« Home « Kết quả tìm kiếm

Tổ chức công đoàn cơ sở trước thách thức trong bối cảnh hội nhập


Tóm tắt Xem thử

- Để bảo vệ tính bền vững của các FTA thế hệ mới đòi hỏi Việt Nam và các quốc gia tham gia phải thông qua và duy trì các quyền được nêu trong Tuyên bố năm 1998 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) theo pháp luật, thể chế và thông lệ của họ.
- Theo đó các quốc gia tham gia phải điều chỉnh luật pháp quốc gia cho phù hợp với tám công ước của ILO trong đó có hai công ước số 87 về Tự do hiệp hội và bảo vệ quyền được tổ chức và số 98 về quyền tổ chức và thương lượng tập thể.
- Khi đó, NLĐ có quyền tự do lựa chọn tổ chức có khả năng bảo vệ quyền và lợi ích cho mình bên cạnh tổ chức đại diện duy nhất cho họ hiện nay là tổ chức công đoàn (TCCĐ) và được hưởng sự bảo vệ thích đáng trước mọi hành vi phân biệt đối xử chống lại công đoàn trong việc làm của họ.
- Trước thực trạng hoạt động công đoàn đang bộc lộ những hạn chế, bất cập, công đoàn Việt Nam, đặc biệt là tổ chức công đoàn cơ sở (TCCĐCS) cần phải đổi mới để xứng đáng là tổ chức chính trị - xã hội, là đại diện của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong việc chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích của đoàn viên đồng thời đáp ứng với những đòi hỏi trong hội nhập quốc tế và để có thể “cạnh tranh” với các tổ chức đại diện mới của người lao động (NLĐ).
- Phân tích thực trạng của TCCĐCS và nêu ra những thách thức mà tổ chức này phải đối mặt.
- Từ khóa: tổ chức công đoàn cơ sở, công đoàn cơ sở, hội nhập quốc tế,….
- Đó là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết, hợp tác với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế.
- Việt Nam đang trong quá trình nghiên cứu hai công ước cơ bản là: Công ước số 87 về quyền tự do hiệp hội và công ước số 98 về quyền tổ chức và thương lượng tập thể.
- Khi đó, NLĐ có quyền lựa chọn tổ chức đại diện cho mình thay vì chỉ có duy nhất một sự lựa chọn là tổ chức công đoàn như hiện nay và được hưởng sự bảo vệ trước mọi hành vi phân biệt đối xử chống lại tổ chức của họ.
- Đây chính là thách thức lớn đối với TCCĐ và đòi hỏi tổ chức này cần có “bước chuyển” phù hợp trong bối cảnh hội nhập như hiện nay để có thể khẳng định vị thế và chỗ đứng với NLĐ và xứng đáng là tổ chức đại diện của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong việc chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích của công đoàn viên..
- ĐÔI NÉT VỀ TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN CƠ SỞ.
- “Công đoàn là một tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác.
- Tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế.
- Luật Công đoàn năm 2012 cũng nêu rõ tại Khoản 1, Điều 2: “Công đoàn đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động.
- Khoản 2, Điều 2: “Công đoàn đại diện và tổ chức người lao động tham gia quản lý cơ quan, đơn vị, tổ chức, quản lý kinh tế - xã hội, quản lý nhà nước.
- Trong phạm vi chức năng của mình, thực hiện quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan, đơn vị, tổ chức theo quy định của pháp luật”..
- Tại Khoản 4, Điều 3 Bộ luật Lao động Việt Nam do Quốc hội ban hành, sửa đổi, bổ sung năm 2012 nêu rõ: “Tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở là Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc Ban chấp hành công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở ở nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở”.
- Bộ luật Lao động (2012) đã có một chương riêng quy định vai trò của TCCĐCS như sau: “Công đoàn cơ sở thực hiện vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên công đoàn, người lao động.
- Tham gia, thương lượng, ký kết và giám sát việc thực hiện thoả ước lao động tập thể, thang lương, bảng lương, định mức lao động, quy chế trả lương, quy chế thưởng, nội quy lao động, quy chế dân chủ ở doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức.
- Đối thoại, hợp tác với NSDLĐ xây dựng QHLĐ hài hoà, ổn định, tiến bộ tại doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức”.
- Phối hợp với NSDLĐ tổ chức Hội nghị người lao động, thực hiện quy chế dân chủ, xây dựng và ký kết quy chế phối hợp hoạt động hướng dẫn NLĐ giao kết HĐLĐ đúng pháp luật, có lợi cho NLĐ..
- Ba là, phối hợp kiểm tra, giám sát việc thực hiện chế độ, chính sách pháp luật có liên quan đến quyền, nghĩa vụ NLĐ và công đoàn..
- Bốn là, tập hợp yêu cầu, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của NLĐ để cung cấp thông tin, tổ chức đối thoại, thương lượng với NSDLĐ nhằm giải quyết các vấn đề khó khăn, bức xúc của NLĐ.
- Tổ chức và lãnh đạo đình công theo quy định của pháp luật.
- Cùng với công đoàn cấp trên cơ sở vận động doanh nghiệp và lực lượng xã hội chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho NLĐ..
- Bảy là, định kỳ kiểm tra đánh giá, lập báo cáo gửi công đoàn cấp trên cơ sở về tình hình QHLĐ, thông qua đó kiến nghị, đề xuất những giải pháp và yêu cầu hỗ trợ, giúp đỡ nhằm thúc đẩy, xây dựng QHLĐ tại đơn vị, doanh nghiệp..
- THỰC TRẠNG VÀ THÁCH THỨC CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN CƠ SỞ TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP 3.1.
- Thực trạng của tổ chức công đoàn cơ sở hiện nay.
- Thực trạng của tổ chức công đoàn cơ sở về mặt tổ chức và nhân sự.
- Về mặt tổ chức, mô hình tổ chức của CĐCS hiện nay cơ bản đã đáp ứng được việc tập hợp NLĐ gia nhập TCCĐ và tham gia hoạt động của CĐCS, từng bước thích ứng với những chuyển đổi của các loại hình đơn vị, doanh nghiệp.
- tính đến ngày 31 tháng 11 năm 2016 cả nước có 48.293 CĐCS với 6.568.495 đoàn viên công đoàn trong các loại hình doanh nghiệp có sử dụng từ 30 lao động trở lên (Xem biểu đồ 2.1)..
- Công đoàn cơ sở trong các loại hình doanh nghiệp.
- Tính đến thời điểm tháng 11 năm 2016 cả nước còn 46.642 doanh nghiệp có từ 30 lao động trở lên chưa có tổ chức CĐCS.
- Mặc dù trong những năm qua, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã triển khai nhiều giải pháp phát triển đoàn viên công đoàn và thành lập TCCĐCS, trong đó có việc đổi mới thành lập công đoàn từ dưới lên.
- Công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp có từ 10 lao động trở lên.
- Thông qua hoạt động thực tiễn, nhiều cán bộ công đoàn (CBCĐ) đã trưởng thành nhanh chóng, tự học hỏi, nắm vững chính sách, pháp luật, nêu cao vai trò đại diện cho tập thể NLĐ, có bản lĩnh đấu tranh vì lợi ích của NLĐ.
- Còn lại phần lớn là CBCĐ làm việc kiêm nhiệm, vừa làm việc cho NSDLĐ, do NSDLĐ trả lương lại vừa hoạt động công đoàn.
- Vì vậy đã có những hạn chế nhất định trong hoạt động công đoàn, đặc biệt trong việc thực hiện chức năng đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ.
- Điều này dẫn tới việc phối hợp hoạt động với chủ doanh nghiệp cũng như việc thể hiện vai trò của công đoàn tại đơn vị không rõ nét, nhất là công tác giám sát của CĐCS bị hạn chế..
- Cán bộ công đoàn chưa thể hiện được hết nguyện vọng của NLĐ..
- Thực trạng năng lực cán bộ công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp.
- Thực trạng của tổ chức công đoàn cơ sở về mặt kinh phí và hoạt động công đoàn.
- Về kinh phí hoạt động, theo Luật Công đoàn (2012) thì kinh phí công đoàn bao gồm 2%.
- Số tiền này một phần được chuyển lên công đoàn cấp trên và một phần giữ lại chi cho các hoạt động CĐCS.
- Theo kết quả khảo sát của Viện Công nhân và công đoàn năm 2014 tại 100 doanh nghiệp thì có tới 27,3% CĐCS thiếu kinh phí dành cho các hoạt động công đoàn (Xem Biểu đồ 4)..
- Chính vì vậy, một số CĐCS còn rất khó khăn về mặt tài chính để có kinh phí tổ chức các hoạt động cho NLĐ.
- Kinh phí công đoàn hạn hẹp nên CĐCS muốn tổ chức thêm các hoạt động cho NLĐ thường xin thêm kinh phí tài trợ từ doanh nghiệp.
- Về hoạt động công đoàn, trong những năm qua, công đoàn Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong xây dựng QHLĐ hài hòa, tiến bộ, ổn định.
- Công đoàn đã đẩy mạnh và không ngừng đổi mới công tác tuyên truyền, vận động phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS, xây dựng TCCĐ lớn mạnh, từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, chú trọng tuyên truyền, phố biến chính sách, pháp luật đã góp phần quan trọng vào nâng cao hiểu biết pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật cho NLĐ.
- Một số CĐCS cũng đã tổ chức các buổi tư vấn pháp luật lao động cho NLĐ, tham gia với các cơ quan chức năng của Nhà nước kiểm tra, đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật lao động..
- Công đoàn cơ sở cũng đã chủ động tổ chức đối thoại và duy trì chế độ làm việc định kỳ giữa BCH công đoàn với ban giám đốc để phản ánh kịp thời những kiến nghị của NLĐ nên đã phòng ngừa giải quyết có hiệu quả TCLĐ hay những mâu thuẫn, bức xúc của cá nhân, tập thể NLĐ.
- Ngoài ra, CĐCS kết hợp với chủ doanh nghiệp đã tổ chức được các phong trào thi đua, các hoạt động xã hội tạo sân chơi cho các đoàn viên công đoàn..
- Bên cạnh những mặt đạt được trên thì hoạt động công đoàn trong bối cảnh hiện nay còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, thể hiện rõ công tác vận động phát triển đoàn viên, hiệu quả trong quá trình tương tác với NSDLĐ chưa cao.
- Công đoàn cơ sở có tham gia và đại diện cho NLĐ xây dựng và ký kết TƯLĐTT với NSDLĐ tuy nhiên các TƯLĐTT này phần lớn là sao chép từ luật và chỉ mang tính hình thức, CĐCS hay NLĐ tham gia góp ý bản TƯLĐTT khi văn bản này đã được NSDLĐ cơ bản đã hoàn thiện trước đó.
- Theo điều tra dư luận xã hội năm 2014 cuả Viện Công nhân và công đoàn về hoạt động công đoàn trong các doanh nghiệp tại 16 tỉnh, thành phố trong 100 doanh nghiệp với 2.500 công nhân thì vẫn còn một số ít doanh nghiệp không tạo điều kiện cho CĐCS hoạt động (3,5%) và đặc biệt là một số doanh nghiệp do quá bận với hoạt động sản xuất kinh doanh nên không có thời gian cho hoạt động công đoàn (27,3%) (Xem Biểu đồ 4)..
- Khó khăn của công đoàn cơ sở trong hoạt động công đoàn tại doanh nghiệp.
- Đối với việc thực hiện vai trò và chức năng bảo vệ NLĐ, CĐCS là nơi trực tiếp giải quyết những mâu thuẫn về lợi ích trong QHLĐ giữa NLĐ, đoàn viên công đoàn với người NSDLĐ.
- Công đoàn cơ sở chưa trở thành đại diện thực sự cho NLĐ, chưa có những tư vấn và dẫn dắt về pháp luật cho NLĐ, khiến NSDLĐ có thể vi phạm pháp luật, chưa đảm bảo đầy đủ quyền lợi cho NLĐ khiến họ thiếu sự tin tưởng vào Ban chấp hành CĐCS..
- Thực tế hiện nay tổ chức CĐCS chưa thực sự làm chủ.
- Tiếng nói của công đoàn còn quá nhẹ và mờ nhạt, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho NLĐ còn kém hiệu quả.
- Mặc dù pháp luật trao quyền của công đoàn rất rộng, lĩnh vực nào liên quan đến quyền và lợi ích của NLĐ đều có sự tham gia của công đoàn.
- Pháp luật quy định cho công đoàn có quyền được thương lượng, thảo luận, tham khảo ý kiến, quyền được trao đổi nhất trí nhưng chưa có những quy định để đảm bảo cho công đoàn có quyền quyết định cụ thể.
- Vì vậy, trên thực tế NSDLĐ khi quyết định một vấn đề nào đó trong doanh nghiệp tuy có trao đổi, thương lượng, thỏa thuận, tham khảo ý kiến của công đoàn nhưng đó chỉ là hình thức cho đúng với quy định pháp luật..
- Mặt khác, hoạt động công đoàn hiện nay chậm được đổi mới mà phần lớn hoạt động công đoàn trong các doanh nghiệp nhằm chăm lo đời sống tinh thần cho NLĐ, chưa có những hoạt động chuyên sâu, chưa coi nhiệm vụ giám sát thực thi pháp luật lao động, đối thoại, thương lượng ký kết TƯLĐTT là vấn đề cốt lõi để bảo vệ quyền và lợi ích của NLĐ..
- Theo dự thảo mới nhất của Bộ luật Lao động sửa đổi thì vấn đề cho phép NLĐ thành lập tổ chức của NLĐ tại cơ sở nằm ngoài hệ thống Tổng Liên đoàn Lao động cũng đã được đặt ra.
- Vị thế của NLĐ thường thấp hơn so với NSDLĐ vì vậy vai trò của công đoàn là quan trọng hơn bao giờ hết.
- Đây không còn là nhiệm vụ chính trị của TCCĐ nữa mà là nhiệm vụ đã được NLĐ gửi gắm cho tổ chức này..
- Thách thức của tổ chức công đoàn cơ sở trong bối cảnh hội nhập.
- Người lao động làm việc trong một doanh nghiệp, không có sự phân biệt được thành lập tổ chức của NLĐ ở cấp cơ sở theo sự lựa chọn của họ mà không phải xin phép trước.
- Để được hoạt động, tổ chức này phải đăng ký với TLĐLĐVN hoặc với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tùy theo sự lựa chọn của tổ chức đó.
- Nếu CĐCS hoạt động hời hợt, không hiệu quả, không đứng lên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho NLĐ thì các tổ chức đại diện mới của NLĐ sẽ ra đời.
- Khi đó, TCCĐ sẽ không còn là tổ chức duy nhất đại diện cho NLĐ nữa mà sẽ phải cạnh tranh bình đẳng để giành được sự thừa nhận, tham gia của NLĐ.
- Điều này sẽ làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn, xung đột giữa các tổ chức đại diện NLĐ với nhau gây ra những tác động tiêu cực đến QHLĐ tại doanh nghiệp.
- Thứ hai là, tổ chức đại diện “mới” của NLĐ không phải thực hiện các nghĩa vụ và trách nhiệm chính trị mà trái với những quyền lao động được nêu trong Tuyên bố của ILO nên tổ chức này chỉ tập trung vào nhiệm vụ chăm lo, đại diện và bảo vệ quyền lợi của NLĐ.
- Thứ ba là, từ thực trạng TCCĐ cơ sở cho thấy, nếu tổ chức này không nhanh chóng đổi mới mạnh mẽ về hoạt động thì rất dễ xảy ra hiện tượng đoàn viên công đoàn chuyển sang tổ chức đại diện “mới” làm CĐCS giảm sút về số lượng đoàn viên gây khó khăn trong hoạt động và vị thế của công đoàn đối với các chủ thể QHLĐ..
- Thứ tư là, việc dịch chuyển NLĐ từ tổ chức công đoàn sang tổ chức đại diện mới của NLĐ sẽ làm giảm nguồn thu tài chính của TCCĐ do giảm đoàn phí công đoàn và phải chia sẻ nguồn kinh phí công đoàn cho các tổ chức đại diện khác của NLĐ.
- Điều này sẽ gây khó khăn cho TCCĐ trong việc tạo ra những quyền lợi khác biệt và lớn hơn giữa đoàn viên công đoàn và NLĐ không phải là đoàn viên công đoàn, dẫn đến bất lợi trong việc cạnh tranh, thu hút công đoàn viên..
- Thứ năm là, hội nhập quốc tế tạo cơ hội thuận lợi để công đoàn đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại, tăng cường hợp tác, trao đổi kinh nghiệm hoạt động và tranh thủ sự hỗ trợ mọi mặt từ Công đoàn các nước.
- Tuy nhiên, thực tế cho thấy phần lớn CBCĐCS hiện nay làm công tác kiêm nhiệm, hạn chế về năng lực công đoàn.
- MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG VÀ VỊ THẾ CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN CƠ SỞ TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ.
- Một là, các cơ quan quản lý nhà nước về lao động cần nghiên cứu sửa đổi Điều lệ Công đoàn Việt Nam và tham gia sửa đổi pháp luật lao động và công đoàn sao cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ trong bối cảnh mới theo hướng xác định rõ nội dung nhiệm vụ của CĐCS trong bảo vệ quyền, lợi ích của NLĐ đồng thời tăng cường sự giúp đỡ, tạo điều kiện của công đoàn cấp trên với CĐCS để hỗ trợ cho CĐCS hoạt động hiệu quả hơn..
- Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở có thể hỗ trợ, giúp đỡ và tổ chức cho NLĐ chủ động thành lập tổ chức CĐCS tại nơi làm việc, không làm thay NLĐ trong việc thành lập CĐCS..
- Bốn là, tăng cường hơn nữa công tác tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công đoàn theo hướng: tăng tỷ lệ cán bộ công đoàn chuyên trách.
- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng về kỹ năng hoạt động công đoàn đối với cán bộ công đoàn không chuyên trách ở cơ sở trong đó chú trọng bồi dưỡng các kỹ năng thương thuyết, đàm phán với NSDLĐ, tuyên truyền, vận động phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn trong doanh nghiệp.
- Xây dựng chính sách thu hút để có những cán bộ giỏi, có năng lực làm công tác công đoàn nhằm không ngừng phát huy tính chủ động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ công đoàn góp phần xây dựng cho hoạt động công đoàn trở nên phong phú, thiết thực, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của CĐCS và đáp ứng yêu cầu của hoạt động công đoàn trong bối cảnh mới..
- Đề nghị các cơ quan quản lý nhà nước về lao động thanh kiểm tra việc trích nộp kinh phí công đoàn theo đúng quy định luật pháp..
- Sáu là, tăng cường sự hỗ trợ từ công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở trong: Bố trí cán bộ công đoàn.
- Tăng mức chi cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn, công tác phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS, công tác tư vấn pháp luật, công tác xây dựng pháp luật lao động ở công đoàn cấp trên..
- Hội nhập quốc tế là một xu hướng có tính tất yếu khách quan tác động đến các quốc gia trên thế giới, đến các tổ chức chính trị - xã hội.
- Trước thách thức về quyền tự do hiệp hội của NLĐ sẽ dần được công nhận trong thời gian tới khi Việt Nam tham gia vào các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và đứng trước thực trạng của TCCĐCS, thách thức đặt ra cho CĐCS nói riêng và TCCĐ Việt Nam là rất lớn và phức tạp, đòi hỏi tổ chức này cần phải phấn đấu thay đổi để đáp ứng ngày càng cao với những đòi hỏi của hoạt động công đoàn trong bối cảnh mới.
- Xác định rõ vị trí, vai trò của công đoàn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay ở Việt Nam không chỉ là vấn đề ý thức, tư tưởng mà còn là vấn đề thực tiễn bức xúc nhằm tạo điều kiện cho công đoàn phát huy năng lực của mình trong hệ thống chính trị ở Việt Nam và tích cực tham gia vào việc giải quyết các vấn đề thiết thực có liên quan đến NLĐ, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
- Từ những tác động của hội nhập quốc tế và thực trạng hoạt động công đoàn mà TCCĐCS cần khẩn trương “thay đổi” để sẵn sàng thích nghi với những đòi hỏi cao trong hoạt động công đoàn và để có thể cạnh tranh với tổ chức đại diện “mới” của NLĐ..
- Lê Thanh Hà (2016), “Phát huy những giá trị vững bền của công đoàn Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu khoa học công đoàn, Đại học Công đoàn, Số 5, tháng 8/2016..
- Nguyễn Hải Hoàng (2016), “Công đoàn trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu khoa học công đoàn, Đại học Công Đoàn, Số 4 tháng 5/2016..
- Nguyễn Mạnh Kiên (2016), Những thách thức với tổ chức công đoàn và hệ thống chính trị khi Việt Nam thực thi cam kết về lao động, công đoàn trong TPP, http://www.tapchicongsan.org.vn..
- Vũ Thị Loan (2016), “Cơ hội, thách thức và các vấn đề cần giải quyết về lao động, tổ chức Công đoàn khi Việt Nam ký kết hiệp định TPP”, Tạp chí Nghiên cứu khoa học công đoàn, Đại học Công Đoàn, Số 5 – 2016, ISSN:.
- Quốc hội (2013), Luật Công đoàn..
- Dương Văn Sao (2011), “Vai trò công đoàn trong xây dựng quan hệ lao động hài hòa, tiến bộ”, Tạp chí Bảo hộ lao động, 4-7..
- Đan Tâm (2016), “Những thách thức của Công đoàn Việt Nam khi hội nhập TPP”, Tạp chí Nghiên cứu khoa học công đoàn, Đại học Công đoàn, Số 5 – 2016, ISSN .
- Tổ chức Lao động Quốc tế (1948), Công ước số 87 về tự do hiệp hội và bảo vệ quyền tổ chức.

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt