« Home « Kết quả tìm kiếm

Tiểu luận triết học - Quan điểm toàn diện, đặc biệt là quan điểm toàn diện trong đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay


Tóm tắt Xem thử

- Tiểu luận triết học: Quan điểm toàn diện, đặc biệt là quan điểm toàn diện trong đổi mới kinh tế ở.
- QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
- Thực trạng nền kinh tế Việt Nam những năm trước đổi mới.
- 2.1.Xây dựng nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan.
- Giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
- Nền kinh tế tăng trưởng liên tục, nhiều năm có tốc độ cao.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ.
- Kinh tế đối ngoại phát triển nhanh.
- Nhờ đổi mới mà nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất được tăng cường, đời sống của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện.
- Đổi mới làm thay đổi gần như tất cả mọi mặt đời sống kinh tế đất nước.
- Chính sách đổi mới đã tạo ra nguồn động lực sáng tạo cho hàng tiêu dùng Việt Nam thi đua sản xuất đưa kinh tế đất nước tăng trưởng trung bình trên 7%/ năm từ 1987..
- Xét riêng về kinh tế, thứ nhất đổi mới đã chuyển nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân đều được khuyến khích phát triển không hạn chế.
- thứ hai, đã chuyển 1 nền kinh tế khép kín, thay thế nhập khẩu là chủ yếu sang nền kinh tế mở, chủ động hội nhập, hướng mạnh về xuất khẩu, thứ ba, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng giai đoạn đổi mới và phát triển ở Việt Nam, trong đó xoá đói giảm nghèo và giải quyết công ăn việc làm là 2 ưu tiên trọng tâm.
- thứ tư, cùng với đổi mới kinh tế đã từng bước đổi mới hệ thống chính trị với trọng tâm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam..
- Mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở miền Bắc được áp dụng trên phạm vi cả nước.
- Mặc dù có nỗ lực rất lớn trong xây dựng và phát triển kinh tế, Nhà nước đã đầu tư khá lớn nhưng vì trong chính sách có nhiều điểm duy ý chí nên trong 5 năm đầu tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm chạp chỉ đạt 0,4%/năm (kế hoạch là 13 - 14%/năm) thậm chí có xu hướng giảm sút và rơi vào khủng hoảng.
- Kinh tế tăng trưởng chậm, nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có của nền kinh tế Quốc dân còn yếu kém, thiếu đồng bộ, cũ nát, trình độ nói chung còn lạc hậu (phổ biến là trình độ kỹ thuật của những năm 1960 trở về trước) lại chỉ phát huy được công suất ở mức 50% là phổ biến công nghiệp nặng còn xa mới đáp ứng được nhu cầu tối thiểu.
- Do đó đa bộ phận lao động vẫn là lao động thủ công, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ.
- Cơ cấu kinh tế chậm thay đổi, nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng.
- Những điều đó chứng tỏ trong giai đoạn này nước ta bị khủng hoảng kinh tế chính trị, xã hội..
- Tại Đại hội Đảng VI (tháng đã xem lại một cách căn bản về vấn đề cải tạo XHCN và đưa ra quan điểm về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần và coi nó là nhiệm vụ cơ bản cho quá trình đổi mới toàn diện nền kinh tế.
- Vậy nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN thực chất là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN..
- Cơ sở khách quan cho sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, gồm 3 cơ sở chính:.
- Trong nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu đó là sở hữu.
- Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng nên quan hệ kinh tế hàng hoá giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá tiền tệ..
- Quan hệ hàng hoá, tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối.
- Mặt khác xây dựng kinh tế thị trường còn nhiều tác dụng to lớn đối với nền kinh tế Việt Nam..
- Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kì quá độ lên CNXH mang nặng tính tự cung tự cấp, vì vậy sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá vỡ dần kinh tế tự nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hoá, thúc đẩy sự xã hội hoá sản xuất.
- Kinh tế hàng hoá tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
- Kinh tế hàng hoá kích thích tính năng động sáng tạo của chủ thể kinh tế kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã cũng như tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ.
- Sự phát triển của kinh tế chuyên môn hoá sản xuất.
- Vì thế phát huy được tiềm năng và lợi thế của từng vùng, cũng như lợi thế của đất nước có tác dụng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài..
- Sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có xã hội hoá cao.
- Nói tóm lại, phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế với nước ta, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta.
- thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế.
- Thực hiện nhất quá chính sách kinh tế nhiều thành phần.
- Đại hội VI đã xem xét lại một cách căn bản vấn đề cải tạo XHCN và đưa ra quan điểm mới về nền kinh tế nhiều thành phần: "Đi đôi với việc phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích luỹ tập trung của Nhà nước và tranh thủ vốn nước ngoài cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác".
- Quan điểm của Đảng về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần và xuất phát từ thực trạng kinh tế nền kinh tế Việt Nam.
- Nó cho phép có nhiều hình thức sản xuất kinh doanh theo qui mô thích hợp với từng khâu của quá trình tái sản xuất và lưu thông nhằm khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế.
- Đảng coi đây là giải pháp có ý nghĩa chiến lược để giải phóng sức sản xuất và xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý..
- Đổi mới kinh tế hợp tác.
- Kinh tế hợp tác chủ yếu dưới các hình thức: Tổ hợp tái tập đoàn sản xuất, hợp tác xã được hình thành trong quá trình cải tạo XHCN đối với những người sản xuất nhỏ cá thể trong nông nghiệp thủ công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ.
- Trong kinh tế hợp tác sở hữu tập thể kiểu chung chung, không phân định rõ trách nhiệm thêm vào đó là những yếu kém trong quản lý, nên đã bộc lộ nhiều hạn chế đặc biệt mô hình hợp tác xã nông nghiệp đã rơi vào khủng hoảng sâu sắc.
- Trong thời kỳ đổi mới, kinh tế hợp tác chuyển theo các hướng sau:.
- Phát triển kinh tế cá thể, tư nhân và các loại hình sở hữu hỗn hợp..
- Trước khi đổi mới khu vực kinh tế tư nhân và cá thể vẫn còn tồn tại ở nước ta, chiếm tới 29,1% trong tổng sản phẩm xã hội.
- Sự tan rã của các tập đoàn sản xuất và các hợp tác xã đã thúc đẩy sự phục hồi rất nhanh của kinh tế cá thể..
- Sau đó hệ thống luật pháp tiếp tục được hoàn chỉnh và nhiều chính sách mới được ban hành nhằm khuýến khích phát triển kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể..
- Phân công lao động là cơ sở chung của sản xuất và trao đổi hàng hoá vì vậy để phát triển kinh tế hàng hoá phải đẩy mạnh phân công lao động xã hội mà sự phân công lao động xã hội do sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định cho nên muốn mở rộng phân công lao động xã hội còn đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước để xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền sản xuất hiện đại..
- Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu cơ sở vật chất - kỹ thuật thấp kém, trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát triển, quan hệ sản xuất XHCN mới được thiết lập, chưa hoàn thiện vì vậy, quá trình công nghiệp hoá là quá trình xây dựng cơ sở vật chất cho nền kinh tế..
- Trong xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá về kinh tế đang phát triển mạnh mẽ, trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghiệp hiệnd đại phát triển rất nhanh chóng: những thuận lợi và khó khăn về khách quan và chủ quan, có nhiều thời cơ và thách thức, nền kinh tế của chúng ta đan xen với nhau, tác động lẫn nhau.
- Vì vậy, đất nước chúng ta phải chủ động, sáng tạo nắm lấy thời cơ, phát huy những thuận lợi để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá tạo ra thế và lực mới để vượt qua những khó khăn, đẩy lùi nguy cơ, đưa nền kinh tế tăng trưởng phát triển bền vững..
- Trước hết nó có tác dụng thực hiện mục tiêu xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
- Đó là một quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp thành một xã hội công nghiệp, gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ mới xã hội chủ nghĩa..
- Thực hiện công nghiệp hoá là quá trình tạo ra những điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết về con người và khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động năng suất lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái..
- Công nghiệp hoá là cơ sở để củng cố vững chắc khối liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, quá trình công nghiệp hoá tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, vững mạnh trên cơ sở đó mà thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế..
- Thứ nhất, công nghiệp hoá - hiện đại hoá phải gắn liền với hiện đại hoá sở dĩ như vậy là vì trên thế giới đang diễn ra được cách mạng và khoa học công nghệ hiện đại, một số nước phát triển đã bắt đầu chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức nên phải tranh thủ ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, tiếp cận kinh tế tri thức để hiệnd dại hoá những ngành, những khâu, những lĩnh vực có điều kiện nhảy vọt..
- kinh tế mở có thể đi nhanh nếu chúng ta biết tận dụng, tranh thủ được thành tựu của thế giới và.
- Tuy nhiên nó cũng gây không ít trở ngại do những tác động tiêu cực của nền kinh tế thế giới, mà các nước tư bản phát triển thiết lập không có lợi cho các nước nghèo, lạc hậu.
- Vì thế, công nghiệp hoá - hiện đại hoá phải đảm bảo xây dựng nước ta một nền kinh tế độc lập tự chủ..
- Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá hợp lý và hiệu quả cao.
- Cơ cấu kinh tế được gọi là hợp lý kho nó đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:.
- Trình độ kỹ thuật của nền kinh tế không ngừng tiến bộ, phù hợp với xu hướng tiến bộ khoa học và công nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão trên thế giới..
- Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, của các ngành các địa phương, các thành phần kinh tế..
- Thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu hướng toàn cầu hoá kinh tế, do vậy cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là cơ cấu..
- Cải tạo, mở rộng, nâng cấp và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng, vật chất của nền kinh tế..
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
- Đại hội VI đã chỉ rõ:"Cùng với việc mở rộng xuất nhập khẩu tranh thủ vốn viện trợ và vay dài hạn cần vận dụng nhiều hình thức đa dạng để phát triển kinh tế đối ngoại".
- để thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài, từng bước gắn nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, thị trường trong nước với thị trường quốc tế trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, đảm bảo độc lập, chủ quyền dân tộc và an ninh quốc gia..
- Chủ trương của Đảng và Nhà nước là: Đẩy mạnh xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu, coi xuất khẩu là một trong 3 chương trình trọng điểm của chặng đường đầu tiên, là hướng ưu tiên của kinh tế đối ngoại trong suốt thời kỳ đổi mới.
- Những chính sách trên nhằm đẩy mạnh hoạt động thương mại quốc tế và thu hút đầu tư của nước ngoài, kết hợp các nguồn lực bên trong và bên ngoài để phát triển kinh tế..
- Xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước.
- Do đó, đại hội VI đã chủ trương đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế và chỉ ra thực chất của cơ chế mới đó là: "Cơ chế kế hoạch hoá theo hướng phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ".
- Trên cơ sở đánh giá những vấn đề thực tiễn trong đổi mới cơ chế quản lý ở nước ta từ năm 1986 đến nay, trong các kỳ Đại hội Đảng ta tiếp tục làm rõ nội dung và phương thức đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng "xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN".
- Trong suốt thời kỳ đổi mới từ năm 1986 cho đến nay nền kinh tế Việt Nam luôn có nhịp độ tăng trưởng dương, đặc biệt đã đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh và liên tục trong suốt thời gian từ 1986-1997..
- Trong 5 năm đầu đổi mới khi chế độ bao cấp bị xoá bỏ dần, các doanh nghiệp Nhà nước và các hợp tác xã gặp nhiều khó khăn, khu vực kinh tế tư nhân và cá thể chưa phát triển nền kinh tế rơi vào tình trạng bất ổn định, bình quân chỉ đạt 3,9%/năm (riêng năm 1986 đạt 0,3%) và lạm phát cao kéo dài.
- Nhưng đầu thập kỷ 90, nền kinh tế nước ta liên tục tăng trưởng ổn định và đạt đến đỉnh cao là 9,5% vào năm 1995.
- Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) đã nhận định: "Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội nhưng một số mặt còn chưa vững chắc..
- Tất cả các mục tiêu kinh tế - xã hội của kế hoạch 5 năm và chiến lược kinh tế 10 năm đều đạt và vượt kế hoạch.
- Riêng 2 năm 1998-1999 nền kinh tế tăng trưởng châm hơn trước (5,8% và 4,8%) vì bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ cùng với thiên tai xảy ra trong nhiều vùng trên cả nước.
- Cơ cấu ngành kinh tế.
- Cơ cấu ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng khu vực I (gồm nông, lâm nghiệp và thuỷ sản) tuy vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao liên tục nhưng tỉ trọng đã giảm xuống, trong khi đó tỉ trọng của khu vực II (gồm công nghiệp và xây dựng cơ bản) và khu vực II (các ngành dịch vụ đã tăng lên)..
- Cơ cấu các thành phần kinh tế.
- Các thành phần kinh tế trong GDP đã có sự chuyển dịch từ chủ yếu là quốc doanh, hợp tác xã sang đa thành phần, nhưng vai trò chủ đạo kinh tế quốc doanh vẫn được tăng cường..
- số doanh nghiệp đã giảm từ hơn 1200 (đầu 1990) xuống còn gần 6000 doanh nghiệp vào cuối năm 1990, tuy vậy tỉ trọng kinh tế Nhà nước vẫn tăng lên từ 29,4% năm 1990 lên 39% năm 2000.
- Doanh nghiệp Nhà nước từng bước được đổi mới và phát triển..
- Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng có sự biến đổi khá nhanh..
- Kinh tế hợp tác: từ năm 1988 đến 1994, cả nước đã giải thể 2998 hợp tác xã yếu kém và 33804 tập đoàn sản xuất.
- Kinh tế tư nhân hoạt động dưới các hình thức khác nhau đã tăng lên nhanh chóng: từ 132 doanh nghiệp năm 1991 tăng lên 42393 doanh nghiệp vào cuối năm 1999.
- Đặc biệt từ khi Nhà nước ban hành luật doanh nghiệp 1/1/2000, thì khu vực kinh tế tư nhân tăng lên rất nhanh..
- Kinh tế cá thể và tiểu chủ cũng rất phổ biến, tính đến năm 1995 có gần 2 triệu hộ kinh doanh trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ và hơn 3 triệu hộ gia đình nông dân cá thể..
- Sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có ý nghĩa quan trọng trong việc tận dụng nguồn vốn và lao động, tự tạo việc làm, tăng thu nhập của dân cư và đóng góp vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế.
- Trong những năm 1986-1988 lạm phát đã tăng tới 3 con số làm cho nền kinh tế chao đảo.
- Trong khi đó tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao..
- Quan hệ kinh tế đối ngoại ở nước ta ngày càng được mở rộng.
- Sau nhiều năm bị bao vây cấm vận, ngày Mỹ tuyên bố bình thường hoá uan hệ và ngày 12/7/1994 đã thiết lập quan hệ kinh tế với Việt Nam.
- Sản xuất hướng về xuất khẩu là một nét mới gắn với đường lối đổi mới và mở cửa nền kinh tế Việt Nam, làm cho các ngnàh sản xuất thoát ra khỏi tình trạng tự cấp tự túc, tăng dần tích luỹ..
- Số lượng lao động có việc làm trong nền kinh tế đã tăng nhanh, trong những năm 1995-2000 trung bình đã tạo ra 1,3 triệu việc làm mới.
- Giai đoạn tới là giai đoạn của nền kinh tế tri thức, tuy nhiên đội ngũ cán bộ của chúng ta còn nhiều yếu kém, nhiều người có trình độ không cao nhưng lại giữ những chức vụ quan trọng, vì vậy khi tiếp cận nền kinh tế tri thức sẽ gây ra rất nhiều khó khăn

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt