
bạc, nác (nước) Kim Cương, khái Nậm Tuồng, ma Nước Sốt muỗi vằn đốt chết trâu mộng này, cụ
đã theo ông rồi theo bố đi săn thú, cụ thuộc rừng như thuộc từng vạt cây trong vườn nhà. Cụ biết
rõ rừng ở đây chẳng có trầm có kỳ gì đâu. Nếu có trầm thật thì từ lâu người ta đã chẳng để cho
rừng vùng này yên thân. Cụ Huấn lắc đầu. Đôi lông mày như hai bông lau núi dãn ra, động đậy,
cụ ngẫm nghĩ một lúc rồi nói tiếp:
- Nhưng các chú ạ, vùng rừng này có loài ngận hương sinh trú đấy. Loài thú ấy cũng có
mùi thơm. Nhưng thường vào lúc bí bầu rụng rốn chừng tháng hai ta là đến kỳ con ngận đực động
tình. Nó thả hương thơm trong gió để gọi con cái tìm đến. Mùi thơm của nó cũng ngọt ngào quyến
rũ lắm gần giống mùi trầm hương, song có gợn hắc, nồng. Bởi mùi thơm của ngận hương tiết ra
từ bìu...

Còn mùi thơm trong gió mấy tháng nay sao mà nó ngọt ngào, thanh tao thoảng hương hoa
dẻ, hoa móng rồng, hoa lan núi... Cụ Huấn nhìn ra phía rừng xa với ánh mắt mơ hồ - “Hay là thần
rừng mới ban cho vùng Cầu Treo - Nước Nóng này giống trầm hương”.

- Nhưng thưa cụ gần nửa năm nay nhiều toán người đi tìm trầm mà chẳng ai gặp!

- Lão cũng nghĩ tới điều kì lạ ấy đấy. Các chú ạ - gương mặt già nua của cụ Huấn trầm
xuống, sâu lắng - Lão nghĩ rằng, nợ có đầu, oan có chủ, chú Hằng hiền thảo thế sao lại chịu nỗi
oan khiên này. Các chú ơi, ngót trăm năm sống với đất rừng rồi lão biết tạo hoá công bằng lắm,
Thần rừng linh thiêng cũng công bằng lắm, không để cho ai thua thiệt đâu. Lão đã ngẫm ra rồi.
Con muỗi vằn độc địa vòng đời chỉ có nửa tuần trăng. Con rắn hổ mang bành thì lại sợ con chồn
bạc má ăn thịt, con voi to kềnh càng, sức lực đến thế lại sợ con kiến đen bằng nửa hạt vừng lẫn
trong bẹ chuối đang ăn. Con trăn xiết gẫy vụn xương nai lại phải nhũn ra, đờ đẫn vì giây sắn bằng
chiếc đũa. Lão thấy rồi hổ, báo, gấu ngựa, chó sói đen ác độc gầm rú rung rinh cây rừng đá núi
cũng phải sợ cái rùng mình của con nhím đấy. Các chú ạ, thế đấy, các loài ác thú có oai phong
hung dữ đến đâu rồi cũng chỉ nấu cao làm thuốc bồi bổ sức cường tráng cho con người. Rừng có
luật nghiêm ngặt của rừng đấy. Lão cứ nghĩ gần nghĩ xa về cái hương thơm thần bí này.

Cụ Huấn đưa mắt nhìn ra phía rừng xanh. Đôi mắt cụ ánh lên nét ưu tư... Buổi chiều sương
mù màu sữa non mờ ảo trùm lên thung lũng. Gió núi liu riu se lạnh. Đất trời đượm màu huyền bí.
Cụ Huấn ngập ngừng, cụ lựa lời nói với hai người lính biên phòng:

- Các chú ạ, lão nghĩ rằng người ở lại với rừng thì rừng lưu hương thơm trong gió núi, trong
cây ngàn đấy...

Từ hôm ấy trong nhà cụ Huấn bên ban thờ Thần rừng, cụ đặt thêm một bát hương nữa...
Những canh khuya gió từ đại ngàn thao thức đưa hương trầm về, cụ Huấn đốt nén hương thơm.

CHUYỆN KINH HOÀNG TRÊN BẦU TRỜI MÙA HẠ

Bầu trời miền Trung mùa hạ thật đẹp. Nắng vàng, gió nhẹ, ở tầng cao, mây mỏng tang như
khói. Chiếc máy bay ĐC4- 501 tăng tốc từ từ rồi mỗi lúc một nhanh hơn, vệt khói bạc loáng nắng
thấp thoáng hiện lên rồi lại mất hút trong những cụm mây trắng xốp. Lúc càng máy bay gấp, truyền
độ rung vào thân và các cánh cửa, máy bay lắc nhẹ. Anh lái chính Phan Trung Nam nói nhỏ với
Nghĩa - lái phụ ngồi bên cạnh:

- Càng đạt nhanh tới độ cao thì càng ít tròng trành. Cậu biết đấy, bởi nó đã bay trong lớp
khí quyển yên tĩnh.
Anh lái điều khiển cánh tà nâng lên. Tay anh đẩy cần lái về trước, tay giữ ga. Chiếc máy
bay tăng nhanh tốc độ. Càng lên cao, bầu trời trên đầu như càng tím thẫm lại. Và, bao quanh đường
chân trời là một vòng tròn màu da cam nhạt. Ở nơi có mây thì ánh lên bảy sắc cầu vồng.

Chiếc máy bay rẽ mây trời Đà Nẵng nhằm thẳng hướng Buôn Ma Thuột. Anh lái chính nói
với Hương - người dẫn đường:

- Cách Đà Nẵng gần 60 km rồi đấy. Vùng trời Buôn Ma Thuột nhiều mây.

Vượt trên những cụm mây, chiếc ĐC4- 501 xé gió lao chếch lên cao, lên cao nữa, 3000
mét, rồi 3.300 mét.

Bỗng Nam giật mình, khi anh nghe một tiếng nổ phía sau, ở ngoài cửa buồng lái. Tiếng nổ
ở buồng khách. Tiếng nổ gây nên cảm giác máy bay như bị hẫng, như bị rơi vào cái hố không khí.
Rồi khoảnh khắc tiếp theo là tiếng đập cửa buồng lái chan chát. Cánh cửa rung lên bần bật. Cái
chốt sắt lung lay muốn bật ra. Nhưng, cái khóa thì vẫn còn chắc...

Nam nhìn Nghĩa - lái phụ, nhìn Hương - dẫn đường, nhìn Sâm - cơ giới... cả tổ lái không
ai nói với ai một câu nào. Sự căng thẳng mỗi lúc một tăng. Tất cả đều lo lắng: “Điều gì đã xảy ra
ở phía sau...”

Rồi anh lái chính nói như ra lệnh: “Giữ chắc lấy buồng lái”. Anh điều khiển ga để giữ cân
bằng sự thông gió trong động cơ, và đẩy cần lái về trước cho máy bay tăng tốc độ. Anh gọi về sở
chỉ huy sân bay Đà Nẵng:

- Có hiện tượng không tặc, xin quay lại hạ cánh!

- Có hiện tượng không tặc, xin hạ cánh khẩn cấp!

Lập tức, sở chỉ huy trả lời. Nam đã nhận ra tiếng nói quen thuộc của anh Hồ, trực chỉ huy:

- Được! Tình huống nào cũng phải tính đến sự an toàn tuyệt đối của hành khách!

Anh nhắc lại câu đó một lần nữa. Trong buồng lái sự khẩn trương và căng thẳng càng tăng
lên gấp bội. Tiếng động cơ vẫn nổ đều đều. Những tiếng búa, tiếng thanh sắt đập chan chát làm
cửa buồng lái rung mạnh. Để đối phó, Sâm, Hương và Nhung trụ lưng vào cửa còn Nghĩa lấy thanh
sắt to chắn ngang cho chắc hơn. Bỗng hai phát súng từ phía ngoài - phía buồng khách, bắn xuyên
cửa vào. Sâm trúng vào bả vai và gãy xương sườn số 8. Anh gục xuống ngay. Máu loang đỏ dưới
cửa buồng lái. Nam nghe tiếng “bực” ở dưới chân rồi tay lái nhẹ bỗng, xoay tròn. Viên đạn đã cắt
đứt một dây cáp điều khiển tay lái. Chiếc máy bay lao đi theo quán tính, nghiêng sang phải, chao
sang trái, chực quay tròn. Nam cắn răng ôm ghì tay lái. Anh nói với Nghĩa: “Cần lái mất tác dụng
rồi!” Nghĩa lao tới sửa... Máy bay trở lại thăng bằng. Nam toát mồ hôi, người anh ướt như tắm.
Nam thầm nghĩ: “Mưu trí cộng với sự tính toán chính xác của tri thức đã tỏ ra được việc”. Tuy
vậy, trong giây phút này có lúc đôi tay anh đã run lên bởi hiểm họa, tất cả sẽ thành tro bụi có thể
xảy ra trong nháy mắt... Nam bắt đầu cuộc đời lái máy bay từ năm 1966. Mơ ước của anh trở thành
phi công giữ vùng trời bắt đầu từ cái thời học sinh đã thành sự thật. Ngày đầu anh được học rồi
được lái máy bay MIG chiến đấu. Đến năm 1970 anh được chuyển về Đoàn bay 919 Hàng không
dân dụng. Về đây, anh đã lái các loại máy bay IL -14, ĐC4; lái AN30... Mỗi tháng, anh đã lái hơn
trăm giờ chở khách trên các vùng trời. Cuộc đời bay của anh tính ra đã hơn bay ngàn giờ. Nhưng
rõ ràng chưa có lần nào nguy kịch ập đến bằng... một phần nghìn lần này...

Giờ đây, anh không còn kịp suy nghĩ gì nữa. Sự sống còn của hơn sáu mươi con người
đang chơi vơi giữa mây trời trông vào tay lái của anh. Lúc này chiếc máy bay đang ở trên vùng
trời Tam Kỳ.

Nhung rút khẩu K54 bắn liền hai phát xuyên cánh cửa ra. Nhung bắn chếch lên phía nóc
máy bay để cảnh cáo. Nhưng không ngờ một trong hai phát súng đó đã trúng tên cướp trời đang
đứng chắn cửa. Một người phụ nữ đã đến băng cho nó.

Nam ngồi thu mình sau đệm ghế và cố nép gọn sau chiếc thùng sắt để tránh đạn xuyên từ
cửa vào. Anh quay lại dặn Nhung:

- Tiết kiệm đạn. Cẩn thận kẻo trúng hành khách. Phải kiên quyết giữ cửa buồng lái!

Nhung lấy thêm que sắt nữa chắn ngang cửa. Bỗng hai phát đạn nữa xuyên cửa bay vào.
Đạn xuyên qua bụng Nhung. Anh ngã xuống. Một tay anh bịt chặt lấy vết thương để ruột không
trào ra. Mỗi lần Nhung cử động, khúc ruột lại đẩy tay anh lên phòi ra, anh lại cắn răng nhét vào.
Một tay nữa Nhung vẫn cầm súng chĩa ra phía cửa. Lúc này thì Nghĩa đã lấy tất cả những khẩu
súng ngắn của khách là bộ đội, công an gửi trong buồng lái ra, lên đạn. Mỗi anh cầm một khẩu
chĩa ra phía cửa, quyết không để bọn cướp xông vào, nếu chúng phá được cửa. Nam cầm lái giữ
vững tốc độ máy bay. Anh luôn báo cáo diễn biến tình hình về sở chỉ huy.

Nam cho máy bay giảm tốc độ và hạ dần độ cao...

Sau buồng lái - trong buồng hành khách - một tình huống cực kỳ nguy hiểm đã diễn ra.
Tính mạng hơn 60 con người - cả tổ lái trong nháy mắt có thể sẽ tiêu tan...

Bọn cướp máy bay gian ngoan rất có kinh nghiệm, chúng đã nghiên cứu kỹ càng cách bố
trí người của tổ lái, chỗ ngồi của chiến sĩ cảnh vệ, của chiêu đãi viên... Chúng đã nắm được quy
luật kiểm tra hành khách, hành lý khi lên máy bay của ta ngày đất nước mới thống nhất, ta vừa
khôi phục các tuyến đường bay. Bọn chúng có năm tên đã từng ở trong không lực của quân đội
Việt Nam Cộng hòa thời Mỹ - Thiệu. Chúng từng lái máy bay và làm thợ máy. Kế hoạch hành
động của chúng do tên đại úy Sáng vạch ra. Chúng có giấy tờ tùy thân hợp lệ, mua vé đầy đủ và
chuẩn bị hành lý gọn gàng như những hành khách bình thường khác. Trước khi lên máy bay, bọn
chúng không hề có một dấu hiệu khả nghi nào. Duy chỉ có một điều là tên đại úy Sáng đưa cả vợ
và năm đứa con cùng đi. Chúng chờ chuyến máy bay từ Tân Sơn Nhất ra. Chuyến đó có đáp xuống
sân bay Buôn Ma Thuật rồi ra Đà Nẵng trả khách, và từ đó lại bay trở về... Trên đường về, chúng
đã hành động. Chúng tính toán rằng từ vùng trời Đà Nẵng bay tới bất kỳ một sân bay nào ở vùng
Đông Nam Á cũng chỉ hết không quá ba giờ. Và như vậy mọi việc diễn ra trong buổi chiều, trước
khi trời tối... Chúng vạch mục tiêu sẽ diệt hết tổ lái nếu không khống chế nổi và tự cầm lấy tay lái.
Khi bước lên cầu thang máy bay, đứa bé mười tuổi, con tên Sáng ôm trong tay một hộp
giấy bằng bìa cứng trắng, có một sợi dây vải đỏ buộc xung quanh. Và hai đầu mối sợi dây thắt
hình một cái nơ đẹp. Mặt trên hộp giấy có một dòng chữ viết trang trọng “Sở Văn hóa Thông tin
kính biếu”. Phía dưới đó có thêm một dòng chữ nằm trong ngoặc đơn TƯỢNG LÃNH TỤ BẰNG
THẠCH CAO DỄ VỠ, XIN NHẸ TAY. Tất nhiên với chữ đề như thế, các cửa kiểm tra đều không
đụng đến. Đứa bé lên được xếp ngồi ở hàng ghế đầu bên cạnh người mẹ. Ngồi kế liền đó là một
người đàn ông.

Huệ - chiến sĩ cảnh vệ chuyến bay, người duy nhất được giữ vũ khí ở buồng khách ngồi
đúng vị trí của mình. Chuyến bay này, hai bên ghế chỗ anh ngồi có hai người đàn ông khỏe mạnh
đã ngồi sẵn.

Lúc máy bay lên độ cao 3.300 mét tên Sáng mở túi rút bao thuốc lá ba số năm. Hắn rất lịch
sự mời mọi người xung quanh cùng hút. Cùng lúc ấy, người đàn ông ngồi cạnh đứa bé mở hộp
giấy. Nó nhẹ nhàng cạy mảng thạch cao gần trên đầu bức tượng rút con dao găm và quả lựu đạn
Mỹ ra. Tên ngồi bên cạnh cầm lấy quả lựu đạn kiểu mỏ vịt. Rồi lập tức tên cướp trời đứng phắt
dậy dơ con dao găm sáng loáng và quả lựu đạn đã rút chốt an toàn. Hắn quay mặt về phía hành
khách và quát to đe nẹt:

- Ngồi im! Đứa nào chống lại, lựu đạn sẽ nổ. Tiêu hết.

- Tất cả dồn lùi về phía cuối buồng!”

Tâm trạng hành khách trước mỗi chuyến bay thường hồi hộp lo cho cuộc hành trình. Giờ
đây trong máy bay lại xảy ra tình huống kinh hoàng này, không ai còn lòng dạ nào mà lo lắng riêng
tư nữa. Sáu mươi con người tội nghiệp run rẩy dồn về một góc buồng ôm chặt lấy nhau. Cái sống,
cái chết đã gắn họ lại thành một khối. Họ đưa ánh mắt nhớn nhác nhìn nhau. Tiếng khóc nức nở,
tiếng van xin cầu khẩn, tiếng đọc kinh cầu nguyện... râm ran. Tên Sáng tay dao, tay súng, mắt
trắng dã nhìn đám người khốn khổ, quát: “Câm ngay. Tụi bay muốn tiêu hết hả...”. Tất cả run rẩy,
cúi đầu xử sự theo yêu sách bọn cướp.

Chiến sĩ cảnh vệ - Huệ, đứng lên rút súng. Lập tức hai gã đàn ông ngồi hai bên kèm chặt
anh. Chúng đánh mạnh vào gáy vào tay anh. Huệ ngã xuống sàn. Khẩu súng ở tay anh văng ra.
Một tên vồ lấy. Tên cầm dao găm nhảy xổ đến đâm sáu, bảy nhát vào người anh. Thế là bọn không
tặc đã có thêm một khẩu súng. Cả bọn cầm dao, súng, lựu đạn hung hăng, hò hét. Chúng dồn được
tất cả hành khách vào góc cuối buồng khách. Chúng bắt tất cả quay mặt về phía sau, để hai tay lên
đầu. Hai tên đứng lên ghế cao nhìn xoi mói từng người, nhằm khống chế từng hành khách. Một
tên với vẻ đắc thắng khoa dao găm gọi Kim Thanh - cô chiêu đãi viên:

- Đến đây em cưng, giúp bọn anh, rồi đi với bọn anh, nghe.

Cô chiêu đãi viên đứng im. Nét mặt tròn duyên dáng, xinh tươi hằng ngày của cô giờ đây
lộ rõ vẻ kiên quyết. Cô vẫn đứng im, lắc đầu phản kháng. Tên cướp nhắc lại câu đó một lần nữa,
cô chiêu đãi viên Kim Thanh vẫn không nhúc nhích, không trả lời.
Một tên sấn sổ tới nắm tay cô gái lôi xềnh xệch về phía cửa buồng lái. Nó chĩa mũi súng
vào mặt cô và nói rít qua kẽ răng:

- Gọi bọn ở trong mở cửa, mau!

Kim Thanh vẫn đứng im.

- Mày muốn chết hả?

Tên cướp đứng gần đó tay cầm súng đã lên đạn vội đi đến. Hắn vuốt má cô chiêu đãi viên:

- Em. Em xinh đẹp. Em gọi bọn trong đó mở cửa ra đi. Rồi em sẽ đi với bọn anh. Em sẽ là
bà hoàng của bọn anh. Em đừng để phí đời.

- Cô gái vẫn đứng im như bức tượng..

- Ủa. Mày muốn tiêu hả?

Bọn cướp đã biết rất rõ rằng chỉ có ám hiệu của cô thì các anh tổ lái bên trong mới mở cửa.
Vì thế, bọn chúng muốn vào được buồng lái, cướp tay lái, diệt tổ lái không còn cách nào khác là
khống chế buộc cô chiêu đãi viên ra ám hiệu mở cửa.

Tên Sáng vẫn ngồi im quan sát bọn đàn em hành động. Lúc này thấy bất lợi, hắn đứng dậy
đi tới chỗ đồng bọn. Nó đập nhẹ tay vào vai tên cầm súng đang hung hăng:

- Không được làm thế, chú em. - Rồi hắn quay về phía cô chiêu đãi viên: - Cô muốn lấy
vàng, kim cương bao nhiêu tụi anh đều thỏa mãn. Cô ra nước ngoài sống với tụi anh, nghe. Tụi
anh sẽ cưng nuôi cô em như một ân nhân đó. Giúp tụi anh, cô gọi bên trong mở cửa đi.

Kim Thanh vẫn im lặng, mắt đăm đắm nhìn vào cánh cửa buồng lái. Cô biết rằng chỉ cần
cô đưa ngón tay gõ nhẹ theo tín hiệu “bình yên”, thì lập tức cánh cửa sẽ bật ra. Và, bọn không tặc
sẽ ùa vào. Rồi các anh ấy, anh Nam, anh Nghĩa... sẽ ra sao? Chiếc máy bay sẽ đi đến đâu? Kim
Thanh liếc nhìn về phía sau, tất cả hành khách khốn khổ đang đứng cúi mặt trước bạo lực đó rồi
số phận sẽ như thế nào? Cô cắn chặt vành môi. Thường ngày chị em đùa vui cô là đứa mau nước
mắt, trước mỗi niềm vui, nỗi buồn, trước những câu trêu đùa của bè bạn, của các anh lái, cô thường
hay khóc. Nhưng giờ đây, trước mũi súng và những lời hăm dọa của bọn cướp, đôi mắt cô ráo
hoảnh, lóe lên cái nhìn kiên nghị. Hai tên cướp trời bâu lấy cô, lại dỗ dành, lại dọa dẫm. Thấy
không khuất phục được cô gái, tên Sáng lồng lên. Nó gầm gừ như con thú. Nó nện một quả đấm
vào mặt cô. Kim Thanh ngã dúi xuống... Nó giật lấy khẩu súng trong tay tên đứng bên cạnh bắn
xuyên đùi cô gái. Cô chiêu đãi viên kêu lên tiếng “Mẹ ơi” rồi gục bên cánh cửa. Tên cướp hô bọn
đàn em:

- Phá cửa mau, tụi bay!


Chúng rút búa, rút thanh sắt nện tới tấp, bổ tới tấp vào cửa buồng lái. Chúng quyết phá cho
bằng được. Biết trong đã khóa trái và chốt chặt, đập phá không thể tung ra, chúng bắn vào. Chúng
đoán biết vị trí ngồi của tổ lái nên bắn xuyên cửa vào hướng đó.

... Trong buồng lái. Nhung vẫn một tay đặt trên bụng ấn đoạn ruột luôn chực trào ra, một
tay vẫn cầm súng hướng mũi ra phía cửa đang bị phá dồn dập, Sâm ngã gục thở hổn hển, máu
loang đỏ sàn buồng lái, những anh vẫn tỳ người vào thanh sắt quyết không cho bọn cướp xô vào.
Nghĩa sẵn sàng thay tay lái cho Nam và vẫn chĩa súng ra phía cửa.

Chiếc ĐC4 - 501 đã vòng lại vùng trời Đà Nẵng. Nam cho hạ dần độ cao, bọn cướp trời đã
nhận ra điều ấy. Chúng đã nhận ra địa hình. Chúng đã tính đến sự nguy hiểm biết chừng nào cho
chúng nếu để máy bay xuống an toàn. Và như thế chúng là kẻ thua cuộc. Nhưng hiềm nỗi trên máy
bay đang còn vợ con và nhiều người nhà của bọn chúng. Chúng ra sức phá cửa. Không được chúng
lại bắn vào. Hệ thống dầu đỏ bị vỡ tràn ra ngoài. Nam thấy rõ nguy cơ, dầu đỏ để thả càng máy
bay không còn nữa. Nếu vậy, anh quyết cho máy bay hạ cánh xuống đường băng bằng bụng. Đây
là trường hợp cực kỳ khẩn cấp, sự an toàn chỉ tính bằng phần trăm giây. Dù hết sức nguy hiểm,
nhưng không còn cách nào khác.

Nam quay lại phía Nghĩa. Anh hô: “Thả càng” Nam biết là hô vậy để thả thử thôi, chứ hệ
thống dầu đã chảy hết, thả xuống được là ít hy vọng. Nhưng còn nước còn tát. Nghĩa loay hoay
một lúc không thả được càng. Sâm đã bị thương, áo quần nhuộm đỏ máu đang nằm gục trên sàn
thấy thế bò lết tới. Sâm phụ trách cơ giới, đây là việc đúng tay nghề của anh, anh gượng dậy với
tay lên giúp Nghĩa. Hai anh đã thả được càng máy bay xuống. Nam thở phào. Anh không còn thể
hiện được ở nụ cười mà những tia vui đã lóe lên trong đôi mắt lo âu của anh. Anh thầm nghĩ: “Đây
đúng là sự may mắn nghìn lần có một”. Máy bay đã xuống thấp. Nam đã nhìn rõ các dòng sông
xanh biếc, các con đường xám màu tro. Anh đã nhìn thấy các xóm làng, các cánh đồng... niềm vui
dâng lên trong anh...

Bỗng Nam nghe tiếng nổ ầm phía sau, buồng lái rung lên, giật mạnh. Chiếc máy bay bị
chao đảo rồi như dừng lại một giây. Nam cố giữ chặt tay lái. Nhưng chiếc máy bay vẫn bay loạng
choạng hệt như chiếc ô tô đang chồm lên các ổ gà của đoạn đường xấu. Nam kịp nhận ra động cơ
số hai đã bị cháy. Buồng lái chớp đèn đỏ liên hồi, chuông báo động cũng rú lên liên hồi... Hệ thống
lái hỏng nặng, hệ thống phanh cũng hỏng. Nam chỉ còn giữ tay ga điều khiển mà thôi. Tay trái anh
giữ chặt lái, tay phải giữ ga. Chiếc máy bay lê lết đi giữa tầng mây thấp. Nam quay lại phía sau,
khói đen kịt, đặc sệt và khét lẹt, mùi thuốc súng đã ùa vào từ các lỗ cửa bị phá. Nghĩa kêu lên:
“Anh Nam, tôi bị thương”. Nghĩa quỳ xuống bịt lấy vết thương. Lựu đạn nổ, một mảnh chui qua
cửa buồng lái đã găm vào chân anh. Cạnh đó, Hương cũng đã gục xuống, hai tay ôm lấy ngực.
Mảnh lựu đạn đã cắm vào lồng ngực anh. Thế là trong buồng lái lúc đó, Nhung ôm bụng đang cố
giữ đoạn ruột không trào ra vết thương, Sâm gãy xương sườn. Nay Nghĩa và Hương đã bị thương
nốt, thế là chỉ còn mình Nam xoay xở với chiếc máy bay hỏng lái, hỏng phanh lắc mạnh như chực
rơi. Thực sự ở Nam lúc đó đã xuất hiện ý nghĩ: có thể máy bay sẽ rơi trước khi hạ cánh. Cái linh
cảm kinh hoàng ấy thoáng đến với anh. Anh thấy lạnh toát. Thậm chí không phải là linh cảm nữa
mà cái thực tế cay nghiệt đang bày ra trước mặt anh: máy hỏng, tay lái đứt dây, phanh không sử
dụng được nữa, đèn hiệu và còi báo động liên tục nhấp nháy và rú lên. Tất cả là hơi thở dồn, gấp
gáp của mối tai họa đang lớn dần. Anh nghĩ đến việc sẽ xảy ra và thảm họa sẽ đến theo... Thảm
họa không có gì đền bù được là sinh mệnh của hành khách, là đồng đội, là anh. Song không phải
bao giờ cái linh cảm cũng thành sự thật. Và, cũng không thể khoanh tay, hoặc hoang mang, bối rối
để mặc cho linh cảm dẫn dắt mình đi, biến nó thành sự thật khủng khiếp. Nam suy nghĩ rất nhanh,
và anh cắn răng cầm tay lái, điều khiển tay ga, đạp phanh khẩn cấp...

... Bọn cướp cũng nhận ra Đà Nẵng ở phía dưới. Chúng đã nhìn thấy đường băng. Thế là
trước tình thế tuyệt vọng “được ăn cả, ngã về không”, chúng tính đến nước cùng, cho tất cả cùng
tiêu! Một tên trong bọn đã ngồi úp người vào buồng lái kéo vợ con lại gần bên rồi cho lựu đạn nổ.
Sàn máy bay bị khoét một lỗ. Mảnh lựu đạn xé xác nó ra. Ruột, gan, máu thịt tên cướp vung ra
cùng với khói đen kịt và thuốc súng cay sè. Tên Sáng cùng vợ và các con nó bị thương. Xác tên
cướp đã che hứng hầu hết mảnh lựu đạn nên hành khách bị dồn ra phía sau không ai việc gì. Còn
phía trước, tấm cửa buồng lái bị mảnh phá nhiều lỗ. Nghĩa và Hương đứng chắn cửa, như đã che
mảnh cho Nam.

Độ cao máy bay chỉ còn cách đường băng bốn trăm mét nữa. Mấy tên cướp trời còn lại như
điên dại, chúng lồng lộn lên vì tuyệt vọng. Tên cầm súng nhằm vào bản lề cửa lên xuống bắn.
Cánh cửa bung ra, đập vẹt một mảng lớn đuôi ngang máy bay. Hai tên gieo mình xuống, tan xác
ở bờ sông. Một tên khác đã chụp lấy khẩu súng trong tay tên vừa bắn. Nó nhìn băng đạn, chỉ còn
một viên cuối cùng... Lúc này chiếc ĐC4-501 chỉ còn cách mặt đất hơn trăm mét. Đường băng đã
trải rộng dưới cánh máy bay, sự man rợ làm đỏ ngầu đôi mắt tên cướp. Nó dương súng nhắm vào
cánh máy bay, nơi đeo thùng xăng, bóp cò. Nó định cho thùng xăng bùng lên, thiêu sống tất cả.
Nhưng may mắn. Chiếc máy bay lắc lư, loạng choạng, viên đạn chỉ sượt bên cánh và làm mẻ cánh
quạt. Nó dương tròn mắt nhìn viên đạn đi không trúng mục tiêu còn chiếc máy bay thì cứ ì ì lao
tới phía trước. Đã đến đường cùng, nó vứt súng ra cửa rồi nhảy ra theo. Quán tính và sức hút của
máy bay kéo lê xác tên cướp trên đường băng.

Nam đẩy ga, tăng tốc độ đưa chiếc máy bay ì ạch vọt lên, rồi cố giữ tay lái thăng bằng.
Anh cho nó đáp xuống đường băng. Nhưng chiếc máy bay cứ loạng choạng, chạy vòng vèo không
còn theo sự điều khiển của Nam. Anh ra sức ghì tay lái, phanh khẩn cấp, máy rồ lên mệt nhọc,
nặng nề kéo lê máy bay một đoạn rồi đỗ hẳn...

Lúc đó đúng 12 giờ trưa - giờ Hoàng đạo. Theo phong tục cổ truyền của ông cha ta lúc đó
là giờ tốt trong ngày lành. Người thiện tâm làm điều phúc, điều lành sẽ thắng. Kẻ tà tâm gieo mầm
ác sẽ “bội thu” quả ác.

... Với chiến công kỳ diệu đó, tập thể tổ lái và các nhân viên phục vụ trên chiếc máy bay
chở khách ĐC4 - 501 đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất. Lái
chính Phạm Trung Nam được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhì. Tất cả các thành
viên trong tổ lái, phục vụ đều được tặng thưởng Huân chương chiến Công hạng Ba.

... Tôi, phóng viên Báo Quân đội nhân dân gặp đồng chí lái chính Phạm Trung Nam, anh
đeo cấp hàm thiếu tá, ở sân bay. Anh có dáng người khỏe đậm với đôi vai rộng. Khuôn mặt anh
sáng và đôi mắt thông minh có cái nhìn ấp áp thân tình. Anh đã kể lại tất cả cho tôi nghe. Cùng
với tôi, có cô gái Hà Nội, vợ anh. Cô có dáng người cao, thanh tú, có duyên với làn da trắng và nụ
cười tươi. Cô cũng đang phục vụ ở sân bay. Kết thúc câu chuyện, Nam nói với tôi điều tâm sự:
- Anh ạ! Chuyện kinh hoàng ấy xảy ra, tôi cứ nghĩ rằng đó là bài học về sự cảnh giác và
lòng quả cảm đối với những chiến sĩ hàng không chúng tôi hôm nay và mãi tới mai sau...

Cô gái đất Thăng Long rất tự nhiên ôm lấy cổ chồng. Cô hôn lên đôi má anh những nụ hôn
thật là thắm thiết! Cô quay lại nói vui với tôi:

- Anh ạ! Đã thành thường lệ rồi, mỗi lần anh Nam em kể lại câu chuyện khủng khiếp ấy,
thì mẹ con em lại thưởng cho anh những nụ hôn như thế, giống như hôm anh trở về sân bay lần ấy
mà.

You might also like