« Home « Kết quả tìm kiếm

CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƢỚC TRUNG ƢƠNG THỜI LÊ THÁNH TÔNG ĐỐI VỚI BỘ MÁY QUẢN LÝ CẤP XÃ


Tóm tắt Xem thử

- Trong mối quan hệ giữa nhà nước phong kiến trung ương và địa phương (trong đó có làng xã), việc xây dựng bộ máy nhà nước tập quyền thống nhất đòi hỏi triều đình trung ương phải nắm được địa phương, bắt địa phương (làng xã) phải phục tùng theo quỹ đạo quản lí chung của nhà nước.
- Đến thời Lê sơ, vấn đề đặt ra cho nhà nước phong kiến trung ương là phải hạn chế được tối đa tính tự trị của làng xã.
- Muốn làm được điều ấy, nhà nước phải nắm được bộ máy quản lí làng xã.
- Trong đó, chủ yếu phải quản lí tốt các chức danh đứng đầu làng xã như Xã trưởng, Thôn trưởng.
- Thông qua điển chế và pháp luật, nhà nước trung ương thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã có những biện pháp đối với bộ máy quản lí làng xã như sau:.
- Đầu thời Lê, nhà nước đã đặt ra chức quan đứng đầu đơn vị hành chính cấp xã.
- Việc làm đầu tiên của vua Lê Thánh Tông là thay đổi chức danh Xã quan thời Lê Thái Tổ thành Xã trưởng..
- Sách Lê triều quan chế cho biết: “Năm Quang Thuận ii : Đổi chức Đội lại làm Lại, chức Xã quan thành Xã trưởng” iii.
- Sách Lịch triều hiến chương loại chí cũng chép tương tự: “Thánh Tông trong đời Quang Thuận đổi Xã quan làm Xã trưởng” iv.
- Nhà vua cũng ban hành nhiều quy định thống nhất về quy mô của ba loại xã và việc cắt đặt số Xã trưởng tuỳ theo quy mô từng loại xã.
- Trong quy định về việc cắt đặt số Xã trưởng theo số hộ nhiều hay ít (ban hành năm Quý Mão - 1483), vua Lê Thánh Tông quy định như sau:.
- Xã có 500 hộ trở lên: đặt 5 Xã trưởng Xã có 300 hộ trở lên: đặt 4 Xã trưởng Xã có 100 hộ trở lên: đặt 2 Xã trưởng Xã có 60 hộ trở xuống: đặt 1 Xã trưởng.
- Nếu so sánh với việc đặt số Xã quan thời Lê Thái Tổ và Xã trưởng thời Lê Thánh Tông tuỳ theo quy mô từng loại xã thì chúng ta thấy có sự khác biệt qua bảng số liệu sau:.
- Lê Thái Tổ (1428) 3 Xã quan 2 Xã quan 1 Xã quan Lê Thánh Tông (1490) 5 Xã trưởng 4 Xã trưởng 2 Xã trưởng.
- Việc tăng thêm số Xã trưởng đứng đầu 1 xã thời Lê Thánh Tông là hợp lí vì quy mô cấp xã giai đoạn này đã được mở rộng do sự gia tăng dân số..
- Thời Lê sơ, với số lượng khoảng trên dưới tổng số 9.000 xã vi thì việc ban hành những quy định thống nhất về việc đặt số Xã trưởng theo quy mô từng xã như trên để đảm bảo cho việc quản lí thuận lợi, thống nhất, hiệu quả của nhà nước là điều rất cần thiết.
- Đặc biệt số Xã trưởng trong từng xã lại được nhà nước phân làm các chức: Xã chính, Xã sử, Xã tư, mỗi người một việc.
- Thời Lê Thánh Tông đã làm được một điều rất quan trọng, đó là việc đặt ra quy định thống nhất có tính chất pháp lí về việc bầu chọn chức danh Xã trưởng với những tiêu chuẩn rõ ràng..
- Năm Quang Thuận thứ 3 (1462), Lê Thánh Tông ban hành lệ bầu Xã trưởng trong đó quy định như sau: “Từ nay về sau bầu Xã trưởng phải cùng nhau họp bàn xem xét chọn lấy người đứng tuổi hoặc là giám sinh, sinh đồ là con người lương thiện, tuổi từ 30 trở lên, không vướng việc quân.
- Những người làm Xã trưởng phải biết chữ, có hạnh kiểm để tiện giải quyết mọi công việc, thu thuế khoá.
- Năm Hồng Đức thứ 25 (1494), nhà nước tiếp tục quy định lệ bầu Xã trưởng, trong đó nhấn mạnh hơn đến trách nhiệm của người đứng ra chủ xướng việc bầu cử: “Các làng bầu chọn Xã trưởng thì phải chọn lấy người giỏi.
- Qua các quy định trên, chúng ta thấy lệ bầu Xã trưởng từ thời Lê Thánh Tông đã có những quy định rõ ràng về gia thế, tuổi tác, học vấn- trình độ và hạnh kiểm của người được chọn bầu..
- Không chỉ vậy, để hạn chế sự móc nối vây cánh và ngăn ngừa sự liên kết bè đảng, thân thích, nhà nước thời Lê Thánh Tông đặt thêm nhiều quy định nói rõ hơn về lệ xét chọn Xã trưởng..
- Năm Hồng Đức thứ 19 (1488), trong lệnh xét đặt Xã trưởng có nhấn mạnh: “Nếu là anh em ruột thịt, anh em con chú con bác con cô con cậu thì chỉ một người làm xã trưởng, anh em họ hàng với nhau không được cùng làm để tránh tệ nạn đồng đảng phe cánh” ix.
- Sau khi đã ban hành lệnh trên, dường như trong thực tế, việc bầu chọn xã trưởng ở địa phương vẫn có kẻ cố tình vi phạm nên đến năm Hồng Đức thứ 27 (1496), nhà nước lại tiếp tục ban hành lệnh chọn đặt xã trưởng, trong đó ghi rõ: “Từ nay các xã trong các phủ, huyện, châu đặt xã trưởng hễ là anh em ruột thịt, anh em con chú con bác, anh em con dì con cậu, chỉ cho 1 người làm xã trưởng, ngoài ra không được chọn đặt làm xã trưởng trong 1 xã.
- Quan các huyện, phủ, châu phúc khám, nếu quả có những người thuộc hạng trên cùng làm xã trưởng thì cho 1 người làm xã trưởng, những người còn lại thì trình lên quan thừa ty loại ra bắt trở về thứ hạng trước đây theo như lệ…Ai vi phạm điều này sẽ bị trị tội” x.
- Các đối tượng sẽ bị xử phạt, trị tội vì đã biết lệnh này mà còn cố ý vi phạm được nhà nước nói rõ hơn trong điều 16 ban hành năm Hồng Đức thứ 25 (1494) như sau: “Các làng xã trước đây bầu Xã trưởng không chọn được người có tài đức đã bị cách chức nay phải bầu lại người khác để làm việc mà vẫn có ý kéo bè kéo cánh làm tổn hại phong tục, nếu là quan viên sẽ bị tội biếm hay gạt, nếu là dân thì bị tội đồ và khao làng để trừng trị những kẻ có mưu gian”.
- Không chỉ ban hành những quy định chặt chẽ về lệ bầu Xã trưởng, nhà nước thời Lê Thánh Tông còn thực hiện chế độ khảo hạch, giảm thải các chức danh quản lí làng xã (đứng đầu là Xã trưởng) một cách nghiêm khắc.
- Theo thống kê của chúng tôi trong Thiên Nam dư hạ tập (Tập IX), có ít nhất 3 quy định rất rõ ràng về lệ khảo hạch và cắt giảm chức danh Xã trưởng nếu không đáp ứng được yêu cầu công việc mà nhà nước và cộng đồng làng xóm giao cho..
- Điều 2 về việc cắt giảm các Xã trưởng không phù hợp với lệ ban hành năm Hồng Đức thứ 14 (1483) ghi rõ: “Người nào làm việc mẫn cán thì vẫn giữ lại làm việc như cũ..
- Tiếp đó, trong lệnh cắt giảm Xã trưởng không biết chữ ban hành năm Hồng Đức thứ 17 (1486) cũng ghi: “Từ nay ở các địa phương, các xã lớn, xã vừa đặt chức Xã chính, Xã sử và Xã tư mỗi chức 1 người, xã nhỏ thì đặt chức Xã chính, Xã tư mỗi chức 1 người, nhưng phải xét người nào biết chức, có tài cán mới nên giữ lại để giải quyết công việc, thúc thu thuế khoá, tiện cho dân, nếu không biết chữ thì cho nghỉ việc” xii.
- Đến năm Hồng Đức thứ 27 (1496), trong điều 2, lệ chọn đặt Xã trưởng xong phải khảo hạch, nhà nước vẫn tiếp tục quy định: “Quan các huyện châu chọn đặt Xã trưởng, Phường trưởng…nếu khám xét thấy các hạng quân và Xã trưởng có người nào già yếu, bệnh tật không kham nổi công việc thì bắt về làm dân thường chịu sưu dịch.
- Các Xã trưởng sau khi được bầu chọn, khảo hạch và công nhận trở thành lực lượng trung gian khi vừa là người đại diện cho dân làng, vừa là người đại diện cho nhà nước.
- Vì thế, chức năng và nhiệm vụ của Xã trưởng đã được nhà nước quy định khá cụ thể: Họ phải lo việc thu thuế, làm sổ và quản lí hộ khẩu, hộ tịch.
- Bên cạnh đó, Xã trưởng còn có trách nhiệm bảo đảm đức hạnh cho những thí sinh dự thi Hương cũng như xác định tư cách của những người đang chờ được thăng bổ.
- Các công việc từ lập hương ước, viết thay và chứng kiến văn khế, chúc thư, xây dựng mốc giới ruộng đất công tư cho đến việc tổ chức ma chay, hiếu hỉ...đều có vai trò quyết định của Xã trưởng.
- Như vậy, trách nhiệm của Xã trưởng trước nhà nước rất nặng nề khi phải là người đảm bảo cho các chính sách quản lí làng xã của nhà nước được thực hiện có hiệu quả ở địa phương do mình quản lí.
- Việc quy trách nhiệm đầu tiên và trước hết cho người đứng đầu bộ máy quản lí làng xã (Xã trưởng) dựa trên nguyên tắc lấy một cá nhân đứng đầu để răn trị số đông dân bản xã đã góp phần không nhỏ trong việc vừa gắn với chức năng, vừa tạo ra áp lực buộc Xã trưởng, Thôn trưởng phải nâng cao trách nhiệm của mình trước nhà nước với tư cách là những người đứng đầu cai quản làng xã..
- Đặt thêm chức danh Thôn trƣởng để cùng Xã trƣởng quản lí làng xã.
- Để quản lí tốt làng xã, bên cạnh chức danh Xã trưởng, nhà nước trung ương thời Lê Thánh Tông còn đặt thêm chức danh Thôn trưởng.
- Thôn trưởng có thể được dân làng bầu trong số những người đứng tuổi từ khoảng 30 tuổi trở lên, có tư cách đứng đắn, có khả năng cùng với xã trưởng đảm nhận các công việc mà cộng đồng giao phó.
- Trong Hồng Đức thiện chính thư, điều 2 và điều 3 ban hành năm 1482 đều quy định Thôn trưởng phải thường xuyên kiểm tra, không được chứa chấp những kẻ nô tì, lính tráng bỏ trốn cũng như những người thợ công sai của nhà nước xiv.
- Cũng theo Hồng Đức thiện chính thư, nhà nước Lê sơ còn có những quy định cụ thể về chức trách của Thôn trưởng trong việc ngăn chặn nạn trộm cắp trong làng xóm..
- Cùng với Xã trưởng, tổ chức thu thuế ở thôn xã và phân định ruộng đất (công, tư) theo quy định của nhà nước..
- Năm 1485, trong quy định về thu nộp thuế nhân đinh, điền tô, thuế đầu nguồn trong các làng xã, nhà nước cho phép các Thôn trưởng xem xét những đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn để có thể miễn giảm: “Nếu người nào đói rét khốn khổ thì Thôn trưởng phải làm tờ cam đoan và cùng nhau bảo đảm, theo như lệnh trước mà thi hành” xvi.
- Tư liệu này cho phép chúng tôi nghĩ rằng, Thôn trưởng cũng có vai trò tham gia vào quá trình thu thuế cho nhà nước.
- Bên cạnh thu thuế, Thôn trưởng cùng với Xã trưởng còn có nhiệm vụ phải giúp các quan phủ, huyện trong việc chia định mốc giới ruộng đất công, tư ở các làng xã, nhằm hạn chế các hiện tượng lấn chiếm công điền..
- Đảm bảo nhân đinh và sức kéo cho sản xuất nông nghiệp trong làng xã..
- Theo Thiên Nam dư hạ tập, tập IX, vào các năm Hồng Đức thứ 13 (1482), Hồng Đức thứ 27 (1496), nhà nước đều quy định việc cấm dân xã tự ý giết trộm trâu cày, trong đó, ghi rõ trách nhiệm của Thôn trưởng trong việc kiểm tra, xử lí, nếu dung túng không bắt tội kẻ cố tình vi phạm thì bản thân Thôn trưởng cũng bị phạt tiền.
- Với việc giao quyền hạn gắn liền với quy trách nhiệm cho Thôn trưởng và bộ máy quan viên làng xã, nhà nước Lê sơ đã.
- thông qua đó tăng cường tính thực thi trong chính sách quản lí làng xã nói chung của mình..
- Chống nạn cường hào, tham nhũng trong bộ máy quản lí làng xã.
- Bên cạnh việc cắt đặt, bổ nhiệm, định rõ trách nhiệm trước nhà nước của các chức danh đứng đầu thôn xã (Xã trưởng, Thôn trưởng), nhà nước Lê Thánh Tông còn ban hành nhiều luật định nhằm chống nạn tham nhũng, lộng quyền hay còn gọi là nạn cường hào ở các làng xã xvii.
- Cần thấy rằng, nạn cường hào ở làng xã cũng xuất hiện dưới thời Lê sơ, ngay cả khi chính quyền trung ương thời Lê Thánh Tông rất vững mạnh.
- Đó là hiện thực lịch sử và là xu thế tất yếu trong sự vận động nội tại của làng xã.
- Tuy vậy, cũng không thể phủ định rằng, nhà nước thời Lê Thánh Tông đã có nhiều biện pháp tích cực nhằm ngăn chặn nạn cường hào nhũng nhiễu trong các làng xã.
- Một mặt, nhà nước ban hành những điều lệ có tính răn dạy, phòng ngừa là chính, chẳng hạn như: “Các quan viên là người có uy tín ở trong làng cho nên phải chấn chỉnh phong tục, nên lấy nghĩa liêm sỉ để giáo hoá dân, làm cho mọi người đều nhường nhịn, vui vẻ làm điều nhân nghĩa, xoá bỏ tà tâm, làm cho dân chúng an cư, lạc nghiệp, giàu có sung túc, thì mới xứng là bậc trưởng giả.
- Nếu Xã trưởng làm việc không đúng pháp luật cũng cho phép chọn cử người khác” xix.
- Mặt khác, không chỉ dừng lại ở những lời phủ dụ, răn dạy, nhà nước thời Lê Thánh Tông đã rất nghiêm khắc trừng trị bọn cường hào và cho phép quan, dân tố cáo nạn cường hào lộng hành.
- Ỷ vào quyền thế, tranh chiếm và nhận ruộng đất trong làng xã: phạt biếm 2 tư, bãi chức, xử đánh 80 trượng..
- Lén lút nhận lễ nộp treo của nhà trai khi không được phép cho cưới chạy tang: khép vào tội làm tổn hại pháp luật, nếu là quan viên sẽ bị biếm, Xã trưởng sẽ bị phạt trượng, hương mục chức sắc nào chủ mưu sẽ bị xử tội đồ, phải khao làng..
- Qua những quy định xử phạt về các trường hợp liên quan đến hành vi nhũng nhiễu, nhận hối lộ của các quan làng xã như trên, có thể thấy rằng, triều đình Lê Thánh Tông nói riêng và nhà nước Lê sơ nói chung đã kiên quyết trong việc hạn chế và chống nạn cường hào hoành hành..
- Chính sách của nhà nƣớc trung ƣơng thời Lê Thánh Tông đối với bộ máy quản lí làng xã có cả những mặt tích cực và hạn chế của nó.
- Thứ nhất, việc tiêu chuẩn hoá các phẩm chất, năng lực cần có của Xã trưởng cho thấy nhà nước trung ương thời Lê Thánh Tông đã đánh mạnh vào quyền tự trị trong việc bầu chọn chức danh đứng đầu làng xã..
- Trước đây, việc bầu người đứng đầu làm Xã trưởng là do ở dân và chưa có tiêu chí chung, thống nhất nào của nhà nước quy định việc bầu chọn cũng như tiến trình bầu chọn.
- Nhưng, yếu tố quyết định đối với mỗi ứng viên cho chức danh Xã trưởng là phải.
- Với những quy định có tính chất bắt buộc như vậy, quyền dân chủ truyền thống của làng xã đã bị đặt dưới luật pháp của nhà nước Lê Thánh Tông.
- Một số ý kiến khi bàn đến khía cạnh này còn cho rằng: dưới thời Lê sơ, chức danh Xã trưởng vẫn được dân làng bầu chọn theo ý nguyện của họ và như vậy, phải chăng quyền tự trị của làng xã dường như còn được mở rộng thêm dưới thời Lê Thánh Tông? Trên thực tế, việc nhà nước cho phép làng xã lựa chọn Xã trưởng chỉ có tính chất danh nghĩa, vì từ khâu định tiêu chuẩn cho ứng viên Xã trưởng đến khâu xét duyệt, công nhận cuối cùng đều do nhà nước quyết định.
- Thứ hai, việc cắt đặt số lượng Xã trưởng tương ứng với từng loại xã, lấy từ kết quả do dân bầu lên (khi đã được chính quyền nhà nước cấp trên công nhận) là một chính sách khôn khéo của nhà nước Lê Thánh Tông nhằm giúp cho việc quản lí làng xã có hiệu quả..
- Trước đây, nhà Trần từng đặt các chức Đại tư xã và Tiểu tư xã để quản lí làng xã..
- Tuy nhiên dưới thời Lê Thánh Tông, với chính sách cho phép người dân bầu chọn Xã trưởng (theo quy định về tiêu chuẩn, tiến trình và cách thức bầu chọn của nhà nước), nhà nước trung ương đã rất khéo léo trong việc lấy được người đứng đầu làng xã từ trong dân, có được sự tín nhiệm của nhân dân và do dân đề cử lên mặc dù nhà nước vẫn là người quyết định cuối cùng trong việc công nhận sự tín nhiệm đó.
- Đây là cách thực thi thứ quyền lực nhà nước vừa không có sự áp đặt khiên cưỡng từ trên xuống nhưng thực chất vẫn có sự đảm bảo thống nhất từ trung ương đến địa phương..
- Thứ ba, chế độ khảo hạch chức danh Xã trưởng thời Lê Thánh Tông (sau khi bầu chọn) đã góp phần không nhỏ giúp cho chính sách quản lí bộ máy quản lí làng xã của nhà nước thu được hiệu quả..
- Qua các điều quy định đã nêu ở trên cho thấy, nhà nước thời Lê Thánh Tông đã có một chu trình khép kín về các thể lệ bầu chọn Xã trưởng: từ việc quy định tiêu chuẩn, đặt thể lệ bầu chọn và tiến hành xét duyệt đến khâu khảo hạch....
- Mặc dù việc khảo hạch Xã trưởng không giống như chế độ khảo khoá các quan lại có phẩm trật với những định lệ chặt chẽ về thời gian, phương thức khảo khoá, cách tuyển bổ, thăng giáng...nhưng việc khảo khoá Xã trưởng - chức danh đứng đầu cấp cơ sở của nhà nước cũng có những nguyên tắc khá nghiêm ngặt mà ở đây, chủ yếu là việc sát hạch thông qua thực tiễn để xem người xã trưởng được bầu đó có đáp ứng được công việc của địa phương thông qua chức trách và nhiệm vụ được giao hay không? Đây là việc làm mà theo chúng tôi, rất cần thiết cho việc nâng cao hiệu quả quản lí làng xã của nhà nước thông qua bộ máy chính quyền cấp xã, góp phần tăng cường tính thống nhất và tập quyền của nhà nước trung ương dưới thời Lê Thánh Tông..
- Thứ tư, việc đặt thêm chế độ Thôn trưởng (đứng đầu mỗi thôn) bên cạnh chức danh Xã trưởng có thể xem là nét độc đáo trong chính sách quản lí làng xã của nhà nước Lê sơ từ thời Lê Thánh Tông..
- Trên thực tế, nếu một xã có nhiều thôn (nhất xã nhị, tam thôn) thì bản thân người Xã trưởng cũng khó có thể bao quát và quản lí sát sao về mọi mặt trên địa bàn của mình..
- Nhà nước vì vậy đã đặt thêm chế độ Thôn trưởng - người sẽ phối hợp và giúp Xã trưởng quản lí địa bàn thôn xóm của mình tốt hơn.
- Thôn trưởng vì thế đã giúp việc đắc lực cho xã trưởng trên cơ sở chia sẻ và liên đới cùng thực hiện công việc.
- Điều đó đã góp phần tăng cường tính thực thi, hiệu quả trong chính sách quản lí làng xã của nhà nước.
- Làng xã thời Lê sơ là cầu nối trung gian, giúp nối dài thêm “cánh tay quyền lực”.
- của nhà nước xuống tới từng hộ gia đình và từng người dân làng xã.
- Do đó, nhà nước trung ương thời Lê Thánh Tông không thể không thông qua bộ máy quản lí làng xã để quản lí dân đinh.
- Mọi thứ ân huệ của nhà nước cũng phải thông qua làng xã mới tới được dân và mọi nghĩa vụ của dân đối với nhà nước được tập hợp và cố định lại trong nghĩa vụ chung của làng.
- Đây chính là cơ chế nhà nước “khoán trắng” cho làng xã thông qua những người đứng đầu đại diện cho làng dựa trên luật liên đới trách nhiệm.
- Điều này làm nảy sinh mặt trái của vấn đề khi nó dễ tạo ra sự lũng đoạn, tha hoá quyền lực của bộ máy chính quyền làng xã mà biểu hiện cao nhất của nó là nạn cường hào.
- Điều này lí giải vì sao nạn cường hào làng xã xuất hiện ngay cả khi chính quyền trung ương Lê sơ ở vào giai đoạn vững mạnh nhất (thời Lê Thánh Tông).
- Việc nhà nước đã phải nhiều lần ban hành các quy định có tính chất nhắc đi nhắc lại về việc cấm tệ cường hào hoành hành vào các.
- năm 1471, 1485 cho phép chúng ta nghĩ rằng: trên thực tế, lệnh cấm mà nhà nước ban ra không có hiệu lực và tình trạng cường hào nhũng nhiễu vẫn cứ tiếp diễn, tạo thành vấn đề nhức nhối trong xã hội..
- Nếu như vào thời Lê sơ khi nhà nước phong kiến trung ương còn mạnh, sự kiểm soát của nhà nước với làng xã còn tương đối chặt chẽ và dân làng xã đã không kháng cự lại quyền lực của nhà nước một cách mạnh mẽ thì càng về sau, sự suy yếu của nhà nước cũng tỉ lệ thuận với sự vươn lên của các làng xã (nhất là trong các thế kỉ từ đầu XVI đến XVIII).
- Điều đó cho thấy rằng, những biện pháp quản lí làng xã của nhà nước Lê sơ từ thời Lê Thánh Tông đã không còn phát huy được tác dụng và hiệu quả như trước.
- Một trong những nguyên nhân quan trọng là do nhà nước trung ương đã không còn nắm được bộ máy quản lí làng xã như trước nữa..
- Đội ngũ quan viên làng xã (đứng đầu là Xã trưởng) đã không còn là cầu nối trung gian đảm bảo cho quyền lực của nhà nước thấm sâu đến đời sống xã hội làng xã.
- Chính những người Xã trưởng, trước đây vốn là trợ thủ đắc lực giúp thực thi quyền lực của nhà nước đối với đơn vị hành chính cấp cơ sở thì về sau, khi thời trị vì của thời Lê Thánh Tông kết thúc, lại là “những người đi đầu phá vỡ cái trật tự xã hội nông thôn được coi là lí tưởng ấy” xxiv.
- Việc giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa trung ương và địa phương, trong đó yêu cầu làm thế nào để thiết lập được sự kiểm soát của nhà nước trung ương đối với làng xã, ít nhất là như thời Lê sơ, lại trở thành vấn đề nan giải của lịch sử..
- Mặc dù, chính sách đối với bộ máy quản lí cấp xã của nhà nước trung ương thời Lê Thánh Tông bên cạnh nhiều mặt có tác dụng tích cực còn có một số điểm hạn chế như trên.
- Song, những chính sách đó sẽ là những bài học kinh nghiệm quý báu mà công cuộc cải cách hành chính ở các địa phương (trong đó có cấp xã) của nhà nước ta hiện nay có thể tham khảo..
- vi Việc ghi chép số làng xã thời Lê sơ trong các nguồn tài liệu không thống nhất, như thống kê của người viết trong bảng sau:.
- (Xem thêm: Bùi Xuân Đính, Nạn cường hào làng xã thời phong kiến, in trong Làng Việt Nam đa nguyên và chặt, NXB ĐHQG, Hà Nội, 2006, tr 279 – 299)..
- xxiv Nguyễn Quang Ngọc, Chức danh xã trưởng dưới thời Lê Thánh Tông, trong Lê Thánh Tông, con người và sự nghiệp, Nxb ĐHQG Hà Nội, 1997, trang 169.