« Home « Kết quả tìm kiếm

Nghiên cứu một số chỉ số hóa sinh huyết tương ở bệnh nhân ghép thận tại Bệnh viện Việt Đức


Tóm tắt Xem thử

- NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CHỈ SỐ HÓA SINH HUYẾT TƯƠNG Ở BỆNH NHÂN GHÉP THẬN TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC.
- Các thuốc ức chế miễn dịch (ƯCMD) có ảnh hưởng khác nhau đến nồng độ một số chỉ số hóa sinh huyết tương.
- Mục tiêu: 1) Khảo sát một số chỉ số hóa sinh huyết tương ở bệnh nhân sau ghép thận.
- 2) So sánh sự thay đổi một số chỉ số hóa sinh huyết tương ở bệnh nhân sau ghép thận điều trị bằng cyclosporin hoặc tacrolimus.
- Đối tượng, phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, tiến cứu trên 26 bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối đã được ghép thận tại Bệnh viện Việt Đức năm nhóm 1) 9 bệnh nhân điều trị bằng cyclosporin (Neoral.
- nhóm 2) 17 bệnh nhân điều trị bằng tacrolimus (Prograf.
- Astellas-Tac), bệnh nhân được lấy mẫu tại thời điểm trước ghép thận, sau ghép thận 3 tháng và 6 tháng.
- Kết quả: Tại thời điểm sau ghép thận 3 tháng.
- 6 tháng, nồng độ creatinin huyết tương tương ứng là mol/L;.
- 60,1±16,6mL/phút, nhóm bệnh nhân điều trị bằng CsA có xu hướng cao hơn so với nhóm bệnh nhân điều trị bằng Tac.
- Nồng độ cholesterol TP và LDL-C huyết tương trước ghép thận, sau ghép thận 3 tháng, 6 tháng tương ứng là: 3,83±0,93mmol/L và 2,09±0,74mmol/L, 5,88±1,24mmol/L và 3,28±1,76mmol/L, 5,32±1,09mmol/L và 2,97±0,87mmol/L, nhóm bệnh nhân điều trị bằng CsA có xu hướng cao hơn so với nhóm bệnh nhân điều trị bằng Tac.
- Nồng độ homocystein tương trước ghép thận, sau ghép thận 3 tháng, 6 tháng tương ứng là: 19,4±8,8mol/L, 13,3±3,6mol/L, 12,4±3,1mol/L, nồng độ MDA huyết tương cao hơn bình thường, nhóm bệnh nhân điều trị bằng CsA có xu hướng cao hơn so với nhóm bệnh nhân điều trị bằng Tac.
- Kết luận: 1) Tăng nồng độ lipid và homocystein huyết tương ở bệnh nhân ghép thận, tại thời điểm sau ghép 3 tháng nồng độ cholesterol huyết tương cao hơn có ý nghĩa so với thời điểm sau ghép 6 tháng..
- Nồng độ creatinin huyết tương tại thời điểm sau ghép 6 tháng được cải thiện hơn so với sau ghép 3 tháng.
- 2) Ở nhóm bệnh nhân sử dụng CsA, nồng độ lipid, homocystein, MDA huyết tương có xu hướng cao hơn so với nhóm bệnh nhân sử dụng Tac..
- Ghép thận là sự lựa chọn tốt nhất cho bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối, ghép thận có những đặc điểm ưu việt hơn lọc máu chu kỳ về chất lượng cuộc sống, giá trị kinh tế và thời gian sống thêm của bệnh nhân.
- Thành công của việc ghép thận không chỉ là vấn đề phẫu thuật mà còn là quá trình điều trị chống thải ghép và theo dõi các biến chứng sau ghép..
- Sau ghép thận, bệnh nhân phải sử dụng thuốc ƯCMD lâu dài.
- trong đó nguy hiểm nhất là biến chứng tim mạch, đây là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở bệnh nhân sau ghép thận.
- Như vậy, Bệnh nhân sau ghép thận phải đối mặt với sự suy giảm dần của chức năng thận ghép và ảnh hưởng của các thuốc ƯCMD, đó là tình trạng rối loạn chuyển hóa các chất, các nguy cơ bệnh tim mạch và nhiễm trùng..
- Việc theo dõi chặt chẽ một số chỉ số hóa sinh huyết tương đánh giá chức năng thận, đánh giá tình trạng chuyển hóa, một số yếu tố nguy cơ tổn thương mạch và bệnh tim mạch do ảnh hưởng của thuốc ƯCMD có ý nghĩa thực tiễn và giá trị khoa học, cung cấp những thông tin quan trọng giúp thầy thuốc lâm sàng theo dõi và điều trị dự phòng các biến chứng ở bệnh nhân ghép thận.
- Khảo sát sự thay đổi một số chỉ số hóa sinh huyết tương ở bệnh nhân sau ghép thận..
- So sánh một số chỉ số hóa sinh huyết tương ở bệnh nhân sau ghép thận điều trị bằng CsA hoặc Tac..
- ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1.
- Đối tượng nghiên cứu.
- Gồm 26 bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối được ghép thận tại Bệnh viện Việt Đức, bệnh nhân được lấy mẫu tại thời điểm trước ghép thận, sau ghép thận 3 tháng và sau ghép thận 6 tháng..
- Chỉ tiêu nghiên cứu:.
- Một số chỉ số hóa sinh đánh giá tình trạng chuyển hóa: nồng độ lipid huyết tương..
- Một số chỉ số liên quan đến yếu tố nguy cơ bệnh tim mạch: nồng độ homocystein, MDA, CRP huyết tương..
- Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu tiến cứu mô tả, theo dõi dọc trong thời gian 6 tháng sau ghép..
- KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.
- Đặc điểm bệnh nhân sau ghép thận.
- Tuổi tại thời điểm ghép thận rất trẻ, tuổi trung bình có 5 bệnh nhân trên 50 tuổi (19,3.
- Thời gian chạy thận nhân tạo ngắn, thời gian trung bình tháng, số bệnh nhân chưa phải chạy thận nhân tạo là 3 (11,5%)..
- Nồng độ một số chỉ số hóa sinh huyết tương ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu Bảng 1.
- Một số chỉ số hóa sinh đánh giá chức năng thận ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu.
- Chỉ số Sau ghép 3 tháng (2) Sau ghép 6 tháng (3) p.
- Nhận xét: Sau ghép thận 6 tháng, nồng độ ure, creatinin huyết tương cũng như GFR được cải thiện hơn so với thời điểm sau ghép 3 tháng, với sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05 (t-test ghép cặp)..
- Trước ghép Sau ghép 3 tháng Sau ghép 6 tháng.
- Nồng độ lipid huyết tương ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu.
- Nhận xét: Sau ghép thận, nồng độ một số chỉ số lipid huyết tương cao hơn so với thời điểm trước ghép với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
- Tăng nồng độ cholesterolTP, triglycerid huyết tương sau ghép thận.
- Tại thời điểm sau ghép 3 tháng, nồng độ cholesterolTP huyết tương cao hơn có ý nghĩa so với thời điểm sau ghép 6 tháng..
- Nồng độ một số chỉ số liên quan đến nguy cơ bệnh tim mạch ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu.
- Sau ghép 3 tháng (2).
- Sau ghép 6 tháng (3).
- Nhận xét: Sau ghép thận, nồng độ homocystein huyết tương được cải thiện hơn so với thời điểm trước ghép thận nhưng vẫn cao hơn bình thường.
- Nồng độ MDA huyết tương tại thời điểm sau ghép 3 tháng cao hơn có ý nghĩa so với thời điểm sau ghép 6 tháng.
- Nồng độ CRP huyết tương trong giới hạn bình thường..
- Nồng độ một số chỉ số hóa sinh huyết tương ở bệnh nhân ghép thận điều trị bằng cyclosporin hoặc tacrolimus.
- Chỉ số Sau ghép 3 tháng Sau ghép 6 tháng.
- Sử dụng thuốc ở bệnh nhân sau ghép thận Bảng 4: Sử dụng thuốc ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu.
- Chỉ số Sau ghép 3 tháng Sau ghép 6 tháng P.
- Liều thuốc cellcept và corticoid ở 2 nhóm bệnh nhân nghiên cứu không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê..
- 5 bệnh nhân (19,3%) có tuổi tại thời điểm ghép trên 50 tuổi.
- Nghiên cứu ở 315 bệnh nhân ghép thận từ năm tại các thời điểm sau ghép 1 năm, 5 năm và.
- 10 năm trong đó có 68 bệnh nhân được ghép thận từ người cho trên 50 tuổi (trung bình 55,34,8) so với 247 Bệnh nhân có tuổi thận cho dưới 50 tuổi, kết quả cho thấy: ở nhóm bệnh nhân ghép thận từ người hiến thận cao tuổi có tỷ lệ đái tháo đường, nồng độ creatinin huyết tương sau 1 năm và 10 năm cao hơn có ý nghĩa so với nhóm bệnh nhân ghép thận từ người hiến thận trẻ tuổi.
- Tuổi tại thời điểm ghép cũng như tuổi thận cho trong nghiên cứu này thấp hơn so với nghiên cứu của Despina và Mohammad..
- Nguồn thận ghép có ảnh hưởng đáng kể đến kết quả sau ghép thận.
- Nghiên cứu ở 252.910 bệnh nhân ghép thận tại Hoa Kỳ từ năm 1989-2009 cho thấy: nửa đời sống trung bình của thận ghép từ người cho chết não là 6,6 năm (1989) tăng lên 8 năm (1995) và đạt 8,8 năm vào năm 2005 nhưng vẫn thấp hơn so với thận ghép từ người cho sống (11 năm vào năm 1989 và tăng lên 11,9 năm vào năm 2005) [4].
- 23,1% nguồn thận từ người chết mất não hơn nữa nguyên nhân chết não trong nghiên cứu này đều do tai nạn giao thông, phải chăng đây cũng là một lý do để nồng độ một số chỉ số hóa sinh huyết tương thay đổi không đáng kể ở nghiên cứu của chúng tôi..
- Thời gian lọc máu chu kỳ có ảnh hưởng đáng kể đến kết quả sau ghép thận.
- Ở bệnh nhân ghép thận từ người cho sống cũng như từ người cho chết não, những bệnh nhân có thời gian lọc máu chu kỳ càng dài, càng ảnh hưởng xấu đến kết quả ghép thận.
- Theo kết quả nghiên cứu của Keith trên 30.294 bệnh nhân ghép thận từ người cho chết não cho thấy: ở nhóm bệnh nhân có thời gian lọc máu chu kỳ trước ghép trên 4 năm thì tỷ lệ giảm 25% creatinin huyết tương trong 24 giờ đầu sau phẫu thuật, tỷ lệ bệnh nhân cần lọc máu chu kỳ ngay trong tuần đầu sau ghép cao hơn có ý nghĩa so với những bệnh nhân có thời gian trước ghép dưới 12 tháng.
- Trong nghiên cứu này, với thời gian lọc máu chu kỳ trước ghép trung bình là 12,4 tháng trong đó có 3 bệnh nhân (11,5%) chưa phải lọc máu chu kỳ, đây có thể là yếu tố thuận lợi để một số chỉ số hóa sinh huyết tương chưa thay đổi nhiều trong nghiên cứu này..
- Đối với bệnh nhân ghép thận thì giảm chức năng thận là yếu tố chính làm tăng nguy cơ bệnh tim mạch do ảnh hưởng đến tăng huyết áp, thiếu máu, phì đại thất trái và rối loạn lipid máu.
- Theo Hariharan thì nồng độ creatinin huyết tương trong năm đầu sau ghép có giá trị tiên lượng kết quả lâu dài sau ghép.
- Kết quả nghiên cứu của Mac Laren ở 843 bệnh nhân cho thấy: nồng độ creatinin huyết tương>2mg/dL (tương đương với creatinin huyết tương>176,8mol/L) trong 6 tháng đầu sau ghép cùng với thải ghép cấp sẽ làm giảm thời gian sống thêm của bệnh nhân (p<0,05) (trích dẫn theo [1.
- Trong nghiên cứu này, nồng độ creatinin huyết tương tại thời điểm 3 tháng là mol/L, tại thời điểm 6 tháng là mol/L, GFR tại thời điểm 3 tháng là 56,313,5mL/phút, tại thời điểm 6 tháng là 60,116,6mL/phút.
- Kết quả của nghiên cứu này về một số chỉ số đánh giá chức năng thận ghép được cải thiện hơn so với nghiên cứu của tác giả Bùi Văn Mạnh (nồng độ creatinin huyết tương và GFR tương ứng tại thời điểm 3 tháng là mol/L và 53,616,9mL/phút, tại thời điểm 6 tháng là mol/L và 54,515,9mL/phút) có thể do thời điểm nghiên cứu khác nhau, nghiên cứu của Bùi Văn Mạnh ở giai đoạn từ năm 1992 (khi ghép thận và điều trị sau ghép thận tại Việt Nam mới bắt đầu) đến năm 2007 còn nghiên cứu này được tiến hành ở giai đoạn 2009-2010 cùng với nhiều tiến bộ trong phẫu thuật ghép thận và việc áp dụng những thuốc ức chế miễn dịch mới trong điều sau ghép tại Việt Nam..
- Rối loạn một số chỉ số lipid huyết tương là biến chứng thường gặp sau ghép thận.
- Tỷ lệ rối loạn lipid huyết tương dao động từ 20-63%.
- Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến nồng độ lipid huyết tương như tuổi, chỉ số khối cơ thể, nồng độ lipid trước ghép, rối loạn chức năng thận ghép.
- trong đó thuốc ức chế miễn dịch là nguyên nhân chính gây rối loạn lipid huyết tương.
- thuốc ức chế miễn dịch khác nhau có thể tác động khác nhau đến một số chỉ số lipid huyết tương..
- Trong nghiên cứu này, nồng độ một số chỉ số lipid trong huyết tương tăng rõ rệt sau ghép thận, tại thời điểm sau ghép 3 tháng có xu hướng cao hơn so với thời điểm sau ghép 6 tháng, có lẽ liên quan đến việc sử dụng thuốc ức chế miễn dịch liều cao hơn và chức năng thận chưa ổn định ở giai đoạn này..
- Nếu so với nghiên cứu của tác giả Đinh Thị Kim Dung trên người bình thường và nghiên cứu của tác giả Huỳnh Văn Nhuận trên bệnh nhân suy thận mạn có độ tuổi phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi thì nồng độ một số chỉ số lipid huyết tương ở bệnh nhân sau ghép thận trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn.
- Ở người Việt Nam bình thường, nồng độ homocystein huyết tương là 9,67±3,07µmol/l.
- Ở bệnh nhân suy thận mạn chạy thận nhân tạo chu kỳ có nồng độ homocystein huyết tương trước lọc máu là 23,13±9,58µmol/l, sau lọc máu là 17,2±7,62µmol/l, tỷ lệ tăng homocystein là 88,33%..
- Trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ homocystein huyết tương ở bệnh nhân suy thận trước ghép là 19,4±8,8µmol/L, giảm dần ở bệnh nhân ghép thận tại thời điểm sau ghép 3 tháng là 13,3±3,6µmol/L, tại thời sau ghép 6 tháng là 12,4±3,1µmol/L.
- Mặc dù nồng độ homocystein huyết tương giảm sau ghép thận chứng tỏ chức năng thận hồi phục nhưng vẫn cao hơn người bình thường.
- Ở bệnh nhân ghép thận, tăng homocystein huyết tương có thể do tổn thương tế bào ống thận do thiếu máu, do phản ứng miễn dịch và do thuốc ức chế miễn dịch làm giảm chuyển hóa homocystein ở ống thận [9].
- Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ở bệnh nhân trước ghép cũng như sau ghép thận đều thấp hơn so với một số nghiên cứu trên thế giới.
- Có sự khác biệt trên có lẽ do trong nghiên cứu này tuổi tại thời điểm ghép thấp hơn, nồng độ lipid huyết tương thấp hơn, nguồn thận ghép từ người cho chết não và chỉ số BMI thấp hơn của Teplan [10].
- Ngoài ra, cũng có thể do phương pháp định lượng nồng độ homocystein huyết tương khác nhau.
- Vì vậy, việc tăng homocystein huyết tương rất có thể ảnh hưởng đến nồng độ MDA huyết tương.
- Tăng nồng độ MDA ở bệnh nhân sau ghép thận, có thể do tăng stress oxy hóa và tăng nồng độ homocystein.
- Kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của tác giả Minz nghiên cứu ở 35 bệnh nhân sau ghép thận ổn định thấy có tăng homocystein và nồng độ MDA [5]..
- Nồng độ thuốc ức chế miễn dịch được cho là an toàn và hiệu quả ở bệnh nhân ghép thận tại thời điểm sau ghép 3-6 tháng đối với cyclosporin là 150-200 ng/mL, đối với tacrolimus là 5-12 ng/mL [6].
- Trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ cyclosporin là 169,8 ng/mL tại thời điểm sau ghép 3 tháng và 153 ng/mL tại thời điểm sau ghép 6 tháng, nồng độ tacrolimus là 9,4 ng/mL tại thời điểm.
- sau ghép 3 tháng và 8,8 ng/mL tại thời điểm sau ghép 6 tháng.
- Với nồng độ thuốc ƯCMD ở mức độ thấp, vừa đủ để duy trì thận ghép rất có thể đây là một lý do làm cho một số chỉ số hóa sinh huyết tương thay đổi chưa đáng kể ở thời điểm nghiên cứu của chúng tôi..
- Cyclosporin được coi như là yếu tố làm tăng lipid, homocystein huyết tương hơn so với tacrolimus.
- Trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ homocystein, creatinin và lipid huyết tương ở nhóm bệnh nhân điều trị bằng cyclosporin có xu hướng có xu hướng cao hơn so với nhóm bệnh nhân điều trị bằng tacrolimus với sự khác biệt không có ý nghĩa so thống kê.
- Tuy nhiên, với số lượng bệnh nhân trong nghiên cứu này chưa đủ lớn và thời gian theo dõi chưa thật dài nên cần có nghiên cứu với qui mô lớn hơn và thời gian dài hơn để đưa có thể đưa ra những luận chứng khoa học có tính thuyết phục về việc sử dụng 2 loại thuốc ức chế calcineurin này ở bệnh nhân ghép thận..
- Tăng nồng độ lipid và homocystein ở bệnh nhân ghép thận, tại thời điểm sau ghép thận 3 tháng nồng độ cholesterol huyết tương cao hơn có ý nghĩa so với thời điểm sau ghép 6 tháng..
- Nồng độ creatinin huyết tương tại thời điểm sau ghép 6 tháng có xu hướng cải thiện hơn so với tại thời điểm sau ghép 3 tháng..
- Nhóm bệnh nhân sử dụng CsA một số chỉ số hóa sinh huyết tương có xu hướng cao hơn so với nhóm bệnh nhân sử dụng Tac..
- Bùi Văn Mạnh Nghiên cứu lâm sàng, cận lâm sàng và một số chỉ số miễn dịch ở bệnh nhân sau ghép thận", Luận án tiến sĩ Y học, 117 trang.

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt