You are on page 1of 4

III.

Đánh giá tổng quan về ngoại giao thời nhà Nguyễn:


1. Những cố gắng tích cực của ngoại giao Việt Nam với các nước khác:
- Có thể nói, trong suốt các thế kỉ XVII, XVIII, XIX Việt Nam là một nước lớn
trong khối các nước Đông Nam Á, sẵn sàng giúp đỡ các quốc gia khác về mọi
mặt như chính trị, quân sự, xã hội, … Khi có chiến tranh giữa các nước láng
giềng, việt Nam luôn đứng giữa, trở thành quốc gia hòa giải. Nhưng Việt Nam
cũng có âm mưu để được thần phục, cống nạp, thực hiện nhiều cuộc xâm lược
đàn áp với Ai Lao, Cao Miên, Chân Lạp, … Và có những lúc đã sử dụng quân
sự đối phó với Xiêm – cũng là quốc gia lớn đi xấm chiếm các nước nhỏ thời
bấy giờ, những cuối cùng, Việt nam vẫn giúp đỡ, hòa hiếu, duy trì hòa bình ổn
định với Xiêm.
 Việt Nam thời Nguyễn có tài ngoại giao với các nước lân bang vô cùng tài
giỏi nhưng lại cũng có lòng tham muốn đi xâm chiếm các nước nhỏ hơn.
Chính bởi thế mà Việt Nam một mặt để lại những dấu ấn tốt, nâng cao tahnh
danh đất nước, một mặt lại trở thành quốc gia đi xâm lược. Nhưng xét cho
cùng, tại thời điểm lúc đó, đó cũng là bản chất của giai cấp phong kiến nói
chung, trong đó có phong kiến Việt Nam, là đặc điểm “cá lớn nuốt cá bé”
của quan hệ quốc tế lúc bấy giờ.
- Trung Quốc từ trước tới thời nhà Nguyễn vẫn là quốc gia có tầm quan trọng và
ảnh hưởng nhiều nhất tới Việt Nam. Nhiều người cho rằng Việt Nam thần phục
Trung Quốc là mù quáng nhưng thực chất về phía Trung Quốc, đó là một nước
lớn mà phần lớn các nước láng giềng đều thần phục và có mối quan hệ ngoại
giao với Trung Quốc. Điều này đã giúp cho Việt nam có mối quan hệ hòa hiếu
với Trùng Quốc trong thời gian lâu dài. Hơn thế nữa, không thể nói rằng Việt
Nam để Trung Quốc lấn át mà thật ra Việt Nam dưới thời Nguyễn lúc đó vẫn ý
thức phải bảo vệ lãnh thổ như ghi nhận và bảo vệ Vạn lí Trường Sa, nhà
Nguyễn ngăn chặn tiền giả đưa từ Trung quốc sang, …quy định của nhà ngyễn
với quan hệ buôn bán là khá chặt chẽ.
- Việt Nam thi hành triệt để chính sách “Bế quan tỏa cảng” một phần vì triều
đình đã nhận ra được âm mưu truyền đạo giáo quá mức, ý định xâm lược nước
ta của thực dân Pháp. Hơn thế nữa, đây cũng là chính sách mà một số nước
cũng thi hành lúc bấy giờ.
2. Đánh giá một số tồn tại trong chính sách ngoại giao thời nhà Nguyễn:
- Trong quan hệ với nước “láng giềng” Trung Hoa, vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc,
nên nhà Nguyễn luôn ở thế dưới. Liên tục có những sự thay đổi trong tên gọi,
danh xưng…để không gây phiền phức. Hơn thế, nhà Nguyễn còn thường xuyên
có những cuộc thăm viếng, cống nạp những sản vật quý báu của đất nước cho
nhà Thanh…Điều đó khiến chúng ta chịu tổn thất không nhỏ.
- Trong quan hệ với Chân Lạp (Campuchia ngày nay) và Vạn Tượng (Lào), nhà
Nguyễn coi đây như tấm “phên dậu” để bảo vệ lãnh thổ nước nhà. Ở thế “cá lớn
nuốt cá bé”, nhà Nguyễn thực chất đã đặt ách đô hộ trên đất Chân Lạp, mở rộng
diện tích đường biên. Tuy nhiên, cũng trong thời gian này xảy ra nhiều cuộc
chiến tranh phong kiến. Điều đó làm ảnh hưởng sâu sắc đến mối quan hệ giữa
các bên và sự ổn định trong khu vực.
- Trong quan hệ với Xiêm, về cơ bản trong thời gian đầu là thân thiện, hoà hảo.
Nhưng do cùng chung mục tiêu chiếm đóng Cao Miên nên đã bắt đầu xuất hiện
mâu thuẫn. Hơn thế, những cuộc chiến tranh vũ trang liên tục xảy ra khiến cho
quan hệ ngoại giao giữa hai nước hoàn toàn chấm dứt năm 1834. Đây cũng là
một kết quả buồn cho ngoại giao nhà Nguyễn khi vừa hao tổn binh lực vừa làm
ảnh hưởng đến mối quan hệ với các nước láng giềng trong khu vực.
- Trong quan hệ với các nước phương Tây, nhà Nguyễn thực hiện chính sách “bế
quan toả cảng”, từ chối giao thương với lí do bất đồng văn hoá. Đây vừa là
nước đi tốt, đề cao cảnh giác với sự du nhập của các thương nhân Tây Âu.
Nhưng đó cũng là bất lợi trong giao thương với các nước phương Tây, gây ảnh
hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế. Đặc biệt trong quan hệ ngoại giao
với Pháp, triều đình nhà Nguyễn đã quyết tâm thực hiện chính sách tránh Pháp.
Tức là từ chối mọi sự giao lưu với quốc gia này. Cũng như quan điểm với các
nước phương Tây khác, vua quan nhà Nguyễn lo sợ sự ảnh hưởng, xâm lăng
của Pháp thông qua giao thương kinh tế, văn hoá… Cả một quốc gia, dân tộc
như “người trong bao”, sống trong cái hộp bằng sắt khi không được tiếp xúc,
giao lưu dần dần trở nên tụt hậu, không bắt kịp xu hướng. Song, nửa sau thế kỉ
XIX, triều đình nhà Nguyễn lại lộ rõ sự yếu hèn, nhu nhược trong chính sách
ngoại giao khi tự tay kí hiệp ước bán nước, dâng phần bánh ngon vào tay thực
dân. Cũng từ đây, mở ra một thời kì dài đầy khó khăn, là đêm trường tăm tối
của lịch sử Việt Nam khi chính thức trở thành nô lệ của thực dân Pháp.
- Cũng trong mối quan hệ Việt Nam và Pháp, thời Nguyễn đã đặt ra những chính
sách cấm đạo, cấm truyền đạo nghiêm ngặt, thậm chí tàn bạo bắt đầu từ thời
Minh Mạng – ông đã ban hành “Thập điều giáo huấn”, rồi Thiệu Trị, rồi đến
Tự Đức lại càng gay gắt hơn “dù chúng có chà đạp hay không chà đạp lên cây
Thập tự giá phải chặt chúng ra làm hai để cho mọi người cùng biết sự nghiêm
ngặt của pháp luật nước ta” đã đặt nền móng cho những mâu thuẫn bất hòa xảy
ra cả trong nước lẫn đối ngoại bên ngoài.
- Ngoài ra, nhà Nguyễn đã không nhất quán, thậm chí xảy ra bất đồng quan điểm
trong bộ máy nhà nước và không đặt niềm tin vào sức mạnh, lòng yêu nước của
nhân dân mà đi đến kí kết dần các hiệp ước. Từ các hiệp ước Nhâm Tuất, Giáp
Tuất, Quý Mùi, Pa - tơ - nốt ngày đã khẳng định rằng: nhà Nguyễn dần đầu
hàng hèn nhát, quay lưng lại với mục đích và truyền thống yêu nước của dân
tộc, đặt lợi ích của triều đại, bộ máy nhà nước lên trên lợi ích của dân tộc.
Có thể nói, chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế
song không thể phủ nhận từ những thiếu sót ấy đã để lại bài học kinh nghiệm
quý báu cho ngoại giao Việt Nam thời kì sau.
3.Những bài học kinh nghiệm rút ra từ quan hệ ngoại giao dưới thời
nhà Nguyễn:
- Đối nội nắm giữ vai trò cốt lõi để xây dựng ngoại giao với các quốc gia khác.
Chính việc phân chia Đàng Trong – Đàng Ngoài, sự không nhất quán giữa những
người trong bộ máy Nhà nước và Nhà nước với nhân dân là điều kiện thuận lợi để
Pháp nhảy vào xóa sổ Việt Nam trên bản đồ thế giới. Vì thế, Nhà nước ta ngày nay
cần duy trì sự ổn định giữa từng cá thể, nhân dân. Một quyết định cần sự đồng lòng
nhất quán của các quan chức cấp cao cũng như cùng toàn thể người dân. Nhân dân
Việt Nam vô cùng yêu nước và luôn sẵn sàng đứng lên mỗi khi đất nước cần. Bởi
vậy, chính sự sai lầm của nhà Nguyễn là đã không nghe, không tin vào nhân dân
mà tự kí kết những hiệp ước “thúc đẩy” Pháp xâm lăng Việt Nam. Và đó là bài học
cần ghi nhớ về phát triển tình đoàn hết của cả dân tộc.
- Việt Nam cần phải thúc đẩy phát triển mình và đồng thời khẳng định vị thế trên
trường quốc tế.
- Nhà Nguyễn có chính sách, chủ trương “bán anh em xa, mua láng giềng gần”, đó
cũng là điều ta cần lưu ý: giữ mối quan hệ hòa bình hữu nghị với các nước láng
giềng. Mặt khác, ta không được lặp lại tình trạng tận dụng thời cơ để xâm chiếm
các nước nhỏ mà cần phải luôn trong thái độ ngoại giao hòa bình, không lăm le,
không có mầm mống tơ tưởng việc đi xâm lăng bất kể một quốc gia nào.
- Trong quan hệ với Trung Quốc, nhà Nguyễn đã đã để lại một bài học kinh
nghiệm trong lịch sử ngoại giao Việt Nam đó là biết cương, nhu đúng lúc, biết kết
hợp khéo léo các sách lược, biết nhún nhường khi cần thiết. Bài học đó đến nay
vẫn còn giữ nguyên được giá trị thực tiễn của nó, đặc biệt là trong vấn đề biển
Đông, Hoàng Sa, Trường Sa, đường lưỡi bò, …
- Chính sách “Bế quan tỏa cảng” cũng đã phần nào nhắc nhở và để lại cho chúng ta
bài học quý giá rằng: phải kịp thời nắm bắt được xu thế phát triển của tình hình thế
giới, hiểu biết rõ được thế và lực, nắm bắt và theo kịp hoàn cảnh và sự thay đổi của
tình hình quan hệ quốc tế thế giới, để từ đó đổi mới về tư duy đối ngoại, kịp thời
hội nhập với các nước trên thế giới. Không chỉ vậy, bất kì một quyết sách, quyết
định nào của Nhà nước, dân tộc cũng đều cần phải được cân nhắc kĩ càng sao cho
phù hợp với tình hình thực tiễn mới được thực thi.

TRÍCH NGUỒN:
(1) http://conglydaiviet.vn/bai/648/nhin-lai-chinh-sach-doi-ngoai-va-ngoai-
giao-thoi-nha-nguyen
(2) Cuốn “Ngoại giao Việt Nam từ thuở dựng nước đến trước Cách mạng
Tháng Tám 1945”
(3) http://zuni.vn/hoi-dap-chi-tiet/169780/0/0
(4) https://nghiencuulichsu.com/2018/11/30/nha-nguyen-han-che-su-phat-
trien-cua-thien-chua-giao-1802-1884/
(5) Phan Phát Huông. (1958). Việt Nam giáo sử, tập 1. Sài
Gòn, tr.280.

You might also like