« Home « Kết quả tìm kiếm

Phát triển bền vững xuất khẩu nông sản sang thị trường Trung Quốc


Tóm tắt Xem thử

- PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC.
- Xuất khẩu nông sản là một thế mạnh của Việt Nam trong những năm qua.
- Trung quốc là một thị trường trọng điểm, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu xuất khẩu nông sản của Việt Nam.
- Trong một vài năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu của một số nông sản chủ lực sang thị trường Trung Quốc bắt đầu giảm hoặc tăng trưởng không ổn định.
- Với quan niệm, Trung quốc là thị trường “dễ tính” nên các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam chưa chủ động tìm kiếm thông tin về những thay đổi trong chính sách nhập khẩu nông sản từ Việt Nam.
- Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững xuất khẩu nông sản sang thị trường Trung Quốc, các hộ nông dân, doanh nghiệp thu gom, chế biến, xuất khẩu nông sản cần có những thay đổi tích cực và mạnh mẽ hơn trong giai đoạn tới..
- Từ khóa: Xuất khẩu nông sản, phát triển bền vững.
- Trong nhiều năm qua, xuất khẩu nông sản của một số mặt hàng chủ lực như gạo, cà phê, hồ tiêu, chè, tôm, cá tra.
- đã đạt được kim ngạch xuất khẩu cao, tăng trưởng ổn định nhưng giá xuất khẩu của một số mặt hàng chưa cao, chủ yếu xuất khẩu thô, tỷ trọng nông sản qua chế biến trong xuất khẩu còn thấp.
- Trung Quốc luôn là thị trường xuất khẩu nông sản hàng đầu của Việt Nam.
- Hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc cả bằng.
- Trong vài năm gần đây, các chính sách bảo hộ thương mại của Trung Quốc bắt đầu tác động tiêu cực tới hoạt động xuất khẩu nông sản Việt Nam..
- Minh chứng rõ rệt là kim ngạch một số mặt hàng nông sản chủ lực trong hai năm qua bắt đầu giảm, số doanh nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn để xuất khẩu nông sản sang thị trường Trung Quốc bị giới hạn, hoạt động xuất khẩu nông sản qua tiểu ngạch giảm rõ rệt.
- Cùng với đó, Chính phủ Việt Nam đã có sự thay đổi về quan điểm xuất khẩu nông sản từ chỗ tập trung tăng kim ngạch và mở rộng thị trường xuất khẩu sang định hướng phát triển bền vững xuất khẩu nông sản nhằm duy trì nhịp độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu nông sản, vượt được các rào cản trong bảo hộ thương mại của các nước trong đó có Trung Quốc, nâng cao giá trị và chất lượng nông sản xuất khẩu.
- Để thực hiện được các định hướng chiến lược này cần có sự nỗ lực cộng hưởng từ hai phía Chính phủ và các nhà sản xuất, thu gom, chế biến, xuất khẩu nông sản..
- Trong đó, bài viết thu thập các dữ liệu thứ cấp về xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ lực sang thị trường Trung Quốc từ các đơn vị như Bộ Công Thương, Tổng Cục Hải quan.
- Hạn chế của việc thu thập dữ liệu thứ cấp là thiếu các dữ liệu tổng thể về xuất khẩu nông sản qua thị trường Trung Quốc mà chỉ tập trung vào các mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
- Bên cạnh đó, để làm rõ hơn các vấn đề trong xuất khẩu nông sản sang thị trường Trung Quốc, tác giả đã sử dụng phương pháp phỏng vấn một số chuyên gia và sử dụng các ý kiến của chuyên gia trong lý giải nguyên nhân của các vấn đề liên quan đến xuất khẩu nông sản sang thị trường Trung Quốc..
- Xuất khẩu nông sản.
- Theo Troy (2019), xuất khẩu là hoạt động quan trọng trong thương mại quốc tế, tại đó, hàng hóa được sản xuất tại một quốc gia và được chuyển ddeens một quốc gia khác để bán hoặc giao dịch trong tương lai.
- Theo Ecommerce (2019) xuất khẩu là hoạt động bán hàng hóa cho một quốc gia khác..
- Nói một cách khác, xuất khẩu là hoạt động giao dịch thương mại trên thị trường quốc tế..
- Xuất khẩu nông sản là hoạt động giao dịch thương mại quốc tế giữa quốc gia này với quốc gia khác, trong đó nông sản là đối tượng giao dịch.
- Phát triển bền vững xuất khẩu nông sản.
- Phát triển bền vững xuất khẩu hàng nông sản được hiểu là sự tăng trưởng ổn định cả về quy mô, tốc độ của xuất khẩu gắn với sự dịch chuyển về cơ cấu và nâng cao chất lượng hàng hóa xuất khẩu.
- Phát triển xuất khẩu hàng nông sản đảm bảo kết hợp hài hòa, hợp lý giữa các mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
- Như vậy, phát triển bền vững xuất khẩu hàng nông sản là sự phát triển kết hợp hai nội dung: Thứ nhất duy trì nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu cao và ổn định, đảm bảo nâng cao chất lượng hàng hóa xuất khẩu.
- Phát triển bền vững xuất khẩu hàng nông sản là duy trì nhịp độ tăng trưởng ổn định, khai thác hợp lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu.
- Phát triển xuất khẩu hàng nông sản đóng góp tích cực vào quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng, từ tăng trưởng theo chiều rộng (dựa vào khai thác tài nguyên, xuất khẩu thô) sang chiều sâu (dựa vào năng suất, hiệu quả các yếu tố đầu vào thông qua việc áp dụng khoa học- công nghệ, xuất khẩu sản phẩm có giá trị gia tăng cao)..
- Phát triển bền vững xuất khẩu hàng nông sản cần dựa trên khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên nhằm bảo tồn và phát triển tài nguyên.
- Xuất khẩu nông sản thường tiềm ẩn nguy cơ không bền vững về môi trường bởi tăng trưởng xuất khẩu một số mặt hàng như cà phê, hạt điều, cao su, chè kéo theo sự suy giảm diện tích rừng và đa dạng sinh học.
- Phát triển bền vững xuất khẩu hàng nông sản phải bảo đảm đáp ứng một cách công bằng nhu cầu của thế hệ hiện tại, tạo lập điều kiện để các cá nhân trong xã hội có cơ.
- hội bình đẳng để tiếp cận những nguồn lực chung và được phân phối công bằng lợi ích do xuất khẩu mang lại.
- Do xuất khẩu nông sản chủ yếu vẫn là sản phẩm thô, chất lượng lao động không cao và thu nhập của người lao động không ổn định nên sự biến động của thị trường thế giới làm cho người lao động dễ bị tổn thương, làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo, bất bình đẳng trong thu nhập giữa các vùng, các tầng lớp dân cư..
- Do vậy, phát triển bền vững xuất khẩu nông sản có tác dụng tích cực trong việc nâng cao trình độ lao động, hạn chế gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị, đem lại lợi ích cho đa số người dân..
- Như vậy, phát triển bền vững xuất khẩu là sự đồng bộ hóa nỗ lực của Chính phủ và các chủ thể tham gia chuỗi giá trị xuất khẩu nông sản.
- Chính phủ xây dung chiến lược, quy hoạch, chính sách nhằm phát triển bền vững xuất khẩu.
- Các chủ thể tham gia chuỗi giá trị xuất khẩu thúc đẩy phát triển bền vững thông qua chính hoạt động của họ trong chuỗi giá trị.xuất khẩu.
- Trung Quốc vẫn luôn là thị trường quan trọng đối với nông sản của Việt Nam, bình quân chiếm 27% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của nước ta.
- Trong giai đoạn từ năm nông sản xuất khẩu chủ yếu vẫn là xuất thô, thiếu những mặt hàng chế biến sâu..
- Nhìn chung, kim ngạch xuất khẩu nông sản vẫn phụ thuộc nhiều vào khối lượng xuất khẩu..
- cùng với những áp lực của thị trường NK, chất lượng các mặt hàng nông sản xuất khẩu sang Trung Quốc trong những năm gần đây đã dần có những bước chuyển đáng kể..
- Mặc dù có những tiến bộ, nhưng nhìn chung, cơ cấu hàng hóa nông sản xuất khẩu vẫn phản ánh rõ thực trạng của một nền nông nghiệp chưa bứt phá khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, chi phí cao, chủ yếu vẫn phát triển theo bề rộng, trên cơ sở khai thác lợi thế sẵn có.
- cũng như việc xây dựng, duy trì và bảo vệ thương hiệu cho các mặt hàng vẫn sẽ là những thách thức rất lớn đối với hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam trong những năm tới..
- Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ lực sang thị trường Trung Quốc.
- Nguồn : Tổng cục Hải Quan Theo thống kê của Hải quan Việt Nam, sau khi giảm 5,5% trong năm 2018, kim ngạch xuất khẩu nông, thủy sản trong 11 tháng năm 2019 sang Trung Quốc tiếp tục giảm 5,86% so với cùng kỳ, chỉ đạt đạt 6,31 tỷ USD.
- Trong đó, ngoài 04 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng gồm: cao su (1,34 tỷ USD.
- có 04 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu giảm gồm gạo (225 triệu USD, giảm 66,37%);.
- Măt hàng gạo hiện là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
- Mặt hàng gạo được xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới nhưng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Trung quốc vẫn dẫn đầu.
- Cụ thể năm 2017, giá trị xuất khẩu gao sang thị trường Trung quốc là USD.
- Sang năm 2018, kim ngạch xuất khẩu gạo sang thị trường này sụt giảm mạnh với tỷ lệ sụt giảm là 33,4% với giá trị xuất khẩu là USD (nguồn Bộ Công Thương -2018)..
- Theo số liệu của Tổng cục Hải Quan, xuất khẩu cà phê đã qua chế biến sang Trung Quốc trong 9 tháng đầu năm 2019 tăng 114,8% về lượng và tăng 87% về trị giá so với cùng kì năm 2018, đạt 2.378 tấn, trị giá hơn 7 triệu USD.
- Giá xuất khẩu bình quân cà phê đã qua chế biến sang Trung Quốc trong 9 tháng đầu năm 2019 đạt 2.958 USD/tấn, giảm 13% so với cùng kì năm 2018..
- Mặt hàng chè: Cụ thể, tính đến tháng 11/2019, xuất khẩu chè của Việt Nam sang Trung Quốc đã đạt 7,6 nghìn tấn, tương đương 22,7 triệu USD, giảm 28,4% về lượng nhưng tăng tới 24,9% về giá trị so với tổng 11 tháng năm 2018.
- Giá xuất khẩu tăng được Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản lý giải chủ yếu là do Trung Quốc đang đẩy mạnh nhập khẩu các loại chè chất lượng cao hơn để đáp ứng thị hiếu tiêu dùng của người dân tại nước này đối với các dòng sản phẩm cao cấp và sản phẩm chè thế hệ mới như chè thảo mộc, chè matcha hay chè hoa quả..
- Mặt hàng sắn: Trung Quốc vẫn tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2019, chiếm tới 88,6% giá trị xuất khẩu sắn và sản phẩm từ sắn của Việt Nam.
- Xuất khẩu sang thị trường này trong 8 tháng đầu năm 2019 đạt 1,36 triệu tấn, tương đương 530,3 triệu USD, giảm 7,5% về khối lượng và giảm 3,5% về giá trị so với cùng kì năm 2018..
- Nguyên nhân xuất khẩu giảm do sự suy giảm cầu nhập khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn của Trung Quốc một phần bị ảnh hưởng do chính sách giảm lượng ngô tồn kho.
- Nam và giảm thuế VAT với hàng hóa nhập khẩu chính ngạch thêm 3% từ mức 16% xuống còn 13% đã gây ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động xuất khẩu qua đường biên mậu..
- Mặt hàng rau quả: Trung Quốc đứng vị trí thứ nhất về thị trường NK rau quả của Việt Nam trong 4 tháng đầu năm 2019 với kim ngạch xuất khẩu đạt 1,037 tỷ USD, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm 2018.
- Trung Quốc hiện là thị trường quan trọng, tuy nhiên đến nay chỉ có 8 loại hoa quả tươi của Việt Nam được xuất khẩu chính ngạch vào thị trường này, gồm thanh long, chuối, chôm chôm, nhãn, vải, xoài, dưa hấu và mít.
- Năm 2017, giá trị nhập khẩu thủy sản Việt Nam tăng mạnh gần 50%, đạt gần 1,3 tỷ USD.Hiện có hơn 150 doanh nghiệp Việt Nam tham gia xuất khẩu thủy sản sang thị trường Trung Quốc, trong đó có khoảng 45 doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, cá basa, gần 50 doanh nghiệp xuất khẩu tôm và một số doanh nghiệp hải sản..
- Một số vấn đề đặt ra đối với phát triển bền vững xuất khẩu nông sản sang thị trường Trung Quốc.
- Thứ nhất, Kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc tăng trưởng đều đặn từ giai đoạn 2015 trở về trước.
- Xu hướng sụt giảm kim ngạch xuất khẩu đã mở rộng sang nhiều mặt hàng hơn từ năm 2017,2018.
- Để đánh giá mức độ phát triển bền vững xuất khẩu nông sản, trước hết phải dựa trên nhịp độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu.
- Hiện tượng tăng trưởng nhanh về kim ngạch ở giai đoạn trược 2016, sau đó sụt giảm ở giai đoạn 2017-2019 cho thấy xuất khẩu nông sản của nước ta sang Trung quốc chưa có sự phát triển bền vững..
- Với mặt hàng gạo: Trung Quốc đã lập hàng rào kỹ thuật về việc nhập gạo từ Việt Nam bằng cách Tổng cục Chất lượng Trung Quốc (AQSIQ) tiến hành khảo sát và tuyển chọn các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam được phép xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc.
- Theo đó, từ ngày 1/1/2017, chỉ các doanh nghiệp có tên trong danh sách 22 doanh nghiệp nói trên được phép xuất khẩu gạo vào thị trường Trung Quốc, mốc thời gian được tính.
- Các doanh nghiệp không có tên trong danh sách này đương nhiên không được phép xuất khẩu gạo sang thị trường này..
- Với mặt hàng thủy sản, giai đoạn kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang thị trường Trung Quốc tăng trưởng nhanh, nhưng từ 2018 bắt đầu xu hướng sụt giảm Nguyên nhân sụt giảm là do từ khoảng giữa năm 2018, Trung Quốc tăng cường thực hiện quy định về truy xuất nguồn gốc, quy cách đóng gói, vệ sinh an toàn thực phẩm, giám sát kiểm dịch động thực vật và chất lượng hàng hóa nông-thủy sản nhập khẩu.
- Điều này đã làm cho kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc tiếp tục đà sụt giảm trong năm 2019..
- Thứ hai, giá bình quân của các mặt hàng nông sản xuất khẩu thấp và có xu hướng sụt giảm ở một số mặt hàng chủ lực.
- Gạo là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam nhưng giá gạo xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc còn thấp và không ổn định.
- Giá gạo xuất khẩu bình quân 6 tháng đầu năm 2017 đạt 444,6 USD/tấn, giảm 1,4% so với cùng kỳ năm 2016.
- Riêng thị trường Trung Quốc, mặc dù đây chưa phải là thị trường khó tính nhưng giá gạo cũng không ổn định , nếu như giá gạo xuất khẩu năm 2018 tăng 14,3% thì sang 2019, trong 6 tháng đầu năm giá gạo Việt nam xuất khẩu sang Trung Quốc đã giảm 5,4%.
- Trung Quốc nhập khẩu cà phê từ nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó lượng cà phê nhập khẩu từ Việt Nam luôn dẫn đầu nhưng ngược lại giá cà phê của Việt Nam xuất khẩu luôn thấp hơn nhiều so với giá xuất khẩu cà phê của các quốc gia khác vào thị trường Trung Quốc.
- Thứ ba, nhiều sản phẩm xuất khẩu chủ lực vẫn xuất khẩu thô, nên giá trị gia tăng trong xuất khẩu nông sản còn thấp.
- Mặt hàng, cà phê, chúng ta có những kênh xuất khẩu lớn nhưng chưa được bền vững.
- Xuất khẩu chủ yếu qua đường biên mậu hay xuất nguyên liệu là chính nên không mang lại giá trị gia tăng lớn cho Việt Nam.
- Tương tự như cà phê, Việt Nam là quốc gia đứng thứ năm thế giới về xuất khẩu chè, nhưng khoảng 90% sản lượng chè của nước ta xuất khẩu ở dạng thô, giá bán thấp và được tiêu thụ dưới thương hiệu của các nhà nhập khẩu..
- Thứ tư, trong chuỗi giá trị xuất khẩu nông sản, nhiều khâu còn chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường Trung Quốc.
- Trong khi các doanh nghiệp xuất khẩu hoa quả của Việt Nam lại không chú trong khâu bao bì, và các minh chứng truy xuất nguồn gốc.
- Thực tế trong khoảng 2 năm qua, Trung Quốc liên tục tăng các biện pháp kỹ thuật nhằm tăng cường giám sát chất lượng các loại nông sản Việt Nam xuất khẩu vào Trung Quốc..
- Trong khi đó, các doanh nghiệp lại không quản lý, kiểm soát tốt người nông dân đang thực hiện nuôi, trồng nông sản có đáp ứng đúng tiêu chuẩn của xuất khẩu không..
- Về phía doanh nghiệp thu gom, chế biến, xuất khẩu: Các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng năng động và đang tích cực thay đổi để thích nghi với những yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường Trung Quốc.
- Về phía Nhà nước: Chính phủ chưa có những chính sách thực sự hiệu quả để phát triển bền vững nền nông nghiệp làm nền tảng cho xuất khẩu nông sản.
- Các thông tin có được lại chưa được cung cấp đến các đối tượng cần có thông tin như các địa phương sản xuất nông nghiệp, doanh nghiệp xuất khẩu có quy mô vừa và nhỏ..
- Thứ nhất, theo phân tích biến động xuất khẩu hàng nông sản sang thị trường Trung Quốc trong những năm gần đây cho thấy Chính phủ Trung Quốc đang thúc đẩy nhanh tiến trình trở thành một thị trường “khắt khe” không thua kém thị trường Châu Âu, Nhật Bản hay Mỹ.
- Điều này cần thực hiện sớm nhằm tránh tình trạng khi phía Trung Quốc ban hành quy định thì hàng nông sản Việt Nam lập tức bị ách lại và bị gián đoạn xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu sụt giảm, không đảm bảo tiêu chí quan trong trong phát triển bền vững xuất khẩu là tăng trưởng kim ngạch ổn định..
- Thứ hai, Chính phủ cần xây dựng chiến lược phát triển bền vững xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam ra nước ngoài, trong đó thị trường Trung Quốc là một trong những thị trường trọng điểm.
- Thứ ba, thúc đẩy tiến trình đàm phán giữa Việt Nam và Trung Quốc về các vấn đề liên quan đến xuất khẩu nông sản như mở rộng đối tượng doanh nghiệp được xuất khẩu gạo sang Trung Quốc.
- vụ, Chi nhánh Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài tiếp tục đẩy mạnh công tác mở cửa thị trường, cung cấp thông tin và tháo gỡ khó khăn, rào cản cho nông sản xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc..
- và khuyến khích việc chuyển nhanh, chuyển mạnh từ xuất khẩu theo hình thức "trao đổi cư dân".
- sang xuất khẩu chính ngạch theo thông lệ quốc tế qua các cửa khẩu chính thức..
- Chu Văn Cấp, Nguyễn Đức Hà, Xuất khẩu hàng hóa bền vững: giải pháp thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển nhanh và bền vững, Tạp chí hội nhập và phát triển số 12/2013..
- Ngô Thị Tuyết Mai (2011), Phát triển bền vững hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện hiện nay, NXB Chính trị quốc gia..
- Hồ Trung Thanh, (2009), Xuất Khẩu Bền Vững Ở Việt Nam Trong Quá Trình Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế.
- Nguyễn Thị Hải Yến (2009), Xuất khẩu nông sản Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Hà nội, Hà nội.

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt